CNM365. Chào ngày mới 30 tháng 4. Wikipedia Ngày này năm xưa. Việt Nam – Ngày chấm dứt Chiến tranh Việt Nam. Khối các nước Bắc Âu Scandinavia (bao gồm Đan Mạch, Na Uy, Thuỵ Điển, Phần Lan, Iceland; đảo Greenland, quần đảo Faroe thuộc Đan Mạch) – Ngày lễ hội mừng Xuân đến, Đêm Walpurgis. Năm 1789 – George Washington đọc lời tuyên thệ nhậm chức Tổng thống dân cử đầu tiên của Hoa Kỳ, trên ban công Tòa nhà Liên bang trên Phố Wall tại thành phố New York, .
30 tháng 4
Ngày 30 tháng 4 là ngày thứ 120 trong mỗi năm thường (thứ 121 trong mỗi năm nhuận). Còn 245 ngày nữa trong năm.
« Tháng 4 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | |||
5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 |
12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 |
19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 |
26 | 27 | 28 | 29 | 30 | ||
Mục lục
Sự kiện
- 313 – Hoàng đế Licinius đánh bại Maximinus II trong trận Tzirallum và thống nhất Đế quốc Đông La Mã.
- 502 – Lương vương Tiêu Diễn tức hoàng đế vị, khởi đầu triều Lương, sau đó giáng Nam Tề Hòa Đế Tiêu Bảo Dung làm Ba Lăng vương, tức ngày Bính Dần (8) tháng 4 năm Nhâm Ngọ.
- 932 – Mân vương Vương Diên Quân phục vị sau một thời gian làm đạo sĩ, tức ngày Giáp Thìn (22) tháng 3 năm Nhâm Thìn.
- 1492 – Tây Ban Nha ủy nhiệm việc thám hiểm cho Cristoforo Colombo.
- 1789 – Trên ban công Tòa nhà Liên bang trên Phố Wall tại thành phố New York, George Washington đọc lời tuyên thệ nhậm chức Tổng thống dân cử đầu tiên của Hoa Kỳ.
- 1803 – Hoa Kỳ mua lại Lãnh thổ Louisiana rộng lớn mà Pháp tuyên bố chủ quyền với giá 78 triệu Franc Pháp.
- 1812 – Lãnh thổ Orleans trở thành tiểu bang thứ 18 của Hoa Kỳ với tên Louisiana.
- 1888 – Ito Hirobumi trở thành chủ tịch đầu tiên của Xu mật viện Nhật Bản.
- 1994 – Chiến tranh Nga-Nhật: Trận sông Áp Lục bắt đầu.
- 1941 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Trận Hy Lạp kết thúc với thắng lợi quyết định của phe Trục.
- 1945 – Adolf Hitler và Eva Braun cùng tự sát sau khi kết hôn chỉ được một ngày. Liên Xô cắm quốc kỳ trên nóc Tòa nhà quốc hội Đức.
- 1948 – Tổ chức các quốc gia châu Mỹ được hình thành tại Bogotá, Colombia.
- 1949 – Chiến tranh Đông Dương: Việt Minh quyết định kết thúc Chiến dịch Cao-Bắc-Lạng.
- 1975 – Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975: Lực lượng cộng sản chiếm giữ Sài Gòn, Chiến tranh Việt Nam kết thúc với việc Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện.
- 1993 – CERN tuyên bố rằng World Wide Web sẽ phục vụ miễn phí.
- 1999 – Campuchia gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, nâng tổng số hội viên của tổ chức này lên 10.
- 1999 – Số hội viên NATO tăng lên khi Cộng hoà Séc, Hungary và Ba Lan chính thức gia nhập.
- 2009 – Bảy người thiệt mạng và 17 người bị thương trong vụ tấn công tại Apeldoorn, Hà Lan trong một nỗ lực nhằm ám sát Nữ vương Beatrix của Hà Lan.
- 2009 – Thảm sát Học viện Dầu mỏ Azerbaijan: 12 bị thiệt mạng trong cuộc tấn công của những phần tử vũ trang.
- 2013 – Nữ vương Beatrix của Hà Lan thoái vị, Willem-Alexander trở thành quân chủ mới của quốc gia.
- 2014 – 3 người chết và 79 người bị thương trong vụ khủng bố bằng dao và nổ bom tại khu chợ trời ở Urumqi, thủ phủ khu tự trị Tân Cương.
Sinh
- 1245 – Philippe III, quốc vương của Pháp (m. 1285)
- 1651 – Gioan La San, linh mục, nhà cải cách giáo dục người Pháp (m. 1719)
- 1662 – Mary II, nữ vương của, Scotland và Ireland (m. 1694)
- 1777 – Carl Friedrich Gauß, nhà toán học người Đức (m. 1855)
- 1803 – Albrecht von Roon, sĩ quan và chính trị gia người Đức (m. 1879)
- 1870 – Franz Lehár, nhà soạn nhạc người Slovak-Áo (m. 1948)
- 1888 – Antonio Sant’Elia, kiến trúc sư người Ý (m. 1916)
- 1901 – Simon Kuznets, nhà kinh tế học người Ukraina-Mỹ, đoạt giải Nobel (m. 1985)
- 1902 – Theodore Schultz, nhà kinh tế học người Mỹ, đoạt giải Nobel (m. 1998)
- 1904 – Nhậm Bật Thời, nhà lãnh đạo quân sự và chính trị người Trung Quốc (m. 1950)
- 1909 – Juliana, nữ vương của Hà Lan (m. 2004)
- 1911 – Phùng Há, diễn viên cải lương người Việt Nam (m. 2009)
- 1914 – Trần Hiệu, nhà hoạt động và chính trị gia người Việt Nam (m. 1997)
- 1916 – Claude Shannon, nhà toán học và kỹ sư người Mỹ (m. 2001)
- 1920 – Hoàng Cầm, tướng lĩnh người Việt Nam (m. 2013)
- 1946 – Carl XVI Gustaf, quốc vương của Thụy Điển
- 1948 – Robert Tarjan, nhà khoa học máy tính người Mỹ
- 1954 – Jane Campion, đạo diễn, nhà sản xuất, nhà biên kịch người New Zealand
- 1956 – Lars von Trier, đạo diễn và nhà biên kịch người Đan Mạch
- 1956 – Nguyễn Quang Lập, nhà văn, nhà biên kịch người Việt Nam
- 1958 – Lương Chi Mai, nhà khoa học máy tính người Việt Nam
- 1959 – Stephen Harper, Thủ tướng Canada
- 1961 – Franky Van der Elst, cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người Bỉ
- 1962 – Maehara Seiji, chính trị gia người Nhật Bản
- 1967 – Philipp Bedrosovich Kirkorov, ca sĩ người Bulgaria-Armenia-Nga
- 1972 – Tokiwa Takako, diễn viên người Nhật Bản
- 1973 – Akon, ca sĩ người Senegal-Mỹ
- 1981 – John O’Shea, cầu thủ bóng đá người Ireland
- 1982 – Kirsten Dunst, diễn viên và ca sĩ người Mỹ
- 1982 – Drew Seeley,ca sĩ, vũ công, diễn viên người Canada-Mỹ
- 1985 – Ashley Alexandra Dupre, nhà bình luận, ca sĩ, gái gọi người Mỹ
- 1986 – Dianna Agron, diễn viên, ca sĩ, vũ công người Mỹ
- 1989 – Wooyoung, ca sĩ, vũ công, diễn viên người Hàn Quốc (2PM)
- 1992 – Marc-André ter Stegen, cầu thủ bóng đá người Đức
Mất
- 1030 – Mahmud của Ghazni, sultan của đế quốc Ghaznavid (s. 971)
- 1063 – Triệu Trinh, tức Tống Nhân Tông, hoàng đế của triều Tống, tức ngày Tân Mùi (29) tháng 3 năm Quý Mão (s. 1010)
- 1687 – Nguyễn Phúc Tần, chúa Nguyễn, tức 19 tháng 3 năm Đinh Mão (s. 1648)
- 1870 – Nguyễn Phúc Miên Thẩm, thành viên hoàng thất và thi sĩ triều Nguyễn, tức 30 tháng 3 năm Canh Ngọ (s. 1819)
- 1883 – Édouard Manet, họa sĩ người Pháp (s. 1832)
- 1945 – Eva Braun, vợ của Adolf Hitler (s. 1912)
- 1945 – Adolf Hitler, chính trị gia người Áo-Đức, Thủ tướng Đức (s. 1889)
- 1960 – Nguyễn Lộc, võ sư người Việt Nam (s. 1912)
- 1975 – Nguyễn Khoa Nam, tướng lĩnh người Việt Nam (s. 1927)
- 1975 – Lê Văn Hưng, tướng lĩnh người Việt Nam (s. 1933)
- 1975 – Phạm Văn Phú, tướng lĩnh người Việt Nam (s. 1929)
- 1975 – Lê Nguyên Vỹ, tướng lĩnh người Việt Nam (s. 1933)
- 1975 – Trần Văn Hai, tướng lĩnh người Việt Nam (s. 1929)
- 1995 – Hoài Linh, nhạc sĩ người Việt Nam (s. 1925)
- 2000 – Poul Hartling, Thủ tướng Đan Mạch (s. 1914)
- 2009 – Nguyễn Văn Tuyên, nhạc sĩ người Việt Nam (s. 1909)
- 2011 – Saif al-Arab al-Gaddafi, sĩ quan người Libya (s. 1982)
Những ngày lễ và ngày kỷ niệm
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 30 tháng 4 |
- Scandinavia – Xuân đến, Đêm Walpurgis
- Thuỵ Điển – Sinh nhật Vua Carl XVI Gustav
- Hà Lan – Ngày Nữ Hoàng
- Đế quốc La Mã – ngày thứ ba trong Floralia, lễ thờ phụng nữ thần Flora
- Đêm Bealtaine
- Việt Nam – Ngày chấm dứt Chiến tranh Việt Nam
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Tham khảo
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975
|
|
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, thường được gọi là 30 tháng Tư, ngày giải phóng miền Nam, ngày Thống Nhất (tên gọi tại Việt Nam) hay ngày miền Nam sụp đổ (báo chí Tây phương gọi là Sài Gòn thất thủ, Fall of Saigon), Ngày Quốc Hận và Tháng Tư Đen[4][5][6][7] trong cộng đồng người Việt tị nạn, là sự kiện chấm dứt Chiến tranh Việt Nam khi tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh cùng nội các bị bắt tại chỗ và phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện các lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày này là kết quả trực tiếp của Chiến dịch Mùa Xuân năm 1975 và là một mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam.
Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh, theo tên của cố Chủ tịch Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Hồ Chí Minh. Sự kiện 30 tháng 4 diễn ra sau khi tất cả công dân và lính Mỹ cùng với hàng ngàn người Việt ở miền Nam Việt Nam di tản khỏi Sài Gòn. Vì nhiều người tị nạn đã di tản và chính phủ Việt Nam Xã hội chủ nghĩa đã áp dụng luật mới góp phần làm cho dân số thành phố giảm xuống sau đó.
Mục lục
Các sự kiện dẫn đến 30 tháng 4
Sau Hiệp định Paris tinh thần và khả năng của quân đội Việt Nam Cộng hòa suy giảm nghiêm trọng nhất là sau khi Richard Nixon từ chức vì vụ Watergate, vào tháng 8 năm 1974.
Sự cắt giảm viện trợ từ Hoa Kỳ
Sau khi quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa đã cắt giảm nhiều:
- Tài khóa 1973: 2,1 tỷ USD
- Tài khóa 1974: 1,4 tỷ USD
- Tài khóa 1975: 0,7 tỷ USD
Theo lời kể của ông Nguyễn Tiến Hưng, Tổng trưởng Kế hoạch của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ, thì Giáo sư Warren Nutter là cựu Phụ tá Tổng trưởng quốc phòng, đặc trách phần tài chính của chương trình “Việt Nam hóa”. Khi dự điểm tâm với Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu vào sáng ngày 23 tháng Tám năm 1974 tại Dinh Độc Lập, ông Thiệu bày tỏ sự lo ngại về viện trợ:
- Mới vài ngày trước đây là một tỷ, bây giờ còn 700 triệu, tôi làm gì được với số tiền này? Như là chuyện cho tôi 12 đô la và bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất từ Sài gòn đi Tokyo
Giáo sư Nutter cũng rất bối rối và giải thích hành động của Quốc hội:
- Quốc hội Hoa Kỳ đôi khi hành động vô trách nhiệm như vậy… Cái Trung Tâm Tài Nguyên Đông Dương (Indochina Resource Center, 1 trung tâm của những người phản chiến) đang hết sức tìm cách tiêu diệt quý quốc
Sau này, trong tập hồi ký Mùa Xuân Đại Thắng, Đại tướng Văn Tiến Dũng của Quân đội nhân dân Việt Nam đã viết về động cơ thúc đẩy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tổng tấn công ở miền Nam là do Mỹ đã giảm viện trợ làm cho kế hoạch tác chiến và xây dựng lực lượng quân lực Việt Nam Cộng hòa không thể thực hiện theo như ý muốn. Đó là vì “hỏa lực đã sút giảm gần 60% vì thiếu bom, đạn; khả năng di động cũng giảm đi 50% vì thiếu máy bay, xe cộ, và nhiên liệu.”[8]
Sự suy yếu của Việt Nam Cộng hòa
Theo hồi ký của Đại tướng Văn Tiến Dũng thì cục diện chiến trường đang chuyển biến ngày càng bất lợi cho quân lực Việt Nam Cộng hoà. Tại Khu 9, các cuộc hành quân lấn chiếm bị thất bại, hơn 2.000 đồn bốt bị phá, 400 ấp chiến lược với gần 800.000 dân bị quân Giải phóng xóa bỏ. Khu 8 có hơn 200 ấp chiến lược với hơn 130.000 dân bị xóa bỏ. Tại Khu 5, quân Giải phóng đã chuyển lên thế tiến công ngày càng mạnh, mở rộng bàn đạp vùng giáp ranh (Nông Sơn, Thượng Đức, Tuy Phước, Minh Long, Giá Vụt), xoá hẳn gần 800 đồn bốt, giải phóng 250 ấp với 200.000 dân.[9]
Trong hồi ký của mình, Đại tướng Văn Tiến Dũng cho rằng tinh thần và sức chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng hoà giảm sút rõ rệt. Do Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ, nhiều binh sĩ mất chỗ dựa tinh thần từ lâu nay (được cường quốc số 1 hỗ trợ), nền kinh tế thì ngày càng khó khăn do kinh tế khủng hoảng và nạn lạm phát 300% trong năm 1974. Có 170.000 lính đào ngũ, rã ngũ trong năm 1974, dù tăng cường thêm lính quân dịch thì tổng số quân vẫn giảm 20.000 so với năm 1973. Cuối 1974, quân Giải phóng chủ lực của miền Đông Nam Bộ phối hợp với lực lượng của địa phương mở chiến dịch Đường 14 – Phước Long giành thắng lợi lớn. Trong hơn 20 ngày quân Giải phóng đã diệt và bắt trên 5.400 lính, thu 3.000 súng các loại, giải phóng thị xã Phước Long và toàn tỉnh Phước Long. Chiến bại này đánh dấu một bước suy sụp mới của quân Sài Gòn. Quân chủ lực của VNCH đã không còn đủ sức hành quân giải toả quy mô lớn để lấy lại các vùng, các căn cứ và thị xã quan trọng trên các địa bàn giáp ranh, dù Phước Long chỉ cách Sài Gòn 50 km.[9]
Diễn biến chính trị và quân sự
Tổng thống Gerald Ford không thuyết phục được Quốc hội Hoa Kỳ chi thêm ngân sách cho chiến trường Việt Nam. Theo Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, đầu năm 1975, sau hai năm ký hiệp định đình chiến, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã huy động gần như toàn bộ[10] lực lượng chủ lực 270 ngàn người của mình,[11] mở cuộc tấn công lớn trên toàn miền Nam Việt Nam, bắt đầu là ở Tây Nguyên. Buôn Ma Thuột thất thủ gây chấn động hệ thống phòng thủ của quân đội Việt Nam Cộng hòa và là khởi đầu của những chiến dịch nối tiếp nhau.
Ngày 23 tháng 3, Tổng thống Thiệu nhận được thư của Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford.
- Nhà Trắng
- Ngày 22 tháng Ba, 1975
- Thưa Tổng thống,
- Cuộc tấn công hiện nay của Bắc Việt Nam chống lại quý quốc thật vô cùng xáo trộn khiến riêng cá nhân tôi lo âu. Theo quan điểm của tôi, thì cuộc tấn công của Hà Nội tượng trưng cho một sự việc không kém gì sự huỷ bỏ Hiệp định Paris bằng vũ lực.
- Biến chuyển này mang theo hậu quả nghiêm trọng nhất cho cả hai dân tộc chúng ta. Đối với Ngài và nhân dân Ngài thì dây là lúc hy sinh lớn nhất, nó sẽ quyết định chính số phận quý quốc. Tôi tin tưởng rằng dưới quyền lãnh đạo của Ngài, quân lực và nhân dân VNCH sẽ tiếp tục công cuộc bảo vệ kiên trì chống lại vụ xâm lược mới này. Tôi cũng tin tưởng chắc chắn rằng nếu có được sự yểm trợ bổ túc từ bên ngoài vào thì quý quốc sẽ thắng thế trong cuộc đấu tranh giành quyền tự quyết của mình.
- Riêng đối với Hoa kỳ thì vấn đề cũng không kém phần cấp bách.
- Khi hành động như thế này, Hà Nội đang tìm cách huỷ diệt tất cả những gì mà chúng ta đã chiến đấu để thành đạt, với phí tổn vô cùng to lớn, suốt mười năm qua
- Sự quyết tâm của Hoa kỳ để yểm trợ một người bạn đang bị các lực lượng (Bắc Việt) với vũ khí hùng mạnh tấn công, hoàn toàn vi phạm một thoả ước quốc tế (đã được ký kết) long trọng, là một điều hết sức cần thiết.
- Riêng tôi, tôi quyết tâm rằng Hoa kỳ sẽ đứng vững sau lưng Việt Nam cộng hoà trong giờ phút tối quan trọng này. Với mục đích tôn trọng những bổn phận của Hoa kỳ trong tình thế này, tôi đang theo dõi những biến chuyển với chủ tâm cao độ nhất và đang khẩn cấp tham khảo ý kiến các cố vấn của tôi về những hành động mà tình thế có thể đòi hỏi và pháp luật cho phép. Về việc cung ứng viện trợ quân sự đầy đủ cho quân đội Ngài, xin Ngài yên tâm là tôi sẽ cố tâm nỗ lực để thoả mãn những nhu cầu vật chất của Ngài trên chiến trường.
- Trước khi chấm dứt, tôi xin được nhắc lại một lần nữa lòng cảm phục liên tục của tôi đối với quyết tâm của Ngài và đối với sức bền bỉ và sự anh dũng của nhân dân Việt Nam Cộng Hòa.
- Kính thư,
- (kí) Gerald R. Ford[12]
Dù là nói tới quyết tâm ủng hộ nhưng người thảo bức thư đã khôn khéo gài vào: “(tôi) đang khẩn cấp tham khảo ý kiến các cố vấn về những hành động mà tình thế có thể đòi hỏi và pháp luật cho phép”.[12]
Loạt bài Chiến tranh Việt Nam |
---|
Giai đoạn 1954–1959 |
Thuyết Domino |
Hoa Kỳ can thiệp |
Miền Bắc – Miền Nam |
Giai đoạn 1960–1965 |
Diễn biến Quốc tế – Miền Nam |
Kế hoạch Staley-Taylor |
Chiến tranh đặc biệt |
Đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm |
Giai đoạn 1965–1968 |
Miền Bắc Chiến dịch: Sự kiện Vịnh Bắc Bộ Mũi Tên Xuyên –Sấm Rền |
Miền Nam Chiến tranh cục bộ Chiến dịch: Các chiến dịch Tìm-Diệt Phượng Hoàng –Tết Mậu Thân, 1968 |
Diễn biến Quốc tế |
Giai đoạn 1968–1972 |
Diễn biến Quốc tế |
Việt Nam hóa chiến tranh |
Hội nghị Paris |
Hiệp định Paris |
Chiến dịch: Lam Sơn 719 – Chiến cục năm 1972 – Hè 1972 –Mặt trận phòng không 1972 –Phòng không Hà Nội 12 ngày đêm |
Giai đoạn 1973–1975 |
Chiến dịch: Xuân 1975 Phước Long |
Tây Nguyên –Huế – Đà Nẵng Phan Rang – Xuân Lộc |
Hồ Chí Minh |
Trường Sa và các đảo trên Biển Đông |
Sự kiện 30 tháng 4, 1975 |
Hậu quả chiến tranh |
Tổn thất nhân mạng |
Tội ác của Hoa Kỳ và đồng minh |
Chất độc da cam |
Thuyền nhân |
sửatiêu bản |
Ngày 23 tháng 3, Huế rơi vào tay Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trong khi ở Đà Nẵng, hàng ngàn dân thường và binh lính tìm cách chạy thoát bằng đường biển khỏi thành phố đang bị bao vây và nã pháo. Trong 4 sư đoàn bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, 4 liên đoàn Biệt động quân, lữ đoàn thiết giáp, sư đoàn không quân, tổng cộng 12 vạn quân và hàng ngàn nhân viên quân sự và địa phương quân, chỉ có 16.000 rút được.[13] Trong số gần 2 triệu dân thường dồn lại tại Đà Nẵng từ cuối tháng 3, chỉ có hơn 50.000 sơ tán được bằng đường thủy.[14] Còn lại là 70.000 binh sĩ VNCH bị bắt làm tù binh.[15] Ngoài ra 33 máy bay phản lực A-37 còn nguyên vẹn cùng gần 60 máy bay khác tại căn cứ không quân Phù Cát cũng bị bỏ lại.[16] Trong cuộc sụp đổ của Đà Nẵng, không có một trận chiến nào. Khi Quân Giải phóng tiến vào thành phố, không mấy binh sĩ VNCH đóng quanh thành phố chống cự.[17] Các trung tâm phòng thủ còn lại dọc theo bờ biển cũng nhanh chóng tan vỡ dây chuyền: Quảng Ngãi ngày 24 tháng 3; Quy Nhơn và Nha Trang ngày 1 tháng 4; và cảng Cam Ranh ngày 3 tháng 4.[18]
Trong nửa đầu tháng 4, với Quân đoàn 2 của quân Giải phóng từ phía bắc tiến vào và quân đoàn 3 từ Tây Nguyên đổ xuống, các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa lần lượt rơi vào tay Quân Giải phóng.
Ngày 9 tháng 4, Quân đoàn 4 Quân giải phóng định đánh chiếm huyện Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai trên hành tiến – tuyến phòng thủ từ xa cuối cùng của Sài Gòn – nhưng Sư đoàn 18 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã kháng cự ác liệt có tổ chức để giữ vững được thị xã. Đây là trận đánh dài ngày có tổ chức cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trận Xuân Lộc đã gây thương vong rất lớn cho cả hai bên.
Ngày 17 tháng 4, Thượng viện Hoa Kỳ từ chối khoản viện trợ khẩn cấp trị giá 722 triệu Mỹ kim mà chính phủ Gerald Ford đề nghị. Tuy không ai tin rằng viện trợ Mỹ có thể xoay chuyển tình thế, một số chuyên viên như Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger hy vọng rằng ngân khoản đó có thể giúp Việt Nam Cộng Hòa lấy lại được đủ vị thế về quân sự để thuyết phục đối phương ngừng tiến quân và đàm phán. Hai ngày sau phán quyết này của Thượng viện, giám đốc CIA William Colby nói với tổng thống Ford: “Nam Việt Nam đang đối mặt với thất bại hoàn toàn và nhanh chóng”. Các chuyến bay di tản do CIA tổ chức đã bắt đầu đưa các cộng tác viên người Việt rời Việt Nam, và Sứ quán Mỹ đã bắt đầu đốt tài liệu mật từ trước đó.[19] Ngày 20 tháng 4 các thủ tục pháp luật được đơn giản hóa cho việc sơ tán người Việt bắt đầu có hiệu lực. Việc sơ tán này được thực hiện tại sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, do tướng Homer Smith chỉ huy. Các máy bay C-130 và C-140 liên tục lên xuống vào ban ngày; công việc giấy tờ được tiếp tục suốt đêm. Tướng Smith đã phải dùng đến toàn bộ trung đội Thủy quân lục chiến số 43 của Mỹ để giữ trật tự tại Tân Sơn Nhất.
Ngày 20 tháng 4 quân phòng thủ bỏ Xuân Lộc rút lui. Khi Xuân Lộc thất thủ, không còn gì có thể cứu vãn chế độ Sài Gòn nữa. Việc bỏ Xuân Lộc khiến Sài Gòn gần như bỏ ngỏ, không còn phòng thủ từ xa nữa; Quân giải phóng áp sát thành phố ở các tuyến ngoại vi. Cùng ngày 20 tháng 4, Đại sứ Mỹ Martin đến phủ Tổng thống thuyết phục Nguyễn Văn Thiệu từ chức, bởi phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã liên tục tuyên bố sẽ không đàm phán với tổng thống Thiệu.
Tối ngày 21 tháng 4, Nguyễn Văn Thiệu đọc một bài diễn văn từ chức dài trước Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, buộc tội Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa. Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng phía Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam không chấp nhận nói chuyện với ông. Thời điểm 21 tháng 4 khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức có ý nghĩa quyết định. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói rằng “chìa khóa là ngày 21 tháng 4, khi Thiệu từ chức. Khi đó tôi biết rằng chúng tôi phải tấn công ngay lập tức, cướp lấy thời cơ, tất cả chúng tôi cũng đồng ý như vậy.”[20] Đêm hôm đó, tại sở chỉ huy tiền phương tại Lộc Ninh, cách Sài Gòn 75 dặm, tướng Văn Tiến Dũng, người chỉ huy các cánh quân Giải phóng tiến về thành phố, ra lệnh bắt đầu cuộc tổng tiến công.
Để đảm bảo áp đảo chắc thắng, Quân Giải Phóng đưa thêm cả Quân đoàn 1 (hay còn gọi là Binh đoàn Quyết thắng) bằng tàu biển và hàng không vào chiến trường cho trận cuối cùng có tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Lực lượng tiến công Sài Gòn tương đương 20 sư đoàn, tổ chức thành 5 quân đoàn.
Trong nỗ lực cuối cùng, tướng Nguyễn Cao Kỳ phát biểu trước khoảng 6 nghìn người Thiên Chúa giáo hữu khuynh vào xế trưa ngày 25-4 về chuyện phòng thủ Sài Gòn, rằng “ông ta sẽ ở lại Sài Gòn và chiến đấu cho tới chết, những kẻ chạy theo Mỹ là hèn nhát”. Phụ nữ và trẻ con sẽ được gửi đi đảo Phú Quốc, dân Sài Gòn sẽ chiến đấu. Nguyễn Cao Kỳ còn tuyên bố Sài Gòn sẽ trở thành một Leningrad thứ hai, nơi đã cầm cự 900 ngày trong vòng vây hãm. Việc phân phối vũ khí sẽ làm ngay, mọi người nên ở lại Sài Gòn. Nhưng tất cả chỉ có vậy. Sau đó Nguyễn Cao Kỳ bỏ vào sân bay Tân Sơn Nhất để sắp xếp cho các máy bay di tản sang Thái Lan và đồng thời cũng bí mật ra lệnh cho một trực thăng đến đón mình. Sáng ngày 29/4/1975, ông Kỳ đã dùng trực thăng chạy ra ngoại quốc, bỏ lại sau lưng những lời thề hứa chiến đấu quyết tử mà ông từng hùng hồn tuyên bố trước đó bốn ngày[21].
Lúc 17 giờ ngày 26 tháng 4, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu nổ súng với 5 quân đoàn ở 5 hướng tấn công: hướng Bắc với Quân đoàn 1, hướng Tây Bắc với Quân đoàn 3, hướng Tây và Tây Nam với Đoàn 232, hướng Đông với Quân đoàn 4 và hướng đông nam với Quân đoàn 2.
Ngày 27 tháng 4, sân bay quân sự Tân Sơn Nhất tại Sài Gòn chịu 3 loạt hỏa tiễn của Quân giải phóng, lần đầu tiên trong hơn 40 tháng[22] làm nhiều người chết và bị thương, nhà cửa đổ nát. Hai lính Mỹ thiệt mạng do hỏa tiễn, là những lính thiệt mạng cuối cùng của Mỹ trong cuộc chiến[23]
Tại mặt phía Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28 tháng 4, 1975, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ Ðô của chính quyền Sài Gòn không còn quân trừ bị để phòng thủ. Họ buộc phải rút 1 liên đoàn Biệt Ðộng Quân đang hành quân về quận lỵ Cần Đước và đặt dưới quyền điều động của Bộ tư lệnh Biệt Khu Thủ Ðô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH không thể phá vỡ được các chốt chận của Quân giải phóng tại cầu Nhị Thiên Đường vốn đã bị chiếm từ rạng sáng ngày 29 tháng 4, 1975.
Các đơn vị Nhảy Dù phòng ngự tại phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lương Bà Quẹo, khu Bình Thới-Ngã ba Bà Quẹo, khu Bảy Hiền-Lăng Cha Cả đã cố gắng ngăn chận đối phương. Một chiến đoàn thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù tại vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu do Thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân và từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến xa và đánh bật đối phương ra khỏi trận địa.
Tuy nhiên các nỗ lực kháng cự lẻ tẻ này không làm chậm quân Giải phóng được bao nhiêu. Đến cuối ngày 28 tháng 4, tất cả các tuyến phòng thủ đã bị chọc thủng ở mọi hướng, quân Giải phóng có thể đi ngay vào thành phố. Các lực lượng chính trị thứ ba dàn xếp để đưa Đại tướng Dương Văn Minh lên làm tổng thống trong ngày 28 tháng 4 năm 1975. Ngay khi nhậm chức để tiến hành đàm phán Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu người Mỹ ra đi.
4 giờ sáng ngày 29/4 tức 16 giờ theo giờ Washington, hỏa tiễn và đạn pháo Quân giải phóng đã nã tới tấp xuống Phi trường Tân Sơn Nhứt, phá hủy nhiều phi cơ trên mặt đất, vô hiệu hóa phi trường này và gây cho số người Việt đang tụ tập ở đấy sợ hãi trốn chạy, một sự hỗn loạn thực sự.[25]
Tổng thống Ford triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia họp khẩn cấp lúc 19h 30, ông đã yêu cầu Đại sứ Graham Martin phải di tản ngay những người Mỹ còn lại và cả những người Việt Nam càng nhiều càng tốt.
Có 5 sĩ quan của quân Việt Nam cộng hòa đã tự sát, như Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, người thì vì cảm thấy danh dự bị hoen ố trước thất bại, người thì vì lo sợ bị bị cầm tù hoặc bị đối phương đày đọa.[26]
Ở Sài Gòn và phần còn lại của Việt Nam Cộng Hòa, hàng triệu người dân Việt Nam bắt đầu tự đặt cho mình 1 câu hỏi mấu chốt: họ có thể ở lại sống dưới chế độ mới hay là tự tìm cách trốn chạy bằng đường biển.[26]
Trong các ngày 28, 29 tháng 4 từ các hàng không mẫu hạm của Hạm đội số 7 ngoài khơi Thủy quân lục chiến Mỹ dùng trực thăng di tản người nước ngoài và một số người Việt đã từng cộng tác chặt chẽ với họ, trong đó có chiến dịch Babylift. Cuộc di tản đã diễn ra trong hỗn loạn vì rất nhiều người muốn ra đi nhưng không thể đáp ứng hết được. Các điểm đỗ của trực thăng náo loạn. Lính Thuỷ quân lục chiến Mỹ đã phải cố gắng mới duy trì được trật tự. Người Mỹ đã phải bỏ lại nhiều người bạn lâu năm của mình vì số lượng phương tiện có hạn. Hình ảnh di tản đã in đậm trong trí óc nhiều người Mỹ và Việt như một kỷ niệm rất buồn. Đại sứ Graham Martin là một trong những người Mỹ cuối cùng ra đi. Trong số 120.000 người Việt và 20.000 người Mỹ được di tản trong đợt này, không có một người nào bị thiệt mạng do hoạt động quân sự của quân Giải phóng.[2]
Quân giải phóng dừng lại bên ngoài thành phố 1 ngày để cho người Mỹ di tản hết mới vào. Theo lời tướng Trần Văn Trà, họ đã đợi vì mục đích chính là để giải phóng Sài Gòn chứ không phải để giết người Mỹ và sỉ nhục họ. Còn theo hồi kí của tướng Hoàng Cầm, cánh quân của Quân đoàn 4 mà ông chỉ huy gặp rất nhiều kháng cự trên đường tiến về Sài Gòn và chỉ đánh được đến nơi vừa kịp sáng ngày 30 tháng 4.
Theo hồi ký các tướng tá của quân lực Việt Nam Cộng hòa như Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Chánh Thi, và cựu dân biểu Lý Quý Chung, thì sáng ngày 28/4, tướng tình báo Pháp Francois Vanussème đã tới gặp Dương Văn Minh và đề nghị kêu gọi Trung Quốc đem quân can thiệp để cứu quân lực Việt Nam Cộng hòa đang trong cơn nguy kịch. Một nhân viên ngoại giao Trung Quốc đề nghị quân lực Việt Nam Cộng hòa hãy cố thủ, án ngữ Vùng 4 Chiến thuật, hứa hẹn Trung Quốc sẽ đem quân đánh vào biên giới miền Bắc Việt Nam để giải vây. Tướng Minh vốn đã được Ban Binh vận Trung ương Cục miền Nam thông qua em trai là Dương Thanh Nhựt (bí danh Mười Ty, đại tá QĐNDVN) và gia đình đã thuyết phục từ trước, đã từ chối và nói: “Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc”[27]
Theo tác giả Trần Viết Đại Hưng, một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng hòa, thì Nguyễn Cao Kỳ còn tính làm một cuộc đảo chính chính phủ Dương Văn Minh mới thành lập để nắm quyền và ra lệnh cố thủ. Người Mỹ biết chuyện đó và giám đốc CIA ở Sài Gòn lúc đó là Polgar đã cảnh cáo Kỳ là không được manh động. Nguyễn Cao Kỳ nghe vậy thì dẹp bỏ kế hoạch vì ông ta hiểu rằng: nếu chống lại sách lược của Mỹ thì sẽ mang họa vào thân.[cần dẫn nguồn]
Ngày 30 tháng 4
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông tin. |
Ngày 29 tháng 4, sau sự giận dữ của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Schlesiger và cố vấn Henry Kissinger ở Washington vì sự nấn ná của Đại sứ Graham Martin ở Sài Gòn để cố tạo ra vẻ “người Mỹ đàng hoàng ra đi”, Tổng thống Mỹ Gerald Ford ra lệnh dứt khoát: “Chấm dứt cuộc di tản vào 3 giờ 30 phút, giờ địa phương, sáng 30 tháng 4”. Tuy nhiên, lệnh vẫn không thi hành kịp do sự chần chừ của Martin, “cuộc tháo chạy” đã diễn ra cho tới khi chiếc trực thăng Mỹ cuối cùng rời Sài Gòn vào lúc 5 giờ 24 phút ngày 30 tháng 4.[28]
8 giờ sáng 30 tháng 4 Tổng thống Dương Văn Minh và Bộ tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa hạ lệnh đơn phương ngừng chiến sẵn sàng đón quân đối phương vào Sài Gòn để bàn giao chính quyền. Ông tuyên bố “Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam. Vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa hãy bình tĩnh, ngưng nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng vì chúng tôi ở đây chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự và tránh sự đổ máu vô ích của đồng bào.“. Theo phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lệnh này không còn tác dụng do phần lớn quân lực Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã tan rã, phần nhiều ra hàng hoặc vứt bỏ vũ khí về với gia đình. Do đó khi Quân giải phóng tiến vào Sài Gòn hầu hết chỉ gặp những ổ kháng cự nhỏ lẻ, thiếu tổ chức.
9 giờ sáng cùng ngày, đúng 3 tiếng đồng hồ sau khi chiếc trực thăng cuối cùng của Mỹ rời nóc tòa Đại Sứ quán, tướng Trần Văn Trà lệnh cho quân Giải Phóng tiến vào Sài Gòn từ năm hướng. Họ đã tiến nhanh mà không gặp một sự kháng cự có tổ chức nào.
Đại đội 4 xe tăng nhận nhiệm vụ thần tốc tiến về trung tâm Sài Gòn. Sau khi đánh bại quân địch tại các trạm chốt ở khu vực Cầu Sài Gòn, Hàng Xanh, cầu Thị Nghè, 2 xe tăng số hiệu 843 và 390 tiến về Dinh Độc Lập. Xe 843 đi trước do Đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ huy.
10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4, xe tăng mang số hiệu 843 húc nghiêng cổng phụ của Dinh Độc Lập và bị kẹt tại đó. Bùi Quang Thận – Đại đội trưởng, chỉ huy xe 843 – nhảy xuống xe, cầm cờ chạy bộ vào. Xe tăng 390 dưới quyền chỉ huy của Vũ Đăng Toàn húc tung cánh cửa chính của dinh.
11 giờ 30 phút cùng ngày, Trung úy Quân đội Nhân dân Việt Nam Bùi Quang Thận đã hạ lá cờ Việt Nam Cộng hòa trên nóc dinh xuống, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên.
Cùng lúc này, đại úy trung đoàn phó Trung đoàn 66 Phạm Xuân Thệ cùng lực lượng đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 và biệt động thành Sài Gòn tiến vào dinh Độc Lập bắt Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa là ông Dương Văn Minh cùng toàn bộ những nhân vật chủ chốt của nội các chính quyền Sài Gòn. Phạm Xuân Thệ yêu cầu Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng vô điều kiện để tránh đổ máu không cần thiết sau này.
Khoảng 12 giờ trưa, đại úy Phạm Xuân Thệ đưa tổng thống Dương Văn Minh, thủ tướng Vũ Văn Mẫu lên xe Jeep để đến đài phát thanh. Chiếc xe thứ hai chở trung tá chính ủy lữ đoàn xe tăng 203 Bùi Văn Tùng cùng hai nhà báo Borries Gallasch (người Đức, báo Der Spiegel) và Hà Huy Đỉnh. Tại đài phát thanh, tổng thống Dương Văn Minh thay mặt toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn đã đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với quân đội cách mạng (tức quân Giải phóng miền Nam Việt Nam). Thay mặt các đơn vị Quân giải phóng đánh chiếm dinh Độc Lập, trung tá Bùi Văn Tùng đọc lời tiếp nhận đầu hàng. Chiến tranh kết thúc.
Ông Nguyễn Văn Tàu (sinh năm 1928 ở Bà Rịa – Vũng Tàu), biệt danh Tư Cang, nguyên Chính ủy Lữ đoàn Biệt động 316, người trực tiếp chiếm giữ, bảo vệ cầu Rạch Chiếc để xe tăng tiến vào giải phóng Sài Gòn năm 1975kể lại: “Điều kỳ diệu là thành phố còn nguyên vẹn, điện nước đầy đủ. Theo tôi có được điều ấy là do nhân dân. Lòng dân hướng về cách mạng, các đoàn thể được tổ chức chặt chẽ. Khi các cánh quân tiến vào thì quần chúng đã đứng lên diệt ác ôn, giải phóng phường, treo cờ cách mạng. Đó là sự chuẩn bị, gây dựng quần chúng từ mấy chục năm. Phong trào quần chúng ví như thùng thuốc nổ, khi có ngòi nổ đủ sức công phá thì sức mạnh quần chúng bung ra không gì cản nổi. Quân đội như chúng tôi chỉ đóng vai trò ngòi nổ đủ mạnh”[29].
Theo Jean Louis Margolin, tác giả này xác nhận là không có giết chóc trong ngày quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn nhưng ông đã đưa ra con số 200 ngàn tù binh bị giam giữ theo xác nhận của Phạm Văn Đồng. Tuy nhiên về việc này, tác giả ghi thêm: “Những ước tính nghiêm chỉnh nói từ 500 ngàn đến một triệu tù nhân trong tổng số dân là 20 triệu”[30][cần số trang]. Ngược lại, một số quan chức Việt Nam Cộng hòa đã cộng tác với chính phủ Cách mạng lâm thời và được giữ chức vụ trong chính phủ mới như Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh… Khi chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, nhiều cựu binh sĩ VNCH đã được QĐNDVN gọi tái ngũ để giúp vận hành các loại vũ khí thu được của Mỹ.[31]
Có 5 tướng VNCH đã tự sát là Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Thiếu tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn tướng Trần Văn Hai, Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ
Tom Polgar, nhân viên cao cấp tòa Đại sứ Mỹ ở Việt Nam, một trong những người Mỹ cuối cùng di tản, đã ghi lại nhận xét của mình ngày hôm ấy: “Đó là một cuộc chiến tranh (chiến tranh Việt Nam) lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất bại độc nhất của lịch sử Hoa Kỳ chắc sẽ không báo trước sức mạnh bá chủ toàn cầu của nước Mỹ đã chấm dứt. Nhưng… Ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải lặp lại sai lầm trong lịch sử”.[28]
Chiến dịch Gió lốc
Chiến dịch Gió lốc là chiến dịch của không quân Mỹ nhằm di tản bằng trực thăng người Mỹ và người Việt ra khỏi Sài Gòn, miền Nam Việt Nam, từ 29 đến 30 tháng 4 năm 1975, những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam. Hơn 50.000 người đã di tản từ nhiều điểm ở Sài Gòn.
Có 50.493 người (trong đó có 2.678 trẻ mồ côi Việt Nam) được di tản từ Tân Sơn Nhất. Các phi công đã bay tổng cộng 1.054 giờ và 682 chuyến bay trong suốt chiến dịch. Đây là chiến dịch cuối cùng của quân đội Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
Kết quả
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 có vai trò rất quan trọng và lâu dài trong lịch sử Việt Nam với kết quả:
- Chấm dứt Chiến tranh Việt Nam và Chiến tranh Đông Dương, một quá trình chiến tranh hao người tốn của kéo dài 30 năm với những thương vong, tổn thất rất lớn: hơn 360.000 người Mỹ thương vong, trong đó có 58.191 quân nhân chết; phía Quân đội nhân dân Việt Nam có khoảng 1 triệu quân nhân chết, trong đó 300.000 người đến nay vẫn còn trong diện mất tích, 600.000 quân nhân bị thương, gần 2 triệu dân thường bị giết, hơn 2 triệu dân thường mang thương tật suốt đời, khoảng 2 triệu người bị phơi nhiễm các loại hóa chất độc hại.
- Kết thúc sự tồn tại của nhà nước Việt Nam Cộng hòa. Sự kiện này đã chứng tỏ sự thất bại của phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa trong cuộc chiến tại Việt Nam.
- Chấm dứt việc các cường quốc thế giới can thiệp trực tiếp bằng quân sự vào Việt Nam.
- Trên phương diện quốc tế, sự chấm dứt Chiến tranh Việt Nam với thắng lợi của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đánh dấu sự thắng thế của phe Xã hội chủ nghĩa trên thế giới trong thập niên 1970 và kết quả là một loạt các phong trào cánh tả thắng thế hoặc lên cầm quyền ở một số nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh hướng tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
- Là điều kiện để thống nhất lãnh thổ Việt Nam. Thực hiện quyết định của Hội nghị Hiệp thương chính trị của đại biểu Miền Bắc và Miền Nam họp ở Sài Gòn tháng 11 năm 1975, ngày 25 tháng 4 năm 1976 toàn quốc tiến hành tổng tuyển cử bầu quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất. Quốc hội thống nhất họp tại Hà Nội từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7 năm 1976 đã quyết định tên nước là: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và đã bầu các thành viên của cơ quan chính quyền nhà nước. Việt Nam đã bước ra khỏi chiến tranh và thực sự trở thành một quốc gia thống nhất.
- Bắt đầu hiện tượng thuyền nhân Việt Nam bỏ nước ra đi vì các lý do chính trị hoặc kinh tế. Khoảng 150.000 người đã ra đi năm 1975, trong đó có 140.000 người đi cuối tháng 4.[32] Hàng trăm nghìn quân nhân thuộc chế độ Việt Nam Cộng hòa phải học tập cải tạo trong các trại cải tạo với thời hạn khác nhau từ vài ngày đến 10 năm.
Nhận định
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- “Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai” – Lê Duẩn[33]
- Trong thời đại ngày nay, khi các lực lượng cách mạng thế giới ở thế tiến công, một dân tộc nước không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác-Lê-nin, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, được sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới, thì hoàn toàn có thể đánh thắng mọi thế lực đế quốc xâm lược, dù đó là tên đế quốc đầu sỏ” (nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng cộng sản Việt Nam).[34]
- “Toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 đã đưa Việt Nam tới đỉnh cao của giải phóng dân tộc và uy tín của quốc tế. Thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ không chỉ là một tác nhân đưa đến những thay đổi rất quan trọng trong chiến lược của các nước lớn mà còn làm chuyển đổi cục diện chính trị khu vực Đông Nam Á.” (Trần Quang Cơ)[35]
- “Thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 là một thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, mở ra một kỷ nguyên mới đầy hứa hẹn cho Tổ quốc ta.” (Văn Tiến Dũng)[36]
- “Quân đội Nhân dân Việt Nam ở cả miền Bắc và miền Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói là một quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng, có tinh thần quyết chiến rất cao, thông minh và sáng tạo. Còn vị tướng dù có công lao lớn đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ” (Võ Nguyên Giáp).[37]
- “Ngày 30 tháng 4, không có chuyện miền Bắc chiến thắng hay miền Nam chiến bại, mà chỉ có Đế quốc Mỹ thất bại trước nhân dân Việt Nam mà thôi.” (Bùi Tín)[38]
- “Giữa chúng ta không có kẻ thua người thắng, mà chỉ có dân tộc Việt Nam chúng ta chiến thắng đế quốc Mỹ” (Thượng tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh quân quản Sài Gòn, nói với Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh)[39]
Hoa Kỳ
- “Không còn nghi ngờ gì nữa đối với các ý đồ của Bắc Việt Nam. Họ sẽ tấn công Nam Việt Nam khi nào có thời cơ thuận lợi; nhưng lần này sẽ là 1 cuộc tấn công quân sự với khí thế áp đảo!” (William Colby)[40]
- “Chiến tranh Việt Nam, theo phân tích cuối cùng, là một trận đấu giữa Mỹ và người được họ bảo vệ và trợ cấp dồi dào với phong trào cách mạng mà gốc rễ giai cấp và cơ sở tư tưởng đưa lại cho họ một sức bật và một sức mạnh to lớn… Nguồn sức mạnh quan trọng nhất của Đảng Cộng sản trên ba mươi lăm năm qua là quan niệm của họ về một đạo đức cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nhấn mạnh của họ đối với ý nghĩa hàng đầu của mọi hành động và giá trị đưa đến một xã hội xã hội chủ nghĩa. Khả năng của Đảng phát triển một tổ chức mà cuộc sống của những thành viên phù hợp với những nguyên tắc nói trên, đã làm cho họ đạt được mục tiêu của họ”. Gabriel Kolko[41]
- “Chiến thắng của họ (Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam) là chiến thắng của dân tộc Việt Nam – người Bắc cũng như người Nam. Khác xa với một cuộc nội chiến, cuộc đấu tranh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là một sự khẳng định nguyên tắc thống nhất dân tộc mà chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố ủng hộ rồi phản bội” – Frances Fitzgerald[42]
- “Sau những năm dài tìm cách khuất phục những dân tộc nghèo khổ bằng sự tàn bạo của sức mạnh kỹ thuật của mình, nước Mỹ, một nước giàu mạnh nhất trên quả đất này, cuối cùng có thể bị những người cộng sản Việt Nam đuổi ra khỏi bán đảo Đông Dương. Nếu đúng như vậy, thì thắng lợi của người Việt Nam sẽ là một thí dụ vô song về sự toàn thắng của trí tuệ con người đối với máy móc” (Neil Sheehan).[43]
- “Chính quyền Việt Nam Cộng hoà sụp đổ chỉ sau 55 ngày kể từ khi quân giải phóng bắt đầu tấn công. Điều này cũng chứng minh cho căn bệnh mà chính quyền này đã bị nhiễm phải ngay từ khi thành lập: sự manh mún về chính trị; thiếu các nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng và có năng lực; một tầng lớp trên mệt mỏi và tham nhũng không có khả năng điều chỉnh cho thích nghi đã tạo nên một cơ sở quốc gia yếu kém đến mức nguy hiểm… Trước những thực tế khắc nghiệt này, nỗ lực nhằm tạo nên một thành trì chống cộng ở ngay phía nam vĩ tuyến 17 đã có mầm mống thất bại ngay từ đầu.” George C. Herring.[44]
- “Đó là một cuộc chiến tranh (chiến tranh Việt Nam) lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất bại độc nhất của lịch sử Hoa Kỳ chắc sẽ không báo trước sức mạnh bá chủ toàn cầu của nước Mỹ đã chấm dứt. Nhưng… Ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải lặp lại sai lầm trong lịch sử” (Tom Polgar, nhân viên cao cấp tòa Đại sứ Mỹ ở Việt Nam).[28]
- “Hà Nội chỉ chiến đấu với một lẽ duy nhất, đó là lòng yêu nước của họ. Và một nước Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản Việt Nam, chiến thắng vào năm 1975, chính là mối đe dọa chiến lược to lớn đối với Trung Quốc còn hơn đối với Mỹ.” – Henry Kissinger
Việt Nam Cộng hòa
- “Họ (Hoa Kỳ) đã đâm sau lưng chúng tôi” – Nguyễn Văn Thiệu[45]
- “Người Mỹ họ có đường lối của họ: đó là họ phải nắm chỉ huy ở miền Nam này. Họ chỉ huy trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế tới ngoại giao… Mỹ nắm hết. Rồi chính Mỹ đã từ bỏ miền Nam Việt Nam.” – Nguyễn Hữu Hạnh[46]
- “Ngày 10 tháng ba, 1975 Quân đội Bắc Việt Nam đánh chiếm Ban Mê Thuột. Đến ngày 30-4 đã tiến vào Sài gòn. Tốc độ như vũ bão, vỏn vẹn chỉ có 52 ngày… Nói tới cung cách ra đi, sao thật quá thê thảm. Trong trường kỳ, việc bỏ rơi, nhất là “cung cách tháo chạy” đã làm tổn hại rất nhiều tới “mức độ tin cậy” của chính sách ngoại giao cũng như uy tín Hoa kỳ. Bạn thì hết tin tưởng, kẻ thù thì hết kính sợ.” – Nguyễn Tiến Hưng[47]
Chú thích
- ^ Đi tìm “bản gốc” hai chiếc xe tăng húc đổ cổng Dinh Độc Lập , Giáo dục Việt Nam, 30/4/2012
- ^ a ă George Church, Saigon: The Final 10 Days, Time Magazine, ngày 24 tháng 4 năm 1995 Volume 145, No. 17
- ^ [1]
- ^ Deepa Bharath (25 tháng 4 năm 2008). “Black April events commemorate fall of Saigon”. The Orange County Register. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2009.
- ^ “Audio Slideshow: Black April”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2009.
- ^ My-Thuan Tran (30 tháng 4 năm 2009). “Orange County’s Vietnamese immigrants reflect on historic moment”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2009.
- ^ Đỗ Dzũng (30 tháng 4 năm 2009). “Tưởng niệm Tháng Tư Đen ở Quận Cam”. Báo Người Việt. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2009.
- ^ Văn Tiến Dũng, Our great spring victory p 17-18.
- ^ a ă Đại thắng mùa xuân. Văn Tiến Dũng, NXB Quân đội Nhân dân. Chương 2
- ^ Cho đến ngày 30 tháng 4 thì chỉ có sư đoàn 308 vẫn còn ở miền Bắc và không tham gia chiến dịch.
- ^ Spencer Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War: A Political, Social, and Military History, ABC-CLIO, 1998, tr. 770. Trích: “At war’s end in 1975, the PAVN numbered nearly 1 million troops, despite the loss…”
- ^ a ă Nguyễn Tiến Hưng–Khi Đồng minh tháo chạy
- ^ Dougan, Clark, David Fulgham, et al. The Fall of the South. Boston: Boston Publishing Company, 1985, tr. 83.
- ^ Dougan & Fulgham, tr. 83.
- ^ Willbanks, James H. Abandoning Vietnam: How America Left and South Vietnam Lost Its War. Lawrence KS: University of Kansas Press, 2004, tr. 253.
- ^ William W. Momyer, The Vietnamese Air Force. Maxwell Air Force Base AL: Air University Press, 1975, tr. 76.
- ^ Willbanks, tr. 251.
- ^ Issacs, Arnold R. Without Honor: Defeat in Vietnam and Cambodia. Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1983. tr. 380.
- ^ Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp đã nhìn thấy tro nổi trên bể bơi ngoài trời của tòa Đại sứ và nhận thấy dấu hiệu của tai họa đang ập đến.
- ^ “the key was April 21, when Thieu resigned. Then I knew, we all agreed, we had to attack immediately, seize the initiative.“
- ^ Sài Gòn thất thủ – Kỳ 1. Komori Yoshihisa – Khôi Nguyên dịch
- ^ Dawson, Alan. 55 Days: The Fall of South Vietnam. Prentice-Hall, 1977. Chương XV
- ^ White Christmas, by Dirck Halstead, Chapter 5, Anyone who makes an honest living can stay
- ^ “One of the more interesting carrier landings”.
- ^ William Colby-Một chiến thắng bị bỏ lỡ-NXB CAND p 13
- ^ a ă William Colby-Một chiến thắng bị bỏ lỡ-NXB CAND p 14
- ^ Nguyễn Hữu Thái. Hồi ức “Dương Văn Minh và tôi” năm 2008
- ^ a ă â http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=352&Itemid=33
- ^ http://www.mod.gov.vn/wps/portal/
- ^ Le Livre Noir du Communisme: Crimes, Terreur, Répression do Robert Laffont, S.A, Paris xuất bản lần đầu năm 1997-Phần IV về Á Châu
- ^ “Từ hai chiếc máy bay bị cướp”. Việt Báo. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
- ^ Cuối tháng 4 năm 1975, 140.000 người có quan hệ chặt chẽ với chính phủ Việt Nam Cộng hòa được đưa đến định cư tại Mỹ, theo sau đó là một đợt di tản nhỏ của người Việt tự tìm đường đến các nước láng giềng tại Đông Nam Á. Đến cuối năm 1975, khoảng 5000 người đến Thái Lan, 4000 đến Hồng Kông, 1800 đến Singapore, 1700 đến Philippines.
Nguồn: UNHCR, The State of the World’s Refugees – Fifty Years of Humanitarian ActionsBản mẫu:Deadlink Chương 4, tr. 81Bản mẫu:Deadlink - ^ http://vietnamnet.vn/vn/tin-noi-bat/70376/nghi-ve-dao-ly-dan-toc.html
- ^ http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=1005&Itemid=33
- ^ Trần Quang Cơ. sđd.
- ^ Văn Tiến Dũng. sđd. chương 17.
- ^ [2]
- ^ Phỏng vấn Bùi Tín, 1981
- ^ Dương Văn Minh qua con mắt thuộc cấp, Tuần Việt Nam, 29/04/2011
- ^ William Colby. Một chiến thắng bị bỏ lỡ. Sđd. tr. 400
- ^ Gabriel Kolko. Giải phẫu một cuộc chiến tranh. tr. 441.
- ^ Fire in the Lake – The Vietnamese and the Americans in Vietnam, Vintage Books, 1972, tr.549. Trích:
“Their victory [NLF] would be…the victory of the Vietnamese people – northerners and southerners alike. Far from being a civil war, the struggle of NLF was an assertion of the principle of national unity that the Saigon government has endorsed and betrayed“ - ^ Trung tướng Gs. Hoàng Phương, Đại tá Hoàng Dũng, Đại tá Trần Bưởi, Đại tá Nguyễn Văn Minh (xuất bản năm 1996). Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 – Tập 1 (bằng tiếng Việt).
Việt Nam: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật.
- ^ George C. Herring. Cuộc chiến dài ngày giữa nước Mỹ và Việt Nam 1950 – 1975. Tr. 492.
- ^ Việt Nam. Cuộc chiến 10.000 ngày. Tập 8 – Hòa bình
- ^ Trả lời phóng viên của đài BBC Việt ngữ vào năm 2010
- ^ Khi đồng minh tháo chạy. Lời nói đầu
Liên kết ngoài
Tiếng Việt:
- Lời kêu gọi và bài hát Nối Vòng Tay Lớn của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trên đài phát thanh Sài Gòn ngày 30/4/1975
- Sài Gòn thất thủ
- 30 năm sau chiến tranh: Từ BBC tiếng Việt của chính phủ Anh
- 30 năm ngày ấy bây giờ: Từ đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh của chính phủ Việt Nam
- Ba mươi năm gọi tên gì cho cuộc chiến?: Bài viết của giáo sư Lê Xuân Khoa đăng trên BBC Vietnamese
- Báo Tiền Phong Vợ của những người lính tăng húc đổ cổng Dinh Độc Lập
- Bùi Văn Tùng, Vì sao tôi thảo lời đầu hàng cho Tổng thống ngụy Sài Gòn?
- Những tiếng súng cuối cùng.
Tiếng Anh:
- Video: Saigon sụp đổ ngày 30 tháng 4
- Các hình ảnh về những ngày cuối cùng trước khi Saigon sụp đổ của các PV Nước ngoài
- George J. Church, Saigon, TIME, ngày 24 tháng 4 năm 1995 Volume 145, No. 17 (số báo kỉ niệm 20 năm sự kiện 30-4). Xem toàn bộ nội dung tại đây
- Trang tư liệu của báo The New York Times
- Tháng tư
- Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975
- Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1945-1975
- Việt Nam hải ngoại
- Trận đánh liên quan tới Việt Nam
- Việt Nam 1975
- Lịch sử miền Nam Việt Nam
Scandinavia
Scandinavia (tiếng Việt: Xcan-đi-na-vi hoặc Xcăng-đi-na-vi được phiên âm từ tiếng Pháp: Scandinavie) là khái niệm chỉ một phần hay toàn bộ vùng Bắc Âu. Trong địa lí, bán đảo Scandinavia là bán đảo với xương sống là dãy núi Scandinavia, được bao bọc bởi biển Baltic, biển Bắc, biển Na Uy của Đại Tây Dương và biển Barents của Bắc Băng Dương. Bán đảo Scandinavia tương đương lãnh thổ đất liền hiện nay của Na Uy, Thụy Điển và một phần miền bắc Phần Lan. Trong lĩnh vực văn hoá, lịch sử và ngôn ngữ, Scandinavia được hiểu bao gồm Đan Mạch, Na Uy và Thuỵ Điển.
Bắc Âu còn bao gồm các quốc gia và vùng lãnh thổ khác như Phần Lan, Iceland; đảo Greenland, quần đảo Faroe (thuộc Đan Mạch). Ở các vùng này tiếng Đan Mạch và tiếng Thuỵ Điển được coi là ngôn ngữ thiểu số hay ngoại ngữ. Tất cả các nước Bắc Âu là thành viên của Hội đồng Bắc Âu.
Trong một số tài liệu, dựa trên tiêu chí ngôn ngữ, người ta cũng xếp Phần Lan vào khu vực Scandinavia. Số khác cho rằng Phần Lan và Scandinavia là hai khu vực phân biệt, chúng được xếp chung vào một vùng có tên là Fenno-Scandinavia. Trong lịch sử, Phần Lan đã từng là một phần của Thuỵ Điển trong suốt hơn một trăm năm. Ngày nay vẫn còn một bộ phận người thiểu số Thuỵ Điển sống ở Phần Lan. Tiếng Thuỵ Điển cũng là ngôn ngữ chính thứ hai của đất nước này. Tuy nhiên tiếng Phần Lan lại không có mấy điểm tương đồng với ngôn ngữ hàng xóm của họ. Nó cũng không nằm trong nhóm ngôn ngữ German của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu mà thuộc nhóm ngôn ngữ Phần Lan-Ugri của hệ ngôn ngữ Ural. Do lịch sử nhiều năm bị phụ thuộc mà một số người Phần Lan không thích xếp đất nước họ và Thuỵ Điển chung vào một nhóm.
Mục lục
Từ nguyên
Tên gọi Scandinavia bắt nguồn từ phiên âm Latinh Skathinawjö của một khái niệm viết bằng ngôn ngữ Thuỵ Điển cổ. Ở đây Skathi- có nghĩa là “nguy hiểm” hoặc “thiệt hại”, còn –awjö là “đảo” hoặc “bán đảo”. Gộp lại, Scandinavia có thể mang nghĩa là “bán đảo nguy hiểm”. “Nguy hiểm” ở đây có lẽ chỉ các dòng hải lưu bao quanh bán đảo Scandinavia. Cụm từ Scandinavia ít nhiều có quan hệ ngữ nguyên với các từ như Skåne hay Skanör (tên một vùng đất phía nam Thuỵ Điển). Cũng có người cho rằng sự “nguy hiểm” bên trên chỉ đến các bờ cát tại vùng Skanör rất nguy hiểm cho giao thông đường biển. Một số người lại cho rằng nguồn gốc của Scandinavia liên quan đến tên gọi của nữ thần Skadi (Skade) của người Bắc Âu.
Thuật ngữ “người Scandinavia” cũng dùng để chỉ các dân tộc Bắc German, những người nói ngôn ngữ Scandinavia có nguồn gốc Bắc Âu cổ.
Điểm đặc biệt đáng ghi chú là các cờ đều có chung hình thập tự gọi là thập tự Scandinavia, bắt nguồn từ quốc kỳ của nước Đan Mạch.
Đan Mạch (Danmark) | |
![]() |
Quốc kỳ Đan Mạch có tên là Dannebrog, là biểu hiệu của quân thập tự vào thời Trung cổ. Đây là lá cờ chính quyền cổ xưa nhất còn được dùng đến ngày nay. |
Thuỵ Điển (Sverige) | |
![]() |
Quốc kỳ Thụy Điển có màu nền xuất phát từ màu của huy hiệu hoàng gia, tương tự nguồn gốc màu của lá cờ Đan Mạch |
Na Uy (Norge/Noreg) | |
![]() |
Quốc kỳ Na Uy chỉ dựa một phần vào màu của huy hiệu gia đình nhà vua. Nó dựa vào lá cờ của Đan Mạch. Từ năm 1380 cho tới 1814, Na Uy thuộc Liên minh Đan Mạch-Na Uy, coi như là một phần của Đan Mạch. Màu xanh ở đây biểu tượng cho màu xanh đậm của Fjord và không khí trong lành. |
Phần lan (Suomi/Finland) | |
Quốc kỳ Phần Lan được gọi là Siniristilippu (“cờ chữ thập xanh”). Những màu sắc trên lá cờ biểu hiện các đặc điểm thiên nhiên của đất nước này. Màu xanh lam tượng trưng cho bầu trời và sông hồ, còn màu trắng tượng trưng cho tuyết và những đêm trắng, một hiện tượng thiên nhiên thường thấy vào mùa hè tại Phần Lan. | |
Iceland (Ísland) | |
![]() |
Quốc kỳ Iceland gồm nền cờ màu lam, trên có chữ thập màu trắng và màu đỏ. Màu lam biểu thị cho đại dương, màu trắng biểu thị tuyết trắng, hai màu này là quốc sắc của Iceland. Thập tự đỏ phản ánh lịch sử Iceland từng thuộc nước Đan Mạch. Cho tới 1944 Iceland là một phần của Đan Mạch. |
Xem thêm
Tham khảo
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Scandinavia |
- Hội đồng Bắc Âu (trang web chính thức)
George Washington
George Washington | |
---|---|
![]() Chân dung năm 1797 của George Washington
Gilbert Stuart vẽ |
|
Chức vụ
|
|
Nhiệm kỳ | 30 tháng 4, 1789 – 4 tháng 3 1797 |
Tiền nhiệm | Không có |
Kế nhiệm | John Adams |
Phó Tổng thống | John Adams |
Nhiệm kỳ | 15 tháng 6, 1775 – 23 tháng 12, 1783 |
Tiền nhiệm | Không có |
Kế nhiệm | Henry Knox |
Khu vực | Lục quân Lục địa |
Nhiệm kỳ | 13 tháng 7, 1798 – 14 tháng 12, 1799 |
Tiền nhiệm | James Wilkinson |
Kế nhiệm | Alexander Hamilton |
Khu vực | Lục quân Hoa Kỳ |
Nhiệm kỳ | 5 tháng 9, 1974 – 26 tháng 10, 1774 |
Khu vực | Quốc hội Lục địa |
Đại biểu của Virginia tại Đệ nhị Quốc hội Lục địa
|
|
Nhiệm kỳ | 10 tháng 5, 1775 – 15 tháng 6, 1775 |
Khu vực | Quốc hội Lục địa |
Thông tin chung
|
|
Đảng phái | Không |
Sinh | 22 tháng 2, 1732 Westmoreland, Virginia, Hoa Kỳ |
Mất | 14 tháng 12, 1799 (67 tuổi) Mount Vernon, Fairfax, Virginia, Hoa Kỳ An táng: Hầm mộ gia đình ở Mount Vernon |
Nơi ở | Mount Vernon |
Nghề nghiệp | Chỉ huy quân sự Khảo sát xây dựng[2] |
Dân tộc | Người Mỹ gốc Anh |
Tôn giáo | Anh giáo[3] Thuyết thần giáo tự nhiên[4] |
Họ hàng | 5 em ruột 4 anh chị cùng cha khác mẹ |
Vợ | Martha Dandridge Custis Washington |
Con cái | Không |
Chữ ký | ![]() |
George Washington | |
Binh nghiệp | |
---|---|
Tuyên thệ phục vụ | ![]() ![]() |
Quân chủng | Địa phương quân Virginia Lục quân Lục địa Lục quân Hoa Kỳ |
Thời gian phục vụ | Địa phương quân: 1752–1758 Lục quân Lục địa: 1775–1783 Lục quân Hoa Kỳ: 1798–1799 |
Cấp bậc | ![]() Đại thống tướng (được vinh thăng năm 1976) |
Tư lệnh | Trung đoàn địa phương quân Virginia Lục quân Lục địa Lục quân Hoa Kỳ |
Trận đánh | Chiến tranh chống bản thổ & Pháp |
Tặng thưởng | Huân chương vàng Quốc hội Huân chương Tạ ơn của Quốc hội |
George Washington (22 tháng 2, 1732 – 14 tháng 12, 1799) là nhà lãnh đạo chính trị và quân sự có ảnh hưởng lớn đối với quốc gia non trẻ Hoa Kỳ từ năm 1775 đến năm 1799. Ông đã lãnh đạo người Mỹ chiến thắng Vương quốc Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ với tư cách là tổng tư lệnh Lục quân Lục địa năm 1775–1783, và ông cũng đã trông coi việc viết ra Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787. Quốc hội nhất trí chọn lựa làm tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ (1789–1797). Phong cách lãnh đạo của ông đã có ảnh hưởng đến thể thức và lễ nghi cho chính quyền mà được sử dụng từ đó cho đến nay, thí dụ như dùng một hệ thống nội các và buổi đọc diễn văn nhậm chức. Với tư cách là tổng thống, ông đã xây dựng một chính quyền quốc gia mạnh mẽ và giàu tài chính mà đã tránh khỏi chiến tranh, dập tắt nổi loạn và chiếm được sự đồng thuận của tất cả người Mỹ. Ông hiện nay được biết như vị cha già của nước Mỹ.
Ông có một viễn tưởng về một quốc gia hùng mạnh và vĩ đại, xây dựng trên những nền tảng của nền cộng hòa, sử dụng sức mạnh của liên bang. Ông tìm cách sử dụng chính phủ cộng hòa để cải thiện hạ tầng cơ sở, mở rộng lãnh thổ phía tây, lập ra một trường đại học quốc gia, khuyến khích thương mại, tìm nơi xây dựng lên một thành phố thủ đô (sau này gọi là Washington, D.C.), giảm thiểu những sự căng thẳng giữa các vùng và vinh danh tinh thần chủ nghĩa quốc gia. Ông nói “Cái tên người Mỹ” phải xóa bỏ bất cứ những liên hệ ràng buộc nào mang tính cách địa phương.[5] Khi mất, Washington được táng tụng như là “người đầu tiên trong chiến tranh, người đầu tiên trong hòa bình, và người đầu tiên trong lòng dân tộc của ông”.[6] Những người theo chủ nghĩa liên bang đã coi ông như là biểu tượng của đảng nhưng những người theo chủ nghĩa Jefferson trong nhiều năm trời vẫn tiếp tục không tin vào ảnh hưởng của ông và cố tìm cách trì hoãn xây dựng tượng đài Washington. Với tư cách là nhà lãnh đạo cách mạng thành công đầu tiên chống lại một đế quốc thuộc địa trong lịch sử thế giới, Washington đã trở thành một hình tượng quốc tế đối với phong trào giải phóng dân tộc và chủ nghĩa quốc gia. Chủ nghĩa biểu tượng của ông đặc biệt gây âm vang tại Pháp và châu Mỹ Latin.[7] Các học giả lịch sử luôn xếp ông là một trong số hai hoặc ba vị tổng thống vĩ đại nhất.
Mục lục
- 1 Cuộc đời lúc thiếu thời (1732–1753)
- 2 Chiến tranh chống người bản thổ và Pháp (1754–1758)
- 3 Thời kỳ giữa các cuộc chiến tranh: ở Mount Vernon (1759–1774)
- 4 Cách mạng Mỹ (1775–1787)
- 5 Hội nghị Hiến pháp năm 1787
- 6 Giai đoạn làm tổng thống (1789–1797)
- 7 Về hưu (1797–1799)
- 8 Di sản
- 9 Viết lách và tài liệu của George Washington
- 10 Đời sống cá nhân
- 11 Chú thích
- 12 Dẫn chứng
- 13 Liên kết ngoài
Cuộc đời lúc thiếu thời (1732–1753)
Là con đầu lòng của Augustine Washington (1694–1743) và người vợ thứ hai, Mary Ball Washington (1708–1789), George Washington sinh ra trong trang trại Pope’s Creek gần nơi ngày nay là Colonial Beach trong Quận Westmoreland, Virginia. Theo lịch Julius (có hiệu lực vào lúc đó), Washington sinh ngày 11 tháng 1 năm 1731; theo lịch Gregory, sử dụng tại Anh và các thuộc địa thì ông sinh ngày 22 tháng 2 năm 1732.[8][9][Ghi chú 1] Tổ tiên của Washington đến từ Sulgrave, Anh; ông cố của ông là John Washington di cư đến Virginia năm 1657. Có ý kiến cho rằng: George Washington và Nữ hoàng nước Anh Elizabeth II có chung tổ tiên.[10] [11] Cha của ông, Augustine là một nhà trồng thuốc lá có sở hữu người nô lệ. Cha ông sau này có thử thời vận với nghề khai quặng sắt.[12] Thời George còn trẻ, gia đình ông là những thành viên khá giả thuộc tầng lớp quý tộc nhỏ tại Virginia, ở vào cấp bậc trung lưu hơn là một trong những gia đình hàng đầu.[13]
Sáu trong số các anh chi em của ông lớn lên đến tuổi trưởng thành trong đó có hai người anh cùng cha khác mẹ, Lawrence và Augustine, từ cuộc hôn nhân đầu tiên của cha ông và Jane Butler Washington. Bốn anh chị em ruột của ông là Samuel, Elizabeth (Betty), John Augustine và Charles. Ba anh chị em khác mất trước khi trưởng thành: em gái ruột, Mildred chết lúc một tuổi,[14] người anh trai khác mẹ mất khi còn sơ sinh[15] và người chị khác mẹ Jane chết lúc 12 khi George hai tuổi.[14] Cha của George qua đời khi ông 11 tuổi. Người anh khác mẹ của George là Lawrence sau đó trở thành người cha thay thế và cũng là mẫu người George noi gương. William Fairfax, cha vợ của Lawrence và là người anh em họ với địa chủ lớn nhất Virginia, Thomas Fairfax cũng có ảnh hưởng lớn đối với ông. Washington dành nhiều thời gian lúc còn bé ở nông trại Ferry trong Quận Stafford gần Fredericksburg. Lawrence Washington thừa hưởng gia sản khác của cha, đó là một đồn điền nằm trên bờ sông Potomac mà sau này ông đặt tên là Mount Vernon. George thừa hưởng nông trại Ferry ngay khi cha ông qua đời, và dần sau đó nhận thừa kế Mount Vernon sau khi Lawrence qua đời.[16]
Cái chết của cha khiến cho ông mất cơ hội vượt Đại Tây Dương để nhận sự giáo dục tại Trường Appleby của Anh như những người anh trai của mình đã từng làm. Ông đi học tại Fredericksburg cho đến tuổi 15. Mong muốn gia nhập Hải quân Hoàng gia không thành hiện thực sau khi mẹ ông biết nó rất là khó khăn cho ông.[17] Nhờ mối liên hệ của Lawrence với gia đình quyền lực ở Fairfax nên vào năm 17 tuổi, George trở thành thanh tra quận Culpeper vào năm 1749. Đây là 1 công việc trả lương hậu đã giúp cho ông mua được đất đai trong thung lũng Shenandoah, đây cũng là lần đầu tiên trong số nhiều vụ mua đất đai của ông tại Tây Virginia. Cũng phải nói là nhờ đến sự có mặt của Lawrence trong Công ty Ohio, một công ty đầu tư đất đai được tài trợ bởi những nhà đầu tư tại Virginia và nhờ vào vị trí của Lawrence trong vai trò tư lệnh địa phương quân Virginia nên George được phó thống đốc mới của Virginia là Robert Dinwiddie chú ý đến. Washington khó mà bị lọt ra khỏi tầm mắt của người khác: cao 6 ft 2 inche (188 cm; ước tính về chiền cao của ông có thay đổi), ông cao hơn đa số người đương thời của ông.[18]
Năm 1751, Washington cùng đi Barbados với Lawrence, người mắc phải bệnh lao, với hy vọng rằng khí hậu sẽ có lợi cho sức khỏe của Lawrence. Washington mắc phải bệnh đậu mùa trong chuyến đi này khiến cho khuôn mặt của ông có ít nhiều vết thẹo nhưng đã giúp cho ông miễn nhiễm với căn bệnh độc này về sau.[19] Sức khỏe của Lawrence không cải thiện: ông quay về Mount Vernon và mất ở đó năm 1752.[20] Vị trí lãnh đạo địa phương quân Virginia của Lawrence chia thành bốn chức vụ sau khi ông mất. Washington được Thống đốc Dinwiddie bổ nhiệm làm một trong bốn vị trí mới đó vào tháng 2 năm 1753 với cấp bậc thiếu tá trong địa phương quân Virginia.[21] Washington cũng gia nhập Hội Tam Điểm tại Fredericksburg vào lúc đó.[22]
Chiến tranh chống người bản thổ và Pháp (1754–1758)
Năm 1753, người Pháp bắt đầu mở rộng tầm kiểm soát quân sự của họ vào “Xứ Ohio“, một lãnh thổ cũng bị các thuộc địa của Anh là Virginia và Pennsylvania tuyên bố chủ quyền. Cuộc tranh chấp chủ quyền này đã dẫn đến một cuộc chiến tranh mà các thuộc địa gọi là Chiến tranh chống người bản thổ và Pháp (French and Indian War) từ năm 1754–1762. Chiến tranh này đã góp phần khởi sự Chiến tranh 7 năm trên toàn cầu (1756–63). Washington ở tâm điểm của cuộc chiến này khi mới vừa bùng nổ. Công ty Ohio, một cỗ xe mà qua đó các nhà đầu tư người Anh có kế hoạch mở rộng vào lãnh thổ này, đang mở mang những khu định cư mới và xây dựng các trạm mậu dịch để buôn bán với người bản thổ Mỹ. Thống đốc Dinwiddie nhận lệnh từ chính phủ Anh cảnh cáo người Pháp về chủ quyền của Anh tại đó. Ông phái Thiếu tá Washington vào cuối năm 1753 giao một bức thư thông báo đến người Pháp về những tuyên bố chủ quyền của Anh và yêu cầu người Pháp rời bỏ lãnh thổ này.[23] Washington cũng đến gặp mặt Tanacharison (cũng còn được gọi là “Half-King”) và các lãnh tụ khác của người bản thổ Iroquois đang liên minh với Virginia tại Logstown để nhận sự ủng hộ của họ trong trường hợp có xung đột với người Pháp; Washington và Tanacharison trở thành bạn bè và đồng minh. Washington giao lá thư cho tư lệnh địa phương Pháp nhưng ông này từ chối một cách lịch sự là không rời bỏ lãnh thổ này.[24]
Thống đốc Dinwiddie phái Washington trở lại Xứ Ohio để bảo vệ một nhóm nhân viên của Công ty Ohio đang xây dựng một pháo đài tại nơi mà ngày nay là Pittsburgh, Pennsylvania. Nhưng trước khi ông đến nơi thì một lực lượng Pháp đã đuổi các nhân viên làm việc của công ty ra khỏi khu vực này và họ bắt đầu xây dựng Đồn Duquesne. Một nhóm nhỏ quân Pháp do Joseph Coulon de Jumonville chỉ huy bị Tanacharison và một ít chiến binh của mình phát hiện ở phía đông khu vực mà ngày nay là Uniontown, Pennsylvania. Cùng với các đồng minh người bản thổ Mingo, Washington và một số đơn vị địa phương quân của mình liền phục kích người Pháp. Những gì thật sự đã xảy ra trong lúc và sau trận đánh vẫn còn gây nhiều tranh cãi nhưng kết quả ngay sau đó là Jumonville bị trọng thương trong cuộc tấn công đầu tiên và rồi bị giết chết… chẳng biết có phải là bị Tanacharison lạnh lùng chém bằng một lưỡi rìu hay do bị một người nào đó đứng gần đó dùng súng bắn chết khi vị sĩ quan bị thương này ngồi bên cạnh Washington – cả hai nghi vấn này đều hoàn toàn không rõ ràng.[25][26] Người Pháp phản ứng trả đũa bằng một cuộc tấn công và bắt Washington tại Đồn Necessity vào tháng 7 năm 1754.[27] Tuy nhiên, Washington được phép quay trở về Virginia cùng với binh sĩ của mình. Sử gia Joseph Ellis kết luận rằng tình tiết trận đánh này đã chứng tỏ sự can đảm, thế chủ động, sự hăng say chiến đấu nhưng chưa có kinh nghiệm của Washington.[28] Những sự kiện này có những hậu quả quốc tế; người Pháp tố cáo Washington ám sát Jumonville vì họ cho rằng Jumonville đang thực hiện một sứ mệnh ngoại giao.[28] Cả Pháp và Anh sẵn sàng lâm chiến để tranh giành kiểm soát vùng này và họ đã đưa quân đến Bắc Mỹ năm 1755; chiến tranh được chính thức tuyên bố vào năm 1756.[29]
Tai họa Braddock năm 1755
Năm 1755, Washington là phụ tá cao cấp người Mỹ của tướng Anh Edward Braddock trong một cuộc viễn chinh xấu số ở Monongahela. Đây là đoàn quân viễn chinh lớn nhất của Anh đến các thuộc địa Bắc Mỹ, và có ý định đánh đuổi người Pháp ra khỏi Xứ Ohio. Người Pháp cùng với các đồng minh người bản thổ Mỹ phục kích và Braddock bị tử thương trong trận Monongahela. Sau khi bị thiệt hại nặng nề về quân số, quân Anh rút chạy tán loạn; tuy nhiên, Washington cưỡi ngựa chạy quanh trận địa nhằm khích lệ và động viên tàn quân Anh và địa phương quân Virginia rút lui có tổ chức.[30]
Tư lệnh Trung đoàn Virginia
Thống đốc Dinwiddie thăng chức Washington năm 1755 lên cấp bậc “Đại tá Trung đoàn Virginia và Tổng tư lệnh tất cả các lực lượng được tuyển mộ để bảo vệ Thuộc địa của Nhà vua” và giao phó cho ông nhiệm vụ bảo vệ biên cương Virginia. Trung đoàn Virginia là đơn vị quân sự toàn thời gian đầu tiên của người Mỹ tại các thuộc địa (đối ngược lại là các đơn vị chính quy người Anh và các đơn vị địa phương quân người Mỹ bán thời gian). Washington được lệnh “hành động tự vệ hay phản công” bất cứ khi nào ông nghĩ là tốt nhất.[31] Trong lúc làm tư lệnh của một ngàn binh sĩ, Washington là một sĩ quan có kỉ luật, luôn chú trọng vào việc huấn luyện. Ông lãnh đạo các binh sĩ của mình trong những chiến dịch tàn bạo chống người bản thổ Mỹ tại miền Tây; trong 10 tháng, các đơn vị thuộc trung đoàn của ông đã đánh 20 trận, và mất khoảng 1/3 quân số. Những nỗ lực chiến tranh hăng say của Washington có ý nghĩa quan trọng rằng dân chúng ở biên cương của Virginia chịu đựng thiệt hại ít hơn so với các thuộc địa khác; Ellis kết luận rằng “đây là thành công không được nhắc đến duy nhất của ông” trong cuộc chiến.[32][33]
Năm 1758, Washington tham gia vào cuộc viễn chinh Forbes nhằm chiếm Đồn Duquesne. Ông sượng sùng vì một vụ đánh nhầm khi đơn vị của ông và một đơn vị Anh tưởng lầm nhau là người Pháp và nổ súng. Kết quả có 14 người chết và 26 người bị thương trong vụ đó. Washington không tham dự vào bất cứ trận đánh lớn nào khác trong cuộc viễn chinh đó. Người Anh ghi được một chiến thắng chiến lược lớn bằng việc giành quyền kiểm soát Thung lũng Ohio khi người Pháp rút bỏ đồn. Theo sau cuộc viễn chinh, Washington từ chức khỏi Trung đoàn Virginia vào tháng 12 năm 1758. Ông không trở về đời sống quân nhân cho đến khi cuộc cách mạng bùng nổ vào năm 1775.[34]
Những bài học đã nghiệm qua
Tuy Washington chưa bao giờ được vào biên chế lục quân Anh mà ông mong ước nhưng trong những năm tháng chiến tranh đó, người thanh niên này đã tích lũy những kỹ năng về lãnh đạo, chính trị và quân sự quý giá.[35] Ông luôn tiếp cận quan sát các chiến thuật quân sự của người Anh, nắm bắt và hiểu rõ các điểm yếu và điểm mạnh của người Anh. Điều này đã được chứng minh là vô giá trong suốt cuộc Cách mạng Mỹ sau này. Ông chứng tỏ là một người can đảm và kiên cường trong những tình huống cực kỳ khó khăn nhất trong đó có các vụ tai biến và tháo lui. Ông đã phát triển ra một phong cách chỉ huy: đem hết sức lực, khả năng chịu đựng và sự dũng cảm của mình vào trận chiến. Đối với các chiến sĩ của mình, ông xuất hiện như một vị chỉ huy tự nhiên và họ tuyệt đối tuân lệnh ông mà không thắc mắc điều gì.[36][37] Washington học cách tổ chức, huấn luyện và kỷ luật các đơn vị trung đoàn và đại đội của mình. Qua đọc sách, quan sát và các cuộc trò chuyện với những sĩ quan nghiệp vụ, ông học được những căn bản về chiến thuật chiến trường cũng như hiểu rõ các vấn đề tổ chức và tiếp vận.[38] Ông hiểu biết tổng thể về chiến lược, đặc biệt là việc tìm ra những địa điểm địa lý chiến lược.[39] Sử gia Ron Chernow có ý kiến rằng vì Washington chán nản khi thương nghị với các viên chức chính phủ trong suốt cuộc xung đột nên ông đã tán thành những lợi ích của một chính phủ quốc gia mạnh mẽ với một cơ quan hành chính mạnh mẽ để có thể đạt được kết quả;[40] các sử gia khác có chiều hướng gán ghép ông có thái độ này đối với chính phủ khi ông phục vụ Chiến tranh Cách mạng Mỹ sau này.[Ghi chú 2] Ông nảy sinh một ý tưởng rất tiêu cực về giá trị của địa phương quân. Coi họ có vẻ không đáng tin cậy, rất bất kỉ luật, và chỉ phục vụ rất ngắn hạn khi so sánh với quân chính quy.[41] Mặt khác, kinh nghiệm chỉ huy của ông có giới hạn nhiều nhất là 1 ngàn binh sĩ và chỉ ở những địa hình biên cương xa xôi khắc hẳn với những tình thế đô thị mà ông đối diện trong suốt cuộc cách mạng ở các thành phố Boston, New York, Trenton và Philadelphia.[42]
Thời kỳ giữa các cuộc chiến tranh: ở Mount Vernon (1759–1774)
Ngày 6 tháng 1 năm 1759, Washington kết hôn với một quả phụ giàu có tên Martha Dandridge Custis. Các bức thư còn sót lại cho thấy rằng ông có thể đang yêu Sally Fairfax, vợ của một người bạn vào lúc đó.[43] Dù vậy, George và Martha rất xứng đôi vì Martha thông minh, duyên dáng, và có kinh nghiệm điều hành một đồn điền có nô lệ phục vụ.[44] Cả hai cùng nuôi hai đứa con của bà với người chồng quá cố là John Parke Custis và Martha Parke Custis, được gia đình gọi thân mật là “Jackie” và “Patsy”. Sau đó gia đình Washington nuôi hai trong số các cháu của bà Washington là Eleanor Parke Custis và George Washington Parke Custis. George và Martha Washington không có con cái chung — căn bệnh đậu mùa của ông vào năm 1751 có thể đã khiến cho ông không thể có con. Vì kiêu hãnh nên Washington không thể nào thừa nhận rằng minh không thể có con nhưng lúc riêng tư ông cảm thấy chán nản vì không thể có con.[45] Cặp vợ chồng mới cưới dời về Mount Vernon gần Alexandria nơi ông sống cuộc đời của một người trồng trọt và một khuôn mặt chính trị.
Cuộc hôn nhân của Washington với Martha đã làm gia tăng tài sản và địa vị xã hội của ông rất lớn lao. Ông trở thành một trong số những người giàu có nhất Virginia. Ông được một phần ba trong số 18.000 mẫu Anh (73 km²) điền sản của gia đình vợ ngay sau khi kết hôn, đáng giá khoảng $100.000 và quản lý phần điền sản còn lại cho con của Martha, những đứa con riêng của vợ mà ông chân thành chăm sóc.[46] Ông thường mua thêm đất và cũng được cấp phát đất ở vùng bây giờ là Tây Virginia như là tặng phẩm dành cho công lao phục vụ Chiến tranh chống người bản thổ và Pháp. Vào năm 1775, Washington tăng gấp đôi diện tích của Mount Vernon lên 6.500 mẫu Anh (26 km²) và tăng số lao động nô lệ ở đó lên trên 100 người. Vì là một anh hùng quân sự được nể trọng và một chủ đất lớn nên ông có chức vị tại địa phương và được bầu vào nghị viện tỉnh Virginia bắt đầu vào năm 1758.[47]
Washington có lối sống quý tộc — săn cáo là một hoạt động nhàn rỗi ưa thích của ông.[48] Ông cũng thích đi khiêu vũ và họp hội, ngoài ra còn có đi xem kịch, đua, và đá gà. Washington cũng được biết có chơi bài, backgammon và bi da.[49] Giống như đa số các nhà trồng trọt, ông nhập cảng những đồ dùng xa xỉ và hàng hóa khác từ Anh và trả tiền cho hàng hóa bằng xuất cảng thuốc lá mà ông trồng. Chi tiêu quá độ và sự không lường trước về thị trường thuốc lá đồng nghĩa với việc nhiều nhà trồng trọt ở Virginia vào thời Washington mất tiền. (Chẳng hạn như Thomas Jefferson qua đời với nợ nần chồng chất.)
Washington bắt đầu cứu mình khỏi nợ bằng cách kinh doanh đa dạng và chú ý hơn đến công việc làm của mình.[50] Năm 1766, ông thay đổi mùa vụ chính sinh lợi của Mount Vernon từ thuốc lá sang lúa mì. Lúa mì có thể bán được tại Mỹ, và làm nhiều thứ hoạt động kinh doanh khác trong đó có nhà máy làm bột mì, nuôi cá, nuôi ngựa, dệt vải. Patsy Custis (con gái riêng của vợ ông) mất năm 1773 vì động kinh giúp cho Washington trả hết nợ cho những chủ nợ người Anh vì phân nửa tài sản của Patsy được đưa sang cho ông.[51]
Là người trồng trọt thành công, ông trở thành một lãnh đạo trong giới thượng lưu xã hội tại Virginia. Từ năm 1768 đến năm 1775, ông mời khoảng 2000 khách mời đến điền sản Mount Vernon của mình, đa số là những người được ông xem là “người có đẳng cấp”. Đối với những người không có địa vị cao trong xã hội, lời khuyên của ông là “đối xử với họ lịch sự” nhưng “hãy giữ họ ở một tầm xa thích hợp vì khi họ càng quen biết mình thì đồng lúc bạn mất quyền lực đối với họ”.[52] Năm 1769, ông trở nên tích cực hoạt động chính trị, đệ trình lên nghị viện Virginia đạo luật cấm nhập cảng hàng hóa từ Vương quốc Anh.[53]
Năm 1754 Phó thống đốc Dinwiddie có hứa ban tặng đất đai cho các binh sĩ và sĩ quan tình nguyện phục vụ trong cuộc Chiến tranh chống người bản thổ và Pháp.[54] Washington nhiều năm cố tìm cách nhận lấy số đất đai được hứa cấp cho ông và binh sĩ của ông. Cuối cùng thì Thống đốc Norborne Berkeley cũng thực hiện lời hứa từ năm 1769-1770.[54][55] Washington nhận được 23.200 mẫu Anh gần nơi mà dòng chảy của sông Kanawha đổ vào sông Ohio, hiện nay là Tây Virginia.[56]
Cách mạng Mỹ (1775–1787)
Tuy ông bày tỏ sự chống đối Đạo luật Tem thuế 1765 (Stamp Act 1765), một đạo luật thuế áp đặt trực tiếp đầu tiên đối với các thuộc địa Bắc Mỹ nhưng ông đã không đóng một vai trò lãnh đạo trong cuộc phản kháng càng ngày gia tăng của các thuộc địa cho đến khi có các cuộc phản đối chống các đạo luật Townshend (được thông qua năm 1767) trở nên lan rộng. Tháng 5 năm 1769, Washington giới thiệu một đề nghị, được bạn của ông là George Mason thảo ra, kêu gọi thuộc địa Virginia tẩy chay hàng hóa của Anh cho đến khi nào các đạo luật này bị bãi bỏ.[57] Quốc hội Vương quốc Anh bãi bỏ các đạo luật Townshend năm 1770. Tuy nhiên, Washington xem việc thông qua Các đạo luật bất khoan dung (intolerable acts) năm 1774 như là “một sự xâm lấn quyền lợi và đặc quyền của chúng ta”.[58] Tháng 7 năm 1774, ông chủ tọa phiên họp trong đó “các giải pháp Fairfax” được thông qua, kêu gọi triệu tập một Quốc hội Lục địa cùng với nhiều việc khác nữa. Vào tháng 8 năm đó, Washington tham dự Hội nghị đầu tiên của Virginia trong đó ông được bầu làm một đại biểu đại diện cho Virginia tại Đệ nhất Quốc hội Lục địa.[59]
Tổng tư lệnh
Sau các trận đánh tại Lexington và Concord gần thành phố Boston vào tháng 4 năm 1775, tất cả các thuộc địa đều tham chiến. Washington xuất hiện tại Đệ nhị Quốc hội Lục địa trong quân phục, chứng tỏ rằng ông đã sẵn sàng cho chiến tranh.[60] Washington có thanh thế, kinh nghiệm quân sự, sức thu hút, từng là một lãnh đạo quân sự và được người ta biết đến như là một người yêu nước cao độ. Là một thuộc địa lớn nhất trong số 13 thuộc địa và nằm ở miền Nam, Virginia đáng được công nhận. Tân Anh, nơi chiến tranh khởi sự, cảm thấy rằng họ cần có sự ủng hộ cần thiết của miền Nam. Washington bày tỏ rõ thái độ của mình là không muốn tìm cách làm tư lệnh, và ông có nói rằng ông không xứng với chức vụ đó nhưng chẳng có ai thật sự muốn tranh chức vụ này.[61] Quốc hội Lục địa thành lập Lục quân Lục địa vào ngày 14 tháng 6 năm 1775. Được John Adams của thuộc địa Massachusetts đề cử, Washington sau đó được bổ nhiệm làm thiếu tướng và tổng tư lệnh.[1]
Washington có ba vai trò trong cuộc chiến tranh. Năm 1775-77, và lần nữa vào năm 1781 ông lãnh đạo binh sĩ của mình đánh nhau với các lực lượng chính của Anh. Tuy ông thua nhiều trận nhưng ông chưa bao giờ ra lệnh cho quân đội mình đầu hàng trong suốt cuộc chiến tranh. Ông tiếp tục chiến đấu không nao núng chống người Anh cho đến khi chiến tranh kết thúc. Phối hợp với Quốc hội Lục địa, ông hoạch định toàn bộ chiến lược chiến tranh.
Thứ hai, ông đứng ra tổ chức và huấn luyện lục quân. Ông tuyển mộ quân chính quy và giao nhiệm vụ cho tướng von Steuben, một chuyên gia quân sự người Đức, huấn luyện họ. Ông không nhận trách nhiệm đối với nguồn tiếp liệu mà lúc nào cũng thiếu hụt nhưng ông luôn làm áp lực với Quốc hội và các tiểu bang cung cấp nhu yếu phẩm.[62] Washington có tiếng nói quan trọng trong việc chọn lựa các tướng lãnh tư lệnh và trong việc hoạch định chiến lược cơ bản của họ.[63] Những thành tựu của ông thì hỗn tạp vì một số người mà ông chọn lựa lại chưa bao giờ giỏi về thuật chỉ huy. Dần dần ông tìm được các sĩ quan có khả năng như tướng Nathaniel Greene, và tham mưu trưởng của ông là Alexander Hamilton. Các sĩ quan Mỹ không bao giờ đạt trình độ tương bằng với các đối thủ người Anh của họ trong chiến thuật và tác chiến. Dần dần họ thua phần lớn các trận đánh đã chọn địa điểm trước (pitched battles). Các thành công lớn tại Boston (1776), Saratoga (1777) và Yorktown (1781) xảy ra khi quân cách mạng gài bẫy dụ quân Anh ra xa khỏi căn cứ có nhiều quân số để dễ dàng tiêu diệt quân Anh hơn.
Thứ ba và quan trọng nhất, Washington là hiện thân của cuộc kháng chiến vũ trang chống Vương miện – ông là người đại diện của cuộc Cách mạng. Tầm vóc to lớn và tài năng chính trị của ông đã khiến cho Quốc hội Lục địa, lục quân, người Pháp, địa phương quân và các tiểu bang đều hướng về một mục tiêu chung. Bằng việc tự nguyện từ chức và giải ngũ lục quân của mình sau khi chiến tranh kết thúc thắng lợi, ông vĩnh viễn thiết lập ra nguyên tắc dân sự là trên hết trong quân vụ. Và còn nữa, ông thường luôn lặp lại quan điểm rằng các binh sĩ nhà nghề có kỉ luật tốt thì luôn hơn hẳn gấp đôi những binh sĩ tự nguyện nhưng vô kỉ luật. Các binh sĩ nhà nghề như thế sẽ giúp người ta bỏ đi ý tưởng ngờ vực đối với một quân đội hiện dịch.[64]
Chiến thắng tại Boston
Washington nhận lại chức vụ tư lệnh Lục quân Lục địa tại chiến trường Cambridge, Massachusetts vào tháng 7 năm 1775 trong lúc cuộc bao vây thành phố Boston đang tiếp diễn. Nhận thấy quân của mình thiếu hụt thuốc súng trầm trọng nên Washington yêu cầu xin thêm nguồn tiếp tế mới. Quân Mỹ đột kích những kho thuốc súng của Anh trong đó có một số kho nằm trong vùng Caribbe, và cũng họ tự tìm cách sản xuất ra một số. Quân Mỹ nhận nguồn tiếp tế gần như vừa đủ (khoảng 2,5 triệu cân Anh) vào cuối năm 1776, phần lớn là từ Pháp.[65] Washington tái tổ chức lục quân trong suốt cuộc bao vây kéo dài, và buộc quân Anh rút lui bằng pháo binh đặt trên điểm cao Dorchester Heights nhìn xuống thành phố. Quân Anh rút chạy khỏi Boston vào tháng 3 năm 1776 và Washington di chuyển quân đến Thành phố New York.
Tuy rất kinh thường đa số những người yêu nước Mỹ nhưng báo chí Anh luôn ca ngợi phẩm chất và tính cách cá nhân của Washington trong vai trò một tư lệnh quân sự. Những bài báo này được xem là rất bạo vì Washington là tướng quân thù địch đang lãnh đạo một quân đội theo đuổi một mục tiêu mà nhiều người Anh tin rằng sẽ hủy hoại Đế quốc Anh.[66]
Bại trận tại Thành phố New York và chiến thuật Fabius
Tháng 8 năm 1776, tướng Anh là William Howe mở một chiến dịch hải bộ lớn nhằm mục đích chiếm thành phố New York. Lục quân Lục địa dưới quyền của Washington giao chiến với kẻ thù lần đầu tiên trong vai trò là một lục quân của Hiệp chủng Quốc mới độc lập tại trận Long Island, trận đánh lớn nhất trong toàn bộ cuộc chiến tranh này. Người Mỹ ít quân số hơn nhiều so với lực lượng Anh. Nhiều binh sĩ Mỹ đào ngũ, và Washington bị đại bại. Dần sau đó, Washington bị buộc phải tháo lui qua sông East vào ban đêm. Ông làm vậy mà không có tổn thất về nhân mạng cũng như trang bị.[67] Washington rút lui về phía bắt khỏi thành phố để tránh bị bao vây, tạo cơ hội cho tướng Howe tấn công và chiếm đồn Washington vào ngày 16 tháng 1 với số tử thương cao cho Lục quân Lục địa. Washington sau đó rút lui ngang New Jersey; tương lai của Lục quân Lục địa bị ngờ vực vì lệnh nhập ngũ hết hạn và một loạt những cuộc bại trận.[68] Vào đêm 25 tháng 12 năm 1776, Washington quay trở lại tấn công bất ngờ vào một tiền đồn của quân Hessian (quân đánh thuê người Đức trong thế kỷ 18) tại tây New Jersey. Ông dắt lục quân của mình vượt sông Delaware để bắt sống gần 1.000 binh sĩ Hessian tại Trenton, New Jersey. Sau chiến thắng của mình tại Trenton, Washington ghi thêm một chiến thắng khác chống quân chính qui Anh tại Princeton vào đầu tháng 1. Quân Anh rút lui trở về Thành phố New York và vùng phụ cận thành phố và họ chiếm giữ ở đó cho đến khi hiệp định hòa bình năm 1783. Các chiến thắng của Washington đã nhấn chìm chiến lược “củ cà-rốt và cây gậy” của người Anh – phô trương lực lượng mạnh rồi khuyến dụ với các ngôn từ rộng lượng. Người Mỹ quyết không thương thuyết điều gì cả ngoài độc lập.[69] Những chiến thắng này tự nó không đủ bảo đảm chiến thắng sau cùng của phe yêu nước tuy nhiên nhiều binh sĩ đã không tái đầu quân hoặc có nhiều người đào ngũ trong mùa đông ác nghiệt. Washington và Quốc hội tái tổ chức lục quân bằng việc gia tăng tưởng thưởng cho binh sĩ ở lại trong quân ngũ và cũng gia tăng hình phạt cho những ai đào ngũ. Việc này có hiệu quả làm tăng quân số cho các trận chiến sau cuối.[70]
Các sử gia vẫn còn tranh luận rằng có phải chăng Washington thích chọn chiến lược Fabius[71] để gây hoang mang cho quân Anh bằng các cuộc tấn công nhanh và sắc bén rồi sau đó rút lui để lục quân to lớn hơn của Anh không thể bắt được ông hay ông thích chọn đánh những trận chiến lớn.[72] Trong khi tư lệnh miền Nam của ông là Greene sử dụng các chiến thuật Fabius vào những năm 1780-81 thì Washington chỉ dùng các chiến thuật này vào mùa thu năm 1776 đến mùa xuân năm 1777 sau khi để mất thành phố New York và nhìn thấy phần lớn lục quân của ông tan rã. Trận Trenton và Princeton là hai thí dụ về chiến thuật Fabius. Tuy nhiên vào mùa hè năm 1777, sau khi Washington đã tái lập sức mạnh và sự tự tin, ông ngưng dùng các trận đột kích và sẵn sàng các trận đối đầu có tầm cỡ lớn, thí dụ như các trận ở Brandywine, Germantown, Monmouth và Yorktown.[73]
Các chiến dịch năm 1777
Cuối mùa hè năm 1777, lực lượng Anh dưới sự chỉ huy của John Burgoyne đưa một quân đoàn xâm nhập lớn từ Quebec xuống phía Nam với ý định cắt đứt vùng Tân Anh nổi loạn. Tướng Anh là Howe tại New York đưa quân đoàn của ông về hướng nam đến Philadelphia thay vì lên phía trên sông Hudson để họp mặt với quân của Burgoyne gần Albany. Đây là một lỗi lầm chiến lược lớn đối với quân Anh. Washington liền vội vã tiến về Philadelphia để giáp chiến Howe trong khi đó theo dõi sát hành động trên vùng thượng bang New York. Trong các trận đánh giáp mặt quá phức tạp cho các binh sĩ tương đối không kinh nghiệm, quân của Washington bị đánh bại. Trong trận Brandywine ngày 11 tháng 9 năm 1777, chiến thuật của Howe hơn hẳn Washington. Kết quả là Howe hành quân vào thủ đô Mỹ vào lúc đó là Philadelphia mà không gặp sự phản kháng nào ngày 26 tháng 9. Quân của Washington tấn công bất thành quân đồn trú của Anh tại Germantown đầu tháng 10. Trong lúc Burgoyne ở ngoài tầm giải cứu của Howe nên bị vây bủa và buộc phải ra lệnh toàn bộ quân đoàn của mình đầu hàng tại Saratoga, New York.[74] Đây là một điểm quay chính cả về mặt quân sự và ngoại giao. Pháp phản ứng việc Burgoyne bại trận bằng cách tham chiến, công khai liên minh với Mỹ và biến cuộc Chiến tranh Cách mạng thành một cuộc chiến tranh lớn có tầm cỡ thế giới. Việc Washington để mất Philadelphia đã khiến cho một số thành viên Quốc hội Mỹ thảo luận về việc tước quyền tư lệnh của Washington. Nỗ lực này bị thất bại sau khi những người ủng hộ Washington tề tựu ủng hộ đằng sau ông.[75]
Valley Forge
Lục quân gồm 11 ngàn binh sĩ của Washington[76] đến đóng quân mùa đông tại Valley Forge nằm ở phía bắc Philadelphia vào tháng 12 năm 1777. Trong khoảng thời gian 6 tháng, con số người chết trong trại lên đến hàng ngàn người (đa số do bệnh tật),[77] theo các ước tính của các sử gia thì con số người chết có từ 2000[77] đến 2500[78][79] thậm chí lên đến trên 3000 binh sĩ.[80] Tuy nhiên, đến mùa xuân, lục quân lộ diện từ Valley Forge trong đội hình tốt một phần nhờ vào một chương trình huấn luyện tầm cỡ do Baron von Steuben, một cựu chiến binh của bộ tổng tham mưu Phổ. Người Anh rút bỏ Philadelphia về New York năm 1778 bị Washington theo dõi. Washington liền tấn công họ tại Monmouth. Đây là một trận đánh không phân thắng bại và là một trong các trận đánh lớn nhất trong cuộc chiến tranh. Sau cùng, người Anh tiếp tục hướng về New York, và Washington di chuyển quân của mình ra khỏi New York.
Chiến thắng tại Yorktown
Mùa hè năm 1779, theo chỉ thị của Washington, Tướng John Sullivan thực hiện một chiến dịch tiêu thổ tàn phá ít nhất 40 ngôi làng của người bản thổ Iroquois trong khắp vùng mà ngày nay là trung và thượng tiểu bang New York; người bản thổ ở trong vùng này là đồng minh của Anh. Họ thường đột kích các khu định cư Mỹ trong vùng biên cương.[81] Tháng 7 năm 1780, 5.000 binh sĩ thuộc cựu chiến binh Pháp, do Tướng Comte Donatien de Rochambeau chỉ huy, đến Newport, Rhode Island để trợ giúp nỗ lực chiến tranh của người Mỹ.[82] Nhờ sự trợ giúp tài chính có giá trị khoảng $20.000 bằng vàng của Pháp cho Lục quân Lục địa, Washington đã thực hiện cú đánh cuối cùng chống người Anh năm 1781 sau khi chiến thắng của người Pháp trong 1 trận hải chiến đã giúp cho các lực lượng Pháp và Mỹ bao vây một quân đoàn Anh tại Virginia. Sự kiện người Anh đầu hàng tại Yorktown vào ngày 17 tháng 10 năm 1781 đã đánh dấu sự chấm dứt chiến sự lớn tại lục địa Bắc Mỹ.[83]
Giải giới
Washington không thể tin rằng sau trận Yorktown người Anh sẽ không tái mở các chiến dịch thù nghịch chống Lục quân Lục địa. Người Anh vẫn còn khoảng 26.000 quân đang chiếm đóng Thành phố New York, Charleston và Savannah cùng với một hạm đội hùng mạnh. Lục quân và hải quân Pháp đã rút đi, vì thế chỉ còn lại người Mỹ tự chống đỡ từ năm 1782-83. Ngân khố Mỹ trống trơn, các binh sĩ không được trả lương ngày càng ngang bướng, gần như đến lúc muốn nổi loạn hoặc có tiềm năng làm đảo chính. Washington giúp tránh bạo loạn trong hàng ngũ các sĩ quan của mình bằng việc can thiệp vào một sự kiện thường gọi là âm mưu Newburgh vào tháng 3 năm 1783. Kết cuộc là Quốc hội đưa ra lời hứa phát tiền thưởng trong 5 năm.[84]
Theo Hiệp định Paris (ký vào tháng 9 năm đó), Vương quốc Anh công nhận nền độc lập của Hoa Kỳ. Washington giải tán lục quân của mình và vào ngày 2 tháng 11, ông đọc một bài diễn văn từ biệt hùng hồn trước binh sĩ.[85]
Ngày 25 tháng 11, người Anh di tản khỏi Thành phố New York. Washington và thống đốc tiếp quản thành phố. Ngày 4 tháng 12, tại Quán rượu Fraunces, Washington chính thức từ biệt các sĩ quan của mình và vào ngày 23 tháng 12 năm 1783, ông từ chức tổng tư lệnh. Sử gia Gordon Wood kết luận rằng hành động vĩ đại nhất trong đời của Washington là việc ông từ chức tổng tư lệnh — một hành động đã làm cho quý tộc châu Âu phải bàng hoàng rúng động.[86] Vua George III đã gọi Washington “nhân vật vĩ đại nhất thời đại” vì hành động này.[87]
Hội nghị Hiến pháp năm 1787
Cuộc sống hưu trí của Washington ở Mount Vernon chỉ tồn tại ngắn ngủi. Ông thực hiện một chuyến thám hiểm đến biên cương phía Tây vào năm 1784,[1] được thuyết phục tham gia Hội nghị Hiến pháp tại Philadelphia vào mùa hè năm 1787, và được bầu làm chủ tịch Hội nghị này. Ông tham dự ít vào các buổi tranh luận (tuy ông có bỏ phiếu chống hoặc thuận cho nhiều điều khoản khác nhau) nhưng uy tín cao của ông đã giúp ông duy trì quyền lực trong hội nghị và giữ chân các đại biểu tiếp tục làm việc của họ. Trong đầu các đại biểu là muốn lập ra chức tổng thống cho Washington, và họ sẽ cho phép ông định nghĩa chức vụ này một khi ông được bầu.[88] Sau hội nghị, sự ủng hộ của ông đã thuyết phục nhiều người bỏ phiếu thông qua hiến pháp; Hiến pháp mới được tất cả 13 tiểu bang thông qua.[89]
Giai đoạn làm tổng thống (1789–1797)
Đại cử tri đoàn nhất trí bầu Washington làm vị tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ năm 1789,[Ghi chú 3] và lần nữa vào năm 1792; ông là tổng thống duy nhất nhận được 100 phần trăm phiếu đại cử tri.[Ghi chú 4] John Adams, người có số phiếu cao tiếp theo sau, được bầu làm Phó tổng thống. Tại buổi lễ nhậm chức, Washington tuyên thệ nhận chức Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ vào ngày 30 tháng 4 năm 1789 tại Đại sảnh Liên bang trong thành phố New York.
Quốc hội Hoa Kỳ lần thứ nhất biểu quyết trả lương cho Washington $25.000 một năm – đây là một con số lớn vào năm 1789. Washington, đã giàu có vào lúc đó, từ chối nhận lương vì ông coi trọng hình tượng của mình như là một đầy tớ công bất vị kỷ. Tuy nhiên sau đó ông cũng chấp nhận tiền lương vì bị Quốc hội hối thúc để tránh tạo ra một tiền lệ rằng chức vụ tổng thống chỉ được nhìn nhận có giới hạn đến những cá nhân giàu có độc lập, có thể phục vụ mà không cần bất cứ tiền lương nào.[91] Vì nhận biết rằng mọi thứ mà ông làm sẽ tạo nên một tiền lệ sau này nên Washington cẩn thận tham dự buổi lễ nhậm chức một cách trịnh trọng. Ông muốn chắc rằng chức danh và lễ phục phải xứng hợp với nền cộng hòa và không bao giờ mang nét phong kiến châu Âu. Vào lúc cuối, ông thích chức danh “Ngài Tổng thống” hơn là những cái tên gọi uy nghiêm hơn.[92]
Washington chứng tỏ là một người có tài lãnh đạo chính phủ. Là một đại diện xuất chúng, nhà phán đoán lỗi lạc và cá tính, Washington nói chuyện thường xuyên với các lãnh đạo các bộ và lắng nghe lời khuyên cáo của họ trước khi tạo quyết định tối hậu.[93] Khi xử lý công việc chính phủ hàng ngày, ông “rất có hệ thống, trật tự, nhiệt tâm, luôn xin ý kiến của người khác nhưng quả quyết…”[94]
Washington miễn cưỡng phục vụ nhiệm kỳ thứ hai. Ông từ chối ra tranh cử nhiệm kỳ ba và đã tạo ra tiền lệ rằng tổng thống chỉ phục vụ tối đa hai nhiệm kỳ.
Các vấn đề đối nội
Washington không thuộc một đảng phái chính trị nào và hy vọng rằng các đảng chính trị sẽ không được thành lập vì sợ sự xung đột đảng phái sẽ làm tiêu tan chủ nghĩa cộng hòa.[95] Các cố vấn thân cận nhất của ông lập ra hai phe phái, khởi tạo ra khung sườn cho Hệ thống Đảng phái lần thứ nhất trong tương lai. Bộ trưởng Ngân khố Alexander Hamilton có các kế hoạch liều lĩnh nhằm thiết lập hệ thống tín dụng quốc gia và xây dựng một quốc gia mạnh về tài chính, và ông cũng đã lập ra cơ bản cho đảng Liên bang. Bộ trưởng Ngoại giao Thomas Jefferson, người sáng lập đảng Cộng hòa Jefferson, liên tiếp chống đối chương trình nghị sự của Hamilton nhưng nói chung Washington ưu ái Hamilton hơn là Jefferson. Kết quả, chương trình nghị sự của Hamilton trở thành có hiệu lực.[96]
Đạo luật Dinh cư năm 1790, được Washington ký, cho phép Tổng thống Hoa Kỳ chọn lựa vị trí rõ rệt nào đó để làm nơi thường trực của chính phủ. Vị trí này phải nằm dọc theo sông Potomac. Đạo luật cho phép Tổng thống bổ nhiệm ba ủy viên tiến hành thị sát và tìm cách thu hồi vùng đất để làm thủ đô. Cá nhân Washington trông coi nỗ lực này trong suốt nhiệm kỳ tại chức của mình. Năm 1791, các ủy viên đặt tên cho thủ đô thường trực này là “Thành phố Washington trong Lãnh thổ Columbia” để vinh danh Washington. Năm 1800, Lãnh thổ Columbia trở thành Đặc khu Columbia khi chính phủ liên bang dời về nơi thích hợp theo các điều khoản của Đạo luật Dinh cư.[97]
Năm 1791, Quốc hội áp đặt thuế môn bài lên các loại rượu khiến gây ra các cuộc phản đối nổ ra tại các khu vực biên cương, đặc biệt là tại tiểu bang Pennsylvania. Năm 1794, sau khi Washington ra lệnh những người biểu tình ra trình diện tại tòa án khu vực của Hoa Kỳ thì các cuộc phản đối trở nên bất chấp đối với chính phủ liên bang với qui mô lan rộng, được biết với tên gọi là Cuộc nổi loạn Whiskey. Lục quân liên bang quá nhỏ nhoi không thể dùng đến nên Washington áp dụng Đạo luật Quân sự 1792 để triệu hồi địa phương quân từ các tiểu bang Pennsylvania, Virginia và một số tiểu bang khác đến giúp. Các thống đốc phái binh sĩ đến. Washington tiếp nhận chức tư lệnh và đưa quân vào các khu vực nổi loạn. Những người nổi loạn tự giải tán và không có xung đột nào vì hành động mạnh bạo của Washington đã chứng minh rằng chính phủ mới có thể tự bảo vệ mình. Các sự kiện này đánh dấu lần đầu tiên dưới hiến pháp mới rằng chính phủ liên bang đã sử dụng lực lượng quân sự mạnh để thực thi quyền lực của mình đối với các tiểu bang và công dân.[98]
Ngoại giao
Năm 1791, chẳng bao lâu sau khi Cách mạng Haiti bùng nổ, theo yêu cầu của người Pháp, chính phủ Washington đồng ý gởi tiền bạc, vũ khí và các đồ tiếp liệu khác đến thuộc địa Saint-Domingue (ngày nay là Haiti) thuộc Pháp để giúp những người thực dân đang hoang mang này. Sự trợ giúp này là một phần trong khoản trả nợ mà Hoa Kỳ thiếu trong Chiến tranh Cách mạng. Con số này dần dần lên đến khoảng $400.000.[99]
Mùa xuân năm 1793, một cuộc chiến tranh lớn nổ ra giữa nước Anh bảo thủ cùng với đồng minh của họ chống nước Pháp cách mạng, mở đầu một thời đại chiến tranh lan rộng khắp châu Âu mãi cho đến năm 1815. Được sự chấp thuận của nội các, Washington tuyên bố nước Mỹ trung lập. Chính phủ cách mạng Pháp phái nhà ngoại giao Edmond-Charles Genêt (được biết đến là công dân Genêt) đến Mỹ. Genêt được chào đón nhiệt liệt tại Mỹ. Ông tuyên truyền cho phía Pháp trong cuộc chiến tranh giữa Pháp và Anh. Với mục đích này, ông giúp đẩy mạnh phát triển một hệ thống gồm nhiều hội Dân chủ ở các thành phố lớn. Ông cấp phát thư ủy quyền tấn công của chính phủ Pháp cho các tàu Pháp được điều khiển bởi thủy thủ đoàn người Mỹ để họ có thể tấn công chiếm dụng các thương thuyền của Anh. Việc này làm cho Washington giận dữ, yêu cầu chính phủ Pháp triệu hồi Genêt về nước. Washington cũng lên án các hội dân chủ.[100]
Hamilton và Washington thảo ra Hiệp định Jay để bình thường hóa quan hệ mậu dịch với Anh, yêu cầu họ rút khỏi các pháo đài ở phía Tây, giải quyết các món nợ tài chính còn sót lại từ thời cách mạng.[101] John Jay là người đứng ra thương thuyết và ký hiệp định này vào ngày 19 tháng 11 năm 1794. Phe phái của Jefferson ủng hộ Pháp và mạnh mẽ công kích hiệp định này. Sự ủng hộ mạnh mẽ của Washington đã vận động được ý dân và đã chứng tỏ có ý nghĩa định đoạt khi hiệp định này được thông qua tại Thượng viện với tỉ lệ 2/3 đa số phiếu cần thiết.[102] Người Anh đồng ý bỏ các pháo đài của họ quanh Ngũ Đại Hồ, sau đó biên giới Hoa Kỳ-Canada được tái điều chỉnh, vô số các món nợ trước cách mạng Mỹ được thanh toán, và người Anh mở cửa các thuộc địa Tây Ấn của mình để giao thương với Mỹ. Quan trọng nhất, hiệp định đã giúp tạm gác lại chiến tranh với Anh và thay vào đó là một thập niên giao thương thịnh vượng với Anh. Hiệp ước này làm người Pháo giận dữ và trở thành một vấn đề trung tâm trong nhiều cuộc tranh cãi chính trị.[103]
Diễn văn từ biệt
Bài diễn văn từ biệt của Washington (được công bố trong hình thức một lá thư gởi đến công chúng vào năm 1796) là một trong những lời tuyên bố có sức ảnh hưởng nhất về chủ nghĩa cộng hòa. Lá thư này phần lớn được Washington tự thảo ra cùng với sự giúp đỡ của Hamilton. Lá thư nhắn nhủ về nhu cầu và tầm quan trọng của sự thống nhất quốc gia, giá trị của Hiến pháp Hoa Kỳ và pháp quyền, những độc hại của các đảng phái chính trị và những đức tính đáng quý của một công dân cộng hòa. Ông gọi giá trị đạo đức là “một động cơ cần thiết của chính quyền nhân dân.”[104]
Bài diễn văn chính trị gởi công chúng của Washington cảnh báo chống lại sự ảnh hưởng của ngoại quốc trong các vấn đề đối nội và sự can thiệp của Mỹ trong các vấn đề của châu Âu. Ông cảnh báo chống lại chủ nghĩa đảng phái trong nền chính trị quốc nội và kêu gọi mọi người nên vượt ra ngoài đảng phái và phục vụ lợi ích chung. Ông cảnh báo chống lại “những liên minh thường trực với bất cứ phần nào trên thế giới ở ngoại quốc”.[105] Ông nói rằng Hoa Kỳ phải tập trung chủ yếu vào những lợi ích của Mỹ. Ông khuyên Hoa Kỳ nên làm bạn và giao thương với tất cả các quốc gia nhưng cảnh báo chống lại sự can thiệp của Mỹ tại các cuộc chiến tranh tại châu Âu hay gia nhập vào các liên minh “vướng bận” dài hạn. Bài diễn văn nhanh chóng ấn định những giá trị Mỹ liên quan đến các vấn đề đối ngoại.[106]
Về hưu (1797–1799)
Sau khi kết thúc nhiệm kỳ tổng thống và về hưu vào tháng 3 năm 1797, Washington quay trở về Mount Vernon với cảm giác rất thoải mái. Ông dành ra nhiều thời gian cho nông trại và nhiều công việc thương mại khác trong đó có xưởng nấu rượu. Xưởng nấu rượu này cho ra lò một mẻ rượu đầu tiên vào tháng 2 năm 1797.[107] Theo Chernow (2010) giải thích, các hoạt động nông trại của ông thì sinh lợi rất tốt đẹp. Những vùng đất xa ở biên cương phía Tây sinh lợi rất ít vì chúng thường bị người bản thổ Mỹ tấn công và những người lập nghiệp sống ở đó không chịu trả tiền thuê đất cho ông. Tuy nhiên đa số người Mỹ mặc định rằng ông thật sự rất giàu có vì “vẻ hào quang thịnh vượng và hùng vĩ” nổi tiếng của nông trại Mount Vernon của ông.[108] Các sử gia ước tính tài sản của ông đáng giá khoảng 1 triệu đô la Mỹ của năm 1799, tương đương khoảng $18 triệu đô la của năm 2009.[109]
Ngày 4 tháng 7 năm 1798, Washington được Tổng thống John Adams ủy nhiệm vào cấp bậc trung tướng và tổng tư lệnh tất cả các quân đoàn lục quân đã được hoặc sẽ được tuyển mộ để phục vụ một cuộc chiến tranh có thể xảy ra trong tương lai với Pháp. Ông phục vụ với tư cách là sĩ quan cao cấp của Lục quân Hoa Kỳ trong khoảng thời gian từ 13 tháng 7 năm 1798 và 14 tháng 12 năm 1799. Ông tham gia vào việc lập kế hoạch cho một lực lượng Lục quân Lâm thời để đối phó với bất cứ tình hình khẩn cấp nào có thể xảy ra nhưng ông không ra trận. Vị tư lệnh đứng thứ hai sau ông, Hamilton, là người trực tiếp lãnh đạo lục quân.[110]
Qua đời
Thứ năm ngày 12 tháng 12 năm 1799, Washington dành vài tiếng đồng hồ trên lưng ngựa để kiểm tra nông trại của mình bị tuyết rơi, mưa đá và mưa băng – đến chiều tối hôm đó, ông ngồi ăn buổi tối mà không có thay quần áo ướt. Sáng thứ sáu, ông tỉnh giấc thấy đau cổ họng dữ dội (có lẽ viêm họng hay đau thanh quản cấp tính) và cảm thấy càng thêm khan cổ khi ngày trôi qua. Vào khoảng 3 giờ sáng thứ bảy, ông đánh thức vợ ông và nói rằng ông cảm thấy bệnh trong người. Bệnh tình ngày thêm trầm trọng cho đến khi ông mất tại nhà vào khoảng 10h tối thứ bảy ngày 14 tháng 12 năm 1799, thọ 67 tuổi. Lời cuối cùng của ông là “‘Tis well” (tạm hiểu là tốt lắm, tôi chết đau đớn nhưng tôi không sợ).[111][112]
Khắp thế giới, mọi người đều buồn bã vì cái chết của Washington. Napoleon ra lệnh 10 ngày tang lễ khắp nước Pháp; tại Hoa Kỳ, hàng ngàn người vận quần áo tang trong nhiều tháng.[113] Để bảo mật sự riêng tư của họ, Martha Washington đốt hết các thư từ của ông bà viết cho nhau sau khi ông mất. Chỉ còn lại ba lá thứ giữa hai người vẫn tồn tại đến ngày nay.
Ngày 18 tháng 12 năm 1799, lễ tang được tổ chức tại Mount Vernon. Ông được chôn cất tại nơi đây.[114]
Với sự ủng hộ của vợ ông, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua nghị quyết chung nhằm xây một tượng đài bằng cẩm thạch trong Tòa Quốc hội Hoa Kỳ để cất giữ thân xác ông. Tháng 12 năm 1800, Hạ viện Hoa Kỳ đưa một đạo luật chi tiêu khoảng $200.000 để xây dựng lăng mộ hình kim tự tháp có đáy rộng 100 bộ vuông (30 mét vuông). Sự phản đối dự án này từ miền Nam đã đánh bại đạo luật vì người miền Nam cảm thấy để xác của ông tại Mount Vernon là tốt nhất (ông là người từ Virginia, một tiểu bang miền Nam vào thời đó).[115]
Năm 1831, để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của ông, một ngôi mộ mới được xây cho ông. Năm đó, có một âm mưu đánh cắp xác của ông đã được thực hiện nhưng được chứng minh là không thành công.[116] Dù vậy, một ủy ban quốc hội chung (ủy ban của cả hai viện lập pháp) vào đầu năm 1832 đã bàn thảo đến việc dời thân thể của Washington ra khỏi Mount Vernon để đưa đến một hầm mộ trong Tòa nhà Quốc hội do Charles Bullfinch xây vào thập niên 1820. Lại thêm một lần nữa, sự chống đối từ miền Nam tỏ ra rất dữ dội, do sự hiềm khích ngày càng sâu rộng giữa miền Nam và miền Bắc. Dân biểu Wiley Thompson của tiểu bang Georgia phát biểu về nỗi lo sợ của người miền Nam khi ông nói:
“ | Đưa hài cốt Washington kính yêu của chúng tôi tách rời khỏi nơi có hài cốt thân nhân và tổ tiên của ông từ Mount Vernon và ra xa khỏi tiểu bang nhà của ông để đem đặt trong thủ đô này, và rồi nếu có xảy ra sự tan rã liên bang này, thì hãy xem lúc đó hài cốt của Washington sẽ nằm trên một bến bờ xa lạ so với đất quê hương của ông.[117] | ” |
Điều này làm các cuộc bàn thảo về việc di dời hài cốt của ông chấm dứt, và ông được đưa vào ngôi mộ mới được xây dựng tại đó vào ngày 7 tháng 10 năm 1837 với sự chủ trì của John Struthers từ thành phố Philadelphia.[118] Sau buổi lễ, cửa hầm mộ bên trong được đóng lại và chìa khóa mở ngôi mộ được quăng xuống sông Potomac.[119]
Di sản
Dân biểu Henry “Light-Horse Harry” Lee, một người bạn chiến đấu của ông thời Chiến tranh Cách mạng Mỹ, nổi tiếng qua những lời lẽ ca ngợi Washington như sau:[120]
Người đầu tiên trong chiến tranh, người đầu tiên trong hòa bình, và người đầu tiên nằm trong lòng dân tộc, ông là người có một không hai về đức tính khiêm nhường và trải qua những đoạn đời riêng tư. Lễ nghĩa, công bình, nhân đạo, ôn hòa, và thành thật; trước sau như một, trang nghiêm, và uy nghi; mẫu người của ông như đang soi sáng cho tất cả những người quanh ông cũng như những hiệu ứng của mẫu hình này vẫn đang trường tồn… Xuyên suốt chúng, cái xấu rúng động trước sự hiện diện của ông và cái đẹp luôn cảm thấy có bàn tay giúp đỡ của ông. Đức tính cá nhân thanh khiết của ông đã thắp sáng đức độ phục vụ công chúng của ông… Ông là một người đàn ông như thế, người đàn ông mà quốc gia chúng ta đang thương tiếc.
Lời lẽ ca ngợi của Lee đã tạo ra chuẩn mực mà qua đó danh tiếng vượt bậc của Washington có ấn tượng sâu sắc trong ký ức của người Mỹ. Washington đã tạo ra nhiều tiền lệ cho chính phủ quốc gia, và đặc biệt là cho chức vụ tổng thống. Ông được gọi là “cha già dân tộc” bắt đầu kể từ năm 1778.[123][124][125] Sinh nhật của Washington (được chào mừng trong ngày Lễ Tổng thống), là một ngày nghỉ lễ liên bang tại Hoa Kỳ.[126]
Trong năm chào mừng “Hoa Kỳ 200 năm”, George Washington được vinh thăng lên cấp bậc Đại thống tướng theo nghị quyết chung của Quốc hội Hoa Kỳ (xin xem Công luật 94-479), được thông qua vào ngày 19 tháng 1 năm 1976, có hiệu lực vào ngày 4 tháng 7 năm 1976.[1] Hành động này đã nâng vị trí của Washington lên thành vị sĩ quan quân sự cao cấp nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
Cây Cherry
Những câu chuyện mơ hồ về tuổi thơ của Washington gồm có câu chuyện cho rằng ông đánh lướt một đô la bằng bạc chạy băng qua sông Potomac ở Mount Vernon và rằng ông đốn ngã cây cherry của cha ông, và thừa nhận hành vi này khi bị tra hỏi; “Con không thể nói dối, ba à”. Giai thoại này lần đầu tiên được Parson Weems, người chuyên viết tiểu sử, tường thuật. Ông này đã phỏng vấn những người biết Washington lúc nhỏ. Phiên bản câu chuyện từ Weems được in ấn rộng khắp suốt thế kỷ 19, chẳng hạn như trong McGuffey Readers. Những người lớn có đầu óc đạo đức luôn mong muốn trẻ em học những bài học luân lý trong quá khứ lịch sử, đặc biệt từ những đại anh hùng quốc gia như Washington. Tuy nhiên sau năm 1890, các sử gia viện dẫn qua những phương pháp nguyên cứu khoa học để chứng thực từng câu chuyện, và họ đã không tìm được bằng chứng nào trong câu chuyện do Weems thuật lại. Vào năm 1904, Joseph Rodman ghi nhận rằng Weems đã đạo văn cho các câu chuyện khác về Washington từ các câu chuyện tiểu thuyết đã được xuất bản tại Anh Quốc; không ai tìm được một nguồn thay thế nào cho câu chuyện về cây cherry nhưng sự tín nhiệm của Weems thì đáng nghi ngờ.[127][128]
Các con tem tưởng niệm
Hình của George Washington được in trên tiền của Hoa Kỳ trong đó có tiền giấy một đô la và tiền kim loại 25 xu. Trên tem thư Hoa Kỳ, hình của Washington được in vô số lần và trong nhiều loại khác nhau. Hình ông có trên một trong số những con tem đầu tiên do Bưu điện Hoa Kỳ phát hành vào năm 1847 cùng với hình của Benjamin Franklin.[121] Bắt đầu vào năm 1908, Bưu điện Hoa Kỳ phát hành trong thời gian dài nhất một loạt tem thư trong lịch sử Bưu điện Hoa Kỳ khi phát hành bộ tem “Washington-Franklin”. Đây là một bộ tem thư gồm có hơn 250 con tem có hình Washington và Franklin. Hình của Washington được in trên tem thư Hoa Kỳ nhiều hơn tất cả những người Mỹ nổi tiếng khác cộng lại, kể cả Abraham Lincoln và Benjamin Franklin.[121]
Washington, phát hành năm 1862, loại 24 xu
|
Washington, phát hành năm 1895, loại 2 xu
|
Bộ tem Washington-Franklin năm 1917, loại 5 xu
|
Bộ tem Washington-Franklin năm 1917, loại 7 xu
|
Washington cầu nguyện ở Valley Forge, phát hành năm 1928, loại 2 xu
|
Các tượng đài và đài tưởng niệm
Ngay sau khi chiến thắng trong cuộc cách mạng Mỹ, có nhiều lời đề nghị xây đựng một tượng đài ghi công Washington. Sau khi ông mất, Quốc hội Hoa Kỳ ra lệnh xây dựng một đài tưởng niệm phù hợp tại thủ đô quốc gia nhưng quyết định này bị đảo ngược khi đảng Cộng hòa nắm kiếm soát Quốc hội vào năm 1801. Các đảng viên Cộng hòa mất tinh thần vì Washington đã trở thành biểu tượng của đảng Liên bang; hơn thế nữa, các giá trị của chủ nghĩa cộng hòa dường như không phù hợp với ý tưởng xây dựng những tượng đài dành cho những người có quyền lực.[129] Thêm chuyện cãi vã chính trị cùng với sự chia rẽ Nam-Bắc trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ đã ngăn cản việc hoàn thành tượng đài Washington mãi cho đến cuối thế kỷ 19. Đến thời điểm đó, hình ảnh của Washington được xem là vị anh hùng quốc gia được cả hai miền Nam và Bắc tôn sùng nên các tượng đài của ông không còn là chuyện gây tranh cãi nữa.[130] Trước khi có tượng đài hình tháp nằm trên National Mall vào khoảng vài thập niên trước đó, công dân của thành phố Boonsboro, Maryland đã xây dựng đài tưởng niệm công cộng đầu tiên để tưởng niệm Washington vào năm 1827.[131]
Ngày nay, hình tượng và khuôn mặt của Washington thường được dùng như những biểu tượng quốc gia của Hoa Kỳ.[132] Hình ảnh ông có mặt trên các loại tiền hiện thời trong đó có tiền giấy một đô la và tiền kim loại 25 xu, và trên các loại tem thư của Hoa Kỳ. Ngoài việc hình ảnh ông có mặt trên các loại tem thư đầu tiên do Bưu điện Hoa Kỳ phát hành năm 1847,[121] Washington cùng với Theodore Roosevelt, Thomas Jefferson, và Lincoln, được tạc tượng trên Đài tượng niệm Núi Rushmore. Tượng đài Washington, một trong số những địa điểm nổi tiếng nhất của Mỹ, được xây để vinh danh ông. Tượng đài Quốc gia Tam điểm George Washington tại Alexandria, Virginia được xây dựng giữa năm 1922 và 1932 với đóng góp tự nguyện của tất cả 52 cơ quan điều hành địa phương của Hội Tam điểm tại Hoa Kỳ.[133][134]
Nhiều nơi và nhiều thực thể đã được đặt tên Washington để vinh danh ông. Tên Washington trở thành tên của thủ đô quốc gia, Washington, D.C., một trong hai thủ đô quốc gia trên thế giới đã được đặt tên của một vị tổng thống Mỹ (tên tổng thống Mỹ khác được đặt cho thủ đô của Liberia là Monrovia). Tiểu bang Washington là tiểu bang duy nhất được đặt tên của một vị tổng thống Mỹ.[135] Đại học George Washington và Đại học Washington tại St. Louis được đặt tên ông cũng như Đại học Washington và Lee đã từng đổi thành Học viện Washington khi Washington quyên tặng rất nhiều tiền cho trường này vào năm 1796. Đại học Washington tại Chestertown, Maryland (do hiến chương tiểu bang Maryland thành lập năm 1782) được Washington ủng hộ suốt cuộc đời mình bằng việc trao tặng 50 đồng tiền vàng Anh[136] và phục vụ trong ban hội đồng đặt trách quan khách và điều hành của trường cho đến năm 1789 (khi Washington được bầu làm tổng thống).[137] Vô số thành phố và thị trấn Mỹ có một đường phố mang tên Washington.
Quốc ấn của Liên minh miền nam Hoa Kỳ nổi bật có hình George Washington trên lưng ngựa,[138] trong tư thế tương tự như một tượng đá hình ông tại thành phố Richmond, Virginia.[139]
Luân Đôn có một tượng đồng Washington, đây là một trong số 22 khuôn mẫu tượng đồng giống nhau. Dựa vào bức tượng bằng cẩm thạch ban đầu do Jean Antoine Houdon điêu khắc và được đặt trong gian phòng hình tròn của Tòa Quốc hội Tiểu bang ở Richmond, Virginia, bức tượng sao chép được Thịnh vượng chung Virginia trao tặng cho người Anh năm 1921. Bức tượng này đứng trước Phòng trưng bày Quốc gia (Luân Đôn) trong Quảng trường Trafalgar.[140]
Viết lách và tài liệu của George Washington
Việc sưu tầm và xuất bản trịnh trọng các tác phẩm viết lách và tài liệu của Washington được bắt đầu bằng tác phẩm tiền phong của Jared Sparks vào thập niên 1830 có tựa đề Life and Writings of George Washington (12 cuốn, xuất bản từ 1834–1837). The Writings of George Washington from the Original Manuscript Sources, 1745-1799 (1931–44) là một bộ sựu tập gồm có 37 cuốn do John C. Fitzpatrick biên tập. Bộ sưu tập này gồm có trên 17.000 lá thư và tài liệu và có thể tìm thấy tại đây.
Phiên bản cuối cùng in toàn chữ (không có hình ảnh) được Đại học Virginia bắt đầu xuất bản vào năm 1968, và đến nay đã có đến 52 cuốn được xuất bản và các cuốn nữa sẽ xuất bản. Bộ sưu tập này gồm có mọi thứ mà Washington viết hoặc do ông ký cùng với đa số thư từ ông nhận được. Một phần của bộ sưu tập này có tại đây.
Đời sống cá nhân
Cùng với gia đình thân thuộc của vợ ông, Martha, có nói ở trên, George Washington có quan hệ gần gũi với cháu trai và cũng là người thừa kế tên là Bushrod Washington, con trai của em trai John Augustine Washington của ông. Sau khi chú qua đời Bushrod trở thành một thẩm phán của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Tuy nhiên mối quan hệ của George Washington với mẹ là bà Mary Ball Washington rõ ràng là có gì đó khó khăn và căng thẳng.[141]
Khi còn là một thanh niên, Washington có mái tóc đỏ.[142][143] Có một truyền thuyết dân gian cho rằng ông đội tóc giả như một kiểu thời trang vào thời đó. Sự thật Washington không có đội tóc giả; thay vào đó ông rắc phấn bột vào tóc của mình,[144][145] như được thấy trong một số bức họa trong đó có bức họa nổi tiếng nhưng dở dang của họa sĩ Gilbert Stuart.[146]
Washington bị răng của mình hành hạ suốt cả cuộc đời. Ông mất chiếc răng trưởng thành đầu tiên khi ông 22 tuổi và chỉ còn lại 1 chiếc khi ông trở thành tổng thống.[147] John Adams tuyên bố rằng Washington mất răng vì ông dùng nó để cắn hạt Brasil nhưng các sử gia hiện đại cho rằng chính điôxít thủy ngân mà ông uống để trị bệnh như đậu mùa và sốt rét có lẽ đã góp phần vào việc làm rụng răng của ông. Ông được làm một vài bộ răng giả, bốn trong số đó do một nha sĩ có tên là John Greenwood.[147] Không như công chúng nghĩ, các bộ răng giả này không phải làm bằng gỗ. Bộ răng được làm cho ông khi ông trở thành tổng thống là làm bằng ngà voi và ngà hà mã, giữ chặt lại bằng niềng vàng.[148] Vấn đề của răng đã làm cho Washington thường hay đau răng nên ông phải dùng cồn thuốc phiện.[149] Nỗi đau đớn vì chứng đau răng có thể được bộc lộ rõ ràng trong nhiều bức hình được họa khi ông vẫn còn tại chức,[149] trong đó phải kể đến bức hình được sử dụng trên tờ giấy bạc $1 đô la Mỹ.[146][Ghi chú 5]
Vấn đề người nô lệ
Sau cái chết của cha năm 1743, cậu bé George Washington 11 tuối thừa hưởng gia tài gồm 10 người nô lệ. Vào lúc ông kết hôn với Martha Custis năm 1759, cá nhân ông làm chủ ít nhất 36 nô lệ (vợ ông thừa hưởng và mang đến Mount Vernon một số nô lệ của chồng trước quá cố, ít nhất là 85 người). Ông dùng tài sản giàu có của vợ để mua thêm đất, tăng gấp ba lần diện tích đồn điền, và thêm nhiều nô lệ để canh tác đồn điền. Năm 1774, ông trả thuế đánh trên 135 nô lệ (không tính nô lệ của vợ ông được thừa hưởng từ người chồng đầu tiên quá cố của bà). Lần mua nô lệ cuối cùng của ông là vào năm 1772 dù sau này ông có nhận một số nô lệ để trừ nợ.[150] Washington cũng dùng những người da trắng di cư làm người giúp việc gia đính để trả nợ di dân; tháng 4 năm 1775, ông đã trả tiền thưởng để nhận lại hai người da trắng giúp việc nhà sau khi hai người này bỏ trốn.[151]
Một sử gia tuyên bố rằng Washington ước mong những lợi ích vật chất từ việc làm chủ nô lệ và muốn cho gia đình vợ của ông có một tài sản kế thừa thịnh vượng.[152] Trước Cách mạng Mỹ, Washington không bài tỏ vấn đề đạo đức gì về chủ nghĩa nô lệ nhưng vào năm 1786, Washington viết cho Robert Morris như sau “Không ai mong muốn chân thành hơn tôi là thấy một kế hoạch được thông qua nhằm mục đích bãi bỏ chế độ nô lệ”.[153] Năm 1778, ông viết thư cho người quản lý của ông ở đồn điền Mount Vernon rằng ông muốn “bỏ hết người da đen”. Duy trì một dân số nô lệ lớn và ngày càng già tại Mount Vernon thì không có lợi ích kinh tế. Tuy nhiên Washington không thể bán những “nô lệ thừa kế” của vợ (dower slaves) một cách hợp pháp, và vì những nô lệ này đã liên-hôn với các nô lệ của chính ông nên ông cũng không thể bán nô lệ của mình với lý do nếu ông bán nô lệ của mình thì ông gián tiếp làm cho gia đình họ ly tán.[154]
Lúc làm tổng thống, Washington đưa 7 nô lệ đến Thành phố New York năm 1789 để làm người giúp việc nhà đầu tiên cho tổng thống. Sau khi thủ đô quốc gia chuyển đến Philadelphia năm 1790, ông đưa 9 nô lệ đến làm việc trong dinh tổng thống. Lúc ông mất, có 317 nô lệ làm việc tại Mount Vernon trong số đó Washington làm chủ 123 người, 154 người là “nô lệ thừa kế” của vợ và 40 người được một người hàng xóm mướn.[155] Dorothy Twohig cho rằng Washington đã không lên tiếng công khai chống lại chủ nghĩa nô lệ vì ông không muốn tạo sự chia rẽ trong nước cộng hòa mới thành lập bằng một vấn đề rất nhạy cảm và gây chia rẽ lúc bấy giờ.[156]
Tôn giáo
Washington là một thành viên của Giáo hội Anh giáo, sau này gọi là Giáo hội Giám nhiệm, “có địa vị được thiết lập” tại tiểu bang Virginia (điều đó có nghĩa là tiền thuế được dùng để trả cho các vị chức sắc nhà thờ). Ông là một thành viên phục vụ trong ban điều hành Nhà thờ Christ tại Alexandria, Virginia và Nhà thờ Pohick gần nhà của ông trong đồn điền Mount Vernon cho đến khi chiến tranh bắt đầu; tuy nhiên giáo xứ này là một đơn vị của chính quyền địa phương và giáo xứ này phần lớn lo những công việc dân sự như đường sá và giảm nghèo.[157]
Theo sử gia Paul F. Boller Jr., thực tế mà nói Washington là một người theo thuyết thần giáo tự nhiên, có niềm tin sâu rộng vào “Sự quan phòng của Trời” hay cao hơn là “Ý Trời” bắt nguồn từ một “Đấng Tối Cao” kiểm soát các sự kiện của loài người và như trong thần học Calvin thì tiến trình lịch sử đi theo một mô hình trật tự hơn chỉ là sự tình cờ.[158][159] Năm 1789, Washington tuyên bố rằng “Đấng sáng tạo Vũ trụ” đã tích cực can thiệp về phía Cách mạng Mỹ. Tuy nhiên, theo Boller, Washington chưa bao giờ tìm cách cá nhân hóa quan điểm tôn giáo của chính mình hay bày tỏ sự ái mộ nào tới khía cạnh tốt đẹp của các đoạn văn Kinh thánh. Boller cho rằng “những lời bóng gió về tôn giáo của Washington hoàn toàn thiếu chiều sâu cảm xúc” [160] Về khía cạnh triết lý, ông say mê và chọn triếc lý Stoic của La Mã cổ đại. Triết lý này coi trọng đức hạnh và nhân bản và có thể sánh cao bằng thuyết thần giáo tự nhiên.[161]
Trong một lá thư gởi George Mason năm 1785, Washington viết rằng ông không phải trong số những người bị cảnh báo bởi một đạo luật “bắt người ta phải trả tiền để ủng hộ tôn giáo mà họ theo” nhưng cảm thấy rằng “không khôn ngoan” để thông qua một đạo luật như thế, và mong muốn rằng nó đã chưa từng được đề nghị vì tin rằng nó sẽ làm náo động cuộc sống yên ổn của công chúng.[162]
Washington thường tháp tùng vợ đến lễ nhà thờ; tuy nhiên, không có ghi chép nào nói về việc ông hiệp lễ (nhận lễ ban thánh thể). Ông thường hay rời lễ nhà thờ trước khi hiệp lễ — cùng với những người không hiệp lễ khác. Đến khi bị một mục sư quở trách, ông thôi không tham dự các buổi thánh lễ vào những ngày chủ nhật.[163] Khi làm tổng thống, ông khích lệ mọi người khi ông được người ta thấy tham gia thánh lễ tại vô số các nhà thờ trong đó có các nhà thờ Trưởng lão, Quaker và Công giáo để chứng tỏ sự ủng hộ đại thể của ông cho tôn giáo.[164] Washington nổi tiểng rộng lượng. Ông tham dự nhiều sự kiện từ thiện và tặng tiền cho các trường, các đại học và cho người nghèo. Là công dân hàng đầu của Philadelphia, Tổng thống Washington dẫn đầu trong công cuộc cung cấp từ thiện cho các quả phụ và trẻ mồ côi trong thành phố thủ đô bị dịch sốt vàng hoành hành vào năm 1793.[165]
Michael Novak và Jana Novak cho rằng đây có thể là “ý định của Washington khi duy trì sự mơ hồ có chủ ý (và sự riêng tư cá nhân) liên quan đến nhận thức tôn giáo sâu thẳm nhất của ông, để cho mọi người Mỹ, cả thời đó và mãi sau này, có thể cảm thấy tự ý để tiếp cận ông bằng cách riêng của mình, cũng như có thể cảm thấy mình là thành viên đầy đủ của một nền cộng hòa mới, bình đẳng với mọi người khác”.[166] Họ kết luận: “Ông được dưỡng dục trong Giáo hội Giám nhiệm mà ông luôn thuộc về; và quan điểm của tôi [sic] là ông tin vào các giáo lý nền tảng của Kitô giáo như vẫn được dạy trong Giáo hội, theo cách hiểu của ông; nhưng trong đó không có một chút sự bất khoan dung hay thiếu tôn trọng nào với các niềm tin và cách thức thờ phượng của các Kitô hữu thuộc hệ phái khác.”[167]
Thành viên Hội Tam Điểm
Năm 1752 Washington được thu nhận vào Hội Tam điểm.[168] Trong lễ nhậm chức tổng thống năm 1789, Đại sư phụ chi hội New York đã chủ trì lễ tuyên thệ nhậm chức của ông. Ngày 18 tháng 9 năm 1793, ông đặt viên đá góc của Tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ có mang dấu hiệu Đại sư phụ Hội Tam điểm. Washington kính trọng cao độ đối với nội quy của hội và thường hay ca ngợi nó nhưng ông ít khi tham dự các buổi họp của chi hội. Ông bị lôi cuốn bởi sự tận tụy của phong trào đối với những nguyên lý khai sáng; các chi hội Mỹ không chia sẻ triển vọng chống tăng lữ mà đã khiến cho các chi hội tại châu Âu bị tai tiếng[169]
Gia đình riêng
George Washington là con đầu của ông Augustine Washington (1694-1743) với vợ hai là bà Mary Ball Washington (1708-1789). Trước khi tái giá, ông Augustine Washington đã có 4 con với vợ đầu Jane Butler, trong đó có 2 người chết lúc còn trẻ. Ông Augustine và bà Mary đẻ 6 người con, trong đó người con út mất ngay lúc 1 tuổi. Do đó, George Washington có tất cả 4 anh chị cùng cha khác mẹ và 5 em ruột.
- Anh chị cùng cha khác mẹ
- Butler Washington (1716)
- Lawrence Washington (1718–1752)
- Augustine Washington II (1720–1762)
- Jane Washington (1722–1735)
- Em ruột
- Elizabeth Washington (1733–1797)
- Samuel Washington (1734–1781)
- John Augustine Washington (1736–1787)
- Charles Washington (1738–1799)
- Mildred Washington (1739–1740)
Chú thích
- ^ Ngày sinh và ngày mất của George Washington được ghi nhận bằng lịch Gregory. Tuy nhiên, ông được sinh ra khi Anh và các thuộc địa của mình vẫn còn sử dụng lịch Julius, vì thế các hồ sơ đương thời ghi ngày sinh của ông là 11 tháng 2 năm 1731. Những qui định của Đạo luật về lịch năm 1750, được áp dụng vào năm 1752, đã thay đổi phương pháp tính ngày chính thức của Anh sang lịch Gregory với ngày khởi đầu là 1 tháng 1. Để hiểu rỏ hơn về ‘lịch củ’ (Julius) / ‘lịch mới’ (Gregory), xin xem Ancestry Magazine’s Time to Take Note: The 1752 Calendar Change and for an explanation of how historians render Washington’s birthdate and year see Ancestry‘s When is George Washington’s Birthday?
- ^ Chẳng hạn, Ellis và Ferling không bàn về thái độ này khi nói về sự phục vụ của Washington trong Chiến tranh chống người bản thổ và Pháp, và đặc biệt gần như đã bỏ mất những phần nói về những kinh nghiệm tiêu cực của ông khi xử sự với Quốc hội Lục địa trong suốt cuộc Cách mạng. Xem Ellis, His Excellency: George Washington (2004), p. 218, Ferling, The Ascent of George Washington: The Hidden Political Genius of an American Icon (2010), pp. 32–33,200,258–272,316. Don Higginbotham cho rằng lời chủ trương chính thức đầu tiên của Washington về một chính phủ trung ương mạnh là vào năm 1783 (Higginbotham, George Washington: Uniting a Nation (2004), p. 37).
- ^ Dưới Hiến pháp Hợp bang, Quốc hội gọi viên chức chủ tọa của mình là “President of the United States in Congress Assembled” (tạm dịch: Tổng thống hay Chủ tịch Hoa Kỳ tại Quốc hội nhóm họp). Viên chức này không có quyền lực hành chính nhưng chức danh có các từ tiếng Anh tương tự đã khiến cho một số người lầm tưởng rằng khi Washington làm tổng thống thì Hoa Kỳ đã từng có tổng thống trước đó.[90]
- ^ Theo hệ thống có vào thời đó, mỗi đại cử tri bỏ hai lá phiếu. Người nào có nhiều phiếu nhất thì trở thành tổng thống và người kế tiếp trở thành phó tổng thống. Tất cả các đại cử tri trong các cuộc bầu cử tổng thống năm 1789 và 1792 đã bỏ một phiếu của mình cho Washington; vì thế người ta nói rằng ông đã được nhất trí bầu làm tổng thống.
- ^ Viện Smithsonian có nói trong “The Portrait – George Washington: A National Treasure” rằng:
- Stuart say mê bức tượng Washington của nghệ nhân Pháp Jean-Antoine Houdon, có lẽ vì nó dựa trên khuôn mặt thật và vì thế rất đỗi chính xác. Stuart giải thích rằng “Khi tôi vẽ chân dung ông, ông đang có một bộ răng giả gắn trong hàm và nó đã khiến cho miệng và phần dưới khuôn mặt của ông có nét co lại rất dễ nhận thấy. Bức tượng bán thân mà nghệ nhân Houdon tạc ra không bỏ sót khuyết điểm này. Tôi muốn thấy ông trông giống như vậy như lúc đó”.[149]
Dẫn chứng
- ^ a ă â b Bell, William Gardner (1983). Commanding Generals and Chiefs of Staff: 1775–2005; Portraits & Biographical Sketches of the United States Army’s Senior Officer. Center of Military History – United States Army. tr. 52, 66. ISBN 0160723760. CMH Pub 70–14. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2009.
- ^ George Washington: Surveyor and Mapmaker retrieved ngày 1 tháng 11 năm 2012]
- ^ Chernow, Ron. (ngày 18 tháng 10 năm 2010) (MP3). Ron Chernow on George Washington. [Podcast]. Philadelphia, Pa: National Constitution Center. Truy cập 2011-12-29.
- ^ Encyclopedia Of The Enlightenment Ellen Judy Wilson, Peter Hanns Reill – 2004 page 148, retrieved 2012-04-26
- ^ Andrew Cayton, “Learning to Be Washington,” New York Times Sept. 30, 2010
- ^ Conor Cruise O’Brien. First in Peace: How George Washington Set the Course for America (2009) p. 19
- ^ Marcus Cunliffe, George Washington: Man and Monument (1958) pp 24-26
- ^ Engber, Daniel (ngày 18 tháng 1 năm 2006). “What’s Benjamin Franklin’s Birthday?”. Slate. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Image of page from family Bible”. Papers of George Washington. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ Albert H. Spencer,Genealogy of the Spencer family (1956), v (snippet)
- ^ Randall, George Washington: A Life (1998), pp. 8,11
- ^ Ellis, His Excellency: George Washington (2004), p. 8
- ^ Twohig, Dorothy (1998). “The Making of George Washington”. Trong Hofstra, Warren R. George Washington and the Virginia Backcountry (Madison, WI: Madison House). ISBN 9780945612506.
- ^ a ă “George Washington’s Family Chart”. Mount Vernon Ladies’ Association. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2011.
- ^ “Burials at George Washington Birthplace National Monument”. George Washington Birthplace National Monument. National Park Service. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2011.
- ^ Freeman, George Washington: A Biography (1948), pp. 1:15–72
- ^ Freeman, George Washington: A Biography (1948), p. 1:199
- ^ Chernow, Washington: A Life (2010), ch. 1
- ^ Flexner, Washington: The Indispensable Man (1976), p. 8
- ^ Freeman, George Washington: A Biography (1948), p. 1:264
- ^ Freeman, George Washington: A Biography (1948), p. 1:268
- ^ Randall, George Washington: A Life (1998), p. 67
- ^ Freeman, George Washington (1948), pp. 1:274–327
- ^ Lengel, General George Washington (2005) pp 23–24
- ^ Lengel, General George Washington (2005) pp 31–38
- ^ Anderson, Crucible of War: The Seven Years’ War and the Fate of Empire in British North America (2000), pp. 53-58
- ^ Grizzard, George Washington pp 115–19
- ^ a ă Ellis, His Excellency: George Washington (2004), pp. 17–18
- ^ Anderson, The War That Made America (2005), pp. 100–101
- ^ Ellis, His Excellency: George Washington (2004), p. 22
- ^ Flexner, George Washington: the Forge of Experience, 1732–1775 (1965), p. 138
- ^ Fischer, Washington’s Crossing (2004), pp. 15–16
- ^ Ellis, His Excellency: George Washington (2004), p. 38
- ^ Lengel, General George Washington pp 75–76, 81
- ^ Chernow, Washington: A Life (2010), ch. 8; Freeman and Harwell, Washington (1968), pp. 135–139; Flexner, Washington: The Indispensible Man (1984), pp. 32–36; Ellis, His Excellency: George Washington (2004), ch. 1; Higginbotham, George Washington and the American Military Tradition (1985), ch. 1; Lengel, General George Washington pp 77–80
- ^ Ellis, His Excellency: George Washington (2004), pp. 38, 69
- ^ Fischer, Washington’s Crossing (2004), p. 13
- ^ Higginbotham, George Washington and the American Military Tradition (1985), pp. 14–15
- ^ Lengel, General George Washington, p 80
- ^ Chernow, Washington: A Life (2010), ch. 8
- ^ Higginbotham, George Washington and the American Military Tradition (2004), pp. 22–25
- ^ Freeman and Harwell, Washington (1968), pp. 136–137
- ^ Ferling (2000), Setting the World Ablaze, p. 34
- ^ Ferling (2000), Setting the World Ablaze, pp. 33-34
- ^ Bumgarner, John R. (1994). The Health of the Presidents: The 41 United States Presidents Through 1993 from a Physician’s Point of View. Jefferson, NC: MacFarland & Company. tr. 1–8.Flexner, James Thomas (1974). Washington: The Indispensible Man. Boston. Little, Brown. tr. 42, 43.
- ^ “GEORGE WASHINGTON 1732-99”. Burke’s Peerage and Gentry. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ Ellis, His Excellency, George Washington, pp. 41–42, 48
- ^ Ferling (2000), Setting the World Ablaze, p. 44
- ^ Ferling (2000), Setting the World Ablaze, pp. 43–44
- ^ Dennis J. Pogue, Ph.D. (Spring/Summer 2003). “George Washington And The Politics of Slavery”. Historic Alexandria Quarterly. Office of Historic Alexandria (Virginia). Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2011.
- ^ Fox hunting: Ellis, p. 44. Mount Vernon economy: John Ferling, The First of Men, pp. 66–67; Ellis, pp. 50–53; Bruce A. Ragsdale, “George Washington, the British Tobacco Trade, and Economic Opportunity in Pre-Revolutionary Virginia”, in Don Higginbotham, ed., George Washington Reconsidered, pp. 67–93.
- ^ David Hackett Fischer, Washington’s Crossing (2004) p. 14
- ^ Ferling (2000), Setting the World Ablaze, pp. 73–76
- ^ a ă Rasmussen, William Meade Stith; Robert S. Tilton (1999). George Washington–the man behind the myths. University of Virginia Press. tr. 100. ISBN 9780813919003. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2011.
- ^ “George Washington:Surveyor and Mapmaker (Washington as land speculator – Western Lands and the Bounty of War)”. Library of Congress. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2011.
- ^ Grizzard, George Washington pp 135–37
- ^ Freeman, George Washington (1968) pp 174-76
- ^ Willard Sterne Randall, George Washington: A Life (1998) p. 262
- ^ Ferling, p. 99
- ^ Rasmussen, William Meade Stith; Robert S. Tilton (1999). George Washington–the man behind the myths. University of Virginia Press. tr. 294. ISBN 9780813919003. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2010.
- ^ Ellis, His Excellency pp 68-72
- ^ E. Wayne Carp, To Starve the Army at Pleasure: Continental Army Administration and American Political Culture, 1775-1783 (1984)
- ^ “American Revolution Officers Revealed”. Truth It. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2011.
- ^ Jensen, Richard (12 tháng 2 năm 2002). “Military History of the American Revolution”. UIC.edu. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2011.
- ^ Orlando W. Stephenson, “The Supply of Gunpowder in 1776”, American Historical Review, Vol. 30, No. 2 (January 1925), pp. 271–281 in JSTOR
- ^ Troy O. Bickham, “Sympathizing with Sedition? George Washington, the British Press, and British Attitudes During the American War of Independence”, William and Mary Quarterly 2002 59(1): 101–122. ISSN 0043-5597 Fulltext online in History Cooperative
- ^ McCullough, David (2005). 1776. New York City: Simon & Schuster. tr. 186–195. ISBN 978-0743226714.
- ^ Ketchum, p.235
- ^ Fischer, Washington’s Crossing p 367
- ^ George Washington Biography, American-Presidents.com. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2009.
- ^ The term comes from the Roman strategy used by General Fabius against Hannibal’s invasion in the Second Punic War.
- ^ Ferling and Ellis argue that Washington favored Fabian tactics and Higginbotham denies it. Ferling, First of Men; Ellis, His Excellency p 11; Higginbotham, “War of American Independence”
- ^ John Buchanan, The Road to Valley Forge: How Washington Built the Army That Won the Revolution (2004) p. 226
- ^ Don Higginbotham, The War of American Independence (Macmillan, 1971) ch 8
- ^ Bruce Heydt, “‘Vexatious Evils’: George Washington and the Conway Cabal,” American History, Dec 2005, Vol. 40 Issue 5, pp 50-73, online at EBSCO
- ^ Chai, Jane; Lindley Homol (2009). “The Forging of an Army”. Pennsylvania Center for the Book(Penn State). Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2011.
- ^ a ă “History & Culture of Valley Forge National Historical Park”. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2011.
- ^ Fowler, William (19 tháng 1 năm 2011). “Valley Forge”. World Book Encyclopedia 20 (ấn bản 2002). World Book. tr. 266.
- ^ Rogers, J. David. “George Washington: God’s Man for America”. mst.edu. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2011.
- ^ Ferling, John (2002). Setting the World Ablaze: Washington, Adams, Jefferson, and the American Revolution. Oxford University Press. tr. 186.
- ^ Frank E. Grizzard, George Washington: a biographical companion (2002) p. 303
- ^ Lancaster (1987), The American Revolution, p. 311
- ^ Mann (2005), George Washington’s War on Native America, p. 38; Lancaster (1987), The American Revolution, p. 254
- ^ Richard H. Kohn, “The Inside History of the Newburgh Conspiracy: America and the Coup d’Etat,” William and Mary Quarterly, Vol. 27, No. 2 (Apr., 1970), pp. 187-220 in JSTOR
- ^ George Washington Papers 1741–1799: Series 3b Varick Transcripts, American Memory, Library of Congress, Accessed ngày 22 tháng 5 năm 2006.
- ^ Gordon Wood, The Radicalism of the American Revolution (1992), pp 105–6
- ^ Richard Brookhiser, Founding Father (1997) p. 103
- ^ “The President’s House: Freedom and Slavery in the Making of a New Nation”. National Park Service. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2011.
- ^ “Constitution of the United States”. The Charters of Freedom. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2011.
- ^ Merrill Jensen (1948), The Articles of Confederation: An Interpretation of the Social-Constitutional History of the American Revolution, 1774–1781, pp. 178–179
- ^ Chernow, Washington (2010) Kindle location 11,386
- ^ John Spencer Bassett, The Federalist System, 1789-1801 (1906) pp 150-62 online
- ^ Ellis, His Excellency pp 197-98
- ^ Leonard D. White, The Federalists: A Study in Administrative History (1948) p. 100
- ^ Stanley Elkins and Eric McKitrick, he Age of Federalism (1995) p. 290
- ^ Jefferson’s newspaper, edited by Philip Freneau, strenuously attacked Washington. Elkins and McKitrick, The Age of Federalism (1995) pp. 240, 285, 290, 361
- ^ Crew, Harvey W., Webb, William Bensing, Wooldridge, John, Centennial History of the City of Washington, D.C., United Brethren Publishing House, Dayton, Ohio, 1892, Chapter IV. “Permanent Capital Site Selected”, p. 87 in Google Books. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2009.
- ^ Richard H. Kohn, “The Washington Administration’s Decision to Crush the Whiskey Rebellion,” Journal of American History 59 (December 1972), 567–84 in JSTOR
- ^ Hunt (1988), Haiti’s Influence on Antebellum America: Slumbering Volcano in the Caribbean, pp. 30–31
- ^ Stanley M. Elkins, and Eric McKitrick, The Age of Federalism: The Early American Republic, 1788–1800 (1994), pp 335-54
- ^ Elkins, and McKitrick, The Age of Federalism: The Early American Republic, 1788–1800 (1994), ch. 9
- ^ Todd Estes, “Shaping the Politics of Public Opinion: Federalists and the Jay Treaty Debate,” Journal of the Early Republic Vol. 20, No. 3 (Autumn, 2000), pp. 393-422 in JSTOR; Estes, The Art of Presidential Leadership: George Washington and the Jay Treaty,” Virginia Magazine of History and Biography, 2001, vol 109, no. 2
- ^ Paul A. Varg, Foreign Policies of the Founding Fathers (1963) pp 95-122.
- ^ “Religion and the Federal Government”. Religion and the Founding of the American Republic. Library of Congress Exhibition. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2007.
- ^ Washington, George (1796). “Washington’s Farewell Address, 1796”. Avalon.law.yale.edu. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2010.
- ^ Matthew Spalding, “The Command of its own Fortunes: Reconsidering Washington’s Farewell Address”, in William D. Pederson, Mark J. Rozell, Ethan M. Fishman, eds. George Washington (2001) ch 2; Virginia Arbery, “Washington’s Farewell Address and the Form of the American Regime” in Gary L. Gregg II and Matthew Spalding, eds. George Washington and the American Political Tradition. 1999 pp. 199–216
- ^ Eleanor Breen; Esther C. White (tháng 12 năm 2006). “A Pretty Considerable Distillery – Excavating George Washington’s Whiskey Distillery”. Quarterly Bulletin of the Archeological Society of Virginia (Volume 61/Issue 4). Archeological Society of Virginia. tr. 209–220. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2011.
- ^ Chernow (2010) ch 57 at note 38
- ^ Robert F. Dalzell Jr. and Lee Baldwin Dalzell, George Washington’s Mount Vernon (2000) p. 219; Purchasing power was calculated at Lawrence H. Officer and Samuel H. Williamson, “Purchasing Power of Money in the United States from 1774 to 2009,” MeasuringWorth, 2010
- ^ Richard H. Kohn, Eagle and Sword the Beginnings of the Military Establishment in America (1975) pp 225-42
- ^ Vadakan, M.D., Vibul V. (Winter/Spring 2005). “A Physician Looks At The Death of Washington”. Early America Review. Archiving Early America. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2008 and ngày 14 tháng 9 năm 2010.
- ^ “George Washington’s Terminal Illness:A Modern Medical Analysis (by White McKenzie Wallenborn M.D.)”. Gwpapers.virginia.edu. 5 tháng 11 năm 1997. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ John Abbott The Life of Napoleon Bonaparte (1855) p. 137
- ^ “The Funeral”. The Papers of George Washington. University of Virginia.[liên kết hỏng]
- ^ Boorstin, Daniel (1965). The Americans: The National Experience. Vintage Books. tr. 349–350. ISBN 394703588 Kiểm tra giá trị
|isbn=
(trợ giúp). - ^ Johnston, Elizabeth Bryant (1889). Visitors’ Guide to Mount Vernon. Gibson Brothers, Printers. tr. 14–15.
- ^ Boorstin, p. 350
- ^ Washington, George; Jefferson, Thomas; Peters, Richard (1847). Trong Knight, Franklin. Letters on Agriculture. Washington: Franklin Knight. tr. 177–180. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2010.
- ^ “Mount Vernon Visited; The Home of Washington As It Exists Today”. The New York Times. Ngày 12 tháng 3 năm 1881. tr. 2. “The body was placed in this sarcophagus on ngày 7 tháng 10 năm 1837, when the door of the inner vault was closed and the key thrown in the Potomac.”
- ^ William Safire, ed. Lend me your ears: great speeches in history (2004) p. 185
- ^ a ă â b Scotts Specialized Catalogue of United States Stamps
- ^ “George and Martha Washington: Portraits from the Presidential Years”. http://www.npg.si.edu. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010.
- ^ Brooke Hindle (24 tháng 4 năm 1980). David Rittenhouse. ISBN 9780405125690. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2010.
- ^ Lancaster County Historical Society (Pa) (1899-1900). Historical papers and addresses of the Lancaster County Historical Society IV. tr. 108. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2010.
- ^ Edwin Wolf II biên tập (1983). Germantown and the Germans. ISBN 9780914076728. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2010.
- ^ “2010 Federal Holidays”. US Office of Personnel Management. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2010.
- ^ Hughes, George Washington (1926), pp. 1:24,501
- ^ Grizzard George Washington pp. 45-47
- ^ Cohen, Sheldon S. (1991). “Monuments to Greatness: George Dance, Charles Polhill, and Benjamin West’s Design for a Memorial to George Washington”. Virginia Magazine of History and Biography 99 (2): 187–203.
- ^ Kirk Savage, Monument Wars: Washington, D.C., the National Mall, and the Transformation of the Memorial Landscape (2009) pp 32-45
- ^ “Washington Monument State Park”. Maryland Department of Natural Resources. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2010.
- ^ Barry Schwartz, George Washington: The Making of an American Symbol (1990)
- ^ Charles Callahan (tháng 2 năm 1998). Washington: The Man and the Mason. Kessinger Publishing, 1998. tr. 329–342. ISBN 0766102459. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010.
- ^ John Weber (2009). An Illustrated Guide to the Lost Symbol. Simon and Schuster, 2009. tr. 137. ISBN 1416523669. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010.
- ^ “Map of Washington”. Worldatlas. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2011.
- ^ George Washington to William Smith, ngày 18 tháng 8 năm 1782. George Washington Papers, Library of Congress
- ^ “Board of Visitors”. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2011.[liên kết hỏng]
- ^ “The Great Seal of the Confederacy”. Civilwarhome.com. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2011.
- ^ “The George Washington Equestrian Monument”. VAcapitol.org. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2011.
- ^ “Houdon Statue of George Washington”. The GW and Foggy Bottom Encyclopedia. 21 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2010.
- ^ “George Washington – Family Background Part I”. Clement Library – John C. Dann Director(University of Michigan). May–June 2004. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2011.
- ^ Homans, Charles (ngày 6 tháng 10 năm 2004). “Taking a New Look at George Washington”. The Papers of George Washington: Washington in the News. Alderman Library, University of Virginia. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2007.[liên kết hỏng]
- ^ Ross, John F (tháng 10 năm 2005). Unmasking George Washington. Smithsonian Magazine.
- ^ “The Papers of George Washington-Frequently Asked Questions(Did George Washington wear a wig?)”. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ “Facts & Falsehoods about George Washington”. Mount Vernon. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă Gilbert Stuart. “Smithsonian National Picture Gallery: George Washington (the Athenaeum portrait)”. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2006.
- ^ a ă Lloyd, John; Mitchinson, John (2007). The Book of General Ignorance. Harmony. tr. 97. ISBN 9780307394910.
- ^ Barbara Glover. “George Washington – A Dental Victim”. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2006.
- ^ a ă â “The Portrait – George Washington:A National Treasure”. Smithsonian National Portrait Gallery. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2011.
- ^ Fritz Hirschfeld, George Washington and Slavery: A Documentary Portrayal, University of Missouri, 1997, pp. 11–12
- ^ Paul Leland Haworth (1915). “George Washington: Farmer“. Kessinger Publishing. p.79. ISBN 1-4191-2162-6
- ^ Ferling, Setting the World Ablaze (2000), page 275-276
- ^ Letter of ngày 12 tháng 4 năm 1786, in W. B. Allen, ed., George Washington: A Collection (Indianapolis: Library Classics, 1989), 319.
- ^ Slave raffle linked to Washington’s reassessment of slavery: Wiencek, pp. 135–36, 178–88. Washington’s decision to stop selling slaves: Hirschfeld, p. 16. Influence of war and Wheatley: Wiencek, ch 6. Dilemma of selling slaves: Wiencek, p. 230; Ellis, pp. 164–7; Hirschfeld, pp. 27–29.
- ^ “1799 Mount Vernon Slave Census”. Gwpapers.virginia.edu. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2009.[liên kết hỏng]
- ^ Twohig, “That Species of Property”, pp. 127–28.
- ^ Grizzard, George Washington p 249
- ^ Boller (1963), George Washington & Religion, pp. 93-100
- ^ Moncure D. ConwayMONCURE D. CONWAY (ngày 12 tháng 12 năm 1897). “GEORGE WASHINGTON’S RELIGION”. New York Times. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2011. “… in mature life Washington was a deist… Washington’s letters during the Revolution occasionally indicate his recognition of the hand of Providence in notable public events, but in the thousands of his letters I have never been able to find the name of Christ, or any reference to Him…”
- ^ Boller George Washington & Religion (1963) pp. 92-109
- ^ Grizzard, George Washington p 269
- ^ Douglas Southall Freeman, John Alexander Carroll, Mary Wells Ashworth, George Washington: a biography (1957) vol 6 p 3
- ^ Chernow, Washington (2010) ch 12, text at footnote 14
- ^ Chernow (2010) Kindle location 3632
- ^ Chernow (2010) Kindle locations 3632, 8943
- ^ Novak, M. and Novak, J., Washington’s God: Religion, Liberty, and the Father of Our Country, Basic Books, 2007, p. 158.
- ^ Novak, M. and Novak, J., Washington’s God: Religion, Liberty, and the Father of Our Country, Basic Books, 2007, p. 161.
- ^ “Washington as a Freemason”. Phoenixmasonry.org. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2010.
- ^ Chernow Washington (2010), Kindle location 719
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về George Washington |
![]() |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
- George Washington trên trang Quốc hội Hoa Kỳ
- Tiểu sử George Washington Sean Spurr.
- George Washington: A Brief Biography của Miland Brown
- George Washington: A Life của Willard Sterne Randall
- George Washington: Father of Our Country của Arjun, Barrett, Bella S., Eleni, Jason & Olivia, 2004 – 2005
- The Writings of George Washington from the Original Manuscript Sources, 1745-1799 của John C. Fitzpatrick
- Library of Congress: Washington’s Commission as Commander in Chief
- American President: George Washington (1732–1799)
- Tác phẩm của George Washington tại Dự án Gutenberg
- George Washington historic sites in Virginia – Official Tourism Website
- George Washington and Christianity
- Scientific American Magazine (January 2006 Issue) Putting a Face on the First President Jeffrey H. Schwartz, 22/1/2006
- George Washington’s Mount Vernon Estate & Gardens
- President’s House in Philadelphia with first person accounts. Washington’s presidential years (1790-96) in Philadelphia when it was the national capital.
- George Washington Birthplace National Monument
- George Washington (1732 – 1799) – Find A Grave Memorial
- Sinh 1732
- Mất 1799
- Tổng thống Hoa Kỳ
- Nhân vật trong Cách mạng Hoa Kỳ
- Người Mỹ gốc Anh
- Người Virginia
- Trung tướng Hoa Kỳ
- Thống tướng Hoa Kỳ
- Quân nhân Hoa Kỳ
Video yêu thích
Việt Nam Thiên Lịch Sử Truyền Hình “Tập 1 Cội Rễ Của Cuộc Chiến”
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học Cây Lương thực Dạy và Học Tình yêu cuộc sống Kim on LinkedIn Kim on Facebook