12 tháng 8
Ngày 12 tháng 8 là ngày thứ 224 (225 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 141 ngày trong năm.
« Tháng 8 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | ||||||
2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 |
16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 |
23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 |
30 | 31 | |||||
Mục lục
Sự kiện
- 30 TCN – Cleopatra VII Philopator, Nữ Hoàng Ai Cập, quốc vương cuối cùng của triều đại Ptolemaios tự tử, được cho là bằng cách để rắn độc cắn.
- 1099 – Thập tự quân giành được chiến thắng trước quân của vương triều Fatima trong trận Ascalon, đây thường được xem là trận chiến cuối cùng của Cuộc thập tự chinh thứ nhất.
- 1211 – Tây Hạ Tương Tông Lý An Toàn bị cháu là Lý Tuân Húc lật đổ, Lý Tuân Húc trở thành hoàng đế thứ 8 của Tây Hạ, tức Tây Hạ Thần Tông
- 1759 – Chiến tranh Bảy năm: Nhà vua nước Phổ Friedrich II Đại Đế bị đại bại trước quân Nga trong trận đánh tại Kunersdorf.
- 1877 – Asaph Hall, nhà thiên văn học người Mỹ, khám phá ra Deimos, vệ tinh nhỏ hơn trong số hai vệ tinh của Sao Hỏa.
- 1898 – Hoa Kỳ và Tây Ban Nha ký kết một hiệp định đình chiến tại Washington D.C, kết thúc Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ.
- 1985 – Chuyến bay 123 của Japan Airlines đâm vào sườn núi ở tỉnh Gunma, Nhật Bản, khiến 520 người thiệt mạng, trở thành thảm họa hàng không đơn lẻ tồi tệ nhất.
- 2000 – Tàu ngầm K-141 Kursk của Hải quân Nga phát nổ và chìm xuống biển Barents trong một cuộc tập trận, khiến 118 thủy thủ thiệt mạng.
- 2004 – Lý Hiển Long tuyên thệ nhậm chức thủ tướng thứ ba của Singapore.
Sinh
Mất
- 30 TCN – Cleopatra VII Philopator, Nữ hoàng Ai Cập, thường được gọi ngắn gọn là Cleopatra tự sát.
- 545 – Phạm Tu, danh tướng, công thần khai quốc nhà Tiền Lý Việt Nam (s. 476)
- 2014 – Lauren Bacall, diễn viên Mỹ gốc Do Thái (sinh 1924)
Những ngày lễ và kỷ niệm
- Ngày Quốc tế Thanh Thiếu niên (International Youth Day) của LHQ
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 12 tháng 8 |
Liên Hiệp Quốc
Liên Hiệp Quốc
|
||||||
---|---|---|---|---|---|---|
|
||||||
Các thành viên của Liên Hiệp Quốc
|
||||||
Ngôn ngữ hành chính | ||||||
Các quốc gia thành viên | 193 thành viên | |||||
Người đứng đầu | ||||||
– | Tổng thư ký | Ban Ki-moon | ||||
– | Phó Tổng thư ký | Jan Eliasson | ||||
– | Chủ tịch hội đồng | Vuk Jeremić | ||||
– | Chủ tịch HĐBA | Harold Caballeros | ||||
Thành lập | ||||||
– | Thành lập | 26/06/1945 | ||||
– | Những hiệp ước và điều lệ được thi hành | 24/10/1945 | ||||
Trang web Trang chính thức của Liên Hiệp Quốc |
||||||
Liên Hiệp Quốc là một tổ chức nhằm duy trì an ninh và hoà bình cho các quốc gia độc lập trên thế giới |
Liên Hiệp Quốc hay Liên Hợp Quốc (thường được viết tắt là LHQ) là một tổ chức quốc tế có mục đích duy trì hòa bình và an ninh trên thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc.
Hiện nay, Liên Hiệp Quốc có 193 thành viên, bao gồm hầu hết các quốc gia có chủ quyền trên Trái Đất. Liên Hiệp Quốc sử dụng 6 ngôn ngữ chính thức: tiếng Ả Rập, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Trung.
Từ trụ sở trong lãnh phận quốc tế tại thành phố New York, Liên Hiệp Quốc và các cơ quan chuyên môn của nó quyết định các vấn đề về điều hành và luật lệ. Theo hiến chương LHQ thì tổ chức này gồm 6 cơ quan chính, chủ yếu gồm: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo An, Hội đồng kinh tế và xã hội, Ban thư kí, Tòa án Quốc tế vì Công lý, Hội đồng Ủy trị Liên Hiệp Quốc. Ngoài ra, một số tổ chức tiến hành quản lý các cơ quan của Hệ thống Liên Hiệp Quốc, ví dụ như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF).
Nhân vật đại diện tiêu biểu nhất của Liên Hiệp Quốc là Tổng thư kí, đương nhiệm là Ban Ki-moon, người Hàn Quốc.
Kinh phí hoạt động của Liên Hiệp Quốc được hình thành bằng tài trợ đóng góp tự nguyện và nguồn niên liễm có kiểm soát từ các nước thành viên
Mục lục
- 1 Các tổ chức trong Liên Hợp Quốc
- 2 Lịch sử hình thành
- 3 Thành viên
- 4 Trụ sở
- 5 Tài chính
- 6 Ngôn ngữ
- 7 Các mục đích và hoạt động
- 7.1 Các mục đích của Liên Hiệp Quốc
- 7.2 Các hội nghị quốc tế
- 7.3 Những năm quốc tế và những vấn đề liên quan
- 7.4 Mục tiêu kiểm soát và giải giáp vũ khí
- 7.5 Giữ gìn hòa bình
- 7.6 Nhân quyền
- 7.7 Hỗ trợ nhân đạo và Phát triển quốc tế
- 7.8 Các hiệp ước và luật pháp quốc tế
- 7.9 Những gương mặt nổi tiếng của Liên Hiệp Quốc
- 8 Cải cách
- 9 Những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
- 10 Những thành công và thất bại trong các vấn đề an ninh
- 11 Chỉ trích và mâu thuẫn
- 12 Chính sách nhân sự
- 13 Liên Hiệp Quốc trong văn hóa đại chúng
- 14 Xem thêm
- 15 Tham khảo
- 16 Đọc thêm
- 17 Liên kết ngoài
- 18 Bản đồ
Các tổ chức trong Liên Hợp Quốc
Ngân hàng Thế giới (World Bank Group – WBG)
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund – IMF)
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (World Intellectual Property Organization – WIPO)
Lực lượng gìn giữ hoà bình Liên Hợp Quốc (Department Of Peacekeeping Operations – DPKO)
Lịch sử hình thành
Trụ sở Liên Hiệp Quốc được đặt trong lãnh phận quốc tế tại Manhattan, Thành phố New York, Hoa Kỳ.
Tiền thân của Liên Hiệp Quốc là Hội Quốc Liên (League of Nations), vốn là một sáng kiến của Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Hoa Kỳ tuy sáng lập nhưng lại không chính thức làm hội viên, hơn thế quy chế hoạt động của hội lại lỏng lẻo, các cường quốc như Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Pháp, Nga, Đức, Ý, Nhật Bản tham gia vốn chỉ để tranh giành ảnh hưởng cho mình. Dù hội đạt được một số thành tựu đáng kể trong công cuộc giải phóng phụ nữ cũng như những hoạt động nhân đạo nhưng chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và buộc Hội quốc liên phải giải tán.
Sau Thế chiến thứ hai, các nước Khối Đồng Minh và nhân dân thế giới có nguyện vọng giữ gìn hòa bình và ngăn chặn các cuộc chiến tranh thế giới mới. Tại Hội nghị Yalta, nguyên thủ ba nước Liên Xô, Mỹ, Anh đã thống nhất thành lập tổ chức quốc tế để giữ gìn hòa bình và an ninh thế giới. Trên cơ sở Hội nghị Durbarton Oaks ở Washington, D.C., từ 25 tháng 4 đến 26 tháng 6 năm 1945, đại diện của 50 quốc gia đã họp tại San Francisco, California, Hoa Kỳ để thông qua Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Ngày 24 tháng 10 năm 1945, Liên Hiệp Quốc chính thức được thành lập. Tuy vậy, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (General Assembly) đầu tiên, tham dự bởi 51 nước, không được tổ chức cho mãi đến ngày 10 tháng 1 năm 1946 (tại Nhà họp chính Westminster ở Luân Đôn).
“Một sự nghiệp vĩ đại để tạ ơn Đức Chúa toàn năng…” Tổng thống Mỹ Harry S. Truman đã nói như vậy về thành tựu của hội nghị tại San Francisco, một hội nghị đã góp phần vào việc soạn thảo bản Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945. Câu nói của tổng thống Truman đã đại diện cho hàng triệu người, những người tin rằng tổ chức mới này sẽ làm cho những cuộc chiến tranh thế giới lùi sâu vào dĩ vãng. Lời tựa của bản Hiến chương đã nêu rõ mục đích của tổ chức này: “Chúng tôi, những dân tộc của Liên Hợp Quốc, quyết tâm cứu những thế hệ mai sau khỏi thảm họa chiến tranh…”.
Thành viên
Tới năm 2011 có 193 quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc, gồm tất cả các quốc gia độc lập được thế giới công nhận. Trong số những nước không phải thành viên, đáng chú ý nhất là Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), ghế của họ tại Liên Hiệp Quốc đã được chuyển giao cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1971; Tòa Thánh (thực thể quản lý Thành Vatican), vốn đã từ bỏ quy chế thành viên nhưng vẫn là một quốc gia quan sát viên; Nhà nước Palestine (là một quan sát viên cùng với Chính quyền Quốc gia Palestine). Hơn nữa, những dân tộc dưới chủ quyền nước ngoài và các quốc gia không được công nhận cũng không hiện diện tại Liên Hiệp Quốc, như Transnistria. Thành viên mới nhất của Liên Hiệp Quốc là Nam Sudan, chính thức gia nhập ngày 14 tháng 7 năm 2011.
Liên Hiệp Quốc đã vạch ra các nguyên tắc cơ bản cho tư cách thành viên:
- Tư cách thành viên của Liên Hiệp Quốc mở rộng cho tất cả các quốc gia yêu chuộng hòa bình và chịu chấp nhận các nguyên tắc được đặt ra trong Hiến chương hiện thời và trong các phán quyết của Tổ chức, có thể và sẵn sàng thực thi những nguyên tắc đó.
- Sự thu nhận một quốc gia như thế vào Liên Hiệp Quốc sẽ bị ảnh hưởng bởi quyết định của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc với sự giới thiệu của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
—Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Chương 2, Phần 4[2]
Trụ sở
Toà nhà trụ sở Liên Hiệp Quốc hiện nay được xây dựng trên một khu đất rộng 16 acre tại Thành phố New York trong giai đoạn từ năm 1949 tới 1950, bên cạnh Khu phía Đông của thành phố. Khu đất này được John D. Rockefeller, Jr. mua với giá 8.5 triệu dollar, con trai ông Nelson là nhà thương thuyết chủ yếu với chuyên viên thiết kế William Zeckendorf, vào tháng 12 năm 1946. Sau đó John D. Rockefeller, Jr. tặng khu đất này cho Liên Hiệp Quốc.
Trụ sở được một đội các kiến trúc sư quốc tế gồm cả Le Corbusier (Thuỵ Sĩ), Oscar Niemeyer (Brasil) và đại diện từ nhiều nước khác thiết kế. Wallace K. Harrison, một cố vấn của Nelson Rockefeller, lãnh đạo đội. Đã xảy ra một vụ rắc rối giữa những người tham gia về thẩm quyền của từng người. Trụ sở Liên Hiệp Quốc chính thức mở cửa ngày 9 tháng 1 năm 1951. Trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc nằm tại New York, trụ sở một số cơ quan khác của tổ chức này nằm tại Geneva, La Hay, Wien, Montréal, Copenhagen, Bonn và nhiều nơi khác.
Địa chỉ trụ sở Liên Hiệp Quốc là 760 United Nations Plaza, New York, NY 10017, USA. Vì những lý do an ninh, tất cả thư từ gửi tới địa chỉ trên đều được tiệt trùng.[3]
Các tòa nhà Liên Hiệp Quốc đều không được coi là các khu vực tài phán chính trị riêng biệt,[cần dẫn nguồn] nhưng thực sự có một số quyền chủ quyền. Ví dụ, theo những thỏa thuận với các nước chủ nhà Cơ quan quản lý thư tín Liên Hiệp Quốc được phép in tem thư để gửi thư tín trong nước đó. Từ năm 1951 văn phòng tại New York, từ năm 1969 văn phòng tại Geneva, và từ năm 1979 văn phòng tại Wien đã in ấn tem riêng của mình. Các tổ chức của Liên Hiệp Quốc cũng sử dụng tiền tố viễn thông riêng, 4U, và về mặt không chính thức, các trụ sở tại New York, Geneva và Wien được coi là các thực thể riêng biệt đối với các mục đích radio không chuyên.
Bởi trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc đã trải qua một quá trình sử dụng khá dài, Liên Hiệp Quốc hiện đang trong quá trình xây dựng một trụ sở tạm do Fumihiko Maki thiết kế trên Đại lộ thứ nhất giữa Phố 41 và Phố 42 để dùng tạm khi công trình hiện nay đang được tu sửa.[4]
Trước năm 1949, Liên Hiệp Quốc sử dụng nhiều địa điểm tại Luân Đôn và tiểu bang New York.[5]
Tài chính
Quốc gia thành viên | Đóng góp (% ngân sách LHQ) |
---|---|
![]() |
22,000% |
![]() |
10,833% |
![]() |
7,141% |
![]() |
5,593% |
![]() |
5,179% |
![]() |
5,148% |
![]() |
4,448% |
![]() |
2,984% |
![]() |
2,973% |
![]() |
2,934% |
![]() |
2,438% |
![]() |
2,074% |
![]() |
1,994% |
![]() |
1,842% |
![]() |
1,654% |
Quốc gia thành viên khác | 20,765% |
Liên Hiệp Quốc hoạt động nhờ tiền đóng góp và tiền quyên tự nguyện từ các quốc gia thành viên. Những ngân sách chính thức hai năm của Liên hiệp quốc và các tổ chức chuyên biệt của họ lấy từ những khoản đóng góp. Đại hội đồng thông qua ngân sách chính thức và quyết định khoản đóng góp của mỗi quốc gia thành viên. Điều này dựa chủ yếu trên năng lực chi trả của mỗi nước, tính theo những số liệu thống kê thu nhập cùng với những yếu tố khác.
Đại hội đồng đã đưa ra nguyên tắc rằng Liên hiệp quốc sẽ không quá phụ thuộc vào bất kỳ một quốc gia thành viên nào trong lĩnh vực tài chính cần thiết cho những hoạt động của mình. Vì thế, có một mức “trần”, quy định khoản tiền tối đa một nước có thể đóng góp cho ngân sách. Tháng 12 năm 2000, Đại hội đồng đã sửa đổi tỷ lệ đóng góp để phản ánh chính xác hơn cục diện thế giới hiện tại. Như một phần của sự sửa đổi này, trần đóng góp được giảm từ 25% xuống 22%. Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất đóng góp ở mức trần, nhưng những khoản tiền họ còn thiếu lên tới hàng trăm triệu dollar (xem Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc). Theo mức đóng góp mới được thông qua năm 2000, các nước đóng góp lớn khác vào ngân sách Liên Hiệp Quốc năm 2001 là Nhật Bản (19.63%), Đức (9.82%), Pháp (6.50%), Anh (5.57%), Ý (5.09%), Canada (2.57%), Tây Ban Nha (2.53%) và Brasil (2.39%).[7]
Các chương trình đặc biệt của Liên Hiệp Quốc không được tính vào ngân sách chính thức của tổ chức này (ví dụ như UNICEF và Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc – UNDP), chúng hoạt động nhờ những khoản quyên góp tự nguyện từ các chính phủ thành viên. Một số các khoản đóng góp dưới hình thức các loại thực phẩm nông nghiệp viện trợ cho những người bị ảnh hưởng, nhưng chủ yếu vẫn là tiền mặt.
Ngôn ngữ
Liên Hiệp Quốc sử dụng sáu ngôn ngữ chính thức: tiếng Ả Rập, tiếng Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha.[8] Ban thư ký sử dụng hai ngôn ngữ làm việc: (tiếng Anh và tiếng Pháp).
Khi Liên Hiệp Quốc được thành lập, năm ngôn ngữ chính thức được lựa chọn là: tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Nga. Tiếng Ả Rập được đưa vào thêm năm 1973. Hiện có những tranh cãi trái chiều về việc liệu có nên giảm bớt số lượng ngôn ngữ chính thức (ví dụ chỉ giữ lại tiếng Anh) hay nên tăng thêm con số này.[cần dẫn nguồn] Áp lực đòi đưa thêm tiếng Hindi thành ngôn ngữ chính thức đang ngày càng gia tăng.[cần dẫn nguồn] Năm 2001, các nước nói tiếng Tây Ban Nha phàn nàn rằng tiếng Tây Ban Nha không có tư cách ngang bằng so với tiếng Anh.[9] Những nỗ lực chống lại sự tụt giảm vị thế của tiếng Pháp trong tổ chức này cũng rất to lớn;[10] vì thế tất cả các Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đều phải biết dùng tiếng Pháp và rõ ràng việc Tổng thư ký mới Ban Ki-Moon gặp khó khăn để có thể nói trôi chảy ngôn ngữ này trong buổi họp báo đầu tiên của ông [11] bị một số người coi là một sự mất điểm [12].
Tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc đối với các tài liệu bằng tiếng Anh (Hướng dẫn xuất bản Liên Hiệp Quốc) tuân theo quy tắc của tiếng Anh. Liên Hiệp Quốc và tất cả các tổ chức khác là một phần của hệ thống Liên Hiệp Quốc sử dụng phương pháp đánh vần Oxford. Tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc về tiếng Hoa (Quan thoại) đã thay đổi khi Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) phải nhường ghế cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1971. Từ năm 1945 đến 1971 kiểu chữ phồn thể được sử dụng, và từ năm 1971 kiểu chữ giản thể đã thay thế.
Trong số các ngôn ngữ chính thức của Liên Hiệp Quốc, tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của 52 quốc gia thành viên, tiếng Pháp của 29 thành viên, tiếng Ả Rập là 24, tiếng Tây Ban Nha là 20, tiếng Nga tại 4 và tiếng Trung Quốc tại 2 nước. Tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Đức là những ngôn ngữ được sử dụng ở khá nhiều nước thành viên Liên Hiệp Quốc (8 và 6) nhưng lại không phải là ngôn ngữ chính thức của tổ chức này.
Các mục đích và hoạt động
Các mục đích của Liên Hiệp Quốc
Những mục đích được nêu ra của Liên Hiệp Quốc là ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ nhân quyền, cung cấp một cơ cấu cho luật pháp quốc tế, và để tăng cường tiến bộ kinh tế, xã hội, cải thiện các điều kiện sống và chống lại bệnh tật.[13] Liên Hiệp Quốc tạo cơ hội cho các quốc gia nhằm đạt tới sự cân bằng trong sự phụ thuộc lẫn nhau trên bình diện thế giới và giải quyết các vấn đề quốc tế. Nhằm mục đích đó, Liên Hiệp Quốc đã phê chuẩn một Tuyên ngôn Chung về Nhân quyền năm 1948.[14]
Các hội nghị quốc tế
Các quốc gia Liên Hiệp Quốc và các cơ quan đặc biệt của nó — “những stakeholder” của hệ thống — đưa ra hướng dẫn và quyết định về những vấn đề lớn và vấn đề hành chính trong những cuộc gặp thông lệ được tổ chức suốt năm. Các cơ cấu quản lý được hình thành từ các quốc gia thành viên, không chỉ gồm Đại hội đồng, Hội đồng Kinh tế Xã hội và Hội đồng Bảo an, mà còn cả các cơ cấu tương đương chịu trách nhiệm quản lý tất cả các cơ quan khác của Hệ thống Liên Hiệp Quốc. Ví dụ Đại hội đồng Y tế và Ban Chấp hành quản lý công việc của Tổ chức Y tế Thế giới.
Khi một vấn đề được coi là có tầm quan trọng đặc biệt, Đại hội đồng có thể triệu tập một phiên họp đặc biệt để tập trung sự chú ý toàn cầu và xây dựng một phương hướng hành động chung. Những ví dụ gần đây gồm:
- Hội thảo Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Phát triển (Thượng đỉnh Trái Đất) tại Rio de Janeiro, Brasil, tháng 6 năm 1992, dẫn tới sự thành lập Uỷ ban Liên Hiệp Quốc về sự Phát triển Bền vững nhằm thực hiện những điều đã được ký kết tại Chương trình nghị sự 21, văn bản cuối cùng về những thỏa thuận đã được các chính phủ thảo luận tại UNCED;
- Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển, được tổ chức tại Cairo, Ai Cập, vào tháng 9 năm 1994, đã thông qua một chương trình hành động nhằm giải quyết các thách thức nguy ngập và mối quan hệ liên quan giữa dân số và sự phát triển bền vững trong vòng 20 năm tới;
- Hội nghị Thế giới lần thứ tư về Phụ nữ, được tổ chức tại Bắc Kinh, Trung Quốc, vào tháng 9 năm 1995, tìm cách đẩy nhanh việc thực hiện những thỏa thuận lịch sử đã đạt được tại Hội nghị Thế giới lần thứ ba về Phụ nữ;
- Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ hai về Sự định cư Loài người (Habitat II), được triệu tập tháng 6 năm 1996 tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, đánh giá những thách thức trước sự phát triển và quản lý định cư loài người trong thế kỷ 21.
- ICARA 2 or ICARA II: Hội nghị Quốc tế về sự Hỗ trợ Người tị nạn tại châu Phi được thành lập năm 1984.
Những năm quốc tế và những vấn đề liên quan
Liên Hiệp Quốc tuyên bố và điều phối “Năm quốc tế…” nhằm tập trung sự chú ý của thế giới vào các vấn đề quan trọng. Sử dụng hình tượng Liên Hiệp Quốc, một logo được thiết kế đặc biệt cho năm đó, và cơ sở hạ tầng của Hệ thống Liên Hiệp Quốc nhằm phối hợp các sự kiện trên khắp thế giới, nhiều năm đã trở thành điểm xúc tác cho những vấn đề quan trọng trên phạm vi thế giới.
- Đại sứ thiện chí UNESCO
- Di sản văn hóa thế giới UNESCO
- Đại sứ thiện chí của UNHCR
- Thành phố Liên Hiệp Quốc vì hòa bình
Mục tiêu kiểm soát và giải giáp vũ khí
Hiến chương năm 1945 của Liên Hiệp Quốc dự định đưa ra một hệ thống quy định sẽ đảm bảo “sự chi tiêu nhỏ nhất các nguồn tài nguyên con người và kinh tế thế giới cho vũ khí”. Phát minh ra các loại vũ khí hạt nhân xảy ra chỉ vài tuần sau khi Hiến chương được ký kết và ngay lập tức thúc đẩy ý tưởng hạn chế và giải giáp vũ khí. Trên thực tế, nghị quyết đầu tiên của phiên họp đầu tiên của Đại hội đồng (ngày 24 tháng 1 năm 1946) có tiêu đề “Sự thành lập một Ủy ban giải quyết các Vấn đề Phát sinh do sự Phát minh ra Năng lượng Nguyên tử” và kêu gọi đưa ra những đề xuất khoa học cho “sự hạn chế trang bị các loại vũ khí nguyên tử và tất cả các loại vũ khí chính khác với mục đích hủy diệt hàng loạt”.
Liên Hiệp Quốc đã lập ra nhiều diễn đàn nhằm giải quyết các vấn đề giải giáp vũ khí đa biên. Các diễn đàn chính là Ủy ban Thứ nhất của Đại hội đồng và Cao ủy về Giải giáp vũ khí Liên Hiệp Quốc. Những vấn đề được đưa vào chương trình nghị sự gồm việc ước tính những giá trị có được sau những hiệp ước cấm thử hạt nhân, kiểm soát vũ khí không gian, những nỗ lực nhằm ngăn chặn các loại vũ khí hóa học, giải giáp vũ khí hạt nhân và vũ khí thông thường, những khu vực không vũ khí hạt nhân, giảm bớt ngân sách quân sự, và các biện pháp nhằm tăng cường an ninh quốc tế.
Hội nghị Giải giáp là một diễn đàn được cộng đồng thế giới lập ra để đảm phán về các thỏa thuận kiểm soát vũ khí đa bên và giải giáp vũ khí. Diễn đàn có 66 thành viên đại diện cho mọi khu vực trên thế giới, gồm cả năm quốc gia hạt nhân chính (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Pháp, Nga, Anh Quốc và Hoa Kỳ). Tuy hội nghị không phải là một tổ chức chính thức của Liên Hiệp Quốc, nó kết nối với tổ chức này thông qua sự hiện diện cá nhân của Tổng thư ký; người đồng thời cũng là tổng thư ký của hội nghị. Những nghị quyết được Đại hội đồng thông qua thường yêu cầu hội nghị xem xét các vấn đề giải giáp riêng biệt. Đổi lại, hàng năm hội nghị thông báo các hoạt động của mình cho Đại hội đồng.
Giữ gìn hòa bình
Lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc được gửi tới nhiều vùng nơi các cuộc xung đột quân sự mới chấm dứt, nhằm buộc các bên tôn trọng các thỏa thuận hòa bình và ngăn chặn tình trạng thù địch tái diễn, ví dụ tại Đông Timor cho tới khi nước này giành độc lập năm 2001. Các lực lượng đó do các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc đóng góp, và việc tham dự vào các chiến dịch gìn giữ hòa bình là không bắt buộc; tới nay chỉ có hai quốc gia là Canada và Bồ Đào Nha, đã tham gia vào tất cả các chiến dịch gìn giữ hòa bình.[cần dẫn nguồn] Liên Hiệp Quốc không duy trì bất kỳ một lực lượng quân sự độc lập nào. Tất cả các chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc phải được Hội đồng bảo an thông qua.
Những người sáng lập Liên Hiệp Quốc đã thực sự hy vọng rằng tổ chức này sẽ hoạt động để ngăn chặn những cuộc xung đột giữa các quốc gia và các cuộc chiến tranh trong tương lai. Những hy vọng đó không hoàn toàn trở thành hiện thực. Trong thời Chiến tranh Lạnh (từ khoảng năm 1945 tới năm 1991), sự phân chia thế giới thành những phe thù địch khiến thỏa thuận gìn giữ hòa bình rất khó được thông qua. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, lại tái xuất hiện những lời kêu gọi biến Liên Hiệp Quốc trở thành một cơ quan đảm bảo hòa bình quốc tế, bởi hàng chục những cuộc xung đột quân sự vẫn tiếp tục diễn ra trên khắp thế giới. Nhưng sự tan vỡ của Liên bang Xô viết cũng khiến Hoa Kỳ có được vị thế thống trị toàn cầu duy nhất, tạo ra nhiều thách thức mới cho Liên Hiệp Quốc.
Các chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc sử dụng nguồn tài chính từ các khoản đóng góp, tính theo công thức đóng góp tỷ lệ thông thường, nhưng gồm cả những chi phí cộng thêm đối với năm thành viên thường trực của Hội đồng bảo an, những nước có quyền thông qua việc tiến hành những chiến dịch gìn giữ hòa bình đó. Khoản thu thêm này sẽ bù đắp cho những khoản phí gìn giữ hòa bình của các quốc gia kém phát triển. Tháng 12 năm 2000, Liên Hiệp Quốc đã sửa đổi tỷ lệ đóng góp vào ngân sách hoạt động và ngân sách gìn giữ hòa bình. Tỷ lệ đóng góp cho việc gìn giữ hòa bình sẽ được thay đổi sáu tháng một lần và dự kiến là gần 27% cho năm 2003. Hoa Kỳ dự định đóng góp chi phí gìn giữ hòa bình ở mức thấp này và đang tìm kiếm sự ủng hộ pháp lý từ phía Nghị viện nhằm cho phép giải ngân các khoản góp họ còn nợ Liên Hiệp Quốc.
Các lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc (được gọi là Quân mũ nồi xanh) đã nhân được Giải Nobel năm 1998 cho công lao giữ gìn Hòa bình của họ. Năm 2001, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đã đoạt giải Nobel Hòa bình “vì nỗ lực cho một thế giới hòa bình và được tổ chức tốt hơn.”
Liên Hiệp Quốc có nhiều loại Huy chương Liên Hiệp Quốc để trao cho những thành viên quân sự tham gia vào việc gìn giữ các thỏa thuận hòa bình của tổ chức này. Huy chương đầu tiên ra đời là Huy chương Phục vụ Liên Hiệp Quốc, được trao cho các lực lượng Liên Hiệp Quốc tham gia vào cuộc Chiến tranh Triều Tiên. Huy chương NATO cũng ra đời với mục tiêu như trên và cả hai loại này đều được coi là huy chương quốc tế chứ không phải huy chương quân sự.[cần dẫn nguồn]
Nhân quyền
Bài này là một bản dịch thô từ ngôn ngữ khác. Đây có thể là kết quả của máy tính hoặc của người chưa thông thạo dịch thuật. Xin hãy giúp tăng chất lượng bản dịch. |
Việc theo đuổi mục tiêu nhân quyền là một lý do chính của việc thành lập Liên Hiệp Quốc. Sự tàn bạo của Thế chiến thứ hai và nạn diệt chủng dẫn tới một kết luận chung rằng tổ chức mới này phải hoạt động để ngăn chặn bất kỳ một thảm kịch nào như vậy trong tương lai. Một mục tiêu ban đầu là tạo ra một khung pháp lý để xem xét và hành động trước những vấn đề về vi phạm nhân quyền.
Hiến chương Liên Hiệp Quốc bắt buộc tất cả các quốc gia thành viên phải khuyến khích “sự tôn trọng toàn diện, và sự tuân thủ, nhân quyền” và tiến hành “các hành động chung hay riêng rẽ” cho mục tiêu đó. Tuyên bố Chung về Nhân quyền, dù không chính thức ràng buộc, đã được Đại hội đồng thông qua năm 1948 như là một tiêu chuẩn chung để hướng tới đối với mọi nước thành viên. Đại hội đồng thường đề cập tới các vấn đề nhân quyền.
Ngày 15 tháng 3 năm 2006 Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu với kết quả áp đảo để thay thế Uỷ ban nhân quyền (Human rights Commission) bằng Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc(Human Rights Council).[20] Mục tiêu của nó là giải quyết các vụ vi phạm nhân quyền. Uỷ ban nhân quyền đã nhiều lần bị chỉ trích vì thành phần thành viên của nó.[cần dẫn nguồn] Đặc biệt, chính nhiều nước thành viên của cơ quan này cũng có thành tích nhân quyền kém cỏi, gồm cả những nước có đại diện được bầu làm chủ tịch ủy ban.[cần dẫn nguồn]
Hiện có bảy Cơ cấu hiệp ước nhân quyền liên quan tới Liên Hiệp Quốc, gồm Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc và Ủy ban về Sự hạn chế và Ngăn chặn bạo hành chống Phụ nữ. Ban thư ký của sáu (trừ Ủy ban Hạn chế và ngăn chặn bạo hành chống phụ nữ) đều do văn phòng Cao Ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc điều hành.
Liên Hiệp Quốc và các cơ quan của mình là nhân tố chủ chốt thúc đẩy và áp dụng các nguyên tắc thiêng liêng trong Tuyên bố Chung về Nhân quyền. Một trường hợp như thế là việc Liên Hiệp Quốc hỗ trợ các nước đang trong quá trình chuyển tiếp sang chế độ dân chủ. Hỗ trợ kỹ thuật trong việc tổ chức các cuộc bầu cử tự do và công bằng, cải thiện các cơ cấu pháp lý, khởi thảo hiến pháp, huấn luyện các nhân viên nhân quyền, và chuyển các phong trào vũ trang thành các đảng chính trị đã đóng góp rất lớn vào quá trình dân chủ hóa trên khắp thế giới. Liên Hiệp Quốc đã giúp tổ chức các cuộc bầu cử tại những quốc gia vốn có thành tích dân chủ yếu kém, gồm cả hai quốc gia gần đây là Afghanistan và Đông Timor.
Liên Hiệp Quốc cũng là một diễn đàn hỗ trợ quyền phụ nữ tham gia đầy đủ vào đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước họ. Liên Hiệp Quốc góp phần vào việc hướng sự chú ý của dư luận vào khái niệm nhân quyền thông qua các hiệp ước của nó và sự chú ý của tổ chức này vào những vụ lạm dụng đặc biệt thông qua các nghị quyết của Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an hay thông qua những quyết định của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ).
Đầu năm 2006, một nhóm hội thảo chống tra tấn tại Liên Hiệp Quốc đã đề xuất việc đóng cửa Nhà tù Vịnh Guantanamo và chỉ trích cái gọi là sự sử dụng những nhà tù bí mật và sự nghi ngờ việc vận chuyển tù nhân tới nước ngoài cho mục đích hỏi cung của Hoa Kỳ.[cần dẫn nguồn] Một số thành viên Đảng Dân chủ Hoa Kỳ và các nhóm nhân quyền cho rằng hệ thống nhà tù bí mật của CIA không cho phép giám sát được các vụ vi phạm nhân quyền và hy vọng chúng sẽ sớm bị đóng cửa.
Hỗ trợ nhân đạo và Phát triển quốc tế
Phối hợp với các tổ chức khác như Chữ thập đỏ, Liên Hiệp Quốc cung cấp thực phẩm, nước uống, nơi cư ngụ và các dịch vụ nhân đạo khác cho những người dân đang phải chịu nạn đói, phải rời bỏ nhà cửa vì chiến tranh, hay bị ảnh hưởng bởi các thảm họa khác. Các cơ quan nhân đạo chính của Liên Hiệp Quốc là Chương trình Lương thực Thế giới (đã giúp cung cấp thực phẩm cho hơn 100 triệu người mỗi năm ở hơn 80 quốc gia), Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn hiện điều hành các dự án ở hơn 116 nước, cũng như các chiến dịch gìn giữ hòa bình tại hơn 24 quốc gia. Nhiều lần, các nhân viên cứu trợ của Liên Hiệp Quốc đã trở thành mục tiêu của các vụ tấn công (xem Các vụ tấn công vào nhân viên cứu trợ nhân đạo).
Liên Hiệp Quốc cũng tham gia vào việc hỗ trợ phát triển, ví dụ thông qua việc đưa ra Các mục tiêu Thiên niên kỷ. Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) là tổ chức đa bên lớn nhất tiến hành hỗ trợ kỹ thuật trên thế giới. Các tổ chức khác như WHO, UNAIDS, và Quỹ thế giới Phòng chống AIDS, Lao và Sốt rét — là các định chế hàng đầu trong cuộc chiến chống lại bệnh tật trên thế giới, đặc biệt tại các nước nghèo. Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc là nhà cung cấp chính các dịch vụ sinh sản. Quỹ này đã giúp giảm tỷ lệ tử vong ở bà mẹ và trẻ em tại 100 quốc gia.
Hàng năm Liên Hiệp Quốc đưa ra Chỉ số Phát triển Con người (HDI), một biện pháp so sánh xếp hạng quốc gia theo sự nghèo khổ, học vấn, giáo dục, tuổi thọ, và các yếu tố khác.
Liên Hiệp Quốc khuyến khích phát triển con người thông qua nhiều cơ quan và văn phòng của mình:
- Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) loại trừ bệnh đậu mùa năm 1977 và đang tiến gần tới mục tiêu loại trừ bệnh bại liệt.
- Ngân hàng Thế giới / Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) Ghi chú: Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế được thành lập với tư cách các thực thể riêng biệt khỏi Liên Hiệp Quốc thông qua Thỏa thuận Bretton Woods năm 1944. Sau đó, vào năm 1947, một thỏa thuận khác được ký kết biến các tổ chức hậu Bretton Woods trở thành các cơ quan độc lập, chuyên biệt và là những cơ quan giám sát bên trong cơ cấu Liên Hiệp Quốc. Đây là trang của Ngân hàng Thế giới làm sáng tỏ quan hệ giữa hai tổ chức.
- Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP)
- Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP)
- Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO)
- Quỹ Trẻ em Liên Hiệp Quốc(UNICEF)
- Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn (UNHCR)
Ngày 9 tháng 3 năm 2006, Tổng thư ký Kofi Annan đã lập ra Quỹ Cứu trợ Khẩn cấp Trung ương (CERF) dành cho những người dân Châu Phi đang bị nạn đói đe doạ.
Liên Hiệp Quốc cũng có một cơ quan gọi là Hội đồng Lương thực Thế giới với mục đích phối hợp các bộ nông nghiệp các nước nhằm giảm nhẹ nạn đói và suy dinh dưỡng. Tổ chức này tạm ngừng hoạt động năm 1993.
Các hiệp ước và luật pháp quốc tế
Liên Hiệp Quốc đàm phán các hiệp ước như Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển nhằm tránh những nguy cơ xung đột quốc tế tiềm tàng. Những tranh cãi về việc sử dụng các đại dương có thể được phân xử tại một tòa án đặc biệt.
Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) là tòa án chính của Liên Hiệp Quốc. Mục tiêu của tòa án này là để phán xử những tranh cãi giữa các quốc gia thành viên. ICJ bắt đầu hoạt động năm 1946 và vẫn đang xem xét nhiều vụ việc. Các trường hợp đáng chú ý gồm:
- Congo và Pháp, khi Cộng hòa Dân chủ Congo cáo buộc Pháp bắt giữ bất hợp pháp các cựu lãnh đạo bị cho là tội phạm chiến tranh; và Nicaragua với Hoa Kỳ, khi Nicaragua buộc tội Mỹ trang bị vũ khí bất hợp pháp cho Contras (vụ này dẫn tới Vụ Iran-Contra).
- Năm 1993, đối phó với sự “thanh lọc sắc tộc” tại Nam Tư cũ, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã thành lập Tòa án tội phạm quốc tế cho Nam Tư cũ. Năm 1994, đối phó với nạn diệt chủng tại Rwanda, Hội đồng đã thành lập Tòa án tội phạm quốc tế cho Rwanda. Việc phán xử tại hai tòa án đó đã thiết lập nên cơ sở xác định hiện nay rằng hành vi tội phạm cưỡng bức trong những cuộc xung đột quân sự là tội ác chiến tranh.[21]
- Năm 1998 Đại hội đồng kêu gọi triệu tập một hội nghị tại Roma về việc thành lập một Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC), tại đây “Quy chế Roma” đã được thông qua. Tòa án Tội phạm quốc tế bắt đầu hoạt động năm 2002 và tiến hành phiên xử đầu tiên năm 2006.[22] Đây là tòa án quốc tế thường trực đầu tiên chịu trách nhiệm xét xử những người bị cho là phạm các tội ác nghiêm trọng theo luật pháp quốc tế gồm cả tội ác chiến tranh và diệt chủng. Tuy nhiên, hoạt động của ICC độc lập với Liên Hiệp Quốc cả về nhân sự và tài chính, dù một số cuộc gặp gỡ của cơ quan điều hành ICC, Đại hội đồng các Quốc gia tham gia Quy chế Roma, được tổ chức tại Liên Hiệp Quốc. Có một “thỏa thuận quan hệ” giữa ICC và Liên Hiệp Quốc để quy định mối quan hệ giữa hai định chế này với nhau.
- Năm 2002, Liên Hiệp Quốc đã thành lập Tòa án đặc biệt cho Sierra Leone để đối phó trước những hành động tàn bạo xảy ra trong thời gian nội chiến tại nước này.
Cũng có một SCIU (Đơn vị Điều tra những Tội ác Nghiêm trọng) cho Đông Timor.
Những gương mặt nổi tiếng của Liên Hiệp Quốc
Nhiều cá nhân theo chủ nghĩa nhân đạo và người nổi tiếng đã cùng hoạt động với Liên Hiệp Quốc, gồm Amitabh Bachchan, Audrey Hepburn, Eleanor Roosevelt, Danny Kaye, Roger Moore, Peter Ustinov, Bono, Jeffrey Sachs, Angelina Jolie, Mẹ Teresa, Shakira, Jay Z và Nicole Kidman.
Cải cách
Những năm gần đây đã có nhiều lời kêu gọi cải cách Liên Hiệp Quốc. Nhưng vẫn chưa có nhiều triển vọng sáng sủa, chỉ riêng việc các nước chịu đồng thuận với nhau, về cách cải tổ như thế nào. Một số nước muốn Liên Hiệp Quốc đóng một vai trò lớn và hiệu quả hơn trong các công việc chung của thế giới, những nước khác muốn giảm xuống chỉ còn vai trò nhân đạo. Cũng có nhiều lời kêu gọi cải cách quy chế thành viên trong Hội đồng Bảo an nhằm phản ánh chính xác hơn tình thế địa chính trị quốc tế ngày nay (ví dụ tăng số thành viên Châu Phi, Nam Mỹ và Châu Á).[cần dẫn nguồn] Năm 2004 và 2005, những chứng cớ như quản lý kém và tham nhũng liên quan tới Chương trình đổi dầu lấy lương thực cho Iraq dưới thời Saddam Hussein khiến một lần nữa những lời kêu gọi cải cách lại dấy lên.[cần dẫn nguồn]
Một chương trình cải cách chính thức đã được Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đưa ra một thời gian ngắn sau khi ông nhậm chức trong nhiệm kỳ đầu tiên ngày 1 tháng 1 năm 1997. Những hành động cải cách liên quan tới việc thay đổi số lượng thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (hiện chỉ phản ánh quan hệ quyền lực năm 1945); biến quá trình hoạt động của bộ máy trở nên công khai hơn, nhấn mạnh trên hiệu quả; biến Liên Hiệp Quốc trở nên dân chủ hơn; và áp đặt một biểu thuế quốc tế trên các công ty sản xuất vũ khí toàn cầu.[cần dẫn nguồn]
Tháng 9 năm 2005, Liên Hiệp Quốc đã triệu tập một Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới với sự tham gia của hầu hết nguyên thủ quốc gia các nước thành viên, trong một khóa họp toàn thể của phiên họp toàn thể Đại hội đồng lần thứ 60. Liên Hiệp Quốc gọi cuộc họp thượng đỉnh là “một cơ hội hàng thế hệ mới có một lần nhằm đưa ra những quyết định quan trọng về phát triển, an ninh, nhân quyền và cải cách liên hiệp quốc”.[23] Tổng thư ký Kofi Annan đã đề xuất hội nghị đồng ý về một “thỏa thuận cả gói” để cải cách Liên Hiệp Quốc sửa chữa lại các hệ thống quốc tế vì hòa bình và an ninh, nhân quyền và phát triển, để khiến chúng có khả năng giải quyết những thách thức rất lớn mà Liên Hiệp Quốc sẽ phải đối mặt trong thế kỷ 21. Các nhà lãnh đạo thế giới đã đồng thuận trên một văn bản về những vấn đề đáng chú ý đó như:
- thành lập một Hội đồng xây dựng hòa bình để tạo lập một cơ cấu trung tâm nhằm giúp đỡ các quốc gia đang đứng trước nguy cơ xung đột;
- thỏa thuận rằng cộng đồng quốc tế có quyền can thiệp khi các chính phủ quốc gia không thể hoàn thành trách nhiệm của họ trong việc bảo vệ các công dân của mình khỏi những hành động tội ác;
- một Ủy ban Nhân quyền (thành lập ngày 9 tháng 5 và sẽ bắt đầu hoạt động 19 tháng 6);
- một thỏa thuận cung cấp thêm những nguồn tài nguyên cho Văn phòng các Dịch vụ Giám sát Nội bộ Liên Hiệp Quốc;
- nhiều thỏa thuận chi thêm hàng tỷ dollar nhằm đạt các Mục tiêu Thiên niên kỷ;
- một sự lên án rõ ràng và không tham vọng với chủ nghĩa khủng bố “ở mọi hình thức và mọi kiểu”;
- một quỹ dân chủ;
- một thỏa thuận nhằm chấm dứt hoạt động của Hội đồng Ủy trị vì hội đồng này đã hoàn thành sứ mệnh của mình.[24]
Dù các nước thành viên Liên Hiệp Quốc chưa đạt được nhiều thành quả trên con đường cải cách sự quan liêu của tổ chức này, Annan vẫn tiếp tục tiến hành những cải cách trong phạm vi quyền hạn của mình. Ông đã lập ra các văn phòng đạo đức, chịu trách nhiệm trừng phạt những hành vi gian lận tài chính mới bị phanh phui và đề xuất những chính sách ngăn ngừa mới. Tới cuối tháng 12 năm 2005, ban thư ký đã hoàn thành việc xem xét lại toàn bộ ủy nhiệm của Đại hội đồng từ hơn năm năm trước. Việc điều tra này là cơ sở căn bản để các quốc gia thành viên quyết định tăng hay giảm các chương trình hoạt động theo hiệu quả của chúng.[cần dẫn nguồn]
Những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ là tám mục tiêu mà toàn bộ 192 nước thành viên Liên Hiệp Quốc đã đồng ý sẽ hoàn thành vào năm 2015. Borgen Project ước tính rằng cần chi khoảng 40-60 tỷ dollar mỗi năm để đạt tám mục tiêu trên.
Tuyên bố thiên niên kỷ Liên Hiệp Quốc, được ký kết tháng 9 năm 2001, hứa hẹn:
- Loại trừ nghèo đói;
- Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học;
- Khuyến khích bình đẳng giới và tăng quyền cho phụ nữ;
- Giảm tỷ lệ tử vong trẻ em;
- Cải thiện sức khỏe bà mẹ;
- Chiến đấu chống HIV/AIDS, sốt rét, và các bệnh tật khác;
- Đảm bảo môi trường bền vững;
- Khuyến khích một mối quan hệ đối tác phát triển quốc tế.
Những thành công và thất bại trong các vấn đề an ninh
Một phần lớn trong chi tiêu của Liên Hiệp Quốc là để giải quyết các vấn đề cốt lõi về hòa bình và an ninh của Liên Hiệp Quốc. Ngân sách gìn giữ hòa bình năm tài chính 2005-2006 gần 5 tỷ dollar (so với mức gần 1.5 tỷ dollar ngân sách chính của Liên Hiệp Quốc trong cùng giai đoạn)[cần dẫn nguồn], với khoảng 70.000 quân được triển khai cho 17 chiến dịch khắp thế giới. Báo cáo An ninh Con người 2005 [25], do Trung tâm An ninh Con người thuộc Đại học British Columbia đưa ra với sự hộ trợ từ nhiều chính phủ và quỹ khác cho thấy một sự sụt giảm lớn, nhưng phần lớn không được công nhận, trong số lượng các cuộc chiến, những vụ diệt chủng và những vụ vi phạm nhân quyền từ cuối giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Những con số thống kê gồm:
- Giảm 40% những cuộc xung đột bạo lực.
- Giảm 80% những cuộc xung đột gây đổ máu nhiều nhất.
- Giảm 80% những cuộc diệt chủng và thanh lọc chính trị.
Báo cáo, do Oxford University Press[cần dẫn nguồn], cho rằng sự tuyên truyền cho một học thuyết quốc tế – chủ yếu do Liên Hiệp Quốc đề xướng – là nguyên nhân chính mang lại sự sụt giảm những cuộc xung đột quân sự, dù bản báo cáo cho thấy bằng chứng về sự tranh cãi này đa phần chỉ mang tính hoàn cảnh.
Bản báo cáo chỉ ra nhiều khoản đầu tư riêng biệt đã chi:[26]
- Tăng sáu lần số lượng các chiến dịch của Liên Hiệp Quốc được tiến hành để ngăn chặn chiến tranh trong giai đoạn 1990 tới 2002.
- Tăng bốn lần cho các nỗ lực nhằm chấm dứt những cuộc xung đột đang diễn ra, từ năm 1990 tới 2002.
- Tăng bảy lần số lượng ‘Bạn bè của Tổng thư ký’, ‘Các nhóm tiếp xúc’ và các cơ cấu do chính phủ đề xuất nhằm hỗ trợ các chiến dịch kiến tạo hòa bình và xây dựng hòa bình trong giai đoạn từ 1990 đến 2003.
- Tăng mười một lần số lượng các lệnh trừng phạt kinh tế chống lại các chế độ cầm quyền trên khắp thế giới từ 1989 tới 2001.
- Tăng bốn lần số lượng các chiến dịch gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc, từ 1987 đến 1999.
Tính trung bình, những nỗ lực trên vừa nhiều vừa quá lớn lại phức tạp hơn những chiến dịch thời Chiến tranh Lạnh.
Trong lĩnh vực gìn giữ hòa bình, các thắng lợi gồm:
- Văn phòng Giải trình Chính phủ Hoa Kỳ đã kết luận rằng việc gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc có chi phí ít hơn tám lần so với khoản chi cho lực lượng Hoa Kỳ.[27]
- Một nghiên cứu năm 2005 của RAND Corp cho thấy Liên Hiệp Quốc thành công ở hai trong số ba chiến dịch gìn giữ hòa bình của mình. Nghiên cứu này cũng so sánh những nỗ lực xây dựng nhà nước của Liên Hiệp Quốc với cũng nỗ lực của Hoa Kỳ, và thấy rằng trong tám trường hợp của Liên Hiệp Quốc, bảy trường hợp diễn ra trong hòa bình, trong khi trong tám trường hợp của Hoa Kỳ, bốn diễn ra trong hòa bình, và bốn không hề hay chưa hề có hòa bình.[28]
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc bất đắc dĩ phải thực hiện các nghị quyết của Hội đồng Bảo an. Iraq được cho là đã vi phạm 17 nghị quyết của Hội đồng bảo an từ ngày 28 tháng 6 năm 1991 cũng như đã tìm cách né tránh những lệnh trừng phạt kinh tế của Liên Hiệp Quốc. Trong gần một thập kỷ, Israel bất chấp các nghị quyết kêu gọi tháo dỡ các khu định cư của họ tại Bờ Tây và Dải Gaza. Những thất bại đó xuất phát từ tình trạng phụ thuộc đa chính phủ của Liên Hiệp Quốc – ở nhiều khía cạnh đây là một tổ chức gồm 192 quốc gia thành viên và luôn cần phải có sự nhất trí, chứ không phải là một tổ chức độc lập. Thậm chí khi các hành động được 15 nước thành viên Hội đồng bảo an thông qua, Ban thư ký hiếm khi cung cấp đủ các nguồn tài nguyên cần thiết để thực hiện các sứ mệnh đó.
Những thất bại khác trong vấn đề an ninh gồm:
- Thất bại trong việc ngăn chặn vụ Diệt chủng tại Rwanda năm 1994, dẫn tới cái chết của gần một triệu người, vì các thành viên của hội đồng bảo an từ chối thông qua bất kỳ một hành động quân sự nào.
- Thất bại của MONUC (Nghị quyết 1292 của UNSC) trong việc can thiệp một cách có hiệu quả vào cuộc Chiến tranh Congo lần thứ hai, liên quan tới gần năm triệu người tại Cộng hòa Dân chủ Congo, 1998-2002 (với những trận đánh vẫn đang tiếp diễn), và trong việc tiến hành cung cấp viện trợ nhân đạo.
- Thất bại trong việc can thiệp vào Cuộc thảm sát Srebrenica năm 1995, dù sự thực là Liên hiệp quốc đã coi Srebrenica là một “thiên đường an toàn” cho những người tị nạn và phái 600 lính gìn giữ hòa bình Hà Lan tới bảo vệ nó.
- Thất bại trong việc cung cấp thực phẩm tới những người dân đói khát tại Somalia; thực phẩm thường bị các lãnh chúa địa phương chiếm đoạt. Một nỗ lực của Hoa Kỳ/Liên Hiệp Quốc trong việc bắt giữ các vị lãnh chúa đó đã dẫn tới Trận Mogadishu năm 1993.
- Thất bại trong việc thực hiện 1559 và Nghị quyết 1701 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc kêu gọi giải giáp các nhóm bán quân sự Liban như Fatah và Hezbollah.
- Lạm dụng tình dục của binh lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc. Binh lính gìn giữ hòa bình từ nhiều quốc gia đã bị thải hồi khỏi các chiến dịch gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc vì hành động lạm dụng và bóc lột tình dục các cô gái, thậm chí mới chỉ 8 tuổi, trong một số chiến dịch gìn giữ hòa bình khác nhau. Sự lạm dụng tình dục này vẫn diễn ra dù đã có nhiều sự phát hiện và bằng chứng từ Văn phòng Liên Hiệp Quốc về Dịch vụ Giám sát Nội bộ.[29][30] Một cuộc điều tra nội bộ năm 2005 của Liên Hiệp Quốc cho thấy sự khai thác và lạm dụng tình dục đã được báo cáo tại ít nhất năm quốc gia nơi các binh lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc được triển khai, gồm Cộng hòa Dân chủ Congo, Haiti, Burundi, Côte d’Ivoire và Liberia.[31] BBC đã tiến hành một cuộc điều tra tương tự, và cũng chỉ ra một số thành viên Chương trình Lương thực Thế giới cũng có những hành vi lạm dụng.[32]
Chỉ trích và mâu thuẫn
Hội đồng bảo an
- Xem bài chính tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc
Liên Hiệp Quốc đã bị chỉ trích vì không thể hoạt động một cách rõ ràng và kiên quyết khi đối đầu trước một vụ khủng hoảng. Những ví dụ gần đây gồm chương trình hạt nhân của Iran và sự diệt chủng trong cuộc xung đột Darfur, Sudan. Vì mỗi nước trong số năm thành viên thường trực của Hội đồng bảo an đều có quyền phủ quyết, và bởi vì họ thường bất đồng với nhau, đã rất nhiều lần không có bất kỳ một hành động nào được thông qua. Thông thường, nhưng không phải là luôn luôn, sự chia rẽ này xuất hiện giữa Hoa Kỳ ở một phía và Trung Quốc, Nga hay cả hai ở phía kia. Một số lần Hội đồng bảo an đồng thuận với nhau nhưng lại thiếu sự quyết tâm hay phương tiện để thực thi các nghị quyết của họ. Một ví dụ gần đây là Cuộc khủng hoảng Israel-Liban 2006, không hành động nào được thực hiện theo Nghị quyết 1559 và Nghị quyết 1701 để giải giáp các lực lượng du kích phi chính phủ như Hezbollah. Những lời chỉ trích đặt nghi vấn về hiệu năng và sự thích hợp của Hội đồng bảo an bởi vì khi vi phạm vào một nghị quyết do Hội đồng này đưa ra, thường cũng không xảy ra hậu quả nào cả. (Xem Cải cách Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.)
Giám sát nhân quyền
Các quốc gia như Sudan và Libya, với những nhà lãnh đạo rõ ràng có bảng thành tích nhân quyền kém cỏi vẫn(theo quan điểm của Mỹ và một số nước được là thành viên của Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Nhân quyền (HRC) cũ,[33][34] và việc Libya được bầu làm chủ tịch của Ủy ban này, đã từng là một vấn đề bàn cãi. Những nước đó cho rằng, các quốc gia phương tây, mà họ cho là có thái độ thù địch thực dân và tàn bạo, không có quyền đặt vấn đề về tư cách thành viên của họ trong Ủy ban này.
Tuy nhiên vào ngày 15 tháng 3 năm 2006 Đại hội đồng đã thông qua nghị quyết thành lập một cơ chế mới – Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc – để thay thế Ủy ban trên. Cơ quan này có các quy định chặt chẽ hơn về quy chế thành viên gìn giữ hòa bình gồm cả một bản thành tích chung về nhân quyền và tăng số lượng phiếu cần bầu cần thiết để một quốc gia có đủ tư cách tham gia, từ hình mẫu bầu theo danh sách vùng với Hội đồng kinh tế xã hội 53 thành viên chuyển sang tất cả một nửa trong số 192 thành viên của Đại hội đồng.
Ngày 9 tháng 5 năm 2006 47 thành viên mới được bầu vào hội đồng. Trong khi một số nước như Cuba, Pakistan, Nga, Ả Rập Saudi và Azerbaijan được bầu[35][36][37], thì một số nước khác không có mặt trong Hội đồng mới như:
- Các nước không được tham gia: Syria, Bắc Triều Tiên, Belarus và Myanma
- Các quốc gia từng là thành viên của Ủy ban: Zimbabwe, Sudan, Nepal và Libya
- Các quốc gia muốn tham gia nhưng không nhận đủ số phiếu: Iran, Venezuela, Thái Lan, Iraq và Kyrgyzstan
Vì những thay đổi trong cơ chế thành viên giữa Ủy ban và Hội đồng, số lượng quốc gia bị Hội đồng Tự do coi là “Không tự do” chiếm hơn một nửa.
Thiếu hiệu năng do tính quan liêu
Liên Hiệp Quốc đã bị cáo buộc thiếu tính hiệu năng và lãng phí vì cơ cấu cồng kềnh và quan liêu quá mức của nó. Trong thập niên 1990, Hoa Kỳ, nước hiện đóng góp nhiều nhất cho ngân sách tổ chức này, đã coi sự thiếu hiệu quả là một nguyên nhân khiến họ trì hoãn các khoản đóng góp. Việc chi trả những khoản thiếu này chỉ được thực hiện với điều kiện về sáng kiến cho một cuộc cải cách lớn. Năm 1994 Văn phòng Dịch vụ Giám sát Nội bộ (OIOS) được thành lập theo quyết định của Đại hội đồng nhằm đóng vai trò giám sát tính hiệu năng của tổ chức.[38] Một chương trình cải cách đã được đề xuất, nhưng vẫn chưa được Đại hội đồng thông qua.[39][40]
Sự phân biệt đối xử chống Israel
Liên Hiệp Quốc cũng đã bị cáo buộc thực hiện tiếp cận một chiều đối với các vấn đề Trung Đông và cuộc xung đột Israel-Palestine.[41][42] Những lời cáo buộc cho rằng Israel đã bị phân biệt đối xử trong tổ chức quốc tế này với cách đối xử chỉ trích một chiều độc nhất từ trước tới nay. Không giống như tất cả các nhóm người tị nạn khác, người Palestine có cơ quan riêng của họ bên trong Liên Hiệp Quốc (Cơ quan Cứu trợ và Việc làm Liên Hiệp Quốc cho người tị nạn Palestine) tách biệt với Văn phòng Cao Ủy Liên Hiệp Quốc về Người tị nạn, vốn chịu trách nhiệm về tất cả các vấn đề người tị nạn trên thế giới.[43]
Cho tới tận năm 2000, Israel không có tư cách thành viên bên trong bất kỳ một nhóm cấp vùng nào của Liên Hiệp Quốc. Trên thực tế, điều này có nghĩa là Israel bị cấm hoạt động trong các cơ quan Liên Hiệp Quốc như Hội đồng Bảo an. Việc cho phép Israel tham gia đầy đủ hơn bên trong Liên Hiệp Quốc với tư cách là một quốc gia thành viên Tây Âu và các nhóm cấp vùng khác gần đây chỉ mang tính tạm thời và bắt buộc phải được gia hạn định kỳ. Israel chỉ được phép tham gia vào các hoạt động tại Thành phố New York của Liên Hiệp Quốc và bị loại trừ khỏi các văn phòng Liên Hiệp Quốc tại Geneva, Nairobi, Roma và Wien là những văn phòng quản lý các vấn đề như nhân quyền và kiểm soát vũ khí. Việc chỉ trích Israel đã trở thành một công việc thường ngày đối với nhiều cơ quan Liên Hiệp Quốc như Hội đồng Nhân quyền.
Bất lực trước vấn đề diệt chủng và nhân quyền
Liên Hiệp Quốc cũng bị cáo buộc đã cố tình làm ngơ trước hoàn cảnh khó khăn của nhiều người trên khắp thế giới, đặc biệt tại nhiều vùng ở Châu Á, Trung Đông và Châu Phi. Những ví dụ hiện tại gồm việc Liên Hiệp Quốc không hành động gì trước chính phủ Sudan tại Darfur,[44] việc thanh lọc sắc tộc của chính phủ Trung Quốc tại Tây Tạng và Israel tại các vùng lãnh thổ Palestine.
Bê bối trong chương trình đổi dầu lấy lương thực
Chương trình đổi dầu lấy lương thực được Liên Hiệp Quốc đưa ra năm 1995. Mục tiêu của nó là cho phép Iraq bán dầu ra thị trường thế giới để đổi lấy lương thực, thuốc men, và các đồ nhu yếu phẩm khác cho người dân Iraq bị ảnh hưởng bởi lệnh cấm vận kinh tế quốc tế, mà không cho phép Chính phủ Iraq tái xây dựng lại lực lượng quân đội của mình sau cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất. Chương trình đã bị ngắt quãng vào cuối năm 2003 trước những lời cáo buộc ngày càng lan rộng về sự lạm dụng và tham nhũng. Cựu giám đốc, Benon Sevan người Síp, là người đầu tiên bị đình chỉ chức vụ và sau đó phải từ chức khỏi Liên Hiệp Quốc, khi một bản báo cáo tạm thời của ban điều tra do Liên Hiệp Quốc hỗ trợ dưới sự lãnh đạo của Paul Volcker kết luận rằng Sevan đã nhận đút lót từ phía chính quyền Iraq và đề xuất việc bãi bỏ quyền bất khả xâm phạm thuộc Liên Hiệp Quốc của ông ta nhằm mở đường cho một cuộc điều tra tội phạm.[45]
Dưới sự bảo hộ của Liên Hiệp Quốc, số lượng dầu mỏ trị giá hơn 65 tỷ đôla của Iraq đã được bán ra thị trường thế giới. Về mặt chính thức, khoảng 46 tỷ đã được chi cho các mục đích nhân đạo. Số còn lại được dành trả cho những khoản bồi thường cho cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh thông qua một Quỹ Chi trả, số tiền quản lý và hoạt động của Liên Hiệp Quốc cho chương trình này chiếm 2,2%, và chương trình thanh sát vũ khí chiếm 0,8%.
Con trai của Kofi Annan là Kojo Annan cũng dính líu tới vụ này, với lời buộc tội đã kiếm được một cách bất hợp pháp nhiều hợp đồng trong chương trình đổi dầu lấy lương thực của Liên Hiệp Quốc cho công ty Cotecna Thụy Sĩ. Ngoại trưởng Ấn Độ, Natwar Singh, đã phải từ chức vì vai trò của ông trong vụ này.[cần dẫn nguồn]
Chính phủ Úc đã lập ra Cole Inquiry vào tháng 11 năm 2005 nhằm điều tra xem liệu Ủy ban Bột mì Úc (Australian Wheat Board – AWB) có vi phạm điều luật nào khi thực hiện những hợp đồng của họ với Iraq trong Chương trình đổi dầu lấy lương thực. AWB đã trả chính quyền của Saddam Hussein khoảng 300 triệu đôla, thông qua một công ty bình phong là Alia, để có được những hợp đồng cung cấp bột mì cho Iraq. Thủ tướng Úc (John Howard), Phó thủ tướng (Mark Vaile) và Bộ trưởng ngoại giao (Alexander Downer) bác bỏ việc họ có biết về việc đó khi bị gọi ra điều trần trước ủy ban. Đã có thông tin cho rằng dù chính phủ Úc không điều hành AWB một cách đủ hiệu quả để ngăn chặn sự việc đó, Liên Hiệp Quốc đúng ra phải tích cực hơn trong việc yêu cầu chính phủ nước này tiến hành điều tra. Cole Inquiry dự định sẽ báo cáo vào ngày 24 tháng 11 năm 2006.[46]
Những cáo buộc về lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc
Tháng 12 năm 2004, trong chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tại Congo, ít nhất 68 vụ bị cho là cưỡng hiếp, mại dâm và hơn 150 cáo buộc khác đã bị các nhà điều tra Liên Hiệp Quốc phát giác, tất cả đều có liên quan tới binh lính gìn giữ hòa bình, đặc biệt là các binh lính từ Pakistan, Uruguay, Maroc, Tunisia, Nam Phi và Nepal. Những binh lính gìn giữ hòa bình từ 3 trong số các quốc gia này cũng bị cáo buộc cố tình cản trở quá trình điều tra.[47] Tương tự, một chuyên gia hậu cần Liên Hiệp Quốc người Pháp tại Congo cũng bị cáo buộc hãm hiếp và khiêu dâm trẻ em trong cùng tháng.
BBC đã thông báo rằng các cô gái trẻ đã bị binh lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc lạm dụng và hãm hiếp tại Port-au-Prince.[48] Những lời cáo buộc tương tự cũng đã được nêu ra tại Liberia [31] và Sudan.[49]
Chính sách nhân sự
Liên Hiệp Quốc và các cơ quan của mình được hưởng quy chế miễn trừ đối với pháp luật tại các quốc gia nơi họ hoạt động, gìn giữ không thiên vị với sự tôn trọng nước chủ nhà, và quốc gia thành viên.[cần dẫn nguồn] Việc thuê mướn và sa thải, giờ làm việc và môi trường làm việc, thời gian nghỉ, hưu trí, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tuổi thọ, lương bổng, tiền trợ cấp xa gia đình và các điều kiện sử dụng lao động chung thực hiện theo các quy định của Liên Hiệp Quốc. Sự độc lập này cơ phép các cơ quan thực hiện các chính sách nguồn nhân lực thậm chí trái ngược với luật lệ của nước chủ nhà hay quốc gia thành viên. Ví dụ, một người không đủ tư cách làm việc tại Thụy Sĩ, nơi Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) đóng trụ sở, không thể được làm việc cho ILO trừ khi anh/cô ta là người của quốc gia thành viên ILO.
Người hút thuốc
Tổ chức Y tế Thế giới, một cơ quan của Liên Hiệp Quốc, đã cấm tuyển những người hút thuốc từ ngày 1 tháng 12 năm 2005, nhằm khuyến khích một môi trường làm việc không thuốc lá.[50] Cũng có một lệnh cấm hút thuốc bên trong trụ sở Liên Hiệp Quốc, nhưng một số quốc gia thành viên cho phép hút thuốc bên trong đại sứ quán của mình tại Liên Hiệp Quốc. Hơn nữa, những người sử dụng ma tuý không được phép làm việc cho Liên Hiệp Quốc.
Hôn nhân đồng giới
Dù có sự độc lập trong những vấn đề chính sách nguồn nhân lực, các cơ quan Liên Hiệp Quốc tự nguyện áp dụng các điều luật của các quốc gia thành viên về vấn đề hôn nhân đồng giới, cho phép các quyết định về tình trạng sử dụng nhân công có hôn nhân đồng giới được đưa ra dựa theo từng quốc gia. Họ công nhân các cuộc hôn nhân đồng giới chỉ khi người đó là công dân của các quốc gia công nhận sự hôn nhân đó. Một số cơ quan cung cấp khoản trợ cấp hạn chế cho những vợ/chồng người địa phương của nhân viên của mình.
Liên Hiệp Quốc trong văn hóa đại chúng
Một hoạt động giáo dục được gọi là Mô hình Liên Hiệp Quốc đã trở nên quen thuộc trong các trường học trên khắp thế giới. Mô hình Liên Hiệp Quốc có các sinh viên đóng vai (thông thường) một cơ cấu trong Hệ thống Liên Hiệp Quốc để giúp họ phát triển khả năng trong tranh luận và trong ngoại giao. Những cuộc hội thảo được cả các trường đại học và cao đẳng tổ chức. Các ủy ban thường được đưa ra làm mô hình gồm các Ủy ban Đại hội đồng, các ủy ban ECOFIN, Hội đồng bảo an và một số lớn các ủy ban chuyên trách như một Hội đồng Lịch sử An Ninh hay Nhóm Quản lý Cấp cao. Các sinh viên tranh luận về các chủ đề Liên Hiệp Quốc đang tham gia tháo gỡ và tìm cách thể hiện quan điểm của quốc gia mình nhằm tiến tới một giải pháp chung.
Nhận thức Liên Hiệp Quốc với tư cách một tổ chức lớn, bao hàm chính phủ các nước trên thế giới khiến nhiều ý tưởng về chính phủ thế giới và dân chủ toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều. Liên Hiệp Quốc cũng là mục tiêu của các học thuyết âm mưu.[51]
Xem thêm
- Đảng Độc lập Puerto Rico
- Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới 2005 về Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và Cải cách Liên Hiệp Quốc
- Dân chủ Toàn cầu
- Ủy ban Điều tra Độc lập: đã điều tra sự tham nhũng và sai lầm của Chương trình Đổi dầu lấy lương thực của Liên Hiệp Quốc.
- Quan hệ quốc tế
- Mô hình Liên Hiệp Quốc
- Chương trình Đổi dầu lấy lương thực
- Hiệp hội Liên Hiệp Quốc
- Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc
- Trường Quốc tế Liên Hiệp Quốc
- Đại hòa Hòa bình của Liên Hiệp Quốc
- Danh sách các Đại diện thường trực tại Liên Hiệp Quốc
- Các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc
- Cơ quan quản lý thư tín Liên Hiệp Quốc
- Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc
- Hệ thống Liên Hiệp Quốc
- Đại học Liên Hiệp Quốc
- UNIS-UN
- Những tổ chức hướng đạo sinh Liên Hiệp Quốc
- Màu xanh da trời Liên Hiệp Quốc, màu cờ Liên Hiệp Quốc
Tham khảo
- ^ Declaration by United Nations, United Nations Website
- ^ Charter of United Nations, CHAPTER II: MEMBERSHIP, Article 4, United Nations Website
- ^ “Security Notice”. United Nations. 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2001.
- ^ See United Nations headquarters#Renovation plans
- ^ The Story of United Nations Headquarters http://www.un.org, United Nations. Truy cập 20 tháng 9, 2006.
- ^ “Assessment of Member States’ contributions to the United Nations regular budget for 2013” (PDF). UN Secretariat. Ngày 11 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2013.
- ^ “United Nations Fact Sheet”. USDOS Fact Sheets. U.S. Department of State. 7 tháng 9 năm 2001.
- ^ “What are the official languages of the United Nations?” (bằng tiếng Anh). United Nations. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2006.
- ^ “Plea to UN: ‘More Spanish please’” (bằng tiếng Anh). BBC News. 21 tháng 6 năm 2001. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2006.
- ^ “Next U.N. secretary-general flunks first French test with U.N. press corps” (bằng tiếng Anh). International Herald Tribune. 14 tháng 12 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2007. Truy cập 2007-15-12.
- ^ “Press Conference by Secretary-General-designate” (bằng tiếng Anh). UN. 14 tháng 12 năm 2006. Truy cập 2007-15-12.
- ^ “Is Ban Ki-moon a franco-phoney?” (bằng tiếng Anh). CBC. 14 tháng 12 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2007. Truy cập 2007-15-12.
- ^ “UN Charter”. Un.org. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Human Rights”. Un.org. 10 tháng 12 năm 1948. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Security Council Resolutions”. Un.org. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “CYPRUS PROBLEM: UN resolutions list on the Cyprus problem”. Hri.org. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Security Council Resolutions 1948”. Un.org. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Security Council resolution 1203 (1998) on the situation in Kosovo”. Un.org. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ http://allafrica.com/stories/200504140792.html
- ^ “UN creates new human rights body”. BBC. Ngày 15 tháng 3 năm 2006.
- ^ “Rape as a War Crime”. Converge.org.nz. 29 tháng 10 năm 1999. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Africa | DR Congo rebel faces Hague trial”. BBC News. 17 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “General Assembly of the United Nations”. Un.org. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “2005 World summit outcome”. UN. 09-2005. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2005. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Human Security Report and Briefs”. Humansecurityreport.info. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “p. 9”. Humansecurityreport.info. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ “GAO-06-331 Peacekeeping: Cost Comparison of Actual UN and Hypothetical U.S. Operations in Haiti” (PDF). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “The UN’s Role in Nation-Building: From the Congo to Iraq” (PDF). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “U.N. ‘peacekeepers’ rape women, children”. Worldnetdaily.com. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Africa | UN soldiers arrested in DR Congo”. BBC News. 13 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ a ă The New York Times – Breaking News, World News & Multimedia
- ^ “Africa | Liberia sex-for-aid ‘widespread’”. BBC News. 8 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Africa | Human Rights Watch”. Hrw.org. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Africa | Human Rights Watch”. Hrw.org. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Successful UN Human Rights Council Elections Demonstrate UN Members are Taking Reform Effort Seriously.” Open Society Policy Center. 9 tháng 5 năm 2006
- ^ “International Institutions: UN Reform.” Citizens for Global Solutions. 10 tháng 5 năm 2006. 1 Aug. 2006.
- ^ “Annex a: Election Result Tables.” Open Society Policy Center. 9 tháng 5 năm 2006. 1 Aug. 2006.
- ^ Reddy, Shravanti (29 tháng 10 năm 2002). “Watchdog Organization Struggles to Decrease UN Bureaucracy” (bằng tiếng Anh). Global Policy Forum. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2006.
- ^ Annan, Kofi (2005). “In Larger Freedom” (bằng tiếng Anh). United Nations. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2006.
- ^ F. Stockman, J. Lauria (11 tháng 9 năm 2005). “UN faces major hurdles on reform measures” (bằng tiếng Anh). The Boston Globe. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2006.
- ^ “The UN and the Jews”. Cdn-friends-icej.ca. 26 tháng 2 năm 2004. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Israel and the United Nations – Introduction”. Adl.org. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “UNRWA”. Un.org. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2000. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “CNN.com – U.N. report: Darfur not genocide – 31 tháng 1, 2005”. Edition.cnn.com. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Middle East | Oil-for-food chief ‘took bribes’”. BBC News. 8 tháng 8 năm 2005. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Australian Government Attorney-General’s Department – UN Oil For Food Inquiry – Home”. Ag.gov.au. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ Post Store (16 tháng 12 năm 2004). “U.N. Sexual Abuse Alleged in Congo”. washingtonpost.com. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Americas | UN troops face child abuse claims”. BBC News. 30 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ Holt, Kate (2 tháng 1 năm 2007). “UN staff accused of raping children in Sudan”. Telegraph. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ World Health Organization (2006). “What are we looking for?”. WHO Employment Site (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2006.
- ^ Gotcher, Dean. U. N. Watch: UNDERSTANDING HOW THE HEGELIAN DIALECTIC IS TRANSFORMING THE WORLD TO BRING IN THE NEW WORLD ORDER. Newsletter bởi Joan Veon. The Women’s International Media Group.
Đọc thêm
- “Think Again: The United Nations”, Madeleine K. Albright, Foreign Policy, September/October, 2004
- Hans Köchler, Quo Vadis, United Nations?, in: Law Review, Polytechnic University of the Philippines, College of Law, tháng 5 năm 2005 Online version
- An Insider’s Guide to the UN, Linda Fasulo, Yale University Press (November 1, 2003), hardcover, 272 pages, ISBN 0-300-10155-4
- United Nations: The First Fifty Years, Stanley Mesler, Atlantic Monthly Press (March 1, 1997), hardcover, 416 pages, ISBN 0-87113-656-2
- United Nations, Divided World: The UN’s Roles in International Relations edited by Adam Roberts and Benedict Kingsbury, Oxford University Press; 2nd edition (January 1 1994), hardcover, 589 pages, ISBN 0-19-827926-4
- A Guide to Delegate Preparation: A Model United Nations Handbook, edited by Scott A. Leslie, The United Nations Association of the United States of America, 2004 edition (tháng 10 năm 2004), softcover, 296 pages, ISBN 1-880632-71-3
- “U.S. At War – International.” Time Magazine XLV.19 May 7, 1945: 25-28.
Liên kết ngoài
Tìm thêm về United Nations tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
![]() |
Từ điển ở Wiktionary |
![]() |
Sách ở Wikibooks |
![]() |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage |
![]() |
Hồ sơ ở Wikiquote |
![]() |
Văn kiện ở Wikisource |
![]() |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons |
![]() |
Tin tức ở Wikinews |
![]() |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Trang chủ của Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam
- Liên hợp quốc tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- Tuyên ngôn nhân quyền thế giới
- Thông tin cơ bản về Liên Hiệp Quốc tại trang web Bộ Ngoại giao Việt Nam
- United Nations – Official site
- Member States of the United Nations
- United Nations (UN) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Problems of The United Nations
- United Nations eLearning Unit created by ISRG – University of Innsbruck
- Permanent Missions To The United Nations
- Task Force on United Nations – U.S. Institute of Peace
- History of the United Nations – UK Government site
- Website of the Committee for a Democratic UN (German and English versions)
- Website of the Global Policy Forum, an independent think-tank on the UN
- UN Reports by Inner City Press, accredited media at UN
- Documents and Resources on U.N., War, War Crimes and Genocide
- Economist.com background
- United Nations Paper Money, 1946-56
- Criticisms of the Secretary-General
- – A conceptual response at the United Nations to the Srebrenica massacre in tháng 7 năm 1995
- A list of the outcomes of the 2005 World Summit
- Hans Köchler, The United Nations and International Democracy. The Quest for UN Reform (1997)
- International Progress Organization: Web Site on United Nations reform
- ReformtheUN.org – Tracking Developments on UN Reform
- United Nations: Change at the Helm – Change for the Whole Ship? – Independent news reports by the news agency Inter Press Service
- Lists of countries and territories
Bản đồ
|
- Liên Hiệp Quốc
- Tổ chức đoạt giải Nobel Hòa bình
- Tổ chức quốc tế
- Tổ chức được thành lập năm 1945
- Tổ chức liên chính phủ thành lập theo hiệp ước
Cleopatra VII
Cleopatra VII | ||
---|---|---|
Nữ vương Ai Cập | ||
![]() |
||
Tại vị | 51 TCN – 12 tháng 8, 30 TCN Ptolemy XIII (51 TCN – 47 TCN) Ptolemy XIV (47 TCN-44 TCN) Caesarion (44 TCN – 30 TCN) |
|
Tiền nhiệm | Ptolemy XII ![]() |
|
Kế nhiệm | Ai Cập trở thành Tỉnh La Mã | |
Thông tin chung | ||
Phu quân | Ptolemy XIII ![]() Julius Caesar Marcus Antonius |
|
Hậu duệ |
|
|
Tên đầy đủ | Cleopatra Thea Philopator | |
Hoàng tộc | Vương triều Ptolemy | |
Thân phụ | Ptolemy XII ![]() |
|
Thân mẫu | Cleopatra V của Ai Cập ![]() |
|
Sinh | tháng 1, 69 TCN Alexandria |
|
Mất | 12 tháng 8, 30 TCN Alexandria |
Cleopatra VII Philopator (tháng 1, 69 TCN – 12 tháng 8, 30 TCN, tiếng Hy Lạp: Κλεοπάτρα Φιλοπάτωρ), được sử học thế giới gọi đơn giản là Cleopatra, một trong những nhân vật nổi tiếng nhất lịch sử thế giới, một Nữ Pharaoh của Ai Cập cổ đại. Bà là thành viên cuối cùng của nhà Ptolemaios, vì thế bà là nhà cai trị người Hy Lạp cuối cùng ở Ai Cập. Bà cai trị với tư cách Nữ vương trong giai đoạn năm 51 TCN tới khi qua đời ở tuổi 39 vào năm 30 TCN.
Theo văn hóa và ngôn ngữ, Cleopatra là một người Hy Lạp, là thành viên đầu tiên trong gia đình (trong giai đoạn cầm quyền 300 năm của họ tại Ai Cập) đã học tiếng Ai Cập. Cleopatra nổi tiếng vì sắc đẹp mê hoặc, giọng noí có sức hút và sự thông thái của bà. Theo Plutarch, Cleopatra có thể nói 9 thứ tiếng và rất thành thạo trong giao tiếp. Bà đã được hưởng một nền giáo dục toàn diện, được trao quyền và bộc lộ tài lãnh đạo từ rất sớm[1].
Cleopatra là người cùng cai trị Ai Cập với cha, Pharaoh Ptolemy XII Auletes, rồi lại cùng cai trị với 2 em trai và cũng là chồng, Ptolemy XIII và Ptolemy XIV. Cleopatra sống sót sau một cuộc đảo chính do các cận thần của Ptolemy XIII tiến hành, bà lập được một liên minh với Gaius Julius Caesar củng cố ngôi vị. Trong một cuộc nội chiến giữa chính phủ và dân chúng, khi Julius Caesar đang giữ một vai trò quan trọng trong lực lượng quân đội, Thư viện Alexandria bị đốt cháy, đây là một bảo tàng cổ của Ai Cập nơi các học giả từ khắp thế giới đến để nghiên cứu. Cuộc chiến này, đặc biệt là việc đốt cháy Thư viện Alexandria được coi là một trong những mất mát lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Sau khi củng cố ngai vàng nhờ sự giúp đỡ của Julius Caesar, bà sinh ra người con trai với ông ta, Ptolemy XV Caesarion, về sau lên ngôi Pharaoh và cùng kế vị với bà.
Năm 44 TCN, Julius Caesar bị ám sát, bà liên kết với Marcus Antonius để chống lại người kế vị Caesar, Gaius Julius Caesar Octavianus (về sau được biết đến với tên gọi Augustus), và bà đã có con sinh đôi với Antonius, con gái tên Cleopatra Selene II và con trai tên Alexander Helios. Sau này bà lấy Antonius và sinh ra một cậu con trai khác, Ptolemy Philadelphus. Tổng cộng, Cleopatra có 4 con, 3 với Antonius và 1 với Caesar. Khi sống với các em trai, bà không có con.
Sau Trận Actium cùng với sự thất bại của Marcus Antonius trước quân đội của Đế chế La Mã dưới sự lãnh đạo của Octavianus, Antonius tự sát. Cleopatra cũng tự sát vào ngày 12 tháng 8 năm 30 TCN, bàng cách để rắn mào cắn vào người. Con trai bà là Caesarion về sau bị Octavianus ra lệnh giết chết vào ngày 23 tháng 8 cùng năm.
Đến ngày nay, Cleopatra là một hình tượng nổi tiếng trong văn hóa phương Tây. Danh tiếng của bà được truyền tải dưới hình thức nhiều câu chuyện được sân khấu hoá, là đề tài của những tác phẩm hội họa, sân khấu, kịch và âm nhạc. Câu chuyện về bà được miêu tả trong nhiều tác phẩm như vở kịch Antony và Cleopatra của William Shakespeare; Caesar và Cleopatra của George Bernard Shaw; vở Opera Cléopâtre của Jules Massenet và bộ phim điện ảnh Cleopatra 1963.
Mục lục
Cuộc đời
Kế vị ngai vàng
Cleopatra theo tiếng Hy Lạp là vinh quang của vua cha, và tên đầy đủ của bà là Cleopatra Thea Philopator, có nghĩa là Nữ thần Cleopatra, đứa con Yêu dấu của Vua cha. Bà là con gái thứ ba của Pharaoh Ptolemy XII Auletes. Thân thế mẹ bà thật sự không được chắc chắc, nhưng nhiều học giả cho rằng mẹ bà là Nữ vương Cleopatra V Tryphaena, chị ruột hoặc chị em họ với Auletes. Cũng có giả thiết cho rằng mẹ bà là một thành viên dòng họ Ptolemy, con gái của Ptolemy X Alexander I và Cleopatra Berenice III. Cha bà Auletes là hậu duệ của 1 viên tướng thời Alexandros Đại đế, Ptolemy I Soter.
Dưới triều đại của Ptolemy XII Auletes, Vương quốc Ai Cập lâm vào khủng hoảng bới nhiều vấn đề, nhất là việc để mất 2 vùng đất Cyprus và Cyrenaica. Khi Ptolemy Auletes cùng Cleopatra đến Roma, Nữ vương Cleopatra VI Tryphaena chiếm vị trí cai trị ngai vàng nhưng chết ngay sau đó không lâu (57 TCN), nhiều giả thiết cho rằng bà bị đầu độc bởi em gái là Berenice IV Epiphaneia. Sau khi Ptolemy Auletes quay lại Ai Cập vào năm 55 TCN, Berenice bị tống giam và xử tử hình. Bấy giờ Cleopatra mới 14 tuổi, cùng vua cha trị vì Ai Cập với những quyền lực hạn chế.
Tháng 3, năm 51 TCN, Ptolemy XII qua đời, bà mới chỉ 18 tuổi, cùng người em trai là Ptolemy XIII đồng cai trị Ai Cập. Bà đã lấy em trai, theo phong tục cung đình của Ai Cập lúc đó, việc này không bị coi là loạn luân và lợi dụng việc này để củng cố ngôi vị của mình. Ba năm đầu cai trị của 2 chị em bà rất khó khăn vì nạn đói kém, mất mùa, lụt lội và những xung đột chính trị. Dù Cleopatra đã kết hôn với Ptolemy XIII, nhưng bà phủ nhận hoàn toàn việc muốn chia sẻ quyền lực với ông ta. Tới tháng 8 năm 51 TCN, bà loại bỏ tên của người em trai ra khỏi mọi giấy tờ chính thức, bỏ qua truyền thống dòng họ Ptolemy rằng phụ nữ cai trị phải phụ thuộc vào người nam giới cùng cai trị. Hơn nữa, trên đồng tiền xu chỉ in hình Cleopatra.
Năm 50 TCN, Cleopatra đối đầu với một vấn đề xung đột chính trị căng thẳng với quân đoàn Gabiniani, một binh đoàn Lê dương La Mã hùng mạnh lãnh đạo bởi Aulus Gabinius, những quân đội đã giúp đỡ cha bà Ptolemy XII khi khôi phục ngôi báu từ tay Berenice IV vào năm 55 TCN. Những lính Gabiniani đã giết những người con của tướng Marcus Calpurnius Bibulus, khi họ đến cầu xin sự giúp đỡ chống lại người Parthia. Cleopatra trong vụ này đã bắt những lính Gabiniani giao cho Bibulus, khiến cho họ trở mặt thành thù với bà.
Việc này dẫn đến sự tổn hại uy tín và nhanh chóng lung lay quyền lực của bà trong thời gian vừa tước đoạt quyền lực từ tay Ptolemy XIII. Cuối cùng, mộ cuộc đảo chính do hoạn quan Pothinus cầm đầu, lật đổ Cleopatra khỏi ngôi báu, em trai bà Ptolemy XIII trở thành người cai trị độc lập. Bà tìm cách tổ chức một cuộc nổi loạn ở quanh Pelusium nhưng nhanh chóng bị buộc phải rời Ai Cập. Người em gái duy nhất còn lại là Arsinoë đi cùng bà[2].
Liên kết với La Mã
Cái chết của Pombey tại Alexandria
Trong khi Cleopatra phải lưu vong, Pompey cùng với Julius Caesar chiến tranh với nhau trong Nội chiến của Caesar. Sau thất bại ở trận Pharsalus vào mùa thu năm 48 TCN, Pompey lẩn trốn đến Alexandria, thủ đô của nhà Ptolemy tìm nơi ẩn náu. Nhưng Ptolemy XIII, lúc đó chỉ mới 13 tuổi và còn non yếu, đã cho những người thân cận của Pompey bây giờ đã quy phục triều đình Ptolemy, chém đầu Pompey và bêu rếu. Sự kiện ấy xảy ra vào ngày 28 tháng 9 năm 48 TCN, và điều này đã làm Caesar nổi giận, dù mục đích của Ptolemy XIII là muốn giành sự yêu mến của Caesar khi giết kẻ thù của ông ta trong cuộc nội chiến. Tuy là kẻ thù với Caesar trong vấn đề chính trị, nhưng Pompey là một lãnh tụ La Mã tài giỏi, và hơn hết ông ta là chồng của Julia, người con gái duy nhất của Caesar. Thế là Caesar chiếm lấy thủ phủ Alexandria và tự mình bắt đầu là thảm phán vấn đề đối nghịch giữa Ptolemy XIII và Cleopatra.
Quan hệ với Julius Caesar
Để cứu vãn ngôi báu, Cleopatra tìm cách quyến rũ Caesar bằng sắc đẹp và trí thông minh, sự lịch lãm của mình. Theo Plutarch mô tả trong cuốn Life of Julius Caesar, bà cho lực sĩ cuộn mình vào thảm và vác thảm đến cho Caesar, khi thảm trải ra trước mặt Caesar, Cleopatra lăn tròn và hiện ra khi thảm trải xong, đêm đó bà trở thành tình nhân của Caesar. Từ đó Caesar bỏ ý đồ thôn tính Ai Cập vào Thành quốc La Mã. Sau khi giết chết Ptolemy XIII trong trận chiến sông Nile, ông tái lập Cleopatra lên ngôi báu, cùng với một em trai khác Ptolemy XIV là người đồng cai trị.
Caesar sống qua mùa đông năm 48 TCN–47 TCN ở Ai Cập, và làm tăng uy thế chính trị của Cleopatra bằng cách yêu bà. Ai Cập vẫn giữ được độc lập, nhưng 3 quân đoàn Lê dương La Mã vẫn đồn trú lại đó. Mối quan hệ trong mùa đông giữa Cleopatra và Caesar có kết quả là một đứa con trai tên là Ptolemy Caesar (tên hiệu Caesarion hay “Caesar nhỏ”). Tuy nhiên, Caesar không cho đứa trẻ này quyền thừa kế, thay vào đó ông chỉ định đứa cháu gọi bằng ông cậu là Augustus, nhận làm con nuôi. Theo tin đồn, chính Cleopatra đã giới thiệu cho Caesar Sosigenes, một học giả thiên văn mà về sau đã tạo ra Lịch Julius.
Cleopatra, Ptolemy XIV và Caesarion tới thăm thành Roma trong khoảng mùa hè năm 46 TCN. Gia đình bà được Caesar đón tiếp và được ngự ở trong một dinh thự của Caesar. Trong thời gian ở Roma, chuyện giữa Cleopatra và Caesar đã tạo nên làn sóng dư luận trái chiều, vì khi đó Caesar đã có người vợ là Calpurnia Pisonis. Mặc cho những lời đồn đại, Caesar vẫn điềm nhiên dựng một bức tượng bằng vàng tạc chân dung của Cleopatra dưới hình tượng nữ thần Isis trong Forum of Caesar. Năm 44 TCN, Caesar bị sát hại lúc đang họp, vì sợ rằng người đã sát hại Caesar sẽ theo mình nên Cleopatra đã quay về Ai Cập. Trở về không lâu sau, Ptolemy XIV qua đời,Cleopatra liền lập Caesarion làm người đồng cai trị và thừa kế của mình, được đặt tên là Theos Philopator Philometor.
Trong cuộc Nội chiến La Mã
Trong cuộc nội chiến của chính quyền La Mã, một bên là người ủng hộ Caesar lãnh đạo bởi Marcus Antonius và Augustus; bên còn lại là phe đối lập gồm những người đã giết hại Caesar là Marcus Junius Brutus và Gaius Cassius Longinus; dựa vào mối quan hệ trước đây hẳn nhiên Cleopatra ngả theo phe phò tá Caesar, được gọi là Caesarian Faction.
Brutus cùng Cassius đã rời khỏi La Mã, gieo buồm về phía Đông của đế quốc, nơi đây họ đã chiếm lĩnh nhiều vùng đất trù phú và gây dựng lực lượng hùng mạnh. Cleopatra lúc đó đã dựng liên minh với Publius Cornelius Dolabella, một thủ lĩnh phía Đông và là người ủng hộ bà cùng con trai Caesarion, tuy nhiên không lâu sau ông ta bị bao vây và tự sát vào năm 43 TCN. Mất đi hậu thuẫn, Ai Cập đứng trước nguy cơ xâm lăng bởi Cassius vì trả thù việc Cleopatra hỗ trợ đảng Caesarian và liên minh với Dolabella, tuy vậy kế hoạch đã không thực hiện được khi Cassius bị Brutus gọi về Smyrna.
Cuộc tình với Marcus Antonius
Năm 42 TCN, Marcus Antonius, một trong những thành viên Tam đầu chế cai trị Roma khi có khoảng trống quyền lực sau khi Caesar chết, mời Cleopatra tới gặp ông ở Thành phố Tarsus để giải đáp những câu hỏi về sự trung thành của bà. Trong thời gian nội chiến La Mã, có tin đồn bà đã cung cấp nhiều tiền của cho Cassius và Antonius muốn xác nhận chuyện này, theo đó Antonius còn muốn bà ủng hộ ý định của ông trong cuộc chiến chống lại người Parthia. Cleopatra với sắc đẹp và sự quyến rũ, đã khiến Antonius mê mẩn và quyết định sống qua mùa đông năm 42 TCN–41 TCN với bà ở Alexandria.
Để bảo vệ mình và con trai Caesarion, bà đã xúi giục Antonius sát hại người chị cùng cha khác mẹ là Arsinoe, người chị em đã từng chịu đi lưu đày cùng Cleopatra nhưng bị xem là mối nguy hại đến ngôi vị của bà cùng con trai, lúc đó đang bị giam tại Đền Artemis. Cuộc hành quyết diễn ra tại bậc thang của đền thờ vào năm 41 TCN và điều này gây nên dư luận rúng động ở Roma. Cleopatra còn cho hành quyết tướng quân Serapion, người đã chống đối bà và theo phe Cassius.
Trong mùa đông năm 40 TCN, bà có mang cặp con sinh đôi với Antonius, được đặt tên là Cleopatra Selene (Cleopatra Mặt Trăng) và Alexander Helios (Alexander Mặt Trời). Bốn năm sau, 37 TCN, Antonius lại tới thăm Alexandria trên đường đi chiến đấu với người Parthia. Ông nối lại quan hệ với Cleopatra, và từ đó Alexandria trở thành ngôi nhà của ông. Ông cưới Cleopatra theo nghi lễ Ai Cập (một bức thư đăng trong Cuộc đời của Mười hai Caesars của Suetonius cho thấy điều này), dù khi ấy ông đã cưới Octavia Minor, em (hay chị) gái của người bạn trong Tam đầu chế là Augustus, khiến Augustus tức giận. Ông và Cleopatra lại có một đứa con khác, Ptolemy Philadelphus.
Tại Lễ quyên góp Alexandria cuối năm 34 TCN, sau khi Antonius chinh phục Armenia, Cleopatra và Caesarion được phong là những người đồng cai trị Ai Cập và Cyprus; Alexander Helios được phong làm vua cai trị xứ Armenia, Media và Parthia; Cleopatra Selene làm vua của Cyrenaica và Libya; và cuối cùng Ptolemy Philadelphus thành vua của Phoenicia, Syria và Cilicia. Cleopatra cũng được Antonius sắc phong phong danh hiệu Nữ vương của các vị Vua (Queen of Kings). Caesarion không chỉ được cùng mẹ Cleopatra chia sẻ quyền lực, ông còn được tôn sùng những danh hiệu Thánh thần, Con trai của thần linh, Vua của các vị vua….và được miêu tả khắc họa như thần chim ưng Horus. Người Ai Cập tin rằng Cleopatra là hiện thân của nữ thần Isis, mẫu thần của người Ai Cập và rất sùng kính bà, bản thân Cleopatra tự mình gọi là Nea Isis.
Có một số câu chuyện nổi tiếng nhưng chưa được kiểm chứng về Cleopatra, câu chuyện nổi tiếng nhất là trong một bữa tối xa hoa cùng với Marcus Antonius, bà đặt cược với Antonius rằng mình có thể chi mười triệu sestertius cho một bữa tối. Antonius chấp nhận vụ cược. Tối hôm sau, Cleopatra có một bữa ăn bình thường, không có gì đặc biệt; khi bà ra lệnh mang ra món thứ hai – chỉ một chén dấm mạnh, Antonius tỏ ý chế giễu. Bà tháo một chiếc hoa tai vô giá của mình thả vào đó để nó tan ra và uống cạn.
Cách hành xử của Antonius bị người La Mã coi là thái quá và Augustus thuyết phục Nghị viện La Mã tiến hành chiến tranh chống Ai Cập. Năm 31 TCN các lực lượng của Marcus Antonius đối mặt với Augustus trong một trận thủy chiến ngoài khơi Actium. Cleopatra có mặt với một hạm đội của riêng mình. Truyền thuyết kể rằng khi thấy hạm đội tàu vận hành thủ công và có trang bị kém cỏi của Antonius đang chiến đấu, bà đã bỏ chạy và rằng Antonius cũng bỏ mặc binh sĩ của mình để theo bà. Dù các binh sĩ của Antonius đã dũng cảm chống trả 7 ngày liền nhưng cuối cùng bị thua các tàu chiến La Mã vì không có chủ tướng (tuy nhiên, không hề có một bằng chứng nào thời đó cho thấy thực tế đã xảy ra như vậy).
Sau trận Actium, Augustus xâm chiếm Ai Cập. Khi ông tiến tới Alexandria, quân đội của Marcus Antonius đã rời khỏi đó ngày 12 tháng 8 năm 30 TCN.
Cái chết
Cái chết của Cleopatra cho đến nay vẫn còn là đề tài bàn tán của các sử gia, mà theo đa số bà đã tự sát sau khi Marcus Antonius chết. Câu chuyện còn cho rằng bà bị một con rắn mào gà cắn chết cùng với hai người hầu. Strabo, một chứng nhân đương thời đã thuật lại rằng có 2 câu chuyện về cái chết của Cleopatra: một là bà ta tự uống thuốc độc tự sát, một là bà đã để một con rắn độc cắn vào ngực. Bên cạnh đó, Strabo cũng cho biết bản thân cũng không biết chắc Cleopatra đã tự sát hay bị giết hại. Những học giả nhà thơ người La Mã trong khoảng thời gian 10 năm sau sự kiện đều cho rằng bà bị cắn bởi 2 con rắn độc, một số lại cho rằng chính Augustus đã bí mật giết hại bà. Thông thường, trong những giả thiết bị rắn cắn, người ta cho rằng bà đã có chủ tâm để rắn cắn, vì người Ai Cập tin rằng nhờ thế có thể đạt tới bất tử. Tuy nhiên theo một số nghiên cứu của Christoph Schaefer, một học giả người Đức vào năm 2010, đã tuyên bố Cleopatra đã chết vì độc sau khi uống một hỗn hợp chất độc gây chết ngay lập tức. Sau khi nghiên cứu tài liệu cổ và với sự cố vấn của chuyên gia độc dược, nhà học giả kết luận rắn mào gà không thể gây chết nhanh chóng, mà nọc độc của rắn khiến từng phần cơ thể bị tê liệt và rồi mới dần chết. Schaefer cùng nhà chuyên gia độc dược đã kết luận Cleopatra uống một tổ hợp cây độc cần, củ Ấu tàu và cây thuốc phiện.
Theo Plutarch, người kể về sau chuyện sau 130 năm xảy ra sự kiện, đã nói rằng sau khi đã bại trận, để thử lòng chung thủy của Marcus Antonius, Cleopatra sai người báo với ông rằng bà đã chết. Marcus Antonius đau khổ và tự sát, tuy nhiên ông không chết hẳn mà nằm thoi thóp. Một tin báo nữa cho biết Cleopatra vẫn chưa chết và triệu ông vào gặp bà, Antonius vui mừng nên đã đi theo. Tuy nhiên khi đến lâu đài, Cleopatra đã khóa cửa và thòng dây xuống từ cửa sổ cho Antonius để leo vào, sau khi vào được bà, Cleopatra cởi áo của mình ra phủ lên người ông và tự dằn xéo mình. Antonius khuyên bà bình tĩnh, bà liền đưa Antonius một ly rượu và sau khi uống Antonius chết ngay lập tức.
Sau cái chết của Antonius, Augustus đã giam cầm bà trong chính lăng tẩm của mình. Ông ta ra lệnh cho người hầu Epaphroditus canh giữ bà, tránh trường hợp bà tự sát vì Augustus muốn chiếm Cleopatra như một chiến lợi phẩm. Dầu vậy, bà cũng dễ dàng lừa Epaphroditus và tự sát. Plutarch nói rằng khi tìm thấy Cleopatra, bà đã chết, với người hầu Iras ở dưới chân còn nữ hầu Charmion thì đang đưa tay nâng vương miện của bà. Theo Plutarch, bà đã chết bởi một con rắn cắn vào tay được chuẩn bị sẵn để trong một chiếc bình. Trước đó bà đã chọc khiến con rắn dữ lên và cắn vào tay bà. Augustus sau cái chết của bà, đã khải hoàn trở về với một bức phù điêu khắc hình ảnh của Cleopatra đang bị rắn độc cắn.
Dù các nhà sử học xưa đều nói rằng bà bị rắn cắn vào tay như Plutarch, Cassius Dio và Galen; nhưng hình tượng cái chết của bà chủ yếu là bị rắn cắn ở ngực trong những tác phẩm điêu khắc, hội họa của Thời Trung cổ và Thời Phục hưng. William Shakespeare trong vở kịch của ông viết về bà cũng theo hình tượng này.
Augustus đã hợp táng bà và Antonius trong một ngôi nhà mộ đôi mà bà đã chủ định xây từ trước dành cho hai người. Ngôi mộ của hai người vẫn chưa được xác định chắc chắn, nhưng Hội đồng Tối cao Khảo cổ học (SCA) cho rằng nó ở đâu đó gần Taposiris Magna, thuộc vùng tây nam của Alexandria.
Con trai của Cleopatra với Caeser, Caesarion, được người Ai Cập đưa lên làm pharaoh, nhưng Augustus đã thắng trận. Caesarion bị bắt và bị hành quyết theo lệnh của Octavian. Chấm dứt không chỉ giai đoạn cai trị của người Hy Lạp trên ngôi vị pharaoh ở Ai Cập mà cả giai đoạn pharaoh ở Ai Cập.
Ba con của Cleopatra với Marcus Antonius được miễn tội và được đưa về Roma nơi chúng được vợ của Antonius là Octavia nuôi nấng. Vài năm sau đó, Alexander Helios và Ptolemy Philadelphus biến mất không để lại dấu vết, chỉ còn lại Cleopatra Selene. Khi lớn lên, con gái Cleopatra Selene kết hôn với Vua Juba II của Mauretania và hạ sinh ít nhất một người con đặt tên là Ptolemy Philadelphus nhằm tưởng nhớ tới người em trai mất tích. Hình của Cleopatra Selene từng được khắc trên các đồng xu cùng với hình của Vua Juba.
Ai Cập trở thành một tỉnh của đế quốc La Mã dưới quyền hoàng đế Augustus.
Cleopatra trong nghệ thuật, điện ảnh và văn học
Cuộc đời Cleopatra là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà văn và nghệ sĩ qua nhiều thế kỷ. Không nghi ngờ rằng, đa phần sức lôi cuốn xuất phát từ huyền thoại về sắc đẹp có sức quyến rũ mạnh mẽ biến bà trở thành đồng minh và tình nhân của hai người đàn ông quyền lực nhất thời ấy, Julius Caesar và Marcus Antonius.
Cleopatra được mô tả như một người phụ nữ rất xinh đẹp ngay từ những ghi nhận cổ xưa nhất. Trong cuốn Life of Antony của mình, Plutarch đã mô tả Cleopatra là người phụ nữ có sắc đẹp không ai sánh bằng, không những ảnh hưởng đến Julius Caesar mà khiến cả Marcus Antonius phải qui phục dưới chân mình. Bên cạnh sắc đẹp, Plutarch cũng khẳng định sự thông minh, quyễn rũ trong ngôn từ chính là những vụ khí hoàn hảo của Cleopatra trong việc bảo vệ quyền lực của mình trước 2 người đàn ông vĩ đại này.
Cassius Dio, một học giả người Hy Lạp sống vào thế kỷ thứ 2, hơn 100 năm sau thời đại của Cleopatra, cũng cho rằng Cleopatra sỡ hửu một vẻ đẹp nổi trội, vượt bậc và có tài chinh phục bất kỳ ai qua sắc đẹp trời phú và giọng nói, ảnh nhìn mê hoặc, việc lên ngôi vị của bà do sự giúp đỡ của Caesar hoàn toàn nhờ những thứ mĩ miều trời phú ấy.
Những miêu tả của 2 nhà học giả trên ảnh hưởng mạnh mẽ đến hình tượng khắc họa của Cleopatra về sau; hình tượng điển hình của một người phụ nữ dùng sắc đẹp mê hoặc gây ảnh hưởng đến những người đàn ông quyền lực trong văn hóa phương Tây.
Kịch
Trong số những vở kịch nổi tiếng nhất về bà:
- Antony and Cleopatra (kh. 1607) của William Shakespeare
- All for Love (1678) của John Dryden
- Caesar and Cleopatra (1901) của George Bernard Shaw
- The Death of Cleopatre của Ahmed Shawqi
Văn học khác
- Cléopâtre của Jules-Émile-Frédéric Massenet
- Incipit Legenda Cleopatrie Martiris, Egipti Regine từ cuốn The Legend of Good Women của Geoffrey Chaucer
- Cléopatre của Victorien Sardou
- Cleopatra (1889) của H. Rider Haggard
- The Memoirs of Cleopatra của Margaret George
- Nhiều cuốn sách về Asterix, với Cleopatra từ cảm hứng của Elizabeth Taylor
TV
- Clone High
- Rome – Series 1 (Caesarion (tập về Rome)), và có lẽ cả Series 2
- Teresa Pavlinek trong vai Cleopatra trong một tập History Bites nói về trận Actium
- The Cleopatras, một serie truyền hình của BBC phát sóng năm 1983
Phim
Bộ phim đầu tiên đề cập tới Cleopatra là phim Antony and Cleopatra (1908) với Florence Lawrence thủ vai Cleopatra. Phim đầu tiên với Cleopatra là nhân vật chính là Cleopatra, Queen of Egypt, với diễn viên chính Helen Gardner (1912).
Những phim/chương trình TV lấy cảm hứng từ Nữ hoàng sông Nil:
- (1917): Cleopatra: Theda Bara (Cleopatra), Fritz Leiber (Caesar), Thurston Hall (Antonius). Đạo diễn J. Gordon Edwards. Dựa trên vở kịch Cléopatre của Émile Moreau, vở Cléopatre của Sardou và Antony and Cleopatra của Shakespeare.
- (1934): Cleopatra: Claudette Colbert (Cleopatra), Warren William (Caesar), Henry Wilcoxon (Antonius). Một công trình của nhà đoạt giải Oscar Cecil B. DeMille.
- (1946): Caesar and Cleopatra: Vivien Leigh (Cleopatra), Claude Rains (Caesar), Stewart Granger, Flora Robson — dựa trên vở kịch của George Bernard Shaw và được đề cử giải Oscar. Leigh cũng đóng vai Cleopatra cùng với người sau này trở thành chồng bà, Laurence Olivier đóng vai Caesar, trong một vở kịch trên sân khấu tại London.
- (1953): Serpent of the Nile: Rhonda Fleming (Cleopatra), Raymond Burr (Marcus Antonius), Michael Fox (Augustus).
- (1963): Cleopatra: Elizabeth Taylor (Cleopatra), Rex Harrison (Caesar), Richard Burton (Antonius). Đoạt giải Oscar được nhớ nhất về vụ tình ái sau sân khấu giữa Taylor và Burton và chi phí sản xuất lớn nhất thời đó, $44 triệu.
- (1964): Carry On Cleo, một phiên bản bắt chước lại bộ phim năm 1963, Amanda Barrie đóng vai Cleopatra, Sid James vai Marcus Antonius và Kenneth Williams vai Caesar.
- (1970): Kureopatora (Cleopatra: Queen of Sex), một bộ phim hoạt họa Nhật Bản kỳ lạ của Osamu Tezuka. Phiên bản có phụ đề tiếng Anh đã bị mất.
- (1974): Antony & Cleopatra: được trình diễn bởi Royal Shakespeare Company ở Luân Đôn. Vai chính Janet Suzman (Cleopatra), Richard Johnson (Antonius) và Patrick Stewart (Enobarbus).
- (1999): Cleopatra (phim): Leonor Varela (Cleopatra), Timothy Dalton (Caesar), Billy Zane (Antonius). Dựa trên cuốn sách Memoirs of Cleopatra của Margaret George và gần với sự thực nhất.
Thảo luận dài hơn về các phim Cleopatra tại: Cleopatra (phim).
Tranh, điêu khắc cổ
Bức tranh nổi tiếng nhất về Cleopatra là bức không tồn tại nữa bởi vì vị nữ hoàng đã chết ở Ai Cập một thời gian dài trước khi Augustus giành được quyền lực ở Roma và nhờ vậy Cleopatra cũng lấy lại được uy danh của mình. Augustus đã ra lệnh vẽ một bức tranh lớn về bà và đưa nó đi trong lễ diễu hành chiến thắng, có lẽ trong bức tranh đó bà được thể hiện khi đang bị rắn độc cắn. Nguồn của câu chuyện này tại Plut. Ant. 86 và App. Civ. II.102, dù rằng nguồn sau thật sự nói về một bức tượng, và Cass. Dio LI.21.3 cho rằng “hình ảnh” đó làm bằng vàng, và vì thế không phải là một bức tranh. Bức tranh ấy được tái hiện trong một bản khắc đầu thế kỷ 19: nó thuộc một bộ sưu tập cá nhân gần Sorrento. Từ đó, bức tranh này đã bị cho là thuộc về bộ sưu tập ở Cortona, nhưng cũng không còn dấu vết nào về nó; sự biến mất âm thầm của bức tranh có lẽ vì nó chỉ là đồ giả mạo. Để có thêm thông tin về toàn bộ vấn đề, xem các liên kết ngoài ở cuối bài.
Tranh, từ thời Phục hưng về sau
Cleopatra và cái chết của bà đã trở thành cảm hứng sáng tác cho hàng trăm bức họa Thời Phục Hưng cho tới tận ngày nay, tất nhiên không bức nào có giá trị lịch sử; chủ đề này đặc biệt lôi cuốn các họa sĩ hàn lâm Pháp.
- Sir Thomas Browne: Of the Picture describing the death of Cleopatra (1672)
- John Sartain: On the Antique Portrait of Cleopatra (1818)
Opera
- Cleopatra đã xuất hiện với tư cách một nhân vật trong các vở opera của Handel, Carl Heinrich Graun, Johann Adolf Hasse và Johann Mattheson
- Antony and Cleopatra của Samuel Barber diễn khai trương nhà hát Metropolitan Opera House mới năm 1966.
Tự sát
- Suicide of Cleopatra. Sơn dầu. 46 x 36-3/4 in. (116.8 x 93.3 cm) Giovanni Francesco Barbieri sáng tác, cũng được gọi là Guercino. Vẽ năm 1621 và treo trong bộ sưu tập của Bảo tàng Norton Simon tại Pasadena, California. Nó thể hiện Cleopatra và trong tay bà là một con rắn đang sắp được dùng để tự tử.
- Cleopatra and the Peasant (1838). Sơn dầu. Eugène Delacroix vẽ. Treo tại Bảo tàng Ackland Art của Đại học North Carolina. Tác phẩm thể hiện một người đàn ông đang trao cho Cleopatra con rắn để bà tự sát.
- The Death of Cleopatra, Jean André Rixens sáng tác năm 1874 và treo tại Bảo tàng Augustins ở Toulouse, Pháp.
- The Death of Cleopatra, Guido Cagnacci sáng tác năm 1658. Sơn dầu. Treo tại Bảo tàng Vienna Kunsthistorisches.
- Victoria Art Gallery, Bath – Không biết tên nghệ sĩ sáng tác (có thể phỏng theo bức), Suicide of Cleopatra
Khác
- The Banquet of Cleopatra (1743–5). Sơn dầu, 248.2 x 357.8cm. Giambattista Tiepolo (1696–1770) sáng tác, treo tại National Gallery of Victoria, Australia, thể hiện bữa tiệc lớn khi Cleopatra ngâm đôi hoa tai ngọc trai của mình trong cốc dấm.
- Cléopâtre et César (1866). Sơn dầu. Jean-Léon Gérôme (1824–1904) sáng tác. Bức nguyên bản đã mất, chỉ còn lại các bản copy. Bức tranh thể hiện Cleopatra đứng phía trước, Caesar ngồi phía sau, vẽ theo phong cách Orientalist.
Xem thêm
Ghi chú
- ^ Theo cuốn Lịch sử thế giới
- ^ Alexander to Actium: Peter Green pp661-664
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Cleopatra VII |
Chung
- Cleopatra on the Web – Some 470 resources, including ancient and modern pictures.
- Cleopatra VII Philopator ancient sources
- Cleopatra VII (VI) at LacusCurtius — (Chapter XIII of E. R. Bevan’s House of Ptolemy, 1923)
- Cleopatra – a Victorian children’s book by Jacob Abbott, 1852, Project Gutenberg edition.
- Genealogy of Cleopatra VII
- James Grout: Cleopatra, part of the Encyclopædia Romana
Những bức hoạ Cleopatra
- Sir Thomas Browne: Of the Picture describing the death of Cleopatra (1672)
- John Sartain: On the Antique Portrait of Cleopatra (1818)
|
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Cleopatra VII |
- Nữ hoàng Ai Cập
- Pharaông vương triều Ptolemy
- Người tự sát
- Pharaoh vương triều Ptolemy
- Mất 30 TCN
- Sinh 69 TCN
- Vương hậu Ai Cập
- Nữ tướng
Deimos (vệ tinh)
Ảnh Deimos do Viking 1 orbiter chụp. | |
Phát hiện | |
---|---|
Phát hiện bởi | Asaph Hall |
Ngày | 12 tháng 8 1877 |
Đặc điểm quỹ đạo | |
Bán kính trung bình | 23,460 km |
Lệch tâm | 0.0002 |
Chu kỳ quay | 1.262 ngày |
Tốc độ quỹ đạo trung bình | 0.22 km/s |
Độ nghiêng | 0.93° (so với xích đạo Sao Hoả) 1.793° (so với mặt phẳng Laplace) 27.58° (với elíp) |
Vệ tinh của | Sao Hoả |
Đặc điểm vật lý | |
Đường kính trung bình | 12.6 km (15.0×12×10.4) |
Khối lượng | 2.244×1015 kg (3.8 nTrái Đất) |
Mật độ trung bình | 2.2 g/cm³ |
Lực hấp dẫn bề mặt | 0.0039 m/s² (3.9 mm/s²) |
Lực hấp dẫn bề mặt (Trái Đất = 1) |
0.00040 (400 µg) |
Tốc độ thoát | 0.0069 km/s (6.9 m/s) |
Chu kỳ xoay | đồng bộ |
Albedo | 0.07 |
Nhiệt độ bề mặt | ≈233 K |
Áp suất khí quyển | không có khí quyển |
Deimos (IPA /ˈdaɪməs/ hay /ˈdiːməs/; tiếng Hy Lạp Δείμος: “Kinh hoàng”), là vệ tinh nhỏ hơn và ở xa hơn phía ngoài trong số hai vệ tinh của Sao Hoả, được đặt theo tên Deimos trong Thần thoại Hy Lạp. Nó cũng được gọi là Mars II.
Phát hiện
Cả Phobos và Deimos đều được nhà thiên văn học Mỹ là Asaph Hall phát hiện. Tên của hai vệ tinh này được Henry Madan (1838–1901), giáo sư toán học Đại học Eton đề xuất từ cuốn XV tác phẩm Iliad, theo tên hai con thần chiến tranh Ares (Mars trong thần thoại La Mã) là Kinh hoàng (Deimos) và Khiếp sợ (Phobos).
Deimos được phát hiện ngày 12 tháng 8, 1877 lúc khoảng 07:48 UTC (theo những nguồn tin thời ấy là lúc “14:40 11 tháng 8” theo giờ Washington tính ngày theo quy ước thiên văn cũ, bắt đầu vào lúc giữa trưa, vì thế phải cộng thêm 12 tiếng vào giờ địa phương) [1].
Đặc điểm
Deimos có lẽ là một tiểu hành tinh đã bị ảnh hưởng từ Sao Mộc làm rối loạn quỹ đạo và trở thành vệ tinh của Sao Hỏa, dù giả thuyết này còn gây một số tranh luận. Giống như hầu hết các vật thể cùng kích thước, Deimos không có hình tròn, các kích thước 15×12×10 km.
Deimos được cấu tạo từ đá có thành phần vật liệu carbon cao, rất giống các tiểu hành tinh kiểu C và các thiên thạch carbonaceous chondrite. Nó có các miệng núi lửa do va chạm, nhưng bề mặt nói chung phẳng hơn nhiều so với Phobos, một phần nhờ các miệng núi lửa đã được điền đầy bởi regolith. Hai miệng núi lửa lớn nhất là Swift và Voltaire, đường kính khoảng 3 (chúng được đặt theo tên hai người từng cho rằng có hai vệ tinh quay quanh Sao Hỏa từ lâu trước khi những vệ tinh thực sự này được phát hiện).
Khi quan sát từ Deimos, Sao Hỏa lớn hơn 1000 lần và sáng hơn 400 lần so với trăng tròn khi quan sát từ Trái Đất, chiếm 1/11 chiều rộng bầu trời.
Khi quan sát từ Sao Hoả, Deimos có đường kính góc không lớn hơn 2.5′ và vì thế khi nhìn bằng mắt thường có vẻ giống một ngôi sao hơn. Khi sáng nhất (“trăng tròn”) nó sáng tương đương với Sao Kim khi quan sát từ Trái Đất; ở pha tuần thứ nhất và thứ ba nó sáng tương đương Sao Chức Nữ. Khi Deimos lướt ngang trước Mặt trời đường kính góc của nó chỉ lớn hơn khoảng 2.5 lần so với đường kính góc Sao Kim khi Sao Kim lướt ngang Mặt Trời quan sát từ Trái Đất. Với một kính viễn vọng nhỏ, một người quan sát trên Sao Hỏa sẽ thấy được các pha tuần của Deimos, một vòng quay của nó mất 1.2648 ngày (chu kỳ giao hội (synodic) của Deimos).
Không giống Phobos, vốn có tốc độ quay rất nhanh khiến trên thực tế [Sao Hoả] nó mọc ở phía tây và lặn phía đông, Deimos mọc ở phía đông và lặn ở phía tây. Tuy nhiên, chu kỳ quỹ đạo của Deimos bằng khoảng 30.4 giờ, dài hơn một ngày trên Sao Hoả (“sol“), khoảng 24.7 giờ, vì thế từ lúc mọc đến lúc lặn của nó là 2.7 ngày đối với một người quan sát trên xích đạo Sao Hoả.
Vì quỹ đạo của Deimos khá gần với Sao Hỏa và nó có độ nghiêng rất nhỏ so với quỹ đạo hành tinh này, những người quan sát tại các vĩ độ lớn hơn 82.7° sẽ không thể nhìn thấy nó.
Tham khảo
- Robert S. Richardson, “If You Were on Mars”, Astronomical Society of the Pacific Leaflets, 4 (1943) 214 (1943ASPL….4..214R) (Leaflet No. 178, tháng 12 năm 1943)
- Contemporary accounts of the discovery of Phobos and Deimos:
Xem thêm
- Phobos, vệ tinh kia của Sao Hoả
- Danh sách các đặc điểm của Phobos và Deimos
- Sự lướt ngang của Deimos quan sát từ Sao Hoả
- Phobos và Deimos trong viễn tưởng
|
|
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Deimos (vệ tinh) |
Bài viết mới
- Từ Mao Trạch Đông đến Tập Cận Bình
- Thơ hay về biển
- Chào ngày mới 11 tháng 8
- Chào ngày mới 10 tháng 8
- Chào ngày mới 9 tháng 8
- Đến với những bài thơ hay
- Ta về trời đất Hồng Lam
- Ong và Hoa
- Chào ngày mới 8 tháng 8
- Bài ca thời gian
- Chào ngày mới 7 tháng 8
- Chào ngày mới 6 tháng 8
- Di sản Engels
- Đợi Anh
- Chào ngày mới 5 tháng 8
- Chào ngày mới 4 tháng 8
- Chào ngày mới 3 tháng 8
- Khổng Tử dạy và học
- Tiếng Anh cho em
- Chào ngày mới 2 tháng 8
- Rằm Xuân Hà Nội
- Chào ngày mới 1 tháng 8
- Chào ngày mới 31 tháng 7
- Henry Ford và Thượng Đế
- Chào ngày mới 30 tháng 7
- Lê Phụng Hiểu truyện hay nhớ mãi
- Chào ngày mới 29 tháng 7
- Ông Hồ Sáu làm kinh tế giỏi
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 28 tháng 7
- Bài thơ không thể nào quên
- Chào ngày mới 27 tháng 7
- Nhớ bạn
- Chào ngày mới 26 tháng 7
- Gọi đôi
- Chào ngày mới 25 tháng 7
- Mảnh đạn trong người
- Chào ngày mới 24 tháng 7
- Năm tháng đó là em
- Chào ngày mới 23 tháng 7
- Chào ngày mới 22 tháng 7
- Thăm Borlaug và Hemingway ở CIANO
- Chào ngày mới 20 tháng 7
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 19 tháng 7
- Chào ngày mới 18 tháng 7
- Chào ngày mới 17 tháng 7
- Lớp học trên đồng ĐăkGlong Oxfam
- Chào ngày mới 16 tháng 7
- Từ Mekong nhớ Neva
- Chào ngày mới 15 tháng 7
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 14 tháng 7
- Chào ngày mới 13 tháng 7
- Mạc triều trong sử Việt
- Chào ngày mới 12 tháng 7
- Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời
- Giấc mơ tình yêu cuộc sống
- Chào ngày mới 11 tháng 7
- Khoảnh khắc tuyệt đẹp
- Tiếng Anh cho em
- Tháng Bảy mưa Ngâu
- Chào ngày mới 10 tháng 7
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 9 tháng 7
- Đợi mưa
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 8 tháng 7
- Chào ngày mới 7 tháng 7
- Chào ngày mới 6 tháng 7
- Dưới đáy đại dương là Ngọc
- Lộc xuân cuộc đời
- Chào ngày mới 5 tháng 7
- Ngày mới yêu thương
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 4 tháng 7
- Trần Thánh Tông
- Bà Đen
- Lộc xuân cuộc đời
- Đọc lại và suy ngẫm 2
- Chào ngày mới 2 tháng 7
- Tiếng Anh cho em
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 1 tháng 7
- Lời vàng của Anbe Anhstanh
Video nhạc tuyển
Khí công Y đạo: Bài học tốt tự chăm sóc sức khỏe
Ban Mai
MAR AKRAM – Dancing with the wind♥
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học Cây Lương thực Dạy và Học Tình yêu cuộc sống Kim on LinkedIn KimYouTube Kim on Facebook
Pingback: Em ơi em can đảm bước chân lên | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Yên Phụ và Yên Tử | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Quang Dũng những bài thơ hay | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Nghị lực | Tình yêu cuộc sống
Pingback: CNM365 Chào ngày mới 365 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Vùng trời nhân văn | Tình yêu cuộc sống