CNM365. Chào ngày mới 25 tháng 8. Wikipedia Ngày này năm xưa. Quốc khánh Uruguay. Năm 1825 – Uruguay tuyên bố độc lập từ Brasil. Năm 1911 – ngày sinh Võ Nguyên Giáp, chính khách và danh tướng Việt Nam. Năm 1776 – ngày mất David Hume, triết gia, nhà kinh tế học và nhà sử học nổi tiếng người Scotland (sinh năm 1711). Năm 1883 – Chính phủ Pháp và triều Nguyễn ký kết Hòa ước Quý Mùi, xác lập quyền bảo hộ lâu dài của Pháp trên toàn bộ Việt Nam. Năm 1945 – Cách mạng tháng Tám: Bảo Đại đọc chiếu thoái vị tại Huế, kết thúc nhà Nguyễn.
25 tháng 8
Ngày 25 tháng 8 là ngày thứ 237 (238 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 128 ngày trong năm.
« Tháng 8 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | ||||||
2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 |
16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 |
23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 |
30 | 31 | |||||
Mục lục
Sự kiện
- 896 – Do Lý Mậu Trinh đem binh uy hiếp kinh sư Trường An, Đường Chiêu Tông chạy sang bờ bắc sông Vị, Lý Mậu Trinh sau đó tiến vào Trường An và cho đốt các cung điện cùng thị tứ.
- 1609 – Galileo Galilei trưng bày chiếc kính viễn vọng đầu tiên của mình trước những nhà lập pháp Venice.
- 1667 – Khang Hy Đế chính thức thân chính, song quyền lực thực tế vẫn do Ngao Bái khống chế.
- 1758 – Chiến tranh Bảy năm: Nhà vua nước Phổ Friedrich II Đại Đế chạm trán với quân Nga trong trận đánh khốc liệt tại Zorndorf.
- 1825 – Uruguay tuyên bố độc lập từ Brasil.
- 1883 – Hòa ước Quý Mùi, 1883, được ký ở kinh thành Huế giữa Pháp và triều đình nhà Nguyễn
- 1944 – Paris được quân Đồng Minh giải phóng khỏi quân Đức Quốc Xã
- 1945 – Cách mạng tháng Tám: thành công tại Sài Gòn, tại Huế Bảo Đại đọc chiếu thoái vị kết thúc nhà Nguyễn.
Sinh
- 1530 – Ivan IV, Nga hoàng (m. 1584)
- 1841 – Emil Theodor Kocher, nhà nghiên cứu Y khoa người Thụy Sĩ, được nhận giải Nobel (m. 1917)
- 1911 – Võ Nguyên Giáp, chính khách và danh tướng Việt Nam
- 1931 – Regis Philbin, nhà truyền thông truyền hình người Mỹ.
- 1947 – Nguyễn Trọng Tạo, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà báo, họa sĩ Việt Nam.
- 1961 – Billy Ray Cyrus, ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên, nhà sản xuất phim
- 1964 – Maxim Kontsevich, nhà toán học người Nga, Huy chương Fields 1998
- 1987 – Lưu Diệc Phi, nữ diễn viên người Hoa.
Mất
- 1776 – David Hume, triết gia, nhà kinh tế học và nhà sử học Scotland (s. 1711)
- 1822 – William Herschel, nhà thiên văn học Anh gốc Đức (s. 1738)
- 1867 – Michael Faraday, nhà vật lý và hóa học người Anh
- 1908 – Henri Becquerel, nhà vật lý người Pháp
- 1963 – Quách Thị Trang, một Phật tử, nữ sinh Sài Gòn, bị cảnh sát Việt Nam Cộng hòa bắn chết (s. 1948)
- 1969 – Harry Hammond Hess, nhà địa chất học đã đưa ra học thuyết tách giãn đáy đại dương (s. 1906)
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 25 tháng 8 |
Tham khảo
Uruguay
República Oriental del Uruguay Cộng hòa Đông Uruguay Oriental Republic of Uruguay |
|||||
---|---|---|---|---|---|
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Libertad o Muerte (tiếng Tây Ban Nha: “Tự do hoặc Chết”) |
|||||
Quốc ca | |||||
Orientales, la Patria o la tumba | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hoà dân chủ | ||||
Tổng thống • Phó tổng thống |
Tabaré Vázquez Raúl Sendic |
||||
Ngôn ngữ chính thức | tiếng Tây Ban Nha | ||||
Thủ đô | Montevideo |
||||
Thành phố lớn nhất | Montevideo | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 176.220 km² (hạng 90) | ||||
Diện tích nước | 1,5% % | ||||
Múi giờ | UTC-3; mùa hè: – (UTC-2) | ||||
Lịch sử | |||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2006) | 3.431.932 người (hạng 131) | ||||
Dân số (2002) | 3.399.237 người | ||||
Mật độ | 19 người/km² (hạng 156) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2005) | Tổng số: 54,58 tỷ đô la Mỹ | ||||
HDI (2003) | 0,840 cao (hạng 46) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Peso Uruguay (UYU ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .uy |
Uruguay (tiếng Tây Ban Nha: República Oriental del Uruguay) là một quốc gia tại Nam Mỹ. Nước này tiếp giáp với Brasil ở phía bắc, Argentina ở phía tây (qua sông Uruguay) và tây nam qua Río de la Plata, với Đại Tây Dương ở phía đông nam. Đây là quốc gia độc lập có diện tích nhỏ thứ hai ở Nam Mỹ sau Suriname.
Colonia del Sacramento, một trong số những khu định cư châu Âu lâu đời nhất ở Uruguay được thành lập bởi Bồ Đào Nha. Tây Ban Nha chiếm Montevideo vào đầu thế kỉ 18 và họ dựng lên thành phố ở đó. Uruguay nổi dậy dành độc lập vào những năm 1811–1828 từ ba nước Tây Ban Nha, Argentina, Brasil. Đó là một nền dân chủ lập hiến, nơi tổng thống giữ cả hai vai trò đứng đầu nhà nước và chính phủ.
Uruguay là một trong số những nền kinh tế phát triển ở Nam Mĩ, với GDP cao, đứng hàng thứ 50 về chất lượng sống tên thế giới. Nền kinh tế dựa vào nông nghiệp (chiếm 10% GDP và đứng thứ nhất về xuất khẩu).Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, Uruguay là nước ít tham nhũng nhất châu Mĩ Latin (cùng với Chile).[1]
Năm 2007, Uruguay là nước đầu tiên ở châu Mĩ Latin thực hiện kết hợp dân sự giữa những người đồng tính.
Mục lục
- 1 Từ nguyên
- 2 Lịch sử
- 2.1 Sự thực dân hóa
- 2.2 Đấu tranh giành độc lập khỏi Tây Ban Nha những năm 1811-1814
- 2.3 Liên bang Liga 1814-1820
- 2.4 Sự chiếm đóng của Brasil 1821 – 1830
- 2.5 “Guerra Grande” 1839–1852
- 2.6 Chiến tranh giữa liên minh Triple
- 2.7 Xã hội và sự phát triển kinh tế đến năm 1890
- 2.8 Thế kỉ 20
- 2.9 Kỉ nguyên hiện đại
- 3 Địa lí
- 4 Khí hậu
- 5 Tỉnh thành
- 6 Kinh tế
- 7 Nông nghiệp
- 8 Chính trị
- 9 Giao thông vận tải
- 10 Tôn giáo
- 11 Externi liên kết
- 12 Tham khảo
Từ nguyên
Từ tiếng Tây Ban Nha República Oriental del Uruguay dịch sang tiếng Việt là Cộng hoà Đông Uruguay. Đó là do nước này có vị trí địa lí ở phía đông sông Uruguay. Từ Uruguay trong tiếng Guaraní nghĩa là con sông nơi mà loài chim đang sống.
Lịch sử
Sự thực dân hóa
Người Tây Ban Nha khám phá ra Uruguay vào đầu thế kỷ 16 nhưng gặp phải sự kháng cự của thổ dân rồi lại bị người Bồ Đào Nha gây khó dễ khiến Uruguay trở thành chiến trường giữa hai đế quốc, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Trong những năm 1669 – 1671, Bồ Đào Nha lập đồn lũy ở Colonia del Sacramento hầu kiểm soát khu vực này. Trong khi đó Tây Ban Nha cũng tìm đưa dân đến lập nghiệp, chống lại dân Bồ Đào Nha từ Brasil lấn xuống.
Triều đình Tây Ban Nha cho thành lập Montevideo vào đầu thế kỷ 18 làm căn cứ quân sự rồi sau thị trấn này phát triển thành một hải cảng quan trọng cạnh tranh với Buenos Aires bên Argentina. Vào những năm 1806 – 1807, trong khi bên Âu châu Anh và Pháp lâm chiến thì ở Nam Mỹ cuộc chiến chống Napoleon cũng cuốn Anh, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha vào vòng binh lửa nhằm khống chế hai thị trấn chính là Montevideo và Buenos Aires. Quân Anh chiếm được Montevideo vào năm 1807 nhưng không bao lâu thì quân Tây Ban Nha tái chiếm được.
Đấu tranh giành độc lập khỏi Tây Ban Nha những năm 1811-1814
Năm 1811, José Gervasio Artigas, anh hùng dân tộc của Uruguay, đứng đầu một cuộc cách mạng chống lại Tây Ban Nha, đánh bại họ vào ngày 18 tháng 5 tại trận Las Piedras và ông tuyên bố thành lập liên bang Liga vào năm 1814.
Liên bang Liga 1814-1820
Từ năm 1815 – 1820, Uruguay là trung tâm chính trị của Liên bang Liga hay Liên bang của những người tự do. Tuy nhiên, sự tăng trưởng và uy tín của nó làm cho Đế quốc Bồ Đào Nha ở Brasil sợ hãi (vì chính thể cộng hòa của nó). Tháng 8 năm 1816, Bồ Đào Nha tấn công các tỉnh miền Đông (Uruguay) với ý định tiêu diệt nền cộng hòa ở đây. Nhờ ưu thế về quân sự, quân Bồ Đào Nha chiếm Montevideo vào ngày 20 tháng 1 năm 1817. Quân của Artigas rút về đấu tranh ở nông thôn đấu tranh trong ba năm tiếp theo. Cuối cùng, quân Bồ Đào Nha đánh bại Artigas trong trận Tacuarembó.
Sự chiếm đóng của Brasil 1821 – 1830
Năm 1821, các tỉnh miền Đông (Uruguay) bị sáp nhập vào Brasil (như là một phần của Vương quốc Bồ Đào Nha). Đế chế Brasil được độc lập từ 1822. Ba năm sau, ba mươi ba tỉnh do Juan Antonio Lavalleja đứng đầu tuyên bố độc lập ngày 25 tháng 8 năm 1825 dưới sự bảo trợ của Liên hiệp các tỉnh Rio de la Plata (nay là Argentina).
Điều này đã dẫn đến cuộc chiến tranh Brasil-Argentina kéo dài 500 ngày. Nhưng không bên nào đạt được thế thượng phong, do vậy, hai nước Brasil, Argentina kí kết Hiệp ước Montevideo theo đó công nhận nhà nước Uruguay độc lập. Hiến pháp đầu tiên được thông qua ngày 18 tháng 7 năm 1830.
“Guerra Grande” 1839–1852
Bài này là một bản dịch thô từ ngôn ngữ khác. Đây có thể là kết quả của máy tính hoặc của người chưa thông thạo cả ngôn ngữ. Xin hãy giúp tăng chất lượng bản dịch. |
Quang cảnh chính trị ở Uruguay đã trở thành phân chia giữa hai bên, các bảo thủ Blancos (“da trắng”) và các tự do Colorados (“Quỷ đỏ”). Các Colorados được dẫn đầu bởi Fructuoso Rivera và đại diện lợi ích kinh doanh của Montevideo; các Blancos đã được lãnh đạo bởi Manuel Oribe, người chăm sóc lợi ích của nông nghiệp nông thôn và thúc đẩy bảo hộ. Hai nhóm lấy tên của họ từ màu sắc của các băng tay mà họ mặc. Các bên Uruguay đã trở thành gắn liền với chiến tranh phe phái chính trị tại nước láng giềng Argentina. Các Colorados ủng hộ tự do lưu vong Argentina Unitarios, nhiều người đã lấy tị nạn tại Montevideo, trong khi tổng thống Blanco Manuel Oribe là một người bạn thân của người cai trị Argentina Manuel de Rosas. Oribe đã phía Rosas khi hải quân Pháp phong tỏa Buenos Aires năm 1838. Điều này dẫn các Colorados và Unitarios lưu vong để tìm kiếm sự ủng hộ của Pháp chống lại Oribe, và vào ngày ngày 15 Tháng Sáu 1838, một đội quân dẫn đầu là Rivera Colorado lãnh đạo lật đổ tổng thống, người đã bỏ chạy tới Argentina. Các Unitarians Argentina đã thành lập một chính phủ lưu vong tại Montevideo và, với sự khuyến khích Pháp bí mật, Rivera tuyên chiến Rosas năm 1839. Cuộc xung đột kéo mười ba năm và trở thành được gọi là “Grande Guerra” (“Đại chiến”). Trong năm 1840, một đội quân Unitarios lưu vong đã cố gắng xâm lược miền bắc Argentina từ Uruguay, nhưng họ đã thành công rất ít. Trong tháng 12 năm 1842, Tổng thống Joaquín Suárez chính thức bãi bỏ chế độ nô lệ. Hai tháng sau, một đội quân người Argentina đã trượt khỏi Uruguay thay mặt của Oribe. Họ tịch thu nhất của đất nước nhưng không có vốn. Các cuộc bao vây của Montevideo, bắt đầu từ tháng 2 năm 1843, sẽ chín cuối năm và chụp thế giới tưởng tượng của các. Alexandre Dumas so sánh nó với một mới Trojan War. Những người Uruguay bao vây kêu gọi người nước ngoài cư trú để được giúp đỡ và một quân đoàn Pháp và một người Ý đã được hình thành. thứ hai là do lưu vong Giuseppe Garibaldi, người đã làm việc như một giáo viên toán học tại Montevideo khi chiến tranh nổ ra.
Garibaldi cũng làm người đứng đầu của hải quân Uruguay. Ông đã tham gia vào nhiều hành động nổi tiếng trong chiến tranh, đặc biệt là trong trận San Antonio, trong đó dành cho ông một danh tiếng trên toàn thế giới như là một nhà lãnh đạo du kích dữ dội. Cuộc phong tỏa của Argentina với Montevideo không hiệu quả như Rosas thường cố gắng không can thiệp với vận chuyển quốc tế về mảng sông. Nhưng năm 1845, khi vào Paraguay đã bị chặn, Anh và Pháp liên minh chống lại Rosas, thu giữ hạm đội của mình và bắt đầu một cuộc phong tỏa của Buenos Aires, trong khi Brasil tham gia chống lại Argentina.
Rosas đạt thỏa thuận hòa bình với Anh và Pháp vào năm 1849 và 1850. Người Pháp đã đồng ý rút quân đoàn của mình nếu Rosas di tản quân đội Argentina từ Uruguay. Oribe vẫn duy trì một cuộc bao vây lỏng lẻo với thủ đô. Năm 1851, những người Argentina Caudillo Justo José de Urquiza quay lưng lại với Rosas và ký kết một hiệp ước với Unitarios lưu đày, các Colorados Uruguay và Brazil chống lại ông. Urquiza vượt qua thành Uruguay, đánh bại Oribe và dỡ bỏ cuộc bao vây với Montevideo. Ông sau đó đã lật đổ Rosas ở trận Caseros ngày 3 tháng hai năm 1852. Với thất bại này, Rosas sống lưu vong, Guarra Grande cuối cùng đã kết thúc.
Chiến tranh giữa liên minh Triple
Năm 1855, cuộc xung đột mới nổ ra giữa các bên. Nó đạt đỉnh cao trong thời gian chiến tranh của Liên minh Triple. Năm 1863, Colorado chung Venancio Flores tổ chức một cuộc nổi dậy vũ trang chống lại tổng thống Blanco, Bernardo Prudencio Berro. Flores đã giành sự ủng hộ từ Brasil và, thời gian này, Argentina đã cung cấp ông với quân đội và vũ khí, trong khi Berro thực hiện một liên minh với các nhà lãnh đạo Paraguay Francisco Solano López. Khi chính phủ của Berro bị lật đổ trong năm 1864 với sự giúp đỡ của Brazil, López sử dụng nó như là một lý do để tuyên chiến với Uruguay. Kết quả là cuộc chiến tranh của Liên minh Triple, một cuộc xung đột năm năm, trong đó Uruguay, quân đội Brasil và Argentina, Paraguay đã chiến đấu, và đó Flores cuối cùng thắng, nhưng chỉ ở mức giá của sự mất 95% quân của riêng mình. Flores đã không tận hưởng của mình chiến thắng Pyrrhic cho lâu dài. Năm 1868, ông bị giết trong cùng một ngày như là đối thủ của ông Berro.
Cả hai bên đã mệt mỏi của sự hỗn loạn này. Năm 1870, họ đã đi đến một thỏa thuận để xác định các lĩnh vực ảnh hưởng: các Colorados sẽ kiểm soát Montevideo và khu vực ven biển, các Blancos sẽ cai trị nội địa với bất động sản nông nghiệp của mình. Ngoài ra, Blancos đã được trả nửa triệu đô la để bồi thường cho họ mất cổ phần của họ ở Montevideo. Nhưng Caudillo tâm lý rất khó để xóa từ Uruguay và tiếp tục hoạt động chính trị mà đỉnh cao là cuộc cách mạng của Lances (Revolución de las Lanzas) (1870-1872), và sau này với các cuộc nổi dậy của Aparicio Saravia, người đã bị thương tại trận Masoller (1904).
Xã hội và sự phát triển kinh tế đến năm 1890
Sau khi kết thúc Guerra Grande có một sự gia tăng mạnh số lượng người nhập cư, nhiều nhất là từ Italy và Tây Ban Nha. Số lượng người nhập cư đã tăng từ 48% dân số trong 1860 lên 68% năm 1868. Trong thập niên 1870, một 100,000 người châu Âu tiếp tục đến, để đến năm 1879 khoảng 438.000 người đã sống ở Uruguay, một phần tư trong số họ trong Montevideo. Năm 1857, ngân hàng đầu tiên đã được mở cửa, ba năm sau đó, một hệ thống kênh đào đã được bắt đầu xây dựng, dòng điện tín đầu tiên được thành lập, và các liên kết đường sắt được xây dựng giữa các thành phố và nông thôn.
Nền kinh tế nhìn thấy sự tăng trưởng mạnh sau khi “Guerra Grande” kết thúc, trên tất cả trong chăn nuôi và xuất khẩu. Giữa năm 1860 và 1868, số lượng cừu tăng 3-17.000.000. Lý do cho sự gia tăng này nằm ở trên tất cả trong các phương pháp cải tiến chăn nuôi của những người nhập cư châu Âu.
Montevideo đã trở thành một trung tâm kinh tế lớn của khu vực. Nhờ bến cảng tự nhiên của nó, nó trở thành một nơi trung chuyển hàng hóa từ Argentina, Brasil và Paraguay. Các thị xã Paysandú và Salto, cả trên sông Uruguay, cũng có kinh nghiệm phát triển tương tự.
Thế kỉ 20
Uruguay phát triển tăng tốc trong phần sau của thế kỷ 19 cũng như số ngày càng tăng của người nhập cư thành lập doanh nghiệp và mua đất. Một phần thông qua nỗ lực của họ, cừu đã được giới thiệu để gặm cỏ cùng với gia súc, trang trại được rào, và những con bò và cừu được nhập khẩu để cải thiện chăn nuôi. Thu nhập từ len (mà đã trở thành việc xuất khẩu hàng đầu vào năm 1884), da, và thịt bò khô khuyến khích người Anh đầu tư xây dựng đường sắt và cũng đã giúp hiện đại hóa Montevideo, đáng chú ý trong các tiện ích công cộng và hệ thống giao thông vận tải, mà qua đó khuyến khích nhập cư bổ sung.
Năm 1876, các lực lượng vũ trang Uruguay đã qua của chính phủ, và hỗ trợ bởi thông tin liên lạc được cải thiện, bắt đầu thiết lập vững chắc hơn trong kiểm soát đất nước. Tuy nhiên, công cuộc hỗ trợ cho chế độ dần dần phai nhạt vì sự tàn bạo và tham nhũng của một số nhà lãnh đạo của nó, và một chính phủ dân sự Colorado trở lại cầm quyền vào năm 1890.
Blanco nhu cầu của một vai trò lớn hơn trong chính phủ leo thang thành cuộc Cách mạng năm 1897, do Aparicio Saravia, kết thúc khi tổng thống Colorado, Juan Idiarte Borda, đã bị giết bởi một sát thủ không liên kết với các Blancos. Mặc dù các cuộc xung đột giữa Colorados và Blancos vẫn tiếp tục cản trở sự phát triển kinh tế, theo dân số của Uruguay năm 1900 đã lên đến một triệu tăng 13 lần so với mức của năm 1830. Các nhà lãnh đạo Colorado José Batlle y Ordóñez được bầu làm tổng thống năm 1903. Năm sau các Blancos đã dẫn đầu một cuộc nổi dậy nông thôn, và tám tháng chiến đấu đẫm máu xảy ra sau đó trước khi Saravia bị giết chết trong trận chiến và lực lượng chính phủ đã nổi lên giành chiến thắng. Năm 1905 các Colorados thắng cuộc bầu cử lập pháp lần đầu tiên trong suốt phần lớn trong 30 năm qua, và sự ổn định trong nước cuối cùng đã đạt được.
Batlle, người đã trở thành một anh hùng Colorado, đã dùng sự ổn định của quốc gia và phát triển thịnh vượng kinh tế để viện cải cách lớn, bao gồm gia tăng sự can thiệp của nhà nước trong các vấn đề kinh tế. Chính quyền của ông đã giúp mở rộng chăn thả gia súc, giảm sự phụ thuộc của quốc gia nhập khẩu và vốn nước ngoài, cải thiện điều kiện lao động thông qua những cải cách sâu rộng đến xã hội, và mở rộng giáo dục. Ngoài ra Batlle bãi bỏ án tử hình, cho phép phụ nữ để tiến hành thủ tục ly dị, tăng cường các quyền của trẻ em sinh ra ngoài giá thú, và giảm các ảnh hưởng chính trị của Giáo hội Công giáo La Mã, phản ánh xu hướng phát triển theo hướng tự do hóa xã hội và thế tục tại Uruguay.
Batlle đã có hai nhiệm kỳ (1903-1907 và 1911-1915), trong đó để bắt đầu chính sách của ông, nhưng ông nhận ra rằng chương trình của mình có thể bị đảo ngược bởi một tổng thống trong tương lai hoặc độc tài, ông đã thúc đẩy một cuộc cải cách hiến pháp để kết thúc nhiệm kỳ tổng thống và thay thế bằng một số nhiều điều hành, các colegiado. kế hoạch táo bạo của Batlle chia Colorados và hồi sinh Blanco phe đối lập, và năm 1916 các colegiado bị đánh bại trong cuộc bầu cử đầu tiên của nước bằng cách bỏ phiếu kín. Batlle giữ lại một số lượng đáng kể uy tín và hỗ trợ, tuy nhiên, trong đó cho phép ông ta tấn công một thỏa hiệp là một phần giải cứu các colegiado, do đó, trong hiến pháp ban hành vào năm 1918, trách nhiệm điều hành được phân chia giữa tổng thống và một Hội đồng Hành chính Quốc gia.
Một chính quyền đồng thuận nổi lên với các chính sách đã được thận trọng hơn so với sáng tạo, ngoại trừ trong pháp luật về xã hội. mức sống cao hơn được hỗ trợ bởi một nền kinh tế nông trại đó đã ngừng phát triển, một tiến thoái lưỡng nan ẩn do giá xuất khẩu cao của cuối thập niên 1920. Năm 1930, Uruguay được chọn là nơi tổ chức đầu tiên của bóng đá World Cup. Mặc dù quy mô của giải nhỏ hơn rất nhiều so với các cuộc thi của ngày hôm nay, sự kiện cung cấp niềm tự hào quốc gia khi đội chủ nhà đã giành giải đấu trên nước láng giềng Argentina.
Trong cuối thập niên 1950, một phần vì làm giảm nhu cầu tại các thị trường thế giới cho các sản phẩm nông nghiệp, Uruguay đã bắt đầu gặp phải vấn đề kinh tế, bao gồm lạm phát, thất nghiệp hàng loạt, và dốc thả một trong mức sống cho người lao động Uruguay. Điều này dẫn đến tình trạng bất ổn quân sự cho sinh viên và lao động.
Năm 1950 cũng chứng kiến Uruguay giành chiến thắng thứ hai World Cup, đánh bại Brazil 2-1 trong trận chung kết của cuộc thi để có vị trí trong nhóm vô địch, một sự kiện được gọi là Maracanazo. Một phong trào du kích đô thị được gọi là Tupamaros hình thành trong đầu những năm 1960, lần đầu tiên tham gia vào các hoạt động phản đối Robin Hood loại, như cướp ngân hàng và phân phối tiền cho người nghèo, và cố gắng đối thoại chính trị. Theo chính quyền cấm hoạt động chính trị của họ và cảnh sát trở nên ngột ngạt, các Tupamaros đã lên công khai đấu tranh vũ trang, tham gia vào cuộc xung đột trực tiếp với cảnh sát và bắt cóc các quan chức tham nhũng và nhận thức kẻ thù. [11] Hoa Kỳ Văn phòng An Toàn Công Cộng (OPS) đã bắt đầu hoạt động tại Uruguay vào năm 1965. Văn phòng Mỹ An Toàn Công Cộng cảnh sát Uruguay đào tạo và thông minh trong lập chính sách và kỹ thuật interrogration.
Tổng thống Jorge Pacheco tuyên bố tình trạng khẩn cấp vào năm 1968, tiếp theo là tiếp tục đình chỉ quyền tự do dân sự vào năm 1972 bởi người kế nhiệm ông, Tổng thống Juan María Bordaberry, người mang trong quân đội để chống lại các du kích MLN, do Raúl Sendic. Sau khi đánh bại các Tupamaros, việc thu giữ quyền lực quân sự năm 1973. Một nhà nước quân luật được hiệu quả sử dụng để tiêu diệt các MLN (Phong trào giải phóng quốc gia). Thủ trưởng MLN đã bị cô lập trong nhà tù. Bordaberry cuối cùng đã được gỡ bỏ từ chủ tịch phụ trách “của mình” trong năm 1976. Ông là thành công đầu tiên của Alberto Demicheli. Sau đó một hội đồng quốc gia được lựa chọn bởi chính phủ quân sự được bầu Aparicio Méndez.
Năm 1980, lực lượng quân đội đề xuất một sự thay đổi trong hiến pháp sẽ được thông qua với một trưng cầu dân ý. Các “Không” cho những cải cách hiến pháp đã giành được bỏ phiếu với 57,2% số phiếu, hiển thị các unpopularity của chính phủ trên thực tế, mà sau này được tăng tốc bởi một cuộc khủng hoảng kinh tế. Năm 1981, Tổng Gregorio Álvarez nắm chức tổng thống.
Năm 1984, cuộc biểu tình lớn chống lại quyền quân sự nổ ra. Sau một cuộc tổng đình công 24 giờ, cuộc đàm phán đã bắt đầu và lực lượng vũ trang công bố một kế hoạch quay trở lại quy luật dân sự. cuộc bầu cử quốc gia đã được tổ chức vào năm 1984; Colorado Đảng lãnh đạo Julio María Sanguinetti thắng cử tổng thống và, sau khi tạm ngắn gọn của Tổng thống Rafael Addiego Bruno, phục vụ 1985-1990. Các Sanguinetti đầu tiên chính quyền triển khai thực hiện cải cách kinh tế và dân chủ hợp nhất các năm tiếp theo của đất nước dưới sự cai trị quân sự. Tuy nhiên, Sanguinetti không bao giờ ủng hộ những tuyên bố nhân quyền, và chính phủ của ông đã không truy tố các phiến quân, khủng bố, các nhà lãnh đạo quân sự hoặc những người đã bị buộc tội giết người và tra tấn. Thay vào đó, ông chọn cho một lựa chọn hòa bình hơn, ký kết một hiệp ước ân xá gọi là tiếng Tây Ban Nha “Ley de Amnistia”.
Kỉ nguyên hiện đại
Sanguinetti cải cách kinh tế, tập trung vào việc thu hút thương mại và vốn nước ngoài, đạt được một số thành công và ổn định nền kinh tế. Để thúc đẩy hòa giải dân tộc và tạo điều kiện cho sự trở lại của luật dân sự dân chủ, bảo đảm Sanguinetti phê duyệt công cộng bằng phổ thông đầu phiếu của một cuộc đại xá gây tranh cãi cho các nhà lãnh đạo quân sự bị cáo buộc vi phạm nhân quyền dưới chế độ quân sự và tăng tốc việc phát hành các cựu du kích.
Đảng Quốc gia của Luis Alberto Lacalle thắng cuộc bầu cử tổng thống năm 1989 và phục vụ 1990-1995. Tổng thống Lacalle thực hiện kết cấu chính và cải cách kinh tế theo đuổi tự do hóa hơn nữa các chế độ thương mại, bao gồm bao gồm nội dung của Uruguay trong Khối thị trường chung Nam Mỹ(MERCOSUR) trong năm 1991. Mặc dù tăng trưởng kinh tế trong nhiệm kỳ của Lacalle, điều chỉnh và nỗ lực tư nhân kích động chống đối chính trị, và một số cải cách đã được đảo ngược bằng cách trưng cầu dân ý.
Trong cuộc bầu cử năm 1994, cựu Tổng thống Sanguinetti giành một thuật ngữ mới, mà chạy từ năm 1995 đến tháng 3 năm 2000. Vì không có đảng duy nhất có đa số tại Đại hội, Đảng Quốc gia đã tham gia với Sanguinetti của Đảng Colorado trong một chính phủ liên minh. Chính phủ tiếp tục cải cách kinh tế Sanguinetti của Uruguay và hội nhập MERCOSUR. cải cách quan trọng khác là nhằm cải thiện hệ thống bầu cử, an sinh xã hội, giáo dục, và an toàn công cộng. Nền kinh tế tăng trưởng ổn định cho hầu hết các kỳ hạn của Sanguinetti cho đến khi giá cả hàng hóa thấp và khó khăn kinh tế tại các thị trường xuất khẩu chính của nó gây ra một cuộc suy thoái vào năm 1999, trong đó có tiếp tục vào năm 2002. Các cuộc bầu cử quốc gia năm 1999 đã được tổ chức theo một hệ thống bầu cử mới được thành lập theo một sửa đổi hiến pháp năm 1996. Bầu cử sơ bộ trong tháng tư đã quyết định ứng cử viên tổng thống duy nhất cho mỗi bên, và cuộc bầu cử quốc gia ngày 31 tháng 10 xác định đại diện trong cơ quan lập pháp. Vì không có ứng cử viên tổng thống đã nhận được một đa số trong cuộc bầu cử tháng mười, một dòng chảy đã được tổ chức trong tháng mười một. Trong dòng chảy này, ứng cử viên Đảng Colorado Jorge Batlle, hỗ trợ bởi sự hỗ trợ của Đảng Quốc gia, đánh bại Mặt trận Rộng ứng cử viên Tabare Vázquez.
Các Colorado và Quốc gia thành viên liên minh tiếp tục lập pháp của họ, không bên nào giành tự như nhiều chỗ ngồi là 40% của mỗi nhà giành chiến thắng liên minh Mặt trận rộng. Các liên minh chính thức kết thúc vào tháng mười một năm 2002, khi Bộ trưởng Blancos rút khỏi nội các, mặc dù Blancos tiếp tục hỗ trợ trên hầu hết các vấn đề Colorados.
Các năm nhiệm kỳ của Batlle được đánh dấu bởi tình trạng suy thoái kinh tế và sự không chắc chắn, đầu tiên với sự mất giá năm 1999 của Brazil thực sự, sau đó với các dịch lở mồm long móng (aftosa) trong thịt bò khu vực trọng điểm của Uruguay vào năm 2001, và cuối cùng với các chính trị và kinh tế sụp đổ của Argentina. Thất nghiệp tăng lên gần hai mươi phần trăm, tiền lương thực giảm, đồng peso đã mất giá và tỷ lệ đói nghèo của Uruguay đạt gần bốn mươi phần trăm. Những điều kiện kinh tế xấu đi góp phần vào chuyển ý kiến công chúng đối với thị trường tự do đã thông qua chính sách kinh tế của chính quyền và người tiền nhiệm của nó Batlle, dẫn đến từ chối phổ biến thông qua các đề xuất để tư nhân hoá của công ty dầu khí nhà nước trong năm 2003 và của công ty nhà nước trong nước năm 2004.
Năm 2004 Uruguayans được bầu làm tổng thống Tabaré Vázquez, trong khi cho Mặt trận Rộng (liên minh của chủ nghĩa xã hội, cộng sản, Tupamaros, cựu cộng sản và dân chủ xã hội) một đa số tại cả hai viện của Quốc hội. Chính phủ mới được bầu, trong khi cam kết tiếp tục thanh toán nợ nước ngoài của Uruguay, cũng đã hứa sẽ thực hiện một vụ tai nạn công ăn việc làm chương trình để tấn công những vấn đề phổ biến rộng rãi của nghèo đói và thất nghiệp. Trong thời chính quyền cựu Tổng thống Vazquez Juan Maria Bordaberry và Tổng Gregorio Alzarez sẽ được tống giam đối với vi phạm nhân quyền cam kết trong thập niên 1970 ‘. Điều tra bắt đầu sau khi xuất bản cuốn sách “Los Años Oscuros 1967-1987” của Northamerican sử Scott Myers.
Trong năm 2009 Mặt trận Rộng dành cho cuộc bầu cử lần thứ hai. Còn lại liên minh duy trì phần lớn trong cả hai ngôi nhà của Nghị viện và José Mujica nổi lên làm Tổng thống mới của Uruguay. Được gọi là “El Pepe”, (sinh ngày 20 tháng năm 1935) Mujica là một chính trị gia Uruguay và cựu du kích chiến đấu, một thành viên của Mặt trận Rộng (liên minh cánh tả) và Tổng thống Uruguay hiện hành. Ông đã sống khắc khổ trên một trang trại ở ngoại ô Montevideo, thủ đô của đất nước. Mujica đã được Bộ trưởng Bộ Chăn nuôi, Nông nghiệp, Thủy sản và 2005-2008 và một Thượng nghị sĩ sau đó. Ông đã giành được cuộc bầu cử tổng thống và nhậm chức làm Tổng thống vào ngày 01 tháng 3 năm 2010.
Địa lí
Lãnh thổ của Uruguay bao gồm 176.220 km 2 diện tích đất liền và 142.999 km 2 diện tích sông, biển, và các đảo có thẩm quyền tài phán. Uruguay là nước độc lập có diện tích nhỏ thứ hai ở Nam Mỹ sau Suriname. Địa hình chủ yếu là đồng bằng, đồi thấp. Điểm cao nhất ở trong nước là Cerro Catedral cao 514 m trong phạm vi đồi Sierra Carapé.
Khí hậu
Khí hậu của Uruguay là khí hậu ôn đới có đủ bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Nó nhận không khí địa cực vào mùa đông, không khí nhiệt đới từ Brasil vào mùa hè. Do vậy, nếu không có núi che chở như một rào cản thì thời tiết dễ bị thay đổi đột ngột.
Tỉnh thành
Uruguay bao gồm 19 sở. Các sở đầu tiên được thành lập từ năm 1816 và gần đây nhất Flores được thành lập vào năm 1885.
Sở | Diện tích (km2) | Dân số | Thủ phủ |
---|---|---|---|
– 1Artigas | 11,928 | 79,317 | Artigas |
– 2Canelones | 4,536 | 509,095 | Canelones |
– 3Cerro Largo | 13,648 | 89,383 | Melo |
– 4Colonia | 6,106 | 120,855 | Colonia del Sacramento |
– 5Durazno | 11,643 | 60,926 | Durazno |
– 6Flores | 5,144 | 25,609 | Trinidad |
– 7Florida | 10,417 | 69,968 | Florida |
– 8Lavalleja | 10,016 | 61,883 | Minas |
-9 Maldonado | 4,793 | 147,391 | Maldonado |
– 10Montevideo | 530 | 1,342,474 | Montevideo |
-11 Paysandú | 13,922 | 115,623 | Paysandú |
-12 Río Negro | 9,282 | 55,657 | Fray Bentos |
– 13Rivera | 9,370 | 109,267 | Rivera |
-14 Rocha | 10,551 | 70,614 | Rocha |
-15 Salto | 14,163 | 126,745 | Salto |
-16 San José | 4,992 | 107,644 | San José de Mayo |
-17 Soriano | 9,008 | 87,073 | Mercedes |
-18 Tacuarembó | 15,438 | 94,613 | Tacuarembó |
-19 Treinta y Tres | 9,676 | 49,769 | Treinta y Tres |
* 2007 |
Kinh tế
Uruguay là nền kinh tế chủ yếu dựa vào thương mại, đặc biệt là xuất khẩu nông sản, khiến cho trong nước dễ bị biến động giá cả hàng hóa.
Chăn nuôi bò, cừu trở thành ngành kinh tế chủ yếu thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp chế biến để xuất khẩu (len, hàng dệt, thịt và ngành da thú). Ngành trồng trọt gồm có: ngũ cốc, mía, cây ăn quả.
Kinh tế gặp nhiều khó khăn do nợ nước ngoài chồng chất. Là nước thành viên của tổ chức Mercosur, Uruguay bị lấn át bởi hai nước láng giềng khổng lồ Brasil và Argentina. Thâm hụt cán cân mậu dịch gia tăng.
Mặc dù nông nghiệp chỉ chiếm 9% GDP, nhưng nông phẩm chiếm hơn 50% hàng xuất khẩu. Uruguay đứng đầu Mỹ Latinh và thứ 6 thế giới về xuất khẩu lúa gạo. Công nghiệp chủ yếu là chế biến nông sản (thịt, sản phẩm da thuộc, len…). Từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ 20, Uruguay theo mô hình kinh tế tự do mới, giảm được lạm phát và thâm hụt ngân sách, cân đối xuất nhập khẩu. Uruguay là một trong những nước có điều kiện và chính sách lao động tự do nhất ở châu Mỹ.
Từ năm 1999, kinh tế Uruguay suy thoái, một nguyên nhân lớn là do tác động của việc phá giá tiền tệ của Brasil làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá Uruguay và ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế Argentina. Tháng 6 năm 2002, chính phủ quyết định thả nổi đồng pê xô, đồng đô la Mỹ tăng giá 60% so với nội tệ, giúp cho hàng hoá xuất khẩu của Uruguay tăng sức cạnh tranh nhưng cũng gây ra đổ vỡ tín dụng, khủng hoảng hệ thống ngân hàng, làm giảm sức mua của người tiêu dùng và tăng lạm phát từ 4% (2001) lên tới 26% (2002).
Uruguay có môi trường đầu tư tốt, hệ thống pháp lý mạnh và thị trường tài chính mở cửa. Chiến lược của chính phủ hiện nay là kích thích tăng trưởng dựa trên việc đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước bạn hàng truyền thống trong khối Mercosur, EU và Bắc Mỹ. Với châu Á, Uruguay có quan hệ thương mại với Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia và Indonesia… Uruguay xuất hàng truyền thống như thịt bò, lúa gạo, len, cá, da thuộc và đồ da; nhập khẩu máy móc, hoá chất, nhiên liệu, hàng tiêu dùng, quần áo…
Nông nghiệp
Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của Uruguay. Hiện nay, nông nghiệp đóng góp 11% GDP của Uruguay và là nguồn thu ngoại hối chính, đưa Uruguay lên ngang tầm các nước có số lượng nông sản xuất khẩu khác như Brasil, Argentina, New Zealand.
Chính trị
Uruguay là một nền cộng hòa dân chủ. Tổng thống giữ cả hai vai trò đứng đầu nhà nước và chính phủ. Tổng thống giữ quyền hành pháp. Quốc hội, gòm thượng viện và hạ viện giữ quyền lập pháp. Bộ tư pháp nắm quyền tư pháp.
Đảng Colorado và các bên khác đã đấu tranh giành quyền lực trong suốt phần lớn lịch sử Uruguay. Tuy nhiên, vào cuộc bầu cử năm 2004, một mặt trận rộng đã được thành lập gồm liên minh của Tupamaros, cộng sản, Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo trong số những người được bầu vào quốc hội. Tabare Vazquez được bầu làm Tổng thống.
Hiến pháp đầu tiên của Uruguay được thông qua vào năm 1830, sau Hiệp ước Montevideo theo đó thành lập nhà nước Uruguay.
Uruguay là nước đứng thứ 25 trong Chỉ số nhận thức tham nhũng.
Hiến pháp Uruguay cho phép sử dụng trưng cầu dân ý để thay đổi luật pháp và hiến pháp.
Giao thông vận tải
Đường bộ
Đường quốc lộ kết nối Montevideo và các thành phố lớn khác trong nước. Đường cao tốc chính dẫn tới những vùng biên giới. Những con đường nhỏ khác không được trải nhựa nối các trang trại và thị trấn nhỏ. Đường sá phát triển mạnh sau khi Khối thị trường chung Nam Mỹ được thành lập vào những năm 1990. Hầu hết hàng hóa vận chuyển trong nước được chuyên chở bằng đường bộ chứ không phải đường sắt.
Đường sắt
Mạng lưới đường sắt hầu hết đều đã cũ (mua của Anh từ Chiến tranh thế giới thứ nhất) trừ một đường nhỏ chạy từ Montevideo đi San José, qua các thành phố Las Piedras và Canelones.
Đường thủy
Cảng biển chủ yếu ở Montevideo, Tàu thuyền di chuyển trong nội địa có các kích thước khác nhau, một dịch vụ tàu cánh ngầm kết nối Buenos Aires với Montevideo và Colonia del Sacramento qua Rio de Plata.
Hàng không
Một sân bay quốc tế nằm gần khu nghỉ mát bãi biển Carrasco một khoảng 21 km từ trung tâm thành phố Montevideo. Các hãng hàng không thuộc sở hữu của chính phủ, Primeras Líneas Uruguayas de Navegación Aérea (PLUNA), liên kết các điểm đến Montevideo với một số sân bay quốc tế.
Tôn giáo
Uruguay không có tôn giáo chính thức của nhà nước, nhà thờ và nhà nước được chính thức tách ra, và tự do tôn giáo được đảm bảo.[2] Một cuộc khảo sát năm 2008 của Viện Nacional de Estadística của Uruguay cho thấy Công giáo Rôma là tôn giáo chính, với 45,7% dân số tin theo, 9,0% là Kitô hữu khác ngoài Công giáo, 0,6% là Thuyết duy linh hoặc Umbandists (một tôn giáo bản địa), và 0,4% là người Do Thái giáo, 30,1% cho biết họ có tin tưởng vào một vị thần, nhưng không thuộc tôn giáo nào, trong khi 14% là người vô thần hoặc bất khả tri.[3]
Giới quan sát chính trị xem Uruguay quốc gia thế tục nhất ở châu Mỹ.[4] Uruguay thế tục hóa bắt đầu với vai trò tương đối nhỏ của nhà thờ trong thời kỳ thuộc địa, so với các bộ phận khác của đế quốc Tây Ban Nha. Sau khi độc lập, ý tưởng chống đối ảnh hưởng của tôn giáo đối với chính quyền lan rộng tới Uruguay, đặc biệt là từ Pháp, tiếp tục làm xói mòn ảnh hưởng của nhà thờ đối với chính phủ.[5] Năm 1837, hôn nhân dân sự đã được công nhận và năm 1861 nhà nước tiếp quản các hoạt động của các nghĩa trang nhân dân vốn do nhà thờ đảm trách. Trong năm 1907, ly hôn đã được hợp pháp hóa và năm 1909, tất cả các chương trình giáo dục giảng dạy tôn giáo đã bị cấm tại tất cả các trường công lập nhà nước. Dưới ảnh hưởng của các cải cách tự do, do nhà lãnh đạo Colorado José Batlle y Ordóñez (1903-1911) đề xướng, một bản Hiến pháp mới đã được ban hành năm 1997 đã tách hoàn toàn ảnh hưởng của nhà thờ đối với nhà nước.[6]
Theo khảo sát chính thức gần đây nhất khoảng 58,1% dân số Uruguay xác định mình là Kitô giáo (47% Công giáo La Mã, Tin Lành 11,1%), và khoảng 40,89% dân số không xưng tôn giáo (23,2% “tin vào Thiên Chúa nhưng không có tôn giáo”, 17,2% là người vô thần), 0,6% là tín đồ của các tôn giáo châu Phi khác, 0,5% là người Do Thái giáo, và 0,4% theo tôn giáo khác.[7]
Có khoảng 2,3 triệu người Công giáo Rôma trong cả nước. Có 9 giáo phận trực thuộc tổng giáo phận Montevideo; Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Uruguay hiện nay lag Tổng giám mục Nicolas Cotugno Fanizzi, người được bổ nhiệm vào tháng 12 năm 1998. Các vị thánh bảo trợ của Uruguay là Maria, hiện được tôn kính tại Vương Cung Thánh Đường Nhà thờ Florida.[8]
Hồi giáo ở Uruguay ước tính có từ 300 đến 400 người, đại diện cho 0,01 phần trăm dân số. Có hai trung tâm Hồi giáo, tại Montevideo.[9]
Hiện nay, có từ 20.000-25.000 người Do Thái giáo sống ở Uruguay, với 95% cư trú tại Montevideo. Có một cộng đồng nhỏ ở Paysandú. Khoảng 75% trong số đó là nhánh Do Thái giáo Ashkenazi và 11% thuộc nhánh Sephardi. Đến năm 2003, có 20 giáo đường Do Thái, nhưng chỉ có sáu trong số đó tổ chức các buổi lễ Shabbat hàng tuần.
Đức tin Bahá’í được truyền bá đến Uruguay bởi Abdu’l-Baha, một trong những người đứng đầu tôn giáo này trong năm 1916.[10] Hội đồng tin thần Bahá’í địa phương đầu tiên tại Montevideo được bầu vào năm 1942. Năm 1961, Hội đồng tinh thần Bahá’í Uruguay được thiết lập và tới năm 1963 đã có ba Hội đồng tinh thần Bahá’í địa phương. Năm 2001 có khoảng 4.000 tín đồ Baha’is tại Uruguay và đến năm 2005, đã tăng lên 7.300 người.[11]
Externi liên kết
|
Tham khảo
- ^ Transparency.org
- ^ Bureau of Western Hemisphere Affairs. “Background Note: Uruguay”. US Department of State. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2011.
- ^ http://www3.ine.gub.uy/anda4/ddibrowser/
- ^ “University of Minnesota, Morris”. Truy cập 10 tháng 2 năm 2015.
- ^ “The Uruguay Government is fascinating”. Truy cập 10 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Uruguay”. Truy cập 10 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Extended National Household Survey, 2006: Religion” (PDF) (in Spanish). National Institute of Statistics.
- ^ “Montevideo (Archdiocese) [Catholic”. Truy cập 10 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Uruguay”. Truy cập 10 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Bahá’í Reference Library”. Truy cập 10 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Uruguay”. Truy cập 10 tháng 2 năm 2015.
Võ Nguyên Giáp
Võ Nguyên Giáp (25 tháng 8 năm 1911 – 4 tháng 10 năm 2013), còn được gọi là tướng Giáp hoặc anh Văn, là một nhà chỉ huy quân sự và chính trị gia Việt Nam. Ông là Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam, cũng là người chỉ huy đầu tiên Quân đội Nhân dân Việt Nam, là một trong những người góp công thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được chính phủ Việt Nam đánh giá là “người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh“,[1][2] là chỉ huy chính trong các chiến dịch và chiến thắng chính trong Chiến tranh Đông Dương (1946–1954) đánh bại Thực dân Pháp, Chiến tranh Việt Nam (1960–1975) chống Mỹ, thống nhất đất nước và Chiến tranh biên giới Việt-Trung (1979)[cần dẫn nguồn] chống quân Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc.
Xuất thân là một giáo viên dạy sử, ông trở thành người được đánh giá là một trong những nhà lãnh đạo quân sự lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam.[3] Ông cũng được đánh giá là một trong những vị tướng tài giỏi trên thế giới.[4] Ông được nhiều tờ báo ca ngợi là anh hùng của nhân dân Việt Nam.[5][6][7][8]
Mục lục
- 1 Thân thế
- 2 Thời niên thiếu
- 3 Thời thanh niên
- 4 Bắt đầu sự nghiệp quân sự
- 5 Chiến tranh Đông Dương lần 1
- 6 Chiến tranh Đông Dương lần 2
- 7 Chiến tranh Đông Dương lần 3
- 8 Nghỉ hưu đến khi qua đời
- 9 Các giải thưởng và danh hiệu
- 10 Các bí danh và bút danh
- 11 Đánh giá
- 12 Các tác phẩm chính
- 13 Hồi ký tiếng Anh
- 14 Gia đình riêng
- 15 Câu nói nổi tiếng
- 16 Chú thích
- 17 Liên kết ngoài
Thân thế
Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/08/1911[9] ở làng An Xá,[10] xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho, con của ông Võ Quang Nghiêm (Võ Nguyên Thân), một nhà nho đức độ[11] và mẹ là bà Nguyễn Thị Kiên.[12]
Về họ ngoại, ông ngoại Võ Nguyên Giáp quê ở thôn Mỹ Đức xã Sơn Thủy[13] huyện Lệ Thủy, đầu nguồn sông Cẩm Ly, một vùng sơn cước, dưới dãy Trường Sơn; từng tham gia Phong trào Văn thân–Cần Vương,[14] làm đến chức Đề đốc coi đại đồn tiền vệ, sau bị quân Pháp bắt, tra tấn dã man, nhưng một mực trung thành, không một lời khai báo.
Về họ nội, Võ Nguyên Giáp sinh trưởng trong một dòng họ lớn, có tiếng tăm tại làng An Xá. Ông nội ông cũng từng tham gia phò tá vua Hàm Nghi trong Phong trào Cần Vương. Cha ông, Võ Quang Nghiêm, là một nho sinh thi cử bất thành về nhà làm hương sư và thầy thuốc Đông y trong làng. Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, cụ Võ Quang Nghiêm bị người Pháp bắt, đưa về giam ở Huế và mất trong tù (Sau này, con cháu đã tìm thấy và bốc mộ ông đưa về an táng tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Lệ Thủy.
Gia đình Võ Nguyên Giáp có 7 anh chị em, nhưng người anh cả và chị cả mất sớm nên còn lại năm, 3 người con gái và 2 người con trai là Võ Nguyên Giáp và Võ Thuần Nho, sau này là Thứ trưởng Bộ Giáo dục.[15]
Thời niên thiếu
Gia đình cụ Nghiêm thuộc diện nghèo trong làng, quanh năm phải vay nợ nặng lãi của các nhà giàu như nhà Khóa Uy, một Hoa kiều giàu có ở làng Tuy Lộc kề bên. Võ Nguyên Giáp đã có lần theo mẹ chèo thuyền chở thóc đi trả nợ. Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng những câu chuyện đêm đêm mẹ kể cho cậu nghe về tướng quân Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu và dân chúng đứng lên chống Pháp bảo vệ non sông, còn cha nói về phong trào đánh Pháp qua bài vè “Thất thủ kinh đô” đầy cảm động, đã gieo vào lòng cậu bé những ấn tượng không bao giờ phai mờ, góp phần nuôi dưỡng ý chí cho sự nghiệp cách mạng sau này.[16]
Cha ông là một nhà Nho nên dạy dỗ con cái rất nghiêm cẩn trong sinh hoạt gia đình và học hành, giữ gìn nề nếp gia phong của đạo Khổng. Ông khuyên dạy con: “Chữ Nho là chữ của Thánh hiền, là nho sinh, các con không được nghịch ngợm, dẫm đạp lên sách vở chữ Nho”. Ông dạy đám học trò cùng hai con ông: Tạm thiện tự, Ngũ thiên tự và cả Ấu học tân thư. Năm tháng học chữ Nho không nhiều nhưng những đạo lý học được trong các sách của Thánh hiền Nho gia, đặc biệt là Ấu học tân thư, đã trở thành nền tảng cơ bản có ảnh hưởng sâu sắc trong cả cuộc đời ông. Trong thế giới quan Nho giáo, cả 3 yếu tố: cá nhân, gia đình và dân tộc đều hòa quyện chặt chẽ với nhau. Qua sách Ấu học tân thư, cậu Giáp được biết tới nhiều tấm gương quên mình để bảo vệ Tổ quốc, hình thành trong cậu niềm tự hào về các chiến công của cha ông trong quá khứ. Những giá trị đạo đức, nề nếp gia phong của đạo Khổng thấm nhuần trong con người cậu: lối sống giản dị và đức hiếu học, sự kính trọng tổ tiên và ông bà cha mẹ, sự kính trên nhường dưới, đạo hiếu của con cái với cha mẹ, nghĩa vụ của con người với gia đình, xã hội và Trời Đất.[17]
Học xong lớp 3 cậu phải xuống thị xã Đồng Hới học tiếp, Đồng Hới thuộc tỉnh lỵ Quảng Bình, cách làng An Xá của cậu trên 20 cây số, nằm bên bờ Nhật Lệ trong xanh lung linh soi bóng Lũy thầy, với thành cổ bao quanh từ thời Gia Long năm thứ 10 (1812) và được xây lại bằng gạch năm Minh Mạng thứ năm (1824).
Những năm học ở thị xã Đồng Hới, cậu Giáp ở trọ nhà người quen của cụ Nghiêm. Cậu được gia chủ quý mến coi như con cháu trong nhà, không lấy tiền trọ, cậu được học với nhà sư phạm có tiếng, thầy giáo Đào Duy Anh. Hai năm học ở tiểu học Đồng Hới, hàng tháng cậu luôn đứng đầu lớp. Tại kỳ thi tốt nghiệp bậc sơ học, cậu đỗ đầu toàn tỉnh. Hồi đó, đạt được trình độ ấy là không dễ, vì thực dân Pháp hạn chế mở trường học và muốn duy trì nạn mù chữ để dễ cai trị.[18] Về làng cậu được dân làng nể trọng, gia đình rất tự hào về cậu.[19]
Năm 1925, Võ Nguyên Giáp rời trường Tiểu học Đồng Hới ở quê nhà Quảng Bình để vào Huế ôn thi vào trường Quốc học Huế (ông đỗ thứ hai sau Nguyễn Thúc Hào). Trong 2 năm học, ông luôn đứng đầu lớp trừ 1 tháng bị rớt xuống hạng nhì. Trong thời gian này, cậu Giáp có vài lần đến thăm nhà yêu nước Phan Bội Châu để nghe thuyết giảng về lý tưởng Cách mạng. Trên tường nhà Cụ Châu có treo những nhà tư tưởng nổi bật mà cụ tôn kính là Tôn Dật Tiên, Vladimir Ilyich Lenin và Đức Phật Thích Ca, điều đó khiến cậu càng say mê theo đuổi chân lý của lịch sử.[20]
Năm 1927, ông bị đuổi học cùng với Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều), Phan Bôi sau khi tổ chức một cuộc bãi khóa. Ông về quê và được Nguyễn Chí Diểu giới thiệu tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng, một đảng theo chủ nghĩa dân tộc nhưng có màu sắc cộng sản thành lập năm 1924 ở miền Trung Việt Nam. Nguyễn Chí Diểu cũng giới thiệu Võ Nguyên Giáp vào làm việc ở Huế, tại nhà xuất bản Quan hải tùng thư do Đào Duy Anh sáng lập và ở báo Tiếng dân của Huỳnh Thúc Kháng. Tại đây, Võ Nguyên Giáp bắt đầu học nghề làm báo, chuẩn bị cho giai đoạn hoạt động báo chí trong thời Mặt trận Bình dân Pháp.
Thời thanh niên
Tháng 4/1927 tại trường Quốc học Huế lại diễn ra một cuộc bãi khóa rầm rộ với quy mô lớn. Nguyễn Chí Diểu bị tên giám thị Pháp chú ý, coi là kẻ cầm đầu những cuộc đấu tranh bãi khóa ở trường, nên đuổi học. Võ Nguyên Giáp liền bàn với Nguyễn Khoa Văn tiếp tục tổ chức bãi khóa để phản đối việc Diểu bị đuổi học. Cuộc bãi khóa của học sinh Trường Quốc học Huế lan rộng ra khắp các trường ở Huế và phát triển thành cuộc tổng bãi khóa. Võ Nguyên Giáp bị bắt rồi bị đuổi học, phải trở về quê nhà. Bỗng nhiên một hôm Nguyễn Chí Diểu lặn lội từ Huế về làng An Xá tìm gặp Võ Nguyên Giáp. Diểu mang theo một tập tài liệu về “Liên đoàn các dân tộc bị áp bức trên thế giới” và một số văn kiện cuộc họp của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu, trong đó có 2 bài phát biểu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Anh Giáp đọc rất xúc động: “Bài luận văn của Nguyễn Ái Quốc đã gây cho chúng tôi một lòng căm phẫn sâu sắc như một luồng điện giật”. Đó là sợi dây đầu tiên nối liền số mệnh của cậu Giáp với Hồ Chí Minh và sự nghiệp Cách mạng Việt Nam.[21]
Mùa hè năm 1928, Võ Nguyên Giáp trở lại Huế, bước vào đời của một chiến sĩ cách mạng. Tại Huế, Nguyễn Chí Diểu giới thiệu anh Giáp đến làm việc ở Quan Hải Tùng thư, một nhà xuất bản do Tổng bộ Tân Việt chủ trương, trụ sở đặt ở phố Đông Sa. Sáng lập viên là Đào Duy Anh. Tại đây Võ Nguyên Giáp có điều kiện tiếp xúc với những học thuyết kinh tế, xã hội, dân tộc, cách mạng. Đặc biệt là cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria) do Nguyễn Ái Quốc viết từ Pháp gửi về.
Đầu tháng 10 năm 1930, trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp bị bắt và bị giam ở Nhà lao Thừa phủ (Huế), cùng với người yêu là Nguyễn Thị Quang Thái, em trai là Võ Thuần Nho và các giáo sư Đặng Thai Mai, Lê Viết Lượng… Sau này liệt sỹ Nguyễn Thị Quang Thái chính là người vợ đầu tiên của Đại tướng. Đại tướng có một con với bà là Võ Hồng Anh. Chị Thái hẹn, khi con cứng cáp sẽ đi thoát ly hoạt động. Nhưng cả hai không ngờ lần chia tay năm 1940 cũng là lần vĩnh biệt, chị Thái bị Pháp bắt giam và chết ngay trong ngục tù. Bà qua đời khi còn rất trẻ, nhiều người biết đến bà như một hình tượng người phụ nữ mẫu mực, kiên trung, yêu nước.[22][23]
Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế Đỏ của Pháp, Võ Nguyên Giáp được trả tự do nhưng lại bị Công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm không cho ở lại Huế. Ông ra Hà Nội, học trường Albert Sarraut và đỗ. Ông nhận bằng cử nhân luật năm 1937 (Licence en Droit). Do bận rộn hoạt động cách mạng, vào năm 1938, ông bỏ dở học chương trình năm thứ tư về Kinh tế Chính trị và không lấy bằng Luật sư.[24]
Từ 1936 đến 1939, Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, là sáng lập viên của mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Ông tham gia thành lập và làm báo tiếng Pháp Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng.
Tháng 5 năm 1939, Võ Nguyên Giáp nhận dạy môn lịch sử tại Trường Tư thục Thăng Long, Hà Nội do Hoàng Minh Giám làm giám đốc nhà trường.[25] Học sinh của ông mô tả rằng: ông có thể vẽ lên bảng đen sơ đồ từng trận đánh của Napoléon, ông sôi nổi kể về Công xã Paris, về cái chết của những nhà Cách mạng như Danton và Robespierre, “ông không chỉ là nhà sử học đơn thuần, ông còn là một trạng sư say mê, luôn bênh vực tính chính nghĩa của lịch sử”.[26] Học trò của Võ Nguyên Giáp là Bùi Diễm, sau này trở thành đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ, nhớ về ông như một người bị “quỷ thần ám ảnh về cách mạng và các trận chiến“. Người ta kể lại khi một giáo viên khác hỏi ông “Không chơi kiểu Napoleon à ?“, ông đã trả lời “Mình sẽ là một Napoleon“. Sau này, khi trả lời phỏng vấn, ông hay có điệu bộ như hoàng đế Napoleon đang độc thoại trước các nhà báo.[26]
Bắt đầu sự nghiệp quân sự
Kháng chiến chống Pháp, Nhật trong Đệ nhị thế chiến
Ngày 3 tháng 5 năm 1940, Võ Nguyên Giáp với bí danh là Dương Hoài Nam cùng Phạm Văn Đồng lên Lào Cai rồi vượt biên sang Trung Quốc để gặp Hồ Chí Minh.[27]
Chỉ sau một thời gian ngắn, Hồ Chí Minh đã thấy Võ Nguyên Giáp là người triển vọng nên liên hệ với Đảng cộng sản Trung Quốc và cử anh đi học quân sự tại căn cứ địa Diên An. Trên đường tới Diên An, anh được Hồ Chí Minh gọi quay lại vì tình hình thế giới có nhiều thay đổi lớn. Ở châu Âu, phát xít Đức đã xâm chiếm Pháp. Hồ Chí Minh nhận định tình hình Đông Dương sẽ chuyển biến nhanh, cần gấp rút trở về nước chuẩn bị đón thời cơ.
Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương trong năm này và bắt đầu các hoạt động của mình trong Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, một tổ chức chống phát-xít và đấu tranh cho độc lập của Việt Nam. Năm 1941 đúng dịp tết Nguyên đán Tân Tỵ, Võ Nguyên Giáp cùng Hồ Chí Minh trở về Cao Bằng. Trong thời gian ở hang Pác Bó, Hồ Chí Minh tiên đoán cách mạng sẽ thành công vào năm 1945, một dự đoán chuẩn xác: “Trong 5 năm nữa (tính từ 1941) cách mạng sẽ thành công, điều chúng ta mong đợi sẽ tỏa sáng”. Niềm tin sắt đá đó đã giúp Võ Nguyên Giáp và các đồng chí có thêm niềm tin vào tương lai.
Đời sống ở Việt Bắc rất cực khổ, ông kể: “Tìm được cái ăn đã là chiến công. Chúng tôi phải chia nhau từng củ sắn, từng bắp ngô”. Nhiều người bối rối dao động, có người e ngại: làm sao Cách mạng thành công khi không có súng và lấy đâu ra súng? Những lúc ấy, ông không bao giờ quên lời dạy của Hồ Chủ tịch: “Chúng ta sẽ dựa vào sức mình là chính cùng với một ít viện trợ từ nước ngoài. Mọi việc đều do nhân dân mà nên. Người trước súng sau, có nhân dân là có tất cả.”.[28]
Ông tham gia xây dựng cơ sở cách mạng, mở lớp huấn luyện quân sự cho Việt Minh ở Cao Bằng. Trong thời gian này, Pháp tăng cường càn quét Việt Bắc, ai mang tài liệu Việt Minh sẽ bị bắn ngay. Võ Nguyên Giáp nhớ lại: trong thời gian này, ông thường mang theo một quả lựu đạn để nếu bị bắt thì sẽ cho nổ để vừa chết nhanh chóng vừa kéo theo được vài tên địch.[29]
Thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo hướng dẫn của Hồ Chí Minh, ông thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo với 34 người, được trang bị 2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy. Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Ngày 25 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp đã chỉ huy đội quân này lập chiến công đầu tiên là tập kích diệt gọn hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần.
Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Võ Nguyên Giáp trở thành uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó là ủy viên Thường vụ Trung ương, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc.
Tham gia thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Cách mạng Tháng Tám thành công, quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Phó Bộ trưởng (Thứ trưởng thường trực) Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời (từ ngày 28 tháng 8 đến hết năm 1945) và là Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ năm 1946.
Ngay sau khi thành lập, Võ Nguyên Giáp thay mặt Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời, ban hành các sắc lệnh giải tán một số đảng phái,[30][31] với lý do các đảng này “tư thông với ngoại quốc”, làm “phương hại đến nền độc lập Việt Nam” (như Việt Nam Quốc xã, Đại Việt Quốc dân đảng…) nhằm kịp thời trừng trị “bọn phản cách mạng”, “bảo vệ” chính quyền non trẻ đồng thời “giáo dục ý thức về tinh thần cảnh giác” cho nhân dân,[32] đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phép Ty Liêm phóng có thể bắt những hạng người bị quy là nguy hiểm cho nền Dân chủ cộng hoà Việt Nam.[33] Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh giải tán các nghiệp đoàn[34] để kiểm soát nền kinh tế,[35] thống nhất các tổ chức thanh niên (vào Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam). Đồng thời Chính phủ cũng ban hành sắc lệnh thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính địa phương các cấp.
Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch theo sự phân công của phe Đồng Minh tiến vào miền Bắc Việt Nam để giải giáp quân Nhật. Theo Việt Minh, đội quân này mang theo kế hoạch Diệt Cộng Cầm Hồ.[36] Đội quân Quốc dân Đảng Trung Quốc “chạy trốn” Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động cướp bóc trên đường xuống phía Nam đến Hà Nội.[37] Trong hồi ký Những năm tháng không thể nào quên Võ Nguyên Giáp mô tả: quân đoàn 62 của Vũ Kim Thành (đi cùng là Việt Cách) tàn phá suốt dọc miền Đông Bắc Bắc Kỳ; lực lượng của Vũ Hồng Khanh (Việt Nam Quốc dân Đảng) và của Nguyễn Tường Tam (Đại Việt) đi theo quân đoàn 93 Vân Nam, cũng tiến hành những bài bản cướp bóc tương tự, dọc theo hành lang Tây Bắc từ Lào Cai đến Yên Bái, Phú Thọ.[38] Võ Nguyên Giáp mô tả lãnh đạo Việt Quốc, Việt Cách như những người đã bỏ xứ sở mà đi, tự cho mình là những người yêu nước phụng sự cho Chủ nghĩa Quốc gia nhưng thực tế chỉ là “một nhóm phản động đang ra sức thu vén làm giàu cho bản thân” nhờ vào sự giúp đỡ của Trung Quốc, và rằng Trung Hoa Quốc dân Đảng đã tô vẽ cho nhiều “tên phản bội người Việt”.
Trong hai ngày 18 và 19 tháng 9 năm 1945, Việt Minh họp bí mật với Việt Cách (ngày 18/9/1945) và Việt Quốc (ngày 19/9/1945). Trong hai cuộc họp này, Nguyễn Hải Thần đại diện Việt Cách và Nguyễn Tường Tam đại diện Việt Nam Quốc dân Đảng đề nghị Hồ Chí Minh đồng ý hợp nhất Việt Minh với Việt Cách và Việt Nam Quốc dân Đảng. Đối với lời đề nghị này, trong nội bộ Việt Minh có nhiều ý kiến khác nhau. Hoàng Minh Giám nghĩ rằng việc hợp nhất Việt Minh với các đảng phái Quốc gia sẽ làm giảm bớt sự đối lập và tăng cường thế lực cho Việt Minh, làm người Trung Quốc yên lòng còn Pháp phải lo ngại, quan trọng nhất là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong con mắt của Đồng Minh, đặc biệt là Mỹ, là chính phủ thật sự dân chủ. Võ Nguyên Giáp thì dứt khoát không đồng ý, theo ông, những đề nghị đó không có giá trị và không thật thà, nó chẳng khác gì thay thế chủ nghĩa thực dân Pháp bằng ách thống trị của Trung Quốc, nhân dân sẽ “chẳng bao giờ chịu bán rẻ sự nghiệp chính nghĩa của họ để đổi lấy đô la Trung Quốc”.[39] Cuối cùng Việt Minh đã từ chối hợp nhất với Việt Cách và Đại Việt Quốc dân Đảng.[39]
Ngày 1 tháng 1 năm 1946, sau một hội nghị hòa giải có Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội và Việt Minh tham gia do tướng Tiêu Văn tổ chức, Chính phủ Liên hiệp Lâm thời được thành lập thay thế Chính phủ Cách mạng Lâm thời với sự tham gia của một số đảng phái đối lập (Việt Cách, Việt Quốc…) hoạt động ở Trung Quốc với sự bảo trợ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng.[40] Tuy nhiên chức trách các Bộ cũng thay đổi. Bộ trưởng Quốc phòng trở thành người lo về tài chính mà không được xem xét danh sách nhân sự, quân số, súng đạn còn các Bộ trưởng khác của các đảng phái Quốc gia chẳng có chức trách cụ thể gì, không bao giờ được tham dự bất cứ buổi họp nào của nội các.[41]
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tổ chức cuộc Tổng tuyển cử trên toàn quốc, lần đầu tiên đã bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp. Nhiều đảng phái không có quyền tham gia Tổng tuyển cử đã tìm cách phá hoại.[42] Các đảng này cho là trúng cử chỉ là Việt Minh cộng sản, chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được.[43] Theo Báo Đại đoàn kết, mặc dù bị nhiều đảng phái tuyên truyền vận động dân chúng tẩy chay cuộc bầu cử và ngăn cản việc tổ chức bầu cử ở một số nơi, nhưng tại các địa phương, ở đâu cũng có người tự ứng cử, các cuộc tiếp xúc tranh cử công khai, tự do diễn ra ở khắp mọi nơi.[44] Theo Việt Minh, cuộc bầu cử diễn ra công bằng.[44] Tuy nhiên, lá phiếu không bí mật[45] và theo quan sát của sử gia Trần Trọng Kim[46] thì có nơi người dân bị cưỡng bách bầu cho Việt Minh.[47]
Sau khi kết quả bầu cử được công bố, sự thật hoàn toàn không như các đảng phái tuyên truyền. Nhiều đại biểu có uy tín của các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc đều trúng cử tại Quốc hội khóa I hầu hết chưa là đảng viên.[44] Võ Nguyên Giáp được bầu làm đại biểu quốc hội khóa đầu tiên[48] và liên tiếp 6 kỳ sau.[49]
Sau khi Quốc hội được bầu, ngày 2 tháng 3 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến được thành lập để thay thế Chính phủ Liên hiệp Lâm thời. Ở các địa phương, các cấp chính quyền liên hiệp được thành lập trong năm 1946. Theo thỏa thuận với Việt Minh, phe đối lập bao gồm một số tổ chức như Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội và Việt Nam Quốc dân Đảng được Trung Hoa Dân quốc ủng hộ, không tham gia Tổng tuyển cử nhưng vẫn được nắm 70 ghế Quốc hội cùng nhiều vị trí trong chính quyền trung ương do chính sách hòa hợp các đảng phái của Chính phủ. Trong hồi ký Những năm tháng không thể nào quên, đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định các đảng phái này lo sợ thất bại trước sức ủng hộ lớn của cử tri với mặt trận Việt Minh nên không tham gia bầu cử.[50]
Cũng trong năm 1946, ông kết hôn với bà Đặng Bích Hà (con gái giáo sư Đặng Thai Mai).
Trấn áp các đảng phái đối lập
Trong thời gian hoạt động, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến tiếp tục thực hiện các biện pháp, chính sách để giữ vững nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ non trẻ. Về đối nội đã kêu gọi các đảng phái đoàn kết phụng sự quốc gia, thực hiện các chính sách kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục…[51]
Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng đã tổ chức các đội vũ trang như “Thần lôi đoàn”, “Thiết huyết đoàn”, “Hùm xám”… Các đội này đã tổ chức nhiều vụ cướp có vũ trang, bắt cóc, tống tiền, tổ chức ám sát những người theo Việt Minh và cả những người trung lập như ông Ba Viên (Ba Viên bị Quốc dân Đảng nghi ngờ là gián điệp của Pháp, sau khi gặp Hồ Chí Minh, Ba Viên quay về Hà Giang, bắt giữ và hành quyết một số đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng[52]) rồi tuyên truyền đổ lỗi cho Việt Minh đã không đảm bảo được an ninh trật tự ở Hà nội và một số đô thị ở Bắc Bộ.[53]
Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn, sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại: “Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại… Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn”. Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá các cuộc biểu tình này. Khi có lộn xộn, lính Trung Quốc bắn chỉ thiên, xông vào giải tán đám biểu tình để vãn hồi trị an. Việt Nam Quốc dân Đảng hoảng hốt khi người Trung Hoa không giúp được gì nhiều trong việc chống lại Việt Minh như họ mong đợi. Ông Nguyễn Duy Thanh, một người theo chủ nghĩa quốc gia buồn rầu nhớ lại: “Không có Trung Hoa ủng hộ, những đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia chẳng thể đối phó được với những người Cộng sản”[54]
Sự có mặt của quân đội Tưởng Giới Thạch cho tới lúc đó đã đảm bảo sự tồn tại của Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Hai đảng này không có một chương trình gắn kết với nhau để tranh thủ dân chúng như Việt Minh. Những người lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội thì còn xa mới có được những phẩm chất có thể so sánh với Hồ Chí Minh, Võ Nguyễn Giáp và những người có trách nhiệm khác của Việt Minh. Khi quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam ngày 15/6/1946, hiểu theo cách này hay cách khác, Võ Nguyên Giáp quyết định Việt Minh phải hoàn toàn một mình điều khiển bộ máy chính quyền. Võ Nguyên Giáp hối hả hành động ngay với mục tiêu rải khắp: Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội được Trung Hoa Quốc dân Đảng ủng hộ, Việt Nam Quốc dân Đảng (theo Cecil B. Currey tổ chức này mượn danh cách mạng của Việt Nam Quốc dân Đảng năm 1930 do Nguyễn Thái Học sáng lập[55] còn theo David G. Marr Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra sức tuyên truyền Việt Nam Quốc dân Đảng phản bội lại sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Thái Học năm 1930 nhưng đến cuối năm 1945 nhiều người dân vẫn không tin vào điều đó[52]), nhóm quốc gia thân Nhật Đại Việt, những người Trotskyist, những người quốc gia chống Pháp, nhóm Công giáo mang tên “chiến sĩ Công giáo”. Võ Nguyên Giáp đã từng bước tìm cách loại bỏ dần các đảng phái này. Ngày 19/6/1946, Báo Cứu Quốc của Tổng bộ Việt Minh đăng xã luận kịch liệt chỉ trích “bọn phản động phá hoại Hiệp định sơ bộ Pháp Việt mùng 6 tháng 3“. Ngay sau đó Võ Nguyên Giáp bắt đầu chiến dịch truy quét các đảng phái đối lập bằng lực lượng công an và quân đội do Việt Minh kiểm soát với sự giúp đỡ của nhà cầm quyền Pháp. Ông cũng sử dụng các binh lính, sỹ quan Nhật Bản tình nguyện ở lại Việt Nam và một số vũ khí do Pháp cung cấp (ở Hòn Gai quân Pháp cung cấp cho Việt Minh những khẩu pháo để diệt một số vị trí do quân Đại Việt chiếm giữ).[55] Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến được thành lập nhằm tạo khối đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc giữa các đảng phái, sau Vụ án phố Ôn Như Hầu đã mất đi ý nghĩa của nó.
Chiến tranh Đông Dương lần 1
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chiến tranh Đông Dương chính thức bùng nổ. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản, ông bắt đầu chỉ đạo cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống lại sự trở lại của người Pháp (1945–1954) trên cương vị Tổng chỉ huy và Tổng Chính ủy, từ năm 1949 đổi tên gọi là Tổng tư lệnh quân đội kiêm Bí thư Tổng Quân uỷ.
Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam
Không được đào tạo tại bất kỳ trường quân sự nào trước đó, không phải trải qua các cấp bậc quân hàm trong quân đội, Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại tướng vào ngày 28 tháng 5 năm 1948 theo sắc lệnh 110/SL ký ngày 20 tháng 1 năm 1948, Ông trở thành Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam khi 37 tuổi.[56] Sau này, trả lời phóng viên nước ngoài về tiêu chí phong tướng, Hồ Chí Minh đã nói: “Đánh thắng đại tá phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng phong thiếu tướng, thắng trung tướng phong trung tướng, thắng đại tướng phong đại tướng”.[57] Cùng đợt phong hàm có Nguyễn Bình được phong Trung tướng; Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng. Tháng 8 năm 1948, ông là ủy viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao vừa mới được thành lập.
Từ tháng 8 năm 1945 Võ Nguyên Giáp là một trong 5 ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và trở thành ủy viên Bộ Chính trị (thay thế Ban Thường vụ Trung ương) Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1951.
Như các danh tướng Việt Nam trong lịch sử, Võ Nguyên Giáp chú trọng nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy yếu chế mạnh, lấy thô sơ thắng hiện đại. Tư tưởng quân sự nổi tiếng của ông có tên gọi là Chiến tranh nhân dân kế thừa quan điểm quân sự Hồ Chí Minh, tinh hoa nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, tri thức quân sự thế giới, lý luận quân sự Mác-Lênin và được đúc rút từ kinh nghiệm cá nhân được liên tục cập nhật trong nhiều cuộc chiến tranh mà nổi bật là chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.
Trong 9 năm trường kỳ đánh Pháp, Võ Nguyên Giáp đã có những sáng kiến quan trọng để phát huy sức mạnh quân sự và đã trở thành những kinh nghiệm quý báu như: “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”. Với chuyên gia quân sự Trung Quốc sang giúp huấn luyện quân đội, ông chỉ đạo chiến sĩ học tập, tiếp thu, nghiên cứu kỹ phương pháp của nước bạn, đồng thời nhắc nhở cán bộ, sĩ quan phải ghi nhớ việc tiết kiệm sinh mạng bộ đội do Việt Nam là nước nhỏ không thể nuôi nhiều quân.
Năm 1954, Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh và Đảng Lao động tin tưởng trao cho toàn quyền chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi ra trận, Hồ Chí Minh đã dặn dò: “Cho chú toàn quyền chỉ huy. Trận này chỉ được thắng không được thua vì thua là hết vốn“. Ông tự tin lên kế hoạch và chỉ huy 4 trong 6 sư đoàn bộ binh khi đó của Quân đội Nhân dân Việt Nam là 308, 304, 312, 316 và Đại đoàn sơn pháo 351 tấn công Điện Biên Phủ, đánh bại đội quân nhà nghề được trang bị hiện đại của Liên hiệp Pháp. Chiến thắng này đã đặt dấu chấm hết cho quyền lực của người Pháp tại Đông Dương sau 83 năm và đã đưa Võ Nguyên Giáp đi vào lịch sử thế giới như là một danh nhân quân sự Việt Nam, một người hùng của Thế giới thứ ba, nơi có những người dân bị nô dịch đã xem Võ Nguyên Giáp là thần tượng để hạ quyết tâm lật đổ chế độ thực dân xây dựng nền độc lập của riêng mình.
Các chiến dịch
Các chiến dịch ông đã tham gia với tư cách là Tư lệnh chiến dịch – Bí thư Đảng ủy trong kháng chiến chống Pháp cùng với Thiếu tướng Hoàng Văn Thái làm tham mưu trưởng chiến dịch:
- Chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947)
- Chiến dịch Biên giới (tháng 9 – 10, năm 1950)
- Chiến dịch Trung Du (tháng 12 năm 1950)
- Chiến dịch Đông Bắc (năm 1951)
- Chiến dịch Đồng Bằng (tháng 5 năm 1951)
- Chiến dịch Hòa Bình (tháng 12 năm 1951)
- Chiến dịch Tây Bắc (tháng 9 năm 1952)
- Chiến dịch Thượng Lào (tháng 4 năm 1953)
- Chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 3 – 5 năm 1954)
Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ mang đậm việc tạo thế, tổ chức hậu cần, thay đổi chiến thuật. Sau chiến dịch này, Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết, đặt dấu chấm hết cho sự có mặt của người Pháp ở Việt Nam sau hơn 80 năm.
Chiến tranh Đông Dương lần 2
Từ năm 1954 đến năm 1976, Võ Nguyên Giáp tiếp tục giữ cương vị Ủy viên Bộ Chính trị – Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông còn là Phó Thủ tướng Chính phủ, sau là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (từ năm 1955 đến năm 1991).
Từ tháng 3 năm 1960, Võ Nguyên Giáp làm việc dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị và nhà lãnh đạo mới là Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam, một nhà cách mạng theo đường lối cứng rắn đã trải qua những nhà tù khắc nghiệt nhất, tận mắt chứng kiến tình cảnh của những cán bộ Việt Minh ở miền nam sau Hiệp định Geneve trong Phong trào Tố cộng – Diệt cộng do Ngô Đình Diệm phát động. Lê Duẩn chủ trương dùng quân sự xóa bỏ nhà nước Việt Nam Cộng hòa, thống nhất Việt Nam dù Việt Nam Cộng hòa được Hoa Kỳ hỗ trợ về mọi mặt.
Dù có thói quen viết hồi ký, Võ Nguyên Giáp vẫn chưa xuất bản cuốn nào về giai đoạn 1954–1971. Đây là thời kỳ Lê Duẩn từ vị trí lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam tiến đến điều hành Bộ Chính trị. Một mặt, nhà lãnh đạo này xem trọng Võ Nguyên Giáp, mặt khác, vẫn giữ ấn tượng về việc lãnh đạo Việt Minh đồng ý rút ra bắc theo Hiệp định Geneve với Pháp. Theo các sử gia phương Tây, họ chia sự hợp tác giữa 2 nhân vật quyết định chiến tranh ở cấp cao nhất này thành 3 giai đoạn:
- Từ năm 1954 đến năm 1964, thời gian Lê Duẩn mới ra miền Bắc nắm quyền chính trị và Võ Nguyên Giáp với tư cách người chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ, cả hai nhất trí hầu hết các điểm về đường lối quân sự;
- Từ năm 1965 đến năm 1972 (giai đoạn Mỹ trực tiếp tham chiến), thời gian Lê Duẩn nắm toàn quyền chính trị và ý kiến Võ Nguyên Giáp thường bị xem là chưa đủ cứng rắn; [cần dẫn nguồn]
- Từ năm 1972 đến năm 1975 (giai đoạn Mỹ rút quân), Lê Duẩn trao toàn quyền chỉ huy quân sự cho Võ Nguyên Giáp. [cần dẫn nguồn]
Thậm chí còn có ý kiến cho rằng tướng Giáp không có vai trò quan trọng trong việc định hình chiến lược chiến tranh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau năm 1965 mà ông còn thật sự phản đối cuộc chiến ngay từ đầu. Vào thời gian cuộc chiến chống Mỹ tại miền Nam Việt Nam nổ ra vào năm 1965, Võ Nguyên Giáp đóng một vai trò chủ yếu mang tính nghi lễ giống như Hồ Chí Minh. Ông trở thành “một khuôn mặt của các nỗ lực chiến tranh chống Mỹ, một công cụ tiếp thị, cho một phe cánh trong Đảng, những người thiếu danh tiếng, uy tín và tính hấp dẫn trên trường quốc tế“. Cũng theo quan điểm này, Sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968 không liên can gì tới tướng Giáp mà là chủ trương của Lê Duẩn vì ông Giáp chống lại chủ trương này. Chính Lê Duẩn là người chỉ đạo chính trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, là kiến trúc sư của chiến thắng của người cộng sản vào năm 1975.[58]
Tuy nhiên nghiên cứu các tài liệu của Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc từ chối cho rằng vai trò của Tướng Giáp bị làm cho lu mờ bởi những thành viên Bộ Chính trị trong giai đoạn cuộc chiến tranh chống Mỹ. Ông cho rằng không hề có một sự phân chia ê-kíp trong nội bộ Bộ Chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như các nhà sử học phương Tây vẫn phán đoán, mà theo đó Tướng Giáp được cho là thuộc phái “chủ hoà”.[59]
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng viết trong hồi ký: “Với tôi, những năm công tác trong Bộ Chính trị, Anh (tức Lê Duẩn) đã thường xuyên trao đổi ý kiến, thường là nhanh chóng đi đến nhất trí trong những vấn đề lớn; khi có ý kiến khác nhau thì tranh luận thẳng thắn, những điều chưa nhất trí thì chờ thực tiễn kiểm nghiệm. Lúc mới ra Bắc, Anh thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc… Từ sau Đại hội III và Đại hội IV, tôi đã ba lần đề nghị Anh là Tổng Bí thư kiêm luôn Bí thư Quân ủy Trung ương, nhưng Anh nói với tôi: “Anh (tướng Giáp) là Tổng chỉ huy lâu năm nên tiếp tục làm Bí thư Quân ủy Trung ương, như vậy có lợi cho lãnh đạo“.[60]
Từ 1954 đến 1964
Từ năm 1954 đến năm 1956, Võ Nguyên Giáp chủ trương đấu tranh hòa bình, yêu cầu Việt Nam Cộng hòa thực hiện Hiệp định Geneve vì một Việt Nam thống nhất, không chia rẽ về tình cảm và chính trị. Tuy nhiên, Ngô Đình Diệm đã thẳng thừng bác bỏ đề nghị này bằng Phong trào tố cộng diệt cộng.
Từ năm 1957 đến năm 1958, Đảng Lao động đã có những cuộc họp bàn về cách mạng Miền Nam nhưng chủ trương, biện pháp đấu tranh vẫn chưa thay đổi, phong trào cách mạng tiếp tục bị đàn áp và tổn thất nặng nề.
Tháng 1-1959, khi hy vọng thi hành Hiệp định Genève không còn, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị (mở rộng) lần thứ 15, Võ Nguyên Giáp giúp Bộ Chính trị và những người cộng sản miền nam do Lê Duẩn đứng đầu ban hành Nghị quyết 15 Bộ Chính trị, khẳng định việc giải phóng miền nam bằng đấu tranh vũ trang, cho phép những cán bộ kháng chiến còn lại ở miền nam tổ chức hoạt động vũ trang.
Năm 1959, được Bộ Chính trị đồng ý, Võ Nguyên Giáp đã quyết định thành lập Đoàn 559 mở đường mòn dọc dãy Trường Sơn để tiếp ứng phong trào cách mạng miền nam Việt Nam. Nhờ việc mở đường Trường Sơn, phong trào cách mạng và hoạt động du kích miền Nam phát triển rất mạnh. Sau 4 năm, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã thành lập được một số đơn vị cấp trung đoàn.
Năm 1964, được Bộ Chính trị đồng ý, Võ Nguyên Giáp đã bí mật cử Nguyễn Chí Thanh, Lê Trọng Tấn vào chiến trường Đông Nam Bộ chỉ huy quân giải phóng miền Nam đánh lớn tại Bàu Bàng, Dầu Tiếng, Đồng Xoài… tạo chuyển biến chiến trường và thành lập các Sư đoàn 1, 2, 3, 5, 7, 9 nổi tiếng. Trong đó, Sư đoàn 1 trấn thủ Tây Nguyên, Sư đoàn 2 trấn thủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Sư đoàn 3 Sao Vàng trấn thủ Bình Định, trung đoàn 10 trấn thủ Phú Yên, trung đoàn 20 trấn thủ Khánh Hòa, Sư đoàn 5 trấn thủ khu vực Sài Gòn – Gia Định, Sư đoàn 7 cơ động chiến đấu khắp Quân khu 7 gồm Lâm Đồng, Ninh Thuận, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Thuận, Bình Phước và Sư đoàn 9 di chuyển chiến đấu khắp Tây Ninh và Quân khu 9.
Từ 1965 đến 1972
Năm 1965, chia lửa với Nam Bộ, Hoàng Minh Thảo, người học trò của Võ Nguyên Giáp ở trường Thăng Long được cử vào Mặt trận Tây Nguyên làm Phó Tư lệnh rồi Tư lệnh Mặt trận B3 thay Chu Huy Mân chuyển sang chỉ huy Mặt trận duyên hải Nam Trung Bộ đến khi chiến tranh kết thúc.
Năm 1965, Quân Mỹ bắt đầu thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ. Quy mô quân viễn chinh Mỹ đã lên tới hơn 500.000 ngàn vào cuối năm 1967, cùng với đó là hàng ngàn máy bay, trực thăng và xe thiết giáp. Đối phó với quân Mỹ, Võ Nguyên Giáp vấn kiên trì đường lối chiến tranh nhân dân – “trường kỳ kháng chiến” như Chiến tranh Đông Dương trước đó. Kết quả là hai cuộc tiến công mùa khô 1965-1966[cần dẫn nguồn] và 1966-1967[cần dẫn nguồn] của Mỹ đã thất bại, họ đã không thể tiêu diệt được quân Giải phóng và bình định miền Nam Việt Nam trong 18 tháng như kế hoạch ban đầu, và quân Mỹ bắt đầu sa lầy vào một cuộc chiến hao tổn, mệt mỏi và không có dấu hiệu kết thúc. Ký giả James Fox nhận xét: tướng Giáp đã thi hành một đường lối không quá khác biệt nhưng vô cùng hiệu quả, và quân Mỹ đã rút ra được rất ít bài học từ người Pháp trước đó[61]
Năm 1968, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tại Hà Nội phát động cuộc Tổng Tấn công và Nổi dậy Tết Mậu Thân. Bản thân ông đã tham gia lập kế hoạch, nhưng khi Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10 và tháng 12 năm 1967 quyết định mở chiến dịch thì ông đang đi chữa bệnh ở Hungary. Ông trở về tháng 1 năm 1968.[62] Hội nghị Trung ương lần thứ 14 tháng 1/1968 thông qua quyết định của Bộ Chính trị quyết định Tổng tiến công.[63] Chiến dịch Mậu Thân làm suy yếu ý chí xâm lược của Mỹ, thúc đẩy phong trào phản chiến ở Mỹ và trên khắp thế giới nhưng về quân sự có những tổn thất không đáng có và có nhiều vấn đề cần rút kinh nghiệm.[64]
Từ 1972 đến 1975
Cuốn hồi ức mang tên “Tổng hành dinh trong Mùa xuân đại thắng” do Võ Nguyên Giáp xuất bản lần đầu năm 2001 đã thuật lại những hoạt động của ông vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ từ năm 1972 đến năm 1975.
Năm 1972, sau đại thắng tại Chiến dịch Đường 9 Nam Lào, với kho vũ khí hùng hậu, Võ Nguyên Giáp chủ trương khuếch trương chiến quả bằng một kế hoạch quân sự ở Tây Nguyên, nơi có khả năng triển khai lực lượng lớn, đánh lớn, gây những khó khăn lớn hơn cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Kế hoạch này đã bị nhà lãnh đạo Lê Duẩn và Quân ủy trung ương bác bỏ do Tổng cục tình báo 2 nhận được thông tin là Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã sớm biết và đã đón lõng tại Tây Nguyên. Đồng thời do ở gần nên mặt trận Trị-Thiên cũng dễ bổ sung đạn dược, quân số hơn, lại có 2 mục tiêu cực kỳ quan trọng là Huế và Đà Nẵng.
Một phương án mới được đưa ra. Quân Giải phóng sẽ chia quân mở 3 chiến dịch tại Trị-Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Sau 2 tháng, trước những thắng lợi lớn trong Chiến dịch Trị Thiên và quân Giải phóng đã áp sát Huế, các lực lượng bổ sung được tiếp tục đưa vào đây, còn mặt trận Tây Nguyên thì buộc phải ngừng tiến công do hết dự trữ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề xuất vòng qua phía tây Huế, chia lực lượng và hỏa lực đánh vào Vùng Chiến thuật I. Tuy nhiên các đơn vị công binh mở đường do thiếu phương tiện nên thực hiện quá chậm, không kịp phục vụ mục tiêu chiến dịch (con đường này sau đó đã phát huy tác dụng vào chiến dịch mùa xuân năm 1975).,[65] 6 sư đoàn tham gia chiến dịch Trị Thiên gồm 312, 308, 324, 325, 320, 341 đã hành quân đánh trực diện từ phía bắc xuống Vùng Chiến thuật I, nơi có Quân đoàn I và lực lượng tổng trù bị của Quân lực Việt Nam Cộng hòa gồm các Lữ đoàn Biệt động quân, Sư đoàn Dù và Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, được không quân và Hải quân Mỹ chi viện tối đa.
Cuối năm 1972, Võ Nguyên Giáp đã bố trí lực lượng đánh trả cuộc tập kích đường không của Không lực Mỹ suốt 12 ngày đêm. Thất bại trong chiến dịch này buộc Mỹ phải chấp nhận ký Hiệp định Paris với những điều khoản nhân nhượng mà chính họ trước đó đã từ chối.[cần dẫn nguồn]
Năm 1974, để nắm vững tình hình thực tế chiến trường và có quyết sách đúng đắn, Đại tướng cùng Tư lệnh trưởng Đoàn 559 Đồng Sĩ Nguyên và chính ủy Đặng Tính đã vượt hàng trăm cây số đi thăm bộ đội Trường Sơn trên đường mòn Hồ Chí Minh và kiểm tra sự chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy dự kiến vào mùa Xuân 1975.
Năm 1975, Võ Nguyên Giáp đã tán thành đề xuất của Trung tướng Hoàng Minh Thảo chọn địa bàn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công chiến lược, xin ý kiến Bộ Chính trị và cử Đại tướng Văn Tiến Dũng vào Nam chỉ đạo đánh đòn “điểm huyệt” vào hệ thống phòng ngự của Việt Nam Cộng hòa tại Buôn Mê Thuột. Chính ông nhân đà thắng trận Buôn Ma Thuột, trực tiếp ra lệnh Trung tướng Lê Trọng Tấn gấp rút giải phóng Đà Nẵng trong 3 ngày. Chính ông đề xuất và ra quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh mà trong đó Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Trần Văn Trà làm Phó Tư lệnh, chỉ huy 5 cánh quân với sức mạnh của 20 sư đoàn đồng loạt tiến vào giải phóng Sài Gòn. Mệnh lệnh nổi tiếng nhất của ông chỉ đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh là “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng”.
Chiến tranh Đông Dương lần 3
Trong một thời gian ngắn từ tháng 7 năm 1960 đến tháng 1 năm 1963 ông kiêm thêm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước.[66] Năm 1978, ông thôi chức Bí thư quân ủy Trung ương, Lê Duẩn trở thành Bí thư và Văn Tiến Dũng làm Phó Bí thư Quân ủy Trung ương.
Đất nước mới vừa thống nhất ngày 30 tháng 4 năm 1975, đã bị quân Khmer Đỏ vượt biên giới Tây Nam tiến vào Việt Nam và xung đột với Việt Nam trong một thời gian dài, Khmer Đỏ được hậu thuẫn từ Trung Quốc và sau đó có Thái Lan một phần gây xung đột biên giới với Việt Nam từ năm 1975 mãi đến năm 1990 mới chấm dứt, đỉnh điểm là cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979. Tại thời điểm này ông giữ cương vị Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Sau khi cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc kết thúc, không có thay đổi lãnh thổ đáng kể giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Ngày 7 tháng 2 năm 1980, ông thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng[67] nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị (đến năm 1982) và Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học – Kỹ thuật. Người thay thế ông ở Bộ Quốc phòng là Đại tướng Văn Tiến Dũng – Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Văn Tiến Dũng là một trong những lãnh đạo quân đội lâu năm nhất cùng thời với Võ Nguyên Giáp.[68] Năm 1983 ông được Hội đồng Bộ trưởng phân công kiêm nhiệm thêm vai trò Chủ tịch Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch khi Ủy ban này được thành lập (cùng với một số Bộ trưởng các Bộ và Tổ chức khác làm phó).[69][70]
Nghỉ hưu đến khi qua đời
Nghỉ hưu
Năm 1991, ông thôi chức ủy viên Trung ương, Phó Thủ tướng, nghỉ hưu ở tuổi 80. Theo tiểu sử tóm tắt khi ông mất, ông đảm nhiệm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến tháng 12/1986.[71]
Thời gian cuối đời, ông vẫn quan tâm và đưa ra một số lời bình luận trên mặt báo về tình hình đất nước như có bài báo yêu cầu kiểm định và báo cáo Đại hội Đảng Cộng sản X về Vụ PMU18,[72] hay cuộc gặp gỡ và khuyến khích doanh nhân làm xuất khâu nông sản.[73]
Vào ngày 1 tháng 11 năm 2007 ông gửi thư trong đó bày tỏ sự phản đối chủ trương xây dựng Nhà Quốc hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu.[74] Ông cũng có bài viết thực trạng và kiến nghị 6 vấn đề “cơ bản và cấp bách” nhằm triển khai có kết quả công cuộc đổi mới nền giáo dục và đào tạo của Việt Nam hiện nay.[75] Vào đầu năm 2009, ông góp ý về Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên, không dưới 3 lần, ông đã viết thư yêu cầu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dừng dự án này,[76] vì lý do an ninh quốc gia và vấn đề môi trường.
Đại thọ 103 tuổi và qua đời
Ngày 25 tháng 8 năm 2011, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã mừng đại thọ tròn 100 tuổi.
Trong dịp ông bước sang tuổi 100 và tròn 70 năm tuổi đảng. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã phát biểu “Một vị đại tướng mà đã vào sinh ra tử, chiến đấu ở những chiến trường hết sức khó khăn, là thế hệ cận vệ học trò xuất sắc của chủ tịch Hồ Chí Minh nay đã sống trên 100 tuổi, đây là điều hết sức vui mừng…”
Đại tướng cũng thường xuyên được các chính khách hàng đầu trên thế giới đến thăm hỏi tại tư dinh của Đại tướng. Đại tướng được coi là một tượng đài sống và có ảnh hưởng sâu rộng đến Việt Nam, tầm ảnh hưởng lớn trong lòng mỗi người dân Việt Nam.
Sau 100 tuổi, sức khỏe của ông yếu hơn trước. Ngày 22 tháng 5 năm 2011, Đài Truyền hình Việt Nam đã phát sóng chương trình thời sự với hình ảnh ông đang thực hiện việc bỏ phiếu thực hiện quyền công dân của mình trong cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, xóa đi những đồn đoán về sức khỏe của ông trên những phương tiện thông tin không chính thống.[77] Trong dịp Ngày Thương binh Liệt sĩ 27 tháng 7 năm 2011, Truyền hình Quân đội nhân dân phát sóng hình ảnh Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Hữu Đức đến thăm hỏi một số tướng lĩnh cao cấp đang nằm điều trị tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, trong đó có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Qua theo dõi trong hình ảnh thì sức khỏe Đại tướng đã tốt lên nhiều.[78]
Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời vào hồi 18h09 phút ngày 4 tháng 10 năm 2013,[79][80][81] tại Viện quân y 108, Hà Nội, nơi ông nằm điều trị từ năm 2009,[81] hưởng thọ 103 tuổi (tuổi âm) và là Đại tướng Việt Nam sống thọ nhất.
Văn phòng Ban chấp hành Trung ương Đảng thông báo tang lễ Đại tướng Võ Nguyên Giáp được tổ chức trọng thể theo nghi thức Quốc tang trong hai ngày 12 và 13 tháng 10 năm 2013 và ông được an táng tại quê hương Quảng Bình, theo ý nguyện của ông và gia đình.[82] Địa điểm an táng là khu vực Vũng Chùa – Đảo Yến thuộc xã Quảng Đông, Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình, nằm cách đèo Ngang khoảng 4 km.[83]
Các giải thưởng và danh hiệu
Huân chương
- 1 Huân chương Sao Vàng (1992)[84]
- 2 Huân chương Hồ Chí Minh[85]
- Huân chương Quân công hạng nhất[86][87]
- 6 Huân chương Chiến thắng hạng nhất.[87]
Huy chương
![]() |
Xin hãy cùng đóng góp cho bài hoặc đoạn này bằng cách phát triển nó. Nếu bài viết đã được phát triển, hãy gỡ bản mẫu này. |
Huy hiệu
- Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng,[88]
Các danh hiệu khác
- Chủ tịch danh dự Hội Sử học Việt Nam trong 4 kỳ đại hội, từ đại hội lần thứ II tháng 5 năm 1988 đến đại hội V năm 2005.[89][90]
- Chủ tịch danh dự Hội Cựu chiến binh Việt Nam.[91]
- Chủ tịch danh dự Hội Khuyến học Việt Nam[92][93]
- Chủ tịch danh dự Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam.[94]
- Chủ tịch danh dự Hội Cựu giáo chức Việt Nam.[95]
Các bí danh và bút danh
Bí danh
- “Võ Giáp”: Tên ghi trên bằng cử nhân Luật năm 1935.[96][97]
- “Dương Hoài Nam”: Bí danh hoạt động tại Trung Quốc từ ngày 3 tháng 5 năm 1940.[27]
- “Văn”: Do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt.[98] Trong quân đội, ông thường được gọi thân mật là “Anh Văn”. Bí danh “Văn” này được dùng phổ biến nhất, được ký dưới “Mệnh lệnh khởi nghĩa của Ủy ban chỉ huy lâm thời khu Giải phóng” ngày 12 tháng 8 năm 1945 và Mệnh lệnh số 1371/TK ngày 7 tháng 4 năm 1975.
- “Hưng”: Bí danh ký trong bức thư ngày 30 tháng 1 năm 1954 của ông gửi Hồ Chí Minh, Trường Chinh và Chính trị bộ để trình bày về chủ trương tác chiến mới tại Điện Biên Phủ khi ông chuyển từ chiến thuật “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, thắng chắc”.[99]
- “Chiến”: Bí danh trên điện đài vô tuyến dùng trong Chiến dịch Mùa Xuân 1975.[99]
Bút danh
- “Vân Đình” và “Hải Thanh”: Dùng khi viết bài trên các tờ báo tiếng Việt “Hồn trẻ” và tiếng Pháp “Notre Voix” (Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao động) giai đoạn 1929-1930 và cuốn sách “Vấn đề dân cày” (viết chung với Trường Chinh năm 1938)[99]
- “Hồng Nam”: Dùng khi viết một số bài báo sau Cách mạng tháng Tám.[99]
- “Chính Nghĩa”: Bút danh tại một số bài bình luận quan trọng mang ý nghĩa chỉ đạo toàn quân của Bộ chỉ huy chiến dịch và Bộ Tổng tham mưu đọc trên Đài tiếng nói Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954.[99]
Đánh giá
Tại Việt Nam
Với hơn 50 năm tham gia hoạt động chính trị, trong đó có 30 năm là Tổng tư lệnh Quân đội, ông có uy tín lớn trong Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Quân đội Nhân dân Việt Nam. Thông tin chính thống gần đây cho biết: “Tất cả các ý kiến của anh Văn đều được Bộ Chính trị tiếp thu và tán thành trong suốt thời kỳ chiến tranh“. Thượng tướng Trần Văn Trà đã từng gọi Đại tướng Võ Nguyễn Giáp là “tư lệnh của tư lệnh, chính uỷ của chính uỷ”. Thượng tướng Giáo sư Hoàng Minh Thảo khi được hỏi về trình độ đánh trận của các tướng lĩnh Việt Nam đã trả lời:
“ | Tất nhiên đầu tiên là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Thứ hai là tướng Lê Trọng Tấn. Thứ ba là tướng Hoàng Văn Thái và thứ tư là tướng Nguyễn Hữu An. | ” |
— Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo[100] |
Từ bên ngoài
Ông Giáp đã xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam từ 34 người vào tháng 12 năm 1944 thành một đội quân với hơn một triệu người năm 1975. Ông đã chỉ huy quân đội tốt trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Tên tuổi ông gắn liền với chiến thắng Điện Biên Phủ cùng với nỗi hổ thẹn của Quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam, với học thuyết “Chiến tranh nhân dân“, với toàn bộ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước Việt Nam. Nhà sử học Derek Frisby gọi ông là kiến trúc sư của quân đội nhân dân Việt Nam, hoặc thậm chí có thể là của nước Việt Nam tồn tại như ngày nay.[101]
Một số người phương Tây chỉ trích ông tàn nhẫn, bất chấp tổn thất mạng sống để đạt đến mục tiêu.[102] Tướng Mỹ William Westmoreland, đối phương của ông trong chiến tranh Việt Nam, coi ông là người tàn nhẫn, “Bất cứ tướng Mỹ nào chịu tổn thất nhiều như thế sẽ không giữ được chức trong vòng ba tuần“. Westmoreland cho rằng: “Một sự coi thường mạng người như thế có lẽ sẽ tạo nên một đối thủ ghê gớm, nhưng nó không tạo nên một thiên tài quân sự.“.[102][103][104][105] Nhà sử học quân sự Cecil Currey, trong quyển tiểu sử Victory at Any Cost (Chiến thắng bằng mọi giá), cho rằng tướng Giáp đã dành trọn khát vọng cuộc đời đến 2 mục tiêu: giải phóng Việt Nam ra khỏi sự đô hộ nước ngoài và thống nhất đất nước, do đó ông đã “tách rời cảm xúc với những người cấp dưới cho nên chỉ xem họ như những con cờ để mà sử dụng không ngần ngại, bề ngoài lạnh buốt của ông che đậy một tính khí rất nóng nên người Pháp đã miêu tả ông là một núi lửa được tuyết che phủ.”.[24]
Đối với những chỉ trích từ phương Tây rằng ông là người tàn nhẫn, chính bản thân Võ Nguyên Giáp đã từng trả lời một nhà báo Ý rằng: “Người phương Đông chúng tôi khác người phương Tây các ông. Chúng tôi đặt sự tồn vong của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Mỗi phút có hàng trăm, hàng ngàn người chết trên trái đất này. Sự sống hoặc cái chết của hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn con người, đối với đồng bào của chúng tôi, cũng là không đáng kể (đối với sự nghiệp giành độc lập dân tộc)”. Ông cho biết: người Việt Nam sẽ sẵn sàng chịu bất kỳ hy sinh nào và chiến đấu tới cùng để giải phóng đất đai của họ từ quân đội nước ngoài, và ông cũng không ngoại lệ.[106][107][108] Trong hồi ký của mình, tướng Giáp chia sẻ: Nắm trong tay một đội quân trang bị nghèo nàn và đối mặt với những đội quân trang bị tối tân nhất, không thể nào giành chiến thắng mà không phải hy sinh, ông không thể thay đổi điều đó mà chỉ có thể hạn chế tối đa mức độ hy sinh. Ông đã ra quyết định ngừng Chiến dịch Điện Biên Phủ thêm 2 tháng để thay đổi phương án tác chiến do e ngại việc đánh nhanh thắng nhanh sẽ gây nhiều tổn thất. Sau một đêm lo lắng mất ngủ, ông kết luận “sẽ là tự sát nếu đưa bộ đội vào trận đánh mà không chuẩn bị chống pháo binh, xe tăng và máy bay địch”, và ông kiên quyết ra lệnh ngừng tấn công dù rằng khi đó áp lực rất lớn và ông coi đó là “quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời”.[109] Thượng tướng Trần Văn Trà nói rằng tướng Giáp “là một tổng tư lệnh biết đau với từng vết thương của mỗi người lính, biết tiếc từng giọt máu của mỗi chiến binh”[110]
Trả lời lại nhận xét của Westmoreland về Võ Nguyên Giáp, nhà sử học Derek Frisby chỉ ra: tướng Giáp thừa hiểu một cuộc chiến kéo dài chắc chắn sẽ mang lại nhiều tổn thất nhưng điều đó không có nghĩa là một phe nào đó chắc chắn sẽ thắng hay thua; và chỉ cần quân đội Việt Nam còn tồn tại để tiếp tục chiến đấu thì ý niệm về Việt Nam sẽ tiếp tục sống trong tâm khảm của những người ủng hộ nó. Đó là bản chất của một cuộc chiến tranh cách mạng. Những lời chỉ trích của Westmoreland dành cho tướng Giáp lại chính là chìa khóa để hiểu tại sao viên tướng Mỹ đã không thể đánh bại Võ Nguyên Giáp.[101] Theo Frisby, Võ Nguyên Giáp đã lợi dụng sự ỷ lại của người phương Tây vào ưu thế vũ khí để đánh bại họ bằng những chiến thuật không ai ngờ tới. Một ví dụ tiêu biểu là trận Điện Biên Phủ, khi Võ Nguyên Giáp sử dụng những phương tiện thô sơ để đưa đại bác và pháo phòng không đi xuyên qua những vùng địa hình tưởng chừng không thể vượt qua được, và điều này đã khiến quân Pháp “chết điếng người”.[101]
Giáo sư Fredrik Logevall nhận định, dù Võ Nguyên Giáp sẵn sàng chấp nhận tổn thất lớn để giành chiến thắng, nhưng việc đánh bại Pháp và Mỹ không chỉ đơn giản là đánh đổi bằng tổn thất lớn. Võ Nguyên Giáp đã thành công trong việc tận dụng các lợi thế sẵn có như địa hình và sự ủng hộ của người dân để khắc chế ưu thế về hỏa lực và vũ khí của Pháp và Mỹ, ngoài ra ông và các đồng sự cũng tranh thủ được sự ủng hộ của những người dân Pháp, Mỹ phản đối chiến tranh.[111] Nếu không có đường lối quân sự đúng đắn này thì dù Việt Nam có hy sinh nhiều tới đâu cũng chỉ là vô ích trước những kẻ thù mạnh như Pháp và Mỹ. Cecil B. Currey nhận xét: các tướng Pháp và Mỹ đều ỷ vào sự áp đảo của xe tăng, máy bay, pháo binh với suy nghĩ là cứ chiếm thật nhiều vùng đất thì sẽ thắng, họ đã không nắm được yếu tố căn bản của chiến tranh như Võ Nguyên Giáp. Ông có thể thua trong một số trận đánh, nhưng kết quả chung cuộc thì ông luôn thắng. Tư tưởng quân sự của Võ Nguyên Giáp vừa đúc rút từ lịch sử của Việt Nam, vừa chấm phá bằng những màu sắc từ Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, của Tôn Tử, Napoleon, của Thomas Lawrence và nhiều người khác. Ông tạo nên những nét sáng tạo của chính mình trên tấm vải là Đảng và nhân dân của ông. Bức tranh hoàn toàn là của riêng ông – một kiệt tác nghệ thuật.[112]
Các đánh giá khác:
“ | Võ Nguyên Giáp là một trong 21 vị danh tướng của thế giới trong 25 thế kỷ qua, từ thời Alexandre Đại đế đến Hannibal rồi đến thời cận hiện đại với Kutuzov, Zhukov…, những người đã có chiến công tạo nên bước ngoặt của nghệ thuật chiến tranh. | ” |
— Duncan Townson, sách Những vị tướng lừng danh[113] |
“ | Ông [Giáp] không quá nổi bật so với các tướng lãnh khác trong lịch sử, vì ông đứng cao hơn họ. | ” |
—Nhà sử học Derek Frisby, [101][114] |
“ | Từ năm 1944-1975, cuộc đời của Võ Nguyên Giáp gắn liền với chiến đấu và chiến thắng, khiến ông trở thành một trong những thống soái lớn của mọi thời đại. Với 30 năm làm tổng tư lệnh và gần 50 năm tham gia chính sự ở cấp cao nhất, ông tỏ ra là người có phẩm chất phi thường trong mọi lĩnh vực của chiến tranh. Khó có vị tướng nào có thể so sánh với ông trong việc kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Sự kết hợp đó xưa nay chưa từng có. | ” |
— Đại tướng Peter MacDonald, nhà nghiên cứu khoa học lịch sử quân sự người Anh[113] |
“ | Tài thao lược của tướng Giáp về chiến lược, chiến thuật và hậu cần được kết hợp nhuần nhuyễn với chính trị và ngoại giao… Sức mạnh hơn hẳn về kinh tế, tính ưu việt về công nghệ cùng với sức mạnh áp đảo về quân sự và hỏa lực khổng lồ của các quốc gia phương Tây đã phải khuất phục trước tài thao lược của một vị tướng từng một thời là thầy giáo dạy sử. | ” |
— Bách khoa toàn thư quân sự Bộ Quốc phòng Mỹ (xuất bản năm 1993)[113] |
“ | Là người tổ chức quân đội nhân dân, ông Giáp đã thực hiện được một sự tổng hợp độc đáo các học thuyết quân sự mácxít kết hợp nhuần nhuyễn với truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, vận dụng khôn khéo vào những điều kiện của một quốc gia có đất đai tương đối hẹp. Võ Nguyên Giáp đã chứng minh rằng ông có những đức tính ngoài tầm cỡ bình thường trên mọi lĩnh vực lớn của cuộc chiến tranh”. | ” |
— Bách khoa toàn thư Pháp, mục từ về Võ Nguyên Giáp[115] |
“ | Ông Giáp đã chỉ huy quân đội Việt Nam chiến đấu giành thắng lợi trong một thời gian đặc biệt lâu dài suốt 30 năm, một kỳ tích chưa từng thấy! Vâng, không phải hiện nay mà muôn đời sau, tôi tin rằng cuộc đời và sự nghiệp đầy huyền thoại của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mãi mãi là tấm gương, là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam. | ” |
— Tướng Marcel Bigeard, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, cựu thiếu tá chỉ huy phó của Pháp trận Điện Biên Phủ, thành viên Học viện Quân sự Quốc phòng Pháp[116] |
“ | Đại tướng Võ Nguyên Giáp không phải là một người hiền lành. Ông không khác những chiến binh trong quá khứ, từ Attila, Tamerlane cho tới Napoleon, Zhukov, Patton, McAthur. Người hiền lành không trở thành những vị tướng huyền thoại; họ dạy lớp học giáo huấn, làm giáo sư lịch sử, hay giáo sĩ trong quân đội. Họ không làm tràn đầy những sách với những chiến công của họ hay những chiến trường với những xác chết. Giáp cũng không thể kể lại những câu chuyện về lòng từ bi hay sự thương người của ông, có thể trừ quan hệ với gia đình và con cháu, nhưng ngay cả họ chỉ nằm trong địa vị thứ ba hay thứ tư trong đời ông. Tướng Giáp đã dành trọn tình cảm của ông đến đất nước và toàn bộ sự hiến dâng đến Đảng Cộng sản. Ông đã tự hướng đến mục tiêu giải phóng Việt Nam ra khỏi sự đô hộ nước ngoài và thống nhất đất nước. Hai mục tiêu này đã giành toàn bộ sự chú ý của ông qua những thập niên trong cuộc đời, và ông đã dành trọn khát vọng và niềm kiêu hãnh vô bờ bến của mình vào đây. Mặc dù ông đã tách rời cảm xúc với những người cấp dưới cho nên chỉ xem sinh mệnh của họ như những con tốt để mà sử dụng không ngần ngại, bề ngoài lạnh buốt của ông đã che đậy một tính khí rất nóng cho nên người Pháp đã miêu tả ông là một núi lửa được tuyết che phủ. | ” |
— Cecil Currey, Chiến thắng bằng mọi giá [24] |
“ | Trong suốt thời gian đó [quá trình chỉ huy quân đội của vị tổng tư lệnh], ông không chỉ trở thành một huyền thoại mà có lẽ còn trở thành một thiên tài quân sự lớn nhất của thế kỷ 20 và một trong những thiên tài quân sự lớn nhất của tất cả các thời đại… Ông Giáp là vị tướng duy nhất trong lịch sử hiện đại tiến hành chiến đấu chống kẻ thù từ thế vô cùng yếu, thiếu trang bị, thiếu nguồn tài chính, dù mới đầu trong tay chưa có quân, vậy mà vẫn liên tiếp đánh bại tàn quân của đế quốc Nhật Bản, quân đội Pháp (một đế chế thực dân số 2) và quân đội Mỹ (một trong hai siêu cường thế giới)… Ông Giáp là chuyên gia hiện hữu vĩ đại nhất về chiến tranh nhân dân… là một vị tướng hậu cần vĩ đại của mọi thời đại. | ” |
— Nhà sử học quân sự Mỹ Cecil Currey, trong tác phẩm “Chiến thắng bằng mọi giá – Sự thiên tài của Đại tướng Võ Nguyên Giáp của Việt Nam”[113] |
“ | 30 năm trước, trước khi nổ ra cuộc Đại chiến thế giới lần thứ I, ngày 25-8-1911, ở làng An Xá (tỉnh Quảng Bình), gần vĩ tuyến 17, đã sinh ra một con người sẽ là một trong những người hiếm hoi làm chuyển dịch dòng chảy của lịch sử. Người ấy sẽ xuất hiện trước toàn thế giới như vị tướng của một quân đội sơ khai nhưng đã chiến thắng hai cường quốc phương Tây, đó là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Cho đến nay (ở tuổi gần 100), ông vẫn luôn luôn còn đó, tràn đầy nhiệt tình và nghị lực. Những chiến thắng là một liều thuốc bổ mạnh mẽ cho tâm hồn, những chiến thắng đã làm nên sức khỏe cho ông. | ” |
— Đại tướng, sử gia Anh Peter Macdonald – tác giả cuốn Giap – an assessment, bản tiếng Pháp Giap – les deux guerres d’Indochine[116] |
“ | Tài năng chiến lược của Tướng Giáp đã đặt ông vào ngôi đền của những nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại. Sau Hồ Chí Minh, ông là nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 20… Ông ấy giống như một vị thánh. Không có gì khiến ông phải chấp nhận thất bại. | ” |
— Nhà báo kiêm sử gia người Mỹ Stanley Karnow[115] |
“ | Lý do rất đơn giản…ông đánh bại không chỉ một mà hai thế lực phương Tây, đầu tiên là Pháp và sau đó là Hoa Kỳ. Cả hai đều mạnh hơn ông về quân sự, còn ông thì có rất ít phương tiện để sử dụng nhưng lại đã thành công trong việc đánh bại cả hai quốc gia này, trong đó Hoa Kỳ là quốc gia mạnh nhất thế giới về quân sự từ xưa đến nay, nhưng Giáp và quân đội của ông vẫn đứng vững, và đó là lý do tại sao ông lại có vị trí cao quý như vậy. | ” |
—Fredrik Logevall, Giáo sư Nghiên cứu Quốc tế của Đại học Cornell, New York, [111] |
“ | Giáp là người có thân hình thấp bé… Ông có một thái độ kỳ cục: tự coi mình như Napoleon của Châu Á. Ông muốn người khác nhìn ông như thế. Và tôi cũng thấy thế. | ” |
— Lucien Conein, nhân viên tình báo Mỹ thuộc đội Con Nai[117] |
Nếu như tiêu chí chọn tướng của Hồ Chủ tịch là “Đánh thắng Đại tướng được phong Đại tướng” thì suốt cuộc đời mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã lần lượt đọ sức và đánh thắng 10 đại tướng của Pháp và Mỹ (4 Pháp và 6 Mỹ), chưa kể đến nhiều viên đại tướng của chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Các tướng lĩnh Mỹ khi nhắc đến ông vẫn thường gọi ông là “Đại tướng 5 sao”, William Westmoreland gọi ông là “Tướng huyền thoại” (Legendary Giap)… Trong bách khoa toàn thư của Mỹ và của nhiều nước, tên và hình ảnh của ông được ghi lại như là một trong những vĩ nhân quân sự hiển hách nhất.
Kỷ niệm 60 năm ngày phát hành số đầu tiên, Thời báo châu Á (Time Asia) đã ra số đặc biệt giới thiệu các “Anh hùng châu Á”, gồm các nhân vật làm thay đổi cục diện châu lục trong những thập kỷ gần đây. Những nhân vật được giới thiệu gồm Mahatma Gandhi, Jawaharlal Nehru, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thiền sư Thích Nhất Hạnh,…[118]
Trong một cuốn sách được xuất bản tại Anh năm 2008 mang tựa đề Great Military Leaders and Their Campaigns (Những nhà lãnh đạo quân sự lớn và những chiến dịch của họ). Sách dày hơn 300 trang khổ lớn, với hơn 500 tấm ảnh màu minh hoạ của Nhà xuất bản Thames & Hudson dành để giới thiệu 59 nhân vật danh tiếng nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh của thế giới trong 2.500 năm qua, thứ tự được xếp theo trình tự thời gian từ cổ đến kim. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được lựa chọn là nhân vật thứ 59, tức là nhân vật nổi bật nhất kể từ sau Thế chiến thứ hai cho tới hiện nay (xếp thứ 58 là Đô đốc Nimitz của Hoa Kỳ, người chỉ huy mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến II), và Võ Nguyên Giáp cũng là người duy nhất trong 59 nhân vật vẫn còn sống khi cuốn sách được xuất bản.[119]
Danh tiếng của ông không chỉ bó hẹp ở Việt Nam mà các nước trên thế giới khi nhắc đến tên Võ Nguyên Giáp đều bày tỏ sự ngưỡng mộ sâu sắc, các dân tộc châu Phi và Mỹ La-tinh tin rằng chiến thắng Điện Biên Phủ do ông chỉ huy là khởi nguồn cho nền độc lập ngày nay của họ. Khi ông mất, hàng chục chính phủ các nước đã gửi điện chia buồn. Tổng thống Uruguay, Jose Mujica gọi ông là “vị tướng huyền thoại”, người đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh chống áp bức và “gieo niềm tin rằng yếu tố con người chính là chìa khóa của thắng lợi”.[120] Bộ Ngoại giao Venezuela ra thông cáo khẳng định việc Đại tướng ra đi cũng là một tổn thất đối với người dân quốc gia Nam Mỹ này.[115] Tổng thống Algérie – Abdelaziz Bouteflika – gọi ông là người anh hùng quân đội của nền độc lập Việt Nam, là nhà chiến lược vĩ đại đã khiến cho thực dân Pháp phải kinh hoàng ở Điện Biên Phủ, và tên tuổi ông “sẽ vẫn mãi khắc sâu trong ký ức của nhân dân Algeria.”.[121]
Các tác phẩm chính
Một số tác phẩm chính của Đại tướng như:[122][123]
- Tổng tập hồi ký”
- Vấn đề dân cày (đồng tác giả với Trường Chinh), 1938;
- Đội quân giải phóng, 1950
- Chiến tranh giải phóng và quân đội nhân dân, ba giai đoạn chiến lược, 1950
- Từ nhân dân mà ra, 1964;
- Điện Biên Phủ, 1964;
- Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng, 1970;
- Những năm tháng không thể nào quên, 1970
- Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân, 1972;
- Những chặng đường lịch sử (gồm 2 tác phẩm đã in trước đó là Từ nhân dân mà ra và Những năm tháng không thể nào quên), 1977;
- Chiến đấu trong vòng vây, 1995;
- Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, 1979;
- Đường tới Điện Biên Phủ;
- Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử;
- Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng, 2000.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, 2000
Hồi ký tiếng Anh
- Unforgettable Days, Vo Nguyen Giap, NXB Thế giới, 2003;
- Dien Bien Phu, Vo Nguyen Giap, NXB Thế giới, 2004;
- Fighting under Siege, Vo Nguyen Giap, Nhà xuất bản Thế giới, 2004;
Gia đình riêng
Võ Nguyên Giáp kết hôn lần đầu với bà Nguyễn Thị Quang Thái (1915-1944) (em gái bà Nguyễn Thị Minh Khai (1910-1941)) năm 1934 và có với nhau một người con gái là Võ Hồng Anh (1939[124]–2009), một tiến sĩ khoa học ngành Toán–lý đã từng đoạt giải thưởng Kovalevskaia năm 1988.
Sau khi bà Quang Thái hy sinh, năm 1946, ông tái hôn với giáo sư Đặng Bích Hà (1927), con gái của giáo sư Đặng Thai Mai (1902-1984). Ông bà có 4 người con, 2 gái và 2 trai
- Võ Hòa Bình (1951-), con gái.
- Võ Hạnh Phúc (10 tháng 8 năm 1952-), con gái, vợ đầu tiên của Trương Gia Bình nay đã li hôn. Hiện là Ủy viên Hội đồng quản trị Tập đoàn HIPT.
- Võ Điện Biên (1954-), con trai. Hiện là Giám đốc Công ty Cổ phần Đông Sơn.
- Võ Hồng Nam (1956-), con trai. Hiện là Giám đốc Công ty Cổ phần Máy tính Truyền thông Hồng Nam.
Câu nói nổi tiếng
“ | Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó.[125] | ” |
“ | Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng phút, từng giờ; xốc tới mặt trận; giải phóng miền Nam; quyết chiến và toàn thắng! | ” |
—Mệnh lệnh nổi tiếng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong Chiến dịch Hồ Chí Minh[126][127] |
“ | Những quyền tự do mà các ông (người phương Tây) tán dương chung quy chẳng có nghĩa lý gì với đa số nhân loại. Các ông chỉ quan tâm đến sự tự do xa xỉ của chính mình hơn là những sự tự do tối thiểu của đồng loại, là được ăn 3 bữa một ngày và không có bệnh truyền nhiễm. Thử hỏi nhân dân Ấn Độ được tự do du lịch thì có nghĩa lý gì khi họ đang sống khốn khổ. Người da đỏ Mỹ Latinh có lợi gì khi được tự do mua các ấn phẩm của phát xít.[128] | ” |
“ | Mỹ thua ở Việt Nam vì Mỹ không hiểu người Việt Nam.[129] | ” |
“ | Giải phóng dân tộc là nghĩa vụ thiêng liêng nhất của mỗi người Việt Nam yêu nước, của toàn thể dân tộc Việt Nam. Nhân dân chúng tôi quyết tâm chiến đấu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam và thực hiện hòa bình, thống nhất Tổ quốc.[130] | ” |
“ | Nghệ thuật quân sự của chúng tôi, là lấy tinh thần chế ngự vật chất, lấy yếu chế ngự mạnh, lấy thô sơ chế ngự hiện đại. Chúng tôi đánh bại quân đội đế quốc hiện đại bằng tinh thần yêu nước của nhân dân cùng với chủ nghĩa anh hùng Cách mạng.[131] | ” |
“ | Chúng tôi trả lời là từ “lo sợ” không có trong tư duy quân sự của chúng tôi, bởi vì với chúng tôi, không có gì quý hơn độc lập tự do, chúng tôi quyết đánh Mỹ và chúng tôi luôn tin tưởng là sẽ thắng.[129] | ” |
“ | Kẻ địch mạnh thì ta tránh chúng. Kẻ địch yếu thì ta đánh chúng. Nơi nào có du kích là có mặt trận, kể cả sau phòng tuyến địch. Đối phó với trang bị tối tân của chúng, chúng ta có chủ nghĩa anh hùng vô bờ bến[132] | ” |
“ | Quân đội Nhân dân Việt Nam ở cả miền Bắc và miền Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói là một quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng, có tinh thần quyết chiến rất cao, thông minh và sáng tạo. Còn vị tướng dù có công lao lớn đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ. Các ngài gọi tôi là vị tướng thần thoại, nhưng tôi tự nghĩ tôi bình đẳng với những người lính của mình.[129] | ” |
Chú thích
- ^ Điếu văn truy điệu Đại tướng Võ Nguyên Giáp Nguyễn Phú Trọng, báo ĐT CPVN cập nhật 08:16 SA, 13/10/2013
- ^ Người cuối cùng của thế hệ vàng, Quý Hiên, Tiền Phong Online cập nhật 07:17 | 12/10/2013
- ^ “Truyền thông Pháp ca ngợi Đại tướng Võ Nguyên Giáp – VnExpress”. VnExpress – Tin nhanh Việt Nam. Truy cập 8 tháng 7 năm 2015.
- ^ Thế giới ca ngợi Đại tướng Võ Nguyên Giáp
- ^ Quốc tang anh hùng dân tộc Võ Nguyên Giáp, Hoàng Điệp – Lam Giang – TTXVN, báo Tuổi Trẻ cập nhật 11/10/2013 12:53 (GMT + 7)
- ^ Đại tướng Võ Nguyên Giáp- Anh hùng dân tộc, vị tướng kiệt xuất của nhân loại, đại tá Nguyễn Huyên, báo Hà Nội Mới cập nhật 06:55 12/10/2013.
- ^ Truyền thông Pháp ca ngợi Đại tướng Võ Nguyên Giáp Nguyễn Nhàn – VnExpress 8/10/2013 20:53 GMT+7
- ^ Vo Nguyen Giap: “Ma stratégie était celle de la paix” L’Humanité cập nhật 4/10/2013
- ^ Vụ Lưu trữ VPTW (23/12/2009). “Đồng chí Võ Nguyên Giáp”. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ Tướng Giáp và ngôi nhà bên dòng Kiến Giang của Phan Phương, đăng trên Dân Việt lúc 13:30 22/08/2011.
- ^ Kennedy Hickman. “Vietnam War:Vo Nguyen Giap”. militaryhistory. Truy cập 02 tháng 7 năm 2010.
- ^ “Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ”. 22/08/2011 17:36. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2012.[liên kết hỏng]
- ^ Trần Văn (10 tháng 6 năm 2013). “Day dứt lời dặn lần cuối của Đại tướng” (bằng Tiếng Việt). VietNamNet. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2013. “quê mẹ ông Giáp ở xã Sơn Thủy”
- ^ Trung tướng Phạm Hồng Cư viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ Minh Châu Ghi theo lời kể của Trung tướng Phạm Hồng Cư, báo Thể thao & Văn hóa cập nhật 05/10/2013 00:00
- ^ Trần Mạnh Thường (22/8/2011 16:44 GMT+7). “Đại tướng Võ Nguyên Giáp, những điều ít biết” (bằng Tiếng Việt). VnExpress.
- ^ Võ Nguyên Giáp: Vị tướng giỏi ra đời vào mùa lũ Trần Huyền Thương – Vietnam+ (VietnamPlus) 02/08/2011 | 08:49:00
- ^ Chiến thắng bằng mọi giá. NXB Thế giới 2013. Trang 40
- ^ Chiến thắng bằng mọi giá. NXB Thế giới 2013. Trang 41
- ^ Võ Nguyên Giáp: Thuở học trò của vị Đại tướng – Vietnam+ (VietnamPlus) – 04/08/2011
- ^ Chiến thắng bằng mọi giá. NXB Thế giới 2013. Trang 45
- ^ Chiến thắng bằng mọi giá. NXB Thế giới 2013. Trang 46
- ^ “Đức Tùng và Tướng Giáp”. Hà Tĩnh Online. Truy cập 8 tháng 7 năm 2015.
- ^ Nguyễn Thị Quang Thái – Người cộng sản kiên trung
- ^ a ă â Cecil B. Currey (2005). Victory at Any Cost: The Genius of Viet Nam’s Gen. Vo Nguyen Giap. Potomac Books, Inc. tr. 317.
- ^ “An Officer and a Gentleman: General Vo Nguyen Giap as Military Man and Poet”. 28/1/1999. Truy cập 29 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă Chiến thắng bằng mọi giá. NXB Thế giới 2013. Trang 70 – 71
- ^ a ă Pác Bó – Cao Bằng trong trái tim Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quảng Uyên, ngày 7 tháng 10 năm 2013.
- ^ Cecil B. Currey, Chiến thắng bằng mọi giá. NXB Thế giới, trang 104.
- ^ Cecil B. Currey, Chiến thắng bằng mọi giá, NXB Thế Giới, trang 118.
- ^ SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 8 NGÀY 5 THÁNG 9 NĂM 1945
- ^ SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 30 NGÀY 12 THÁNG 9 NĂM 1945
- ^ Nhớ mãi về bác Bùi Lâm, Tạp chí Kiểm sát
- ^ SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 33A NGÀY 13 THÁNG 9 NĂM 1945
- ^ SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 36 NGÀY 22 THÁNG 9 NĂM 1945
- ^ Bộ Giáo dục và Đào tạo, Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), Lịch sử 12 nâng cao, NXB Giáo dục, Thanh Hóa, 2008. Trang 169.
- ^ Bác Hồ trước họa “diệt cộng, cầm Hồ”, 18/12/2011, Báo điện tử Quân đội nhân dân
- ^ Vietnam’s History, Lonely Planet Travel
- ^ Những năm tháng không thể nào quên, Phần 4, Võ Nguyên Giáp
- ^ a ă Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb Đà Nẵng, 2008, trang 544 – 545
- ^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, NXB Trẻ, 2009. Trang 33.
- ^ Cecil B. Currey. Chiến thắng bằng mọi giá. trang 177, NXB Thế giới, 2013
- ^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, NXB Trẻ, 2009. Trang 113.
- ^ Mãi mãi ghi nhớ Quốc hội khoá I (17/05/2011), Thái Duy, Báo Đại Đoàn Kết, số ra ngày 17/05/2011, trích “Bọn phản động tưởng trúng cử chỉ là Việt Minh cộng sản, chúng cho là chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được.”
- ^ a ă â Mãi mãi ghi nhớ Quốc hội khoá I (17/05/2011), Thái Duy, Báo Đại Đoàn Kết, số ra ngày 17/05/2011
- ^ Nohlen, D, Grotz, F & Hartmann, C (2001) Elections in Asia: A data handbook, Volume II, p. 324 ISBN 0-19-924959-8
- ^ Cựu Thủ tướng chính quyền được bảo quân đội Nhật Bản bảo hộ.
- ^ Một cơn gió bụi, Chương VI: Chính phủ Việt Nam và tình thế trong nước
- ^ Van kien Quoc hoi toan tap: Danh sách đại biểu Quốc hội khóa I, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946
- ^ Thông tin chi tiết đại biểu quốc hội khóa VII Võ Nguyên Giáp
- ^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, NXB Trẻ, 2009. Trang 99.
- ^ Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Tổng tập Hồi ký, Những năm tháng không thể nào quên, trang 315
- ^ a ă David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 415, California: University of California Press, 2013
- ^ Phạm Văn Quyền (chủ biên). 60 năm Công an nhân dân Việt Nam. NXB Công an nhân dân. 2006. trang 104.
- ^ Cecil B. Currey. Chiến thắng bằng mọi giá. NXB Thế giới. Trang 177 -178
- ^ a ă Chiến thắng bằng mọi giá, trang 196-197, Cecil B. Currey, Nxb Thế Giới, 2013
- ^ Sắc lệnh số 110/SL của Chủ Tịch nước: Sắc lệnh ông Võ Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy quân đội quốc gia và dân quân, nay thụ cấp Đại tướng kể từ ngày ký sắc lệnh Chủ tịch Chính phủ ký 20/1/1948. Hình ảnh văn bản do gia đình cung cấp 9/10/2013
- ^ “Nhớ lễ phong tướng 60 năm trước” (Thông cáo báo chí). Đại tướng Võ Nguyên Giáp, báo Quân đội nhân dân. 1/02/2008, 10:48 (GMT+7). Truy cập 21/12/2011.
- ^ Tướng Giáp – người phản đối chiến tranh, Pierre Asselin, Phó Giáo sư Lịch sử thuộc Đại học Hawaii Pacific, Hoa Kỳ, BBC online, 15:54 GMT – thứ hai, 28 tháng 10, 2013
- ^ “Kỷ niệm 60 năm Tướng Giáp nhận hàm”. BBC. 20 Tháng 4 2008 – Cập nhật 15h32 GMT. Truy cập 24/10/2013.
- ^ Trích từ sách “Lê Duẩn một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam” do NXB Chính trị quốc gia xuất bản 2002
- ^ James Fox. The Sunday Times magazine. 7-1972
- ^ Bác Hồ với Tết Mậu Thân 1968 Hà Vy sưu tầm, báo Quân đội nhân dân cạp nhật 11/02/2013, 10:5 (GMT+7)
- ^ Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III, Tháng 1 – 1968 báo ĐT ĐCS VN cập nhật 14:21 | 21/09/2006
- ^ Chữ nhẫn của đại tướng Lê Đăng Doanh – Thời báo Kinh tế Sài gòn 10/10/2013, 09:54 (GMT+7)
- ^ Thượng tướng Giáo sư Hoàng Minh Thảo sau này có lần phàn nàn: nếu Chiến dịch Trị Thiên được thực hiện theo kế hoạch của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tức vòng qua phía tây Huế, chia lực lượng và hỏa lực đánh vào Vùng Chiến thuật I thì đỡ được biết bao thương vong. Đây thì chỉ biết có tiến công và tiến công dưới mưa bom bão đạn, đến khi kiệt sức thì buộc phải dừng lại rồi bị phản kích…
- ^ Đồng chí Võ Nguyên Giáp Quá trình phát triển: Bộ Khoa học và Công nghệ
- ^ Lệnh 28-LCT ngày 7 tháng 2 năm 1980 của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng.
- ^ Victory at Any Cost: The Genius of Viet Nam’s Gen. Vo Nguyen Giap, Cecil B. Currey, trang 231 (ISBN 1612340105)
- ^ “Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng số 58/HĐBT ngày 11 tháng 4 năm 1984 về việc thành lập Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch”. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2010.
- ^ Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng số 58/HĐBT ngày 11 tháng 4 năm 1984 về việc thành lập Uỷ ban Quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch
- ^ Tóm tắt tiểu sử đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp TTXVN 05/10/2013 | 18:09:00
- ^ Kiểm điểm vụ PMU18 và báo cáo Đại hội X báo Tuổi Trẻ 13/04/2006 03:16 (GMT + 7)
- ^ Đại tướng, doanh nhân, và… chuyện mít Việt ra thế giới Bình Nguyễn – Nghĩa Nam, báo Tiền Phong 09:42, 30/09/2007
- ^ Tướng Giáp phản đối việc phá Hội trường Ba Đình BBC 05 Tháng 11 2007 – Cập nhật 12h55 GMT
- ^ “Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết bài về giáo dục”. Vietnamnet. 10 tháng 9 năm 2007.
- ^ Tướng Giáp đề nghị dừng dự án bauxite BBC 18 Tháng 1 2009 – Cập nhật 06h12 GMT
- ^ Các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước đi bầu cử BĐT ĐCSVN 14:23 | 22/05/2011
- ^ Lãnh đạo Bộ Quốc phòng thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 Nguyễn Tấn Tuân, QĐND – Thứ Hai, 25/07/2011, 14:12 (GMT+7)
- ^ Vietnam’s General Vo Nguyen Giap dies BBC cập nhật 18:53 GMT 4/10/2013
- ^ International: Legendary Vietnam Gen. Vo Nguyen Giap Dies at 102 MARGIE MASON & CHRIS BRUMMITT Associated Press, HANOI, Vietnam 4/10/2013 (AP)
- ^ a ă Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời Nguyễn Hưng – Quý Đoàn – Hoàng Thùy, VnExpress 4/10/2013 20:42 GMT+7
- ^ Đại tướng Võ Nguyên Giáp yên nghỉ tại quê nhà Quảng Bình Nguyễn Hưng, VnExpress 5/10/2013 17:54 GMT+7
- ^ Đã thống nhất nơi an táng Đại tướng. Trần Văn, báo Vietnamnet 07/10/2013 21:09 GMT+7
- ^ “Những chuyện chưa biết về các kỷ vật của tướng lĩnh Việt Nam. Bài 8: Vị đại tướng đầu tiên và những kỷ vật vô giá” (Thông cáo báo chí). Bá Kiên – Trần Dương, báo Tiền Phong. 00:00, 22/12/2004. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Giới thiệu về huân chương Hồ Chí Minh” (Aspx) (bằng Tiếng Việt). Ban thi đua – Khen thưởng Trung ương. 7 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2013. “Đại tướng Võ Nguyễn Giáp là người đầu tiên được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và cũng là người được tặng thưởng lần hai (lần thứ nhất năm 1950 và lần thứ hai năm 1979).”
- ^ Sắc lệnh phong hàm Đại tướng Võ Nguyên Giáp của Chủ tịch Hồ Chí Minh RadioVN
- ^ a ă Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Nhà chỉ huy quân sự tài ba Tạp chí Thi đua Khen thưởng.
- ^ TTXVN (28 tháng 10 năm 2010). “Trao tặng đại tướng Võ Nguyên Giáp huy hiệu 70 năm tuổi Đảng”. Báo Tuổi trẻ Online. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2010.
- ^ Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam qua các kỳ Đại hội Cập nhật: 07/11/2010 20:24
- ^ Huyền thoại Võ Nguyên Giáp qua góc nhìn sử học – RFI
- ^ Đại tướng là Chủ tịch danh dự muôn đời của chúng tôi – Báo Quảng Bình điện tử
- ^ Lãnh đạo TƯ Hội Khuyến học viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Sự kiện – Dân trí
- ^ Giới thiệu Hội Khuyến học Việt Nam
- ^ Nhớ kỷ niệm được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp Anh Phong, Thừa Thiên Huế Online cập nhật 14/10/2013 11:01
- ^ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người “truyền lửa” cho sự nghiệp giáo dục – Quân đội nhân dân
- ^ Những dấu mốc cuộc đời Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tuổi Trẻ, ngày 13 tháng 10 năm 2013.
- ^ Võ Nguyên Giáp – Tư lệnh của các tư lệnh!, Tiền Phong, ngày 05 tháng 10 năm 2013.
- ^ Cecil B. Currey & Cecil R. Currey (1997), Victory at Any Cost: The Genius of Viet Nam’s Gen. Vo Nguyen Giap, ISBN 1-57488-194-9, Page 55.
- ^ a ă â b c Tiên Long, Những cái tên trong cuộc đời tướng Giáp, VNExpress, Ngày 9 tháng 10 năm 2013.
- ^ Thượng tướng Hoàng Minh Thảo: Vẫn nguyên vẹn người lính thời binh lửa báo Diễn đàn Doanh nghiệp Cập nhật lúc 05:24 – Thứ năm, 06/09/2007 bản lưu 18/9/2008
- ^ a ă â b Gabriel Domínguez Vo Nguyen Giap – ‘A master of revolutionary war’ Deutsche Welle, 07.10.2013
- ^ a ă Joseph R. Gregory (4 tháng 10 năm 2013). “Gen. Vo Nguyen Giap, Who Ousted U.S. From Vietnam, Is Dead”. The New York Times. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2013.
- ^ David Lamb (4 tháng 10 năm 2013). “Vo Nguyen Giap dies at 102; Vietnamese general led North to victory”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Vietnam’s military mastermind Vo Nguyen Giap dies”. Reuters. 4 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2013.
- ^ James Hookway (4 tháng 10 năm 2013). “Vietnamese Military Mastermind Gen. Giap Dies”. The Wall Street Journal. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2013. “Such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius”
- ^ Vo Nguyen Giap obituary: Vietnamese general Vo Nguyen Giap dies – latimes.com
- ^ The Fall of Dien Bien Phu | History Today
- ^ Legendary Vietnam Gen. Vo Nguyen Giap Dies | TIME.com
- ^ Điện Biên Phủ – điểm hẹn lịch sử. NXB Quân đội nhân dân. Chương 4: Quyết định khó khăn nhất
- ^ James Hookway (5 tháng 10 năm 2013). “Võ Nguyên Giáp – người làm chuyển dịch dòng chảy lịch sử”. TUỔI TRẺ ONLINE. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2013.
- ^ a ă Bài phỏng vấn giáo sư Fredrik Logevall của đài CNN về Đại tướng Võ Nguyên Giáp
- ^ Cecil B. Currey, Chiến thắng bằng mọi giá, NXB Thế Giới, trang 236
- ^ a ă â b Trần Chiến Thắng (23 tháng 12 năm 2007). “Võ Nguyên Giáp”. Báo Tuổi trẻ Cuối tuần. Bản gốc lưu trữ 27/5/2012. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2010.
- ^ Nguyên bản “He doesn’t so much stand out from other generals in history as he stands tall among them.” Nguồn [1] này dịch “stands tall among them” là “đứng cao hơn hẳn họ”.
- ^ a ă â Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong mắt các học giả quốc tế Song Long, VnExpress 5/10/2013 18:19 GMT+7
- ^ a ă Võ Nguyên Giáp – người làm chuyển dịch dòng chảy lịch sử – Chính trị – Xã hội – Tuổi Trẻ Online
- ^ Chiến thắng bằng mọi giá, trang 156, Cecil B. Currey, Nxb Thế Giới, 2013
- ^ 60 Years of Asian Heroes: General Vo Nguyen Giap
- ^ Dương Trung Quốc (21.8.2010, 11:39 (GMT + 7)). “Về vị Đại tướng tròn 100 tuổi” (bằng Tiếng Việt). Lao Động (báo). Truy cập 21/6/2011.
- ^ “’Tướng Giáp từ trần là tổn thất với Venezuela’”. VnExpress.net. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2013.
- ^ “‘Tướng Giáp là một nhà chiến lược quân sự vĩ đại’”. baophuyen.com.vn. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2013.
- ^ Sách hay về Tướng Giáp – VietNamNet
- ^ Tổng tập hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Quân đội nhân dân Đặng Việt Thủy QĐND – Thứ sáu, 03/12/2010 | 22:53 GMT+7
- ^ Theo thông tin trong bài Ngôi nhà hạnh phúc Võ Nguyên Giáp – Quang Thái của tướng Phạm Hồng Cư đăng trên Vietnamnet, hồi 04:51 ngày 09/10/2013
- ^ “Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chúc thọ Đại tướng Võ Nguyên Giáp”. Báo Dân trí. 7 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2010.
- ^ Gặp lại người mã hoá bức điện mật lịch sử
- ^ Người mã hoá bức điện mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
- ^ Chiến thắng bằng mọi giá. NXB Thế giới. trang 414
- ^ a ă â “Cuộc đối thoại lịch sử: Tướng Giáp và Nguyên Bộ trưởng QP Mỹ”. Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam. 27/08/11 11:22. Truy cập 24/3/2015.
- ^ “Những bức ảnh chấn động một thời về chiến tranh VN: Trả lời phỏng vấn của nhà báo Wilfred Graham Burchett năm 1966” (Thông cáo báo chí). báo Đất Việt. 15:17, 19/09/2011. Bản gốc lưu trữ 19/11/2012. Truy cập 24/10/2013.
- ^ Phim tài liệu: Indochina People’s War in Colour. History Channel, tập 2
- ^ Jame Fox. The Sunday Times Magazine, 7-1972
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Võ Nguyên Giáp |
(tiếng Việt)
- Võ Nguyên Giáp tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- Trang chính thức về Đại tướng Võ Nguyên Giáp do gia đình thực hiện mfb
- Những hồi ức về Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên Từ điển bách khoa Việt Nam, xuất bản 21/6/2012
- Bài tham luận của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho Hội thảo khoa học: Đại thắng mùa Xuân 1975 – Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam do Bộ Quốc phòng, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương tổ chức ngày 14 và 15-4-2005: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thắng lợi vĩ đại, bài học lịch sử
- Lời kêu gọi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp chống bành trướng Bắc Kinh năm 1979: Nhân dân Việt Nam nhất định thắng lợi, giặc Trung Quốc xâm lược nhất định thất bại
- Chuyên đề “Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp” 25/8/1911-25/8/2011 Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III[liên kết hỏng] và Trung tâm Lưu trữ quốc gia III trưng bày chuyên đề: Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp
- Võ Nguyên Giáp, cựu sinh viên Trường Luật – Đại học Đông Dương Đại học Quốc gia Hà Nội
- Những chuyện chưa biết về các kỷ vật của tướng lĩnh Việt Nam. Bài 8: Vị đại tướng đầu tiên và những kỷ vật vô giá Bá Kiên – Trần Dương trên báo Tiền phong online 00:00 ngày 22 tháng 12 năm 2004
- Tạp chí Times Asia ca ngợi Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên Thông tấn xã Việt Nam (14/11/2006) 9:39 AM.
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp 70 năm tuổi Đảng Đức Dũng 6:58 PM, 27/10/2010, báo điện tử chính phủ Việt Nam
- Nỗi băn khoăn của Tướng Giáp Phỏng vấn Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh về Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 5/10/2013
- Thời gian ‘chịu đựng’ của Tướng Giáp BBC
- Tướng Giáp: ‘Người trung thành với Đảng’ Tiến sĩ Edwin Moise từ Đại học Clemson, Mỹ
- Tướng Giáp – Trước và sau khi mất Thanh Quang, phóng viên RFA 2013-10-11
- Võ Nguyên Giáp tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Nguyen Giap Vo trên Internet Movie Database
- Bài viết Milestones: Commemorating Dien Bien Phu của Austin Ramzy trên trang Time Asia, 10/5/2004.
- General Vo Nguyen Giap Kay Johnson, Time 13/11/2006 bản lưu 6/12/2006
- Interview with Vo Nguyen Giap, Viet Minh Commander | Phỏng vấn với Võ Nguyên Giáp – PBS.org
- Currey Cecil B, Senior General Vo Nguyen Giap Remembers, Cecil B Currey, Journal of Third World Studies, Fall 2003
- Tổng hợp sách báo viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp
|
|
|
|
|
|
|
|
|
- Sinh 1911
- Mất 2013
- Người Quảng Bình
- Anh hùng dân tộc Việt Nam
- Nhà cách mạng Việt Nam
- Phó Thủ tướng Việt Nam
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 1
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 2
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 3
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 4
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 5
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 6
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 7
- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam
- Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam
- Học sinh Quốc học Huế
- Huân chương Sao Vàng
- Huân chương Hồ Chí Minh
- Huân chương Quân công
- Huân chương Chiến thắng
- Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam
- Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam
- Tân Việt Cách mệnh Đảng
- Người thọ bách niên Việt Nam
- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa I
- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa II
- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III
- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV
- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa V
- Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa I
- Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa II
- Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III
- Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV
- Chiến dịch Điện Biên Phủ
- Võ Nguyên Giáp
- Cựu sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội
- Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
- Danh hiệu Việt Nam
- Phật tử Việt Nam
- Cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam
- Bộ trưởng Việt Nam
- Người Cộng sản Việt Nam
- Tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam
David Hume
![]() |
|
Thời đại | Triết học thế kỷ XVIII, |
---|---|
Lĩnh vực | Triết học phương Tây |
Trường phái | Chủ nghĩa kinh nghiệm, Khai sáng Scottland |
Sở thích | Siêu hình học, Nhận thức luận, Tâm thức, Luân lý học, Chính trị, Mỹ học, Tôn giáo |
Ý tưởng nổi trội | Luận đề về nhân quả, Luận đề về quy nạp, Luận đề về miêu tả – quy chuẩn, vị lợi |
Ảnh hưởng bởi[hiện]
|
|
Ảnh hưởng tới[hiện]
|
David Hume (7 tháng 5, 1711 – 25 tháng 8, 1776) là một triết gia, nhà kinh tế học và nhà sử học người Scotland, một trong những nhân vật quan trọng nhất trong thời kỳ Khai sáng của Scotland.
Các sử gia thường xem triết học Hume như là một dạng thức triệt để của chủ nghĩa hoài nghi, nhưng nhiều người khác đã lý luận rằng trong triết học Hume, thành phần chủ nghĩa tự nhiên cũng không kém phần quan trọng.
Hume chịu ảnh hưởng lớn bởi các nhà kinh nghiệm chủ nghĩa John Locke và George Berkeley, cùng với nhiều tác giả tiếng Pháp như Pierre Bayle, và nhiều tác giả tiếng Anh như Isaac Newton, Samuel Clarke, Francis Hutcheson, và Joseph Butler. Ông có ảnh hưởng lớn tới các triết gia và nhà khoa học khác như Adam Smith, Adam Ferguson, Kant, Bentham, James Madison, Alexander Hamilton, Auguste Comte, William James, Darwin, Russell, T. H. Huxley, J. S. Mill, Einstein, Ayer, J. L. Mackie.
Mục lục
- 1 Tiểu sử
- 2 Di sản
- 2.1 Ý niệm và ấn tượng
- 2.2 Luận đề về nhân quả
- 2.3 Luận đề về quy nạp
- 2.4 Vấn đề về bản ngã
- 2.5 Lý tính thực tiễn: thuyết công cụ và thuyết hư vô
- 2.6 Thuyết luân lý dựa trên cảm tính
- 2.7 Ý chí tự do và thuyết quyết định
- 2.8 Luận đề miêu tả-quy chuẩn
- 2.9 Thuyết vị lợi
- 2.10 Vấn đề về các phép mầu
- 2.11 Luận cứ thiết kế
- 3 Tham khảo
- 4 Chú thích
- 5 Đọc thêm
- 6 Xem thêm
- 7 Liên kết ngoài
Tiểu sử
Hume sinh ngày 26 tháng 4 theo lịch Julius, tức 7 tháng 5 năm 1711 theo lịch Gregory, tại Edinburgh. Trong suốt cuộc đời, thỉnh thoảng ông sống ở ngôi nhà gia đình tại Ninewells, Chirnside, Berwickshire. Ông được gia đình gửi vào Đại học Edinburgh khi mới 12 tuổi. Ban đầu, ông định theo nghề luật, nhưng rồi ông cảm thấy “một ác cảm không thể vượt qua đối với tất cả mọi thứ trừ việc theo đuổi triết học và sự Học nói chung“.
Năm 1729, khi được 18 tuổi, ông đã có một phát kiến triết học mà nó đã mở ra cho ông “một màn mới của tư tưởng“. Ông đã không thuật lại: đó là cái gì?, nhưng có vẻ như đó chính là thuyết nhân quả của ông – rằng niềm tin của ta vào nguyên nhân và kết quả phụ thuộc vào cảm tính, truyền thống và thói quen, chứ không phụ thuộc vào lý tính hay các quy luật tổng quát, phi thời gian và trừu tượng của thiên nhiên
Năm 1734, sau vài tháng ở Bristol, ông rút về để tự nghiên cứu và một mình thực hiện các thí nghiệm tư duy tại La Fleche ở Anjou, France. Trong bốn năm ở đó, ông đã đặt ra kế hoạch của cuộc đời mình. Cũng trong thời gian đó, ông hoàn thành cuốn “A Treatise of Human Nature” (Một luận thuyết về bản chất con người) vào tuổi 26. Mặc dù ngày nay, nhiều học giả coi Luận thuyết là tác phẩm quan trọng nhất của Hume và là một trong các cuốn sách quan trọng nhất trong lịch sử triết học, ban đầu, công chúng ở Anh quốc không cho là như vậy. Sau khi Luận thuyết không được công chúng đón nhận, Hume viết An Abstract Of A book lately published; Entituled, A Treatise Of human nature, – Wherein The chief argument of that Book is farther illustrated and Explained với mục đích làm cho tác phẩm của mình dễ đọc hơn. Tuy nhiên, Luận thuyết vẫn không được quan tâm.
Sau khi xuất bản cuốn Essays Moral and Political (Các bài luận về đạo đức và chính trị) vào năm 1744, ông xin vị trí giáo sư môn luân lý học và tâm lý học tại Đại học Edinburgh nhưng bị từ chối. Trong cuộc nổi dậy Jacobite năm 1745, ông đã dạy Hầu tước Annandale. Đó là khi ông bắt đầu cuốn lịch sử đồ sộ của mình The History of Great Britain (Lịch sử Vương quốc Anh), cuốn sách được viết trong 15 năm và dài hơn một triệu từ, được xuất bản thành 6 tập trong thời kỳ từ 1754 đến 1762. Năm 1748 ông bắt đầu phục vụ 3 năm trong quân đội với vai trò thư ký của tướng St Clair và viết cuốn Philosophical Essays concerning Human Understanding (Các bài luận triết học về hiểu biết của con người), và sau được xuất bản với tên An Enquiry concerning Human Understanding (Một câu hỏi về hiểu biết của con người). Cuốn sách này cũng không thành công hơn Luận thuyết.
Hume bị buộc tội dị giáo nhưng ông đã được tuyên bố trắng án. Nhưng có lẽ do sự chống đối của Thomas Reid xứ Aberdeen, người mà năm đó đã đưa ra phê phán mạnh mẽ của Cơ Đốc giáo đối với lý thuyết siêu hình học của Hume, ông đã không nhận được vị trí giáo sư triết học tại Đại học Glasgow. Năm 1752, ông được nhận vào làm quản lý thư viện của Khoa Luật. Đây chính là nguồn tài liệu cho ông tiếp tục các nghiên cứu của mình về lịch sử.
Hume đạt được tiếng tăm lớn với danh nghĩa một nhà sử học và một người viết tiểu luận. Tác phẩm “Lịch sử Vương quốc Anh” (History of Great Britain) từ thời các vương quốc Saxon cho tới Cách mạng Anh 1688 đã là một trong các cuốn sách bán chạy nhất thời đó. Trong tác phẩm đó, Hume đã trình bày con người chính trị như là một sinh vật của thói quen, với một khuynh hướng yên lặng tuân theo chính phủ trừ khi gặp phải các tình huống không chắc chắn. Theo quan điểm của ông, chỉ có các khác biệt về tôn giáo mới có thể làm lệch hướng con người khỏi cuộc sống hàng ngày để nghĩ về các vấn đề chính trị.
Bài luận thời kỳ đầu của Hume “Về mê tín và tôn giáo” (Of Superstition and Religion) đã đặt nền móng cho hầu hết các tư tưởng thế tục về lịch sử tôn giáo. Ở thời của Hume, phê phán về tôn giáo phải được biểu đạt một cách cẩn trọng. Chưa đầy 15 năm trước khi Hume sinh ra, Thomas Aikenhead, một sinh viên 18 tuổi, đã bị xử vì đã công khai nói rằng Cơ Đốc giáo là thứ vô nghĩa. Anh ta đã bị kết án treo cổ vì tội báng bổ. Hume cũng theo cách thông thường, ông biểu đạt kiến giải của mình một cách mơ hồ, thông qua các nhân vật trong các đoạn hội thoại. Hume đã không thừa nhận là tác giả của “Luận thuyết” cho đến tận năm ông qua đời, năm 1776. Các bài luận của ông với tựa đề “Về việc tự vẫn” (Of Suicide), và “Về sự bất tử của linh hồn” (Of the Immortality of the Soul) và “Đối thoại về tôn giáo tự nhiên” (Dialogues Concerning Natural Religion) đã bị giữ không được xuất bản cho đến sau khi ông qua đời (được xuất bản lần lượt vào các năm 1778 và 1779), và khi đó chúng vẫn không mang cả tên tác giả lẫn tên nhà xuất bản. Trong việc ngụy trang quan điểm của chính mình, Hume đã tài tình đến nỗi ngày nay vẫn đang tiếp diễn các cuộc tranh luận về thực chất Hume là người vô thần hay Thần giáo tự nhiên.
Từ năm 1763 tới năm 1765, Hume là thư ký cho Huân tước Hertford tại Paris, nơi ông đã được Voltaire ngưỡng mộ và các quý bà trọng vọng. Ông đã kết bạn và sau đó bất hòa với Rousseau. Năm 1768, ông định cư tại Edinburgh. Sự quan tâm đến các tác phẩm triết học của Hume lên cao sau khi triết gia người Đức, Immanuel Kant, ghi nhận Hume đã đánh thức ông ra khỏi “giấc ngủ giáo điều” (khoảng năm 1770), và từ đó Hume đạt được sự thừa nhận của công chúng.
James Boswell đã đến thăm Hume một vài tuần trước khi ông qua đời. Hume nói với ông ta rằng ông thành thực tin rằng khả năng có cuộc sống sau cái chết là một “sự tưởng tượng vô lý nhất”[1]. Hume viết văn bia của chính mình: “Sinh năm 1711, Chết [—-]. Phần còn lại để cho hậu thế viết thêm.” Câu đó đã được khắc thêm năm mất của ông, 1776, lên một “ngôi mộ Roman đơn giản” mà ông đã yêu cầu. Ngôi mộ đứng trên sườn phía đông đồi Calton, nhìn về phía ngôi nhà của ông ở số 1 phố St David, New Town, Edinburgh, như ông đã mong muốn.
Di sản
Dưới đây là tóm tắt về một số trong số các công trình triết học có ảnh hưởng lớn nhất của ông:
Ý niệm và ấn tượng
Hume tin rằng tất cả kiến thức của con người đều đến với chúng ta qua các giác quan. Các nhận thức của chúng ta, theo như cách gọi của ông, có thể được chia thành hai loại: các ý niệm và các ấn tượng. Ông định nghĩa các thuật ngữ này trong tác phẩm An Enquiry Concerning Human Understanding (Một câu hỏi về sự hiểu biết của con người) như sau: “Với thuật ngữ ấn tượng, tôi muốn nói đến tất cả các nhận thức sống động hơn của chúng ta, khi ta nghe thấy, nhìn thấy, hoặc cảm thấy, hoặc yêu, hoặc ghét, hoặc ước, hoặc muốn. Và ấn tượng phân biệt với ý niệm; các ý niệm là những nhận thức ít sống động hơn, ta nhận ra chúng khi ta suy ngẫm về một trong các cảm giác hoặc các hoạt động kể trên.” Ông miêu tả rõ hơn về các ý niệm: “… tất cả các ý niệm của ta chỉ là các bản sao của các ấn tượng của ta. Nói cách khác, ta không thể nghĩ về bất cứ cái gì mà ta chưa hề cảm nhận được từ trước đó, hoặc bằng các giác quan bên ngoài hoặc bằng các giác quan nội tại.” Điều này tạo thành một khía cạnh quan trọng của chủ nghĩa hoài nghi của Hume, vì ông nói rằng ta không thể chắc chắn rằng một thứ gì tồn tại, chẳng hạn Thượng đế, một linh hồn, hoặc một bản ngã, trừ khi ta có thể chỉ ra ấn tượng mà ý niệm về sự vật đó đã được rút ra từ đó.
Luận đề về nhân quả
Khi một sự kiện xảy ra tiếp sau một sự kiện khác, hầu hết mọi người cho rằng một mối quan hệ giữa hai sự kiện “làm cho” sự kiện thứ hai theo sau sự kiện thứ nhất (post hoc ergo propter hoc). Hume thách thức niềm tin này lần đầu trong tác phẩm đầu tay của ông Treatise of Human Nature (Luận thuyết về bản chất con người), và sau đó là trong tác phẩm Enquiry Concerning Human Understanding. Ông ghi nhận rằng, mặc dù ta chứng kiến một sự kiện xảy ra tiếp sau sự kiện kia, ta không chứng kiến bất cứ một quan hệ cần nào giữa hai sự kiện. Hume lấy ví dụ về hai quả bi-a: quả bóng đen lăn tới đập vào quả bóng trắng, và quả bóng trắng bắt đầu lăn. Ông nói rằng, thực chất, ta chỉ chứng kiến các sự kiện bóng lăn mà không chứng kiến rằng quả bóng trắng lăn là vì bị quả bóng đen đập phải, (tuy nhiên, ta lại có kỳ vọng rằng quả bóng trắng sẽ lăn sau khi bị quả bóng đen đập phải). Và theo nhận thức luận hoài nghi của ông, ta chỉ có thể tin vào các tri thức mà ta thu được từ các nhận thức của mình. Do đó, quan hệ nhân quả kia không nằm trong bản chất của sự vật mà chỉ nằm trong tâm thức của ta. Hume thiết lập rằng ý niệm của con người về nhân quả chẳng qua chỉ là sự trông đợi rằng một số sự kiện nhất định nào đó sẽ xảy ra sau các sự kiện khác đã đến trước[2].
Một quan niệm như vậy tước bỏ tất cả động lực của thuyết nhân quả, và sau này một số người theo trường phái Hume như Bertrand Russell đã loại bỏ hoàn toàn khái niệm nhân quả như thể một cái gì đó tương tự mê tín dị đoan. Nhưng quan niệm đó thách thức kinh nghiệm thông thường (common sense), từ đó sinh ra vấn đề về nhân quả; cái gì biện minh cho niềm tin của ta vào một quan hệ nhân quả, và ta có thể có được tri thức về loại quan hệ nào? – một vấn đề không có một lời giải được chấp nhận. Hume khẳng định rằng con người (và các động vật khác) có một niềm tin bản năng vào luật nhân quả dựa trên sự phát triển của các thói quen trong hệ thần kinh, một niềm tin mà ta không thể xóa bỏ, nhưng cũng không thể chứng minh bằng bất cứ luận cứ nào, diễn dịch hay quy nạp. Đó cũng là trường hợp của niềm tin của chúng ta vào thực tại của thế giới bên ngoài.
Luận đề về quy nạp
Hume là người đầu tiên xây dựng luận đề về quy nạp(cùng với diễn dịch là một phương pháp suy luận quan trọng logic học) là dựa trên căn cứ nào mà ta có kết luận từ suy luận quy nạp. Câu trả lời là dựa trên thực tế quan sát thấy tức là sử dụng cách suy luận quy nạp. Và nói như vậy là lý luận vòng quanh.
Một ví dụ đơn giản về phương pháp quy nạp là hầu hết mọi người đều chắc chắn rằng mỗi khi thả một hòn đá thì hòn đá sẽ rơi. Nhưng thực tế là người ta chỉ được chứng kiến hòn đá đã rơi nhiều lần, chứ chưa hề chứng kiến rằng hòn đá sẽ rơi, hay luôn luôn rơi. Có thể giải thích rằng hòn đá rơi là do định luật hấp dẫn. Nhưng chúng ta chưa hề trải nghiệm định luật đó, ta mới chỉ chứng kiến các vật rơi.
Cố gắng giải thích bằng một luận cứ viện dẫn đến một “nguyên lý đồng nhất” rằng quá khứ và tương lai tương tự nhau chắc chắn thất bại: Một nguyên lý như vậy có thể đã được thiết lập chỉ từ kinh nghiệm, trong khi kinh nghiệm lại chỉ được chứng minh là đúng trong quá khứ. Như đã giải thích ở trên, vì đã nhiều lần chứng kiến hòn đá rơi, nên chính thói quen đã làm cho ta trông đợi rằng hòn đá sẽ lại rơi khi được thả. Rõ ràng, ta không có cách nào khác là phải dựa vào các kỳ vọng đó, nghĩa là phải học bằng kinh nghiệm. Từ quan điểm thực tiễn, việc đó được đánh giá là hoàn toàn hữu ích. Tuy nhiên, nhìn từ phía lý tính, nó vẫn là một việc làm không hợp lý.
Vấn đề về bản ngã
Tuy nhiên, Hume phủ nhận sự phân biệt giữa các đặc điểm đa dạng của một con người và cái bản ngã kỳ bí được cho là chứa đựng các đặc điểm đó. Hume chỉ ra rằng, khi xem xét nội tâm, ta nhận thấy một bó các suy nghĩ, cảm xúc, tri giác và những thứ tương tự, nhưng ta không bao giờ thấy một cái gì mà có thể gọi là “bản ngã”. Nhận thức về bản ngã trong thực tế là một chuỗi dài những ấn tượng đơn mà ta không bao giờ trải nghiệm trong cùng thời điểm. Tâm thức là “một kiểu nhà hát, nơi một vài tri giác nối tiếp nhau xuất hiện: qua, lại, lướt đi, và hòa vào trong vô số các tư thế và tình thế”. Theo cách nhìn của Hume, các tri giác này không “thuộc” về bất cứ cái gì, không có một cái gì liên quan đến bản ngã trong đó. Thay vào đó, Hume so sánh linh hồn với một khối thịnh vượng chung, cái gìn giữ định danh của mình không phải bằng một chất cốt lõi bền lâu mà bằng cách được hợp thành từ nhiều thành phần khác nhau, có quan hệ với nhau và liên tục biến đổi. Khi đó, câu hỏi về đặc tính cá nhân trở thành vấn đề miêu tả đặc điểm của khối kết dính lỏng lẻo các trải nghiệm của một người.
Phân tích của Hume về tâm thức con người và sự phủ nhận bản ngã bất biến cũng tương đồng với tư tưởng của Phật giáo đã được đưa ra 2500 năm trước thời của ông.
Lý tính thực tiễn: thuyết công cụ và thuyết hư vô
Hầu hết chúng ta thấy một số hành vi hợp lý hơn các hành vi khác. Ví dụ, việc ăn giấy nhôm có vẻ có cái gì đó không hợp lý. Nhưng Hume phủ nhận lý tính có bất cứ vai trò quan trọng nào trong việc thúc đẩy hoặc không khuyến khích hành vi. Dù sao thì lý tính cũng chỉ là một dạng máy tính dành cho các khái niệm và kinh nghiệm. Hume cho rằng, điều có ý nghĩa tối cao là chúng ta cảm thấy như thế nào về hành vi đó. Nghiên cứu của ông liên quan đến thuyết công cụ (instrumentalism). Học thuyết này nói rằng một hành động được gọi là hợp lý khi và chỉ khi nó phục vụ các mục đích và mong muốn của người thực hiện nó, bất kể các mục đích và mong muốn ấy là những gì. Lý tính bước vào bức tranh đó chỉ với vai trò một kẻ phục vụ, nó thông báo cho chủ thể hành động các cơ sở lập luận hữu ích về hành động nào sẽ phục vụ mục tiêu và mong muốn của anh ta, nhưng nó không bao giờ khuyên chủ thể rằng anh ta nên có những mục tiêu và ước muốn nào. Do vậy, nếu ta muốn ăn giấy nhôm, lý tính sẽ bảo ta nơi tìm thấy thứ đó, và không có gì bất hợp lý trong việc ăn nó hay thậm chí việc muốn làm điều đó (tất nhiên, trừ khi mong muốn có sức khỏe hay có bề ngoài tỉnh táo của người đó mạnh hơn). Tuy nhiên, ngày nay, nhiều nhà dẫn giải lý luận rằng thực ra Hume đã đi xa hơn một bước tới thuyết hư vô (nihilism) và nói rằng không có gì bất hợp lý trong việc cố ý làm thất bại mục đích và ước muốn của mình (“Tôi muốn ăn giấy nhôm, vậy thì tôi sẽ khâu mồm mình lại”). Một hành vi như vậy chắc chắn sẽ rất bất thường vì nó không cho lý tính một vai trò nào, nhưng nó không trái ngược với lý tính.
Thuyết luân lý dựa trên cảm tính
Hume bàn về chủ đề này lần đầu trong A Treatise of Human Nature. Sau đó, ông trích ra và trình bày chi tiết về các tư tưởng mà ông đã đề xuất trong đó trong một bài luận ngắn hơn với tựa đề An Enquiry Concerning the Principles of Morals (Một câu hỏi về các nguyên tắc đạo đức). Cách tiếp cận của Hume trong tác phẩm đó về cơ bản là cách tiếp cận kinh nghiệm chủ nghĩa. Thay vì trình bày đạo đức nên hoạt động như thế nào, ông miêu tả cách chúng ta thực hiện các đánh giá đạo đức trong thực tế. Sau khi đưa ra nhiều ví dụ, ông đi đến kết luận rằng hầu hết nếu không phải tất cả các hành vi mà ta ủng hộ có tác dụng làm tăng lợi ích công cộng. Vậy có phải điều đó có nghĩa rằng chúng ta thực hiện các đánh giá đạo đức chỉ dựa trên lợi ích cá nhân? Không như triết gia kinh nghiệm chủ nghĩa Thomas Hobbes, Hume lý luận rằng thực ra điều đó không đúng. Ông khẳng định rằng bên cạnh việc suy xét các lợi ích cá nhân, ta còn chịu ảnh hưởng của sự cảm thông dành cho những người gần gũi của mình. Hume còn bảo vệ thuyết đạo đức dựa trên cảm tính này bằng cách tuyên bố rằng ta không bao giờ có thể đưa ra các đánh giá đạo đức mà chỉ dựa vào lý tính. Lý tính của ta làm việc với các sự kiện và rút ra các kết luận từ đó, nhưng tất cả đều bình đẳng, nó không thể dẫn ta tới việc chọn một lựa chọn này thay vì lựa chọn kia; chỉ có cảm tính tự nhiên của ta mới có thể làm được điều này. Luận cứ này chống lại việc đặt nền móng của đạo đức lên trên lý tính, và ngày nay là một trong các luận cứ đạo đức ổn định của thuyết chống thực tiễn (anti-realism). Như một nhà triết học trường phái Hume, John Mackie, diễn tả, về mặt đạo đức, để cho các sự kiện trần trụi về thế giới có được tính chất thúc đẩy một cách bản chất, chúng phải là các sự kiện rất kỳ quặc. Do đó, ta có mọi lý do để không tin vào chúng.
Ý chí tự do và thuyết quyết định
Hume Hầu như ai cũng từng nhận thấy sự xung đột không thể chối cãi giữa ý chí tự do và thuyết quyết định – nếu các hành động của bạn đã được tiền định từ hàng tỉ năm trước thì làm sao chúng có thể là tùy ở bạn được? Nhưng Hume còn ghi nhận một xung đột khác đã biến vấn đề ý chí tự do thành một song đề hoàn chỉnh: ý chí tự do không tương thích với thuyết vô định. Giả sử các hành động của bạn không được quyết định bởi sự kiện nào đã xảy ra trước đó, khi đó có vẻ như các hành động của bản hoàn toàn ngẫu nhiên. Hơn nữa, điểm quan trọng nhất với Hume là chúng không được quyết định bởi tính cách của bạn – ước muốn, sở thích, các giá trị, v.v… Làm sao ta có thể bắt ai đó chịu trách nhiệm về một hành động đã xảy ra một cách ngẫu nhiên? Ý chí tự do có vẻ đòi hỏi thuyết quyết định, vì nếu không, chủ thể và hành động sẽ không thể được kết nối theo cách mà các hành động được lựa chọn một cách tự do đòi hỏi. Vậy là hiện nay khi hầu như ai cũng tin vào ý chí tự do, ý chí tự do vừa có vẻ mâu thuẫn với thuyết quyết định, vừa có vẻ đòi hỏi thuyết quyết định. Quan niệm của Hume là hành vi của con người, cũng như mọi vật khác, có nguyên nhân, và do đó, việc giữ cho mọi người có trách nhiệm với hành động của mình phải tập trung vào việc khen thưởng hoặc trừng phạt họ theo một cách mà khi đó họ sẽ cố gắng làm những điều đáng ước muốn và tránh những việc đáng bị chê trách, xét trên quan điểm đạo đức. (Xem thêm Compatibilism.)
Luận đề miêu tả-quy chuẩn
Hume ghi nhận rằng nhiều tác giả đưa ra các phát biểu “nên thế nào” trên cơ sở các phát biểu “là gì” (Luận đề miêu tả-quy chuẩn). Chẳng hạn, “Có nhiều học sinh cấp 3 học lệch, vậy ta nên cộng điểm thi Đại học cho những học sinh nào học đều các môn.” Nhưng có lẽ có một sự khác biệt lớn giữa các phát biểu có tính miêu tả (là gì) và các phát biểu mang tính quy chuẩn (nên thế nào). Hume kêu gọi các tác giả cảnh giác với việc thay đổi chủ đề theo kiểu này mà không đưa ra một lời giải thích các phát biểu “nên” được suy diễn từ các phát biểu “là” theo cách nào. Nhưng chính xác là bằng cách nào mà ta có thể rút ra một câu “nên” từ một câu “là”? Câu hỏi đó đã trở thành một trong những câu hỏi trung tâm của lý thuyết luân lý, và Hume thường đứng về phe cho rằng một sự suy diễn như vậy là không thể được. Có người cho rằng Hume không nói rằng người ta không thể đi từ một phát biểu về sự kiện đến một phát biểu về luân lý, mà rằng người ta không thể làm điều đó mà lại bỏ qua cảm tính của con người. Ví dụ, phát biểu sau được cho là không có đạo đức: “Trái Đất đang có nguy cơ lâm vào khủng hoảng do dân số quá cao, do đó việc hàng năm có nhiều người chết do thiên tai là chuyện tốt.” Tuy nhiên, nó không mâu thuẫn với lý tính mà chỉ bị phản đối bởi cảm tính của con người. Có lẽ Hume là một trong những tác giả đầu tiên phân biệt giữa các mệnh đề miêu tả (là gì) và các mệnh đề quy chuẩn (nên như thế nào), đây là vấn đề phổ biến trong các ngành khoa học xã hội và triết học đạo đức. G. E. Moore đã bảo vệ một quan điểm tương tự với “luận cứ câu hỏi mở” của ông, với ý định chứng minh rằng mọi sự xác định các phẩm chất đạo đức theo các đặc điểm tự nhiên đều là sai – cái gọi là thuyết ngụy biện tự nhiên chủ nghĩa (naturalistic fallacy).
Thuyết vị lợi
Có lẽ Hume đã là người đầu tiên, cùng với các thành viên khác của thời kỳ Khai sáng Scolland, đề ra tư tưởng rằng có thể tìm giải thích cho các nguyên tắc đạo đức trong lợi ích mà chúng khuyến khích. Tuy Francis Hutcheson, một đồng bào của ông, là người đặt ra khẩu hiệu “hạnh phúc tối đa cho số đông” (“greatest happiness for the greatest numbers”), nhưng từ việc đọc Luận thuyết của Hume mà Jeremy Bentham đã lần đầu tiên cảm thấy sức mạnh của một hệ thống vị lợi chủ nghĩa. Tuy nhiên, chủ nghĩa vị lợi sơ khai của Hume rất đặc biệt từ góc nhìn của chúng ta. Ông không cho rằng sự kết hợp của các con số đếm về lợi ích có thể cho ra một công thức để đi tới chân lý đạo đức. Ngược lại, Hume là một người theo chủ nghĩa cảm tính đạo đức, ông cho rằng các nguyên tắc đạo đức không thể được minh giải bằng tri thức. Đơn giản là ta cảm thấy một số nguyên tắc là đúng và những người khác thì không; và lý do tại sao các nguyên tắc đạo đức theo chủ nghĩa vị lợi được ta công nhận là vì chúng khuyến khích lợi ích của cả ta và những người khác, những người mà ta có sự thông cảm. Con người được cấu tạo để đồng ý với những gì giúp cho xã hội, nghĩa là lợi ích công cộng. Hume đã sử dụng hiểu biết sâu sắc này để giải thích cách chúng ta đánh giá nhiều hiện tượng đa dạng, từ các thể chế xã hội và các chính sách của chính phủ cho đến các tính cách và tài năng.
Vấn đề về các phép mầu
Viện dẫn đến các phép màu là một cách hay được dùng để chứng minh cho một tôn giáo. Nhưng Hume lý luận rằng, các phép màu không bao giờ có thể hỗ trợ tôn giáo được là bao. Trong bài luận của Hume có một số luận cứ mà tất cả đều dựa vào khái niệm của ông về một phép màu: một sự vi phạm các quy luật của tự nhiên được thực hiện bởi Chúa trời. Một luận cứ khẳng định rằng các quy luật của thiên nhiên không thể bị vi phạm. Một luận cứ khác cho rằng các lời chứng của con người không bao giờ đủ tin cậy, hay nói cách khác là có bằng chứng đủ mạnh, để hủy bỏ các bằng chứng mà ta đã có về các quy luật tự nhiên. Nói tóm lại, các tuyên bố phi thường đòi hỏi các bằng chứng phi thường. Điểm này đã được áp dụng nhiều nhất cho câu hỏi về sự phục sinh của Jesus, vấn đề mà chắc chắn Hume sẽ đặt câu hỏi “Điều gì có khả năng xảy ra hơn – việc một người chết sống lại hay bằng chứng này đã bị nhầm lẫn bằng cách nào đó?” Hoặc, thẳng thừng hơn, “Điều gì có khả năng xảy ra hơn – ngài Uri Geller quả thực có thể dùng ý nghĩ để bẻ cong thìa, hay là có một trò bịp nào đó?”. Luận cứ này là xương sống của phong trào hoài nghi và là một vấn đề mang tính thời sự đối với các nhà lịch sử tôn giáo.
Luận cứ thiết kế
Một trong những luận cứ cổ và phổ biến về Sự tồn tại của Chúa trời là luận cứ thiết kế. Luận cứ đó nói rằng tất cả các trật tự và ‘mục đích’ trong thế giới chứng tỏ một nguồn gốc thần thánh. Hume đã phê phán luận cứ thiết kế trong “Đối thoại về tôn giáo tự nhiên” và “Câu hỏi về hiểu biết của con người” và mặc dù vấn đề vẫn chưa dứt, nhiều người tin rằng Hume đã giết chết hẳn luận cứ đó. Dưới đây là một số luận điểm của ông:
- Luận cứ thiết kế chỉ khả thi khi trật tự và mục đích được quan sát thấy khi chúng được tạo ra từ thiết kế. Nhưng trật tự được quan sát một cách đều đặn, từ những quá trình có vẻ như vô thức như sự kết tinh của các bông tuyết hay sự tạo tinh thể. Thiết kế chỉ giải thích cho một phần nhỏ xíu của trải nghiệm của chúng ta về trật tự và ‘mục đích’.
- Hơn nữa, luận cứ thiết kế được dựa trên một phép tương tự không hoàn chỉnh: nhờ có kinh nghiệm của ta với các đối tượng, ta có thể nhận ra các đối tượng do con người thiết kế, chẳng hạn khi so sánh một đống đá với một bức tường gạch. Nhưng để chỉ ra một Vũ trụ được thiết kế, ta sẽ cần phải có trải nghiệm về một loạt các vũ trụ khác nhau. Vì ta chỉ trải nghiệm một vũ trụ, nên phép tương tự không thể được áp dụng.
- Ngay cả nếu luận cứ thiết kế hoàn toàn thành công, nó không thể thiết lập một thuyết hữu thần (theism) vững chắc; người ta có thể dễ dàng đi đến kết luận rằng cấu hình của vũ trụ là kết quả của một tác nhân nào đó mơ hồ về mặt đạo đức và có thể không có trí thông minh, hay một số tác nhân mà phương pháp của chúng hầu như không tương tự với thiết kế của con người.
- Nếu một thế giới tự nhiên có trật tự đòi hỏi một nhà thiết kế đặc biệt, thì tâm thức của Chúa trời (cũng rất trật tự) “cũng” đòi hỏi một nhà thiết kế đặc biệt. Và khi đó nhà thiết kế này lại cần đến một nhà thiết kế khác, cứ tiếp tục như vậy mãi mãi. Nếu ta có thể bằng lòng với một tâm thức thần thánh với trật tự tự thân một cách không giải thích được, thì tại sao lại không thể bằng lòng với một thế giới tự nhiên với trật tự tự thân một cách không giải thích được?
- Thông thường, cái có vẻ là mục đích, khi trông có vẻ như đối tượng X có tính chất F để có được kết quả O, có thể được giải thích rõ hơn bằng một quá trình lọc: nghĩa là, đối tượng X chắc đã không thể tồn tại nếu nó không có tính chất F, và kết quả O chỉ đáng quan tâm đối với chúng ta như là một cách con người quy chiếu mục đích lên tự nhiên. Cách giải thích mục đích theo cơ chế này đã đoán trước về lý thuyết chọn lọc tự nhiên (xem thêm Anthropic principle)
Tham khảo
- Anderson, R. F. (1966). Hume’s First Principles, University of Nebraska Press, Lincoln.
- Ayer, A. J. (1936). Language, Truth and Logic. London.
- Broackes, Justin (1995). Hume, David, in Ted Hoderich (ed.) The Oxford Companion to Philosophy, New York, Oxford University Press,
- Daiches D., Jones P., Jones J. (eds)The Scottish Enlightenment: 1730 – 1790 A Hotbed of Genius The University of Edinburgh, 1986. In paperback, The Saltire Society, 1996 ISBN 0-85411-069-0
- Einstein, A. (1915) Letter to Moriz Schlick, Schwarzschild, B. (trans. & ed.) in The Collected Papers of Albert Einstein, vol. 8A, R. Schulmann, A. J. Fox, J. Illy, (eds.) Princeton U. Press, Princeton, NJ (1998), p. 220.
- Flew, A. (1986). David Hume: Philosopher of Moral Science, Basil Blackwell, Oxford.
- Fogelin, R. J. (1993). Hume’s scepticism. In Norton, D. F. (ed.) (1993). The Cambridge Companion to Hume, Cambridge University Press, pp. 90–116.
- Hume, D. (EHU) (1777). An Enquiry concerning Human Understanding. Nidditch, P. N. (ed.), 3rd. ed. (1975), Clarendon Press, Oxford.
- Husserl, E. (1970). The Crisis of European Sciences and Transcendental Phenomenology, Carr, D. (trans.), Northwestern University Press, Evanston.
- Kolakowski, L. (1968). The Alienation of Reason: A History of Positivist Thought, Doubleday, Garden City.
- Morris, William Edward, David Hume, Stanford Encyclopedia of Philosophy (Spring 2001 Edition), Edward N. Zalta (ed.)
- Norton, D. F. (1993). Introduction to Hume’s thought. In Norton, D. F. (ed.), (1993). The Cambridge Companion to Hume, Cambridge University Press, pp. 1–32.
- Penelhum, T. (1993). Hume’s moral philosophy. In Norton, D. F. (ed.), (1993). The Cambridge Companion to Hume, Cambridge University Press, pp. 117–147.
- Phillipson, N. (1989). Hume, Weidenfeld & Nicolson, London.
- Popper. K. (1960). Knowledge without authority. In Miller D. (ed.), (1983). Popper, Oxford, Fontana, pp. 46–57.
- Robinson, Dave & Groves, Judy (2003). Introducing Political Philosophy. Icon Books. ISBN 1-84046-450-X.
- Russell, B. (1946). A History of Western Philosophy. London, Allen and Unwin.
- Spiegel, Henry William,(1991). The Growth of Economic Thought, 3rd Ed., Durham: Duke University Press.
- Stroud, B. (1977). Hume, Routledge, London & New York.
- Taylor, A. E. (1927). David Hume and the Miraculous, Leslie Stephen Lecture. Cambridge, pp. 53–4.
Chú thích
Đọc thêm
- Johnson, David Hume, Holism and Miracles. Cornell University Press: Ithaca, 1999. ISBN 0-8014-3663-X
- Siebert, Donald T. The Moral Animus of David Hume. University of Delaware Press: Newark, 1990.
- Russell, Paul, Freedom and Moral Sentiment: Hume’s Way of Naturalizing Responsibility Oxford University Press: New York & Oxford, 1995.
- Braham, Ernest G. The Life of David Hume – the terrible David. J. Martin Stafford, Altringham, 1987.
Xem thêm
Liên kết ngoài
![]() |
Wikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc của: |
- Bản trực tuyến của các tác phẩm của Hume:
- A Treatise of Human Nature, tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg (Luận thuyết về bản chất con người)
- The History of England, Volume I, tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg (Lịch sử nước Anh, Tập 1)
- An Enquiry Concerning the Principles of Morals, tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg
- An Enquiry Concerning Human Understanding, tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg
- Dialogues Concerning Natural Religion, tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg
- bản điện tử của một số tác phẩm của David Hume
- David Hume: Tài liệu về Hume: sách, bài báo, tra cứu từ điển bách khoa.
- Hume Society: Một hội học giả quốc tế.
- Từ điển Bách khoa Toàn thư Triết học Stanford:
- David Hume tại Hướng dẫn của James Boswell
- Các phiên bản đơn giản của Luận thuyết Quyển 1, First Enquiry, and Dialogues on Natural Religion
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về David Hume |
- Sinh 1711
- Mất 1776
- David Hume
- Nhà triết học Scotland
- Triết gia thời kỳ Khai sáng
- Triết gia thế kỷ 18
- Triết gia chủ nghĩa kinh nghiệm
- Nhà kinh tế học người Scot
Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
- Chào ngày mới 24 tháng 8
- Chào ngày mới 23 tháng 8
- Chào ngày mới 22 tháng 8
- Chào ngày mới 21 tháng 8
- Bài thơ không thể nào quên
- Tháng bảy mưa Ngâu
- Chào ngày mới 20 tháng 8
- Chào ngày mới 19 tháng 8
- Chào ngày mới 18 tháng 8
- Suối nguồn hạnh phúc
- Chào ngày mới 17 tháng 8
- Thơ tình Hồ Núi Cốc
- Chào ngày mới 16 tháng 8
- Quản lý sắn bền vững ở châu Á
- Học để làm ở Ấn Độ
- Chào ngày mới 15 tháng 8
- Hoa xương rồng
- Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương
- Chào ngày mới 13 tháng 8
- Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi
- Chào ngày mới 12 tháng 8
- Từ Mao Trạch Đông đến Tập Cận Bình
- Thơ hay về biển
- Chào ngày mới 11 tháng 8
- Chào ngày mới 10 tháng 8
- Chào ngày mới 9 tháng 8
- Đến với những bài thơ hay
- Ta về trời đất Hồng Lam
- Ong và Hoa
- Chào ngày mới 8 tháng 8
- Bài ca thời gian
- Chào ngày mới 7 tháng 8
- Chào ngày mới 6 tháng 8
- Di sản Engels
- Đợi Anh
- Chào ngày mới 5 tháng 8
- Chào ngày mới 4 tháng 8
- Chào ngày mới 3 tháng 8
- Khổng Tử dạy và học
- Tiếng Anh cho em
- Chào ngày mới 2 tháng 8
- Rằm Xuân Hà Nội
- Chào ngày mới 1 tháng 8
- Chào ngày mới 31 tháng 7
- Henry Ford và Thượng Đế
- Chào ngày mới 30 tháng 7
- Lê Phụng Hiểu truyện hay nhớ mãi
- Chào ngày mới 29 tháng 7
- Ông Hồ Sáu làm kinh tế giỏi
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 28 tháng 7
- Bài thơ không thể nào quên
- Chào ngày mới 27 tháng 7
- Nhớ bạn
- Chào ngày mới 26 tháng 7
- Gọi đôi
- Chào ngày mới 25 tháng 7
Video nhạc tuyển
Khí công Y đạo: Bài học tốt tự chăm sóc sức khỏe
Ban Mai
MAR AKRAM – Dancing with the wind♥
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học CNM365 Tình yêu cuộc sống Cây Lương thực Dạy và Học Kim on LinkedIn KimYouTube Kim on Facebook
Pingback: Chào ngày mới 26 tháng 8 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: CNM365 Tình yêu cuộc sống | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Y học bốn phương | Khát khao xanh
Pingback: Mai Hoa Thi Thiệu Ung | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Trí tuệ bậc Thầy | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Anh cùng em đến bên tượng Goethe | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Tám người thực sự có siêu năng lực | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Borlaug và Hemingway | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Kẻ phi thường giữ nước | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Như là có nhau | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Sấm ký đồng dao huyền thoại | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Neva Sankt-Peterburg Pie Đại Đế | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Những người Việt lỗi lạc ở FAO | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chiến tranh và hòa bình | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lương tri tỉnh thức | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bàn cờ thế sự | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Quà tặng cuộc sống | Khát khao xanh
Pingback: Nguyễn Du 250 năm nhìn lại | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Nỗi ám ảnh của quá khứ | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Di sản Walter Scott | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Tự nguyện tiếng Anh cho em | Khát khao xanh
Pingback: Quả táo Apple Steven Jobs | Khát khao xanh
Pingback: Chỉ còn anh và em cùng tình yêu ở lại | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bí mật vườn thiêng | Khát khao xanh
Pingback: Tiệp Khắc kỷ niệm một thời | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bàn cờ thế sự 5 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Praha Goethe và lâu đài cổ | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Sông Mekong tài liệu tổng hợp | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bàn cờ thế sự 3 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bàn cờ thế sự 2 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bàn cờ thế sự 4 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chuyện vỉa hè 3 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Vị tướng của lòng dân | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Quả táo Apple Steven Jobs | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bàn cờ thế sự 6 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Phan Khôi nắng được thì cứ nắng | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bước ngoặt lịch sử chiến tranh Đông Dương | Khát khao xanh
Pingback: Bước ngoặt lịch sử chiến tranh Đông Dương | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Vua Phổ Friedrich II Đại Đế | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bàn cờ thế sự 7 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bài ca Trường Quảng Trạch | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Thắp đèn lên đi em ! | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Em ơi em can đảm bước chân lên | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Yên Phụ và Yên Tử | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Quang Dũng những bài thơ hay | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Nghị lực | Tình yêu cuộc sống
Pingback: CNM365 Chào ngày mới 365 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Vùng trời nhân văn | Tình yêu cuộc sống