![]() |
|
CNM365. Chào ngày mới 31 tháng 3. Wikipedia Ngày này năm xưa. Năm 1889 – Khánh thành tháp Eiffel tại Paris, tháp trở thành biểu tượng văn hóa của Pháp và là một trong những kiến trúc đặc sắc trên thế giới. Năm 1028 – Lê Phụng Hiểu dẹp loạn Tam vương (Vũ Đức Vương, Dực Thánh Vương và Đông Chính Vương) nhà Lý (Việt Nam). Năm 1028 – ngày mất Lý Thái Tổ, Hoàng đế đầu triều Lý, Việt Nam (sinh năm 974)
31 tháng 3
Ngày 31 tháng 3 là ngày thứ 90 (91 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 275 ngày trong năm.
« Tháng 3 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 |
15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 |
22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 |
29 | 30 | 31 | ||||
Mục lục
Sự kiện
- 617 – Tùy mạt Đường sơ: Thủ lĩnh nổi dậy Lý Mật lập đàn trường, lên ngôi Ngụy công và cải niên hiệu.
- 1028 – Loạn Tam vương (Vũ Đức Vương, Dực Thánh Vương và Đông Chính Vương) nhà Lý (Việt Nam). Cuộc nổi loạn bị Lê Phụng Hiểu dập tắt ngay trong ngày.
- 1854 – Phó đề đốc Matthew C. Perry của Hải quân Hoa Kỳ và mạc phủ Tokugawa ký kết Hiệp ước Kanagawa, buộc Nhật Bản phải mở cảng giao thương với Hoa Kỳ.
- 1889 – Khánh thành tháp Eiffel tại Paris, tháp trở thành biểu tượng văn hóa của Pháp và là một trong những kiến trúc đặc sắc trên thế giới.
- 1940 – Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Karelia-Phần Lan được thành lập bên trong Liên Xô, trên cơ sở hợp nhất Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Karelia và Cộng hòa Dân chủ Phần Lan.
- 1942 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Do một cuộc nổi loạn của binh sĩ Ấn Độ chống lại người Anh, Nhật Bản chiếm đóng đảo Giáng Sinh mà không gặp trở ngại.
- 1995 – Ca sĩ-người viết ca khúc, Selena, được mệnh danh là “Nữ hoàng nhạc Tejano”, bị chủ tịch câu lạc bộ người hâm mộ, Yolanda Saldívar giết tại Corpus Christi, Texas.
Sinh
- 250 – Constantius Chlorus, hoàng đế người România
- 1360 – Philippa of Lancaster, nữ hoàng Bồ Đào Nha (m. 1415)
- 1425 – Bianca Maria Visconti, nữ công tước Milan (m. 1468)
- 1536 – Ashikaga Yoshiteru, tướng quân shogun người Nhật Bản (m. 1565)
- 1596 – René Descartes, nhà triết gia, nhà khoa học, nhà toán học người Pháp (m. 1650)
- 1621 – Andrew Marvell, nhà thơ người Anh (m. 1678)
- 1730 – Étienne Bézout, nhà toán học người Pháp (m. 1783)
- 1732 – Joseph Haydn, nhà soạn nhạc người Áo (m. 1809)
- 1777 – Charles Cagniard de la Tour, nhà vật lí người Pháp (m. 1859)
- 1778 – Coenraad Jacob Temminck, nhà động vật học người Đức (m. 1858)
- 1794 – Thomas McKean Thompson McKennan, chính khách người Mỹ (m. 1852)
- 1809 – Edward FitzGerald, nhà thơ người Anh (m. 1883)
- 1811 – Robert Wilhelm Bunsen, nhà hóa học, nhà phát minh người Đức (m. 1899)
- 1819 – Prince Chlodwig zu Hohenlohe-Schillingsfürst, Đức Chancellor (m. 1901)
- 1847 – Yegor Ivanovich Zolotarev, nhà toán học người Nga (m. 1878)
- 1871 – Arthur Griffith, tổng thống Ireland (m. 1922)
- 1876 – Borisav “Bora” Stanković, nhà văn người Serbia (m. 1927)
- 1878 – Jack Johnson, võ sĩ quyền Anh người Mỹ (m. 1946)
- 1884 – Adriaan van Maanen, nhà thiên văn người Đức (m. 1946)
- 1885 – Pascin, họa sĩ người Bulgaria (m. 1930)
- 1890 – William Lawrence Bragg, nhà vật lí, giải thưởng Nobel người Anh (m. 1971)
- 1891 – Victor Varconi, diễn viên người Hungary (m. 1976)
- 1893 – Clemens Krauss, người chỉ huy dàn nhạc người Áo (m. 1954)
- 1906 – Shin’ichiro Tomonaga, nhà vật lí, giải thưởng Nobel người Nhật Bản (m. 1979)
- 1907 – Eddie Quillan, diễn viên người Mỹ (m. 1990)
- 1908 – Red Norvo, nhạc Jazz Vibraphonist người Mỹ (m. 1999)
- 1911 – Elisabeth Grümmer, ca sĩ soprano người Đức (m. 1986)
- 1914 – Octavio Paz, nhà ngoại giao, nhà văn, giải thưởng Nobel người Mexico (m. 1998)
- 1915 – Albert Hourani, sử gia người Anh (m. 1993)
- 1919 – Frank Akins, cầu thủ bóng đá người Mỹ (m. 1993)
- 1922 – Richard Kiley, diễn viên, ca sĩ người Mỹ (m. 1999)
- 1924 – Leo Buscaglia, tác gia người Mỹ (m. 1998)
- 1924 – Charles Guggenheim, đạo diễn phim, nhà sản xuất người Mỹ (m. 2002)
- 1925 – Jean Coutu, diễn viên người Pháp (m. 1999)
- 1926 – John Fowles, tác gia người Anh (m. 2005)
- 1927 – William Daniels, diễn viên người Mỹ
- 1928 – Lefty Frizzell, ca sĩ, người sáng tác bài hát người Mỹ (m. 1975)
- 1928 – Nguyễn Khánh, chính khách Việt Nam, Phó Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- 1928 – Gordie Howe, vận động viên khúc côn cầu trên băng người Canada
- 1929 – Liz Claiborne, Mỹ thời trang nhà thiết kế người Bỉ (m. 2007)
- 1929 – Bertram Fields, luật sư người Mỹ
- 1931 – Miller Barber, vận động viên golf người Mỹ
- 1932 – Nagisa Oshima, đạo diễn phim người Nhật Bản
- 1933 – Nichita Stănescu, nhà thơ người România (m. 1983)
- 1934 – Richard Chamberlain, diễn viên người Mỹ
- 1934 – Shirley Jones, ca sĩ, nữ diễn viên người Mỹ
- 1934 – Carlo Rubbia, nhà vật lí, giải thưởng Nobel người Ý
- 1934 – John D. Loudermilk, ca sĩ, người sáng tác bài hát người Mỹ
- 1935 – Judith Rossner, tác gia người Mỹ
- 1936 – Bob Pulford, vận động viên khúc côn cầu trên băng người Canada
- 1936 – Marge Piercy, nhà văn người Mỹ
- 1936 – Dokumamushi Sandayu, diễn viên người Nhật Bản
- 1938 – Bill Hicke, vận động viên khúc côn cầu trên băng người Canada (m. 2005)
- 1938 – Michiko Nomura, diễn viên lồng tiếng người Nhật Bản
- 1938 – Arthur B. Rubinstein, nhà soạn nhạc người Mỹ
- 1938 – David Steel, chính khách người Scotland
- 1939 – Zviad Gamsakhurdia, tổng thống Gruzia đầu tiên (m. 1993)
- 1939 – Volker Schlöndorff, đạo diễn phim người Đức
- 1942 – Ulla Hoffmann, chính khách người Thụy Điển
- 1943 – Christopher Walken, diễn viên người Mỹ
- 1944 – Pascal Danel, ca sĩ, người sáng tác bài hát người Pháp
- 1945 – Valerie Curtin, nữ diễn viên, nhà văn, nhà sản xuất người Mỹ
- 1945 – Gabe Kaplan, diễn viên, diễn viên hài người Mỹ
- 1946 – Gonzalo Márquez, vận động viên bóng chày người Venezuela (m. 1984)
- 1947 – Cesar Gaviria Trujillo, tổng thống Colombia
- 1948 – Rhea Perlman, nữ diễn viên người Mỹ
- 1950 – Ed Marinaro, cầu thủ bóng đá, diễn viên người Mỹ
- 1950 – András Adorján, đấu thủ cờ vua người Hungary
- 1952 – Dermot Morgan, diễn viên người Ireland (m. 1998)
- 1955 – Robert Vance, cầu thủ cricket người New Zealand
- 1957 – Marc McClure, diễn viên người Mỹ
- 1957 – Alan Duncan, chính khách người Anh
- 1958 – Tony Cox, diễn viên người Mỹ
- 1962 – John Taylor, cầu thủ bóng đá người Mỹ
- 1963 – Paul Mercurio, diễn viên, diễn viên múa người Úc
- 1965 – Tom Barrasso, vận động viên khúc côn cầu trên băng người Mỹ
- 1966 – Roger Black, vận động viên người Anh
- 1968 – Naoya Ogawa, đô vật Wrestling chuyên nghiệp người Nhật Bản
- 1969 – Samantha Brown, người dẫn chương trình truyền hình người Mỹ
- 1969 – Steve Smith, cầu thủ bóng rổ người Mỹ
- 1969 – Nyamko Sabuni, chính khách người Thụy Điển
- 1971 – Pavel Bure, vận động viên khúc côn cầu trên băng người Nga
- 1971 – Ewan McGregor, diễn viên người Scotland
- 1972 – Alejandro Amenábar, đạo diễn phim người Tây Ban Nha
- 1972 – Andrew Bowen, diễn viên người Mỹ
- 1974 – Benjamin Eicher, đạo diễn phim Thụy Sĩ
- 1975 – Adam Green, đạo diễn phim người Mỹ
- 1976 – Josh Saviano, diễn viên người Mỹ
- 1976 – Ashton Moore, nữ diễn viên khiêu dâm người Mỹ
- 1977 – Garth Tander, người đua xe người Úc
- 1978 – Stephen Clemence, cầu thủ bóng đá người Anh
- 1978 – Jérôme Rothen, cầu thủ bóng đá người Pháp
- 1978 – Tony Yayo, ca sĩ nhạc Rapp người Mỹ
- 1979 – Josh Kinney, vận động viên bóng chày người Mỹ
- 1980 – Chien-Ming Wang, vận động viên bóng chày người Đài Loan
- 1980 – Maaya Sakamoto, diễn viên lồng tiếng người Nhật Bản
- 1980 – Michael Ryder, vận động viên khúc côn cầu trên băng người Canada
- 1981 – Maarten van der Weijden, vận động viên bơi lội người Đức
- 1982 – Tal Ben Haim, cầu thủ bóng đá người Israel
- 1982 – Philippe Mexès, cầu thủ bóng đá người Pháp
- 1983 – Paddy McCarthy, cầu thủ bóng đá người Ireland
- 1983 – Vlasios Maras, vận động viên thể dục người Hy Lạp
- 1984 – James Jones, cầu thủ bóng đá người Mỹ
- 1988 – Hogan Ephraim, cầu thủ bóng đá người Anh
Mất
- 1028 – Lý Thái Tổ, Hoàng đế đầu triều Lý, Việt Nam (s. 974)
- 1204 – Eleanor of Aquitaine, nữ hoàng Pháp, Anh (s. 1121)
- 1703 – Johann Christoph Bach, nhà soạn nhạc người Đức (s. 1642)
- 1727 – Isaac Newton, nhà vật lý, toán học Anh (s. 1643) (theo lịch Gregory)
- 1741 – Pieter Burmann the Elder, nhà học giả kinh điển người Đức (s. 1668)
- 1783 – Nikita Ivanovich Panin, chính khách người Nga (s. 1718)
- 1837 – John Constable, họa sĩ người Anh (s. 1776)
- 1855 – Charlotte Brontë, tác gia người Anh (s. 1816)
- 1877 – Antoine Augustin Cournot, nhà toán học người Pháp (s. 1801)
- 1880 – Henryk Wieniawski, nhà soạn nhạc người Ba Lan (s. 1835)
- 1885 – Franz Wilhelm Abt, nhà soạn nhạc người Đức (s. 1819)
- 1913 – John Pierpont Morgan, Financier người Mỹ (s. 1837)
- 1917 – Emil Adolf von Behring, thầy thuốc, giải thưởng Nobel người Đức (s. 1854)
- 1915 – Wyndham Halswelle, vận động viên người Scotland (s. 1882)
- 1927 – Borisav “Bora” Stanković, nhà văn người Serbia (s. 1875)
- 1931 – Knute Rockne, bóng đá huấn luyện viên người Mỹ (s. 1888)
- 1944 – Mineichi Koga, đô đốc người Nhật Bản (s. 1885)
- 1945 – Hans Fischer, nhà hóa học, giải thưởng Nobel người Đức (s. 1881)
- 1956 – Ralph DePalma, người lái xe đua người Ý (s. 1884)
- 1968 – Grover Lowdermilk, vận động viên bóng chày người Mỹ (s. 1885)
- 1972 – Meena Kumari, nữ diễn viên Ấn Độ (s. 1932)
- 1976 – Paul Strand, nhà nhiếp ảnh người Mỹ (s. 1890)
- 1980 – Vladimír Holan, nhà thơ người Séc (s. 1905)
- 1980 – Jesse Owens, vận động viên người Mỹ (s. 1913)
- 1981 – Enid Bagnold, nhà soạn kịch người Anh (s. 1889)
- 1983 – Christina Stead, nhà văn người Úc (s. 1902)
- 1984 – Ronald Clark O’Bryan, kẻ giết người người Mỹ (s. 1944)
- 1985 – Jeanine Deckers, Nun người Bỉ (s. 1933)
- 1986 – Trịnh Đình Thảo, luật sư và chính khách Việt Nam (s. 1901)
- 1986 – Jerry Paris, diễn viên người Mỹ (s. 1925)
- 1988 – William McMahon, thủ tướng người Úc thứ 20 (s. 1908)
- 1993 – Lý Quốc Hào, diễn viên Mỹ gốc Hoa, tai nạn trong lúc đóng phim (s. 1965)
- 1993 – Mitchell Parish, nhà thơ trữ tình người Mỹ (s. 1900)
- 1995 – Selena, ca sĩ người Mexico (s. 1971)
- 1998 – Bella Abzug, chính khách người Mỹ (s. 1920)
- 1998 – Tim Flock, người lái xe đua người Mỹ (s. 1924)
- 1999 – Yuri Knorozov, nhà ngôn ngữ học người Nga (s. 1922)
- 2001 – Clifford Shull, nhà vật lí, giải thưởng Nobel người Mỹ (s. 1915)
- 2002 – Barry Took, diễn viên hài người Anh (s. 1928)
- 2003 – H.S.M. Coxeter, nhà hình học người Anh (s. 1907)
- 2003 – Tommy Seebach, ca sĩ người Đan Mạch (s. 1949)
- 2003 – Anne Gwynne, nữ diễn viên người Mỹ (s. 1918)
- 2005 – Stanley J. Korsmeyer, bác sĩ khoa ung thư người Mỹ (s. 1951)
Ngày lễ và kỷ niệm
- 1996: Kênh VTV3 bắt đầu lên sóng.
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 31 tháng 3 |
Tham khảo
Lê Phụng Hiểu
Lê Phụng Hiểu (黎奉曉, 982? – 1059?) là một đại tướng nhà Lý, phụng sự ba triều vua đầu tiên của nhà Lý đó là vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông và Lý Thánh Tông. Ông là người có công rất lớn trong việc phò vua Lý Thái Tông tức Lý Phật Mã lên ngôi.
Mục lục
Tiểu sử
Ông quê ở hương Băng Sơn tổng Dương Sơn, huyện Cổ Đằng, lộ Thanh Hoá. Nay thuộc xã Hoằng Sơn, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Hiện không rõ năm sinh năm mất. Theo sử sách ghi lại được, ông thọ tới tuổi 77 [1]. Ông không được đi học, nhưng thuở hàn vi đã nổi tiếng là người sức khỏe muôn địch, là đô vật có tiếng với nghệ danh đô Bưng (Băng).
Phò tá nhà Lý
Dẹp loạn Tam Vương
Theo sử sách ghi lại, ngày mùng 3 tháng 3 năm Mậu Thìn (1028), sau khi vua Thái Tổ vừa mất, chưa làm lễ táng, các hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương và Đông Chính Vương đã đem quân đến vây thành để tranh ngôi của Thái tử. Lê Phụng Hiểu lúc ấy đang giữ chức võ vệ tướng quân cùng một số tướng khác như Lý Nhân Nghĩa, Dương Bình, Quách Thịnh… đưa quân ra ngăn chặn. Khi quân của Thái Tử và quân của các vương giáp trận, Lê Phụng Hiểu đã tuốt gươm chỉ vào Võ vương: “Bọn Vũ Đức Vương ngắp nghé ngôi báu, không coi vua nối vào đâu, trên quên ơn Tiên đế, dưới trái nghĩa tôi con, vì thế thần là Phụng Hiểu xin đem thanh gươm này để dâng”.[2]
Dứt lời Phụng Hiểu vung gươm chém chết Võ Vương. Quân của ba hoàng tử vì thế mà loạn. Từ đó, vua Thái Tông dẹp được phản nghịch và ngôi nhà Lý từ đó mới ổn định.
Nhậm chức Đô thống Thượng tướng quân
Sau khi làm lễ đăng quang, vua Lý Thánh Tông thăng luôn cho Lê Phụng Hiểu lên chức Đô thống Thượng tướng quân, tước hầu.
Từ đó cho đến cuối đời, Đô thống Thượng tướng quân Lê Phụng Hiểu một lòng phò tá nhà Lý, lập được nhiều công trạng lớn. Đánh đuổi Chiêm Thành (1044), giữ vững ổn định cho đất nước Đại Việt bên trong cũng như bên ngoài.
Giai thoại
Một mình địch lại cả một làng
Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lại câu chuyện về việc giành đất giữa 2 làng Cổ Bi và Đàm Xá. Làng Đàm Xá cậy đông người đã chém hẳn doi đất màu mỡ mà lẽ ra phải thuộc về làng Cổ Bi. Lê Phụng Hiểu lúc đó chưa làm quan, đứng ra giúp làng Cổ Bi. Dân làng Cổ Bi bày ra nhiều mâm cỗ to để thiết đãi. Ông đủng đỉnh ăn hết rồi ngủ một giấc no say.
Chờ đến khi dân làng Đàm Xá đến tranh đất, Phụng Hiểu tỉnh dậy rồi cứ đứng thế xông ra giữa đám trai tráng làng Đàm Xá mà đánh. Ông nhổ những cây bên đường làm vũ khí. Sức khỏe của ông khiến cả làng Đàm Xá khiếp sợ. Từ đó, Đàm Xá không dám ỷ thế cậy đông mà chèn ép làng Cổ Bi nữa.[1]
Sự tích “thác đao điền”
Sau khi đánh Chiêm Thành, vua muốn thưởng cho Lê Phụng Hiểu. Ngài không muốn nhận tước, mà chỉ xin vua đứng trên núi Băng Sơn ném đao, đao đi xa đến đâu lấy làm đất biệt nghiệp đến đấy. Sử kể lại rằng đao đi xa đến hơn mười dặm. Từ đó, người vùng Thanh Hóa gọi ruộng thưởng công là ruộng thác đao.[3]
Tưởng nhớ
Mặc dù sinh ra ở đất Thanh Hóa, nhưng GS Vũ Khiêu vẫn xếp Lê Phụng Hiểu vào một trong những danh nhân đất Hà Nội. Một phần là do phong tục Hội thề đền Đồng Cổ – đến nay vẫn duy trì đều đặn, thiêng liêng, ở phường Bưởi, Hà Nội – với lời thề độc xuất phát từ lời thề của ông khi chém Võ Vương trong loạn tam vương.[4] Ngày nay, ở Hà Nội, Thanh Hóa và nhiều đô thị khác đều có những con đường mang tên ông.
Chú thích
Xem thêm
Tham khảo
-
- Các triều đại Việt Nam. Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng. Nxb Thanh Niên.
Liên kết ngoài
- Đại Việt sử ký toàn thư – Bản điện tử
- Khâm định Việt sử Thông giám cương mục – Bản điện tử
Tháp Eiffel
Tháp Eiffel | |
---|---|
![]() |
|
Chiều cao kỷ lục | |
Cao nhất trên thế giới từ 1889 đến 1930[I] | |
Thông tin chung | |
Địa điểm | Paris, Pháp |
Tọa độ | 48°51′30″B 2°17′40″ĐTọa độ: 48°51′30″B 2°17′40″Đ |
Chủ đầu tư | Thành phố Paris, Pháp |
Xây dựng | |
Khởi công | 1887 |
Hoàn thành | 1889 |
Khánh thành | 31 tháng ba, 1889 |
Khánh thành | 31 tháng ba, 1889 |
Nhà thầu chính | Gustave Eiffel & Cie |
Số tầng | 3 |
Số thang máy | 9 |
Chiều cao | |
Chiều cao | 324 m (1.063 ft) |
Tính đến mái | 300,65 m (986,4 ft) |
Tính đến sàn cao nhất | 273 m (896 ft) |
Thiết kế | |
Kiến trúc sư | Stephen Sauvestre |
Kỹ sư kết cấu | Maurice Koechlin, Émile Nouguier |
Chú thích | |
[1][2][3][4][5][6][7][8][9] |
Tháp Eiffel (tiếng Pháp: Tour Eiffel) là một công trình kiến trúc bằng thép nằm trên công viên Champ-de-Mars, cạnh sông Seine, thành phố Paris. Vốn có tên nguyên thủy là Tháp 300 mét (Tour de 300 mètres), công trình do Gustave Eiffel cùng các đồng nghiệp xây dựng nhân Triển lãm thế giới năm 1889, cũng là dịp kỷ niệm 100 năm Cách mạng Pháp.
Chiều cao nguyên bản của công trình là 300 mét, theo đúng thiết kế, nhưng cột ăng ten trên đỉnh giúp tháp Eiffel đạt tới 325 mét. Từ khi khánh thành vào năm 1889, tháp Eiffel là công trình cao nhất thế giới và giữ vững vị trí này trong suốt hơn 40 năm. Ngay từ ban đầu, bên cạnh chức năng du lịch, tháp Eiffel còn được sử dụng cho các mục đích khoa học. Ngày nay, tháp tiếp tục là một trạm phát sóng truyền thanh và truyền hình cho vùng đô thị Paris.
Trở thành biểu tượng của “kinh đô ánh sáng“, tháp Eiffel là một trong những công trình kiến trúc nổi tiếng nhất toàn cầu. Từ khi khánh thành cho tới năm 2007, tháp đã có hơn 236 triệu lượt khách viếng thăm. Riêng năm 2007, tháp Eiffel đã đón tiếp gần 7 triệu du khách, giữ vị trí công trình thu phí thu hút nhất trên thế giới.[10]
![]() |
Bến tàu điện ngầm: Bir-Hakeim |
![]() |
Bến RER: Champ de Mars – Tour Eiffel |
Tháp Eiffel vốn được thiết kế để làm “cái đinh của Triển lãm thế giới năm 1889 tại Paris”, phô trương những công nghệ xây dựng của Pháp. Vào thời kỳ đầu, công trình đã gây ra những tranh cãi về vẻ thẩm mỹ, công năng… Tuy vậy, tháp Eiffel vẫn giành được thành công nhanh chóng, trở thành địa điểm thu hút du khách bậc nhất và con số dần ổn định từ những năm 1960[11].
Địa chỉ chính thức của tháp Eiffel ở số 5 đại lộ Anatole France, Quận 7, Paris. Nằm bên sông Seine, tháp Eiffel thuộc đường thẳng bắt đầu từ Palais de Chaillot, qua vườn Trocadéro và sông, tới Eiffel rồi chạy dọc Champ-de-Mars, đến École Militaire và gần như thẳng tiếp tới tháp Montparnasse. Đây đều là các công trình nổi tiếng của Paris, được hoàn thành trong những giai đoạn khác nhau. Sân của Palais de Chaillot, bên cạnh quảng trường Trocadéro, là địa điểm lý tưởng nhất để ngắm nhìn tháp.
Ngay sau Triển lãm thế giới năm 1889, tháp Eiffel đã thuộc sở hữu của thành phố Paris. Hiện nay công trình do Công ty khai thác tháp Eiffel (Société d’exploitation de la tour Eiffel – SETE) quản lý. Với ba tầng sàn, không gian của tháp Eiffel được chia cho nhiều dịch vụ khác nhau. Ngoài hai nhà hàng Altitude 95 và Le Jules-Verne nằm ở tầng hai và ba, tháp còn có các hiệu ăn nhanh, phòng trưng bày, cửa hàng lưu niệm, điểm truy cập Internet, cửa hàng bán các con tem kỷ niệm của Pháp… Tổng cộng, tháp Eiffel cần đến khoảng 500 nhân viên, gồm 250 người thuộc SETE và 250 nhân viên cho các dịch vụ còn lại[12]. Đón tiếp khách du lịch đến từ mọi quốc gia, tháp Eiffel mở cửa tất cả các ngày trong năm, từ 9 giờ tới 24 giờ trong khoảng 13 tháng 6 tới 31 tháng 8 và 9 giờ 30 tới 23 giờ trong khoảng thời gian còn lại của năm[13].
Mục lục
Kích thước
Các thông số kích thước của tháp Eiffel[14]:
Tầng mặt đất
Tầng một | ||
Vị trí | Chân tháp | |
Kích thước | Cạnh 25 m, cao 4 m | |
Xây dựng | 1887 | |
Chất liệu | Bê tông, sỏi, sắt |
Bốn chân của tháp Eiffel tạo thành một hình vuông lớn có cạnh 125 mét, theo đúng với đăng ký tại cuộc thi năm 1886. Chiều cao 325 mét với 116 ăng ten, nền tháp Eiffel nằm ở độ cao 33,5 mét so với mực nước biển.
Móng: Hai cột trụ phía École Militaire nằm trên một lớp bê tông dày 2 mét, bên dưới còn một lớp sỏi. Chiều sâu của móng là 7 mét. Hai cột trụ phía sông Seine cũng tương tự và nằm dưới mức nước của sông. Các công nhân đã phải làm việc trong những ket-xon – giếng chìm hơi ép – bằng kim loại bịt kín. Mười sáu khối móng chống đỡ cho mỗi chân tháp và các bu lông mỏ neo lớn bằng thép dài 7,80 mét cố định cho các trụ.
Chân tháp: Mỗi chân tháp mang hình vuông, nằm ở bốn góc hình vuông lớn. Nền của các trụ này là những bệ bê tông cao 4 mét, cạnh 25 mét. Ngày nay, các quầy bán vé nằm ở các chân phía Bắc và Tây, mỗi năm tiêu thụ 2 tấn giấy vé. Cầu thang máy đặt ở các chân phía Đông và Tây, khoảng tám phút một chuyến. Còn cầu thang bộ nằm ở chân tháp phía Đông, gồm 1.665 bậc lên tới đỉnh nhưng chỉ mở cho công chúng lên tới tầng ba. Ở chân tháp phía Nam còn có một cầu thang máy dành riêng cho nhân viên và khách của nhà hàng Le Jules-Verne trên tầng hai.
Vòng cung: Được đỡ bởi bốn trụ, các vòng cung này ở độ cao 39 mét so với mặt đất và có đường kính 74 mét. Theo bản vẽ ban đầu của Stephen Sauvestre, phần vòm cung còn được trang trí cầu kỳ. Đối với công trình, vòm cung này có chức năng thẩm mỹ và giúp chân tháp vững chắc[15].
Tầng hai
Tầng hai | ||
Cao | 57,63 m | |
Kích thước | Cạnh 70,69 m | |
Diện tích | 4.200 m² | |
Xây dựng | 1887 | |
Chất liệu | Sắt |
Ở độ cao 57 mét so với mặt đất, tầng hai của tháp Eiffel có diện tích 4.200 m², mang hình vuông tương tối và có thể chứa khoảng 3.000 người.
Một hành lang chạy bao quanh tầng hai, cho phép du khách ngắm nhìn toàn cảnh 360°Của Paris. Trên hành lang trang bị các kính viễn vọng cùng chỉ dẫn giúp du khách quan sát các công trình của thành phố. Mặt phía ngoài ghi tên 72 nhà khoa học của thế giới trong hai thế kỷ 18 và 19.
Tầng hai còn có nhà hàng Altitude 95 ngụ trên hai tầng nhỏ. Altitude 95 có các bàn nhìn ra ngoài quang cảnh thành phố, phía ngược lại là các bàn nhìn vào phía bên trong của tháp. Tên của nhà hàng có nghĩa: chiều cao 95 mét, tức độ cao tầng hai của tháp so với mực nước biển.
Ở tầng này cũng có thể thấy nhiều vết tích của lịch sử ngọn tháp. Như những đoạn cầu thang xoáy trôn ốc, vốn là nguyên bản của công trình, dẫn lên tới tận đỉnh. Chiếc cầu thang này đã được tháo vào năm 1986 khi thực hiện các công việc cải tạo quan trọng. Cắt thành 22 phần, 21 đoạn của cầu thang đã được đem bán đấu giá và phần lớn những người mua là các nhà sưu tập Hoa Kỳ.
Cuối cùng, một đài quan sát ở đỉnh cho phép ghi lại các dao động, thay đổi của tháp dưới ảnh hưởng của gió và giãn nở nhiệt. Gustave Eiffel đã thiết kế cho ngọn tháp chịu được biên độ 70 cm, nhưng thực tế chưa bao giờ xảy ra đến mức độ đó. Trong đợt nắng nóng năm 1976, biên độ giãn nở đạt mức 18 cm và trong trận bão tháng 12 năm 1999, sức gió 240 km/giờ, biên độ dao động chỉ tới 13 cm. Pierre Affaticati và Simon Pierra cũng khắc phục vấn đề co giãn này vào năm 1982 với biện pháp gia cố thêm các kim loại khác nhau cho khung tháp[15].
Tầng ba
Tầng ba | ||
Cao | 115,73 m | |
Kích thước | Cạnh 40,96 m | |
Diện tích | 1.650 m² | |
Xây dựng | 1888 | |
Chất liệu | Sắt |
Ở độ cao 115 mét so với mặt đất, tầng ba của tháp Eiffel có diện tích 1.650 mét vuông, mang hình vuông tương đối và có thể chứa khoảng 1.600 người.
Tầng ba được xem là tầng lý tưởng nhất để ngắm nhìn Paris. Độ cao của tầng đạt mức tối ưu đối với các công trình xung quanh. Ở tầng bốn, các công trình này sẽ trở nên khó nhìn ngắm bởi khoảng cách quá xa. Khi thời tiết quang đãng, tầm nhìn của tầng ba ước tính tới 55 km về hướng Nam, 60 km về hướng Bắc, 65 km về hướng Đông và 70 km về hướng Tây.
Dưới sàn, những ô kính cho phép du khách ngắm nhìn xuống phía mặt đất. Các lưới sắt được lắp bao quanh nhằm ngăn ngừa những ý định nhảy ra ngoài không trung của những người muốn tự sát hoặc các nhà thể thao mạo hiểm.
Nhà hàng ẩm thực Le Jules-Verne với 95 bàn ăn, được cuốn sách chỉ dẫn nổi tiếng Michelin xếp hạng 1 sao và Gault-Millau đánh giá 16/20. Mở cửa từ năm 1983, trang trí của nhà hàng vẫn được giữ nguyên, mang màu trầm và kín đáo, với những tác phẩm điêu khắc bằng kim loại. Qua các ô cửa kính của nhà hàng, thực khách có thể ngắm nhìn quang cảnh thành phố Paris. Bếp trưởng nhà hàng là Alain Reix, cùng với 30 phụ bếp và bồi bàn. Ngoài ra còn có 60 nhân viên khác. Nằm ở độ cao 123 mét, nhà hàng có diện tích khoảng 500 m² và được sử dụng một cầu thang riêng đặt ở chân tháp phía Nam chung với các nhân viên bảo dưỡng. Phần nhiều khách hàng của Le Jules-Verne là khách du lịch và các bàn ăn ở đây đều phải đặt trước một thời gian dài: khoảng từ 1 tháng cho bữa trưa và ba tháng cho bữa tối. Cũng như tháp Eiffel, nhà hàng Le Jules-Verne mở cửa cả bảy ngày trong tuần[15].
Tầng bốn
Tầng bốn | ||
Cao | 276,13 m | |
Kích thước | Cạnh 18,65 m | |
Diện tích | 350 m² | |
Xây dựng | 1888 | |
Đỉnh ăng ten | 325 m |
Tầng bốn nằm ở độ cao 275 mét so với mặt đất, diện tích 350 m², có thể đón tiếp khoảng 400 du khách vào cùng một thời điểm.
Cầu thang bộ từ tầng ba cấm không cho công chúng và thang máy từ mặt đất cũng chỉ đưa lên tới tầng ba. Để lên tầng bốn, du khách bắt buộc phải sử dụng một thang máy khác. Không gian của tầng bốn khép kín và được trang bị các bảng chỉ dẫn giúp du khách định hướng. Một cầu thang bộ còn dẫn lên một tầng nhỏ khác, đôi khi được gọi là “tầng năm”.
Ở tầng bốn còn có một căn phòng với các bức tượng sáp thể hiện cảnh Gustave Eiffel đón tiếp Thomas Edison, người đã đến thăm tháp vào 10 tháng 9 năm 1889[16]. Vị trí này trước đây được dành cho phòng thí nghiệm khí tượng học rồi sau đó là điện báo không dây. Trên đỉnh tháp, một cột thu phát sóng được lắp vào năm 1957, hoàn thành năm 1959, phủ sóng Analog cho một vùng khoảng 10 triệu gia đình. Ngày 17 tháng 1 năm 2005, thiết bị được nâng cấp thành đài phát truyền hình kỹ thuật số mặt đất đầu tiên của Pháp với 116 ăng ten cho cả truyền hình và truyền thanh. Chiếc ăng ten thứ 116 đã nâng chiều cao của tháp từ 324 mét lên 325 mét[15].
Lịch sử
![]() |
![]() |
![]() |
Tháp Eiffel năm 1888 | Tháp Eiffel năm 1937 | Tháp Eiffel năm 2005 |
Bối cảnh
Sau triều đại Napoléon III, nước Pháp phải đối mặt với cuộc chiến tranh Pháp-Phổ rồi sau đó là Công xã Paris kết thúc bằng Tuần lễ đẫm máu. Năm 1875, nền Đệ tam cộng hòa được khai sinh. Tuy vậy, những bất ổn chính trị vẫn tiếp diễn.
Những lợi ích của khoa học đã sinh ra các cuộc Triển lãm thế giới. Từ cuộc triển lãm đầu tiên, Great Exhibition of the Works of Industry of All Nations – Đại triển lãm Công nghiệp các Quốc gia, được tổ chức tại London năm 1851, những nhà cầm quyền nhanh chóng nhận thấy phía sau việc đánh cuộc công nghệ mang hình bóng những lợi ích chính trị, và sẽ là phí phạm nếu không biết tận dụng. Trưng bày những tiến bộ công nghệ, các quốc gia tổ chức triển lãm cũng biểu lộ sự vượt trội của mình trên những nước châu Âu khác, chính là các nước đang chiếm giữ một phần lớn lãnh thổ của thế giới.
Với cái nhìn này, nước Pháp đã tổ chức nhiều cuộc Triển lãm thế giới, vào các năm 1855, 1867 và 1878. Jules Ferry, chủ tịch Hội đồng Nhà nước từ 1883 tới 1885, đã quyết định đón nhận một Triển lãm thế giới nữa tại Pháp. Ngày 8 tháng 11 năm 1884, Jules Ferry ký sắc lệnh chính thức nhận tổ chức Triển lãm thế giới năm 1889 tại Paris, thời gian từ 5 tháng 5 tới 31 tháng 10 năm 1889. Năm được chọn chính là dịp kỷ niệm 100 năm Cách mạng Pháp, Paris sẽ lại một lần nữa là “trung tâm” của thế giới.
Mặc dù vậy ý tưởng về ngọn tháp 300 mét đã được khai sinh ở Tân Lục Địa, tại Hoa Kỳ với nền kinh tế trẻ và năng động. Cho dịp Triển lãm thế giới năm 1876 tại Philadelphia, các kỹ sư Clark và Reeves đã hình dung một cột tháp hình trụ đường kính 9 mét, giữ bởi các dây néo bằng kim loại, néo xuống một đường kính 45 mét chung quanh, chiều cao 1.000 foot, tức khoảng 300 mét. Gặp những vấn đề về tài chính, cột tháp The Centennial Tower – Tháp Thế Kỷ – đã không bao giờ được thực hiện, nhưng dự án được đăng tải ở Pháp trên tạp chí Nature. Cũng ý tưởng đó, kỹ sư người Pháp Sébillot đưa ra một ngọn “tháp mặt trời” bằng sắt chiếu sáng thành phố Paris. Để thực hiện, Sébillot cộng tác với Jules Bourdais, kiến trúc sư từng xây dựng Palais du Trocadéro cho cuộc Triển lãm thế giới năm 1878. Cùng nhau, hai người hoài bão một dự án khác, “tháp hải đăng” bằng đá granit, cao 300 mét, với nhiều phiên bản. “Tháp hải đăng” từng cạnh tranh với dự án của Gustave Eiffel, nhưng cuối cùng đã không bao giờ được thực hiện.
Soạn thảo dự án
Vào tháng 6 năm 1884, hai kỹ sư của công ty Eiffel, Maurice Koechlin và Émile Nouguier, trưởng phòng nghiên cứu và trưởng phòng phương pháp, quan tâm đến dự án một chiếc tháp bằng kim loại cao 300 mét. Họ hy vọng sẽ có thể biến công trình đó thành cái đinh của Triển lãm thế giới năm 1889.
Ngày 6 tháng 6, Maurice Koechlin lần đầu tiên ký họa hình dáng của công trình. Ký họa miêu tả một cột tháp 300 mét, bốn trụ cong gặp nhau ở đỉnh, với năm tầng sàn, chia cột tháp thành sáu đoạn 50 mét. Gustave Eiffel xem xét đề cương này, tuy nói không thích thú, nhưng cuối cùng nhượng bộ trước các ý kiến và cho phép theo đuổi nghiên cứu dự án. Stephen Sauvestre, kiến trúc sư trưởng của công ty Eiffel vẽ lại và thay đổi phần lớn: thêm các chân được xây nặng nề, củng cố tháp bằng một cấu trúc hình vòng cung ở tầng hai, giảm bớt số tầng sàn từ 5 xuống còn 2, thêm chóp cho phần đỉnh tháp…[17]
Bản thiết kế mới được đưa đến cho Gustave Eiffel và lần này Eiffel đã hài lòng. Ngày 18 tháng 9 năm 1884, “Quyền được phép xây dựng các cột trụ và cột tháp kim loại với chiều cao có thể vượt quá 300 mét” được đăng ký với tên Eiffel cùng Koechlin và Nouguier. Rất nhanh sau đó, Gustave Eiffel mua lại của Koechlin và Nouguier để nắm độc quyền ngọn tháp tương lai và do đó, công trình được mang tên Eiffel.
Để bắt đầu, Gustave Eiffel thuyết phục Édouard Lockroy, bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Thương mại thời kỳ đó, tổ chức một cuộc thi với mục đích “nghiên cứu khả năng xây dựng trên Champ-de-Mars một ngọn tháp bắng sắt có đáy hình vuông cạnh 125 mét và cao 300 mét”. Thể thức cuộc thi – vào tháng 5 năm 1886 – đã cho thấy ưu thế của Gustave Eiffel. Quyền xây dựng công trình biểu tượng cho Triển lãm thế giới ba năm sau đó gần như đã nằm trong tay Eiffel. Duy chỉ còn vấn đề mục đích của ngọn tháp, đó không thể chỉ là một công trình xây dựng đơn thuần mà còn phải mang các chức năng khác. Về điểm này, Gustave Eiffel đã chỉ ra các ích lợi về mặt khoa học của ngọn tháp. Tuy nhiên kết quả cuộc thi không hoàn toàn phản ánh lợi thế của Gustave Eiffel. Sự cạnh tranh gay gắt với 107 dự án được gửi đến. Gustave Eiffel thắng cuộc, nhưng chỉ vừa vặn hơn Jules Bourdais, người cũng đã thay đổi, định sẽ dùng chất liệu sắt thay vì granit.
Hai vấn đề được đặt ra: thang máy và địa điểm công trình. Hệ thống thang máy không làm hài lòng trưởng ban giám khảo cuộc thi, bắt buộc Eiffel phải thay đổi người cung ứng. Vị trí của tháp ban đầu được xem xét ở bờ bên kia sông Seine hoặc áp sát vào Palais du Trocadéro, ngày nay là Palais de Chaillot. Cuối cùng, tháp được quyết định xây dựng ngay tại Champ-de-Mars, vị trí của triển lãm, như một cổng vào.
Vị trí và cả thể thức xây dựng, khai thác công trình được ký vào ngày 8 tháng 1 năm 1887 giữa Édouard Lockroy, nhân danh Chính phủ Pháp, Eugène Poubelle, tỉnh trưởng tỉnh Seine, nhân danh thành phố Paris và Gustave Eiffel, với tư cách cá nhân. Văn bản này ghi rõ chi phí dự tính cho xây dựng: 6,5 triệu franc. Trong đó 1,5 triệu franc được trợ cấp, phần còn lại do Công ty khai thác tháp Eiffel của Gustave Eiffel chịu. Giá vé vào của trong thời gian Triển lãm thế giới cũng được ghi rõ và mỗi tầng đều phải có không gian dành cho khoa học hoặc quân sự. Ở điều khoản 11 ghi:
“ | Sau Triển lãm thế giới, thành phố sẽ trở thành chủ sở hữu của tháp cùng tất cả lợi ích và trách nhiệm liên quan; nhưng ngài Gustave Eiffel, như bù đắp cho chi phí xây dựng, sẽ được hưởng trong vòng 20 năm kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1890, sau thời hạn đó, lợi ích của công trình sẽ thuộc về Thành phố Paris. Sau 20 năm, tháp được giao lại trong tình trạng sử dụng và bảo dưỡng tốt…[18] | ” |
Vai trò của Gustave Eiffel không nằm ở kiến trúc, thẩm mỹ – hoặc kém thẩm mỹ theo một số ý kiến – của công trình. Nhưng nhờ Gustave Eiffel, dự án ngọn tháp 300 mét được Chính phủ quyết định cho xây dựng và sau đó, Eiffel cùng các đồng nghiệp biến dự án thành công trình thực tế. Từ dự án, thi công cho tới khi khai thác, công trình gặp không ít khó khăn và Gustave Eiffel đã là người quyết định hầu như toàn bộ. Eiffel cũng nhanh nhạy trở thành người độc quyền ngay từ khi dự án mới bắt đầu để rồi thực hiện công trình được mang tên mình.
Xây dựng
Ban đầu Gustave Eiffel dự kiến sẽ thi công trong 12 tháng. Thế nhưng thời gian thực tế đã kéo dài gấp đôi. Việc xây dựng được bắt đầu vào ngày 28 tháng 1 năm 1887 và kết thúc tháng 3 năm 1889, vừa vặn trước khi chính thức mở cửa Triển lãm thế giới.
Trên công trường, số công nhân không khi nào vượt quá 250. Lý do là một phần lớn làm việc trên phía thượng lưu, trong nhà máy của công ty Eiffel ở Levallois-Perret. Ví dụ 2.500.000 đinh tán được sản xuất cho chiếc tháp, nhưng chỉ 1.050.846 được đóng tại công trường, chiếm 42% tổng số. Phần lớn các thành phần được lắp ghép trên mặt đất tại xưởng ở Levallois-Perret, thành từng đoạn năm mét với các bu lông tạm thời, sau đó tại công trường thay bằng các đinh tán nhiệt. Việc xây dựng từng phần rồi ghép lại đã cần tới 50 kỹ sư làm việc trong hai năm với 5300 bản vẽ tổng thể hoặc chi tiết.
Thời gian đầu tiên, các công nhân xây dựng những bệ bê tông cho bốn trụ của công trình. Điều này giúp giảm tối thiểu sức nén xuống nền đất, chỉ còn 4,5 kg/cm² ở phần dưới móng. Việc lắp ráp các thành phần kim loại chính xác bắt đầu vào ngày 1 tháng 7 năm 1887, do Jean Compagnon chỉ đạo. Tới độ cao 30 mét, các bộ phận được đưa lên nhờ những cần trục xoay cố định trên đường dành cho thang máy. Từ 30 tới 45 mét, 12 giàn giáo bằng gỗ được xây dựng. Vượt qua 45 mét, các dàn giáo mới được lắp vào các xà của tầng hai. Sau đó tới thời điểm nối các xà ngang với bốn trụ, vị trí của tầng hai. Công việc ráp nối này được thực thiện vào ngày 7 tháng 12 năm 1887. Sàn tầng hai được xây dựng ở độ cao 57 mét, các giàn giáo tạm thời không cần thiết. Tương tự, sau đó, từ tháng 8 năm 1888 đến sàn tầng ba, độ cao 115 mét[19].
Tháng 9 năm 1888, khi tiến độ trên công trường đã được đẩy nhanh và xây dựng đến tầng ba, các công nhân tổ chức đình công. Họ đưa ra vấn đề giờ giấc lao động (9 giờ vào mùa đông và 12 giờ vào mùa hè) và mức lương thấp so với nguy hiểm phải gánh chịu. Gustave Eiffel chỉ ra rằng rủi ro không khác nhau khi họ làm việc ở độ cao 200 mét hay 50 mét, và các công nhân đã được hưởng thù lao cao hơn trung bình so với những người làm việc cùng lĩnh vực thời kỳ đó. Cuối cùng, Gustave Eiffel nhượng bộ, đồng ý tăng lương nhưng từ chối đòi hỏi chỉ số “rủi ro thay đổi theo độ cao”.
Tháng 3 năm 1889, công trình hoàn thành và không có một tại nạn chết người nào xảy ra với các lao động. Chỉ một công nhân thiệt mạng, nhưng vào ngày chủ nhật, công nhân đó không làm việc mà dẫn vợ chưa cưới tới tham quan công trình rồi ngã do mất thăng bằng. Chi phí xây dựng của tháp Eiffel vượt 1,5 triệu franc so với dự tính. Thời gian thi công cũng gấp đôi so với thỏa thuận ban đầu.
Công việc cuối cùng là tính toán phương cách đưa công chúng lên tới tầng bốn của tháp. Các thang máy Backmann được dự tính ban đầu và nằm trong dự án trình ban giám khảo cuộc thi vào tháng 5 năm 1886, nhưng bị ban giám khảo loại bỏ. Gustave Eiffel phải gọi đến ba nhà cung cấp mới: Roux-Combaluzier và Lepape (về sau trở thành Schindler), công ty Otis của Hoa Kỳ và cuối cùng là Léon Edoux[19].
Tháp Eiffel từ 1889 đến Thế chiến thứ hai
Ngày 6 tháng 5 năm 1889, Triển lãm thế giới mở cửa và tới 15 tháng 5 thì công chúng được phép tham quan tháp Eiffel. Trong khi xây dựng, công trình chịu nhiều lời gièm pha, đặc biệt vào tháng 2 năm 1887 công trình đã phải nhận những chỉ trích của một vài nghệ sĩ lớn nhất của thời kỳ đó. Tuy vậy, khi khánh thành, tháp Eiffel giành được thành công ngay lập tức, đón nhận một số lượng lớn khách viếng thăm. Tuần đầu tiên, khi các thang máy còn chưa hoạt động, đã có 28.922 người leo lên tháp bằng cầu thang bộ. Khi kết thúc hội chợ, trong 32 triệu khách của Triển lãm thế giới, có 2 triệu người đã chen chúc lên ngọn tháp này. Ở triển lãm, tháp Eiffel không phải công trình duy nhất thu hút đám đông. Tòa nhà trưng bày máy móc, dài 440 mét và rộng 110 mét, của Ferdinand Dutert và Victor Contamin, hay Vòm trung tâm của Joseph Bouvard cũng đã gây ấn tượng.
Nhưng sau khi kết thúc triển lãm, số lượng khách giảm xuống nhanh chóng. Năm 1899, chỉ có 149.580 lượt khách. Cuối cùng, để đẩy mạnh khai thác thương mại của tháp, Gustave Eiffel cho giảm giá vé vào cửa, nhưng không vi phạm những ký kết trước đó. Phải đợi đến Triển lãm thế giới năm 1900 cũng được tổ chức ở Paris, số lượng khách mới tăng trở lại. Dịp này, hơn một triệu vé đã được bán ra, nhưng chỉ bằng một phần hai con số của mười năm trước đó. Mức độ giảm sút còn mạnh mẽ hơn nếu so sánh tuyệt đối, số lượng khách của Triển lãm thế giới 1900 cao hơn so với năm 1889.
Năm 1901, con số lượt khách lại tụt xuống khiến tương lai của tháp bị đe dọa có thể không qua được ngày 31 tháng 12 năm 1909, thời điểm nhượng lại cho thành phố Paris. Đã có một vài ý kiến cho rằng công trình cần phải phá hủy.
Các thực nghiệm khoa học và phát thanh
Ý thức được nguy cơ và như đã dự tính trước khi xây dựng, Gustave Eiffel đồng ý cho việc tiến hành các thực nghiệm cũng như đặt trạm quan sát ngay từ năm đầu tiên của ngọn tháp.
Năm 1889, Eleuthère Mascart, giám đốc của Phòng trung tâm Khí tượng Pháp, đã đặt một đài quan sát trên tháp Eiffel. Tháng 10 năm 1898, Eugène Ducretet lần đầu tiên nối tín hiệu sóng giữa tháp Eiffel với điện Panthéon, khoảng cách 4 km. Năm 1903, đại úy Gustave Ferrié, tìm cách lặt đặt một mạng lưới điện báo không dây dù không được đầu tư từ quân đội, những người vẫn ủng hộ các phương pháp cũ. Gustave Eiffel đã tài trợ cho dự án này và cho phép lắp một ăng ten trên đỉnh tháp. Từ năm 1921, các chương trình truyền thanh được phát sóng đều đặn từ tháp Eiffel và Truyền thanh tháp Eiffel – Radio Tour Eiffel được chính thức bắt đầu từ ngày 6 tháng 2 năm 1922.
Năm 1925, tháp Eiffel được sử dụng cho truyền hình, lần đầu tiên tại Pháp. Với sự tiến triển của kỹ thuật, các buổi phát sóng thực nghiệm còn được tiến hành trong khoảng thời gian 1935 tới 1939. Truyền hình từ đen trắng tiến tới truyền hình màu. Năm 1959, một cột phát sóng truyền hình mới nâng chiều cao của tháp lên 320,75 mét. Và năm 2005, truyền hình kỹ thuật số mặt đất cũng được lắp đặt trên tháp Eiffel[20].
Tháp Eiffel đương đại
Năm 1944, tháp Eiffel thoát khỏi một vụ hỏa hoạn có chủ ý, do Quận đội Đức cho phép, rồi bị trưng dụng để liên lạc, ban đầu là lực lượng Wehrmacht của Đức, tiếp đó đến quân đội Đồng Minh.
Từ những năm 1960, lượng khách du lịch quốc tế tăng, trực tiếp kéo theo số lượng người thăm tháp. Lượng khách viếng thăm hàng năm tăng gần như đều đặn từ 1970 và lần đầu tiên đạt con số 6 triệu vào năm 1998. Sự gia tăng này đã dẫn đến việc cần đổi mới, tu sửa lại tháp. Công việc tiến hành từ 1980 đến năm 1985, với ba hướng chính:
- Làm nhẹ bớt cấu trúc của công trình
- Xây dựng lại toàn bộ các thang máy và cầu thang bộ
- Sử dụng các biện pháp an toàn mới, phù hợp số lượng khách gia tăng.
Tháp Eiffel đã bớt đi 1340 tấn dư thừa, được sơn lại và xử lý chống ăn mòn. Các thang máy được thay mới và mở thêm nhà hàng ẩm thực Jules-Verne. Biện pháp chiếu sáng cũng được cải tiến.
Tháp Eiffel trở thành biểu tượng của Paris và nước Pháp, một trong những công trình nổi tiếng nhất thế giới. Bắt đầu từ những thập niên cuối của thế kỷ 20, Champ-de-Mars cùng tháp Eiffel là nơi tổ chức các lễ hội, các buổi hòa nhạc của thành phố. Tính tới năm 2007, tổng số lượt người thăm tháp đã đạt tới con số hơn 236 triệu. Năm 2007, tháp Eiffel đón 6.893.000 lượt khách viếng thăm.
Toàn cảnh Paris nhìn từ tháp Montparnasse, 2008 |
Chiều cao của công trình biểu tượng
Chiều cao của tháp Eiffel
Chiều cao của tháp Eiffel | ||
Đo năm 2005 | Tổng chiều cao với ăng ten | 325 m |
Đo năm 2000 | Tổng chiều cao với ăng ten | 324 m |
Đo năm 1994 | Tổng chiều cao với ăng ten | 318,70 m |
Đo năm 1991 | Tổng chiều cao với ăng ten | 317,96 m |
Đo năm 1989 | Tổng chiều cao với cột cờ | 312,27 m |
Đo năm 1989 | Tổng chiều cao không cột cờ | 300 m |
Khánh thành ngày 31 tháng 3 năm 1889, tháp Eiffel trở thành công trình cao nhất thế giới khi đó. Chiều cao 300 mét của tháp vượt xa công trình thứ hai, Tượng đài Washington cao 170 mét ở Hoa Kỳ. Trước khi tháp Eiffel hoàn thành, ngoài Tượng đài Washington, trên thế giới cũng chỉ có hai công trình khác chạm tới con số 150 mét là nhà thờ Đức Bà Rouen của Pháp cao 150 mét và nhà thờ lớn Köln của Đức cao 169 mét.
Trong thế kỷ 19, đã có nhiều dự án về một công trình 300 mét hay 1000 foot, như của Jules Bourdais người Pháp hay hai kỹ sư Clarke và Reeves người Mỹ, nhưng tháp Eiffel là dự án duy nhất thành hiện thực. Năm 1890, tại London, với dự định xây dựng một tháp mới, một cuộc thi kiến trúc được tổ chức nhưng các bản vẽ gửi tới phần nhiều quá tương đồng với tháp Eiffel. Cuối cùng ban giám khảo cũng trao giải cho một bản thiết kế với công trình cao 1200 foot. Gustave Eiffel được mời thực hiện nhưng đã từ chối. Được bắt đầu vào năm 1892, đến năm 1895, khi đã được 155 foot, công trình phải dừng lại do nền đất yếu[21].
Tháp Eiffel còn giữ vững danh hiệu công trình cao nhất cho tới tận năm 1930, khi tòa nhà Chrysler được khánh thành tại New York. Nếu tính khoảng thời gian giữ danh hiệu thì tháp Eiffel đạt 41 năm, cũng là con số kỷ lục từ thời điểm hoàn thành của tháp tới nay. Sau tòa nhà Chrysler, các công trình cao nhất thế giới thường nhanh chóng bị truất ngôi.
Khi mới hoàn thành, chiều cao của tháp Eiffel là 300 mét. Sau đó, với việc đặt đặt cờ và các ăng ten, tổng chiều cao của công trình được tăng lên. Sự thay đổi nhiệt độ cũng ảnh hưởng đến chiều cao của tháp do hiệu ứng giãn nở nhiệt. Lần đo đạc gần đây, ngày 2 tháng 4 năm 2005, tổng chiều cao của tháp cùng ăng ten là 325 mét. Tháp Eiffel vẫn là công trình cao nhất Paris và đứng thứ năm nước Pháp.
Công trình nổi tiếng
Với thành công và dấu ấn kiến trúc, tháp Eiffel nhanh chóng trở thành biểu tượng của Paris, một thành phố vốn đã có nhiều công nhiều nổi tiếng khác. Qua hơn một thế kỷ, tháp Eiffel là một trong những công trình nổi tiếng nhất, thu hút nhất và xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm văn học, điện ảnh, hội họa, nhiếp ảnh…
Vào năm 1996, viện SOFRES, cơ quan điều tra xã hội của Pháp, thực hiện một cuộc điều tra từ 15 tháng 3 tới 2 tháng 4 tại Ý, Anh, Tây Ban Nha, Đức, Mỹ và Nhật. Với câu hỏi “Bạn hãy nêu ba công trình châu Âu mà bạn biết, dù chỉ cái tên”, tháp Eiffel đứng đầu trong kết quả tại cả 6 quốc gia. Các công trình nổi tiếng khác của Paris như Khải Hoàn Môn, nhà thờ Đức Bà, Louvre, lâu đài Versailles cũng đạt được thứ hạng cao. Theo các ý kiến trong cuộc điều tra, tháp Eiffel còn là biểu tượng cho châu Âu và là công trình được những người trả lời viếng thăm nhiều nhất, sau công trình ở chính nước họ[22].
Trên khắp thế giới, nhiều bản sao và các công trình mô phỏng theo tháp Eiffel được xây dựng. Tại Hoa Kỳ, khách sạn và sòng bài Paris Las Vegas gần Las Vegas, Nevada, thực hiện bản sao các công trình nổi tiếng của Paris: Khải Hoàn Môn, nhà hát Opéra Garnier và một tháp Eiffel có chiều cao 165 mét. Tương tự, tại thành phố Hàng Châu, Trung Quốc, một Paris thu nhỏ được xây dựng với tháp Eiffel cao 108 mét. Cũng ở Trung Quốc, thành phố Thâm Quyến còn có một bản sao khác cao khoảng 100 mét.
Ở Đức, tháp truyền thanh Berlin, kiến trúc mô phỏng tháp Eiffel, được xây dựng từ 1924 tới 1926 bằng chất liệu thép, cao 150 mét. Nổi tiếng hơn, tháp Tokyo tại Nhật Bản được hoàn thành năm 1958, có chiều cao 333 mét.
Khai thác thương mại
Theo văn bản ngày 8 tháng 1 năm 1887, trong thời gian Triển lãm thế giới 1889, tháp Eiffel là tài sản của nhà nước Pháp, còn từ sau triển lãm, quyền sở hữu sẽ thuộc về chính quyền thành phố Paris. Cũng theo bản thoả thuận này, Gustave Eiffel được đứng tên khai thác các lợi ích của công trình và được hưởng lãi từ hoạt động kinh doanh tháp Eiffel trong vòng 20 năm, từ 1 tháng 1 năm 1890 đến 31 tháng 3 năm 1909. Với việc đầu tư biến tháp Eiffel trở thành nơi thực hiện các thí nghiệm khoa học và đặt trạm phát sóng, Gustave Eiffel đã kéo dài quyền khai thác tháp thêm 70 năm, tính từ ngày 1 tháng 1 năm 1910.
Sau khi quyền khai thác của Gustave Eiffel hết hiệu lực, hội đồng thành phố Paris giao việc kinh doanh tháp từ năm 1980 đến năm 2005 cho Công ty khai thác tháp Eiffel mới (Société nouvelle d’exploitation de la tour Eiffel – SNTE). SNTE có 30% vốn sở hữu của thành phố Paris và 70% vốn sở hữu của SAGI (Société anonyme de gestion immobilière – Công ty đại chúng kinh doanh địa ốc). Bản thân SAGI cũng là một công ty liên doanh với 40% vốn của thành phố Paris và 60% vốn của Perexia, một chi nhánh của ngân hàng Caisse d’Epargne.
Từ ngày 13 tháng 12 năm 2005, quyền kinh doanh tháp được chuyển cho Công ty khai thác tháp Eiffel (Société d’exploitation de la tour Eiffel – SETE). SETE có 60% vốn của chính quyền thành phố và 40% vốn của các công ty tư nhân, gồm BTP Eiffage, Unibail, LVMH, Dexia và EDF. Hiện nay công việc kinh doanh tháp đem lại việc làm cho khoảng 500 người. Trong đó 250 nhân viên do SETE trực tiếp quản lý gồm tiếp tân, kỹ thuật và hành chính… 250 nhân viên còn lại thuộc các công ty được nhượng quyền kinh doanh (nhà hàng, quầy lưu niệm) hoặc có hoạt động tại tháp (Bưu điện Pháp, TDF, cảnh sát)[12].
Ngay từ khi được trao quyền kinh doanh, Gustave Eiffel đã tính tới việc khai thác thương mại hình ảnh của tháp. Jules Jaluzot, giám đốc hệ thống cửa hàng Printemps từng đề nghị được mua lại quyền khai thác hình ảnh để sản xuất hàng loạt bản sao tháp Eiffel, bày bán tại các cửa hàng Printemps. Sau nhiều lần từ chối, cuối cùng Gustave Eiffel quyết định đưa quyền khai thác hình ảnh tháp Eiffel ra phạm vi công cộng. Kể từ năm 1889, đã có hơn 5 tỷ tấm bưu thiếp in hình tháp Eiffel được bán ra. Tháp Eiffel là công trình có lượng bưu thiếp được bán lớn nhất thế giới[23].
Quyền tác giả ảnh chụp ban đêm
Công ty khai thác tháp Eiffel đòi hỏi bản quyền về việc chụp hình trực diện ban đêm công trình[24]:
“ | Việc phát hành các bức ảnh chụp tháp ban ngày được tự do, nhưng các bức ảnh ban đêm khi tháp được thắp đèn phải dưới sự cho phép của Công ty khai thác tháp Eiffel – SETE. | ” |
Nền tảng pháp lý của đòi hỏi này không rõ ràng và cũng chưa được một tòa án của Pháp nào bảo vệ cho quyền lợi đó của SETE.
Trang hoàng
Sơn
Từ khi khánh thành tới nay, tháp Eiffel đã được sơn lại 17 lần, tức trung bình 7 năm một lần. Tháp cũng trải qua nhiều màu sắc, từ nâu đỏ tới vàng son rồi cuối cùng là màu nâu đồng như ngày nay. Mỗi lần sơn lại, tháp Eiffel cần tới 60 tấn sơn cùng 50 km dây và 2 hecta lưới cho việc bảo hiểm, 1500 chổi, 5000 đĩa mài… và một đội 25 người làm việc trong hơn một năm.
Gần đây nhất, tháp Eiffel được sơn lại từ tháng 12 năm 2001 tới tháng 6 năm 2003. Theo kế hoạch, lần sơn kế tiếp sẽ được bắt đầu vào cuối năm 2008[25].
Chiếu sáng
Triển lãm thế giới 1900 | Quảng cáo của Citroën năm 1925 | Pháo hoa 14 tháng 7, 2005 | Các đèn nhấp nháy từ 2000 |
![]() |
![]() |
![]() |
Bắt đầu ngay từ lúc chưa hoàn thành, rồi sau khi xây dựng xong và cho tới ngày nay, nhiều biện pháp chiếu sáng đã được sử dụng để làm nổi bật tháp Eiffel: gaz, điện, đèn neon, đèn natri và pháo hoa[26].
Năm 1888, khi còn đang xây dựng, pháo hoa đã được bắn ở tầng ba của tháp. Ngày nay, tháp Eiffel là địa điểm bắt pháo hoa truyền thống của ngày quốc khách Pháp, 14 tháng 7. Năm 1889, trong khoảng thời gian đầu tiên, tháp được thắp sáng nhờ 10.000 bấc gaz. Nhưng từ 1900, trong chương trình của Triển lãm thế giới ở Paris, việc thắp sáng được thay bằng điện.
Năm 1925, André Citroën lắp đặt một bảng quảng cáo lớn cho nhãn hiệu của mình, trải cho tới tận phía trên đỉnh tháp. Chiếu sáng bằng 250.000 bóng điện với 6 màu sắc, nhãn hiệu xe hơi “Citroën” được viết theo lối Art déco. Quảng cáo này còn tiếp tục treo cho tới tận năm 1933 khi thành phố nâng giá lên gấp sáu lần so với năm 1926. Năm 1937, dành cho Triển lãm quốc tế nghệ thuật ứng dụng, André Granet đưa ra phương pháp chiếu sáng mới làm nổi bật cấu trúc như đăng ten của tháp.
Năm 1985, SNTE, công ty mới khai thác tháp Eiffel từ 1980, lắp đặt một hệ thống chiếu sáng màu vàng da cam vào bên trong của tháp với 352 đèn chiếu natri. Sau đó tháp được trang bị thêm cụm đèn pha ở đỉnh, chiếu sáng quét qua bầu trời Paris với khoảng cách tới 80 km. Hai “pha” này bao gồm bốn đèn chiếu chuyển động với các đèn xenon 6000 Watt, tuổi thọ khoảng 1200 giờ và được điều khiển bằng máy tính. Bốn đèn chiếu tạo thành hình chữ thập, lần lượt từng cặp đối diện chiếu sáng sau mỗi một phần tư vòng xoay.
Năm 1999, một đồng hồ đếm ngược được tạo bởi các ngọn đèn lắp trên tháp Eiffel, tính thời gian tới năm 2000. Năm 2000, tháp được trang bị thêm 20.000 bóng điện nháy vào 10 phút sau 12 giờ trưa và 5 phút mỗi lúc chuyển giờ từ khi trời tối tới 1 giờ sáng. Để kết thúc, vào lúc 1 giờ sáng, các đèn này nhấp nháy thêm 10 phút, không cùng hệ thống chiếu sáng thường.
Tháng 6 năm 2003, các đèn nháy được ứng dụng kỹ thuật mới. Từ khi trời tối cho tới 1 giờ sáng vào mùa đông, 2 giờ sáng vào mùa hè, mỗi lần chuyển giờ, 20.000 bóng đèn nháy trong 10 phút. Khi kết thúc, tức 1 giờ sáng vào mùa đông hoặc 2 giờ sáng vào mùa hè, các đèn này sẽ sáng lấp lánh trong mười phút, sau khi đã tắt hệ thống chiếu sáng thường.
Tháp Eiffel với nghệ thuật
Ngay từ tháng 2 năm 1887, trước khi hoàn thành, tháp Eiffel đã chịu sự chỉ trích của rất nhiều nghệ sĩ lớn của thời kỳ đó. Alexandre Dumas con, Guy de Maupassant, Charles Gounod, Leconte de Lisle, Victorien Sardou, Charles Garnier, François Coppée, Sully Prudhomme, William Bouguereau và Ernest Meissonier đã cùng nhau soạn một bức thư nổi tiếng để đả kích “cái vô tác dụng và quái dị của tháp Eiffel”, đăng ngày 17 tháng 2 năm 1887 trên tờ Le Temps. Ngược lại, những nghệ sĩ khác tỏ ra thích thú với công trình mới và ngọn tháp trở thành một đề tài, hoặc xuất hiện, phổ biến trong nghệ thuật.
Hội họa
Ngay từ khi việc xây dựng chưa hoàn thành, Georges Seurat rồi Paul-Louis Delance đã lấy tháp Eiffel làm chủ đề cho sáng tác của mình. Năm 1889, họa sĩ Roux tái hiện Lễ hội đêm Triển lãm thế giới 1889 và Jean Béraud với Lối vào Triển lãm 1889.
Tiếp đó, rất nhiều họa sĩ tiếp tục lấy cảm hứng từ tháp Eiffel, như: Douanier Rousseau, Paul Signac, Pierre Bonnard, Maurice Utrillo, Marcel Gromaire, Édouard Vuillard, Albert Marquet, Raoul Dufy, Marc Chagall và Henri Rivière[27]. Nhưng họa sĩ vẽ nhiều nhất và lấy cảm hứng trực tiếp từ tháp Eiffel là Robert Delaunay. Trong khoảng thời gian từ 1910 đến 1925, Robert Delaunay đã vẽ khoảng 30 bức sơn dầu trên toan với tháp Eiffel là chủ đề trung tâm[28].
Ngoài ra có thể kể tới André Juillard với bộ 36 cái nhìn về tháp Eiffel (36 vues de la tour Eiffel) theo phong cách của Hokusai với 36 cái nhìn về núi Phú Sỹ. Tượng tự Henri Rivière cũng có 36 cái nhìn về tháp Eiffel với phương pháp in thạch bản[29].
Âm nhạc
Tháp Eiffel là cảm hứng cho nhiều ca sĩ, nhưng trên hết, tháp cùng bãi cỏ Champ-de-Mars và cả vườn Trocadéro là nơi tổ chức rất nhiều các buổi hòa nhạc lớn. Ngày 25 tháng 9 năm 1962, để quảng bá bộ phim The Longest Day, nhà sản xuất Darryl F. Zanuck đã tổ chức một buổi biểu diễn lớn ở Paris. Dịp đó, Édith Piaf, cùng với 1500 ống pháo hoa, đã biểu diễn trên tầng hai của tháp trước 25.000 khán giả[30]. Năm 1966, Charles Aznavour và Georges Brassens đã hát ở đây, ủng hộ chiến dịch Thế giới chống nạn đói. Ngày 14 tháng 7 năm 1995, Jean-Michel Jarre tổ chức buổi hòa nhạc kỷ niệm 50 năm thành lập UNESCO, tập trung hơn một triệu khán giả[31]. Gần đây nhất, ngày 10 tháng 6 năm 2000, Johnny Hallyday có một buổi biểu diễn trước 600 ngàn khán giả, sau đó được phát hành thành CD Johnny – Live à la tour Eiffel[32].
Nhiếp ảnh
Trong nghệ thuật nhiếp ảnh, gần như tất cả các nghệ sĩ lớn đều từng thực hiện ít nhất một hình về tháp Eiffel. Có thể kể đến Robert Doisneau với La tour Eiffel “gondolée”, André Kertész với Shadows, Marc Riboud với Le peintre de la tour Eiffel hay Henri Cartier-Bresson…[33]
Văn học
Từ thế kỷ 19 cho tới ngày nay, tháp Eiffel xuất hiện trong nhiều tác phẩm văn học, cả ở vị trí chủ đề trung tâm hoặc chỉ như một chi tiết tô điểm, đặc biệt với các nhà văn Pháp, hay đúng hơn là văn học tiếng Pháp. Tuy vậy, cái mới và cái thời thượng của công trình không còn nên trong văn học đương đại, tháp Eiffel ít hiện diện hơn so với thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Trong khi xây dựng và khoảng thời gian đầu sau khi hoàn thành, tháp Eiffel là chủ đề của nhiều phân tích phê bình, thường tiêu cực, đăng trên báo chí. Ngay những dòng đầu tiên của La vie errante, Guy de Maupassant đã viết: “Tôi rời bỏ Paris và cả nước Pháp bởi vì tháp Eiffel hoàn thành làm tôi quá chán nản…”. Nhưng sau đó, với thành công lớn của tháp trong việc thu hút công chúng, nhiều nhà văn đã cân nhắc và thay đổi ý kiến.
Roland Barthes trong La Tour Eiffel đăng tải năm 1964 đã dành cho ngọn tháp rất nhiều cảm tình. Dino Buzzati trong Le K. viết về một công nhân hư cấu làm việc trong công trường xây dựng tháp. Pascal Lainé đề cập tới sự thai nghén, quá trình xây dựng công trình trong Le Mystère de la tour Eiffel. Thi ca, tháp Eiffel xuất hiện trong tác phẩm của Guillaume Apollinaire, Blaise Cendrars, Louis Aragon… Tháp cũng là chủ đề cho vở kịch Les Mariés de la tour Eiffel của Jean Cocteau năm 1921.
Điện ảnh và truyền hình
Từ khi công nghệ điện ảnh bắt đầu phát triển, tháp Eiffel có mặt trong các thước phim của những đạo diễn nổi danh nhất. Thời kỳ đầu, tháp xuất hiện trong các bộ phim tài liệu như Panorama pendant l’ascension de la tour Eiffel của Louis Lumière năm 1897, Images de l’exposition 1900 của Georges Méliès năm 1900. Tác phẩm hư cấu đầu tiên với tháp Eiffel làm bối cảnh chính là bộ phim Paris qui dort (Paris ngủ) của René Clair năm 1923, dài 35 phút. Năm 1930, La Fin du monde (Thế giới chấm dứt) của Abel Gance là bộ phim dài đầu tiên về tháp Eiffel, thời lượng 1 tiếng 45 phút.
Từ những năm 1940, các nhà làm phim Hoa Kỳ bắt đầu quan tâm tới tháp Eiffel. Ernst Lubitsch, đạo diễn người Mỹ gốc Đức thực hiện Ninotchka với sự tham gia của Greta Garbo, sử dụng tháp Eiffel như một biểu tượng. Năm 1949, Burgess Meredith lần đầu tiên chuyển thể cuốn tiểu thuyết của Georges Simenon thành tác phẩm điện ảnh The Man on the Eiffel Tower (Người đàn ông trên tháp Eiffel).
Ngày 4 tháng 6 năm 1966, bộ phim truyền hình quan trọng đầu tiên về tháp, La Rose de fer (Bông hoa hồng thép), phần thứ 39 của loạt phim Cinq Dernières Minutes (Năm phút cuối cùng).
Từ những năm 1980, tháp Eiffel xuất hiện trong rất nhiều bộ phim Mỹ. Năm 1985, A View to a Kill, bộ phim thứ 14 về điệp viên 007 và là bộ phim James Bond cuối cùng của Roger Moore, lấy tháp Eiffel làm bối cảnh. Điện ảnh Mỹ ưa chuộng sử dụng hình ảnh tháp Eiffel bị phá hủy như biểu tượng cho Trái Đất bị đe dọa. Ngay từ năm 1953, trong bộ phim The War of the Worlds (Chiến tranh các thế giới), tháp Eiffel đã bị phá hủy. Cuối thế kỷ 20, hình ảnh này được các bộ phim khoa học viễn tưởng Independence Day, Mars Attacks! và Armageddon tiếp tục sử dụng.
Các loại hình khác
Sau hơn một thế kỷ tồn tại, hình ảnh công trình nổi tiếng này còn được sử dụng với nhiều mục đích, loại hình khác, như in trên tiền xu, tiền giấy, tem, bưu thiếp, trò chơi điện tử, truyện tranh…
Trong trò chơi chiến thuật thời gian thực Command & Conquer (1995), tháp Eiffel là một trong những mục tiêu của nhiệm vụ GDI (Global Defense Initiative). Năm năm sau đó, tháp tiếp tục xuất hiện trong phiên bản mới của trò chơi này. Trong trò chơi cho Playstation Twisted Metal 2 (1996), tháp Eiffel xuất hiện ở một trong 11 cấp độ, bài “Monumental Disaster” qua Paris. Công trình còn hiện diện trong nhiều trò khác như Onimusha 3: Demon Siege (2004), Evil Genius (2005) và Blazing Angels: Squadrons of WWII (2006).
Một trong những cuốn truyện tranh được biết đến nhiều nhất có sử dụng tháp Eiffel là Adèle Blanc-Sec, tập hai: Le Démon de la tour Eiffel của Jacques Tardi[34]. Tháp Eiffel cũng xuất hiện trong trang bìa Blake et Mortimer của Edgar P. Jacobs, tập 8 S.O.S. Météores[35].
Các sự việc liên quan tới tháp
Thể thao và những hành động mạo hiểm
Chiều cao và sự nổi tiếng khiến tháp Eiffel trở thành đích ngắm cho nhiều nhà thể thao trình diễn cũng như những người mạo hiểm thực hiện các hành động liều lĩnh.
Tháng 4 năm 1900, Henry Deutsch de la Meurthe treo giải thưởng 100.000 franc (tương đương 320.000 euro hiện nay) cho cỗ máy bay nào có thể thực hiện hành trình khứ hồi giữa Saint-Cloud với tháp Eiffel trong vòng dưới 30 phút và trước hạn định tháng 10 năm 1904. Ngày 19 tháng 10 năm 1901, Alberto Santos-Dumont đã thực hiện trong vòng 30 phút 42 giây với một kinh khí cầu và đoạt giải, chia sẻ cùng các cộng tác của mình[36].
Ngày 4 tháng 2 năm 1912, Franz Reichelt, một thợ may người Áo, quyết định nhảy từ tầng hai của tháp, trang bị một tấm dù tự chế[37]. Cú nhảy của Franz Reichelt được ghi hình và cuốn phim tài liệu dài khoảng vài chục giây hiện nay vẫn còn. Trong cuốn phim, Franz Reichelt bắt đầu xoay người, đối diện với máy quay, tự hào khoe “chiếc dù”, thực tế là một kiểu áo khoác đã được thay đổi. Franz Reichelt leo lên bép tầng hai, do dự một khoảng thời gian khá lâu, rồi quyết định nhảy và rơi rất nhanh, nằm bẹp trên mặt đất. Đám đông tò mò vây quanh chân tháp Eiffel để nhìn thi thể Reichelt và cái hố nhỏ để lại trên nền đất Champ-de-Mars. Khám nghiệm tử thi cho thấy Reichelt đã chết trước khi chạm đất bởi cơn chấn động tim. Franz Reichelt là người mở đầu cho danh sách dài những kẻ mạo hiểm muốn thử nhảy từ tháp Eiffel, trong đó một số đã mất mạng.
Mặc dù trong khi xây dựng chỉ có một tai nạn chết người – không phải tai nạn lao động – nhưng tới nay danh sách những người chết liên quan đến ngọn tháp được thống kê với đủ các lý do khác nhau. Từ khi bắt đầu tới nay, con số nạn nhân tử vong là 366 người, lý do: các cú thể thao thất bại, tai nạn, tự tử…[23] Từ nhiều thập kỷ, công ty khai thác tháp đã lắp đặt một hệ thống lưới để phòng ngừa các tai nạn cũng như ngăn chặn những kẻ mạo hiểm. Mặc dù vậy, nhiều người bất chấp nguy hiểm vẫn tìm cách vượt qua. Như ngày 17 tháng 5 năm 2005, một người Na Uy 31 tuổi đi cùng hai người bạn, tất cả đều là môn đồ của trò “base jump“, leo lên tháp. Vượt qua được lưới sắt, người đàn ông Na Uy này nhảy từ tầng ba xuống và chết vào lúc 22 giờ mặc dù có mang dù[38].
Một vài sự kiện thể thao liên quan tới Eiffel | ||
---|---|---|
![]() |
![]() |
![]() |
Alberto Santos-Dumont với kinh khí cầu số 6, 1901 | Forestier, “vô địch leo cầu thang”, 1905 | Franz Reichelt, “người bay”, 1912 |
Nhảy vào khoảng không | ||
|
||
Leo cầu thang | ||
|
||
Hàng không | ||
|
||
Xiếc | ||
|
Victor Lustig: “người bán tháp Eiffel”
Một trong những sự việc ghi dấu ấn nhất, không liên quan tới thể thao, là vụ lừa đảo của Victor Lustig. Vào năm 1925, Victor Lustig, có sự giúp đỡ của Dan Collins, biệt danh “Dapper Dan”, đã thành công trong việc lừa bán tháp Eiffel làm từng mảnh cho một người kinh doanh sắt phế liệu[39].
Đọc trên báo được tin tháp Eiffel có thể sẽ bị phá dỡ, Victor Lustig nảy ra ý định tạo một tài liệu giả được in dấu của Bộ Bưu điện và Điện báo thành lập tổ chức chịu trách nhiệm về tháp. Sau đó Lustig mời năm công ty quan trọng nhất về sắt phế liệu đến khách sạn sang trọng Crillon trên quảng trường Concorde cho một cuộc giao dịch kín. Victor Lustig đóng giả thứ trưởng còn Dapper Dan vai chánh văn phòng. Victor Lustig phát biểu với những đại diện của các công ty: “Thưa các ngài, chính phủ sẽ phải phá bỏ tháp Eiffel! Và các ngài tập hợp ở đây để nhận thầu công việc đó!”. Tiếp theo, Victor Lustig đưa các đại diện ra thăm tháp bằng xe limousine. Người cả tin nhất đã đồng ý ký cho Victor Lustig một tấm séc lớn, coi như quà lót tay.
Sau khi đã rút tiền từ tấm séc, hai kẻ lừa đảo trốn sang Áo. Một thời gian sau, cả hai cùng quay lại Paris với ý định tìm những nhà buôn sắt vụn khác. Nhưng vì cảnh sát theo dõi nên Victor Lustig cùng Dan Collins chạy sang New York.
Sự việc này được ghi lại trong cuốn sách The Man Who Sold the Eiffel Tower (Người đàn ông bán tháp Eiffel) của James F. Johnson và Floyd Miller, nhà xuất bản Doubleday phát hành năm 1961. Năm 1964, Claude Chabrol thực hiện bộ phim dựa trên câu chuyện này với tựa đề Les Plus Belles Escroqueries du monde (Cú lừa đẹp nhất thế giới).
Lượng khách viếng thăm
Sau thành công tức khắc của Triển lãm thế giới năm 1889, lượng khách thăm tháp Eiffel giảm xuống ngay năm tiếp theo. Con số gần như giảm liên tục trong mười năm cho tới Triển lãm thế giới năm 1900, đạt hơn một triệu khách. Lượng khách tụt xuống ngay năm 1901 rồi bắt đầu tăng chậm, khoảng từ 120.000 tới 260.000 cho đến năm 1914. Thời gian Thế chiến thứ nhất, từ 1915 đến 1918, tháp Eiffel đóng cửa.
Sau chiến tranh, từ 1919 tới 1939, tháp thu hút khoảng 480.000 khách mỗi năm và đạt đỉnh 800.000 vào 1931 khi diễn ra Triển lãm thuộc địa và 1937 với Triển lãm thế giới. Từ 1940 đến 1945, một lần nữa, tháp Eiffel phải đóng cửa bởi thế chiến.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tháp được mở cửa cho công chúng vào tháng 6 năm 1946 và lượng khách bắt đầu tăng trở lại. Năm 1963 là năm đầu tiên tháp Eiffel đạt hai triệu khách viếng thăm. Bắt đầu từ thời gian này, nhờ sự phát triển của du lịch quốc tế, lượng khách của tháp tăng đều đặn. Năm 1972, lần đầu tiên đạt con số 3 triệu khách, năm 1984 đến con số 4 triệu, 1989 lên tới 5 triệu và năm 1998 tháp đón 6 triệu khách.
Cho tới ngày 31 tháng 12 năm 2007, đã có 236.445.812 lượt khách bước chân lên tháp Eiffel. Con số 300 triệu khách sự đoán sẽ đạt tới vào năm 2017.
Một trong những công trình thu hút nhất thế giới
Năm 2007, tháp Eiffel đạt 6,893 triệu lượt khách, là công trình thu phí được viếng thăm nhiều nhất trên thế giới[40]. Tuy là biểu tượng nổi tiếng của Pháp, quốc gia đón lượng khách quốc tế nhiều nhất[41], nhưng tháp Eiffel không phải địa điểm đón tiếp nhiều du khách nhất. Nhà thờ Đức Bà Paris, địa điểm miễn phí đã thu hút 13,5 triệu lượt khách, đứng đầu nước Pháp[42]. Disneyland, công viên giải trí ở ngoại ô Paris, cũng thu hút 12,5 triệu lượt khách[43]. Mang tính chất du lịch, khác với công viên Disneyland, tháp Eiffel chỉ thu hút các du khách từ nơi khác tới thăm Paris. Lý do thu phí và thời gian xếp hàng mua vé cũng làm giảm bớt một số lượng lớn khách của tháp.
|
|
Thống kê lượng khách thăm tháp từng năm
Biểu đồ lượng khách của tháp Eiffel từ 1889 tới 2007[11] | |
Khách xếp hàng mua vé ở chân tháp |
Lượng khách thăm tháp Eiffel từng năm[11] | |||||||||||||
Năm | Lượng khách | Năm | Lượng khách | Năm | Lượng khách | Năm | Lượng khách | Năm | Lượng khách | Năm | Lượng khách | ||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1889 | 1 968 287 | 1909 | 181 574 | 1929 | 577 624 | 1949 | 1 143 046 | 1969 | 2 561 157 | 1989 | 5 580 363 | ||
1890 | 393 414 | 1910 | 203 803 | 1930 | 580 075 | 1950 | 1 026 631 | 1970 | 2 757 768 | 1990 | 5 698 613 | ||
1891 | 335 829 | 1911 | 204 168 | 1931 | 822 550 | 1951 | 1 129 637 | 1971 | 2 899 070 | 1991 | 5 442 346 | ||
1892 | 277 276 | 1912 | 258 950 | 1932 | 339 242 | 1952 | 1 250 094 | 1972 | 3 003 659 | 1992 | 5 747 357 | ||
1893 | 265 894 | 1913 | 261 337 | 1933 | 363 720 | 1953 | 1 204 371 | 1973 | 2 914 814 | 1993 | 5 537 155 | ||
1894 | 210 836 | 1914 | 152 725 | 1934 | 322 969 | 1954 | 1 301 152 | 1974 | 3 018 455 | 1994 | 5 419 462 | ||
1895 | 218 974 | 1915 | Đóng cửa | 1935 | 288 643 | 1955 | 1 435 192 | 1975 | 3 045 573 | 1995 | 5 212 677 | ||
1896 | 226 654 | 1916 | Đóng cửa | 1936 | 264 145 | 1956 | 1 476 400 | 1976 | 3 050 606 | 1996 | 5 530 279 | ||
1897 | 199 827 | 1917 | Đóng cửa | 1937 | 809 978 | 1957 | 1 632 647 | 1977 | 3 298 844 | 1997 | 5 719 773 | ||
1898 | 183 391 | 1918 | Đóng cửa | 1938 | 258 306 | 1958 | 1 591 005 | 1978 | 3 430 886 | 1998 | 6 051 603 | ||
1899 | 149 580 | 1919 | 311 714 | 1939 | 252 495 | 1959 | 1 668 558 | 1979 | 3 429 571 | 1999 | 6 368 534 | ||
1900 | 1 024 887 | 1920 | 417 869 | 1940 | Đóng cửa | 1960 | 1 735 230 | 1980 | 3 594 190 | 2000 | 6 315 324 | ||
1901 | 131 724 | 1921 | 426 635 | 1941 | Đóng cửa | 1961 | 1 763 448 | 1981 | 3 393 208 | 2001 | 6 103 987 | ||
1902 | 121 144 | 1922 | 422 172 | 1942 | Đóng cửa | 1962 | 1 735 796 | 1982 | 3 399 683 | 2002 | 6 157 042 | ||
1903 | 122 979 | 1923 | 551 444 | 1943 | Đóng cửa | 1963 | 2 013 594 | 1983 | 3 701 558 | 2003 | 5 864 969 | ||
1904 | 156 918 | 1924 | 585 730 | 1944 | Đóng cửa | 1964 | 2 143 173 | 1984 | 4 183 857 | 2004 | 6 230 050 | ||
1905 | 169 770 | 1925 | 631 758 | 1945 | Đóng cửa | 1965 | 2 295 193 | 1985 | 4 368 573 | 2005 | 6 428 441 | ||
1906 | 182 399 | 1926 | 657 004 | 1946 | 603 349 | 1966 | 2 405 554 | 1986 | 4 386 291 | 2006 | 6 719 200 | ||
1907 | 190 026 | 1927 | 555 087 | 1947 | 1 009 161 | 1967 | 2 416 502 | 1987 | 4 293 187 | 2007 | 6 893 000 | ||
1908 | 189 338 | 1928 | 634 819 | 1948 | 958 386 | 1968 | 2 070 417 | 1988 | 4 668 468 | 2008 | 6 930 000 |
Thống kê tổng lượng khách tính đến từng năm
Thống kê tổng lượng khách tính đến từng năm, trong đó hai khoảng thời gian Thế chiến thứ nhất và Thế chiến thứ hai tháp Eiffel đóng cửa. Tháng 6 năm 1946, tháp mở cửa trở lại.
Tổng lượng khách tính tới từng năm[11] | |||||||||||||
Năm | Lượng khách | Năm | Lượng khách | Năm | Lượng khách | Năm | Lượng khách | Năm | Lượng khách | Năm | Lượng khách | ||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1889 | 1 968 287 | 1909 | 6 900 721 | 1929 | 13 753 560 | 1949 | 21 769 625 | 1969 | 56 625 376 | 1989 | 129 044 000 | ||
1890 | 2 361 701 | 1910 | 7 104 524 | 1930 | 14 333 635 | 1950 | 22 796 256 | 1970 | 59 383 144 | 1990 | 134 742 613 | ||
1891 | 2 697 530 | 1911 | 7 308 692 | 1931 | 15 156 185 | 1951 | 23 925 893 | 1971 | 62 282 214 | 1991 | 140 184 959 | ||
1892 | 2 974 806 | 1912 | 7 567 642 | 1932 | 15 495 427 | 1952 | 25 175 987 | 1972 | 65 285 873 | 1992 | 145 932 316 | ||
1893 | 3 240 700 | 1913 | 7 828 979 | 1933 | 15 859 147 | 1953 | 26 380 358 | 1973 | 68 200 687 | 1993 | 151 469 471 | ||
1894 | 3 451 536 | 1914 | 7 981 704 | 1934 | 16 182 116 | 1954 | 27 681 510 | 1974 | 71 219 142 | 1994 | 156 888 933 | ||
1895 | 3 670 510 | 1915 | 7 981 704 | 1935 | 16 470 759 | 1955 | 29 116 702 | 1975 | 74 264 715 | 1995 | 162 101 610 | ||
1896 | 3 897 164 | 1916 | 7 981 704 | 1936 | 16 734 904 | 1956 | 30 593 102 | 1976 | 77 315 321 | 1996 | 167 631 889 | ||
1897 | 4 096 991 | 1917 | 7 981 704 | 1937 | 17 544 882 | 1957 | 32 225 749 | 1977 | 80 614 165 | 1997 | 173 351 662 | ||
1898 | 4 280 382 | 1918 | 7 981 704 | 1938 | 17 803 188 | 1958 | 33 816 754 | 1978 | 84 045 051 | 1998 | 179 403 265 | ||
1899 | 4 429 962 | 1919 | 8 293 418 | 1939 | 18 055 683 | 1959 | 35 485 312 | 1979 | 87 474 622 | 1999 | 185 771 799 | ||
1900 | 5 454 849 | 1920 | 8 711 287 | 1940 | 18 055 683 | 1960 | 37 220 542 | 1980 | 91 068 812 | 2000 | 192 087 123 | ||
1901 | 5 586 573 | 1921 | 9 137 922 | 1941 | 18 055 683 | 1961 | 38 983 990 | 1981 | 94 462 020 | 2001 | 198 191 110 | ||
1902 | 5 707 717 | 1922 | 9 560 094 | 1942 | 18 055 683 | 1962 | 40 719 786 | 1982 | 97 861 703 | 2002 | 204 348 152 | ||
1903 | 5 830 696 | 1923 | 10 111 538 | 1943 | 18 055 683 | 1963 | 42 733 380 | 1983 | 101 563 261 | 2003 | 210 213 121 | ||
1904 | 5 987 614 | 1924 | 10 697 268 | 1944 | 18 055 683 | 1964 | 44 876 553 | 1984 | 105 747 118 | 2004 | 216 443 171 | ||
1905 | 6 157 384 | 1925 | 11 329 026 | 1945 | 18 055 683 | 1965 | 47 171 746 | 1985 | 110 115 691 | 2005 | 222 871 612 | ||
1906 | 6 339 783 | 1926 | 11 986 030 | 1946 | 18 659 032 | 1966 | 49 577 300 | 1986 | 114 501 982 | 2006 | 229 623 812 | ||
1907 | 6 529 809 | 1927 | 12 541 117 | 1947 | 19 668 193 | 1967 | 51 993 802 | 1987 | 118 795 169 | 2007 | 236 445 812 | ||
1908 | 6 719 147 | 1928 | 13 175 936 | 1948 | 20 626 579 | 1968 | 54 064 219 | 1988 | 123 463 637 | 2008 | 243 376 000 |
Trạm phát sóng
Tháp Eiffel là trạm phát thanh sóng analog chính cho toàn vùng Paris. Ngoài ra, tháp cũng phát các sóng phát thanh FM, truyền hình analog và truyền hình kỹ thuật số.
Truyền thanh
Khoảng 30 chương trình FM được phát từ tháp, trong đó có:
Chương trình | Tần số | PER |
France Inter | 87,8 MHz | 3 kW |
Regional | 90,35 MHz | 3 kW |
France Culture | 93,35 MHz | 3 kW |
France Musique | 97,6 MHz | 3 kW |
Truyền hình
Từ ngày 31 tháng 3 năm 2005, truyền hình kỹ thuật số mặt đất được phát sóng từ tháp Eiffel.
Chương trình | Kênh | Tần số | PER |
Canal Plus | 6 | 182,25 MHz | 100 kW |
France 2 | 22 | 479,25 MHz | 500 kW |
TF1 | 25 | 503,25 MHz | 500 kW |
France 3 | 28 | 527,25 MHz | 500 kW |
France 5/Arte | 30 | 543,25 MHz | 100 kW |
M6 | 33 | 567,25 MHz | 100 kW |
Đài | Kênh |
R1 | 35 |
R2 | 21 |
R3 | 27 |
R4 | 24 |
R5 | – |
R6 | 32 |
Chú thích
- ^ “Identity card of the Eiffel Tower” (bằng (tiếng Pháp)). Tour-eiffel.fr. Ngày 31 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
- ^ “The documents” (bằng (tiếng Pháp)). Tour-eiffel.fr. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
- ^ “The structure of the Eiffel Tower and its evolution” (bằng (tiếng Pháp)). Tour-eiffel.fr. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
- ^ “Chronology of the main construction periods” (bằng (tiếng Pháp)). Tour-eiffel.fr. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênfdkfke
- ^ “Dictionary of technical terms” (bằng (tiếng Pháp)). Tour-eiffel.fr. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
- ^ (tiếng Pháp) http://www.tour-eiffel.fr/teiffel/uk/documentation/pdf/about_the%20Eiffel_Tower.pdf?id=4_11[liên kết hỏng]
- ^ “The Tower Operating Company” (bằng (tiếng Pháp)). Tour-eiffel.fr. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
- ^ “The Industrial Maintenance of the Tower” (bằng (tiếng Pháp)). Tour-eiffel.fr. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
- ^ [thế giới “Thế giới”] Kiểm tra giao thức
|url=
(trợ giúp). - ^ a ă â b La Fréquentation depuis 1889 trên trang chính thức của tháp Eiffel.
- ^ a ă L’Entreprise tour Eiffel trên trang chính thức của tháp Eiffel.
- ^ Giờ mở cửa và giá vé năm 2008 trên trang chính thức của tháp Eiffel.
- ^ Quelques chiffres trên trang chính thức của tháp Eiffel và Tour Eiffel en chiffres.
- ^ a ă â b La Tour Eiffel. Publiée par SEP-Trésors IDF, Le Parisien et les Éditions Fabbri, Septembre 2005.
- ^ Hình ảnh căn phòng trên trang chính thức của tháp Eiffel.
- ^ L’Invention de la tour Eiffel trên trang chính thức của tháp Eiffel.
- ^ Văn bản thỏa thuận ngày 8 tháng 1 năm 1887 giữa Gustave Eiffel, Eugène Poubelle và Édouard Lockroy
- ^ a ă La construction de la tour Eiffel trên trang chính thức của tháp Eiffel.
- ^ La tour Eiffel et la radio trên trang chính thức của tháp Eiffel.
- ^ Background – Secret history of Wembley – Brent Council
- ^ La tour dans le monde trên trang chính thức của tháp Eiffel
- ^ a ă Quid 2006. Cartes postales les plus vendues au monde et morts depuis la tour Eiffel depuis son inauguration.
- ^ Trang chính thức của Công ty Khai thác tháp Eiffel SETE
- ^ La penture de la tour Eiffel trên trang chính thức của tháp Eiffel
- ^ Les illuminations de la tour Eiffel trên trang chính thức của tháp Eiffel.
- ^ La tour Eiffel et les artistes trên trang chính thức của tháp Eiffel
- ^ La tour Eiffel de Delaunay trên trang của Trung tâm Pompidou.
- ^ NXB Christian Desbois, 80 trang, 30 x 24 cm, 2002, ISBN 2-910150-18-6
- ^ Le journal de la tour: 1962 trên trang chính thức của tháp Eiffel
- ^ Mục tiểu sử trên trang của Jean-Michel Jarre
- ^ Live à la tour Eiffel trên trang Johnny Hallyday Attitude
- ^ Các bức ảnh về Eiffel của Henri Cartier-Bresson, Robert Doisneau, André Kertész, Marc Riboud, Henri Silberman
- ^ NXB Casterman, 48 trang, 1976. ISBN 2-203-30502-9, hình bìa
- ^ Album cartonné, 63 pages couleurs, 1 x 24 x 31 cm, ISBN 2-87097-015-3.
- ^ Le journal de la tour: 1901 trên trang chính thức của tháp Eiffel.
- ^ Le journal de la tour: 1912 trên trang chính thức của tháp Eiffel.
- ^ Un Belge saute en parachute de la Tour Eiffel et s’en sort indemne trên Congoplus.
- ^ L’Homme qui a vendu la tour Eiffel và The Confidence Artists.
- ^ Nouveau record pour la Tour Eiffel trên Le Figaro ngày 13 tháng 2, 2008.
- ^ June 2007 issue, World Tourism Organization
- ^ Office du tourisme et des congrès de Paris – Observatoire économique du tourisme Parisien
- ^ Le marketing de l’expérience, levier du redécollage de Disneyland Paris trên La Poste
- ^ Les visiteur de la tour Eiffel en 2005 trên trang chính thức của tháp Eiffel.
- ^ Chiffres clés du tourisme 2004 en Île-de-France , trang 6-8. ORTIF
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Tháp Eiffel |
- Trang chính thức của Tháp Eiffel (tiếng Anh)
- Trang chính thức của Tháp Eiffel (tiếng Pháp)
Trước | Tháp Eiffel | Sau | |||
Tượng đài Washington, Washington DC, Hoa Kỳ |
|
Tòa nhà Chrysler, New York, Hoa Kỳ |
Lý Thái Tổ
Lý Thái Tổ 李太祖 |
|
---|---|
Hoàng đế Việt Nam (chi tiết…) | |
![]() Tượng Lý Thái Tổ tại Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, dựng năm 2004
|
|
Hoàng đế nhà Lý | |
Trị vì | 1009 – 1028 |
Tiền nhiệm | Sáng lập triều đại |
Kế nhiệm | Lý Thái Tông |
Thông tin chung | |
Thê thiếp | Linh Hiển hoàng hậu |
Tên thật | Lý Công Uẩn (李公蘊) |
Niên hiệu | Thuận Thiên (順天) |
Thụy hiệu | Phụng Thiên Chí Lý Ứng Vận Tự Tại Thánh Minh Long Hiện Duệ Văn Anh Vũ Sùng Nhân Quảng Hiếu Thiên Hạ Thái Bình Khâm Minh Quảng Trạch Chương Minh Vạn Bang Hiển Ứng Phù Cảm Uy Chấn Phiên Man Duệ Mưu Thần Trợ Thánh Trị Tắc Thiên Đạo Chính Thần Vũ Hoàng Đế 奉天至理應運自在聖明龍見睿文英武崇仁廣孝天下太平欽明光宅章明萬邦顯應符感威震藩蠻睿謀神功聖治則天道政神武皇帝 |
Miếu hiệu | Thái Tổ (太祖) |
Triều đại | Nhà Lý |
Thân phụ | Hiển Khánh vương |
Thân mẫu | Minh Đức thái hậu |
Sinh | 8 tháng 3, 974 Từ Sơn, Bắc Ninh |
Mất | 31 tháng 3, 1028 (54 tuổi) Long An điện, Thăng Long |
An táng | Thọ Lăng |
Tôn giáo | Phật giáo |
Lý Thái Tổ (chữ Hán: 李太祖, 8 tháng 3, 974 – 31 tháng 3, 1028), húy là Lý Công Uẩn (李公蘊), là vị Hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời năm 1028.
Dưới triều nhà Tiền Lê, ông làm quan đến chức Điện tiền chỉ huy sứ (殿前指揮使), là một chức quan võ chỉ huy quân đội bảo vệ kinh đô Hoa Lư (華閭) bấy giờ. Ông được lực lượng của Đào Cam Mộc (陶甘沐) và sư Vạn Hạnh (萬行) tôn làm vua sau khi vua Lê Long Đĩnh qua đời. Dưới triều ông, triều đình trung ương được củng cố, các thế lực phiến quân bị đánh dẹp, kinh đô được dời từ Hoa Lư về thành Đại La (大羅) vào tháng 7 năm Thuận Thiên thứ hai (1010), và thành này được đổi tên thành Thăng Long (昇龍).
Mục lục
Thân thế
Sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (甲戌), niên hiệu Thái Bình (太平) năm thứ 5 triều Đinh (丁) [1] (tức ngày 8 tháng 3 năm 974 Tây lịch), là người ở hương Diên Uẩn (延蘊), châu Cổ Pháp (古法), lộ Bắc Giang (北江) (nay ở làng Dương Lôi[2], phường Tân Hồng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh có đền thờ).[3] Mẹ ông họ Phạm (范). Khi lên ba tuổi, mẹ ông đem ông cho Lý Khánh Văn (李慶文), sư chùa Cổ Pháp (古法) làm con nuôi và đi tu từ đó. Đến bảy tuổi, ông được cha nuôi là Lý Khánh Văn gửi cho một người bạn – thiền sư nổi tiếng là Vạn Hạnh (萬行) dạy dỗ.
Lớn lên, với sự bảo hộ của sư Vạn Hạnh, ông vào kinh đô Hoa Lư (華閭) làm quan nhà Tiền Lê, thăng đến chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ (左親衛殿前指揮使). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ông là người khoan thứ nhân từ, có lượng đế vương. Các sử gia ghi chép không thống nhất về nguồn gốc và thân thế của ông[2][4][5]. Ông đã được sư Vạn Hạnh ở chùa Lục Tổ (六祖) khen như sau:
“ | Đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ. | ” |
—Sư Vạn Hạnh[1] |
Thời Tiền Lê
Lý Công Uẩn lớn lên thời Lê Đại Hành, ông theo giúp hoàng tử Lê Long Việt.
Năm 1005, Lê Đại Hành mất, các con tranh giành ngôi vua. Năm 1006, Lê Long Việt giành được ngôi báu, trở thành vua Lê Trung Tông. Nhưng chỉ được 3 ngày Trung Tông bị em là Lê Long Đĩnh giết hại giành ngôi. Lúc đó các quan đều sợ hãi bỏ chạy, chỉ có Lý Công Uẩn đến ôm xác Trung Tông khóc.
Lê Long Đĩnh không những không trị tội mà khen Lý Công Uẩn là người trung nghĩa, tiếp tục trọng dụng ông vào chức cho làm Tứ sương quân phó chỉ huy sứ, rồi sau đó thăng đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ.
Theo “Ngọc phả các vua triều Lê” ở các di tích cố đô Hoa Lư – Ninh Bình, Lý Công Uẩn hàng năm theo thiền sư Lý Vạn Hạnh vào hầu vua Lê ở thành Hoa Lư, Công Uẩn được vua yêu, cho ở lại kinh thành học tập quân sự. Vua lại gả con gái cả là Lê Thị. sinh ra Lý Phật Mã và đặc phong cho Công Uẩn làm Điện tiền cận vệ ở thành Hoa Lư. Dần dần, Công Uẩn thăng lên chức Điện tiền chỉ huy sứ. Chức ấy chỉ dành cho hoàng tộc hoặc quốc thích mới được trao. Chính nhờ vậy mà về sau, Lý Công Uẩn đã đem ngôi vua về cho họ Lý.[6]
Lên ngôi
Các bộ sử cổ của Việt Nam như như Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử Thông giám cương mục thống nhất chép rằng tháng 10 năm 1009, vua nhà Tiền Lê là Long Đĩnh mất, các con còn nhỏ, quan Điền tiền chỉ huy sứ là Lý Công Uẩn được sự ủng hộ của Chi nội là Đào Cam Mộc (陶甘沐) cùng thiền sư Vạn Hạnh đã lên ngôi hoàng đế; các quan trong triều đều nhất trí suy tôn[7][8]; thái hậu nhà Tiền Lê (vợ Lê Đại Hành) gọi ông vào cung mời lên ngôi vua[9].
Riêng trong sách Đại Việt sử ký tiền biên, sử gia Ngô Thì Sĩ ghi lại lời nghi vấn về việc Lý Công Uẩn giết Lê Long Đĩnh để đoạt ngôi[10]:
“ | Lý Thái Tổ rất căm phẫn trước tội ác giết anh cướp ngôi của Khai Minh Vương, nhân lúc Khai Minh Vương bệnh tật, sai người vào đầu độc giết đi rồi giấu kín việc đó, nên sử không được chép, nếu quả như vậy, cũng là đạo Trời hay báo, nên chép phụ vào để làm răn | ” |
—Đại Việt sử ký tiền biên |
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép thái độ của Lý Công Uẩn sau khi nghe Vạn Hạnh khuyên giành lấy ngai vàng, nhưng không nói tới việc giết Lê Long Đĩnh:
“ | Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo người anh em đem Vạn Hạnh giấu ở Tiêu Sơn. Song từ đấy cũng lấy thế tự phụ, mới nảy lòng ngấp nghé ngôi vua | ” |
—Đại Việt Sử ký Toàn thư[11]. |
Tuy nhiên, các bộ sử, kể cả Đại Việt sử ký tiền biên, đều ghi nhận việc trăm quan của triều đình cũ suy tôn Lý Công Uẩn khi ông lên ngôi và sử sách không ghi nhận một cuộc nổi dậy nào của những người nhân danh trung thành với nhà Tiền Lê để chống lại nhà Lý sau khi triều đại này hình thành.
Việt sử lược, quyển trung, “Nguyễn kỷ” (阮紀), “Thái Tổ” (太祖) có ghi chép:[12]
“Trong làng vua có cây bông gạo bị sét đánh, để dấu vết thành bài văn, trong đó có những câu:
- Nguyên văn Hán văn:
- 樹根杳杳
- 木表青青
- 禾刀木落
- 十八子成
- 震宮現日
- 兌宮隠星
- 六七日間
- 天下太平
- Phiên âm Hán Việt:
- Thụ căn yểu yểu
- Mộc biểu thanh thanh
- Hòa đao mộc lạc
- Thập bát tử thành
- Chấn cung hiện nhật
- Đoài cung ẩn tinh
- Lục thất niên gian
- Thiên hạ thái bình
- Nguyễn Gia Tường dịch thơ:
- Gốc rễ thăm thẳm
- Vỏ cây xanh xanh
- Lúa dao cây rụng
- Mười tám hạt thành
- Phương đông nhật mọc
- Phương tây sao tàn
- Khoảng sáu bảy năm
- Thiên hạ thái bình “
Theo phép chiết tự chữ Hán, mấy câu này ẩn ý nhà Lê sẽ mất (cây rụng) và nhà Lý (thập (十) + bát (八) + tử (子) thành chữ lý (李)) sẽ nổi lên. Sư Vạn Hạnh bèn nói với Lý Công Uẩn rằng: “Gần đây tôi thấy bài sấm văn lạ, biết nhà Lê đương mất mà nhà Lý đương lên. Họ Lý lại không có ai khoan hòa, nhơn hậu và trung thứ như ông, nên rất được lòng dân. Nay tuổi của tôi đã hơn 70 rồi, chỉ sợ không kịp thấy sự thịnh trị mà lấy làm giận”. Lý Công Uẩn sợ lời nói tiết lộ ra nên bảo Vạn Hạnh vào ẩn ở Ba Sơn”.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép bài thơ trên với đôi chút khác biệt, giữa câu “Thập bát tử thành” 十八子成 và “Chấn cung xuất nhật” 震宮出日 có thêm hai câu:
- Nguyên văn chữ Hán:
- 東阿入地
- 異木再生
- Phiên âm Hán Việt:
- Đông A nhập địa
- Dị mộc tái sinh
- Dịch nghĩa:
- Đông A vào đất
- Cây khác lại mọc lên
Hai câu này có lẽ là do người đời sau thêm vào. Trong đó chữ “trần” 陳 có nghĩa là họ Trần bị chiết tự sai thành “đông a” 東阿.
Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, Chính biên, Quyển I nêu lời phê về sấm truyền họ Lý sẽ làm vua như sau:
“ | Bờ cõi Bắc Nam tuy có khác, nhưng vận hội vẫn như nhau: nhà Lê thì có chuyện khoác áo long cổn, nhà Lý thì lời sấm truyền ghi trên thân cây, sao mà giống chuyện với bên Tống thế! Hay là người làm sử thấy thế, gò ép gán gẩm vào với nhau để cho thần dị câu chuyện, chứ trời kia có ý làm ra như thế đâu? | ” |
—Khâm định Việt sử Thông giám cương mục[13]. |
Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế tháng 11, ngày Quý Sửu, năm Kỷ Dậu[14] (tức 21 tháng 11 năm 1009), đặt niên hiệu là Thuận Thiên (順天), nghĩa là “theo ý trời”). Ông phong cha là Hiển Khánh Vương, mẹ là Minh Đức Thái hậu, chú là Vũ Đạo Vương, anh ruột là Vũ Uy Vương, em ruột là Dực Thánh Vương. Ông lập sáu vương hậu, con trưởng ông là Lý Phật Mã được phong Khai Thiên Vương, lập làm Thái tử. Các con trai khác của ông cũng được phong vương. Đồng thời, con gái lớn của ông là An Quốc công chúa Lý Thiềm Hoa được gả cho Đào Cam Mộc, Đào Cam Mộc cũng được phong Nghĩa Tín Hầu (義信侯).[12] Một người con gái khác là Lĩnh Nam công chúa là Lý Bảo Hòa cho động chủ Giáp Thừa Quý.
Trị vì
Dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long
Đối với Lý Công Uẩn, ý tưởng tái lập nơi đặt bộ máy điều hành đất nước ở vị trí trung tâm đồng bằng sông Hồng là trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa của đất nước đương thời hẳn đã hình thành từ lâu, nhưng thời điểm mang tính quyết định việc dời đô từ Hoa Lư về Đại La(大 羅) có xuất phát điểm là chuyến thăm quê vào mùa xuân năm 1010. Ngay sau khi lên ngôi, ông đã về thăm quê và hình thành rất nhanh quyết định dời đô.Lý Thái Tổ thấy đất Hoa Lư, cố đô của Đại Cồ Việt chật hẹp không có thể mở mang ra làm chỗ đô hội được, bèn định dời đô về thành Đại La (hay La Thành), ngày nay là Hà Nội. Quyết định rời bỏ hẳn một kinh đô từ vùng núi non hiểm trở ra vùng đồng bằng có thể cho thấy bản lĩnh và tầm nhìn của vị hoàng đế khai sáng ra triều Lý và thủ đô Hà Nội của Việt Nam. Trong Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu), Lý Thái Tổ khẳng định làm thế không phải theo ý riêng như các cựu triều Đinh và Tiền Lê, mà để mưu việc lớn, thấy thuận tiện thì thay đổi[15]. Cũng trong Chiếu dời đô, ông còn viết Thăng Long là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận:[1]
- Bề tôi đều nói: “Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo”. Vua cả mừng.
Tháng 7 năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) thì khởi sự dời đô. Khi ra đến La Thành, ông lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng bay lên trời nên đổi tên Đại La thành sang Thăng Long thành (昇龍城), và cải Hoa Lư làm Trường An phủ và Cổ Pháp làm Thiên Đức phủ.
Tôn giáo
Lý Thái Tổ vì xuất thân từ chùa chiền, nên sau khi lên ngôi rất hậu đãi giới tăng lữ. Vào năm 1010, sau khi đã dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, việc đầu tiên ông làm liền xuất ra 2 vạn quan để làm chùa ở phủ Thiên Đức (tức Cổ Pháp).[16]
Cùng năm, sau khi củng cố xây dựng Hoàng thành, ông lại chùa ngự Hưng Thiên và tinh lâu Ngũ Phượng. Ngoài thành về phía nam dựng chùa Thắng Nghiêm.
Tháng 6 năm Thuận Thiên thứ 9 (Mậu Ngọ 1018),[12] Lý Thái Tổ sai quan là Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc sang nhà Tống (Trung Quốc) thỉnh kinh Tam Tạng đem về để vào kho Đại Hưng.[17]
Về việc này, Lê Văn Hưu nhận xét:…Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể
Chính trị
Lúc bấy giờ nhà Tống của Trung Quốc bận nhiều việc nên không sinh sự lôi thôi gì với Đại Việt. Bởi vậy khi Lý Thái Tổ lên ngôi, sai sứ sang cầu phong, hoàng đế nhà Tống cho làm Giao Chỉ quận vương, sau lại gia phong làm Nam Bình vương vào năm 1017 (thời Tống Chân Tông). Các vương quốc láng giềng như Chiêm Thành và Chân Lạp đều sang triều cống, cho nên việc bang giao thời bấy giờ được yên trị. Năm Thuận Thiên thứ 11 (Canh Thân 1020), ông lệnh cho con đem quân đi đánh Chiêm Thành, và giành chiến thắng.[12]
Vua Thái Tổ lưu tâm về việc sửa sang trong nước: đổi phép cũ của nhà Tiền Lê; chia nước ra làm 24 lộ, gọi Hoan Châu và Ái Châu là trại. Năm 1013, lại định ra 6 hạng thuế là: thuế ruộng, đầm, ao; thuế đất trồng dâu và bãi phù sa; thuế sản vật ở núi; thuế mắm muối đi quan Ải quan; thuế sừng tê giác, ngà voi và hương ở trên mạn núi xuống; thuế tre gỗ hoa quả. Ông cho những bậc công chúa coi việc trưng thu các thứ thuế ấy.
Lý Thái Tổ còn thực hiện chính sách “thân dân”. Dưới triều ông, có nhiều lần nhân dân được xá thuế, chẳng hạn như tô thuế được xá 3 năm vào năm 1016. Đến năm 1017, tô ruộng cũng được xá.
Đánh dẹp
Ở trong nước cũng có đôi ba nơi nổi lên làm loạn, như ở Diễn Châu (thuộc Nghệ An) và ở mạn thượng du hay có sự phản nghịch, nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp mới yên được. Thời bấy giờ các hoàng tử đều phong tước vương và phải cầm quân ra chiến trường, bởi vậy ai cũng giỏi nghề dùng binh.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, tháng Hai năm Tân Hợi (1011), tức là năm Thuận Thiên thứ hai, vua Lý Thái Tổ mang sáu quân đi phạt quân Cử Long ở Ái Châu. Quân Cử Long thất bại, bộ lạc bị đốt và người cầm đầu bị bắt và giải về.
Tháng 10 năm Thuận Thiên thứ 4 (Quý Sửu 1013), vua Thái Tổ thân chinh đánh quân Man ở châu Vị Long, quân ông giành chiến thắng.
Có lần ông đem quân đi đánh Diễn Châu. Khi ông về tới Vũng Biện, theo Đại Việt sử ký toàn thư “trời đất tối sầm, gió sấm dữ dội”. Thấy vậy, ông đốt hương và khấn trời:
- “Tôi là người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ như sắp sa xuống vực sâu, không dám cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy. Chỉ vì người Diễn Châu không theo giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân, tội ác chồng chất, đến nay không thể dung tha không đánh. Còn như trong khi đánh nhau, hoặc giết oan kẻ trung hiếu, hoặc hại lầm kẻ hiền lương, đến nỗi hoàng thiên nổi giận phải tỏ cho biết lỗi lầm, dẫu gặp tổn hại cũng không dám oán trách. Đến như sáu quân thì tội lỗi có thể dung thứ, xin lòng trời soi xét”.
Sau khi ông khấn, gió sấm không còn dữ dội nữa và trở nên yên lặng.[1]
Năm Thuận Thiên thứ 5 (Giáp Dần 1014), được lệnh của Lý Thái Tổ, Dực Thánh Vương đánh dẹp quân Man. Theo Đại Việt Sử Lược, ở Lộ Kim Hoa, quân của Dự Thánh Vương đánh bại tướng Man là Đỗ Trương Huệ, chém vạn đầu giặc, bắt được quân sĩ và ngựa nhiều vô số. Ly Châu dâng con Kỳ Lân. Đổi phủ Ứng Thiên làm Nam Kinh. Chân Lạp sang cống. [12]
Năm Thuận Thiên thứ 13 (Nhâm Tuất 1022), ông ra lệnh cho Dực Thánh Vương đánh dẹp Đại Nguyên Lịch.
Năm Thuận Thiên thứ 15 (Giáp Tý 1024), Thái tử được lệnh ra quân đánh châu Phong Luân, còn Khai Quốc Vương thì đánh Châu Đô Kim. Thành Thăng Long được xây.
Năm Thuận Thiên thứ 18 (Mậu Thìn 1028), Thái tử lại được lệnh đánh châu Thất Nguyên, Đông Chinh Vương cũng đi đánh Châu Văn.[12]
Qua đời
Theo Đại Việt sử lược, năm Mậu Thìn 1028 (tức năm Thuận Thiên thứ 19), sức khỏe nhà vua không được tốt. Ông băng hà ở điện Long An[12] vào tháng 3, năm MậuMậu Tuất Thìn (tức ngày 31 tháng 3 năm 1028). Ông ở ngôi 19 năm, hưởng thọ 55 tuổi. Ông được táng ở Thọ Lăng, Thiên Đức phủ. Dâng miếu hiệu là Thái Tổ, thụy hiệu là Phụng Thiên Chí Lý Ứng Vận Tự Tại Thánh Minh Long Hiện Duệ Văn Anh Vũ Sùng Nhân Quảng Hiếu Thiên Hạ Thái Bình Khâm Minh Quảng Trạch Chương Minh Vạn Bang Hiển Ứng Phù Cảm Uy Chấn Phiên Man Duệ Mưu Thần Trợ Thánh Trị Tắc Thiên Đạo Chính Thần Vũ Hoàng Đế (奉天至理應運自在聖明龍見睿文英武崇仁廣孝天下太平欽明光宅章明萬邦顯應符感威震藩蠻睿謀神功聖治則天道政神武皇帝).
Nối ngôi
Khi Lý Thái Tổ vừa qua đời, việc tế táng lại chưa hoàn tất, thì ba hoàng tử Vũ Đức Vương, Dực Thánh Vương và Đông Chinh Vương cùng quân sĩ vây hãm thành, nhằm mục đích cướp ngôi Thái Tử.[17] Được sự giúp đỡ của Lê Phụng Hiểu,[18] Thái tử Lý Phật Mã lên nối ngôi, tức là vua Lý Thái Tông – vị vua thứ hai của nhà Lý.
Gia quyến
- Cha: Hiển Khánh vương Lý Thuần An (顯慶王 李淳安).
- Mẹ: Minh Đức thái hậu Phạm thị (明德太后 范氏).
- Anh em:
- Vũ Uy vương (武威王).
- Dực Thánh vương (翊聖王). Có sách ghi là con trai.[19]
- Hậu phi: Thái Tổ lập 9 hoàng hậu, trong đó có một số người được sử ghi danh hiệu[20]:
- Linh Hiển hoàng hậu (靈顯皇后, ? – ?), tên là Lê Phất Ngân (黎佛銀), có thuyết là con của Lê Hoàn, là mẹ của Thái tử Lý Phật Mã[21][22][23].
- Tá Quốc hoàng hậu (佐國皇后).
- Lập Nguyên hoàng hậu (立元皇后).
- Lập Giáo hoàng hậu (立教皇后).
Còn lại đều không rõ tên họ.
- Hậu duệ: Ít nhất 8 hoàng tử, 13 công chúa.
- Thái Tông hoàng đế Lý Phật Mã [李佛瑪], còn có tên là Lý Đức Chính [李德政], Khai Thiên vương Hoàng thái tử (開天王 皇太子), phong năm 1009. Mẹ Linh Hiển hoàng hậu.
- Khai Quốc vương Lý Bồ [開國王 李菩], phong năm 1013, ở phủ Trường Yên.
- Đông Chinh vương Lý Lực [東征王 李力], phong năm 1018.
- Vũ Đức vương (武德王, ? – 1028). Khởi đầu loạn Tam vương, bị Lê Phụng Hiểu chém chết.
- Uy Minh vương Lý Nhật Quang [李日光], còn có tên Lý Hoảng [李晃]. Theo《Việt Điện U Linh tập》, mẹ là Linh Hiển hoàng hậu.
- An Quốc công chúa (安國公主), gả cho Đào Cam Mộc (陶甘沐).
Nhận định
Các sử gia phong kiến Việt Nam theo quan điểm Nho giáo có chê trách ông ở mặt quá sùng tín vào đạo Phật, chê trách cơ cấu tổ chức của triều đình ông không phù hợp với quan niệm của họ.
Sử gia Lê Văn Hưu phê bình trong Đại Việt sử ký:
“ | Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể. Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là làm việc phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp, tự mình cần kiệm, còn lo cho con cháu xa xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại như thế, chả trách đời sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ Phật, lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy? | ” |
—sách này không còn, dẫn lại theo Đại Việt sử ký toàn thư.[1] |
Cũng trong Đại Việt sử ký, Lê Văn Hưu so sánh:
“ | Có người hỏi: Lê Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Thưa rằng: Kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn. Nhưng về mặt tỏ rõ ân uy, lòng người suy tôn, hưởng nước lâu dài, để phúc cho con cháu thì Lê Đại Hành không bằng Lý Thái Tổ lo tính lâu dài hơn. Thế thì Lý Thái Tổ hơn ư? Đáp: Hơn thì không biết, chỉ thấy đức của họ Lý dày hơn họ Lê, vì thế nên nói theo họ Lý. | ” |
—sách này không còn, dẫn lại theo Đại Việt Sử ký Toàn thư,[11] |
Sử thần Ngô Sĩ Liên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư bình rằng:
“ | Lý Thái Tổ dấy lên, trời mở điềm lành hiện ra ở vết cây sét đánh. Có đức tất có ngôi, bởi lòng người theo về, lại vừa sau lúc Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược mà vua thì vốn có tiếng khoan nhân, trời thường tìm chủ cho dân, dân theo về người có đức, nếu bỏ vua thì còn biết theo ai! Xem việc vua nhận mệnh sâu sắc lặng lẽ, dời đô yên nước, lòng nhân thương dân, lòng thành cảm trời, cùng là đánh dẹp phản loạn, Nam Bắc thông hiếu, thiên hạ bình yên, truyền ngôi lâu đời, có thể thấy là có mưu lược của bậc đế vương. Duy có việc ham thích đạo Phật, đạo Lão là chỗ kém. | ” |
—Đại Việt Sử Ký Toàn Thư[1]. |
Khâm định Việt sử Thông giám cương mục chính biên quyển thứ 2 nhận định:
“ | Nhà Lý được nước, cũng không phải chính nghĩa cho lắm, nhưng đương buổi Lê Ngoạ Triều, lòng người lìa tan, sinh dân vô chủ, không về với Công Uẩn còn biết theo ai? | ” |
—Khâm định Việt sử Thông giám cương mục [13]. |
Vinh danh
Lý Thái Tổ và các vị vua nhà Hậu Lý được thờ ở đền Đô tỉnh Bắc Ninh. Hiện nay, có một ngôi đền thờ riêng ông được xây dựng từ vốn các công trình 1000 năm Thăng Long do Hà Nội kết hợp với Ninh Bình là Đền Vua Lý Thái Tổ đặt tại trung tâm khu di tích Cố đô Hoa Lư.
Nhiều địa phương lấy tên ông đặt cho một số đường phố: đường Lý Thái Tổ ở Bắc Ninh, phố Lý Thái Tổ ở Hà Nội, phố Lý Công Uẩn ở Hải Dương… Tại Hà Nội và Bắc Ninh đều có dựng tượng đài ông.
Tiến tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, Ban Chỉ đạo quốc gia kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội và nhiều đơn vị đã lên kế hoạch làm phim về Lý Công Uẩn với quy mô lớn như các bộ phim Chiếu dời đô, Đường tới thành Thăng Long, người con của rồng,…
Năm 2004, một tượng đài Lý Thái Tổ được xây dựng tại trục đường Đinh Tiên Hoàng thuộc khu vực vườn hoa Chí Linh, Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội theo mẫu của nhà điêu khắc Vi Thị Hoa, bằng đồng (nặng 14 tấn, cao 3,3 m) thuộc dạng công trình chào mừng kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội. Tuy nhiên, theo một số ý kiến cho rằng “tượng vua nước Nam nhìn lại giống… Tần Thủy Hoàng“, với trang phục giống của Tần Thủy Hoàng và “khi rời đô về Thăng Long Lý Thái Tổ mới 36 tuổi nhưng gương mặt vua Lý trong tượng như ngoài 60″ [24]. Bà Vi Thi Hoa cho biết là không có tài liệu vật thể nào về khuôn mặt, trang phục của Lý Thái Tổ và “Chúng tôi sáng tác mang tính ước lệ”[24].
Tháng 8 năm 2011, chiếc tàu hộ tống mang tên lửa lớp Gepard 3.9 (Project 11661E) thứ hai của Hải quân nhân dân Việt Nam – HQ 012 – được đặt tên là Lý Thái Tổ.
Trong điện ảnh
Hình tượng Lý Công Uẩn đã được thể hiện qua nhiều bộ phim truyền hình và điện ảnh nhân dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội:
- Về đất Thăng Long: Lý Hùng
- Khát vọng Thăng Long: Quách Ngọc Ngoan
- Huyền sử thiên đô: Công Dũng
- Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long: Phạm Tiến Lộc
Xem thêm
![]() |
Wikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc của: |
Tài liệu tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Lý Thái Tổ |
- Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục Chính Biên Quyển thứ I
- ĐVSKTT quyển II – Kỷ Nhà Lý
- Việt Nam Sử Lược, Chương IV: Nhà Lý (1010 – 1225), tác giả Lệ thần Trần Trọng Kim
- Đại Việt Sử ký Toàn thư, Kỷ nhà Lý
- Đại Việt sử lược, quyển nhị: vua Thái Tổ
- Ngô Thì Sĩ (2011), Đại Việt sử ký tiền biên, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
Chú thích
- ^ a ă â b c d Đại Việt sử ký toàn thư, Bản Kỷ Toàn Thư, Quyển 2, Kỷ nhà Lý, Mục Thái Tổ Hoàng đế.
- ^ a ă Hiện các nhà sử học vẫn còn chưa có kết luận cuối cùng về làng nào trong số các làng thuộc hương Cổ Pháp là quê hương của Lý Công Uẩn. Nhà sử học Nguyễn Quang Ngọc có trích dẫn các nghiên cứu của nhà sử học Trần Quốc Vượng cho rằng quê cha của Lý Công Uẩn là làng Dương Lôi. Ngày nay ở đây vẫn còn đền thờ 8 vị vua nhà Lý. Làng có 8 giáp, mỗi giáp thờ 1 vị vua nhà Lý. Trần Quốc Vượng cũng xác định rằng mộ của Hiển Khánh Vương, cha của Lý Công Uẩn, nằm tại khu Rừng Miễu, làng Dương Lôi. Còn quê mẹ Lý Công Uẩn, cũng theo Nguyễn Quang Ngọc trích dẫn bia Lý gia linh thạch tại chùa Tiêu, là xã Hoa Lâm, Đông Ngàn, phủ Từ Sơn xưa (nay thuộc xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội). Khu Thọ Lăng (là nơi chôn cất các vua nhà Lý) xưa là nơi cả 3 làng Đình Bảng, Dương Lôi, và Đại Đình được giao chăm sóc, mới chỉ thuộc về địa phận của làng Đình Bảng khoảng 100 năm nay. (Nguyễn Quang Ngọc, Góp phần nhận diện lại quê hương Nhà Lý, tham luận tại hội thảo “Những phát hiện khảo cổ học mới ở Đông Anh (Hà Nội) và vấn đề quê hương nhà Lý”, Hà Nội, 27 tháng 12 năm 2008.)
- ^ Châu là đơn vị hành chính thời Lý như cấp huyện hiện nay. Châu Cổ Pháp tương ứng với vùng Từ Sơn, Tiên Du bây giờ. Hương Diên Uẩnkhông rõ là nơi nào trong châu Cổ Pháp.
- ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư, Bản kỷ, quyển II, Kỷ nhà Lý, Thái Tổ hoàng đế, trang 240 chép: “Thái Tổ hoàng đế, họ Lý, tên húy là Công Uẩn, người châu Cổ Pháp Bắc Giang, mẹ họ Phạm, đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với người thần giao hợp rồi có chửa, sinh vua ngày 12 tháng Hai năm Giáp Tuất (974), niên hiệu Thái Bình năm thứ 5 thời Đinh. Lớn lên làm quan nhà Lê, thăng đến chức Điện tiền chỉ huy sứ. Khi Ngọa Triều băng, tự lập làm vua… là người khoan thứ nhân từ, tinh tế hòa nhã có lượng đế vương. Song chưa làm sáng chính học, lại ưa thích dị đoan, bị lụy vì chuyện đó.“
- ^ Đại Việt sử ký tiền biên, bản kỷ, quyển II, trang 192 chép rằng: “Theo bài Tiêu Sơn tự ký thì Thái hậu cảm thụ tinh con khỉ bạch mà sinh ra vua ở chùa này, sư Vạn Hạnh đưa về nuôi. Theo ngoại truyện thì: mẹ vua năm 20 tuổi, do nghèo túng lam lũ không có chồng, nương tựa vào vị sa môn già ở chùa Ứng Thiên cho làm việc nấu bếp, đêm đêm dậy đồ xôi. Một hôm bà ngủ quên, lửa tắt, sa môn vô tình chạm phải, giật mình tỉnh dậy thấy lòng xáo trộn rồi có thai, bị sa môn đuổi đi, bà vào chùa khác, đủ tháng thì sinh ra vua… Vua lúc bé thông minh, vẻ người tuấn tú khác thường, khi 7 tuổi Khánh Văn gửi nhờ sư Vạn Hạnh ở chùa Lục Tổ dạy cho học“.
- ^ NGỌC PHẢ CÁC VUA TRIỀU LÊ, Trần Bá Chí, đăng trên Báo Hán Nôm của VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM – VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM, năm 2010
- ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư Bản kỷ, quyển II, Kỷ nhà Lý, Thái Tổ hoàng đế
- ^ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên quyển 2
- ^ Ngô Thì Sĩ, sách đã dẫn, tr 225
- ^ Ngô Thì Sĩ, sách đã dẫn, tr 223
- ^ a ă Đại Việt Sử ký Toàn thư, Bản kỷ, Kỷ nhà Lê, Đại Hành hoàng đế
- ^ a ă â b c d đ Đại Việt sử lược: Quyển nhị: Vua Thái Tổ
- ^ a ă Khâm Định Việt sử Thông giám Cương mục, Chính biên, quyển II
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Bản Kỷ Toàn Thư, Quyển 1, Kỷ nhà Lê, Mục Ngọa Triều Hoàng đế.
- ^ Chiếu dời đô có đoạn: Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời, theo nản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993.
- ^ ĐVSKTT Mùa thu, tháng 7, Thuận Thiên năm thứ 1 [1010], Xuống chiếu phát tiền kho 2 vạn quan, thuê thợ làm chùa ở phủ Thiên Đức, tất cả 8 sở, đều dựng bia ghi công”
- ^ a ă Việt Nam Sử Lược, Chương IV: Nhà Lý (1010 – 1225)
- ^ Theo Việt Nam Sử Lược, “Bấy giờ các quan là bọn Lý nhân Nghĩa xin Thái-tử cho đem quân ra thành quyết được thua một trận. Khi quân của Thái tử và quân các vương đối trận, thì quan Võ-vệ tướng-quân là Lê phụng Hiểu rút gươm ra chỉ vào Võ-đức-vương mà bảo rằng: “Các người dòm-ngó ngôi cao, khinh-dể tự-quân, trên quên ơn Tiên-đế, dưới trái nghĩa tôi con, vậy Phụng Hiểu xin dâng nhát gươm này!” Nói xong chạy xông vào chém Võ-đức-vương ở trận tiền. Quân các vương trông thấy sợ-hãi bỏ chạy cả. Dực-thánh-vương và Đông-chinh-vương cũng phải chạy trốn.”
- ^ [ĐVSKTT ghi: Soát lại việc Lý Công Uẩn phong tước ghi tại đây, ngờ toàn thư chép sót về người được phong là Dực Thánh Vương. Đại Việt sử lược (q.2, tờ 2b) ghi vua phong “cho anh làm Vũ Uy Vương, phong cho em làm Dực Thánh Vương”. Cương mục (CB2, 8a) không thấy dẫn Đại Việt sử lược, nhưng dẫn Nam Thiên trung nghĩa lục (của Phạm Phi Kiến) nói Dực Thánh Vương là con thứ của Lý Thái Tổ. Phối hợp cả Toàn thư ghi tại đây là Đại Việt sử lược, ngờ Cương mục chú nhầm.]
- ^ Lý Thái Tổ có đến…9 bà Hoàng hậu, PV – Báo Phụ nữ, ngày 06/06/2011
- ^ Sử không xác định bà có phải chính là một trong 3 người có danh hiệu Tá Quốc, Lập Nguyên và Lập Giáo hay không
- ^ 4 đền, chùa cầu duyên linh thiêng nức tiếng gần xa – 3. Chùa Duyên Ninh, Kim Giang, Tờ báo Công ty cổ phần truyền thông Việt Nam, ngày 09-02-2011
- ^ Vua Lý Thái Tổ làm rể vua Lê Đại Hành, Lê Thái Dũng, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, 13/09/2011
- ^ a ă Khó khởi công xây dựng tượng đài Lý Thái Tổ vào dịp 10/10
Liên kết ngoài
Xuân qua , Hạ tới. Chúc mừng Năm mới 2016 vui khỏe hạnh phúc
Hoàng Kim Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày
- Chào ngày mới 30 tháng 3
- Ấn tượng Obama
- Chào ngày mới 29 tháng 3
- Rừng Lipa
- Chào ngày mới 28 tháng 3
- Chào ngày mới 27 tháng 3
- Nhà tôi
- Chào ngày mới 26 tháng 3
- Chào ngày mới 25 tháng 3
- Chào ngày mới 24 tháng 3
- Chào ngày mới 23 tháng 3
- Chào ngày mới 22 tháng 3
- Đêm trắng và Bình minh
- Sông Mekong tài liệu tổng hợp
- Chào ngày mới 21 tháng 3
- Kiệt tác của tâm hồn
- Nhà tôi có chim về làm tổ
- Chào ngày mới 20 tháng 3
- Sông Mekong tài liệu tổng hợp
- Chào ngày mới 19 tháng 3
- Hoa Lúa
- Chào ngày mới 18 tháng 3
- Đọc lại và suy ngẫm
- Cây Lương thực 3.2016
- Đọc lại và suy ngẫm
- Cây Lương thực 3.2016
- Chào ngày mới 17 tháng 3
- Chào ngày mới 16 tháng 3
- 500 năm nông nghiệp Brazil
- Chào ngày mới 15 tháng 3
- Ngọc lục bảo Paulo Coelho
- Chào ngày mới 14 tháng 3
- Kiệt tác của tâm hồn
- Chào ngày mới 13 tháng 3
- Chào ngày mới 12 tháng 3
- Chào ngày mới 11 tháng 3
- 24 tiết khí lịch nhà nông
- Chào ngày mới 10 tháng 3
- Chào ngày mới 9 tháng 3
- Bên suối một nhành mai
- Lên đỉnh Mã Phì Lèng
- Chào ngày mới 8 tháng 3
- Đọc lại và suy ngẫm
- Tổ Quốc nhìn từ những kiệt tác
- Jackson bài ca sống mãi
- Chào ngày mới 7 tháng 3
- Đọc lại và suy ngẫm
- Chào ngày mới 6 tháng 3
- Đọc lại và suy ngẫm
- Truyện Joshep Stalin
- Đến với bài thơ hay
- Chào ngày mới 5 tháng 3
- Trí tuệ bậc Thầy
- Bên lề chính sử
- Chào ngày mới 4 tháng 3
- Dạo chơi non nước Việt
- Chào ngày mới 3 tháng 3
- Truyện Norodom Sihanouk
- Chào ngày mới 2 tháng 3
- Cây Lương thực 2.2016
- Vườn Quốc gia ở Việt Nam
- Chào ngày mới 1 tháng 3
Phim & Video yêu thích