CNM365. Chào ngày mới 13 tháng 8. Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Độc lập tại Cộng hòa Trung Phi (hình) năm 1960. Năm 100 trước CN – ngày sinh Julius Ceasar nhà lãnh đạo quân sự và chính khách người Ý (mất năm 44 trước CN). Năm 1937 – Chiến tranh Trung-Nhật: Quân đội Nhật Bản bắt đầu tấn công Thượng Hải, chiếm được thành phố sau đó vài tháng. Trận Thượng Hải là một trong những trận đánh lớn nhất và đẫm máu nhất trong Chiến tranh Trung-Nhật. Hai bên đã huy động tới 90 vạn quân tham chiến và số thương vong của cả hai bên lên đến 32 vạn người.
13 tháng 7
Ngày 13 tháng 7 là ngày thứ 194 (195 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 171 ngày trong năm.
« Tháng 7 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | |||
5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 |
12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 |
19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 |
26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | |
Mục lục
Sự kiện
- 884 – Cuộc khởi nghĩa Hoàng Sào kết thúc khi thủ lĩnh Hoàng Sào bị sát hại (hoặc tự sát), thủ cấp của ông được đưa đến chỗ quân Đường, tức ngày Bính Ngọ (17) tháng 6 năm Giáp Thìn.
- 1402 – Quân của Yên vương Chu Lệ tiến vào kinh sư Ứng Thiên phủ của triều Minh, kết thúc triều đại của Kiến Văn Đế.
- 1787 – Quốc hội Lục địa Hoa Kỳ ban hành Sắc lệnh Tây Bắc nhằm thiết lập chính quyền cai quản tại Lãnh thổ Tây Bắc.
- 1866 – Chiến tranh Áo-Phổ: Quân Phổ giành chiến thắng trước quân Hesse trong trận Laufach-Frohnhofen.
- 1930 – Giải vô địch bóng đá thế giới đầu tiên khai mạc tại Montevideo, Uruguay.
- Năm 1937 – Chiến tranh Trung-Nhật: Quân đội Nhật Bản bắt đầu tấn công Thượng Hải, chiếm được thành phố sau đó vài tháng.
- Năm 1942 – Thiếu tướng Eugene Reybold ban hành quyết định kiến thiết cơ sở hạ tầng cho dự án “Phát triển vật liệu thay thế”, được biết đến nhiều hơn với tên gọi Dự án Manhattan.
Người sinh
- 100 trước CN – Julius Ceasar nhà lãnh đạo quân sự và chính khách người Ý (m. năm 44 trước CN)
- 1793 – John Clare, nhà thơ người Anh (m. năm 1864)
Người chết
- 884 – Hoàng Sào, thủ lĩnh nổi dậy người Trung Quốc, tức ngày Bính Ngọ (17) tháng 6 năm Giáp Thìn
- 1793 – Jean-Paul Marat bị Charlotte Corday ám sát, trong khi đang ngâm mình trong bồn tắm.
- 1970 – Thịnh Thế Tài, tướng lĩnh người Trung Quốc (s. 1897)
Những ngày lễ và kỷ niệm
- Ngày Độc lập tại Cộng hòa Trung Phi (hình) năm 1960
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 13 tháng 7 |
Cộng hòa Trung Phi
Cộng hòa Trung Phi | |||||
---|---|---|---|---|---|
République centrafricaine (tiếng Pháp) | |||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Unité, Dignité, Travail (tiếng Pháp: “” |
|||||
Quốc ca | |||||
tiếng Pháp: La Renaissance, tiếng Sango: E Zingo | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa tổng thống | ||||
Tổng thống Thủ tướng |
Catherine Samba – Panza Elie Doté |
||||
Ngôn ngữ chính thức | tiếng Pháp | ||||
Thủ đô | Bangui |
||||
Thành phố lớn nhất | Bangui | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 622.984 km² | ||||
Diện tích nước | 0% % | ||||
Múi giờ | CUT (UTC+1) | ||||
Lịch sử | |||||
Ngày thành lập | 13 tháng 8 năm 1960 | ||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2003) | 3.683.538 người (hạng 124) | ||||
Dân số (2003) | 3.032.926 người | ||||
Mật độ | 5,8 người/km² | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2005) | Tổng số: 4,53 tỷ đô la Mỹ | ||||
HDI (2003) | 0,355 thấp (hạng 171) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Franc CFA (XAF ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .cf |
Cộng hòa Trung Phi (tiếng Pháp: République Centrafricaine; tiếng Sango: Ködörösêse tî Bêafrîka) là một quốc gia tại miền trung châu Phi. Cộng hòa Trung Phi giáp Chad về phía bắc, phía đông giáp Nam Sudan, phía nam giáp Cộng hòa Dân chủ Congo và Cộng hòa Congo, phía tây giáp Cameroon. Đây là một quốc gia không có bờ biển và có diện tích 622.436 kilômét vuông. Bangui là thủ đô và là thành phố lớn nhất quốc gia này. Cộng hòa Trung Phi nằm ở rìa bắc của lưu vực sông Congo. Phần lớn đất đai là cao nguyên với độ cao từ 610–790 m. Hai dãy núi ở phía bắc và đông bắc có độ cao tối đa khoảng 1400 m. Phần lớn quốc gia này có thảm thực vật là savanna, bãi cỏ xen lẫn với bụi cây. Rừng rậm tập trung ở tây nam. Quốc gia này có nhiều sông lớn: Bamingui và Ouham ở phía bắc, Ubangi, một chi lưu của sông Congo ở phía nam.
Mục lục
Lịch sử
Lịch sử thời kì tiền thuộc địa của quốc gia này ít được biết đến. Người Banda, người Ngbadi, người Baya và người Azande là các nhóm sắc tộc chính ở vùng này. Từ thập kỷ 70 của thế kỉ 19, người châu Âu bắt đầu thám hiểm vùng này.
Năm 1889, Pháp lập một tiền trạm tại Bangui, thành lập vùng thuộc địa giữa hai sông Oubangui và Chari năm 1905 và sáp nhập vào lãnh thổ Châu Phi Xích đạo thuộc Pháp năm 1910. Vùng lãnh thổ này trở thành Cộng hòa Trung Phi với tư cách là nước tự trị thuộc Cộng đồng nước Pháp năm 1958.
Năm 1960, Cộng hòa Trung Phi tuyên bố độc lập và David Dacko trở thành Tổng thống. Năm 1966, Jean Bedel Bokassa lên cầm quyền sau cuộc đảo chính. Bokassa tuyên bố trở thành Tổng thống trọn đời năm 1972. Năm 1976, Tổng thống Jean Bedel Bokassa tuyên bố làm Hoàng đế, đổi tên nước thành Vương quốc Trung Phi.
Những xáo trộn kinh tế – xã hội, các cuộc đàn áp đẫm máu đối với những người chống đối và những cuộc tàn sát học sinh trung học dẫn đến việc Pháp giúp đỡ Tổng thống David Dacko lật đổ Bokassa, trở lại cầm quyền và lập nền cộng hòa năm 1979. Sau cuộc tuyển cử Tổng thống năm 1981, Tướng Kolingba tiến hành đảo chính và lãnh đạo đất nước. Mặc dầu Hiến pháp mới được thông qua (1986) và trở lại chế độ đa đảng (1991- 1992), Kolingba cũng không thể duy trì quyền lực. Năm 1993, Ange Félix Patassé đắc cử Tổng thống. Tháng 3 năm 1998, “Hiệp ước hòa giải dân tộc” được kí kết tại Bangui. Tổng thống Patassé sống sót sau cuộc mưu toan đảo chính tháng 5 năm 2001. Tháng 3 năm 2003, Tướng Francois Bozizé lật đổ Tổng thống Patassé và tự tuyên bố trở thành Tổng thống. Ngày 13 tháng 3 năm 2005, trong cuộc bầu cử Tổng thống ở Trung Phi, Francois Bozizé đã đắc cử với số phiếu 64,6%.
Chính trị
Trung Phi thực hiện đường lối chính trị đa đảng, mở cửa. Đảng cầm quyền hiện nay là Phong trào giải phóng nhân dân Trung Phi (Đảng của Tổng thống).
Các Đảng phái đối lập:
– Liên minh vì nền Dân chủ và Tiến bộ (ADP),
– Đảng Cộng hoà Trung Phi (PRC),
– Phong trào Dân chủ vì Đổi mới và Tiến bộ ở Trung Phi (MDREC).
Do tình hình an ninh chính trị có nhiều phức tạp, năm 1998, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã thông qua Nghị quyết 1159 thiết lập lực lượng gìn giữ hoà bình ở Trung Phi (MINURCA) thay thế cho lực lượng Liên Phi; MINURCA đã kết thúc sứ mệnh của mình năm 2000. Hiện nay, Văn phòng kiến tạo hoà bình của Liên Hiệp Quốc tại Cộng hòa Trung Phi (BONUCA), được thành lập năm 1999 để hỗ trợ các hoạt động của MINURCA vẫn đang hoạt động.
Gần đây, do chịu ảnh hưởng của xung đột Darfur (Sudan), khu vực Đông-Bắc của Trung Phi còn có những bất ổn do làn sóng người tị nạn từ Darfur cũng như xung đột giữa một số lực lượng phiến quân tại khu vực biên giới chung với Sudan và Chad. Trong bối cảnh đó, ngày 25 tháng 9 năm 2007, Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết 1778 cho phép triển khai tại Trung Phi và Sát lực lượng quốc tế trên cơ sở phối hợp với EU để thực thi các nhiệm vụ trấn áp bạo lực, bảo vệ dân thường, người tị nạn và giám sát nhân quyền. Tháng 10 năm 2007, EU đã thông qua quyết định triển khai lực lượng của mình (EUFOR) tại khu vực này.
Ngày 26 tháng 6 năm 2008, Cộng hòa Trung Phi và hai phe nổi dậy (Quân đội nhân dân phục hồi nền dân chủ và Liên minh các lực lượng dân chủ vì tập hợp) ở miền Bắc đã ký Hiệp định hoà bình chung tại Gabon theo đó tiến hành giải giáp các phe nhóm nổi dậy, ân xá cho các binh sĩ và tái hoà nhập họ vào cộng đồng. Trước đó, hai phe này đã từng ký hiệp định riêng rẽ với chính phủ Trung Phi.
Tháng 12 năm 2008, Trung Phi tổ chức đối thoại chính trị mở rộng với sự tham gia của tất cả các phe phái chính trị, kể cả phe của cựu Tổng thống Ange Félix Patassé, và đề ra lộ trình chấm dứt xung đột vũ trang và bất ổn chính trị.
Đối ngoại
Trung Phi là thành viên Liên Hiệp Quốc, Liên minh châu Phi (AU), Phong trào không liên kết, Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ và nhiều tổ chức khác.
Trung Phi có quan hệ mật thiết với Pháp trên nhiều lĩnh vực. Pháp đang hỗ trợ quân sự cho các lực lượng của Trung Phi. Trong giai đoạn 1970–1980, Libya tích cực tranh giành ảnh hưởng với Pháp tại Trung Phi và tháng 5 năm 2001, Libya từng triển khai quân tại Bangui để yểm trợ cho Tổng thống Ange Félix Patassé.
Bên cạnh đó, Trung Phi tăng cường quan hệ với Mỹ và các nước phương Tây. Đầu năm 1989, Trung Phi công nhận nhà nước Ixraen và Palestin.
Từ năm 2005, đến nay, Trung Phi tìm cách đa dạng hoá quan hệ đối ngoại với các nước khác như các nước vùng Vịnh, Trung Quốc, Nam Phi.
Địa lí
Cộng hòa Trung Phi nằm ở khu vực Trung Phi, Bắc giáp Chad, Nam giáp Cộng hòa Congo và Cộng hòa Dân chủ Congo, Đông giáp Sudan vâ Tây giáp Cameroon. Địa hình phần lớn là vùng cao nguyên rộng lớn nằm giữa hai vùng trũng ở phía bắc và phía nam.
Khí hậu
Khu vực cao nguyên phía nam nằm trong miền khí hậu cận xích đạo, thuận lợi cho các khu rừng nhiệt đới phát tnển, do lượng mưa giảm dần nên khu vực phía bắc phần lớn là các vùng thảo nguyên.
Các tỉnh và đơn vị dưới tỉnh
Cộng hòa Trung Phi được chia thành 14 tỉnh (préfectures), cùng với 2 tỉnh kinh tế (préfectures economiques) và một thành phố tự trị. Các tỉnh lại được chia thành 71 phó tỉnh (sous-préfectures).
Các tỉnh gồm:
hai tỉnh kinh tế gồm Nana-Grébizi và Sangha-Mbaéré; đô thị là Bangui.
Kinh tế
Trung Phi là một trong những nước nghèo ở châu Phi. Kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và lâm nghiệp. Nông nghiệp chiếm hơn 1/2 GDP, gỗ chiếm 16% thu nhập xuất khẩu và công nghiệp kim cương chiếm 40%. Sản phẩm nông nghiệp có: bông, cà phê, sắn, lạc, lúa, ngô, kê… Về khoáng sản ngoài kim cương còn có sắt, măng gan, niken… nhưng sản lượng thấp.
Hạn chế của Trung Phi là nước không tiếp giáp với biển, hệ thống giao thông lạc hậu, phần lớn là lực lượng lao động không có nghề. Thiếu sự chỉ đạo trong phát triển kinh tế vĩ mô. Tình hình bất ổn cản trở kinh tế phát triển. Phân phối thu nhập bất bình đẳng. Mặc dù được Pháp và cộng đồng quốc tế viện trợ nhưng chỉ đáp ứng một phần nhu cầu thiết yếu trong nước.
Trung Phi xuất khẩu kim cương, gỗ, bông, cà phê, thuốc lá sang các nước Bỉ (22%), Indonesia (19,3%), Ý (7,7%), Pháp (7,1%), Cộng hòa Dân chủ Công Gô (6,8%). Giá trị xuất khẩu đạt 146,7 triệu USD (2007). Nhập khẩu thực phẩm, hàng dệt may, xăng dầu, máy móc thiết bị, động cơ ôtô, hoá chất, dược phẩm từ các nước Pháp (16,6%), Hà Lan (13%), Cameroon (9,7%), Mỹ (6,3%). Giá trị nhập khẩu là 237,3 triệu USD (2007).
Năm 2010, tổng sản phẩm quốc nội của Trung Phi là 2,2 tỷ USD, tăng trưởng 3,7% so với năm 2006. GDP bình quân đầu người của Trung Phi là hơn 400 USD người/năm. Tỷ lệ lạm phát được duy trì dưới 1%/năm.
Về ngoại thương, năm 2010, Trung Phi xuất khẩu khoảng 200 triệu USD hàng hoá các loại, trong đó các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của nước này là kim cương, gỗ, bông, cà phê, thuốc lá. Các đối tác xuất khẩu của Trung Phi là Bỉ, Ý, Tây Ban Nha, Indonesia, Pháp, Mỹ. Kim ngạch nhập khẩu năm 2010 của Trung Phi là 300 triệu USD. Các mặt hàng mà nước này thường nhập là thực phẩm, hàng dệt may, sản phẩm xăng dầu, máy móc, thiết bị điện, xe cộ, hoá chất, dược phẩm, hàng tiêu dùng, sản phẩm công nghiệp. Các bạn hàng nhập khẩu của Trung Phi là Pháp, Mỹ, Cameroon, Bỉ.
Dân cư
Dân số của nước Cộng hòa Trung Phi đã tăng gấp bốn lần kể từ khi độc lập. Năm 1960, dân số là 1.232.000; ước tính của Liên Hợp Quốc năm 2009, nó là 4.422.000.[1] Liên Hiệp Quốc ước tính rằng khoảng 11% dân số trong độ tuổi từ 15 đến 49 bị nhiễm HIV. Chỉ có 3% là dương tính với căn bệnh này.[2] Dân cư được chia thành hơn 80 nhóm dân tộc, mỗi nhóm có ngôn ngữ riêng của mình. Các nhóm dân tộc lớn nhất là Baya, Banda, Mandjia, Sara, Mboum, M’Baka, Yakoma, và Fula hoặc Fulani.[3], với nhóm nhỏ người Pháp.
Hơn 55% dân số sống ở khu vực nông thôn. Các lĩnh vực nông nghiệp chính tập trung xung quanh Bossangoa và Bambari. Bangui, Berberati, Bangassou, và Bossangoa là các trung tâm đô thị đông dân cư nhất.
Trung Phi cũng là quốc gia có tỷ lệ dân sô trẻ cao nhất châu Phi. Tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi trong năm 2010 là 40,4%, 55,6% là từ 15 đến 65 tuổi, trong khi 4% là 65 tuổi trở lên.[4]
Tôn giáo
Khoảng 80% dân số của nước Cộng hòa Trung Phi là Kitô hữu. Người ta tin rằng nhiều người trong số những người theo này kết hợp yếu tố truyền thống bản địa vào việc thực hành đức tin của họ.[5]
Tín hữu Công giáo và Tin Lành phân bố rải rác khắp lãnh thổ. Hồi giáo tập trung chủ yếu ở phía bắc. Khoảng 51% dân số là Tin Lành, 29% là Công giáo La Mã, và 10% là người Hồi giáo. Tín ngưỡng bản địa truyền thống được thực hiện bởi khoảng 10% dân số.[6] Ngoài ra, còn có các nhóm truyền giáo thuộc các giáo phái Kitô giáo khác như Giáo hội Luther, Baptist, và Nhân chứng Jehovah.
Công giáo Rôma ở Trung Phi chiếm trên dưới 900.000 tín hữu đại diện cho khoảng một phần tư dân số. Có chín giáo phận và một tổng giáo phận:
Hồi giáo chiếm khoảng 10% (500.000 người) dân số của nước Cộng hòa Trung Phi, làm cho nó làm cho nó trở thành tôn giáo lớn thứ 2 sau Kitô giáo. Hầu hết người Hồi giáo Trung Phi sống ở phía bắc, phía đông, các vùng gần biên giới với Chad và Sudan.[6]
Hiến pháp (bị đình chỉ từ năm 2003) quy định về tự do tôn giáo trong khi cấm một số hình thức cực đoan tôn giáo. Lệnh cấm này thường được coi là hướng về trào lưu chính thống Hồi giáo. Ngày lễ Kitô giáo được tổ chức như ngày lễ quốc gia. Tất cả các nhóm tôn giáo phải đăng ký thông qua Bộ Nội vụ. Giáo hội Thống Nhất đã bị cấm kể từ giữa những năm 1980. Việc thực hành phù thủy được coi là một hành vi phạm tội hình sự, tuy nhiên truy tố thường chỉ được thực hiện kết hợp với hoạt động tội phạm khác, chẳng hạn như giết người.
Giáo dục
Giáo dục bắt buộc và miễn phí đối với trẻ em (bắt đầu từ năm 7 tuổi). Cả nước có khoảng 2/3 trẻ em theo học đầy đủ. Các cơ sở và phương tiện dạy và học còn rất thiếu thốn, khoảng 10% số học sinh theo học tiếp chương trình trung học và 2% số học sinh học lên đại học (hoặc các trường kĩ thuật).
Y tế
Các bệnh tật như sốt rét, viêm gan, bại liệt, giun sán… khá phổ biến. Trung Phi chưa có đủ các dịch vụ chăm sóc y tế. Cán bộ y tế thường làm việc tận tụy nhưng được trả lương rất thấp. Hoạt động y tế ở nông thôn được sự tài trợ của các bệnh viện tư ở thủ đô và các nhà truyền giáo.
Tham khảo
- ^ http://www.un.org/esa/population/publications/wpp2008/wpp2008_text_tables.pdf
- ^ http://data.unaids.org/pub/GlobalReport/2006/2006_GR_ANN3_en.pdf
- ^ In Fula: Fulɓe; in French: Peul
- ^ http://esa.un.org/unpd/wpp/index.htm
- ^ http://www.state.gov/j/drl/rls/irf/2010/148671.htm
- ^ a ă http://www.minplan-rca.org/pays
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Cộng hòa Trung Phi |
|
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Cộng hòa Trung Phi |
Julius Caesar
Gaius Julius Caesar | ||
---|---|---|
Nhà độc tài của Cộng hòa La Mã | ||
![]() |
||
Tại vị | Tháng 10, 49 TCN – 15 tháng 3, 44 TCN | |
Tiền nhiệm | Lucius Cornelius Sulla | |
Kế nhiệm | Gaius Julius Caesar Octavianus ![]() |
|
Thông tin chung | ||
Phối ngẫu |
|
|
Hậu duệ |
|
|
Gia tộc | Julia-Claudia | |
Thân phụ | Nguyên lão Gaius Julius Caesar | |
Thân mẫu | Aurelia Cotta | |
Sinh | 12/13 tháng 7, 100 TCN Subura, La Mã |
|
Mất | 15 tháng 3, 44 TCN Nhà hát Pompey, La Mã |
Gāius Jūlius Caesar (phát âm trong tiếng Latin: “Gai-ux Du-li-ux Khai-xơ”; cách phiên âm “Xê-za” bắt nguồn từ tiếng Pháp César; 12 tháng 7 hoặc 13 tháng 7 năm 100 TCN – 15 tháng 3 năm 44 TCN) là một lãnh tụ quân sự và chính trị của La Mã và là một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử thế giới. Ông đóng một vai trò then chốt trong sự chuyển đổi Cộng hòa La Mã thành Đế chế La Mã. Một trong những chiến tích quang vinh nhất của ông[1] – cuộc chinh phục xứ Gaule (bao gồm Pháp, Bắc Ý, Bỉ, Tây Thụy Sĩ, v.v… ngày nay) của ông mở cho La Mã con đường tiếp cận Đại Tây Dương. Julius Caesar đã phát động sau đó cuộc xâm lăng của La Mã vào xứ Britannia (nước Anh ngày nay) cũng như đã cho xây cầu sông Rhein năm 55 TCN, trở thành tướng La Mã đầu tiên vượt qua eo biển Manche cũng như qua bờ phải sông Rhein.
Caesar được xem là một trong những nhà quân sự lỗi lạc nhất, chính trị gia xuất sắc nhất và là một trong những lãnh tụ vĩ đại nhất của lịch sử thế giới thời La Mã cổ đại.
Vào năm 42 TCN, hai năm sau khi Caesar bị mưu sát, viện nguyên lão La Mã chính thức thánh hóa, xem ông là một trong những vị thần của La Mã.
Dẫn đầu binh đoàn lê dương của mình vượt qua sông Rubicon, Caesar tiến hành một cuộc Nội chiến vào năm 49 TCN, và đánh bại kẻ thù của ông là Pompey trong trận đánh quyết định tại Pharsalus là chiến thắng vĩ đại nhất trong sự nghiệp quân sự của ông.[2] Với chiến thắng của ông trong cuộc Nội chiến, ông vươn lên trở thành một “lãnh tụ tuyệt đối” của La Mã. Sau khi hoàn toàn kiểm soát chính quyền, Caesar tiến hành những cuộc cải cách rộng lớn nhất về mặt xã hội và chính quyền. Ông được tuyên bố là “Lãnh tụ suốt đời”, và ông kiểm soát toàn bộ nền cộng hòa. Mỉa mai thay, chính điều này đã khiến một trong những người bạn của ông, Marcus Junius Brutus, người về sau hiệp lực cùng những kẻ bất mãn vời Caesar để mưu sát ông và khôi phục nền cộng hòa. Cuộc mưu sát Caesar xảy ra vào ngày Idus Martiae (15 tháng 3) năm 44 TCN và khơi mào cho một cuộc nội chiến khác của La Mã.
Những chiến dịch quân sự của Caesar được biết đến một cách chi tiết qua những bài viết Commentarii (bài tường thuật) của ông, và nhiều chi tiết khác về cuộc đời của ông được ghi nhận lại bởi những sử gia như Appian, Suetonius, Plutarch, Cassius Dio và Strabo. Những thông tin khác được thu thập từ những nguồn thông tin (xuất hiện cùng thời Caesar), như là những bức thư và bài diễn văn của Cicero, kẻ thù chính trị của Caesar, những bài thơ của Catullus, và những bài viết của sử gia Sallus.
Mục lục
- 1 Cuộc đời
- 1.1 Thời trẻ
- 1.2 Thành tựu ban đầu
- 1.3 Bị hải tặc bắt cóc
- 1.4 Pontifex Maximus và công cuộc cầm quyền ở Hispania
- 1.5 Nhiệm kỳ chấp chính và chế độ Tam Đầu chế đầu tiên
- 1.6 Cuộc chinh phạt xứ Gaule
- 1.7 Sự sụp đổ của Tam đầu chế thứ nhất
- 1.8 Cuộc nội chiến
- 1.9 Sau nội chiến
- 1.10 Âm mưu ám sát Caesar
- 1.11 La Mã sau khi Caesar bị ám sát
- 2 Sự nghiệp văn chương
- 3 Sự nghiệp quân sự
- 4 Gia đình Caesar
- 5 Tình nhân
- 6 Danh hiệu của Caesar
- 7 Những tác phẩm của Caesar
- 8 Nguồn gốc bài viết
- 9 Xem thêm
Cuộc đời
Thời trẻ
Caesar sinh trong một gia đình quý tộc thuộc dòng dõi Julius, dòng dõi cho rằng mình được thừa hưởng dòng máu của Iulus, con của hoàng tử Aeneas của thành Troia, con của thần tình yêu Venus.[3] Thần thoại nói rằng Caesar được sinh mổ,[4] nhưng có lẽ là không đúng lắm vì vào thời ấy sự sinh mổ chỉ có thể được thực hiện trên những người phụ nữ đã chết, trong khi mẹ của Caesar sống rất lâu sau khi ông ra đời.
Dù cho có một nguồn gốc và địa vị hoàn hảo, dòng tộc Julii-Caesares không giàu có lắm (so với mức bình thường của các quý tộc La Mã khác). Không thành viên nào trong gia đình Caesar làm được điều gì nổi bật vào thời gian này, mặc dù thế hệ cha của Caesar đã phục hồi phần nào sự thịnh vượng của gia tộc. Cha của Caesar, cũng được gọi là Gaius Julius Caesar, đã làm tới chức pháp quan,[5] có lẽ bởi vì sự ảnh hưởng của Gaius Marius, anh hùng chiến tranh và một nhà chính trị nổi bật lúc bấy giờ, người đã cưới chị của cha Caesar, Julia. Mẹ của Caesar là con gái của một gia đình có uy thế, gia đình mà đã có rất nhiều người làm tới chức quan Chấp chính tối cao. Cả gia đình ông sống trong một căn nhà khiêm tốn tại vùng Subura, một khu vực nghèo lân cận La Mã,[6] nơi mà Marcus Antonius Gnipho, một nhà hùng biện đồng thời là một nhà văn phạm đến từ xứ Gaule,[7] được mướn làm thầy dạy học cho Caesar. Ngoài Caesar, gia đình ông còn có hai con gái (cả hai đều được gọi là Julia). Vài điều ít ỏi này được ghi nhận là tuổi thơ của Caesar. Bản tiểu sử về Caesar của Suetonius và Plutarch bắt đầu vào tuổi thiếu niên của Caesar. Những điều trước đó đã không tìm thấy một sự ghi nhận nào.[8]
Caesar trưởng thành trong thời kỳ hỗn loạn của La Mã. Cuộc chiến tranh Liên Minh giữa La Mã và các đồng minh của họ (91 TCN – 88 TCN) nổi lên vì sự tranh cãi về quyền của công dân La Mã. Khi mà vua Mithridates VI xứ Pontos đe dọa các tỉnh phương đông của La Mã; thì ở trong nội bộ, La Mã bị chia rẽ thành hai phe: Phe Quý Tộc (Optimates), phe mà muốn giữ quyền hành thống trị cho các quý tộc, và phe Đại Chúng (Populares) phe muốn ngay lập tức sự chia sẻ quyền lực rộng rãi hơn thông qua quyền bầu cử trực tiếp.[9]
Chú Marius của Caesar là một người thuộc phe Đại chúng; người bảo trợ và đối thủ của ông Lucius Cornelius Sulla là một người thuộc phe Quý Tộc. Cả hai nổi lên trong cuộc chiến Xã hội, và cải hai đều muốn chỉ huy cuộc chiến tranh chống lại vua Mithridates VI, điều mà ban đầu được giao cho Sulla; nhưng khi Sulla rời La Mã để chỉ huy lực lượng của mình một Hộ Dân quan La Mã thông qua một bộ luật trao lại quyền lực cho Marius. Một thông điêp được gửi đến Sulla nói rằng ông ta sẽ không thể rời khỏi doanh trại của mình mà còn sống. Sulla tiến quân về La Mã. Marius buộc phải lưu vong, nhưng khi Sulla quay trở lại cuộc chiến của mình; một đồng minh của ông, Lucius Cornelius Cinna chiếm lấy La Mã và công khai tuyên bố Sulla là “một kẻ thù của xã hội”.
Lực lượng của Marius trả thù những người theo Sulla rất tàn bạo. Marius chết ở năm 84 TCN nhưng phe của ông ta vẫn còn rất mạnh.
Năm 84 TCN cha của Caesar chết bất ngờ khi đang mang giày vào một buổi sáng,[10] và ở tuổi 16 Caesar trở thành người chủ gia đình. Những năm tiếp theo, Caesar được đề bạt cho chức Flamen Dialis (Tổng thầy tế của Jupiter — Lucius Cornelius Merula,[11] người tiền nhiệm, đã bị sát hại trong cuộc thanh trừng của Marius) và sau khi được giữ chức này Caesar không những trở thành một quý tộc mà còn cưới con gái của một quý tộc. Ông bội hôn ước của mình với Cossutia, một con gái của một gia đình giàu có mà ông được hứa hôn từ thời niên thiếu, và cưới con gái của Cinna, Cornelia.[12]
Sulla sau khi buộc vua Mithridates VI phải ký kết hòa ước, Sulla quay trở lại để kết thúc cuộc nội chiến với quân của Marian. Sau một chiến dịch khắp Italia ông ta cuối cùng cũng tiêu diệt hoàn toàn quân Marians ở Trận Colline Gate vào tháng 17 năm 82 TCN. Bởi vì cả hai quan chấp chính đều đã chết, Sulla bóng gió gợi ý Viện Nguyên Lão đưa ông ta lên nắm chức Người đứng đầu lâm thời (chức vụ này sẽ có quyền lực tuyệt đối như là một tên độc tài). Viện Nguyên lão dễ dàng chấp nhận điều này thông qua một cuộc bỏ phiếu mở rộng. Sau khi lên nắm quyền, Sulla bắt đầu một chuỗi những cuộc thanh trừng đẫm máu những kẻ thù chính trị của mình. Tượng của Marius bị gỡ bỏ. Cinna thì bị binh lính của mình giết trong một cuộc nổi loạn.[13] Caesar vì là cháu trai của Marius và con rể của Cinna, bị tước bỏ quyền thừa kế, của hồi môn của vợ mình và chức giáo sĩ của mình, nhưng ông từ chối ly dị Cornelia và buộc phải bỏ trốn. Mối đe dọa đối với ông chỉ bị bãi bỏ khi khi gia đình của mẹ ông, dòng họ Cottae (người giúp đỡ Sulla) và những Trinh nữ Vestal, can thiệp. Sulla miễn cưỡng chấp nhận, và mọi người nói rằng Sulla nói ông ta thấy “quá nhiều Marius trong Caesar”.[8]
Thành tựu ban đầu
Caesar không quay trở lại La Mã, ông gia nhập quân đội phục vụ dưới quyền của Marcus Minucius Thermus ở Tiểu Á. Khôi hài thay, việc Caesar mất chức thầy tế đã giúp ông có thể đeo đuổi sự nghiệp quân sự: chức Flamen Dialis không được cho phép để cưỡi hoặc chạm vào một con ngựa, ngủ ba đêm ngoài không trên giường hoặc một đêm ngoài La Mã, hoặc đứng đầu một lực lượng quân đội.[14] Trong một nhiệm vụ ở Bithynia để đảm bảo sự giúp đỡ của hạm đội vua Nicomedes, Caesar ở lại lâu đến nỗi làm xuất hiện tin đồn về “tình yêu” của ông với nhà vua, điều mà đeo đẳng ông suốt cuộc đời. Tuy nhiên, ông vẫn có được sự khác biệt trong sự nghiệp phục vụ quân đội của mình; Caesar giành được Corona Civica (hay Civic Crown)– một giải thưởng vinh dự xếp hàng thứ hai của Quân đội La Mã – vì trong cuộc bao vây Mytilene Caesar đã cứu mạng một người lính khác. Cùng với sự hiện diện của Viện nguyên lão, nếu Caesar đeo nó – Corona Civica – khi ở ngoài công cộng tất cả mọi người sẽ phải đứng lại và tung hô ông. Caesar còn phục vụ trong quân đội của Servilius Isauricus ở xứ Cilicia trong một thời gian ngắn.[15]
Về Sulla, sau hai năm quyền hành tuyệt đối, đã hành động không giống bất cứ tên độc tài nào trước đó. Ông này giải tán quân đội của mình, thiết lập lại chính quyền trực thuộc Viện Nguyên lão (để hợp pháp hóa quyền lực của mình, Sulla đã chịu một cuộc bấu cử và ông đã được Bầu làm Nguyên lão năm 80 TCN), và bãi bỏ sự độc tài. Ngoài ra, Sulla còn không đem thao vệ sĩ và đi lại không cần bảo vệ, và đề nghị công khai mọi hành động của mình với mọi công dân La Mã.[16] Caesar sau này đã chế nhạo: “Sulla không biết gì về chính trị”.[17] Sau nhiệm kỳ thứ hai, Sulla về hưu, ông trở về với ngôi nhà ở duyên hải của mình viết hồi ký và tự cho phép mình tận hưởng một cuộc sống riêng tư.[18] Ông chết hai năm sau đó, đám tang của ông rất to lớn và không đám tang của ai có thể so sánh được cho đến đám tang của Augustus năm 14.
Năm 78 TCN, nghe tin Sulla chết, Caesar cảm thấy đây là thời điểm an toàn để trở về La Mã. Ông trở về cùng lúc với một cuộc bạo loạn chống Sulla của Marcus Aemilius Lepidus, nhưng Caesar, do thiếu sự tin tưởng với sự lãnh đạo của Lepidus, đã không cùng tham gia.[19] Về La Mã, ông biện hộ và chứng minh sự vô tội của một người tên là Cornelius Dolabella. Ông được biết đến với tài hùng biện xuất sắc, hình thành bởi một giọng nói đầy sức thuyết phục và tài diễn tả gây say mê, sự tố cáo những kẻ thống trị tồi tệ và thối nát lúc bấy giờ. Nhà hùng biện lớn Cicero đã từng bình luận: “Ai có tài nói hay hơn Caesar?[20]” Để hoàn chỉnh kỹ năng của mình, Caesar đã đến đảo Rhodes năm 75 TCN để học tập với sự chỉ bảo của nhà giáo nổi tiếng Apollonius Molon, người thầy dạy của Cicero.[21]
Bị hải tặc bắt cóc
Khi đi qua biển Aegean,[22] Caesar bị bọn hải tặc vùng Cilicia bắt cóc;[23] ngay trong tình trạng bị giam cầm Caesar vẫn tìm cách giữ mình khỏe mạnh. Theo như lời kể của Plutarch, khi bọn hải tặc nói với Caesar rằng chúng sẽ đòi tiền chuộc ông là 20 talent vàng, Caesar cười to và bảo ông đáng giá ít nhất 50 talent (12000 miếng vàng).[24][25] Sự kiện này được đem làm một dẫn chứng cho sự tự tin của Caesar ngay cả khi sống trong nguy hiểm, làm giảm đi khả năng bị giết hại của ông. Ngoài ra Caesar còn tham gia và làm việc như một thủy thủ hải tặc, và nhanh chóng tỏ ra mình không mấy lo lắng khi chửi rủa một chút khi bọn hải tặc tỏ ý không hài lòng và muốn từ chối ông. Sau khi được chuộc, Caesar tập hợp một hạm đội, tiến công và bắt giữ bọn hải tặc. Khi chính quyền Tiểu Á xét xử bọn hải tặc nhưng Caesar không hài lòng, nhà sử học Plutarch có viết trong tác phẩm của mình: “Caesar tự đề ra hình phạt, ông đến Pergamum, bắt bọn hải tặc ra khỏi tù, và đóng đinh toàn bộ, như là lời cảnh báo của ông khi ông còn ở trên đảo, điều mà bọn hải tặc cứ cho là ông đùa”.[26]
Pontifex Maximus và công cuộc cầm quyền ở Hispania
Khi trở về thành La Mã, ông được bầu làm Hộ Dân quan quân sự, là bước đầu trong sự nghiệp chính trị của ông. Vào năm 69 trước Công Nguyên, ông được cử làm quan coi quốc khố (quaestor),[27] và trong năm đó ông đọc bài văn tế dì ông là Julia. Người vợ ông là Cornelia cũng qua đời vào năm đó.[28] Sau khi mai táng cho vợ, vào Mùa Xuân hoặc là đầu Mùa Hạ năm 69 trước Công Nguyên, Julius Caesar đến Hispania để thực hiện nhiệm kỳ quan coi quốc khố của mình.[29] Theo các nhà sử học Suetonius và Cassius Dio, trong thời gian này ông có chiêm bao thấy mình quan hệ tình dục với mẹ ruột của mình, cũng giống như vua Oedipus trong thần thoại Hy Lạp. Đây là một chuyện kỳ lạ vì xảy ra đúng lúc vợ ông mất, làm cho ông vô cùng ngỡ ngàng. Theo Suetonius, khi Caesar rất ngạc nhiên và vời một nhà giải mộng đến hỏi, ông này cho rằng thực chất người mẹ trong giấc mộng này là Mẹ Trái Đất – người mẹ chung của tất cả mọi người, và cho thấy ông sẽ làm bá chủ thế giới,[30] cũng như Alexandros Đại Đế khi xưa. Tuy nhiên, theo Plutarch thì giấc mơ “bất hợp pháp” này lại diễn ra ít lâu trước sự kiện Caesar vượt sông Rubicon vào năm 49 trước Công Nguyên, dù Plutarch không có kể về một lời giải mộng nào cả.[31][32][33] Vào năm 63 TCN, Quintus Caecilius Metelleus Pius, người được Sulla chỉ định làm Đại giáo chủ (Pontifex Maximus) chết. Trong một bước đi quan trọng Caesar ra tranh cử. Ông chạy đua với hai đối thủ rất mạnh, Quintus Lutatius Catulus và Publius Servilius Vatia Isauricus. Mặc dù có nhiều lời tố cáo gian lận từ mọi phía, Caesar vẫn chiến thắng.[34]
Cuộc bầu chọn Đại giáo chủ là một bước rất quan trọng trong sự nghiệp của Caesar. Chức vụ vừa có cả quyền lực về chính trị lẫn tôn giáo đã đặt một nền móng vững chắc cho Caesar trong xã hội và sự nghiệp sau này của Caesar.
Năm 62 TCN, Caesar được bầu chọn làm Trưởng quan. Người ta kể rằng ông đã đến trước tượng đài vua Alexandros Đại Đế trong miếu thờ thần Hercules tại Cadiz. Ôn rơi nước mắt và nói: “Có ai biết rằng tôi đau buồn vì ở độ tuổi của tôi, Alexandros đã làm vua của biết bao dân tộc trong khi tôi chưa lập công danh gì để đời?” Chính từ sự kiện này, các nhà sử học thường so sánh sự nghiệp của Alexandros Đại Đế và Caesar.[35] Sau nhiệm kỳ Trưởng quan, Caesar được giao quyền cai trị vùng Ngoại Iberia (Hispania Ulterior). Sự lãnh đạo của Caesar là một thành công cả về chính trị lẫn quân sự đã giúp cho ông mở rộng sự cai trị của La Mã. Như là một kết quả hiển nhiên, binh lính của Caesar xem ông như là Hoàng đế, và nhận được sự giúp đỡ trong Viện Nguyên lão cho phép ông diễu hành chiến thắng vào La Mã. Bên cạnh đó, sau khi trở về La Mã, Marcus Porcius Cato bác bỏ yêu cầu được làm quan chấp chính của Caesar. Phải lựa chọn giữa cuộc diễu hành và chức chấp chính tối cao, Caesar chọn chức quan.[36]
Nhiệm kỳ chấp chính và chế độ Tam Đầu chế đầu tiên
60 TCN (hay 59 TCN) Caesar được bầu chọn làm quan chấp chính tối cao của Cộng hòa La Mã bởi Hội nghị Centuriate (Centuriate Assembly).[37] Quan chấp chính thứ hai là kẻ thù chính trị của Caesar, Marcus Calpurnius Bibulus, một người thuộc phe Quý tộc và là con rể của Cato Trẻ (Cato the Younger, sau này là kẻ thù đáng gờm nhất của Julius Caesar[38]). Hành động đầu tiên của Bibulus ở chức Chấp chính là rời khỏi mọi hoạt động chính trị “để tìm trên bầu trời các điềm báo”. Hành động trông có vẻ “mộ đạo” này của Bibulus nhằm âm mưu gây khó dễ cho Caesar. Những người La Mã châm biếm sau đó đã gọi năm này là “năm của Julius và Caesar”[39] (lẽ ra là “năm của Caesar và Bibulus” như cách người La Mã hay đặt tên cho năm theo tên của hai quan chấp chính được bầu chọn năm đó).
Caesar cần có đồng minh, và ông đã tìm ra. Vị tướng giỏi nhất lúc bấy giờ, Gnaeus Pompeius Magnus (hay Pompey) vừa thất bại trong cuộc đấu tranh với Viện Nguyên lão trong việc giành đất trồng trọt cho những cựu binh lính của ông ta. Một cựu Chấp chính Marcus Licinius Crassus, người giàu nhất La Mã lúc đó, đang gặp rắc rối với khách hàng, và viên quan thu thuế đang muốn gia tăng nguồn thu. Pompey và Crassus cần có quyền lực của Caesar, còn Caesar cần uy tín của Pompey và tiền của Crassus. Và cả ba người bắt tay thành lập chế độ Tam đầu chế đầu tiên. Để bảo đảm cho mối quan hệ, Pompey cưới con gái duy nhất của Caesar, Julia.[40] Bỏ qua sự khác biệt về tuổi và quan điểm, cuộc hôn nhân chính trị này được chứng minh là có tình yêu.
Cuộc chinh phạt xứ Gaule
Sau đó, Caesar được cử làm thống đốc xứ Transalpine Gaul (miền nam nước Pháp ngày nay) và Illyria (bờ biển của Dalmatia), nhiệm kỳ 5 năm. Không bằng lòng với việc nhàn rỗi làm Thống đốc và rất cần tiền để trả các món nợ khổng lồ, Caesar tiền hành cuộc chinh phạt xứ Gaule, qua đó ông chinh phục toàn bộ xứ Gaule (gồm nước Pháp ngày nay, phần lớn của Thụy Sĩ và Bỉ, một phần nước Đức, nối liền vùng đất cực tây Châu Âu từ Đại Tây Dương tới sông Rhein) và sát nhập nó vào La Mã. Theo ông trong cuộc chiến này có, người anh em họ Lucius Julius Caesar và Mark Antony, Titus Labienus, Quintus Tullius Cicero, người em của Caesar, đối thủ – người mưu sát ông tương lai, Marcus Tullius Cicero.
Caesar tiêu diệt người Helvetii (ở Thụy Sĩ) năm 58 TCN, liên minh người Belgae và người Nervii năm 57 TCN, và người Veneti năm 56 TCN. Ngày 26 tháng 8 năm 55 TCN và vào năm 54 TCN Caesar tấn công xứ Britain 2 lần; vào năm 52 TCN ông tiêu diệt liên minh của người Gaule ở trận đánh Alesia, bắt giữ lãnh đạo của người Gaule là Vercingetorix. Ông ghi lại toàn bộ các chiến dịch của mình trong Commentarii de Bello Gallico (Bản báo cáo về cuộc chinh phạt xứ Gaule).
Theo Plutarch và các bản ghi chép lại của các học giả Brendan Woods thì kết quả của cuộc chiến này là: tổng cộng 800 thành thị bị chinh phục, 300 bộ lạc bị xóa sổ, 1 triệu người bị bán làm nô lệ và 3 triệu người chết trận. Các sử gia cổ đại có lẽ hơi thái quá, nhưng cuộc chinh phạt xứ Gaule của Caesar chắc chắn là cuộc xâm lăng quân sự lớn nhất và thành công nhất kể tứ thời vua Alexandros Đại đế. Chiến thắng của Caesar thì bền vững hơn là của Alexandros Đại Đế: xứ Gaule không bao giờ khôi phục lại nhân dạng văn hóa Celt của nó, không bao giờ có cuộc bạo loạn dân tộc chủ nghĩa nào, và trung thành với chính quyền La Mã cho tới khi Đế quốc La Mã sụp đổ vào năm 476. Đồng thời, thắng lợi vang dội này gia tăng uy thế của ông.[1]
Sự sụp đổ của Tam đầu chế thứ nhất
Ghen ghét trước những thành công và lợi ích mà Caesar đem về cho La Mã, những người cùng chức vị trở nên không ưa Caesar, đặc biệt là những phe bảo thủ, những người cho rằng Caesar đang muốn làm một ông vua. Năm 55 TCN, Pompey và Crassus được bầu làm Quan chấp chính và họ giữ lời thỏa thuận với Caesar bằng cách giao chức Tổng đốc cho Caesar trong 5 năm tiếp theo. Đó là hành động cuối cùng của Chế độ Tam Hùng thứ Nhất.
Năm 54 TCN, con gái của Caesar, Julia, chết khi sinh con. Crassus thì bị giết khi đang tiến hành các cuộc chinh phạt của mình ở xứ Parthia. Không có cả Crassus lẫn Julia, Pompey ngả hẳn về phe Quý tộc. Vẫn ở Gaule, Caesar tìm cách cứu vãn mối quan hệ với Pompey bằng cách đề nghị Pompey lấy một trong những cháu gái của mình, nhưng Pompey từ chối. Thay vào đó Pompey cưới Cornelia Metella, con của Metellus Scipio, một trong những kẻ thù lớn nhất của Caesar.
Cuộc nội chiến
Năm 50 TCN, Viện Nguyên lão, đứng đầu là Pompey, ra lệnh cho Caesar giải tán quân đội và trở về La Mã với lý do nhiệm kỳ của ông tại Gaule đã kết thúc. Không những vậy, họ còn cấm Caesar ra ứng cử Quan Chấp chính. Trước tình hình này, Caesar nghĩ ông sẽ bị vu oan và cách ly ra khỏi đời sống chính trị nếu ông quay trở lại La Mã mà không có sự bảo trợ bởi một vị Quan Chấp chính hoặc sức mạnh của đội quân trung thành với ông. Thêm vào đó, Pompey còn buộc tội Caesar là “không phục tùng” và “âm mưu tạo phản”.
Vào ngày 10 tháng 1 năm 49 TCN, Caesar vượt qua sông Rubicone (khoảng biên giới Ý) với duy nhất một binh đoàn lính Lê dương La Mã của mình và phát động nội chiến. Người ta tin rằng, trong khi vượt qua Rubicone, Caesar có nói “Alea iacta est” (Con xúc xắc đã được đổ). Tháng 1 thường là thời điểm khó khăn để đưa một đội quân ra ngoài xa trường, do đó các kẻ thù của Caesar khiếp vía khi hay tin này.[41]
Phe Quý tộc, bao gồm Mettelus Scipio và Cato Trẻ, chạy về miền Nam, không biết rằng Caesar chỉ có Đoàn Lê Dương 13 theo ông. Thực chất, quân chủ lực của ông hãy còn trấn thủ ở miền Bắc dãy Anpơ.[41] Caesar truy kích Pompey tới Brindisium, với hy vọng khôi phục lại mối quan hệ đồng minh với Pompey. Nhưng Pompey lẩn tránh Caesar. Thay vì tiếp tục truy kích Pompey, Caesar đến ở Hispania và nói: “Ta đến đây trước là để đánh với một quân đội không người lãnh đạo, sau là đánh một lãnh đạo không có quân đội”. Để Marcus Aemilius Lepidus giữ La Mã, Mark Antony quản lý Ý, Caesar tiến hành một cuộc hành quân 27 ngày nổi tiếng tại Hispania nơi ông tiêu diệt đội quân chủ lực của Pompey. Sau đó, Caesar đông tiến, tấn công Pompey ở Hy Lạp nơi mà vào ngày 10 tháng 7 năm 48 TCN, Caesar đã khôn khéo tránh được thất bại và giành phần thắng về mình. Tuy lực lượng của Pompey mạnh hơn lực lượng của ông về mọi mặt (gần gấp ba lần số bộ binh và nhiều hơn đáng kể số kỵ binh), Caesar vẫn giành được chiến thắng quyết định qua một trận đánh rất ngắn ở Pharsalus năm 48 TCN. Lợi thế nghiêng về ông do rất ít Nghị sĩ phe Pompey còn sống sót sau trận chiến quyết định này.[42]
Ở La Mã, Caesar nắm quyền lực tuyệt đối và được cử làm Thống lĩnh Tối cao (có quyền lực như một Nhà Độc tài), Mark Antony làm Đại Tư Mã Quan cho ông; Caesar chấp nhận bỏ quyền hành độc tài của mình sau bảy ngày và trúng cử nhiệm kỳ Chấp chính thứ hai cùng với Publius Servilius Vatia Isauricus. Ông tiếp tục truy kích Pompey đến Alexandria, nơi Pompey bị ám sát bởi một viên quan của Pharaoh Ptolemy XIII Theos Philopator đang trị vì. Caesar sau đó dính vào cuộc nội chiến giành quyền lực của nội bộ Alexandria giữa Ptolemy và Nữ hoàng Ai Cập Cleopatra VII – em gái, vợ và nữ hoàng cùng cai trị với vua Ptolemy XIII. Có lẽ vì vai trò của Ptolemy trong vụ mưu sát Pompey, Caesar đứng về phía Cleopatra, người ta kể lại rằng Caesar đã rơi nước mắt khi viên quan thị thần của Ptolemy dâng đầu của Pompey lên cho Caesar như là một món quà. Sau đó, Caesar tiêu diệt lực lượng của Ptolemy và đưa Cleopatra lên nắm quyền. Cleopatra sau đó đã sinh cho Caesar một đứa con (không được thừa nhận nhưng các sử gia đều chắc chắn đó là con trai duy nhất của Caesar) Ptolemy XV Caesar hay Caesarion (“Caesar nhỏ” hay “con của Caesar”). Sau đó Cleopatra có một lần cùng Caesar diễu hành vào La Mã.
Caesar và Cleopatra không bao giờ cưới nhau. Họ không thể làm như vậy vì luật của La Mã ràng buộc rằng chỉ có hai công dân La Mã mới được cưới nhau; trong khi Cleopatra là Nữ hoàng Ai Cập. Người ta tin rằng Caesar đã tiếp tục mối quan hệ với Cleopatra trong suốt cuộc hôn nhân cuối cùng của ông, cuộc hôn nhân này kéo dài 14 năm nhưng không có người con nào cả.
Sau khi trải qua những tháng đầu năm 47 TCN ở Ai Cập, Caesar đến Trung Đông, nơi ông tiêu diệt quân đội của vua Pharnaces II xứ Pontos trong trận Zela, buộc Pharnaces II phải bỏ chạy;[43] thắng lợi của ông nhanh chóng và trọn vẹn đến nỗi ông đã ghi lại nó trong chỉ ba chữ: “Veni, Vidi, Vici” (Đã đến, đã thấy, đã chinh phục). Ghi nhận này trở nên bất hủ trong nền lịch sử quân sự.[44] Sau đó Caesar đến Bắc Phi để giải quyết tàn quân của những người theo Pompey, ông nhanh chóng giành được thắng lợi ở Thapus trước lực lượng của Metellus Scipio (chết trận) và Cato Trẻ (tự sát). Nhưng con trai của Pompey, Gnaeus Pompeius và Sextus Pompeius; cùng với pháp quan, tướng cũ của Caesar Titus Labienus trốn đến Hispania. Caesar tiếp tục truy kích tàn quân chống đối còn lại và tiêu diệt họ ở Munda tháng 3 năm 45 TCN. Cùng thời gian này, Caesar được bầu làm Quan Chấp Chính nhiệm kỳ ba (năm 46 TCN với Marcus Aemilius Lepidus) và nhiệm kỳ bốn (năm 45, không có người đồng nhiệm).
Sau nội chiến
Caesar trở về Ý tháng 9 năm 45 TCN. Việc đầu tiên là Caesar viết di chúc, trong đó cháu trai của ông Gaius Octavianus là người thừa kế thứ nhất, sẽ kế thừa toàn bộ sự nghiệp (kể cả danh hiệu chức vị của Caesar) sau khi ông qua đời; nếu Octavianus chết trước Caesar, Marcus Junius Brutus sẽ là người thừa kế tiếp theo. Viện Nguyên lão bắt đầu tôn vinh Caesar. Mặc dù Caesar không thanh trừng các kẻ thù của ông mà lại tha thứ cho hầu như tất cả bọn họ, sự chống đối Caesar có vẻ như rất ít ỏi.
Những hoạt động thể thao và lễ hội lớn diễn ra vào ngày 21 tháng 4 hàng năm để vinh danh những thắng lợi của Caesar. Cùng với hoạt động đang diễn ra, Caesar được quyền mặc “Trang phục chiến thắng”, gồm một chiếc áo choàng tím và một vòng nguyệt quế vinh quang trong mọi hoạt động của ông. Một dinh thự lớn đã được dựng lên bằng chi phí của thành La Mã, được dành cho Caesar dùng riêng. Danh hiệu “Nhà độc tài” của ông được công nhận và được ông sử dụng cho tới lúc chết. Một bức tượng ngà voi của Caesar được khiêng đi trong mọi lễ lạc tôn giáo. Các hình ảnh của Caesar cho thấy vào lúc này ông chải mái tóc phủ ra trước để che đậy tình trạng hói.
Một bức tượng khác của Caesar được đặt ở đền thờ Quirinus với dòng đề tặng “Dâng lên vị thần không thể bị đánh bại”. Từ khi đền thờ Quirinus được xem như biểu tượng của người tìm ra và vị vua đầu tiên của thành La Mã, Romulus, sự kiện này chứng tỏ Caesar không chỉ có địa vị giống như một vị thần mà còn được so sánh công lao giống như vị vua đã xây dựng La Mã. Bức tượng thứ ba được đặt tại thủ dinh của La Mã cùng một hàng với bảy bức tượng vua La Mã và cùng với Lucius Junius Brutus, người đã đánh đuổi chế độ quân chủ ra khỏi La Mã. Và trong một hành động gây xôn xao nữa của Caesar, Caesar cho đúc tiền in hình ông. Đây là lần đầu tiên La Mã có đồng tiền kiểu này.
Khi Caesar quay trở lại La Mã vào tháng 10 năm 45 TCN, ông từ chức Chấp Chính (nhiệm kỳ mà ông làm Chấp chính một mình) đưa Quintus Fabius Maximus và Gaius Trebonius lên thay ông. Hành động này làm Viện Nguyên lão tức giận vì nó hoàn toàn không đếm xỉa đến quyền bầu cử của chế độ Cộng hòa, nó được thực hiện chỉ bằng ý của riêng Caesar. Sau đó, Caesar tổ chức lễ diễu hành chiến thắng lần thứ 14, Viện Nguyên lão vẫn tiếp tục cổ vũ. Một đền thờ tên là Libertas được xây dựng cho Caesar, và ông nhận được tước vị “Người Giải phóng”. Họ bầu chọn Caesar làm Chấp chính suốt đời, và cho pháp ông giữ tất cả tước vị ông muốn, kể cả tước vị dành riêng cho người bình dân. Từ đây Caesar nắm quyền lực tuyệt đối cả về chính trị lẫn quân sự.
Ngoài ra, Caesar còn được quyền chỉ định quan tòa địa phương, mà trước đây thường là phải bầu cử. Mặc khác, ông còn quy định trách nhiệm các vị quan chức, chỉ định các chức vị ở các ngành ở các địa phương; điều mà trước đây phải được bốc thăm dưới sự phê duyệt của Viện Nguyên Lão. Tháng sinh của Caesar, Quintilis, được đổi tên thành Julius; ngày sinh của ông 12 tháng 7 trở thành quốc lễ của La Mã. Một đền thờ và một nhóm thầy tế tên là Flamen Maior, được thành lập để vinh danh gia tộc của Caesar.
Tuy nhiên, Caesar đã tiến hành một tiến trình cải cách để dẹp trừ tệ nạn xã hội. Ông thông qua một bộ luật cấm công dân La Mã từ 20 đến 40 tuổi rời Ý quá ba năm, trừ khi đang ở trong quân đội. Về lý thuyết, điều luật này của ông có thể giúp phát triển nông nghiệp và thương mại và ngăn chặn sự tha hóa ở bên ngoài. Nến một người thuộc giai cấp trên làm hại hoặc giết một người thuộc giai cấp thấp hơn, anh ta sẽ bị tịch thu toàn bộ tài sản. Caesar đã chứng tỏ rằng từ trong tâm ông vẫn quan tâm đến lợi ích cao nhất của quốc gia, ngay cả khi ông tin rằng mình là người duy nhất có khả năng điều hành nhà nước. Việc xóa 1/4 các khoản nợ chưa thanh toán, đã làm cho ông càng được dân chúng quý mến. Caesar điều tiết chặt chẽ việc mua lương thực có trợ giá của chính phủ. Ông nghiêm cấm cách trường hợp đủ khả năng nhưng lại muốn tiếp cận nguồn lương thực được trợ giá này. Ông đã lập kế hoạch phân chia đất đai cho các cựu binh của mình, và kế hoạch thiết lập các thuộc địa trên khắp thế giới La Mã.
Một trong những cải cách có ảnh hưởng lâu dài và sâu rộng nhất của Caesar là cải cách về Lịch Julius: ông quy định một năm có 365 ngày và cứ 4 năm lại có một năm nhuận 366 ngày (bộ lịch này chỉ được sửa đôi chút bởi Giáo hoàng Gregory XIII rồi trở thành bộ lịch được dùng tới bây giờ). Để thực hiện cải cách này, có một năm (rất có thể tương ứng với năm 46 TCN) đã được kéo dài 445 ngày.
Ngoài ra, các công trình công cộng lớn đã được tiến hành. Caesarcho tu sửa lại La Mã – vốn đang là một đô thị ngổn ngang với các kiến trúc bằng gạch không mấy ấn tượng, thành phố đang rất cần được đổi mới. Bục diễn đàn bằng đá hoa cương đã được xây mới cùng với các tòa án và các khu chợ. Một thư viện công cộng dưới sự quản lý của Học giả vĩ đại Marcus Terentius Varro cũng đang được thi công. Tòa nhà của Viện Nguyên lão, Curia Hostilia, tuy vừa mới được sửa chữa, được bỏ để xây một tòa nhà mới tên là Curia Julia. Quảng trường Caesar cùng với đền thờ Venus được xây dựng. Thành phố Pomerium được mỏ rộng để cho phép sự phát triển dân số.
Tất cả những sự phô trương, hoàn cảnh, và tiền thuế bị tiêu xài quá mức đã làm một số thành viên của Viện Nguyên lão tức giận. Một trong những người này là người bạn thân thiết của Caesar, Marcus Junius Brutus.
Âm mưu ám sát Caesar
Ông đã được Viện Nguyên Lão La Mã tôn vinh là Imperus Maximus Dalte Sum Romana (vị thống soái cao nhất của La Mã). Danh hiệu này khẳng định rằng ông la Praetori et Romanus, nghĩa là “Người bảo trợ cao nhất của La Mã” (sau này danh hiệu này được truyền cho Augustus).
Sử gia Plutarch ghi nhận rằng có một thời điểm, Caesar đã nói với Viện Nguyên Lão rằng các vinh dự của ông cần được giảm bớt thay vì tăng lên, nhưng rồi đã rút lại quan điểm này để không trở nên có vẻ vô ơn. Ông được phong tặng tước vị Pater Patriae (người cha của đất nước). Ông được cử làm Thống lãnh Tối cao lần thứ ba; và được đề cử chức vị này trong liên tiếp chín nhiệm một năm, tổng cộng ông giữ chức này trong mười năm. Ông còn được giao quyền kiểm duyệt với vai trò người có đạo đức hoàn hảo (praefectus morum) trong ba năm.
Vào đầu năm 44 TCN, khi mà danh tiếng của Caesar không ngừng tăng và hố ngăn cách giữa ông và giới quý tộc ngày càng sâu, ông được nhận tước vị Dictator Perpetuus, đảm bảo vị trí độc thống lãnh tối cao cho tới khi chết. Danh hiệu này bắt đầu xuất hiện trên các đồng tiền, đặt Caesar lên trên tất cả. Vài người bắt đầu gọi Caesar là Rex (vua) nhưng Caesar từ chối tiếp nhận danh hiệu “Rem Publicam sum!” (Ta là nền cộng hòa!). Ở đền thờ mới của Venus, khi một phái đoàn Nguyên lão đến, Caesar từ chối đứng lên chào mừng họ. Mặc dù người ta tin rằng khi đó Caesar đang bị tiêu chảy (một triệu chứng của bệnh động kinh của ông), các Nguyên lão cảm thấy bị sỉ nhục ghê gớm. Thấy sai lầm của mình, Caesar tìm cách xoa dịu các Nguyên lão bằng cách chìa cổ cho những người bạn của ông và đề nghị nếu ai cần thì cứ chặt nó đi. Nhưng mọi chuyện xem rằng đã quá muộn, các âm mưu ám sát ông bắt đầu.
Brutus bắt đầu mưu tính chống đối Caesar cùng với những người bạn của ông ta, anh rể của ông là Gaius Cassius Longinus và vài người khác nữa, họ tự gọi mình là những “người giải phóng” (Liberatores). Hai ngày trước vụ mưu sát, Cassius Longinus cùng với những người đồng mưu cùng nói nếu ai để lộ âm mưu người đó sẽ tự sát.
Vào ngày 15 tháng 3 (Idus Martiae) năm 44 TCN một nhóm các Nguyên lão gọi Caesar đến để đọc đơn thỉnh cầu cầu ông giao trả quyền lực cho Viện Nguyên Lão. Lá đơn này là giả mạo; Mark Antony cảm thấy nghi ngờ một kẻ trong nhóm Liberatores tên là Servilius Casca, và cảm thấy lo lắng tột độ khi nghe tin Caesar đi lại không vệ sĩ như mọi khi, đến gặp một nhóm các nguyên lão; ông vội vàng đi chặn Caesar lại. Nhưng đã quá muộn, khi đi qua Nhà hát Pompey Caesar bị một nhóm các Nguyên lão chặn lại và dẫn ông vào một căn phòng ở cửa Đông.
Khi Caesar đang đọc lá đơn giả mạo, Servilius Casca (đã nói ở trên) tiến lại giật áo choàng của Caesar và sượt tay qua cổ ông. Caesar quay lại và nắm lấy cằm của Casca la to bằng tiếng Latin: “Tên khốn Casca, ngươi đang làm gì đó?” Casca hoảng sợ, kêu những Nguyên lão đồng mưu bằng tiếng Hy Lạp: “Anh em làm ơn giúp đỡ!” (αδελφοι βοήθει!, adelphoi boethei!). Ngay lập tức, toàn bộ nhóm nguyên lão, kể cả Brutus, xông lên tấn công Caesar. Caesar tìm cách thoát thân, nhưng mờ mắt vì máu và vì cái áo choàng quá dài Caesar vấp ngã. Rốt cục những kẻ ám sát chỉ giết được ông khi ông ngã xuống và không thể chống cự trên bậc thềm của cánh cổng. Theo Eutropous, có hơn 60 người tham gia vào âm mưu giết ông và Caesar đã bị đâm tổng cộng 23 nhát.[45]
Điều cuối cùng Caesar nói là gì? Điều này còn đang được tranh cãi. Trong tác phẩm Julius Caesar, William Shakespeare viết rằng câu cuối cùng Caesar nói là: Et tu, Brute? (“Kể cả anh sao, Brutus?”). Nhưng đó là sáng tạo của Shakespeare. Nhà sử học La Mã Suetonius ghi lại rằng những lời cuối của Caesar bằng tiếng Hy Lạp là “καί σύ τέκνον”-“Kài sú, Teknon?” (“Cả con nữa à?”). Nhưng hầu hết người La Mã tin rằng ông đã nói câu cuối cùng bằng tiếng Latin: “Tu qouque, Brute, fili mihi?”-“Cả ngươi nữa sao, Brutus, con trai của ta?”.[46][47] Plutarch cho rằng ông không nói gì cả, chỉ kéo áo dài lên đầu khi nhìn thấy Brutus trong đám người ám sát.[48]
Sau cuộc ám sát, các nguyên lão ra khỏi tòa nhà và nói chuyện với nhau một cách đầy kích động. Brutus còn la to: “Nhân dân La Mã, một lần nữa chúng ta lại tự do!”. Nhưng mọi việc chưa dừng lại ở đó, cái chết của Caesar khởi đầu cho cuộc nội chiến mà trong đó Mark Antony, Octavian (sau là Caesar Augustus) và những người khác đánh nhau vì cả mục đích báo thù lẫn quyền lực.
La Mã sau khi Caesar bị ám sát
Cái chết của Caesar, mỉa mai thay, đã đánh dấu sự sụp đổ của Cộng hòa La Mã – cái mà vì muốn bảo vệ nên những người kia đã giết ông. Caesar đã luôn luôn được dân chúng La Mã thuộc các tầng lớp trung lưu và hạ lưu ngưỡng mộ. Họ đã nổi giận vì một nhóm nhỏ các quý tộc đã giết hại vị chủ soái vô địch của mình. Mark Antony đã kêu gọi đám đông báo thù. Antony đã dùng sự thương tiếc của đám đông để đe dọa tấn công trực tiếp vào phe quý tộc, và có lẽ còn muốn đoạt lấy La Mã về mình nữa. Nhưng Caesar đã chọn người thừa kế duy nhất là Octavianus, không chỉ đưa ông ta trở thành một trong những công dân giàu có nhất của La Mã, mà còn để lại cho ông ta cái tên Caesar đầy quyền lực. Không chỉ vậy, Octavianus – người con của Caesar vĩ đại – còn được thừa hưởng lòng trung thành của phần lớn nhân dân La Mã. Khi Caesar chết, Octavianus mới 19 tuổi nhưng đã tỏ ra là người khá nguy hiểm. Trong khi Antony đấu với Decimus Brutus trong vòng đâu tiên của các cuộc nội chiến mới, thì Octavianus củng cố vị trí của mình.
Để đấu với Brutus và Cassius đang tập trung quân ở Hy Lạp, Antony cần cả tiền từ các két sắt chiến tranh của Caesar lẫn tính hợp pháp mà cái tên của Caesar có thể mang lại trong các chiến dịch chống lại hai người kia; thế là Chế độ tam hùng mới được thành lập – chế độ thứ hai và cuối cùng – với các thành viên Antony, Octavianus và vị tướng kỵ binh trung thành của Caesar là Lepidus. Chế độ tam hùng thứ hai đặt Caesar lên vị trí thần thánh: Divus Iulius – và do thấy rằng lòng khoan dung của Caesar đã dẫn đến cái chết của ông, họ đã sử dụng lại hình thức Đặt ra ngoài vòng pháp luật (đã bị bãi bõ từ thời Sulla) để trừng phạt các kẻ thù trên diện rộng, nhằm mục đích tích lũy được nguồn tài chính dành cho cuộc nội chiến thứ hai chống lại Brutus và Cassius. Kết quả là phe Tam hùng đã đánh bại Brutus và Cassius tại Philipi. Sau khi thắng lợi Chế độ tam hùng thứ hai tan rã, một cuộc nội chiến khác bùng lên giữa phe Octavianus và phe Antony-Cleopatra với thắng lợi thuộc về Octavianus. Sau thắng lợi, Octavianus trở thành hoàng đế đầu tiên của La Mã dưới cái tên Caesar Augustus. Năm 42 TCN, Caesar được thánh hóa với tên Divus Iulius (Thần thiêng Julius), còn Augustus thì trở thành Divi filius (Con của một vị thần).
Sự nghiệp văn chương
Caesar rất thường viết các tác phẩm văn học quân sự. Ông xem nó như là một các để tăng sự ủng hộ của dân chúng thành La Mã dành cho ông. Và dường như cách nghĩ này của ông đã đúng. Danh tiếng lẫy lừng, nhờ đó Caesar thường không viết rõ những sai lầm mà ông gây ra trong cuộc chinh phạt man rợ Gaule. Dù là một thiên tài quân sự, như Caesar, cũng như nhiều danh tướng xuất sắc khác, luôn phải do dự trước vết nhơ của chiến tranh.[49]
Các tác phẩm quân sự sau là các tác phẩm còn lưu lại được của ông.
Hồi ký
- Commentarii de Bello Gallico (Hồi ký về cuộc chinh phạt xứ Gaule và Britania)
- Commentarii de Bello Civili (Hồi ký về cuộc nội chiến – kết thúc ở cái chết của Pompey)
Các tác phẩm sau đây được tin là của ông:
- De Bello Alexandrino (Chiến dịch Alexandria)
- De Bello Africo (Chiến dịch Bắc Phi)
- De Bello Hispaniensis (Chiến dịch ở bán đảo Iberian)
Sự nghiệp quân sự
Với sự nghiệp quân sự rất thành công của Julius Caesar, ông trở thành một trong những vị Đại Danh tướng (Great Captains) lịch sử, cùng với Alexandros Đại Đế, Hannibal, Gustav II Adolf, Karl XII, Friedrich II Đại Đế và Napoléon.[51][52] Mặc dù ông không bách chiến bách thắng, ông cũng đã từng thất bại lớn trong nhiều trận đánh, như trận Gergovia (trong cuộc chinh phạt xứ Gaule), Trận Dyrrhachium (trong cuộc Nội chiến), thế nhưng khả năng, mưu lược tài tình của ông vẫn ngời sáng qua sự xây đắp thành lũy bao vây ở Alesia trong cuộc chiến xứ Gaule, chiến thắng đội quân đông đảo hơn rất nhiều của Pompey ở Pharsalus, và sự tận diệt đội quân của vua Pharnaces xứ Pontos trong trận đánh tại Zela. Vua Friedrich II Đại Đế đam mê đọc những Hồi ký của Caesar[53] Hoàng đế Napoléon cũng đọc đi đọc lại những tác phẩm của vị kiệt tướng La Mã này.[54] Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Alexander Hamilton ca ngợi ông là “nhân vật kiệt xuất nhất xưa nay”.[55] Còn nhà lý luận quân sự Đức vĩ đại Karl von Clausewitz có viết:[56]
“ | Một cảm xúc mạnh mẽ phải kích thích tài năng của chỉ huy quân sự, có thể là tham vọng như đối với Caesar… | ” |
—Julius Caesar |
Một phần do ông đến với các vấn đề quân sự quá trễ trong đường đời, một phần do bản chất ông, ông không giỏi chiến lược và chiến thuật bằng hai danh tướng cổ đại Alexandros Đại Đế và Hannibal, nhưng ông cũng có đủ những tài năng khác của hai danh nhân này để trở thành một lãnh đạo quân sự vĩ đại. Không những thế, ông thậm chí còn hơn cả hai người này và có lẽ bất kỳ một vị tướng soái nào trong lịch sử trong việc truyền cảm ba quân xung phong một khi tình thế không có lợi.[57] Và ông cũng là vị Dại Danh tướng duy nhất tự dạy binh cách cho mình.[51] Ông có thể gặt hái chiến thắng dưới bất kỳ địa hình, thời tiết nào có thể phần lớn là nhờ vào tính kỷ luật cao của binh lính ông, khả năng điều khiển tuyệt vời, và sự trung thành của các chiến binh dành cho ông. Kỵ binh và bộ binh của ông là tinh nhuệ nhất (của Cộng hòa La Mã thời đó), và ông sử dụng rất nhiều các thiết bị chiến tranh của La Mã như máy bắn đá, máy bắn tên và nhiều mặt khác nữa, điều mà khiến cho lực lượng của ông trở nên cực kỳ thiện chiến, kỷ luật và di chuyển rất nhanh (một vài tài liệu chép rằng lực lượng của Caesar có thể di chuyển tới hơn 40 dặm trong vòng một ngày). Lực lượng của ông ước có khoảng hơn 4 vạm Bộ binh và rất nhiều Kỵ binh, cùng với một số đơn vị chuyên dụng khác như là các máy móc chiến tranh, phu phục vụ. Sự linh động của Caesar là một yếu tố quan trọng khiến cho tên tuổi của ông trở thành bất hủ, cũng giống như Alexandros Đại Đế và Friedrich II Đại Đế.[58] Caesar kể trong bản hối ký của ông rằng một số làng của người Gaule được xây dựng trên dốc thẳng đứng và rất vững chắc, sẽ thiệt hại rất lớn nếu muốn tấn công những khu làng kiểu này, nhưng các máy móc và kỹ sư của ông có thể đào qua các lớp đá cứng và tìm ra nguồn cung cấp nước cho các làng đó, và ông ngắt nó đi. Ngôi làng thiếu nước cung cấp, đầu hàng hầu như sau đó ngay lập tức.
“ | …Nếu kẻ thù của các Ngươi ngăn ngừa các Ngươi vượt sông, thì hãy làm theo Caesar… chọn một khoảng xa và dễ để lập kế hoạch vượt sông. | ” |
—Quân lệnh của vua Friedrich II Đại Đế cho các quan tướng của mình (1747)[59] |
Gia đình Caesar
Cha mẹ
- Cha: Lão Gaius Julius Caesar
- Mẹ: Aurelia Cotta
Chị em
- Julia Caesaris “Maior” (chị gái lớn)
- Julia Caesaris “Minor” (chị gái thứ hai) – bà ngoại của Augustus
Vợ
Caesar không cưới nhiều vợ một lúc, ông chỉ có một vợ vào một thời điểm, thứ tự này biểu thị thứ tự trước sau không phải thứ tự chánh lẽ:
- Đầu tiên là Cornelia Cinna nhỏ
- Thứ hai là Pompeia Sulla
- Thứ ba là Calpurnia Pisonis
Con
- Julia (với Cornelia Cinnilla)
- Có thể là Caesarion (với Cleopatra)
- Marcus Junius Brutus (có thể là con riêng của Caesar với Servilla Caepionis)
- Con nuôi Gaius Julius Caesar Octavianus (quan hệ chú cháu)
Cháu
- Cháu ngoại, con của Julia và Gnaeus Pompeius Magnus chết sau khi sinh ít lâu, không có tên.
- Julius Sabinus một người Gaule vùng Lingones, tuyên bố mình là cháu của Caesar do bà của anh ta là người tình của Caesar trong thời kỳ Chiến Tranh Gallic[60]
Tình nhân
Khác giới
- Cleopatra VII của Ai Cập
- Servilla Caepionis; mẹ của Brutus
- Eunoë, nữ hoàng của xứ Mauretania và vợ của Bogudes
Đồng giới (theo tin đồn)
- Nicomedes IV xứ Bithynia
- Octavian (theo lời buộc tội của Marcus Antony; nhưng lịch sử nói đây là một lời vu khống)
Xã hội La Mã không chú ý lắm đền vấn đề này. Thật vậy, họ không đếm xỉa tới vấn đề giới trong các quan hệ kiểu trên. Bên cạnh đó, từ có lời kể rằng một số người lính đã từng chế diễu Caesar bằng cách hát các câu có nội dung giống như sau:
Hoặc là:[61]
- Bây giờ Caesar làm lễ diễu binh chiến thắng, vì Ngài chinh phạt xứ Gaul. Nicomedes không thắng trận, dù Ngài chinh phạt Caesar.
Có tin đồn rằng Caesar và Nicomedes từng có mối quan hệ đồng giới khi ông mới bắt đầu sự nghiệp của mình. Theo Cicero, Bibulus, Gaius Memmius từng có một số chính khách tìm cách hạ nhục Caesar bằng cách lôi chuyện này ra. Đây có thể chỉ là những đòn tung hoả mù sau khi ông bị ám sát. Caesar, theo Cassius Dio, đã phủ nhận nó bằng cách tuyên thệ. Ông vốn nhạy cảm với những chuyện như thế, và thực chất ông là người mê gái.[62]
Danh hiệu của Caesar
- Divus – Thần linh (Sau khi chết)
- Pater Patriae – Quốc phụ (người cha của Tổ quốc)
- Pontifex Maximus – Đại giáo chủ
- Corona Civica — Civic Crown
Ngay tên của Caesar cũng là một danh hiệu mà nhiều vị Hoàng đế sau này thường dùng để làm niên hiệu (tiếng Đức: Kaisar; các tiếng gốc Slav: Tsar/Czar). Mãi đến sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất mới hết các Vương triều sử dụng tên ông làm Đế hiệu. Tên của ông khi ông còn sống, cũng chỉ thông thường như mọi tên khác, nhưng nó đã trở thành một Đế hiệu khi ông chết đi.
Những tác phẩm của Caesar
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Julius Caesar |
- Forum Romanum Index to Caesar’s works online in Latin and translation
- Collected works of Caesar in Latin, Italian and English
- Caesar and contemporaries on the civil wars
- omnia munda mundis Hypertext of Caesar’s De Bello Gallico
- Tác phẩm của Julius Caesar tại Dự án Gutenberg
Nguồn gốc bài viết
Chú thích
- ^ a ă Nic Fields, Peter Dennis, Julius Caesar, trang 4
- ^ Charles Freeman, J. F. Drinkwater, Andrew Drummond, The world of the Romans, trang 20
- ^ Suetonius, Lives of the Twelve Caesars: Julius 6; Velleius Paterculus, Roman History 2.41; Virgil, Aeneid
- ^ Pliny the Elder, Natural History 7.7. The misconception that Julius Caesar himself was born by Caesarian section dates back at least to the 10th century (Suda kappa 1199). However, he wasn’t the first to bear the name, and in his time the procedure was only performed on dead women, while Caesar’s mother, Aurelia, lived long after he was born
- ^ Suetonius, Julius 1; Plutarch, Caesar 1, Marius 6; Pliny the Elder, Natural History 7.54; Inscriptiones Italiae, 13.3.51-52
- ^ Suetonius, Julius 46
- ^ Suetonius, Lives of Eminent Grammarians 7
- ^ a ă Plutarch, Caesar 1; Suetonius, Julius 1
- ^ Appian, Civil Wars 1.34-75; Plutarch, Marius 32-46, Sulla 6-10; Velleius Paterculus, Roman History 2.15-20; Eutropius 5; Florus, Epitome of Roman History 2.6, 2.9
- ^ Suetonius, Julius 1; Pliny the Elder, Natural History 7.54
- ^ Velleius Paterculus, Roman History 2.22; Florus, Epitome of Roman History 2.9
- ^ Suetonius, Julius 1; Plutarch, Caesar 1; Velleius Paterculus, Roman History 2.41
- ^ Appian, Civil Wars 1.76-102; Plutarch, Sulla 24-33; Velleius Paterculus, Roman History 2.23-28; Eutropius, Abridgement of Roman History 5; Florus, Epitome of Roman History 2.9
- ^ William Smith, A Dictionary of Greek and Roman Antiquities: Flamen
- ^ Suetonius, Julius 2-3; Plutarch, Caesar 2-3; Cassius Dio, Roman History 43.20
- ^ Appian. Civil Wars 1.103
- ^ Suetonius, Julius 77.
- ^ Plutarch, Sulla 36-38
- ^ Suetonius, Julius 3; Appian, Civil Wars 1.107
- ^ Suetonius, Julius 55
- ^ Suetonius, Julius 4. Plutarch (Caesar 3-4) reports the same events but follows a different chonology.
- ^ Again, according to Suetonius’s chronology (Julius 4). Plutarch (Caesar 1.8-2) says this happened earlier, on his return from Nicomedes’s court. Velleius Paterculus (Roman History 2:41.3-42 says merely that it happened when he was a young man.
- ^ Plutarch, Caesar 1-2
- ^ Thorne, James (2003). Julius Caesar: Conqueror and Dictator. The Rosen Publishing Group. tr. 15.
- ^ Freeman, 39
- ^ Freeman, 40
- ^ Freeman, 51
- ^ Freeman, 52
- ^ Goldsworthy, 100
- ^ Adrian Keith Goldsworthy, Caesar: life of a colossus, trang 100
- ^ Miriam Tamara Griffin, A companion to Julius Caesar, trang 132
- ^ Philip Freeman, Julius Caesar, trang 54
- ^ Philip Freeman, Julius Caesar, trang 364
- ^ Cicero, For Gaius Rabirius; Cassius Dio, Roman History 26-28
- ^ Luciano Canfora, Julius Caesar: the life and times of the people’s dictator, các trang 17-18.
- ^ Plutarch, Julius 13; Suetonius, Julius 18.2
- ^ Plutarch, Caesar 13-14; Suetonius 19
- ^ Philip Freeman, Julius Caesar, trang 44
- ^ Cicero, Letters to Atticus 2.15, 2.16, 2.17, 2.18, 2.19, 2.20, 2.21; Velleius Paterculus, Roman History 44.4; Plutarch, Caesar 14, Pompey 47-48, Cato the Younger 32-33; Cassius Dio, Roman History 38.1-8
- ^ Cicero, Letters to Atticus 2.1, 2.3, 2.17; Velleius Paterculus, Roman History 2.44; Plutarch, Caesar 13-14, Pompey 47, Crassus 14; Suetonius, Julius 19.2; Cassius Dio, Roman History 37.54-58
- ^ a ă Adrian Goldsworthy, Caesar: Life of a Colossus, trang 376
- ^ Philip Freeman, Julius Caesar, trang 281
- ^ Philip Freeman, Julius Caesar, trang 329
- ^ Philip Freeman, Julius Caesar, trang 313
- ^ Woolf Greg (2006), Et Tu Brute? – The Murder of Caesar and Political Assassination, 199 pages – ISBN 1-86197-741-7
- ^ Suetonius, Julius 82.2
- ^ Suetonius, Life of the Caesars, Julius trans. J C Rolfe [1]
- ^ Plutarch, Caesar 66.9
- ^ Philip Freeman, Julius Caesar, trang 128
- ^ Lịch sử La Mã cỗ đại, NXB Văn Hóa, 2004, tr 60-65
- ^ a ă Theodore Ayrault Dodge, Great Captains, trang 73
- ^ Theodor Schieder, Sabina Berkeley, Hamish M. Scott, Frederick the Great, trang 218
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang XXXII
- ^ Thomas Raphael Phillips, Roots of strategy: the 5 greatest military classics of all time, trang 432
- ^ Philip Freeman, Julius Caesar, trang 409
- ^ Wilhelm Leeb (Ritter von), Hugo Freytag-Loringhoven (Freidherr von),Waldemar Erfurth, Roots of strategy: 3 military classics, Sách 3, trnag 198
- ^ Trevor Nevitt Dupuy, The military life of Julius Caesar, imperator Julius Caesar, trang XIV
- ^ Charles Jean Jacques Joseph Ardant du Picq, Carl von Clausewitz, Roots of strategy: 3 military classics, trang 351
- ^ Frederick II (King of Prussia), Frederick the Great: Instructions for his generals, trang 68
- ^ Tacitus, Histories 4.55
- ^ Adrian Goldsworthy, Caesar: Life of a Colossus, trang 461
- ^ Adrian Goldsworthy, Caesar: Life of a Colossus, trang 228
Các tác phẩm đã tham khảo
- Suetonius, Lives of the Twelve Caesars
- Velleius Paterculus, Roman History
- Virgil, Aeneid
- Pliny the Elder, Natural History The misconception that Julius Caesar, Historia Augusta: Life of Aelius
- Florus, Epitome of Roman History
- Appịan, Civil Wars
- Suetonius, Julius
- Suetonius, Caesar
- Suetonius, Augustus
- Plutarch, Sulla
- Plutarch, Caesar
Và một số nguồn khác.
Tư liệu lịch sử về Caesar
- Suetonius: The Life of Julius Caesar. (Tiếng Latin và tiếng Anh, song ngữ: bản dịch tiếng Anh bởi J. C. Rolfe.)
- Suetonius: The Life of Julius Caesar (J. C. bản dịch tiếng Anh, đã hiệu đính)
- Plutarch: The Life of Julius Caesar (bản dịch tiếng Anh)
- Plutarch: The Life of Mark Antony (bản dịch tiếng Anh)
- Plutarch on Antony (bản dịch tiếng Anh, Dryden hiệu đính).
- Cassius Dio, Books 37‑44 (bản dịch tiếng Anh)
- Appian, Book 13 (bản dịch tiếng Anh)
Nguồn thứ hai
- Julius Caesar Suzanne Cross’s site with in‑depth history of Caesar, plus a timeline and links.
- C. Julius Caesar Jona Lendering’s in‑depth history of Caesar (Livius. Org)
- Julius Caesar — virgil.org An Annotated Guide to Online Resources categorized into Primary Sources, Background & Images, Modern Essays & Historical Fiction.
- Julius Caesar, page with many links in several languages, including English
- History of Julius Caesar
- The Heart of Change: Julius Caesar and the End of the Roman Republic
Gần đây nhất
- Goldsworthy, Adrian. Caesar: Life of a Colossus. New Heaven, CT; London: Yale University Press, 2006 (hardcover, ISBN 0-300-12048-6).
- Meier, Christian. Caesar: A Biography. New York: Basic Books, 1996 (hardcover, ISBN 0-465-00894-1); 1997 (paperback, ISBN 0-465-00895-X).
Xem thêm
- Diễu binh chiến thắng (Trumph) của Caesar Tái hiện bởi đài truyền hình HBO -2005
- Vụ mưu sát Caesar Tái hiện bởi đài truyền hình HBO -2005
Tiểu sử 12 hoàng đế, hoặc De vita Caesarum của Suetonius |
---|
Julius Caesar • Augustus • Tiberius • Caligula • Claudius • Nero • Galba • Otho • Vitellius • Vespasian • Titus • Domitian |
|
- Thần thoại La Mã
- Sinh 100 TCN
- Mất 44 TCN
- Julius Caesar
- Tướng lĩnh La Mã
- Nguyên lão Cộng hòa La Mã
- Tổng tài Cộng hoà La Mã
- Người bị ám sát
- Tổng đốc La Mã ở Hispania
- Người Roma
- Người thuận tay trái
- Nhà Julia-Claudia
Trận Thượng Hải (1937)
|
|
Bài viết này có chứa các Chữ tiếng Trung. Nếu không được hỗ trợ hiển thị đúng, bạn có thể sẽ nhìn thấy các ký hiệu chấm hỏi, ô vuông, hoặc ký hiệu lạ khác thay vì chữ Trung Quốc. |
Trận Thượng Hải (ở Nhật gọi là Sự kiện Thượng Hải lần thứ 2 (tiếng Nhật: 第二次上海事變) trong khi ở Trung Quốc gọi là Chiến dịch 813 (tiếng Trung: 八一三戰役) hoặc Hội chiến Tùng Hộ (淞沪会战)) là trận đầu tiên trong 22 trận giao chiến lớn giữa quân đội Quốc dân Đảng Trung Quốc và quân đội Đế quốc Nhật Bản, kéo dài hơn 3 tháng, từ ngày 13 tháng 8 đến ngày 26 tháng 11 năm 1937. Đây là một trong những trận đánh lớn nhất và đẫm máu nhất trong Chiến tranh Trung-Nhật. Cả hai bên đã huy động tới 90 vạn quân tham chiến và số thương vong của cả hai bên lên đến 32 vạn người. Trong trận này, đầu tiên quân Trung Quốc tấn công các đơn vị hải quân Nhật đang đóng ở Thượng Hải. Tiếp theo, hải quân và lục quân Nhật kéo đến đánh trả và hai bên giằng co nhau từng góc phố. Cuối cùng, quân Trung Quốc phải rút lui khỏi Thượng Hải.
Mục lục
Nguyên nhân
Từ năm 1931, giữa Nhật Bản và Trung Quốc đã có nhiều cuộc giao tranh nhỏ mà hậu quả là Trung Quốc mất dần từng phần lãnh thổ. Tuy nhiên, cả hai phía đều không muốn chiến sự leo thang, nên những giao tranh trên thường kết thúc bằng các thỏa hiệp ngừng bắn. Đến tháng 8 năm 1937, sự kiện cầu Lư Câu xảy ra và Trung Quốc đánh mất quyền kiểm soát cây cầu quan trọng này trên đường dẫn tới Bắc Kinh. Ngay sau đó, Lục quân Nhật chiếm được Bắc Kinh và Thiên Tân. Đại nguyên soái Tưởng Giới Thạch cho rằng đây là một hành động cho thấy rõ ràng mưu toan xâm lược của Nhật Bản đối với các tỉnh phía Bắc Trung Quốc. Ông liền quyết định tiến hành chiến tranh tổng lực chống lại quân Nhật mặc dù không chính thức tuyên chiến.
Nguyên nhân quân sự
Tưởng Giới Thạch và bộ tham mưu của ông dự đoán rằng hành động logic tiếp theo của quân Nhật là sẽ từ phía Bắc tiến dọc các tuyến đường sắt Bắc Bình–Hán Khẩu và Bắc Bình–Phổ Khẩu tới miền Trung và Đông Trung Quốc. Phía Trung Quốc khó có thể ngăn chặn quân Nhật Nam tiến vì thực lực quân sự yếu hơn. Trong khi sức mạnh của Nhật ở Trung Quốc tập trung chủ yếu ở phương Bắc, thì sức mạnh của Trung Quốc lại tập trung chủ yếu ở phía Đông tại vùng châu thổ sông Dương Tử. Phía Trung Quốc lại kém cơ động. Đồng thời, khi di chuyển quân đội từ phía Đông lên phía Bắc, quân Nhật có thể thừa cơ từ Nhật sang đánh phía Đông. Vì thế, việc chuyển quân từ phía Đông lên phía Bắc chặn quân Nhật là điều không thể. Mặt khác, nếu quân Nhật Nam tiến và chiếm được Vũ Hán trong khi lực lượng của họ ở phía Đông vẫn còn, thì vùng Thượng Hải–Nam Kinh sẽ dễ bị quân Nhật hợp vây. Lúc đó, quân Trung Quốc chỉ còn đường chạy ra biển. Nhưng trên biển thì hải quân Nhật Bản có ưu thế áp đảo.
Tính toán như thế, phía Trung Quốc quyết định mở mặt trận thứ hai ở Thượng Hải nhằm kéo đối phương tới chiến trường phía Đông và Trung Trung Quốc. Như thế, Trung Quốc sẽ còn miền Tây Nam để rút lui phòng khi Thượng Hải, Nam Kinh và Vũ Hán thất thủ. Kế hoạch của phía Trung Quốc là kìm chân quân Nhật càng lâu càng tốt để có thời gian di chuyển các cơ sở công nghiệp vào sâu trong nội địa.
Tưởng và bộ tham mưu của ông còn tin rằng Trung Quốc sẽ có lợi thế kinh nghiệm bởi vì họ đã tham chiến trong sự kiện Thượng Hải ngày 28 tháng 1 năm 1932. Sau sự kiện này, tuy Trung Quốc phải rút lực lượng quân sự của mình khỏi Thượng Hải, song họ đã xây dựng một lực lượng cảnh sát vũ trang gọi là lực lượng bảo an được huấn luyện các kỹ năng chiến đấu trong điều kiện chiến tranh. Tướng Trương Trị Trung, một trong những người tâm phúc nhất của Tưởng Giới Thạch vốn là một chỉ huy của phía Trung Quốc trong sự kiện ngày 28 tháng 1, lại được giao xây dựng kế hoạch tấn công Thượng Hải. Tướng Trương cho rằng vì quân Trung Quốc yếu hơn về xe, pháo nên sẽ phải sử dụng ưu thế quân số, ra tay trước và đánh quân Nhật đồn trú ở Thượng Hải bật ra biển trước khi quân tăng viện của Nhật kịp tới.
Nguyên nhân chính trị
Công luận và lòng yêu nước dâng lên trong quần chúng là những nhân tố quan trọng thúc đẩy Tưởng Giới Thạch chiến tranh tổng lực. Suốt thập niên 1930, chính quyền Trung Quốc đã đánh mất lòng tin ở công chúng. Người ta cho rằng chính quyền đã ưu tiên việc dẹp quân cộng sản hơn là kháng chiến chống Nhật. Sau sự kiện Tây An và Quốc-Cộng hợp tác lần hai, Tưởng Giới Thạch lại được lòng công chúng và được xem là người duy nhất có thể lãnh đạo Trung Quốc chống lại quân Nhật.
Mặt khác, các tỉnh Giang Tô, Triết Giang là trung tâm kinh tế của vùng châu thổ sông Dương Tử. Nhiều cơ sở công nghiệp quan trọng đã hình thành ở đây trong Thập kỷ Nam Kinh. Khu vực này còn là nơi mà chính quyền trung ương Quốc dân Đảng vững chân nhất, chứ những nơi khác đều nằm trong tay các quân phiệt. Tưởng Giới Thạch thấy không thể để mất vùng này.
Lực lượng trước khi chiến sự nổ ra
Trung Quốc
Trong thành phố, phía Trung Quốc chính thức không có các đơn vị quân đội. Song lực lượng bảo an của Trung Quốc ở đây được huấn luyện không khác gì quân đội. Bên ngoài thành phố Thượng Hải, Trung Quốc có 6 sư đoàn và 1 lữ đoàn quân đội. Hơn một nửa số đơn vị quân đội này có cố vấn Đức giúp tái tổ chức. Tuy nhiên, quân Trung Quốc dù đông nhưng về mặc trang bị thì họ thua xa quân Nhật, thiết giáp thì họ chỉ có 12-16 chiếc ở Thượng Hải, không quân có 200 máy bay các loại do Liên Xô viện trợ, và Trung Quốc hoàn toàn không có hải quân, vì thế lúc trận đánh nổ ra họ chẳng có lấy một chiến hạm nào để đương đầu với quân Nhật.
Ngoài ra, trong vùng châu thổ sông Dương Tử, Trung Quốc còn có 3 quân khu, đó là quân khu Nam Kinh, Nam Kinh-Hàng Châu, và Nam Kinh-Thượng Hải. Từ năm 1934, Đức đã giúp Trung Quốc tổ chức lại 3 quân khu này và bố trí các tuyến phòng thủ sâu.
Nhật Bản
Quân Nhật đồn trú ở Thượng Hải là hạm đội 3 của hải quân. Ngoài khá nhiều tàu chiến, hạm đội này có 2 lữ đoàn bộ binh dự bị và 6 tiểu đoàn hải quân đánh bộ. Lục quân Nhật không muốn chia quân xuống miền Trung và Đông Trung Quốc phần vì sợ miền Bắc sẽ không có đủ quân phòng ngừa Liên Xô tấn công, phần vì sợ làm thế là ép Trung Quốc liên minh với các cường quốc phương Tây, phần vì cho rằng Tưởng Giới Thạch muốn dẹp quân Cộng sản hơn là mạo hiểm đối đầu với ưu thế quân sự của lục quân Nhật. Trong khi đó, hải quân Nhật lại cho rằng cần đưa quân Nhật tới miền Đông để tiêu diệt các đơn vị quân Trung Quốc từ đó tiến lên phía Bắc. Trong một cuộc họp của Nội các Nhật, tư lệch hải quân Nhật là Yonai Mitsumasa đòi mở mặt trận thứ hai ở Thượng Hải, nhưng các tướng lĩnh lục quân đã phản đối. Sau đó, quân đội Nhật nhất trí rằng Thượng Hải sẽ do hải quân Nhật phụ trách. Bắt đầu từ ngày 10 tháng 8 năm 1937, hải quân Nhật bắt đầu tăng cường vào Thượng Hải.
Ở Thượng Hải còn có nhiều nhà máy của Nhật. Chúng dễ dàng chuyển đổi để phục vụ quân sự. Hải quân Nhật có khoảng hơn 80 đồn bốt và công sự ở trong thành phố, bên trong người Nhật bố trí các khẩu pháo 105 và 150 mm, súng máy cỡ nòng 20 – 47 mm. Quân Nhật cũng biết cách lợi dụng những đống đổ nát trong thành phố, tạo ra nhiều phòng tuyến lý tưởng cho lực lượng đồn trú. Tàu chiến của hạm đội số 3 của hải quân Nhật thường xuyên tuần tiễu dòng sông chảy qua thành phố và pháo của hạm đội này có thể bắn tới khắp thành phố. Tóm lại, quân Nhật được trang bị tốt để có thể chống lại quân Trung Quốc mặc dù đông nhưng trang bị kém.
Diễn biến
Trận Thượng Hải trải qua 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1
Giai đoạn 1 từ ngày 13 đến ngày 22 tháng 8 năm 1937. Đây là giai đoạn quân Trung Quốc ồ ạt tấn công quân Nhật đang đồn trú ở Thượng Hải.
Lúc 9 giờ sáng ngày 13, lực lượng bảo an phía Trung Quốc bắt đầu đấu súng với quân Nhật trong thành phố. Đến 3 giờ chiều cùng ngày, quân Nhật bắt đầu vượt cầu Bát Tự tấn công các chốt của quân Trung Quốc ở trung tâm thành phố. Sư đoàn 88 của Trung Quốc bắt đầu sử dụng súng máy tấn công đối phương. Tàu chiến của hải quân Nhật trên sông Dương Tử và sông Hoàng Phố nã pháo vào thành phố Thượng Hải giáng trả.
Sáng ngày 14, quân Trung Quốc bắt đầu tấn công. Máy bay của Trung Quốc ném bom vào các vị trí của quân Nhật. Đến chiều, quân Trung Quốc bắt đầu tấn công ồ ạt. Cùng ngày, chính phủ Trung Quốc ra thông báo rằng cuộc chiến đấu của họ là cuộc kháng chiến tự vệ. Trận Thượng Hải chính thức bắt đầu. Quân Nhật cũng kêu máy bay từ Đài Loan tới ném bom Thượng Hải, gây ra cái chết cho hàng nghìn dân thường ở khu trung tâm thành phố. Tuy nhiên, 6 máy bay của quân Nhật đã bị không quân Trung Quốc bắn rơi. Sau này, chính quyền Trung Quốc lấy ngày 14 tháng 8 là ngày không quân Trung Quốc.
Trương Trị Trung đưa sư đoàn 88 tấn công trụ sở hải quân Nhật và sư đoàn 87 tấn công bộ chỉ huy quân Nhật ở Thượng Hải. Trương dự tính là sau 1 tuần sẽ đẩy quân Nhật xuống sông và khóa được bờ biển, buộc quân Nhật phải rút ra biển. Tuy nhiên, không như dự tính của Zhang, quân Nhật kháng cự rất hiệu quả sau các lô-cốt bê-tông dày với lựu pháo 150 mm. Trong khi đó, quân Trung Quốc chỉ có thể tiến lên với sự yểm trợ của súng máy và tấn công lô cốt Nhật bằng lựu đạn. Yếu tố bất ngờ vì thế không thể phát huy được. Zhang liền thay đổi chiến thuật, cho quân chiếm các đường phố xung quanh các đồn bốt của quân Nhật và dựng chiến lũy bằng bao cát để vây chặt quân Nhật rồi bắn phá. Chiến thuật mới đã có hiệu quả cho đến khi xe tăng của Nhật đến chiếm lại các đường phố. Đến ngày 18, quân Trung Quốc phải ngừng tấn công.
Phía Trung Quốc đưa thêm sư đoàn số 37 và xe tăng vào chiến đấu. Tuy nhiên, hợp đồng binh chủng giữa bộ binh và xe tăng của Trung Quốc không tốt, nên xe tăng đi nhanh không được bộ binh yểm trợ theo kịp đã bị tổn thất nặng bởi súng chống tăng của quân Nhật. Những nhóm quân Trung Quốc đi theo xe tăng vượt qua được phòng tuyến của quân Nhật bị quân Nhật bao vây trở lại, bị súng phun lửa và súng máy của Nhật tiêu diệt. Mặc dù gần đẩy được quân Nhật xuống sông Hoàng Phố, nhưng quân Trung Quốc bị thương vong rất nhiều. Riêng trong ngày 22, sư đoàn 37 mất tới hơn 90 sĩ quan và cả ngàn binh sĩ.
Ngày 15, quân Nhật tái thành lập Quân đoàn Phái khiển Thượng Hải gồm 3 sư đoàn lục quân 3, 8 và 11 do đại tướng lục quân Matsui Iwane chỉ huy và lập tức lên đường sang Trung Quốc. Ngày 19, Thủ tướng Nhật Konoe Fumimaro tuyên bố, rằng mâu thuẫn Nhật-Trung chỉ có thể giải quyết bằng chiến tranh. Ngày 22, Quân đoàn Phái khiển Thượng Hải bắt đầu đổ bộ lên bờ biển phía Đông Bắc, cách trung tâm thành phố chừng 59 km. Quân Trung Quốc buộc phải chuyển một bộ phận quân từ trung tâm thành phố ra bờ biển chặn địch. Điều này khiến sức tấn công của quân Trung Quốc ở trung tâm thành phố bị giảm đi một nửa.
Suốt giai đoạn 1, hai bên dùng máy bay tấn công nhau. Không quân Trung Quốc đã bắn rơi 85 máy bay và bắn chìm 51 tàu chiến của quân Nhật. Còn phía Nhật bắn rơi 91 máy bay, tức là một nửa số máy bay của Trung Quốc, đến giai đoạn 2 của cuộc chiến thì Trung Quốc gần như đã mất quyền làm chủ bầu trời và họ không thể sử dụng số máy bay ít ỏi còn lại để yểm trợ bộ binh hay tấn công quân Nhật, khiến cho thương vong của quân Trung Quốc ngày càng tăng cao đến nỗi họ không còn đủ sức giữ phòng tuyến nữa. Sang giai đoạn 2 Trung Quốc chỉ còn 109 máy bay so với 415 máy bay của Nhật, hơn nữa không quân Trung Quốc chẳng những thua kém về số lượng mà còn về chất lượng, khi đó quân Nhật lại sở hữu lực lượng không quân nhanh nhẹn và mạnh mẽ hơn cả Anh và Hoa Kỳ, giúp họ giành chiến thắng vang dội trong các trận đánh sau này ở khu vực Đông Nam Á và vành đai Thái Bình Dương.
Trước hiệu quả chiến đấu thấp và thương vong lớn, Tưởng Giới Thạch đã truất quyền chỉ huy của Trương Trị Trung, tự mình làm chỉ huy chiến trường.
Giai đoạn 2
Giai đoạn 2 của trận Thượng Hải là giai đoạn quân Trung Quốc cố gắng ngăn chặn tiếp viện của quân Nhật đổ bộ lên bờ biển phía Đông Bắc Thượng Hải và cố gắng kìm chân quân Nhật tại Thượng Hải. Giai đoạn này kéo dài từ ngày 23 tháng 8 đến ngày 26 tháng 10.
Ngày 23 tháng 8, Quân đoàn Phái khiển Thượng Hải của lục quân Nhật đổ bộ lên bờ biển phía Đông Bắc của Thượng Hải tại các thị trấn Lưu Hà, Ngô Tùng, và Quý Dương cảng. Nguyên soái Tưởng Giới Thạch đã dự đoán quân Nhật sẽ đổ bộ vào các thị trấn này, nên đã phái Trần Thành dẫn quân đoàn số 18 đến các nơi đó. Tuy nhiên, quân Nhật rất mạnh, họ thường khai hỏa dữ dội bằng đại bác và máy bay ném bom vào các chiến lũy của quân Trung Quốc trước khi đổ bộ. Quân Trung Quốc thì không ngừng củng cố đội hình sau mỗi trận bắn phá của quân Nhật để có thể ngăn chặn quân Nhật.
Suốt 2 tuần liên tục, hai bên giao chiến dữ dội tại các thị trấn và làng mạc dọc bờ biển. Quân Trung Quốc được vũ trang kém hơn, lại thiếu sự hỗ trợ của không quân, và gần như không có hải quân. Hơn nữa, công sự của Trung Quốc không đủ kiên cố vì nhiều chỗ chỉ mới được xây cấp tốc để ngăn chặn quân Nhật đổ bộ. Chúng không có hiệu quả cao trong việc bảo vệ chiến sĩ. Công tác hậu cần yếu khiến cho việc vận chuyển nguyên vật liệu tới xây dựng và sửa chữa những nơi bị hư hỏng do sự công phá liên tục của hỏa lực Nhật khó thực hiện. Nhiều khi, quân Trung Quốc phải lấy gạch của các nhà bị bom phá để đem xây dựng công sự. Vì thế, thương vong của phía Trung Quốc rất lớn. Có khi cả một lữ đoàn chỉ còn vài chiến sĩ sống sót. Tuy nhiên, quân Trung Quốc chiến đấu rất ngoan cường, thế trận thường thấy là quân Nhật chiếm được thị trấn và làng mạc vào ban ngày nhờ có hỏa lực mạnh yểm hộ, nhưng đến đêm thì quân Trung Quốc phản công tái chiếm lại.
Phòng tuyến của quân Trung Quốc chỉ thật sự bị chọc thủng khi thị trấn Bảo Sơn rơi vào tay quân Nhật ngày 11 tháng 9. Quân Trung Quốc phải rút về La Điếm phòng thủ. La Điếm là một trấn nhỏ, nhưng án ngữ con đường cao tốc nối Bảo Sơn với trung tâm Thượng Hải, Gia Định, Tùng Giang và một loạt thị trấn khác. Vì thế, an ninh của Tô Châu và Thượng Hải phụ thuộc rất nhiều vào việc La Điếm còn hay mất. Tướng người Đức làm tham mưu cho Tưởng Giới Thạch là Alexander von Falkenhausen đã đề nghị quân Trung Quốc phải giữ được La Điếm bằng mọi giá. Quân Trung Quốc bố trí khoảng 300 chiến sĩ phòng ngự ở đây. Quân Nhật thì có khoảng 100 quân nhưng có tàu chiến, xe tăng và máy bay hỗ trợ.
Quân Nhật đã áp dụng chiến thuật ném bom cường độ lớn, rồi thả khinh khí cầu để phát hiện các điểm có quân Trung Quốc ẩn náu mà kêu pháo bắn vào, sau đó bộ binh Nhật phun khói mù và nấp sau xe bọc thép tiến lên. Máy bay Nhật bay thấp để yểm trợ bộ binh và tấn công quân Trung Quốc.
Quân Trung Quốc chiến đấu rất ngoan cường. Họ bố trí ít quân ở tuyến trên để giảm thương vong trước hỏa lực của quân Nhật và tấn công vào sườn đội hình quân Nhật tiến công vào sau mỗi đợt bắn phá. Ban đêm, quân Trung Quốc gài mìn vào các con đường từ bờ biển dẫn tới La Điếm và tấn công các đơn vị tiền phương của quân Nhật. Dù vậy, quân Trung Quốc phải chịu thương vong lớn bởi hỏa lực bắn phá của quân Nhật. Quân đoàn của tướng Trần Thành bị thương vong tới một nửa. Đến cuối tháng 9, quân Trung Quốc không còn đủ sức ngăn địch và đành từ bỏ La Điếm.
Ngày 1 tháng 10, Thủ tướng Nhật Konoe quyết định đẩy mạnh chiến tranh ở cả mặt trận Bắc Trung Quốc lẫn mặt trận Nam Trung Quốc và tiến hành một chiến dịch tấn công trong tháng 10 nhằm kết thúc chiến tranh. Quân số của Nhật ở Thượng Hải đã tăng lên đến 20 vạn người. Ngoài La Điếm, quân Nhật còn chiếm được thị trấn Lưu Hành trên đường từ La Điếm về Thượng Hải, đẩy trận tuyến lùi xuống sát bờ sông Uẩn Tảo. Quân Nhật dự định sẽ vượt sông Uẩn Tảo để chiếm trấn Đại Trường.
Trấn Đại Trường nằm trên đường nối trung tâm thành phố Thượng Hải với các thị trấn ở phía Tây Bắc. Nếu Đại Trường bị chiếm, quân Trung Quốc ở trong thành phố và các thị trấn ở phía Tây Bắc sẽ bị chia cắt. Thượng Hải sẽ có nguy cơ bị bao vây. Vì thế, bảo vệ Đại Trường có ý nghĩa sống còn.
Quân Nhật vài lần chiếm được Đại Trường rồi lại bị quân Trung Quốc đánh bật ra. Đến ngày 17 tháng 10, Quân đoàn Quảng Tây do Lý Tống Nhân và Bạch Sùng Hy chỉ huy đã đến được Thượng Hải và hội quân với Quân đoàn Trung tâm của Tưởng Giới Thạch. Quân Trung Quốc liền quyết định tổ chức một cuộc phản công để củng cố vị trí của mình ở Đại Trường và tái chiếm bờ sông Uẩn Tảo. Song, quân Trung Quốc phối hợp kém và trang bị yếu, quân Nhật thì huy động tới 400 khẩu đại bác và 150 máy bay ném bom để tấn công Đại Trường, biến thị trấn thành đống vụn, trong trận đánh ngoài việc ném bom cường độ lớn thì quân Nhật còn sử dụng hơi độc, hơi gas làm chết ngạt hàng nghìn người, không những binh lính mà còn cả dân thường Trung Quốc. Cứ mỗi giờ lại có đến cả nghìn quân Trung Quốc bị thương vong. Có sư đoàn chỉ sau vài ngày đã không còn đủ quân để chiến đấu. Cuối cùng, ngày 25 tháng 10, Đại Trường hoàn toàn rơi vào tay quân Nhật. Quân Trung Quốc không còn cách nào khác ngoài việc rút khỏi thành phố Thượng Hải.
Giai đoạn 3
Giai đoạn 3 là giai đoạn quân Trung Quốc rút chạy khỏi Thượng Hải, còn quân Nhật truy kích.
Đêm ngày 26 tháng 10, Tưởng Giới Thạch ra lệnh cho quân Trung Quốc rút lui khỏi trung tâm Thượng Hải và các thị trấn Áp Bắc, Giang Loan. Sư đoàn 88 được lệnh chốt ở khu nhà kho Tứ Hành ở Áp Bắc phía Bắc bờ sông Ngô Tùng để kìm chân quân Nhật cho đại quân rút lui.
Khu nhà kho Tứ Hành nằm sát khu vực tô nhượng của nhiều nước phương Tây. Cuộc chiến đấu ở đây không chỉ ngăn chân quân Nhật mà còn để thu hút sự chú ý của các nước phương Tây trong khi hy vọng rằng các nước phương Tây sẽ có thể can thiệp theo Công ước Chín Nước. Lực lượng của sư đoàn số 88 quân Trung Quốc chiến đấu ở khu nhà kho Tứ Hành thực chất chỉ là tiểu đoàn 1 trung đoàn 524 của sư đoàn 88 chứ không phải cả sư đoàn. Biên chế chính thức của tiểu đoàn 1 có 800 chiến sĩ, nhưng trên thực tế chỉ còn khoảng hơn 400 sau những thương vong. Bên phía quân Nhật là sư đoàn 3 của Quân đoàn Phái khiển Thượng Hải. Sư đoàn này cũng bị thương vong khá nhiều, nhưng tổ chức của sư đoàn, đội ngũ sĩ quan và chỉ huy vẫn còn kiện toàn, lại có yểm trợ của không quân, hải quân và tăng thiết giáp.
Cuộc chiến đấu ở khu nhà kho Tứ Hành và bờ Nam sông Ngô Tùng diễn ra trong vòng 4 ngày. ngày 30 tháng 10, quân Nhật vượt được qua sông Ngô Tùng và tiến hành bao vây quân Trung Quốc.
Mặc dù đã rất cảnh giác đề phòng bị quân Nhật bao vây, nên Tưởng ra lệnh cho các đơn vị quân Trung Quốc phải tìm cách giữ thị trấn Kim Sơn Vệ ở phía Bắc vịnh Hàng Châu. Tuy nhiên, vì để mất Đại Trường, nên quân Trung Quốc không thể tăng cường cho Kim Sơn Vệ. Ngày 5 tháng 11, quân đoàn số 10 của Nhật Bản do Yanagawa Heisuke từ Thái Nguyên đến đã dễ dàng chiếm được Kim Sơn Vệ. Thị trấn này chỉ cách nơi quân Trung Quốc tập hợp lại sau khi rút khỏi Đại Trường chừng 40 km.
Tiếp sau Kim Sơn Vệ, quân Nhật lại chiếm được Côn Sơn. Quân Trung Quốc đã kiệt quệ và có nguy cơ mất phòng tuyến. Đến ngày 13 tháng 11, nhiều đơn vị quân Trung Quốc đã tan vỡ. Khi quân Trung Quốc rút về đến phòng tuyến Ngô Phúc (giữa Thượng Hải và Nam Kinh) thì họ phát hiện ra chính quyền và dân chúng địa phương ở đây đã trốn hết. Tinh thần quân Trung Quốc bị sa sút ghê gớm. Phòng tuyến Ngô Phúc được xây dựng tốn kém với sự giúp đỡ của Đức và được ví là phòng tuyến Hindenberg của Trung Quốc chỉ giữ được trong vòng 2 tuần. Trận Thượng Hải kết thúc với thắng lợi của quân Nhật nhưng với thương vong vô cùng nặng nề của cả 2 bên,trong đó có hàng trăm, hàng ngàn dân thường Trung Quốc chết do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Chú thích
- ^ Iris Chang The Chinese in America 2004 pp 216 ISBN 0-14-200417-0
- ^ “Why We Fight” series of videos released by the U.S. government for soldiers to watch
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Trận Thượng Hải (1937) |
- Nationalist China At War 1937-1945 published by the University of Michigan, Ann Arbor, in 1982.
- Doctoral dissertation on the Shanghai-Nanking Campaign from the National Taiwan University.
Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
- Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi
- Chào ngày mới 12 tháng 8
- Từ Mao Trạch Đông đến Tập Cận Bình
- Thơ hay về biển
- Chào ngày mới 11 tháng 8
- Chào ngày mới 10 tháng 8
- Chào ngày mới 9 tháng 8
- Đến với những bài thơ hay
- Ta về trời đất Hồng Lam
- Ong và Hoa
- Chào ngày mới 8 tháng 8
- Bài ca thời gian
- Chào ngày mới 7 tháng 8
- Chào ngày mới 6 tháng 8
- Di sản Engels
- Đợi Anh
- Chào ngày mới 5 tháng 8
- Chào ngày mới 4 tháng 8
- Chào ngày mới 3 tháng 8
- Khổng Tử dạy và học
- Tiếng Anh cho em
- Chào ngày mới 2 tháng 8
- Rằm Xuân Hà Nội
- Chào ngày mới 1 tháng 8
- Chào ngày mới 31 tháng 7
- Henry Ford và Thượng Đế
- Chào ngày mới 30 tháng 7
- Lê Phụng Hiểu truyện hay nhớ mãi
- Chào ngày mới 29 tháng 7
- Ông Hồ Sáu làm kinh tế giỏi
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 28 tháng 7
- Bài thơ không thể nào quên
- Chào ngày mới 27 tháng 7
- Nhớ bạn
- Chào ngày mới 26 tháng 7
- Gọi đôi
- Chào ngày mới 25 tháng 7
- Mảnh đạn trong người
- Chào ngày mới 24 tháng 7
- Năm tháng đó là em
- Chào ngày mới 23 tháng 7
- Chào ngày mới 22 tháng 7
- Thăm Borlaug và Hemingway ở CIANO
- Chào ngày mới 20 tháng 7
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 19 tháng 7
- Chào ngày mới 18 tháng 7
- Chào ngày mới 17 tháng 7
- Lớp học trên đồng ĐăkGlong Oxfam
- Chào ngày mới 16 tháng 7
- Từ Mekong nhớ Neva
- Chào ngày mới 15 tháng 7
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 14 tháng 7
- Chào ngày mới 13 tháng 7
- Mạc triều trong sử Việt
- Chào ngày mới 12 tháng 7
- Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời
- Giấc mơ tình yêu cuộc sống
- Chào ngày mới 11 tháng 7
- Khoảnh khắc tuyệt đẹp
- Tiếng Anh cho em
- Tháng Bảy mưa Ngâu
- Chào ngày mới 10 tháng 7
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 9 tháng 7
- Đợi mưa
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 8 tháng 7
- Chào ngày mới 7 tháng 7
- Chào ngày mới 6 tháng 7
- Dưới đáy đại dương là Ngọc
- Lộc xuân cuộc đời
- Chào ngày mới 5 tháng 7
- Ngày mới yêu thương
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 4 tháng 7
- Trần Thánh Tông
- Bà Đen
- Lộc xuân cuộc đời
- Đọc lại và suy ngẫm 2
- Chào ngày mới 2 tháng 7
- Tiếng Anh cho em
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 1 tháng 7
- Lời vàng của Anbe Anhstanh
Video nhạc tuyển
Khí công Y đạo: Bài học tốt tự chăm sóc sức khỏe
Ban Mai
MAR AKRAM – Dancing with the wind♥
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học CNM365 Tình yêu cuộc sống Cây Lương thực Dạy và Học Kim on LinkedIn KimYouTube Kim on Facebook
Pingback: Em ơi em can đảm bước chân lên | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Yên Phụ và Yên Tử | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Quang Dũng những bài thơ hay | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Nghị lực | Tình yêu cuộc sống
Pingback: CNM365 Chào ngày mới 365 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Vùng trời nhân văn | Tình yêu cuộc sống