CNM365. Chào ngày mới 27 tháng 2. Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Thầy thuốc Việt Nam. Năm 1801 – Chiến tranh Tây Sơn-Nguyễn: Quân Nguyễn giành chiến thắng trước quân Tây Sơn trong trận Thị Nại tại Bình Định. Năm 1628 -ngày mất của Nguyễn Văn Giai, danh sĩ, đại thần thời Hậu Lê (Việt Nam)
27 tháng 2
Ngày 27 tháng 2 là ngày thứ 58 trong lịch Gregory. Còn 307 ngày trong năm (308 ngày trong năm nhuận).
« Tháng 2 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 |
15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 |
22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 |
Chỉ có ngày 29 tháng 2 vào năm nhuận. |
Mục lục
Sự kiện
- 907 – Da Luật A Bảo Cơ trở thành thủ lĩnh liên minh bộ lạc Khiết Đan, tức hoàng đế vị, được xem là mốc khởi đầu của triều Liêu, tức ngày (13) tháng 1 năm Đinh Mão
- 1329 – Hòa Thế Lạt lên ngôi tại thảo nguyên Mạc Bắc, trở thành hoàng đế thứ 9 của triều Nguyên và đại hãn thứ 13 của đế quốc Mông Cổ.
- 1594 – Henri IV tiến hành nghi lễ đăng quang quốc vương của Pháp tại Chartres.
- 1801 – Chiến tranh Tây Sơn-Nguyễn: Quân Nguyễn giành chiến thắng trước quân Tây Sơn trong trận Thị Nại tại Bình Định.
- 1870 – Hinomaru lần đầu tiên được thông qua làm quốc kỳ sử dụng trên các thương thuyền của Nhật Bản.
- 1940 – Martin Kamen và Sam Ruben phát hiện ra đồng vị phóng xạ Cacbon-14 tại một phòng thí nghiệm thuộc California, Hoa Kỳ.
- 1966 – Tập san Sử Địa ra số đầu tiên ở Sài Gòn.
- 1976 – Mặt trận Polisario tuyên bố thành lập Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy tại cựu thuộc địa Tây Sahara của Tây Ban Nha.
- 1980 – Thành lập Ủy ban Cứu người vượt biển
- 2010 – Một trận động đất xảy ra ở Chile với cường độ 8,8Mw, khiến 525 người thiệt mạng.
Sinh
- 1917 – Vũ Khắc Khoan, nhà viết kịch Việt Nam
- 1939 – Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ (m. 2012)
Mất
- 1628 – Nguyễn Văn Giai, danh sĩ, đại thần thời Hậu Lê (Việt Nam)
- 1931 – Hoàng Văn Hợp, liệt sĩ cách mạng Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp (s. 1902)
Ngày lễ và kỷ niệm
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 27 tháng 2 |
Tham khảo
Ngày Thầy thuốc Việt Nam
Ngày Thầy thuốc Việt Nam là ngày 27 tháng 2, bắt đầu từ sau năm 1955, gắn với sự kiện Hồ Chí Minh viết thư gửi Hội nghị cán bộ ngành y tế. Bộ y tế đã lấy ngày 27 tháng 2 làm ngày truyền thống của ngành. Ngày 6 tháng 2 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng đã đưa ra quyết định ngày 27/2 hằng năm là Ngày thầy thuốc Việt Nam nhằm nêu cao trách nhiệm và tài trí của người cán bộ y tế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ năm đó trở đi ngày 27 tháng 2 được xem là ngày tôn vinh các y, bác sĩ và những người đang làm việc trong ngành y tế tại Việt Nam và được gọi là Ngày Thầy thuốc Việt Nam.[1][2] Đến ngày này có nhiều hoạt động thăm hỏi, chúc sức khỏe, động viên dành cho đội ngũ cán bộ y tế[3][4][5]
Chú thích
- ^ “Lịch sử ngày Thầy Thuốc Việt Nam 27”. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự ra đời Ngày Thầy thuốc Việt Nam”. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Chủ tịch Quốc hội chúc mừng Ngày Thầy thuốc Việt Nam tại Bệnh viện Bạch Mai”. Báo điện tử Dân Trí. 25 tháng 2 năm 2014. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Hoạt động chào mừng Ngày Thầy thuốc Việt Nam (27-2)”. Báo điện tử Nhân Dân. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
- ^ http://www.moh.gov.vn/news/pages/tinhoatdong.aspx?ItemID=460
Trận Thị Nại (1801)
|
Trận Thị Nại năm (1801) là trận thủy chiến dữ dội nhất, trận thư hùng quyết định, đáng được gọi là “Võ công đệ nhất” trong thời trung hưng của nhà Nguyễn[1].
Mục lục
Nơi giao tranh
Trận thủy chiến này xảy ra nơi đầm Thị Nại. Đầm này tên chữ là Hải Hạc Đàm[2], đó là cách gọi tắt của một địa danh Chàm, nguyên gốc tiếng Phạn là Cri Vinaya đã được phiên âm qua tiếng Hán thành Thị-lị-bì-nại, người Hoa gọi cảng này là Tân Châu (新州). Đây là một đầm nước mặn nằm phía Đông Bắc, thuộc địa phận thành phố Qui Nhơn, huyện Tuy Phước, huyện Phù Cát thuộc tỉnh Bình Định, có diện tích khoảng 5.000 ha, chạy dài hơn 10 cây số, bề rộng khoảng 4 cây số.
Thị Nại là đầm lớn nhất của Bình Định. Các nhánh của sông Kôn, sông Hà Thanh đều chảy về đây. Sa bồi tụ dần theo năm tháng khiến cho đầm mỗi ngày một đầy thêm. Khi nước triều lên thì mặt đầm nước mênh mông, vào những hôm trời gió, sóng dập dờn như mặt biển. Những lúc triều xuống, nước rút cạn để trơ lòng đầm, sình lầy lai láng…Nước đầm thông với biển bằng một cửa hẹp có tên cửa Giã (trong tiếng Việt cổ, giã là biển), mà sau này người ta quen gọi là cửa Thị Nại[3]. Và trước khi xảy ra trận “thủy chiến dữ dội” này, thủy quân của chúa Nguyễn Phúc Ánh đã kéo đến giao tranh với quân Tây Sơn tại Thị Nại vào những năm: Nhâm Tý (1792), Quý Sửu (1793) và Kỷ Mùi (1799), nhưng cả ba trận đánh đều có qui mô nhỏ hơn và không mang tính quyết định.
Chuẩn bị
Năm Canh Thân (1800), các thủ lĩnh Tây Sơn lẫn chúa Nguyễn đều tăng cường binh lực. Lược kể theo sách Việt sử tân biên[4]:
Khi ấy, thành Bình Định bị quân Tây Sơn uy hiếp rõ rệt, Võ Tánh, tướng chúa Nguyễn, chỉ còn biết cố thủ. Ngoài cửa Thị Nại, phía Tây Sơn cho bố phòng cẩn thận. Bên chúa Nguyễn, để Hoàng tử Cảnh ở lại giữ Sài Côn, chúa Nguyễn Phúc Ánh cùng Thế tử Hy [5] ráo riết chuẩn bị chiến dịch Bắc tiến. Cùng theo dự trận còn có ba sĩ quan người Pháp là Vannier (tên Việt là Nguyễn Văn Chấn) điều khiển tàu Phượng phi (Le Phénix), Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng) điều khiển tàu Long phi (Le Dragon) và De Forsans (Lê Văn Lăng) điều khiển tàu Bằng phi (L’aigle).
Theo giáo sĩ Le Labousse, bộ binh của chúa Nguyễn có tới tám ngàn người thiện chiến, thủy quân thì vượt hẳn thủy quân của các nước Âu Châu đang đồn trú tại Ấn Độ lúc bấy giờ. Ngoài 4 chiến hạm [6], chúa còn có 40 chiếc làm theo kiểu bản xứ trong số đó có 5 chiếc mang được mỗi chiếc 46 khẩu đại bác, 18 chiếc khác mang được từ 20 đến 26 khẩu. Các chiến thuyền chèo bằng tay có tới 100 chiếc lớn và 200 chiếc nhỏ để chiến đấu trên các mặt sông. Tháng tư (âm lịch), chúa Nguyễn ra tới Nha Trang (24 tháng 5-24 tháng 6). Để Thế tử Hy ở lại Diên Khánh, còn chúa thì cho tướng sĩ đi đánh chiếm Phú Yên, rồi sai lập nhiều kho lương ở đây.
Theo sử của C.B.Maybon, thì khi ấy một lực lượng quân Lào khá quan trọng xâm nhập vào Nghệ An, dưới sự chỉ huy của tướng Nguyễn Văn Thụy và Lưu Phúc Tường đi đánh úp quân Tây Sơn. Được sự hưởng ứng của những người dân ở hai tỉnh Thanh Hóa và Hưng Hóa khiến quân Tây Sơn ở các vùng biên giới bị cầm chân…Ngoài ra, chúa Nguyễn lại còn được Cao Miên viện trợ cho 20 cặp voi trận, giao cho Nguyễn Văn Thành sử dụng. Miền Nam bấy giờ được mùa, Đông cung Cảnh sau vụ gặt cứ 10 xuất đinh tuyển lấy 3 để sung vào quân ngũ được thêm khoảng 10.000 người, đóng thêm 50 chiến thuyền nữa.
Mặc dầu quân Nguyễn đã được chuẩn bị kỹ càng và đông đảo như vậy, nhưng vẫn không giải vây cho thành Bình Định được. Quân thế của Võ Tánh ở đây mỗi ngày mỗi nguy. Viện quân bằng bộ binh, thủy quân mấy phen tấn công vào Thị Nại đều vô hiệu.
Sử gia Trần Trọng Kim kể:
- Nguyễn Vương được tin quân Tây Sơn ra vây thành Bình Định, liền cử đại binh ra cứu viện, sai Nguyễn Văn Thành đem Lê Chất, Nguyễn Đình Đắc, Trương Tiến Bảo, chia ra làm ba đạo ra đánh lấy đồn Hội An ở Phú Yên, rồi kéo ra đánh ở Thị Dã (thuộc Bình Định). Nguyễn Vương đem thủy binh ra đến Quy Nhơn đóng thuyền ở ngoài cửa Thị Nại. Bấy giờ quân bộ của Nguyễn Văn Thành và quân thủy của Nguyễn Vương không thông được với nhau, cho nên sự cứu viện không có công hiệu gì cả[7].
Trích thêm thư của sĩ quan Chaigneau gửi cho Barisy:
- Trước đây chưa trông thấy địch (Tây Sơn), tôi có ý khinh thường, nhưng bây giờ mới biết là mình lầm. Thật vậy, quân của Tây Sơn đã là một phòng tuyến không sao vượt được. Bây giờ thời tiết lại xấu, binh sĩ bịnh tật nhiều. Lính Gia Định và Cao Miên phải trả về nguyên quán, những quân tướng về hàng trước đây trở lại với chủ cũ, tình thế thật nguy vô cùng…Không giải tỏa nỗi thành Bình Định, tình trạng này kéo dài luôn một năm khiến chúa Nguyễn vô cùng bực tức[8].
Diễn biến
Sách Đại Nam Thực Lục của triều Nguyễn viết:
“ | Thủy quân cả phá quân giặc ở cửa Thị Nại. Trước là Tư đồ giặc Võ Văn Dũng dùng hai chiếc thuyền đại hiệu Định quốc và hơn trăm chiếc thuyền chiến chặn đóng ngang cửa biển, lại dựng hai bảo ở bãi Nhạn Châu bên tả và ở núi Tam Tòa bên hữu cửa biển, đặt nhiều súng lớn, dựa thế cao chẹn chỗ hiểm để chống quân ta. Đến đây các quân làm xong chiến cụ hỏa công, vua mật định đêm hôm 16 cất quân đánh úp. Sai Tiền chi Hoàng Văn Khánh đem bộ binh lẻn xuống Da áo [Vũng Dừa], chờ khi hiệu lửa ở Tiêu Cơ phát thì đánh hãm lũy giặc, đặt mai phục ở sau núi để ngăn giặc. Lưu Phạm Văn Nhân giữ Cù Mông. Vua bèn thân đem thủy quân tiến phát. Trống canh ba qua Tiêu Cơ, bắt được lính đi tuần của giặc, biết được khẩu hiệu, tức thì sai Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương dùng thuyền nhỏ lẻn trước vào Hổ Cơ đốt đồn thủy của giặc. Lại sai Võ Di Nguy đi thuyền chấp lệnh thẳng tiến, Lê Văn Duyệt đốc quân tiếp theo. Giặc giữ bảo cự chiến, từ giờ dần đến giờ ngọ, tiếng súng vang trời, đạn bay như mưa. Di Nguy bị bắn chết. Duyệt cứ mặc kệ, càng thúc đánh hăng. Vua thấy sĩ tốt nhiều người tử thương, cho tiểu sai đến dụ cho tam lui. Duyệt thề chết, vẫy quân xông lên, giờ thân vào được cửa biển, dùng đuốc hỏa chiến thừa chiều gió phóng đánh thuyền đại hiệu của giặc. Quân Tây Sơn cả vỡ, chết rất nhiều. Dũng thua chạy. Thuyền Tây Sơn bị đốt cháy gần hết. Quân ta bèn giữ cửa Thị Nại. Người ta khen trận này là võ công to nhất [9]. | ” |
Sử gia Phạm Văn Sơn kể:
“ | Một hôm, chúa tính rằng hiện nay bao nhiêu lực lượng của Tây Sơn đều tập trung quanh và trước thành Quy Nhơn (tức thành Bình Định). Như vậy, Phú Xuân không mạnh. Nhưng tiến ra Phú Xuân thì hãy phá tan thủy quân của Tây Sơn ở Thị Nại đã, kẻo ra tới Phú Xuân, quân Gia Định bị cả hai mặt thủy bộ ép lại thì nguy. Khi đã thắng Phú Xuân, chúa quay lại cứu Quy Nhơn có lẽ dễ dàng hơn.
Ngày rằm tháng Giêng năm Tân Dậu (27 tháng 2 năm 1801), chúa Nguyễn nảy ra ý cho các chiến thuyền tiến gần cù lao Hàn (đảo Hòn Đất). Chúa ra lệnh cho Lê Văn Duyệt [10] đem 1.200 quân đổ bộ lên bãi cát. Đoàn người này lặng lẽ tiến đến hải đồn của Tây Sơn mà không ai biết. Hồi 10 giờ rưỡi, khi đoàn quân chỉ còn cách độ 1/3 tầm súng đại bác, tiền đội quân thủy Nguyễn gồm 62 chiếc thuyền được lệnh tấn công ba chiến hạm lớn đầu tiên của Phú Xuân. Cuộc tấn công này lại được cái may là gió và nước triều bấy giờ đang thổi mạnh. Đúng 10 giờ 30, tướng Nguyễn Văn Trương bắn phát đại bác đầu tiên để ra lệnh tấn công khắp mọi nơi. Hai mươi sáu chiến thuyền chèo phóng lửa đốt sạch mọi thứ trên bãi cát. Đạo binh 1.200 người của (quân) Nguyễn, lưỡi lê tuốt trần nấp ở các hầm hố dưới cát, vừa đánh vừa bắn đại bác lên bờ. Quân Phú Xuân (tức quân Tây Sơn) bị đánh bất thình lình rối loạn chết hại khá nhiều. Đồn Tây Sơn ở Tam Tòa Sơn, ở bên phải cánh quân tấn công, chuyển một hỏa lực kinh khủng bắn xuống các thuyền chèo tay của Nguyễn vương khi đó vào đúng tầm súng. Võ Di Nguy bị một phát đạn bay đầu liền làm cho quân Nguyễn hoảng hốt ngừng lại. Lê Văn Duyệt liền cho chém ngay viên tướng đã thiếu can đảm, rồi thúc thuyền tiến tới chỗ có các chiến hạm của Phú Xuân đang đậu ở phía đông gần núi, đốt phá tơi bời và mau lẹ. Lúc ấy, Nguyễn Văn Trương cũng đã phá xong 3 chiếc chiến hạm của Tây Sơn đậu bên ngoài, tiến vào giữa hai cánh quân Tây Sơn đang vận chuyển để cứu các chiến hạm. Đêm ấy lửa và tiếng đại bác đã gây nên một quang cảnh hết sức khủng khiếp, rùng rợn…[8] |
” |
Nhà nghiên cứu Huỳnh Minh cho biết:
“ | Đêm rằm tháng giêng năm Tân Dậu (1801), Nguyễn Văn Thành nhận mật lệnh kéo quân cướp trại, để cản chân các tướng Tây Sơn về mặt bộ, Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương (Phúc Lương) cũng lãnh mật lệnh dẫn một đoàn binh thuyền đi trước. Tiếp theo sau là Lê Văn Duyệt và Võ Di Nguy cũng dẫn một đạo chiến thuyền sấn tới, Nguyễn vương thân đốc chiến.
Vừa tới cửa Thị Nại, Nguyễn Văn Trương chặn bắt được thuyền tuần tiễu của Tây Sơn, tra hạch được mật khẩu [11], nên vào sâu nơi thủy trại mà đốt phá. Đến 10 giờ rưỡi đêm ấy, Võ Di Nguy cùng Lê Văn Duyệt kéo toàn đội chiến thuyền xông vào. Quân Tây Sơn từ các đồn trên núi, triền núi Cam Tòa bên hữu, và ở bãi Nhạn bên tả nã súng lớn pháo kích, Võ Di Nguy trúng đạn nơi đầu tử trận. Tướng Duy chết, nhưng các chiến hữu đã dùng hỏa công triệt tiêu tất cả thủy trại Tây Sơn, toàn thắng. Trận Thị Nại này được gọi là “Võ công đệ nhất” trong thời trung hưng của triều Nguyễn [1]. |
” |
Sử gia Tạ Chí Đại Trường mô tả:
“ | Chiến trận xảy ra vào đêm 16 tháng giêng Tân Dậu (28-2-1801). Tiền chi Hoàng Văn Khánh đem bộ binh lén đến Vũng Dừa đợi ở Tiêu Cơ lửa cháy thì tiến lên công hãm trại giặc và đi vòng núi mai phục để cản tiếp viện (theo vùng đèo Son bây giờ?). Quân Nguyễn qua Tiêu Cơ bắt được thuyền tuần Tây Sơn, truy ra khẩu hiệu. Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương bèn đem thuyền nhỏ nhắm Hổ Cơ xông vào, đốt thiêu thuỷ đồn làm hiệu.
Và trận tấn công bắt đầu. Theo Lelabousse, quân Nguyễn chỉ dùng có 4.000 người trên 26 ghe chiến và 100 thuyền nhỏ. Lúc đó quân Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương đã đổ bộ rồi. Các ghe chiến còn lại chở ông Tổng thuỷ “to họng” Võ Di Nguy đi trước. Quân lính “thừa đêm tối và gió xuôi, tiến vào tàu thứ nhất, nhảy lên đốt phá. Họ xông vào cửa biển, ném vung các bó đuốc và đổ dẫn hoả ra”. Thế rồi trận đánh trở nên dữ dội. Quân Tây Sơn từ trên núi và từ các tàu bắn vãi đến. Hà tiện lời như sử quan mà cũng tả ra là “tiếng súng vang trời, đạn bay như mưa”. Võ Di Nguy trúng đạn ngã lăn ra chết. Lê Văn Duyệt không quay đầu lại, đánh mạnh hơn đến Nguyễn Ánh bảo lùi cũng không chịu. Đám sĩ quan Tây phương: Chaigneau, Vannier, de Forçan đưa các ghe chiến vào rồi quay lại bảo vệ Nguyễn Ánh khi trận chiến xảy ra. Nhưng nóng lòng, sốt ruột, máu chiến sĩ nổi lên, de Forçan lẻn đi trong đêm tối, tự mình đốt được 7 ghe chiến địch. Chiến trận kéo dài 3 giờ sáng đến đứng trưa 1-3-1801 (“Dần tới Ngọ” của Thực lục). Thuyền Tây Sơn cháy tan, nhưng họ còn cố chống giữ trong các giàn súng tới khi cuối cùng đám cháy lan đến các thùng thuốc súng làm nổ tung hết lên. Như lời Chaigneau báo cho Barizy biết chiến thắng, “ta đốt hết cả thuỷ quân giặc, không sót một chiếc thuyền nhỏ nào”. Ông thấy rằng “người Nam chưa bao giờ phải đánh trận dữ dội như vậy” và sử quan cũng không quên kết luận: “Người ta gọi trận này là đệ nhất vũ công”. Ngày đó, Nguyễn Ánh đổ bộ lên chợ Giã, ra dụ chiêu an rồi sai người đi báo cho Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận biết. Ông lại bảo Gia Định truyền sứ cho tin đến tận Cao Miên, Xiêm La. Tuy vậy, Ánh cũng mất đến hơn 600 người. Tướng thì ngoài Võ Di Nguy còn có Cai cơ Hoàng Văn Định, Phó Tiền thuỷ dinh và Phó Vệ uý Nguyễn Vĩnh Hựu của đạo Thần Sách. Phía Tây Sơn, họ “chống giữ đến chết” như Chaigneau nói, cho nên toàn bộ thuỷ quân đều bị tiêu diệt. Từ nay họ không còn chút uy thế nào trên mặt bể nữa, trước cả khoảng tháng 4 âm lịch khi Đông hải vương Mạc Quần Phù cùng các tướng bị bắt lúc bị gió dạt ngoài khơi Thi Nại. Họ hoàn toàn không kiểm soát được mặt bể để tha hồ cho thuỷ quân Gia Định tung hoành ra lấy Phú Xuân mà không sợ một lực lượng lưu động nào theo kịp ngăn trở nữa. Trần Quang Diệu còn bức được Võ Tánh chết, nhưng sự thực đám quân tướng Tây Sơn ở đây mấy tháng sau phải tan rã trên rừng chính vì không thể nào di động theo các đồng bằng dọc biển mà không có yểm trợ của thủy quân, chính vì sự tan vỡ ở trận Thi Nại này vậy.[12] |
” |
Thiệt hại
Theo sử gia Phạm Văn Sơn, thì: Đến 4 giờ sáng hôm sau, tức ngày 16 tháng giêng, các chiến hạm của Phú Xuân đều ra tro, thuyền lớn thuyền nhỏ đến quá trưa mới tắt lửa. Tính ra quân Nguyễn chết mất 4.000, trong số đó có tướng Võ Di Nguy, ba anh em Thư Ngọc Hầu…Quân Tây Sơn thiệt tới 20 ngàn và mất hết cả hải đội hùng mạnh: thuyền buồm bị tiêu 1.800 chiếc, 600 khẩu đại bác đủ cỡ và nhiều quân nhu, vũ khí, vàng bạc của binh tướng Tây Sơn rơi xuống đáy biển hết[13].
Sau trận thủy chiến
Quét xong thủy quân Tây Sơn ở Thị Nại, nhưng lúc này thành Bình Định mỗi ngày mỗi kiệt quệ. Chúa Nguyễn ra lệnh cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu bí mật trốn ra khỏi thành, nhưng Võ Tánh biên thư từ chối: Tinh binh của Tây Sơn ở Quy Nhơn cả, nên lợi dụng lúc này đánh Phú Xuân thì lợi hơn…[14]
Chúa Nguyễn liền cử Nguyễn Văn Thành ở lại đánh nhau với Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng, và đặt một phần quân lực giữ cửa Thị Nại. Ngày 5 tháng 6 năm 1801, chúa Nguyễn dẫn tàu thuyền ra khỏi Thị Nại, hợp quân với Nguyễn Văn Trương tiến ra đánh Phú Xuân…[8]
Trận Thị Nại 1801, là trận thủy chiến lớn nhất nơi đầm Thị Nại. Từ đấy quân nhà Nguyễn giữ vững vùng biển chiến lược này. Thời Pháp thuộc, Trường Xuyên có bài thơ hoài cổ rằng:
- Thị Nại xưa kia vũng chiến trường,
- Nổi chìm thế sự mấy triều vương…
- Non mây nghi ngút nơi binh dữ,
- Biển ráng chưa tan bọt máu hường.
- Nhạn lãnh sóng vờn gương đế bá
- Phương Mai rừng đắp vết tang thương.
- Bùi ngùi ngắm cảnh quay trông lại
- Lớp lớp xe ai rộn phố phường! [15]
Chú thích
- ^ a ă Huỳnh Minh, Gia Định xưa. Nhà xuất bản Văn Hóa Thông tin, 2006, tr. 148.
- ^ Ghi theo Địa chí Bình Định (bản điện tử) [1]. Sách Đại Nam dư địa chi ước biên (do Cao Xuân Dục làm chủ biên, bản dịch, tr. 129) ghi là đầm Hạc Hải.
- ^ Theo [2].
- ^ Việt sử tân biên, Quyển 4, chương 6: cuộc thất bại cuối cùng của Tây Sơn.
- ^ Theo Nguyễn Khắc Thuần, Thế tử Hy tức Nguyễn Phúc Hy, em ruột Hoàng tử Cảnh (tr.9).
- ^ Sử gia Phạm Văn Sơn không ghi số liệu lính thủy và cũng không cho biết tên chiến hạm thứ tư.
- ^ Việt Nam sử lược (Quyển 2), Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn, 1971, tr.160.
- ^ a ă â Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (quyển 4), Sài Gòn, 1961, tr.221-225.
- ^ Đại Nam Thực Lục, Tập 1, trang 440.
- ^ Theo Huỳnh Minh, Ngô Giáp Đậu (Hoàng Việt hưng long chí, Nxb Văn học, 1993, hồi thứ 21) thì viên tướng chỉ huy đạo bộ binh này là Nguyễn Văn Thành, vì lúc đó Lê Văn Duyệt cùng Nguyễn Văn Trương đang chỉ huy lực lượng thủy quân.
- ^ Ngô Giáp Đậu kể chi tiết: “Trần Công Hiến ban đêm dẫn quân vượt bến đò Tiêu Ky, bắt sống được Đô ty của Tây Sơn là Nguyễn Văn Độ, tra lấy được mật khẩu. Thế Tổ (Nguyễn Ánh) cho 18 chiếc thuyền thoi, giả thuyền Tây Sơn đi tuần tiễu, áp sát đội hình thuyền giặc mà đánh” (sách đã dẫn, tr. 264).
- ^ Tạ Chí Đại Trường (1973), Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam 1771- 1802, Sài Gòn: Nhà xuất bản Văn Sử Học, tr. 328-330
- ^ Ở đoạn này, sử gia Phạm Văn Sơn kèm theo lời bình: “Con số này do sử Pháp chép theo sử ta. Sử nhà Nguyễn thường hay tự đề cao bản triều, nên chỉ có thể tin rằng quân Nguyễn thắng mà thôi”.
- ^ Theo trang website báo Bình Định: “Võ Tánh tuy gần cạn đạn dược cùng lương thực song vẫn cố thủ và sai nữ tướng tâm phúc là Nguyễn Thị Hào mang mật thư gặp Nguyễn Phúc Ánh, khuyên nên bỏ thành Bình Định mà đánh chiếm lấy Phú Xuân, vì lực lượng chủ lực của Tây Sơn đã dồn hết vào Bình Định, nên Phú Xuân lực lượng rất yếu.” Xem [3].
- ^ Theo Quách Tấn, Nước non Bình Định.
Liên kết ngoài
- Nhà Tây Sơn
- Chúa Nguyễn
- Quân sự Việt Nam thời Tây Sơn
- Xung đột 1801
- Trận đánh trong Chiến tranh Tây Sơn-Chúa Nguyễn
- Việt Nam 1801
Nguyễn Văn Giai
Nguyễn Văn Giai (chữ Hán: 阮文階, 1553 – 1628[1]) là một Tam nguyên Hoàng giáp, từng giữ chức Tể tướng, tước Thái bảo, Quận công, công thần “khai quốc” thời Lê trung hưng, nổi tiếng chính trực và biết giữ nghiêm pháp luật triều đình, có công bình định nhà Mạc, ông đồng thời cũng là một nhà thơ
Mục lục
Tiểu sử
Ông sinh vào đêm 22 tháng Chạp năm Giáp Dần, tức ngày 14 tháng 1 năm 1553, là người thôn Phù Lưu Trường, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Xuất thân trong một gia đình có tổ tiên từng nhiều đời đỗ đạt nhưng đến đời người cha Nguyễn Văn Củng, thì chỉ còn là một khóa sinh nghèo. Vốn có sức khỏe bẩm sinh, Nguyễn Văn Giai vừa làm đủ các nghề khó nhọc vừa theo học.
Sự nghiệp
Khi đã có vốn chữ nghĩa, cần học lên, ông tìm đường ra xứ Bắc, làm thuê để tiếp tục học ở Thăng Long. Ông học rất thông minh, nổi tiếng về thơ Nôm và về tài ứng đối.
Năm 1579, nhà Lê trung hưng mở khoa thi ở Thanh Hóa, ông lại ra thi và lại đỗ Giải nguyên.
Tháng 8 năm 1580, nhà Hậu Lê mở khoa thi Hội đầu tiên ở sách Vạn Lại, ông đi thi tiếp, đỗ Hội nguyên[2][3](đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân), rồi vào thi Đình đỗ luôn Đình nguyên nhị giáp Tiến sĩ[4]. Ông là vị Tam nguyên đầu tiên của thời Lê trung hưng.
Ngay trong năm này, Nguyễn Văn Giai được Trịnh Tùng bổ nhiệm chức Tán ký lục trong quân đội. Ông đóng vai trò tham mưu kế sách quân sự trong trướng cho Trịnh Tùng, đóng góp công lao vào việc đánh bại nhà Mạc, chiếm kinh thành Thăng Long năm 1592[4]. Năm sau, Nguyễn Văn Giai được thăng chức Đề hình Giám sát Ngự sử.
Năm 1608, ông được thăng làm Đô ngự sử. Lúc đó nhà Lê làm chủ Bắc Bộ, bắt đầu giao hiếu với nhà Minh. Trịnh Tùng giao cho ông và Đỗ Uông tới Nam Quan để hội khám nhưng tướng nhà Minh không đến[4].
Năm 1609, ông lại vâng mệnh lên Nam Quan hội khám cùng vua Lê. Năm đó gặp tướng nhà Minh. Sau khi tiếp kiến trở về, ông được thăng làm Tham tụng, Thượng thư bộ Lại, nắm việc cả 6 Bộ kiêm Đô ngự sử, Thiếu bảo, Lễ quận công[5][6].
Năm 1623, con thứ của Trịnh Tùng là Trịnh Xuân gây biến. Vua Lê Thần Tông phải chạy vào Thanh Hóa. Nguyễn Văn Giai tham gia bày mưu giúp chúa Trịnh dẹp yên biến loạn. Sau đó ông có công cùng đi đánh Mạc Kính Khoan ở Cao Bằng, được thăng làm Thiếu úy, gia phong Dực vận tán trị công thần, rồi thăng làm Thái bảo, được xem là người có công lao đứng đầu lúc đương thời[5].
Ông mất khi đang tại chức ngày 13 tháng giêng năm Mậu Thìn, tức 27 tháng 2 năm 1628[6], thọ 75 tuổi. Triều đình truy tặng ông là Đại tư đồ, thụy là Cẩn Độ.
Đóng góp
Dưới quyền cai quản của Nguyễn Văn Giai, triều đình Lê trung hưng còn giữ được sự thống nhất nội bộ, mặc dầu xu hướng suy thoái đã không tránh được. Tuy không ngăn cản được Trịnh Tùng giết vua Lê Kính Tông vào năm 1619 nhưng ông ra sức nắm cương triều chính, không để xảy ra chuyện lục đục, năm bè bảy mảng. Khi có những mâu thuẫn tranh chấp giữa hai con Trịnh Tùng là Trịnh Tráng và Trịnh Xuân, Nguyễn Văn Giai đã cố sức dập tắt, cuối cùng bắt được Xuân về cho Tùng trị tội, nhờ đó các thế lực phản loạn bị dẹp yên.
Để chia bớt quyền hành của chúa Trịnh, ông đã có sáng kiến lập ra Phủ Thừa tướng bên cạnh Phủ chúa, ngấm ngầm bảo vệ vua Lê.
Nguyễn Văn Giai nổi tiếng là người thanh liêm, tự ông nêu gương cho các quan noi theo, ngay cả chúa Trịnh cũng kiềng nể. Gia phả còn chi lại lời ông răn bảo triều thần: Ta giữ việc triều chính cốt cho liêm chính, không nhận hối lộ của bất kỳ ai. Người có tài đức thì phải biết trọng dụng; ai có lỗi lầm phải biết lựa lời can ngăn; ai oan uổng phải biết cứu xét phân minh cẩn trọng và bênh vực; kẻ nghèo khó phải ra tay giúp đỡ. Không nên làm những điều bất chính để tích trữ vàng ngọc làm giàu; phải biết tu nhân tích đức cho đời sau con cháu vậy. Nhưng ông cũng là người mang tư tưởng chính thống cứng nhắc, đem tài sức mình dựng lại một thế lực thực tế đã mất vai trò lịch sử.
Ông còn là một nhà thơ Nôm nổi danh, có cái cười trào tiếu và triết lý thâm thúy về mọi sự ở đời, tuy số lượng thơ để lại không nhiều.
- Ba vua, bốn chúa, bảy thằng con,
Trên chửa lung lay, dưới chửa mòn.
Công nghiệp chưa thành sanh cũng uổng
Quan tài sẵn đó chết thì chôn.
Giang hồ, lang miếu, trời đôi ngả,
Bị gậy, cân đai, đất một hòn.
Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa,
Sợ ông Bành Tổ tống đồng môn
Hình ảnh công cộng
- Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh có một con đường mang tên đường Nguyễn Văn Giai nối đường Đinh Tiên Hoàng với đường Mai Thị Lựu.
Tham khảo
- Phan Huy Chú (2008), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục
- Đại Việt sử ký toàn thư
Chú thích
- ^ Phan Huy Chú, sách đã dẫn, tr 314-315
- ^ Đại Việt Sử ký toàn thư: Kỷ nhà Lê – Thế Tông Nghị hoàng đế
- ^ Văn miếu Hà Nội: Văn bia số 18
- ^ a ă â Phan Huy Chú, sách đã dẫn, tr 314
- ^ a ă Phan Huy Chú, sách đã dẫn, tr 315
- ^ a ă Đại Việt Sử ký toàn thư: Kỷ nhà Lê – Kính Tông Huệ hoàng đế
Liên kết ngoài
Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 26 tháng 2
- Truyện George Washington
- Chào ngày mới 25 tháng 2
- Hà Văn Lâu thung dung đời thường
- Chào ngày mới 24 tháng 2
- Dinh Thống Nhất và Vườn Tao Đàn
- Chào ngày mới 23 tháng 2
- Những câu thơ lưu lạc
- Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ
- Chào ngày mới 22 tháng 2
- Nhành mai điểm nhấn tinh tế trong thơ Bác
- “Tầm hữu vị ngộ” Hồ Chí Minh
- Chào ngày mới 21 tháng 2
- Ta hẹn em uống rượu ngắm trăng
- Chào ngày mới 20 tháng 2
- Gốc mai vàng trước ngõ
- Chào ngày mới 19 tháng 2
- Người phát minh chữ viết tiếng Việt
- Chào ngày mới 18 tháng 2
- Bài học lịch sử
- Chào ngày mới 17 tháng 2
- Ngày xuân tập Kiều
- Ngày mới Mạnh Hạo Nhiên
- Chào ngày mới 16 tháng 2
- Cây Lương thực 2.2016
- Chào ngày mới 15 tháng 2
- Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương
- Chào ngày mới 14 tháng 2
- Chào ngày mới 13 tháng 2
- Chào ngày mới 12 tháng 2
- Ngày xuân đọc Trạng Trình
- Chào ngày mới 11 tháng 2
- Viếng mộ cha mẹ
- Chào ngày mới 10 tháng 2
- Thơ xuân
- Chào ngày mới 9 tháng 2
- Nguyễn Du đêm thiêng đọc lại
- Chào ngày mới 8 tháng 2
- Bữa cơm gia đình ngày cuối năm
- Cây Lương thực 2.2016
- Chào ngày mới 7 tháng 2
- Bên lề chính sử
- Một trời thương nhớ
- Chào ngày mới 6 tháng 2
- Chào ngày mới 5 tháng 2
- Huyền Trang và Tháp Đại Nhạn
- Mark Zuckerberg và Facebook
- Chào ngày mới 4 tháng 2
- Đỗ Tất Lợi danh y Việt Nam
- Chào ngày mới 3 tháng 2
- Đến với bài thơ hay
- Chào ngày mới 2 tháng 2
- Chào ngày mới 1 tháng 2
- Cây Lương thực 1.2016
Video yêu thích
Tchaikovsky: Swan Lake – The Kirov Ballet
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học Cây Lương thực Dạy và Học Tình yêu cuộc sống Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter