CNM365. Chào ngày mới 12 tháng 9. Wikipedia Ngày này năm xưa. Năm 1890, Harare, nay là thủ đô của Zimbabwe, được thành lập bởi những người định cư. Năm 1959 – Liên Xô phóng tàu vũ trụ Luna 2 lên Mặt Trăng từ sân bay vũ trụ Baykonur, Kazakhstan. Năm 1921 – ngày sinh Lưu Hữu Phước, một trong những nhạc sĩ tiên phong của tân nhạc Việt Nam (mất năm 1989).
12 tháng 9
Ngày 12 tháng 9 là ngày thứ 255 (256 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 110 ngày trong năm.
« Tháng 9 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | ||
6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 |
13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 |
20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 |
27 | 28 | 29 | 30 | |||
Mục lục
Sự kiện
- 1683 – Liên quân Thần thánh gồm Ba Lan–La Mã Thần thánh và đồng minh giành thắng lợi quyết định trước đế quốc Ottoman trong trận Viên.
- 1784 – Thuyền buôn trà Scarborough của Công ty Đông Ấn Anh bị đắm tại một bãi đá trên biển Đông, bãi đá sau đó được đặt theo tên thuyền.
- 1890 – Harare được những người định cư thành lập, nay là thủ đô của Zimbabwe.
- 1942 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Mở màn trận chiến đồi Edson trên đảo Guadalcanal giữa quân Đồng Minh và quân Nhật Bản.
- 1959 – Liên Xô phóng tàu vũ trụ Luna 2 lên Mặt Trăng từ sân bay vũ trụ Baykonur, Kazakhstan.
- 1982 – Một tuần trước kỷ niệm sinh nhật thứ 65 của mình, võ sĩ người Mexico El Santo thi đấu trận cuối cùng trong sự nghiệp.
- 2005 – Hong Kong Disneyland được mở cửa tại đảo Đại Nhĩ Sơn, Hồng Kông.
Sinh
- 1921 – Lưu Hữu Phước, một trong những nhạc sĩ tiên phong của tân nhạc Việt Nam (m. 1989)
- 1986 – Emmy Rossum, ca sĩ và nhạc sĩ người Mỹ
Mất
- 984 – Phạm Cự Lạng, Đại tướng đời Đinh Tiên Hoàng (s. 944)
- 1989 – Vũ Khắc Khoan, nhà viết kịch Việt Nam, sinh năm 1917
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 12 tháng 9 |
Lich Vạn Niên âm lịch ngày 12 tháng 9 năm 2015

Lịch vạn niên 2015, ngày 12 tháng 9, năm 2015 – Âm lịchXem ngày giờ tốt và hướng xuất hànhTrong một tháng có 2 loại ngày tốt, ngày xấu; trong một ngày lại có 6 giờ tốt, 6 giờ xấu gọi chung là Ngày/giờ Hoàng đạo (tốt) và Ngày/giờ Hắc đạo (xấu). Người Việt Nam từ xưa đều có phong tục chọn ngày tốt và giờ tốt để làm những việc lớn như cưới hỏi, khởi công làm nhà, nhập trạch, ký kết, kinh doanh v.v.v. Ngày 12 tháng 9, năm 2015 là ngày Hoàng đạo , các giờ tốt trong ngày này là: Nhâm Tí, Giáp Dần, ất Mão, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Tân Dậu Trong ngày này, các tuổi xung khắc nên cẩn thận trong chuyện đi lại, xuất hành, nói chuyện và làm các việc đại sự là: Ðinh Mão, Tân Mão, Đinh Dậu Xuất hành hướng Đông Bắc gặp Hỷ thần: niềm vui, may mắn, thuận lợi. Xuất hành hướng Nam gặp Tài thần: tài lộc, tiền của, giao dịch thuận lợi. Xem sao tốt và việc nên làm và nên kiêngTrong Lịch vạn niên, có 12 trực được sắp xếp theo tuần hoàn phân bổ vào từng ngày. Mỗi trực có tính chất riêng, tốt/xấu tùy từng công việc. Ngày 12 tháng 9, năm 2015 là Trực Bế: Tốt cho các việc làm cửa, thượng lương, giá thú, trị bệnh. Xấu cho các việc nhậm chức, châm chích, đào giếng, kiện thưa. |
Harare
Harare Salisbury (tên chính thức cũ) |
|||
---|---|---|---|
— Thành phố — | |||
![]() Quang cảnh Harare
|
|||
|
|||
Tên hiệu: Sunshine City, H Town | |||
Khẩu hiệu: Pamberi Nekushandira Vanhu (Forward with Service to the People) | |||
Tọa độ: 17°51′50″N 31°1′47″ĐTọa độ: 17°51′50″N 31°1′47″Đ | |||
Quốc gia | Zimbabwe | ||
Tỉnh | Harare | ||
Thành lập với tên Pháo đài Salisbury | 1890 | ||
Hợp thành thành phố | 1935 | ||
Đổi tên thành Harare | 1982 | ||
Diện tích | |||
• Thành phố | 960,6 km2 (3,709 mi2) | ||
Độ cao | 1.490 m (4,890 ft) | ||
Dân số (2009) | |||
• Thành phố | 1.606.000 | ||
• Mật độ | 2.540/km2 (4.330/mi2) | ||
• Đô thị | 1.619.000 (tháng 3 năm 2.013)[1] | ||
ước tính | |||
Múi giờ | CAT (UTC+2) | ||
Thành phố kết nghĩa | Nottingham, München, Cincinnati, Prato, Lago | ||
Trang web | hararecity.co.zw | ||
Mã điện thoại 4 (hoặc 04 bên trong Zimbabwe) |
Harare ( /həˈrɑreɪ/;[2] gọi chính thức là Salisbury cho đến năm 1982[3]) là thủ đô của Zimbabwe. Đây là nơi đặt trụ sở chính phủ và thành phố lớn nhất của quốc gia, với dân số ước tính đạt 1.606.000 (2009),[4]. Thành phố cũng là trung tâm tài chính, thương nghiệp, và truyền thông dẫn đầu của Zimbabwe. Harare nằm trên cao độ 1483 mét (4865 feet), có khí hậu ôn đới ấm.
Mục lục
Lịch sử
Một lực lượng tình nguyện viên quân sự của những người định cư da trắng do Cecil Rhodes tổ chức mang tên Pioneer Column thành lập thành phố vào ngày 12 tháng 9 năm 1890, khi đó có vị thế là một pháo đài.[5] Ban đầu, họ đặt tên cho thành phố là Pháo đài Salisbury theo Thủ tướng Anh Quốc đương thời là Đệ tam hầu tước Robert Gascoyne-Cecil xứ Salisbury, sau đó rút gọn còn Salisbury. Câu lạc bộ Polo Salisbury được thành lập vào năm 1896.[6] Khu vực được tuyên bố là một đô thị vào năm 1897 và trở thành một thành phố vào năm 1935.
Khi thành lập thành phố, khu vực thoát nước kém và phát triển sớm nhất là trên vùng đất dốc dọc theo bờ tả của một dòng chảy mà nay là một tuyến đường. Khu vực đầu tiên được tiêu nước hoàn toàn nằm gần đầu nguồn của dòng chảy và được đặt tên là Causeway. Khu vực này là nơi có nhiều tòa nhà chính phủ tối quan trọng, trong đó có tòa nhà Hạ viện và Văn phòng Thủ tướng.
Salisbury là thủ đô của Liên bang Rhodesia và Nyasaland từ năm 1953 đến năm 1963. Sau thời điểm đó, nó là thủ đô của Nam Rhodesia. Chính phủ của Ian Smith tuyên bố Rhodesia độc lập từ Anh Quốc vào ngày 11 tháng 11 năm 1965, và tuyên bố nước Cộng hòa Rhodesia vào năm 1970. Đến năm 1980, quốc gia này được quốc tế công nhận độc lập với tên gọi là nước Cộng hòa Zimbabwe.
Tên gọi thành phố được đổi sang Harare vào ngày 18 tháng 4 năm 1982, nhân dịp kỷ niệm hai năm Zimbabwe độc lập, lấy theo tên của ngôi làng nằm gần Harare Kopje của tù trưởng Shona Neharawa.[7] Trước khi độc lập, “Harare” là tên gọi của khu vực dân cư da đen mà nay gọi là Mbare.
Vào đầu thế kỷ 21, Harare chịu ảnh hưởng tiêu cực từ khủng hoàng chính trị và kinh tế trên toàn Zimbabwe. Economist Intelligence Unit xếp Harare là thành phố khó sống nhất trên thế giới trong số 140 được khảo sát vào tháng 2 năm 2011,[8] thành phố đứng ở hạng 137/140 trong tháng 8 năm 2012.[9]
Địa lý
Thành phố nằm trên một trong những phần cao của cao nguyên Highveld tại Zimbabwe, với cao độ 1483 mét (4865 feet). Cảnh quan ban đầu được mô tả là “đất xanh.”
Harare có khí hậu cao nguyên cận nhiệt đới (Köppen Cwb). Nhiệt độ trung bình năm là 17,95 °C (64,3 °F), khá thấp đối với vùng nhiệt đới, và điều này là do cao độ lớn và một luồng khí mát thường thổi đến từ hướng đông nam. Thành phố có ba mùa chính: một mùa ấm và mưa kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3/4; một mùa mát và khô kéo dài từ tháng 5 đến tháng 8; và một mùa nóng và khô trong tháng 9/10. Nhiệt độ hàng ngày dao động từ 7–22 °C (45–72 °F) trong tháng 7, khoảng 15–29 °C (59–84 °F) trong tháng 10 và khoảng 16–26 °C (61–79 °F) trong tháng 1. Lượng mưa trung bình năm là 825 mm (32,5 in) tại đông nam, tăng lên 855 mm (33,7 in) tại vùng cao hơn tại đông bắc. Thông thường có rất ít mưa rơi trong giai đoạn từ tháng 5 đến tháng 9. Lượng mưa biến đổi lớn giữa các năm và theo chu kỳ mưa và khô từ 7 đến 10 năm. (xem thêm)
Tổ chức sự kiện
Harare là nơi tổ chức một số hội nghị thượng đỉnh quốc tế như Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 8 của Phong trào không liên kết (6 tháng 9 năm 1986) và Hội nghị người đứng đầu chính phủ Thịnh vượng chung năm 1991.[14] Hội nghị sản sinh Tuyên bố Harare, đề cập đến tư cách thành viên của Thịnh vượng chung. Năm 1998, Harare là thành phố đăng cai cuộc họp lần thứ 8 của Hội đồng thế giới các giáo hội.[15]
Năm 1995, Harare tổ chức hầu hết Đại hội thể thao toàn châu Phi lần thứ 6, đồng tổ chức các sự kiện với các thành phố khác trong nước như Bulawayo và Chitungwiza. Đây là nơi tổ chức một số trận đấu trong Giải vô địch cricket thế giới năm 2003, vốn do Kenya, Nam Phi và Zimbabwe đồng tổ chức.
Giao thông
Hệ thống giao thông công cộng trong giới hạn thành phố gồm cả các hoạt động công và tư. Trong lĩnh vực công có hãng xe buýt ZUPCO và dịch vụ đường sắt đô thị của Đường sắt quốc gia Zimbabwe. Giao thông khu vực tư nhân có các ô tô con liên hiệp được cấp phép, có biệt danh là emergency taxis cho đến giữa thập niên 1990, khi chúng bị thay thế bằng các xe buýt và xe bút nhỏ được cấp phép, được gọi chính thức là commuter omnibuses.
Đường sắt quốc gia Zimbabwe điều hành một dịch vụ tàu qua đêm hàng ngày chạy từ Harare đến Mutare và một dịch vụ khác chạy từ Harare đến Bulawayo. Harare có liên kết bằng các dịch vụ xe bút đường dài đến hầu hết các nơi tại Zimbabwe.
Sân bay quốc tế Harare là sân bay lớn nhất tại Zimbabwe.
Thể thao
Cricket là môn thể thao phổ biến nhất đối với nhân dân Harare. Harare có câu lạc bộ thể thao Harare. Thành phố tổ chức nhiều cuộc thi đấu cricket kiểu Test và One Day. Thành phố có các câu lạc bộ bóng đá Dynamos F.C. và Black Rhinos F.C..
Thông tin
Truyền thông xuất bản tại Harare có Herald, Financial Gazette, Zimbabwe Independent, Standard, NewsDay,H-Metro, Daily News và Kwayedza. Có sự bùng nổ về phương tiện truyền thông trực tuyến, như ZimOnline, ZimDaily, Guardian, NewZimbabwe, Times, Harare Tribune, Zimbabwe Metro, The Zimbabwean, The Zimbabwe Mail. Chính phủ kiểm soát toàn bộ truyền thông điện tử.
Thành phố kết nghĩa
Tham khảo
Phương tiện liên quan tới Harare tại Wikimedia Commons
- ^ “Demographia World Urban Areas PDF (March 2013)” (PDF). Demographia. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Harare city ∗ of Zimbabwe pop 1,444,534”. Truy cập 25 tháng 3 năm 2015.
- ^ Names (Alteration) Act Chapter 10:14
- ^ ‘CIA – The World Factbook
- ^ Hoste, Skipper (1977). N.S.Davies, biên tập. Gold Fever. Salisbury, Rhodesia: Pioneer Head. ISBN 0-86918-013-4.
- ^ Horace A. Laffaye, Polo in Britain: A History, Jefferson, North Carolina: McFarland & Company, 2012, p. 76
- ^ Room, Adrian (2003). Placenames of the World: Origins and Meanings of the Names for Over 5000 Natural Features, Countries, Capitals, Territories, Cities and Historic Sights. McFarland. ISBN 9780786418145.
- ^ Koranyi, Balazs (ngày 21 tháng 2 năm 2011). “Vancouver still world’s most livable city: survey”. Reuters. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2012.
- ^ (August 2012) Liveabililty Ranking and Overview August 2012 . (Report). Retrieved on ngày 17 tháng 6 năm 2013.
- ^ “World Weather Information Service – Harare”. Tổ chức Khí tượng thế giới. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2012.
- ^ “Climatological Information for Harare, Zimbabwe”. Đài Thiên văn Hong Kong. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2012.
- ^ “Average Conditions Harare, Zimbabwe”. BBC Weather. Tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2012.
- ^ “Harare, Zimbabwe”. Climatebase.ru. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2014.
- ^ List of previous CHOGMS
- ^ World Council of Churches
- ^ “European networks and city partnerships”. Nottingham City Council. 11 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2013.
|
Zimbabwe
Cộng hòa Zimbabwe | |||||
---|---|---|---|---|---|
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Thống nhất, Tự do, Lao động | |||||
Quốc ca | |||||
Kalibusiswe Ilizwe leZimbabwe | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa bán tổng thống | ||||
Tổng thống Thủ tướng |
Robert Mugabe Morgan Tsvangirai |
||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Anh, Shona và Ndebele |
||||
Thủ đô | Harare |
||||
Thành phố lớn nhất | Harare | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 390,757 km² (hạng 60) | ||||
Diện tích nước | 1% % | ||||
Múi giờ | UTC+ 2 | ||||
Lịch sử | |||||
Ngày thành lập | 11 tháng 11, 1965 | ||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2005) | 13,010,000 người (hạng 68) | ||||
Mật độ | 33 người/km² (hạng 170) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2005) | Tổng số: 30,581 tỷ đô la Mỹ (hạng 187) Bình quân đầu người: 355 USD[1] |
||||
GDP (danh nghĩa) (2009) | Tổng số: 4,397 tỉ USD[1] (hạng 182) Bình quân đầu người: 374 USD[1] |
||||
HDI (2005) | 0,491 thấp (hạng 151) | ||||
Hệ số Gini (2009) | 50,1[2] (Cao) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Đô la Zimbabwe (ZWD ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .zw |
Zimbabwe (tên chính thức là: Cộng hòa Zimbabwe, phát âm: Dim-ba-bu-ê, trước đây từng được gọi là Nam Rhodesia, Cộng hòa Rhodesia và sau đó là Zimbabwe Rhodesia) là một quốc gia không giáp biển nằm ở phía nam lục địa Phi, bị kẹp giữa hai con sông Zambize và Limpopo. Zimbabwe có chung đường biên giới với các nước Nam Phi ở phía nam; Botswana ở phía tây nam; Mozambique ở phía đông và Zambia tây bắc. Zimbabwe đã được đặt tên theo thành phố được xây bằng đá nổi tiếng vào thế kỷ 14 – Đại Zimbabwe nằm ở đông nam quốc gia này. Zimbabwe nổi tiếng với thác Victoria ở trên sông Zambezi và nhiều khu bảo tồn hoang dã. Ba ngôn ngữ chính thức của quốc gia này gồm: tiếng Anh, Shona (thuộc hệ ngữ Bantu) và Ndebele.
Mục lục
- 1 Từ nguyên
- 2 Địa lý và môi trường
- 3 Lịch sử
- 4 Phân chia hành chính
- 5 Chính phủ và chính trị
- 6 Các lực lượng vũ trang
- 7 Kinh tế
- 8 Nhân khẩu
- 9 Y tế
- 10 Giáo dục
- 11 Truyền thông
- 12 Văn hoá và giải trí
- 13 Du lịch
- 14 Các biểu tượng quốc gia, vật tượng trưng và quốc ca
- 15 Xếp hạng quốc tế
- 16 Xem thêm
- 17 Tham khảo
- 18 Liên kết ngoài
Từ nguyên
Cái tên Zimbabwe xuất xứ từ “Dzimba dza mabwe,” có nghĩa “Nhà của đá” trong ngôn ngữ Shona.[3]
Địa lý và môi trường
Zimbabwe là một quốc gia nằm kín trong lục địa ở miền nam châu Phi. Đa phần nước này nằm ở trung tâm cao nguyên trung tâm (thảo nguyên cao) trải dài từ tây nam tới tây bắc ở các cao độ trong khoảng giữa 1200 và 1600m. Vùng phía đông nhiều đồi núi với Núi Nyangani là điểm cao nhất ở độ cao 2,592 m. Khoảng 20% quốc gia là thảo nguyên thấp dưới 900m. Thác Victoria, một trong những thác nước lớn nhất và đẹp nhất thế giới, nằm ở tây nam nước này như một phần của sông Zambesi. Zimbabwe có khí hậu nhiệt đới với một mùa mưa thường từ tháng 11 tới tháng 3. Khí hậu ôn hoà nhờ độ cao.
Các vấn đề môi trường
Nhiều vùng rộng lớn của Zimbabwe từng có rừng bao phủ, rừng cây bụi châu Phi, với đời sống hoang dã phong phú. Sự nghèo đói, tăng trưởng dân số và thiếu hụt nhiên liệu đã dẫn tới tình trạng phá rừng trên diện rộng cùng nạn săn bắn trộm đã làm suy giảm đáng kể thiên nhiên hoang dã. Phá rừng và sự xuống cấp đất là một vấn đề lớn[4] và đã dẫn tới tình trạng xói mòn làm giảm lượng đất màu mỡ. Việc khai thác mỏ quản lý kém đã dẫn tới sự nhiễm độc và ô nhiễm kim loại.[5]
Lịch sử
Ở thời Trung Cổ, đã có một nền văn minh trong vùng, được thể hiện rõ qua các tàn tích tại Đại Zimbabwe, gần Masvingo và các địa điểm nhỏ hơn khác. Địa điểm khảo cổ học chính là một kiến trúc đá khô độc nhất. Khoảng đầu thế kỷ thứ 10, thương mại phát triển với các thương nhân Hồi giáo trên bờ biển Ấn Độ Dương, giúp phát triển Vương quốc Mapungubwe ở thế kỷ 11. Đây là tiền thân của các nền văn minh Shona ấn tượng hơn sẽ thống trị vùng.
Thời tiền thuộc địa (1000–1887)
Các xã hội nói tiếng Shona nguyên thủy lần đầu tiên xuất hiện ở trung tâm châu thổ Limpopo ở thế kỷ thứ 9 trước khi di chuyển tới các cao nguyên Zimbabwe. Cao nguyên Zimbabwe cuối cùng trở thành trung tâm của các nhà nước Shona sau đó. Vương quốc Mapungubwe là quốc gia đầu tiên trong một loạt các quốc gia thương mại tinh vi đã phát triển ở Zimbabwe khi những nhà thám hiểm đầu tiên của châu Âu từ Bồ Đào Nha đặt chân tới. Họ trao đổi vàng, ngà voi và đồng để lấy vải vóc và thuỷ tinh. Từ khoảng năm 1250 cho tới năm 1450, Mapungubwe bị lấn át bởi Vương quốc Zimbabwe. Nhà nước Shona này tiếp tục phát triển và mở rộng kiến trúc đá của Mapungubwe, vẫn còn tồn tại tới ngày nay tại những tàn tích của kinh đô vương quốc Đại Zimbabwe. Từ khoảng 1450–1760, Zimbabwe nhường bước trước Vương quốc Mutapa. Nhà nước Shona cai trị hầu hết khu vực là lãnh thổ Zimbabwe hiện tại và nhiều vùng thuộc trung tâm Mozambique. Nó được gọi theo nhiều cái tên gồm cả Đế chế Mutapa, cũng được gọi là Mwene Mutapa hay Monomotapa cũng như “Munhumutapa” và nổi tiếng về những con đường buôn bán vàng với người Ả Rập và Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, những người định cư Bồ Đào Nha đã phá huỷ nền thương mại và gây ra một loạt các cuộc chiến tranh khiến đế chế gần như sụp đổ vào đầu thế kỷ 17.[6] Như một sự phản ứng trực tiếp với sự gây hấn của người Bồ Đào Nha trong nội địa, một nhà nước Shona mới xuất hiện được gọi là Đế chế Rozwi. Dựa trên sự phát triển quân sự, chính trị và tôn giáo từ hàng thế kỷ, người Rozwi (có nghĩa “những kẻ huỷ diệt”) đã đẩy lùi người Bồ Đào Nha ra khỏi cao nguyên Zimbabwe bằng vũ lực. Người Rozwi tiếp tục truyền thống xây dựng công trình đá của các vương quốc Zimbabwe và Mapungubwe trong khi thêm vào kho vũ khí của mình súng ống và phát triển một đội quân chuyên nghiệp để bảo vệ các con đường thương mại của mình cũng như để đi chinh phục.
Năm 1834, người Ndebele xuất hiện sau khi phải bỏ chạy trước thủ lĩnh người Zulu là Shaka, lập ra đế chế mới của họ trong vùng, Matabeleland. Năm 1837–38, Đế chế Rozwi cùng với các quốc gia Shona bị người Ndebele, những người tới từ miền nam Limpopo chinh phục và buộc họ phải triều cống và sống tập trung ở miền bắc Zimbabwe.
Thời kỳ thuộc địa (1888–1965)
Những năm 1880, người Anh xuất hiện với Công ty Đông Ấn Nam Phi Anh của Cecil Rhodes. Năm 1898, cái tên Nam Rhodesia được chấp nhận.[7] Năm 1888, nhân vật thực dân Anh là Cecil Rhodes được nhượng các quyền khai mỏ từ Vua Lobengula của người Ndebele.[8] Cecil Rhodes đã đề trình sự nhượng quyền này để thuyết phục chính phủ Vương quốc Anh trao một hiến chương hoàng gia cho Công ty Nam Phi Anh (BSAC) với Matabeleland, và các quốc gia phụ thuộc của nó như Mashonaland. Rhodes tìm kiếm sự cho phép đàm phán những sự nhượng quyền tương tự với mọi lãnh thổ giữa sông Limpopo và hồ Tanganyika, khi ấy được gọi là ‘Zambesia’. Theo các điều khoản của những sự nhượng quyền và các hiệp ước ở trên,[9] Cecil Rhodes thúc đẩy sự thực dân hoá đất đai trong vùng, với sự kiểm soát của Anh về nhân công cũng như các kim loại quý và các nguồn tài nguyên khoáng sản khác.[10] Năm 1895 BSAC chấp nhận cái tên ‘Rhodesia’ cho lãnh thổ Zambesia, để vinh danh Cecil Rhodes. Năm 1898 ‘Nam Rhodesia‘ trở thành tên gọi chính thức cho vùng nam Zambezi,[11] sau này trở thành Zimbabwe. Vùng phía bắc bị quản lý riêng biệt bởi BSAC và sau này được đặt tên là Bắc Rhodesia (hiện là Zambia).
Người Shona đã tổ chức các cuộc nổi dậy nhưng không thành công (được gọi là Chimurenga) chống lại sự xâm lấn đất đai của họ, từ những khách hàng của BSAC và Cecil Rhodes năm 1896 và 1897.[12] Sau những cuộc nổi dậy bất thành năm 1896–97 các nhóm Ndebele và Shona trở thành đối tượng quản lý của Rhodes và vì thế càng làm gia tăng sự định cư trên diện rộng của người châu Âu dẫn tới sự phân phối lại đất đai với ưu tiên dành cho người châu Âu, buộc người Shona, Ndebele, và các nhóm người thổ dân khác phải dời bỏ chỗ ở.
Nam Rhodesia trở thành một thuộc địa Anh tự quản tháng 10 năm 1923, sau một cuộc trưng cầu dân ý năm 1922. Những người Rhodesian đã chiến đấu cho Vương quốc Anh trong Thế chiến II, chủ yếu tại Chiến dịch Đông Phi chống lại các lực lượng Phe Trục tại Đông Phi Italia.
Năm 1953, trước sự phản đối của châu Phi,[13] Anh hợp nhất hai thuộc địa Rhodesia với Nyasaland (hiện là Malawi) với sự yểu mệnh của Liên bang Rhodesia và Nyasaland bị thống trị bởi Nam Rhodesia. Sự phát triển của chủ nghĩa quốc gia châu Phi và sự bất đồng nói chung, đặc biệt tại Nyasaland, đã khiến người Anh phải giải tán Liên minh năm 1963, hình thành nên ba thuộc địa. Khi sự cai trị thuộc địa chấm dứt trên khắp lục địa châu Phi và khi các chính phủ đa số châu Phi nắm quyền tại hai quốc gia láng giềng là Bắc Rhodesia và Nyasaland, chính phủ thiểu số da trắng tại Rhodesia dưới sự lãnh đạo của Ian Smith đã thực hiện một Đơn phương Tuyên bố Độc lập (UDI) khỏi Vương quốc Anh ngày 11 tháng 11 năm 1965, hoàn toàn bác bỏ kế hoạch của người Anh rằng nước này sẽ trở thành một nền dân chủ đa sắc tộc. Vương quốc Anh coi hành động này như một sự phản loạn, nhưng không cố tìm cách tái lập kiểm soát bằng vũ lực. Chính phủ thiểu số da trắng tuyên bố mình là một nền “cộng hoà” năm 1970. Một cuộc nội chiến diễn ra, với ZAPU của Joshua Nkomo và ZANU của Robert Mugabe với sự hỗ trợ từ các chính phủ Zambia và Mozambique. Dù tuyên bố của Smith không được Vương quốc Anh cũng như bất kỳ một cường quốc lớn nào công nhận, Nam Rhodesia đã bỏ định danh ‘Nam’, và tuyên bố vị thế quốc gia là Cộng hoà Rhodesia năm 1970.[14][15]
UDI và nội chiến (1965–1979)
Sau Đơn phương Tuyên bố Độc lập (UDI), chính phủ Anh yêu cầu Liên hiệp quốc cấm vận kinh tế chống lại Rhodesia khi các cuộc đàm phán với chính quyền Smith năm 1966 và 1968 chấm dứt trong thế bế tắc. Chính quyền Smith tuyên bố mình là một nền cộng hoà năm 1970 và chỉ được Nam Phi công nhận,[16][17] khi ấy Nam Phi đang nằm dưới sự cai trị của chế độ apartheid. Theo thời gian, cuộc chiến tranh du kích chống lại chính quyền UDI của Ian Smith dần gia tăng. Vì thế, chính phủ Smith đã mở các cuộc đàm phán với các lãnh đạo của hai nhóm kháng chiến chính – Liên minh Quốc gia châu Phi Zimbabwe (ZANU), dưới sự lãnh đạo của Robert Mugabe, và Liên minh Người Phi Zimbabwe (ZAPU), dưới sự lãnh đạo của Joshua Nkomo.
Tháng 3 năm 1978, khi chế độ của mình đã ở bờ vực sụp đổ, Smith ký một thoả thuận với ba nhà lãnh đạo châu Phi, dẫn đầu bởi giám mục Abel Muzorewa, người đề xuất sự bảo vệ cho các thường dân da trắng. Như một kết quả của Hoà giải Nội bộ, các cuộc bầu cử đã được tổ chức vào tháng 4 năm 1979. Đảng Hội đồng Quốc gia châu Phi Thống nhất (UANC) đã giành đa số trong cuộc bầu cử này. Ngày 1 tháng 6 năm 1979, lãnh đạo của UANC, Abel Muzorewa, trở thành thủ tướng quốc gia và tên nước được đổi thành Zimbabwe Rhodesia. Hoà giải nội bộ vẫn để lại quyền kiểm soát cảnh sát, các lực lượng an ninh, dịch vụ dân sự và tư pháp trong tay người da trắng. Nó đảm bảo người da trắng có được khoảng một phần ba ghế trong nghị viện.[18] Tuy nhiên, ngày 12 tháng 6, Thượng viện Hoa Kỳ bỏ phiếu chấm dứt cấm vận kinh tế chống lại Zimbabwe Rhodesia.
Sau cuộc họp lần thứ năm của Chính phủ Lãnh đạo Khối thịnh vượng chung (CHOGM), được tổ chức tại Lusaka, Zambia từ mùng 1 tháng 8 tới mùng 7 tháng 8 năm 1979, chính phủ Anh đã mởi Muzorewa và các lãnh đạo của Mặt trận Ái Quốc tham gia vào hội nghị hiến pháp tại Tòa Lancaster. Mục đích của hội nghị là thảo luận và đạt tới một thoả thuận về các điều khoản của một hiến pháp độc lập và rằng các cuộc bầu cử sẽ được giám sát bởi chính quyền Anh để đảm bảo Rhodesia có được sự độc lập pháp lý và các đảng sẽ giải quyết các khác biệt của họ bằng con đường chính trị. Peter Carrington, Nam tước Carington thứ sáu – Bộ trưởng Ngoại giao và các Vấn đề Khối thịnh vượng chung của Vương quốc Anh, đã chủ trì cuộc hội nghị.[19] Cuộc hội nghị diễn ra từ mùng 10 tháng 9 đến 15 tháng 12 năm 1979 với 47 phiên họp toàn thể. Ngày 1 tháng 12 năm 1979, các đoàn đại biểu của chính phủ Anh và Rhodesian và Mặt trận Yêu nước đã ký kết Thoả thuận Tòa Lancaster, chấm dứt nội chiến.[20]
Abel Muzorewa giữ chức thủ tướng trong một thời gian ngắn năm 1979.
Độc lập (1980–1999)
Ngài Soames người Anh đã được chỉ định làm toàn quyền kiểm soát quá trình giải giáp lực lượng du kích cách mạng, tổ chức các cuộc bầu cử và trao độc lập cho một chính phủ liên minh không ổn định với Joshua Nkomo, lãnh đạo ZAPU. Trong cuộc bầu cử tháng 2 năm 1980, Mugabe và ZANU của mình giành một thắng lợi lớn.[21]
Tuy nhiên vẫn có sự đối lập với việc Shona giành chiến thắng tại Matabeleland. Tháng 11 năm 1980 Enos Nkala đưa ra những lưu ý tại một cuộc vận động tranh cử ở Bulawayo, trong đó ông cảnh báo ZAPU rằng ZANU sẽ thực hiện một số hành động chống lại họ. Việc này đã khơi nguồn cho cuộc nổi dậy Entumbane lần thứ nhất, trong đó ZIPRA và ZANLA đã đánh nhau trong hai ngày.[22]
Tháng 2 năm 1981 có một cuộc nổi dậy thứ hai, lan tới Glenville và cả Connemara ở vùng Midlands. Quân đội ZIPRA ở những vùng khác thuộc Matabeleland tiến về Bulawayo để tham chiến, và các đơn vị cũ của Rhodesia phải tới để ngăn chặn cuộc xung đột. Hơn 300 người đã thiệt mạng.
Những cuộc nổi dậy này đã dẫn tới cái sẽ được gọi là Gukurahundi (Bản mẫu:Lang-sn rơm rác trước những cơn mưa mùa xuân”[23]) hay Những vụ thảm sát Matabeleland, diễn ra từ năm 1982 cho tới năm 1985. Mugabe đã sử dụng Lữ đoàn số 5 được huấn luyện tại Bắc Triều Tiên của mình để đàn áp mọi sự kháng cự tại Matabeleland. Ước tính 20,000 người Matabele đã bị giết hại và chôn trong những hố chôn tập thể họ bị buộc phải tự đào cho mình và hàng trăm người khác được cho là đã bị tra tấn.[24] Bạo lực chấm dứt sau khi ZANU và ZAPU đạt một thoả thuận thống nhất năm 1988 hợp nhất hai bên, tạo ra ZANU-PF.[25][26]
Cuộc bầu cử tháng 3 năm 1990 mang lại một thắng lợi khác cho Mugabe và đảng của ông, giành được 117 trên 120 ghế tranh cử. Các nhà quan sát viên bầu cử ước tính lượng người tham gia bầu cử ở mức chỉ 54% và rằng cuộc bầu cử không tự do và cũng không công bằng.[27][28]
Trong thập niên 1990 các sinh viên, công đoàn và các công nhân thường tuần hành biểu thị sự bất bình của họ với chính phủ. Các sinh viên biểu tình năm 1990 phản đối các đề xuất tăng cường sự kiểm soát của chính phủ với các trường đại học và một lần nữa năm 1991 và 1992 khi họ đụng độ với cảnh sát. Các công đoàn và công nhân cũng chỉ trích chính phủ trong thời gian này. Năm 1992 cảnh sát đã ngăn cản các thành viên công đoàn tổ chức các cuộc tuần hành chống chính phủ. Năm 1994 tình trạng bất ổn trong ngành công nghiệp càng làm suy yếu nền kinh tế. Năm 1996 các nhân viên dân sự, y tá, và các junior doctor tiến hành đình công về các vấn đề lương bổng.[29][30] Tình trạng sức khoẻ nói chung của dân chúng bắt đầu sụt giảm đáng kể và tới năm 1997, tới 25% dân số Zimbabwe đã bị ảnh hưởng bởi HIV, virus AIDS.[31]
Suy tàn (1999–hiện tại)
Các vấn đề đất đai, mà phong trào giải phóng đã hứa hẹn sẽ giải quyết, xuất hiện trở lại như vấn đề chính cho đảng cầm quyền từ năm 1999. Dù có đa số cầm quyền và sự hiện diện của một chương trình cải cách ruộng đất “người muốn bán người muốn mua” từ những năm 1980, ZANU (PF) tuyên bố rằng người da trắng chiếm chưa tới 1% dân số nhưng sở hữu 70% đất canh tác thương mại của quốc gia này (dù những con số trên bị nhiều người bên ngoài Chính phủ Zimbabwe tranh cãi).[32] Mugabe bắt đầu tái phân phối ruộng đất cho người da đen năm 2000 với một sự bắt buộc tái phân phối.
Tính hợp pháp và hợp hiến của quá trình thường xuyên bị tranh cãi tại Toà án Cao cấp và Toà án Tối cao Zimbabwe; tuy nhiên, các cơ quan cảnh sát hiếm khi hành động theo những phán quyết của toà án liên quan tới các vấn đề đó. Việc tịch thu đất canh tác bị ảnh hưởng bởi những trận hạn hán liên tục và thiếu nguồn cung cũng như tài chính dẫn tới một sự sụt giảm mạnh trong xuất khẩu nông nghiệp, vốn là ngành xuất khẩu hàng đầu của nước này.[33] Khai mỏ và du lịch đã vượt qua nông nghiệp. Vì thế, Zimbabwe đang trải qua tình trạng thiếu hụt ngoại tệ mạnh nghiêm trọng, dẫn tới tình trạng siêu lạm phát và thiếu hụt kinh niên nhiên liệu và hàng hoá nhập khẩu. Năm 2002, Zimbabwe bị treo tư cách tại Khối thịnh vượng chung vì những cáo buộc vi phạm nhân quyền trong quá trình tái phân phối đất đai và gian lận bầu cử.[34]
Sau cuộc bầu cử năm 2005, chính phủ đưa ra “Chiến dịch Murambatsvina“, một nỗ lực có mục đích loại bỏ các thị trường đen và những ngôi nhà không phép xuất hiện như những căn nhà ổ chuột tại các thị trấn và thành phố. Hành động này đã bị phe đối lập và các nhân vật quốc tế lên án mạnh mẽ, họ cho rằng nó đã khiến một thành phần đáng kể người nghèo trong thành thành phố trở thành vô gia cư.[35] Chính phủ Zimbabwe đã miêu tả chiến dịch như một nỗ lực nhằm cung cấp nhà ở hợp pháp cho dân cư dù họ vẫn chưa cung cấp bất kỳ ngôi nhà mới nào cho những người bị buộc phải rời bỏ nhà cửa.[36]
Cuộc khủng hoàng kinh tế và lương thực hiện nay ở Zimbabwe, được một số nhà quan sát miêu tả là cuộc khủng hoảng nhân đạo lớn nhất từ khi giành được độc lập, được góp phần ở nhiều cấp độ, từ việc kiểm soát giá và tịch thu đất đai của chính phủ, nạn dịch HIV/AIDS, và một nạn hạn hán ảnh hưởng tới toàn bộ vùng.[37]
Tuổi thọ khi sinh với nam giới ở Zimbabwe đã sụt giảm mạnh từ năm 1990 từ 60 xuống 44, ở mức thấp nhất thế giới. Tuổi thọ với nữ thậm chí còn thấp hơn với 43 tuổi. Số người Zimbabwe sẽ sống khoẻ mạnh khi sinh là 34 với nam và chỉ 33 với nữ.[38] Trái lại, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh đã tăng từ 53 tới 81 trên 1,000 ca sinh sống trong cùng thời kỳ đó. Bản mẫu:Ở thời điểm, 1.2 triệu người Zimbabwea sống chung với HIV.[39]
Ngày 29 tháng 3 năm 2008, Zimbabwe đã tổ chức một cuộc bầu cử tổng thống cùng với một cuộc bầu cử nghị viện. Ba ứng cử viên chính là Robert Mugabe thuộc Liên minh Quốc gia châu Phi Zimbabwe – Mặt trận Yêu nước (ZANU-PF), Morgan Tsvangirai thuộc PHong trào Thay đổi Dân chủ – Tsvangirai (MDC-T), và Simba Makoni, một ứng cử viên độc lập. Kết của của cuộc bầu cử này đã được giấu kín trong bốn tuần, sau đó mọi người được biết rằng MDC đã giành được đa số ghế. Tuy nhiên, Mugabe vẫn giữ quyền kiểm soát bởi Tsvangirai không giành chiến thắng theo tỷ lệ quy định của luật pháp Zimbabwe. Vì thế, các kết quả cuộc bầu cử sẽ loại bỏ Mugabe khỏi quyền lực, không thể giúp đỡ phe đối lập.
Cuối năm 2008, các vấn đề tại Zimbabwe lên tới tình trang khủng hoảng về các lĩnh vực tiêu chuẩn sống, sức khoẻ công cộng (với một trận bùng phát dịch tả lớn tháng 12) và nhiều vấn đề công khác.[40] Việc khai thác kim cương tại Marange ở Chiadzwa trở thành vấn đề được quốc tế quan tâm khi Hội đồng Kim cương Quốc tế kêu gọi một chính sách khẩn cấp về việc buôn lậu[41] và hơn 80 người khai thác lậu đã bị quân đội giết hại.[42]
Tháng 9 năm 2008, một thoả thuận chia sẻ quyền lực được đưa ra giữa Mugabe và Tsvangirai, theo đó Mugabe vẫn giữ chức tổng thống và Tsvangirai trở thành thủ tướng. Tuy nhiên, vì những khác biệt trong các bộ giữa các đảng chính trị, thoả thuận mãi tới ngày 13 tháng 2 năm 2009, hai ngày sau khi Tsvangirai tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng Zimbabwe, mới được thi hành đầy đủ.
Phân chia hành chính
Zimbabwe có một chính phủ tập trung và được chia thành tám tỉnh và hai thành phố với vị thế cấp tỉnh, cho các mục đích hành chính. Mỗi tỉnh có một thủ phủ nơi thường tập trung các hoạt động kinh doanh chính thức.[43]
Những cái tên của hầu hết các tỉnh đều xuất xứ từ Mashonaland và Matabeleland phân chia từ thời thực dân: Mashonaland là lãnh thổ đầu tiên bị chiếm đóng bởi British South Africa Company Pioneer Column và Matabeleland lãnh thổ được chinh phục trong Chiến tranh Matabele lần thứ nhất. Nó gần tương ứng với lãnh thổ tiền thuộc địa của người Shona và người Matabele, dù có những cộng đồng thiểu số kinh tế đáng chú ý ở hầu hết các tỉnh. Mỗi tỉnh nằm dưới sự lãnh đạo của một Thống đốc Tỉnh, được chỉ định bởi Tổng thống.[44] Chính quyền tỉnh được điều hành bởi một Người quản lý Tỉnh, được chỉ định bởi Uỷ ban Dịch vụ Công. Các chức năng chính quyền khác tại cấp tỉnh được thực hiện bởi các văn phòng tỉnh của các sở chính phủ quốc gia.[45]
Các tỉnh được chia thành 59 quận và 1,200 khu (thỉnh thoảng được gọi là các khu đô thị). Mỗi quận thuộc quyền lãnh đạo của một Người quản lý Quận, được chỉ định bởi Uỷ ban Dịch vụ Công. Cũng có một Hội đồng Quận Nông thôn, chỉ định Người phụ trách hành pháp. Hội đồng Quận Nông thôn gồm các hội viên được bầu từ khu đô thị, Người quản lý Quận và một đại diện của các lãnh đạo (các lãnh đạo truyền thống được bầu theo luật phong tục. Các chức năng chính quyền khác ở cấp quận được thực hiện bởi các văn phòng quân thuộc các sở của chính phủ địa phương.[46]
Ở mức độ khu có một Uỷ ban Phát triển Khu, gồm các uỷ viên được bầu của khu, các kraalhead (các lãnh đạo truyền thống trực thuộc những người lãnh đạo) và các đại diện của Uỷ ban Phát triển Làng. Các khu được phân chia thành các làng, mỗi làng có một UỶ ban Phát triển Làng được bầu và một Headman (lãnh đạo truyền thống phụ thuộc kraalhead).[47]
Chính phủ và chính trị
Zimbabwe là một nước cộng hoà theo hệ thống bán tổng thống, với một chính phủ nghị viện. Theo những thay đổi hiến pháp năm 2005, một thượng viện đã được tái lập.[48] Quốc hội Zimbabwe là hạ viện của Nghị viện.
LIên minh Quốc gia châu Phi Zimbabwe – Mặt trận Yêu nước (thường viết tắt là ZANU-PF) của Robert Mugabe đã là đảng chính trị chủ chốt của Zimbabwe từ khi độc lập.[49] Năm 1987 Mugabe khi ấy là thủ tướng đã sửa đổi hiến pháp và tự phong mình làm tổng thống. Đảng ZANU đã giành chiến thắng trong mọi cuộc bầu cử từ khi độc lập. Đặc biệt, cuộc bầu cử năm 1990 đã bị cả người dân trong nước lên án là lừa đảo, với đảng đứng thứ hai, Phong trào Thống nhất Zimbabwe của Edgar Tekere chỉ giành được 16% phiếu bầu.[50] Cuộc bầu cử tổng thống được tổ chức một lần nữa vào năm 2002 giữa những cáo buộc gian lận, thao túng và gian dối.[51] Cuộc bầu cử nghị viện Zimbabwe năm 2005 được tổ chức ngày 31 tháng 3 và cũng đã dẫn tới nhiều cáo buộc gian lận, lừa gạt và thao túng bầu cử từ phía MDC và Jonathan Moyo, kêu gọi điều tra tại 32 trong 120 đơn vị bầu cử.[52] Jonathan Moyo đã tham gia vào cuộc bầu cử dù có những cáo buộc và giành một ghế như một ứng cử viên độc lập của nghị viện.
Cuộc tổng tuyển cử một lần nữa được tổ chức tại Zimbabwe ngày 30 tháng 3 năm 2008.[53] Kết quả chính thức dẫn tới một cuộc cạnh tranh trực tiếp giữa Mugabe và Morgan Tsvangirai, lãnh đạo đối lập, tuy nhiên MDC phản đối kết quả này, tuyên bố sự gian lận trên diện rộng trong bầu cử từ phía chính phủ Mugabe. Cuộc bỏ phiếu vòng hai được dự định vào ngày 27 tháng 6 năm 2008. Tuy nhiên, vào ngày 22 tháng 6, dẫn ra sự tiếp tục không công bằng trong quá trình tranh cử và từ chối thanh gia vào một “quá trình bầu cử bạo lực, không chính đáng”, Tsvangirai đã rút lui khỏi cuộc bầu cử vòng hai, giao lại chiến thắng cho Mugabe.[54]
MDC-T dưới sự lãnh đạo của Morgan Tsvangirai hiện là đảng lớn nhất trong nghị viện. MDC bị chia rẽ thành hai phái. Một phái (MDC-M), hiện dưới sự lãnh đạo của Arthur Mutambara tham gia vào cuộc bầu cử Thượng viện, trong khi nhánh kia, dưới sự lãnh đạo của Morgan Tsvangirai, phản đối cuộc bầu cử, nói rằng việc tham gia vào một cuộc bầu cử gian lận đồng nghĩa với việc xác nhận tuyên bố của Mugabe rằng các cuộc bầu cử trong quá khứ là tự do và công bằng. Tuy nhiên, các đảng đối lập đã bắt đầu tham gia lại vào các cuộc bầu cử quốc gia và địa phương vào năm 2006. Hai phái MDC đã có đại hội chung vào năm 2006 với việc Morgan Tsvangirai được bầu lãnh đạo MDC-T, và nhóm này đã trở nên nổi trội hơn so với nhóm kia. Mutambara, một giáo sư rôbốt và cựu chuyên gia rôbốt của NASA đã thay thế Welshman Ncube người từng là lãnh đạo tạm quyền của MDC-M sau cuộc chia rẽ. Morgan Tsvangirai không tham gia vào cuộc bầu cử Thượng viện, trong khi phái của Mutambara có tham gia và giành năm ghế trong thượng viện. Tuy nhiên nhóm Mutambara đã bị suy yếu bởi những cuộc đào tẩu từ các nghị sĩ và các cá nhân cảm thấy vỡ mộng vì tuyên ngôn của họ. Ở thời điểm năm 2008, Mặt trận vì Thay đổi Dân chủ đã trở nên nổi bật nhất, với những đám đông lên tới 20,000 tham gia vào các cuộc tuần hành của họ so với trong khoảng 500–5,000 với các nhóm khác.[55]
Ngày 28 tháng 4 năm 2008, Tsvangirai và Mutambara thông báo tại một cuộc họp báo chung ở Johannesburg rằng hai nhóm MDC đang hợp tác với nhau, cho phép MDC có đa số rõ ràng trong nghị viện.[56][57] Tsvangirai nói Mugabe không thể tiếp tục là tổng thống khi không nắm giữ đa số trong nghị viện.[57] Cùng ngày hôm ấy, Silaigwana thông báo rằng việc tái kiểm phiếu ở năm đơn vị bầu cử cuối cùng đã hoàn thành, rằng kết quả đang được so sánh, và rằng họ sẽ công bố nó vào ngày 29 tháng 4.[58]
Giữa tháng 9 năm 2008, sau những cuộc đàm phán kéo dài dưới sự giám sát của các lãnh đạo Nam Phi và Mozambique, Mugabe và Tsvangirai đã ký một thoả thuận chia sẻ quyền lực với việc Mugabe giữ lại quyền kiểm soát quân đội. Các quốc gia viện trợ đã thông qua một thái độ ‘chờ và xem’, muốn thấy những thay đổi thực sự từ hành động này trước khi cam kết cung cấp vốn cho các nỗ lực tái thiết, với ước tính cần ít nhất 5 năm. Ngày 11 tháng 2 năm 2009 Tsvangirai tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng trước Tổng thống Mugabe.
Tháng 11 năm 2008, chính phủ Zimbabwe đã chi $7.3 triệu viện trợ bởi Quỹ toàn cầu phòng chống AIDS, bệnh Lao và dịch Tả. Một đại diện của tổ chức đã từ chối nói rõ cách thức số tiền được chi, ngoại trừ rằng nó không được chi cho mục đích đã dự định, và chính phủ đã không thể đáp ứng được yêu cầu hoàn trả lại số tiền đó.[59]
Đối ngoại
Zimbabwe thực hiện đường lối đối ngoại không liên kết (KLK), đa dạng hoá quan hệ quốc tế, giữ cân bằng quan hệ với các nước lớn nhằm tranh thủ viện trợ, vốn, kỹ thuật, đồng thời coi trọng quan hệ với các nước châu Phi, đặc biệt các nước tiền tuyến miền Nam châu Phi. Trong khuôn khổ SADC, cùng với Angola, Namibia, Zimbabwe đưa 12.000 quân vào Cộng hòa Dân chủ Congo giúp chính quyền nước này chống lại việc các nước láng giềng Rwanda, Uganda đưa quân vào giúp lực lượng đối lập ở Congo.
Là thành viên của 44 Tổ chức quốc tế lớn, đặc biệt là ONU, IMF, G15, G77, WTO… Zimbabwe có vai trò quan trọng trong quá trình đấu tranh bảo vệ quyền lợi của các nước đang phát triển trong quá trình toàn cầu hoá. Năm 1986, với cương vị Chủ tịch Phong trào không liên kết, Zimbabwe cố gắng góp phần tăng cường đoàn kết và duy trì mục tiêu phong trào.
Nhân quyền
Có nhiều báo cáo về sự gia tăng và vi phạm có hệ thống với nhân quyền tại Zimbabwe dưới chính quyền Mugabe và đảng của ông, ZANU-PF.
Theo các tổ chức nhân quyền như Ân xá Quốc tế[61] và Human Rights Watch[62] chính phủ Zimbabwe vi phạm quyền có nơi ở, thực phẩm, tự do đi lại và cư ngụ, tự do hội họp và bảo vệ pháp luật. Đã có những cáo buộc về các vụ tấn công vào truyền thông, đối lập chính trị, các nhà hoạt động xã hội dân sự, và những người bảo vệ nhân quyền.
Những cuộc tụ tập của phe đối lập thường là mục tiêu của những vụ tấn công bạo lực của lực lượng cảnh sát, như vụ dẹp một cuộc tuần hành ngày 11 tháng 3 năm 2007 của Phong trào vì Thay đổi Dân chủ (MDC) và nhiều cuộc tuần hành khác trong chiến dịch tranh cử năm 2008.[63] Trong những vụ tấn công năm 2007, lãnh đạo đảng Morgan Tsvangirai và 49 nhà hoạt động đối lập khác đã bị cảnh sát bắt giữ và đánh đập tàn ác. Sau khi được thả, Morgan Tsvangirai đã nói với BBC rằng ông bị nhiều vết thương ở đầu và ở tay, đầu gối và lưng, và răng ông đã mất một lượng máu đáng kể.[64] Hành động của cảnh sát đã bị Tổng thư ký Liên hiệp quốc, Ban Ki-moon, Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ lên án mạnh mẽ.[64] Tuy lưu ý rằng các nhà hoạt động đã phải chịu nhiều thương tích, nhưng không đề cập tới nguyên nhân của chúng,[65] tờ báo The Herald thuộc quyền kiểm soát của chính phủ Zimbabwe tuyên bố rằng cảnh sát đã can thiệp sau khi những người biểu tình “điên cuồng cướp phá các cửa hiệu, phá hoại tài sản, đánh dân thường và tấn công các sĩ quan cảnh sát và các nhân viên công cộng vô tội”. Tờ báo cũng cho rằng đối lập đã “cố tình vi phạm lệnh cấm các cuộc tuần hành chính trị”.[65]
Cũng có một sự vi phạm nhân quyền trong truyền thông. Chính phủ Zimbabwe đã đàn áp tự do báo chí và tự do ngôn luận.[61] Họ cũng nhiều lần bị buộc tội sử dụng công ty truyền hình nhà nước, Zimbabwe Broadcasting Corporation, như một công cụ tuyên truyền.[66] Những tờ báo chỉ trích chính quyền, như tờ Daily News, đã phải đóng cửa sau khi những quả bom phát nổ tại các văn phòng của họ và chính phủ từ chối cấp mới giấy phép cho họ.[67][68] BBC News, Sky News, và CNN bị cấm quay phim và đưa tin từ Zimbabwe. Năm 2009 các giới hạn đưa tin với BBC và CNN đã được dỡ bỏ.[69] Sky News tiếp tục đưa tin nhờ những sự giúp đỡ bên trong Zimbabwe từ các nước láng giếng như Nam Phi.[70][71]
Các lực lượng vũ trang
Sự tồn tại của Các lực lượng Vũ trang Zimbabwe (ZDF) được quy định trong Hiến pháp Zimbabwe, Chương X, 96 (1), viết rằng,
“ | Vì các mục đích bảo vệ Zimbabwe, sẽ có các lực lượng quốc phòng gồm một lục quân, một không quân và các nhánh khác, nếu có, của các lực lượng quốc phòng như có thể được quy định cho bởi hay theo một đạo luật của nghị viện.[72] | ” |
ZDF được lập ra bởi sự sáp nhập của ba lực lượng tham chiến, Quân đội giải phóng Zimbabwe châu Phi, (ZANLA) và Quân đội Cách mạng Nhân dân Zimbabwe, (ZIPRA) một bên và Các lực lượng An ninh Rhodesian bên kia ở cuối cuộc Chiến tranh cây bụi Rhodesian năm 1980. Giai đoạn sáp nhập chứng kiến sự thành lập Quân đội Quốc gia Zimbabwe (ZNA) và Không quân Zimbabwe (AFZ) như các thực thể riêng biệt dưới quyền chỉ huy của Tướng Solomon Mujuru (ZNA) và Thống chế không quân Norman Walsh (AFZ). Norman Walsh đã nghỉ hưu năm 1982, và được thay thế bởi Thống chế không quân Azim Daudpota, người sau đó đã trao lại quyền chỉ huy cho Trưởng Thống chế không quân Josiah Tungamirai năm 1985. Dù sự sáp nhận diễn ra trong ZNA, không có sự sáp nhập trong Không quân Zimbabwe. Các thành viên ZIPRA và ZANLA cũ đã gia nhập Không quân, đặc biệt trong khoảng thời gian 1980 và đầu năm 1982, thực hiện việc này với tư cách cá nhân. Trái lại, nhiều người không thực hiện cái gọi là “cấp bậc” và đã giải ngũ khỏi AFZ không giống như các bạn đồng sự của mình trong ZNA, những người được bảo vệ bởi nghị định sáp nhập. Trước khi Norman Walsh rời Không quân, máy bay quân đội đã bị phá huỷ trong cuộc phá hoại tại Căn cứ Không quân Thornhill ở Gweru. Những vụ bắt giữ đã được tiến hành và nó đã dẫn tới việc trục xuất các sĩ quan người da trắng khỏi AFZ. Chính phủ phản ứng bằng cách chuyển Thiếu tướng Josiah Tungamirai khỏi ZNA sang AFZ, trở thành một Phó thống chế không quân, người sau này là trợ lý cho Thống chế không quân Daudpota, được thuyên chuyển từ Không quân Pakistan. Các chỉ huy sáp nhập đã trao lại những lá cờ Zimbabwe cho Trung tướng Vitalis Zvinavashe, người sau này trở thành Tư lệnh đầu tiên của Các lực lượng Phòng vệ (1993), và Thống chế không quân Perrance Shiri năm 1992, và sau đó trong ZNA cho Trung tướng Constantine Chiwenga năm 1993.
Việc thông qua Dự luật Sửa đổi Quốc phòng đã dẫn tới việc lập ra một bộ tư lệnh duy nhất cho Các lực lượng Phòng vệ năm 1995. Tướng Vitalis Zvinavashe trở thành chỉ huy đầu tiên của Các lực lượng Phòng vệ Zimbabwe, với các chỉ huy của cả Lục quân và Không quân đều thuộc dưới quyền chỉ huy của ông. Sau khi ông nghỉ hưu tháng 12 năm 2003, Tướng Constantine Chiwenga, được thăng chức và được chỉ định làm Chỉ huy Các lực lượng Phòng vệ Zimbabwe. Trung tướng P. V. Sibanda thay thế ông trở thành Chỉ huy Lục quân.[72]
ZNA hiện có số lượng binh sĩ thường trực 30,000 người. Không quân có khoảng 5,139 người.[73] Cảnh sát Cộng hoà Zimbabwe (gồm cả Đơn vị Cảnh sát Hỗ trợ, Cảnh sát Bán vũ trang) cũng là một phần của lực lượng quốc phòng Zimbabwe và có quân số 25,000 người.[74]
Năm 1999, Chính phủ Zimbabwe đã gửi một lực lượng quân đội khá lớn tới Cộng hoà Dân chủ Congo để hỗ trợ chính phủ của Tổng thống Laurent Kabila trong cuộc Chiến tranh Congo lần thứ hai. Các lực lượng này đã rút phần lớn vào năm 2002.
Quân đội Quốc gia Zimbabwe
Quân đội Quốc gia Zimbabwe hay ZNA được lập ra năm 1980 từ các thành phần của Quân đội Rhodesian, được sáp nhập ở một mức độ ít hay nhiều với các chiến binh từ các phong trào ZANLA và ZIPRA du kích (các phái vũ trang của ZANU và ZAPU).
Sau khi đảng đa số cầm quyền vào đầu năm 1980, các huấn luyện viên của Quân đội Anh đã quản lý việc sáp nhập các chiến binh du kích vào trong cơ cấu một tiểu đoàn được lập ra trên cơ sở các lực lượng vũ trang Rhodesian sẵn có. Trong năm đầu tiên một hệ thống được đưa ra theo đó các ứng cử viên hàng đầu sẽ trở thành chỉ huy tiểu đoàn. Nếu anh hay chị ta từ ZANLA, thì người phụ tá thứ nhất sẽ là ứng cử viên tốt nhất từ ZIPRA, và ngược lại.[75] Điều này đảm bảo sự cân bằng giữa hai phong trào trong cơ cấu chỉ huy. Từ đầu năm 1981 hệ thống này đã bị huỷ bỏ nhường chỗ cho việc chỉ định chính trị, và các chiến binh ZANLA/ZANU sau đó nhanh chóng chiếm đa số lực lượng chỉ huy tiểu đoàn bên trong ZNA.
ZNA ban đầu được thành lập thành bốn sư đoàn, gồm tổng cộng 28 tiểu đoàn. Các đơn vị hỗ trợ sư đoàn gồm hầu như toàn bộ các chuyên gia từ Quân đội Rhodesian cũ, trong khi các tiểu đoàn sáp nhập của Rhodesian African Rifles được biên chế thành các lữ đoàn số 1, số 3 và số 4. Lữ đoàn số 5 khét tiếng được thành lập năm 1981 và đã bị giải tán năm 1988 sau những cáo buộc tra tấn và giết hại trong thời gian Lữ đoàn chiếm đóng Matabeleland trong cái đã được gọi là Gukurahundi (Bản mẫu:Lang-sn).[23][76] Tuy nhiên tới năm 2006 Lữ đoàn đã được tái lập, với chỉ huy, Tướng John Mupande ca tụng “lịch sử phong phú” của nó.[77]
Kinh tế
Zimbabwe là nước có tiềm năng kinh tế, giàu tài nguyên thiên nhiên với crom và vàng là khoáng sản chính của nước này. Thuốc lá, bông và đường là những mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Zimbabwe.
Sau độc lập, chính quyền mới chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, duy trì tốc độ phát triển, tiến hành cấp ruộng đất cho người da đen, ban hành luật lao động, định cư, nâng lương tối thiểu, xây dựng cơ sở y tế, giáo dục; thực hiện chính sách ôn hoà với người da trắng, sử dụng tay nghề, vốn, kỹ thuật và cơ cấu kinh tế, tài chính của họ nhằm duy trì sản xuất, tránh xáo trộn tình hình.
Chính quyền mới từng bước cải tạo nền kinh tế theo chiều hướng xoá dần tệ phân biệt chủng tộc, hạn chế bóc lột sức lao động. Nhà nước nắm những lĩnh vực kinh tế quan trọng như ngân hàng, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên, xuất nhập khẩu; lập hợp tác xã nông nghiệp, xí nghiệp công nghiệp; thực hiện tự do hoá nền kinh tế, khuyến khích khu vực tư nhân, xoá bỏ cấp giấy phép nhập khẩu, kiểm soát giá cả các mặt hàng tiêu dùng, nới lỏng quản lý trao đổi ngoại tệ để thu hút đầu tư và khuyến khích liên doanh với nước ngoài. Tranh thủ vốn đầu tư, kỹ thuật và viện trợ của các nước để duy trì hoạt động của nền kinh tế. Xúc tiến hợp tác khu vực, xây dựng ống dẫn dầu qua cảng Becca, Maputo của Mozambique, phục hồi đường sắt vận chuyển qua các nước, từng bước tăng quan hệ kinh tế hợp tác với châu Phi.
Zimbabwe tích cực tham gia đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế thế giới mới, thúc đẩy hợp tác Nam – Nam, hợp tác khu vực.
Xuất khẩu khoáng chất, nông nghiệp, và du lịch là những nguồn thu ngoại tệ chính của Zimbabwe.[78] Lĩnh vực khai mỏ vẫn mang lại nhiều lợi nhuận, với một số trữ lượng platinum lớn nhất thế giới đang được khai thác bởi Anglo-American và Impala Platinum.[79] Zimbabwe là đối tác thương mại lớn nhất của Nam Phi trên lục địa châu Phi.[80]
Zimbabwe vẫn duy trì được mức độ tăng trưởng kinh tế dương trong suốt những năm 1980 (tăng trưởng 5.0% GDP hàng năm) và 1990 (tăng trưởng 4.3% GDP hàng năm). Tuy nhiên, nền kinh tế đã suy gảim từ năm 2000: giảm 5% năm 2000, 8% năm 2001, 12% năm 2002 và 18% năm 2003.[81] Chính phủ Zimbabwe phải đối mặt với nhiều vấn đề kinh tế sau khi đã từ bỏ các nỗ lực trước kia nhằm phát triển một nền kinh tế theo định hướng thị trường. Các vấn đề bao gồm thiếu hụt ngoại tệ, lạm phát tăng vọt, và thiếu nguồn cung hàng hoá. Việc Zimbabwe tham gia vào cuộc chiến tranh tại Cộng hoà Dân chủ Congo từ năm 1998 tới năm 2002 đã làm nền kinh tế nước này thiệt hại hàng trăm triệu dollar.[82]
Vòng xoáy suy giảm của nền kinh tế có nguyên nhân chủ yếu từ sự quản lý kém và tham nhũng của chính quyền Mugabe và sự tịch thu tài sản bất hợp pháp của hơn 4,000 chủ trại da trắng trong chiến dịch phân phối lại đất đai gây nhiều tranh cãi năm 2000.[83][84][85][86] Zimbabwe trước kia là một nước xuất khẩu ngô nhưng hiện đã phải nhập khẩu.[79] Xuất khẩu thuốc lá và các mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu khác cũng sụt giảm nghiêm trọng.
Du lịch từng là một ngành công nghiệp quan trọng của đất nước, nhưng đã sụt giảm trong những năm gần đây. Zimbabwe Conservation Task Force đã ra một bản báo cáo vào tháng 7 năm 2007, ước tính 60% đời sống hoang dã tại Zimbabwe đã mất từ năm 2000 vì tình trạng săn bắn trộm và phá rừng. Báo cáo cảnh báo rằng sự mất mát đời sống hoang dã cộng với tình trạng phá rừng trên diện rộng có nguy cơ phá huỷ ngành công nghiệp du lịch.[87]
Siêu lạm phát 2003-2009
Lạm phát đã tăng từ một tỷ lệ hàng năm 32% năm 1998, lên mức ước tính chính thức cao tới 11.200.000.000% vào tháng 8 năm 2008 theo Văn phòng Thống kê Trung ương.[88] Đây là một tình trạng siêu lạm phát, và ngân hàng trung ương đã đưa ra một đồng tiền 100 tỷ dollar mới.[89] Ở thời điểm tháng 11 năm 2008, các con số không chính thức đưa ra tỷ lệ lạm phát hàng năm của Zimbabwe là 516 nhân 10 mũ 18 phần trăm, với giá cả tăng gấp đôi sau mỗi 1.3 ngày. Cuộc khủng hoảng lạm phát của Zimbabwe hiện (2009) là cuộc lạm phát tồi tệ thứ hai trong lịch sử, sau cuộc khủng hoảng siêu lạm phát ở Hungary năm 1946, với giá cả tăng gấp đôi sau mỗi 15.6 giờ.[90] Tới năm 2005, sức mua của người dân trung bình Zimbabwe đã giảm xuống mức thực tương đương thời điểm năm 1953.[91] Những người dân địa phương phần lớn phải mua những vật dụng thiết yếu từ các quốc gia Botswana, Nam Phi và Zambia láng giềng.
Năm 2005, chính phủ, theo sự hướng dẫn của thống đốc ngân hàng trung ương Gideon Gono, đã bắt đầu những cuộc đàm phán để những người chủ trại da trắng có thể quay lại. Họ chỉ còn khoảng 400 tới 500 người vẫn còn ở lại trong nước, nhưng hầu hết đất đai đã bị tịch thu không còn có thể canh tác được nữa.[92] Tháng 1 năm 2007, chính phủ thậm chí còn để một số chủ trang trại da trắng ký các hợp đồng thuê đất dài hạn.[93] Nhưng, chính phủ một lần nữa đảo ngược lại quá trình này và bắt đầu yêu cầu tất cả những người chủ trại da trắng còn lại phải rời đất nước hoặc sẽ phải đối mặt với việc bị bỏ tù.[94][95]
Tháng 8 năm 2006, một đồng dollar Zimbabwe mới đã được đánh giá lại được phát hành tương đương với 1.000 dollar trước kia. Tỷ lệ trao đổi đã giảm từ 24 dollar Zimbabwe cũ trên U.S. dollar (USD) năm 1998 tới 250.000 dollar trước kia hay 250 dollar Zimbabwe mới trên 1 dollar Mỹ theo tỷ giá chính thức,[96] và ước tính 120.000.000 dollar cũ hay 120.000 dollar Zimbabwe mới 1 dollar Mỹ trên chợ đen,[97] tháng 6 năm 2007.
Tờ 100 nghìn tỷ đô la Zimbabwe mặt trước | và mặt sau |
Tháng 1 năm, 2009, Zimbabwe đưa ra đồng tiền giấy $100 nghìn tỷ (1014).[98] Ngày 29 tháng 1, trong một nỗ lực đối phó với tình trạng lạm phát của đất nước, quyền Bộ trưởng Tài chính Patrick Chinamasa thông báo rằng người dân Zimbabwe sẽ được phép sử dụng các đồng tiền tệ khác, ổn định hơn (ví dụ Sterling, Euro, Rand Nam Phi và Dollar Mỹ) trong trao đổi, bên cạnh đồng dollar Zimbabwe.[99]
Ngày 2 tháng 2 năm 2009, RBZ thông báo thêm 12 số không nữa sẽ bị bỏ khỏi đồng tiền tệ, với 1.000.000.000.000 dollar (thế hệ ba) Zimbabwe đổi được một dollar mới. Các đồng tiền mới (thế hệ bốn) được đưa ra với mệnh giá mới Z$1, Z$5, Z$10, Z$20, Z$50, Z$100 và Z$500. Các đồng tiền thế hệ bốn được lưu hành cùng với các đồng thế hệ ba, vẫn được sử dụng cho tới ngày 30 tháng 6 năm 2009.[100]
Quan điểm chính phủ và các lệnh cấm vận quốc tế
Mugabe chỉ ra các chính phủ nước ngoài và cái gọi là “sự phá hoại ngầm” là nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ của kinh tế Zimbabwe, cũng như tỷ lệ thất nghiệp chính thức lên tới 80% ở nước này.[101] Những lời chỉ trích với chính quyền Mugabe, gồm cả đại đa số cộng đồng quốc tế, buộc tội chương trình gây tranh cãi của Mugabe, tìm cách chiếm đoạt đất đai từ những nông dân da trắng.[cần dẫn nguồn] Mugabe đã nhiều lần lên án các lệnh cấm vận áp đặt lên Zimbabwe bởi Cộng đồng châu Âu và Hoa Kỳ gây ra tình trạng hiện tại của nền kinh tế Zimbabwe. Tuy nhiên, theo Hoa Kỳ, những mục tiêu cấm vận chỉ nhắm tới bảy lĩnh vực kinh doanh riêng biệt thuộc sở hữu hay dưới quyền kiểm soát của các quan chức chính phủ chứ không phải những công dân bình thường.[102] Trong một cuộc họp của Cộng đồng Phát triển Miền nam châu Phi năm 2007, đã có một lời kêu gọi dỡ bỏ các lệnh cấm vận được đưa ra.[103]
Các tỷ lệ thuế và phí rất cao với các doanh nghiệp tư nhân, trong khi các doanh nghiệp nhà nước được trợ cấp rất lớn. Chi phí quản lý nhà nước với các công ty rất đắt đỏ; việc khởi đầu hay đóng của một doanh nghiệp rất chậm chạp và tốn chi phí.[104] Chi tiêu chính phủ được dự đoán chiếm 67% GDP năm 2007.[105] Con số này thường được bù đắp một phần nhờ việc in thêm tiền, dẫn tới tình trạng siêu lạm phát. Thị trường lao động được quy định rất chặt chẽ; việc thuê một nhân công rất rắc rối, việc sa thải nhân công rất khó khăn, và tỷ lệ thất nghiệp đã lên tới 80% (2005).[104]
Trong một nỗ lực nhằm đương đầu với lạm phát và khuyến khích tăng trưởng kinh tế đồng dollar Zimbabwe đã bị đình chỉ vĩnh viễn ngày 12 tháng 4 năm 2009.[106] Hiện Zimbabwe cho phép thực hiện giao dịch thương mại bằng đồng dollar Mỹ và nhiều đồng tiền tệ khác như đồng Rand của Nam Phi, đồng Euro, Sterling, và đồng Pula của Botswana. Việc sử dụng đồng dollar Mỹ đã mang lại nhiều kết quả to lớn trong vòng vài tuần khi lạm phát thực tế đã giảm xuống dưới 0 ở mức -3%.[cần dẫn nguồn]
Tuy nhiên, dù đã có sự nỗ lực kinh tế, vẫn không có đủ việc làm cho nhiều người, và tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao nhất thế giới, với 95% dân số không có việc làm. Và hiện chính phủ vẫn phải đối mặt với những khó khăn trong việc tạo thêm công ăn việc làm.
Gần đây, tình hình nội bộ Zimbabwe không ổn định, kế hoạch cải cách ruộng đất đã gây ra làn sóng bạo lực ở Zimbabwe, chi phí đưa 12.000 quân sang giúp Cộng hoà Dân chủ Congo chiếm khoảng 10% GDP và nạn dịch AIDS hoành hành càng làm tăng thêm khó khăn cho kinh tế nước này.
Từ đầu năm 2009, Ngân hàng Trung ương Zimbabwe định kỳ phát hành lượng tiền lớn để bù đắp thâm hụt ngân sách đã dẫn đến tình trạng siêu lạm phát ở nước này, lên tới trên hơn 100.000%. Đến tháng 2 năm 2009, việc chia sẻ quyền lực trong Chính phủ mới thành lập đã giúp cải thiện tình hình kinh tế, tình trạng siêu lạm phát dần bị khống chế thông qua việc hạn chế phát hành thêm đồng đô-la Zimbabwe và dỡ bỏ việc kiểm soát giá cả. Nền kinh tế Zimbabwe ghi nhận sự tăng trưởng lần đầu tiên trong thập kỷ sau nhiều năm suy thoái. Người dân hy vọng việc ổn định tình hình chính trị sẽ giúp phát triển kinh tế mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới.
Năm 2010, GDP của Zimbabwe đạt 4,27 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng 5,9% và lạm phát là 5,03%, GDP bình quân đầu người của nước này ở mức thấp, chỉ khoảng 400 USD, tỷ lệ thất nghiệp ở mức kỷ lục với 95%.
Nông nghiệp thu hút 66% lực lượng lao động nhưng chỉ đóng góp 17,9% vào GDP. Các loại nông sản chủ yếu là: ngô, sợi bông, thuốc lá, bột mày, mía đường, thịt cừu, thịt dê, thịt lợn…
Công nghiệp thu hút 10% lực lượng lao động và đóng góp vào 24,3% GDP. Các ngành công nghiệp chính là: khai khoáng, quần áo và giầy da, thực phẩm và đồ uống…
Dịch vụ thu hút 24% lực lượng lao động và đóng góp tới 57,95% GDP. Du lịch là một ngành dịch vụ quan trọng của Zimbabwa nhưng hiện đang gặp khủng hoảng vì các khách du lịch phương Tây tránh nước này do lo ngại tâm lý bài da trắng.
Về ngoại thương, năm 2010, Zimbabwe xuất khẩu 2,54 tỷ USD trong đó chủ yếu là platin, bông, thuốc lá, vàng, hợp kim sắt, hàng dệt may. Các bạn hàng chính của Zimbabwe là Congo, Nam Phi, Botswana, Trung Quốc, Đức…
Năm 2010, Zimbabwe nhập khẩu 4,04 tỷ USD. Các mặt hàng nhập khẩu của nước này là máy móc và thiệt bị vận tải, hóa chất, xăng dầu, lương thực. Các đối tác nhập khẩu chính của Zimbabwe là Nam Phi (62,2%), Trung Quốc.
Nhân khẩu
Tổng dân số Zimbabwe là 12 triệu người.[107] Theo Tổ chức Y tế Thế giới của Liên hiệp quốc, tuổi thọ dự tính cho nam là 37 và tuổi thọ dự tính cho nữ là 34, ở mức thấp nhất thế giới năm 2006.[108] Một hiệp hội bác sĩ tại Zimbabwe đã đưa ra những kêu gọi với Tổng thống Mugabe nhằm có những động thái hỗ trợ lĩnh vực y tế đang yếu kém.[109] Tỷ lệ lây nhiễm HIV tại Zimbabwe được ước tính ở mức 20.1% với những người trong độ tuổi 15–49 năm 2006.[110] UNESCO đã báo cáo một sự sụt giảm trong mức độ có HIV ở các phụ nữ có thai từ 26% năm 2002 xuống còn 21% năm 2004.[111]
Khoảng 85% dân số Zimbabwe là tín đồ Thiên Chúa giáo; 62% thường xuyên tham gia các hoạt động tôn giáo.[112] Các giáo hội Thiên Chúa giáo lớn nhất là Anh giáo, Công giáo Rôma, Giáo hội Chúa giáng sinh bảy ngày[113] và Hội giám lý. Như ở các quốc gia châu Phi khác, Thiên Chúa giáo có thể trộn lẫn với những đức tin truyền thống từ xa xưa. Bên cạnh Thiên Chúa giáo, sự thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng phi Thiên Chúa giáo có nhiều người thực hiện nhất, liên quan tới sự cầu nguyện linh hồn; Mbira Dza Vadzimu, có nghĩa “Giọng nói của tổ tiên”, một dụng cụ liên quan tới nhiều lamellophone có mặt khắp nơi ở châu Phi, là trung tâm của nhiều hình thức nghi lễ. Mwari đơn giản mang nghĩa “Thánh của sự sáng tạo” (musika vanhu in Shona). Khoảng 1% dân số là tín đồ Hồi giáo.[114]
Nhóm sắc tộc da đen chiếm 98% dân số. Là sắc tộc đa số, người Shona, chiếm 80 tiứu 84%. Người Ndebele đông thứ hai với 10 tới 15% dân số.[115][116] Người Ndebele là hậu duệ của những người di cư Zulu ở thế kỷ 19 và những bộ tộc khác mà họ kết hôn cùng. Lên tới một triệu người Ndebele có thể đã rời bỏ đất nước trong năm năm qua, chủ yếu tới Nam Phi. Cá nhóm sắc tộc Bantu khác đứng thứ ba với 2 tới 5%. Họ gồm Venda, Tonga, Shangaan, Kalanga, Sotho, Ndau và Nambya.[116]
Các nhóm sắc tộc thiểu số gồm người da trắng Zimbabwe, chủ yếu có nguồn gốc Anh, nhưng một số cũng có nguồn gốc Afrikaner, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Hà Lan, chiếm chưa tới 1% tổng dân số. Số người da trắng đã giảm từ đỉnh điểm khoảng 296,000 người năm 1975 xuống còn khoảng 120,000 năm 1999 và được ước tính còn không hơn 50,000 năm 2002, và có thể còn ít hơn.[117] Chủ yếu họ đã di cư tới Vương quốc Anh (khoảng 200,000 tới 500,000 người Anh có nguồn gốc Zimbabwe), Nam Phi, Botswana, Zambia, Canada, Australia và New Zealand. Những công dân là người lai chiếm 0.5% dân số và nhiều nhóm sắc tộc châu Á khác, chủ yếu là người Ấn Độ và Trung Quốc và cũng chiếm 0.5%.[118] Những người nhập cư châu Á có ảnh hưởng trong lĩnh vực kinh tế.
Ngôn ngữ
Shona, Ndebele và tiếng Anh là những ngôn ngữ chính của Zimbabwe. Dù tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức, chưa tới 2.5%, chủ yếu là các cộng đồng da trắng và da màu (người lai), coi nó là tiếng mẹ đẻ của mình. Số dân cư còn lại nói các ngôn ngữ Bantu như Shona (76%), Ndebele (18%) và các ngôn ngữ thiểu số khác của Venda, Tonga, Shangaan, Kalanga, Sotho, Ndau và Nambya.[119] Shona có một truyền thống truyền khẩu giàu có, đã được đưa vào trong tiểu thuyết Shona đầu tiên, Feso của Solomon Mutswairo, được xuất bản năm 1956.[120] Tiếng Anh chủ yếu được sử dụng tại các thành phố, ít thấy ở các vùng nông thôn. Đài phát thanh và vô tuyến được phát bằng tiếng Shona, Ndebele và tiếng Anh.
Khủng hoảng người tị nạn
Sự tan rã kinh tế cùng những biện pháp đàn áp chính trị tại Zimbabwe đã dẫn tới một làn sóng người tị nạn đổ tới các quốc gia láng giềng. Ước tính 3.4 triệu người Zimbabwe, một phần tư dân số, đã chạy ra nước ngoài ở thời điểm giữa năm 2007.[121] Khoảng 3 triệu người trong số đó đã tới Nam Phi.[122]
Ngoài những người đã phải bỏ chạy tới các quốc gia lân cận, có tới 1 triệu người phải dời bỏ nhà cửa ở trong nước (IDPs). Hiện không có kết quả điều tra toàn bộ,[123] nhưng có những con số sau:
Điều tra | Số lượng | Ngày | Ngồn |
---|---|---|---|
Điều tra quốc gia | 880–960,000 | 2007 | Zimbabwe Vulnerability Assessment Committee [124] |
Nhân công nông nghiệp cũ | 1,000,000 | 2008 | UNDP [123] |
Những nạn nhân của Chiến dịch Murambatsvina | 570,000 | 2005 | UN [125] |
Người phải dời bỏ nhà cửa vì bạo lực chính trị | 36,000 | 2008 | UN [123] |
Những cuộc điều tra trên không bao gồm những người phải dời bỏ nhà cửa bởi Chiến dịch Chikorokoza Chapera hay những người được hưởng lợi từ chương trình cải cách fast-track nnhưng từ đó đã bị đuổi khỏi đất đai.[123]
Y tế
Khi mới độc lập, các chính sách bất bình đẳng chủng tộc được phản ánh qua những mô hình bệnh dịch của cộng đồng da đen đa số. Năm năm đầu tiên sau khi độc lập chứng kiến sự phát triển nhanh chóng trong tỷ lệ tiêm chủng, mức độ tiếp cận dịch vụ y tế và tỷ lệ người sử dụng các biện pháp tránh thai.[126] Vì thế Zimbabwe được quốc tế coi là đã hoàn thành mục tiêu chăm sóc y tế với kết quả tốt.[127] Tuy nhiên, những thành tựu này đã bị xói mòn bởi những điều chỉnh cơ cấu trong thập niên 1990,[128] the impact of the HIV/AIDS pandemic[79] và cuộc khủng hoảng kinh tế từ năm 2000. Zimbabwe hiện có mức tuổi thọ thấp nhất thế giới – 44 tuổi với nam giới và 43 với nữ giới,[129] giảm từ 60 năm 1990. Sự sụt giảm nhanh chóng được cho chủ yếu bởi dịch HIV/AIDS. Tử vong trẻ em đã tăng từ 5.9% cuối thập niên 1990 lên 12.3% năm 2004.[79]
Hệ thống chăm sóc y tế ít nhiều đã suy sụp: Tới cuối tháng 11 năm 2008, ba trong số bốn bệnh viện chính của Zimbabwe đã đóng cửa, cùng với Trường Y Zimbabwe và bệnh viện lớn thứ tư có hai khoa và không có phòng mổ đang hoạt động.[130] Bởi tình trạng siêu lạm phát, những bệnh viện này vẫn mở cửa nhưng không có được các loại thuốc cơ bản.[131] Cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị đang diễn ra cũng góp phần vào nạn di cư của các bác sĩ và những người có kiến thức y khoa.[132]
Tháng 8 năm 2008, nhiều vùng rộng lớn của Zimbabwe bị dịch tả tấn công. Tới tháng 12 năm 2008 hơn 10,000 người đã mắc bệnh dịch đã lan tới các ngước Botswana, Mozambique, Nam Phi và Zambia.[133][134] Ngày 4 tháng 12 năm 2008 chính phủ Zimbabwe tuyên bố vụ bùng phát dịch là tình trạng khẩn cấp quốc gia, và đã yêu cầu sự trợ giúp quốc tế.[135][136] Tới ngày 9 tháng 3 năm 2009 Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính 4,011 người đã chết vì bệnh dịch lây lan do dùng nước bẩn từ khi bệnh dịch bùng phát tháng 8 năm 2008, và tổng số ca được ghi nhận lên tới 89,018.[137] Tại Harare, hội đồng thành phố đã cung cấp nơi chôn cất miễn phí cho các nạn nhân dịch tả.[138] Đã có những dấu hiệu cho thấy bệnh dịch đang dịu bớt, với số ca nhiễm dịch tả giảm khoảng 50% xuống khoảng 4,000 ca mỗi tuần.[137]
Giáo dục
Zimbabwe có tỷ lệ biết chữ người lớn xấp xỉ 90% ở mức cao nhất châu Phi.[139][140][141] Tuy nhiên, từ năm 1995 tỷ lệ biết chữ ở người lớn của Zimbabwe đã giảm liên tục, một xu hướng cũng xuất hiện ở nhiều quốc gia châu Phi khác.[142] Bộ giáo dục đã phát biểu rằng 20,000 giáo viên đã rời Zimbabwe từ năm 2007 và rằng một nửa số trẻ em Zimbabwe không tiếp tục đi học sau cấp tiểu học.[143]
Tỷ lệ dân cư giàu nhất thường gửi con em mình tới các trường độc lập trái ngược với các trường nhà nước là nơi đại đa số trẻ em theo học và được nhận trợ cấp từ phía chính phủ. Giáo dục tại các trường đã được phổ cập vào năm 1980, nhưng từ năm 1988, chính phủ đã liên tục tăng các khoản thu cho việc đăng ký vào trường cho tới mức hiện nó đã vượt quá giá trị thực của giá trị các khoản phí vào năm 1980. Bộ giáo dục Zimbabwe duy trì và điều hành các trường công nhưng các khoản phí do các trường độc lập thu được nội các Zimbabwe quản lý.
Hệ thống giáo dục Zimbabwe gồm 7 năm cấp một và 6 năm cấp hai trước khi học sinh có thể vào trường đại học trong nước hay nước ngoài. Năm học tại Zimbabwe diễn ra từ tháng 1 tới tháng 12, với các kỳ học ba tháng, xen giữa là một tháng nghỉ, với tổng số 40 tuần học tập mỗi năm. Các kỳ thi quốc gia là thi viết ở kỳ học thứ ba vào tháng 11, với các môn học cấp độ “O” và cấp độ “A” cũng được tổ chức vào tháng 6.[144]
Có bảy trường đại học công và bốn trường đại học có liên quan tới nhà thờ tại Zimbabwe được công nhận hoàn toàn trên bình diện quốc tế.[144] Đại học Zimbabwe, đại học hàng đầu và lớn nhất, được xây dựng năm 1952 và nằm ở khu ngoại ô Harare của Mount Pleasant. Những nhân vật đáng chú ý tốt nghiệp từ các trường đại học Zimbabwe gồm Welshman Ncube; Peter Moyo (của Amabhubesi); Tendai Biti, Tổng thư ký cho MDC; Chenjerai Hove, nhà thơ, nhà văn và người viết tiểu luận Zimbabwe; và Arthur Mutambara, Chủ tịch một phái của MDC. Nhiều chính trị gia hiện tại trong chính phủ Zimbabwe đã nhận bằng cấp từ các trường đại học ở Hoa Kỳ hay các trường khác ở nước ngoài.
Ban chuyên nghiệp cấp cao nhất đào tạo các kế toán viên là Institute of Chartered Accountants of Zimbabwe (ICAZ) với quan hệ trực tiếp với các cơ quan tương tự tại Nam Phi, Canada, Vương quốc Anh và Australia. Một Chartered Accountant có bằng cấp tại Zimbabwe cũng là một thành viên của các cơ quan tương tự tại các quốc gia đó sau khi viết một giấy chuyển đổi. Ngoài ra, các bác sĩ được đào tạo tại Zimbabwe chỉ cần có đủ một năm cư trú để trở thành bác sĩ được phép hoạt động tại Hoa Kỳ. Viện Kỹ sư Zimbabwe (ZIE) là cơ quan cấp cao nhất đào tạo kỹ sư.
Tuy nhiên, giáo dục tại Zimbabwe đã bắt đầu bị đe doạ bởi những thay đổi kinh tế năm 2000 với việc các giáo viên tiến hành đình công bởi lương thấp, các sinh viên không thể tập trung bởi nạn đói và giá cả đồng phục tăng vọt khiến nó trở thành một loại hàng xa xỉ. Các giáo viên cũng là một trong những mục tiêu chính của những cuộc tấn công của Mugabe bởi ông ta cho rằng họ không phải là những người ủng hộ mình mạnh mẽ.[145]
Truyền thông
Truyền thông Zimbabwe, vốn một thời đa dạng, đã ở dưới sự quản lý chặt chẽ của chính phủ trong những năm gần đây, đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế và chính trị diễn ra trong nước. Định chế của Zimbabwe đảm bảo sự tự do truyền thông và thể hiện. Trên thực tế, truyền thông đã gặp phải sự can thiệp chính trị và việc áp đặt những bộ luật truyền thông nghiêm khắc. Trong báo cáo năm 2008 của mình, Phóng viên Không Biên giới xếp hạng truyền thông Zimbabwe ở mức 151 trên 173.[146] Chính phủ cũng cấm nhiều đài phát thanh truyền hình nước ngoài từ Zimbabwe, gồm cả BBC (từ năm 2001), CNN, CBC, Sky News, Channel 4, American Broadcasting Company, Australian Broadcasting Corporation (ABC) và Fox News. Các cơ quan truyền thông và báo chí từ các quốc gia phương Tây và Nam Phi khác cũng đã bị cấm ở nước này. Tháng 7 năm 2009 BBC và CNN đã có thể nối lại hoạt động và đưa tin một cách hợp pháp và cởi mở từ Zimbabwe. CNN đánh giá cao động thái này. Bộ Truyền thông, Thông tinn và Quảng cáo Zimbabwe phát biểu rằng, “chính phủ Zimbabwe không bao giờ cấm BBC tiến hành các hoạt động hợp pháp bên trong Zimbabwe”.[69] BBC cũng đánh giá cao động thái khi phát biểu “chúng tôi hân hạnh khi một lần nữa được phép hoạt động cởi mở tại Zimbabwe”.[42]
Báo chí tư nhân vốn một thời đông đảo, tuy nhiên từ năm 2002 Đạo luật Tiếp cận Thông tin và Bảo vệ Riêng tư (AIPPA) đã được thông qua, một số tờ đã bị chính phủ đóng cửa, gồm cả tờ The Daily News với giám đốc điều hành là Wilf Mbanga thành lập ra tờ báo The Zimbabwean nhiều ảnh hưởng.[146][147] Vì thế, nhiều người Zimbabwe lưu vong đã lập ra tổ chức báo chí tại các quốc gia láng giềng và cả ở phương Tây. tuy nhiên, bởi internet hiện không bị giới hạn, nhiều người Zimbabwe được phép tiếp cận với các site tin tức do các nhà báo lưu vong lập ra.[148] Phóng viên Không Biên giới coi môi trường báo chí tại Zimbabwe có sự “giám sát, đe doạ, bỏ tù, kiểm duyệt, hăm doạ tống tiền, lạm dụng quyền lực và từ chối pháp lý tất cả được thực thi để giữ quyền kiểm soát chặt chẽ với báo chí.”[146]
Năm 2010 Uỷ ban Truyền thông Zimbabwe được thành lập bởi chính phủ chia sẻ quyền lực. Tháng 5 năm 2010 Uỷ ban cho phép ba tờ báo tư nhân mới, gồm cả tờ Daily News vốn bị cấm trước kia, được xuất bản.[149] Phóng viên Không Biên giới miêu tả các quyết định như một sự “tiến bộ lớn”.[150] Tháng 6 năm 2010 NewsDay trở thành tờ báo ngày độc lập đầu tiên được xuất bản tại Zimbabwe trong bảy năm.[151]
Văn hoá và giải trí
Zimbabwe có nhiều văn hoá khác nhau có thể bao gồm những đức tin và nghi lễ, một trong số chúng là Shona. Nhóm sắc tộc lớn nhất của Zimbabwe là Shona. Người Shona có nhiều tác phẩm điêu khắc và khắc đá về các vị thần (thần tượng) được thực hiện với những vật liệu tốt nhất họ có.
Zimbabwe lần đầu tiên kỷ niệm ngày lễ độc lập ngày 18 tháng 4 năm 1980.[152] Những buổi lễ được tổ chức hoặc tại Sân vận động Thể thao Quốc gia hoặc tại Sân vận động Thể thao Rufaro ở Harare. Những buổi lễ kỷ niệm ngày độc lập đầu tiên được tổ chức năm 1980 tại Zimbabwe Grounds. Tại buổi lễ này những chú chim bồ câu được thả ra tượng trưng cho hoà bình và những máy bay phản lực chiến đấu bay ngang qua trong khi bài quốc ca được tấu lên. Ngọn lửa độc lập được tổng thống châm lên sau khi gia đình tổng thống và các thành viên các lực lượng vũ trang Zimbabwe diễu hành. Tổng thống cũng đọc một bài diễn văn trước nhân dân Zimbabwe và được truyền hình trực tiếp cho những người không thể có mặt tại sân vận động.[153]
Nghệ thuật
Nghệ thuật truyền thống tại Zimbabwe gồm làm đồ gốm, đan rổ rá, dệt may, đồ trang sức và điêu khắc. Một trong những đặc trưng riêng biệt là các mẫu hình đối xứng trên các rổ nung và các công cụ được khắc ra từ một mảnh gỗ duy nhất. Điêu khắc Shona đã trở nên nổi tiếng thế giới trong những năm gần đây sau khi lần đầu tiên xuất hiện trong thập niên 1940. Hầu hết các chủ đề điêu khắc là những hình chim hay người cách điệu và những hình khác được làm bằng các loại đá trầm tích nhưsoapstone, và cả những loại đá lửa cứng hơn như serpentine và cả loại đá hiếm verdite. Điêu khắc Shona về bản chất đã trở thành một sự hợp nhất văn hoá dân gian châu Phi với những ảnh hưởng châu Âu. Những nhà điêu khắc người Zimbabwe nổi tiếng thế giới gồm Nicholas, Nesbert và Anderson Mukomberanwa, Tapfuma Gutsa, Henry Munyaradzi và Locardia Ndandarika. Trên bình diện quốc tế, những nhà điêu khắc người Zimbabwe đã gây ảnh hưởng tới một thế hệ các nghệ sĩ mới, đặc biệt là những người Mỹ da đen, qua những thời kỳ học việc dài với những bậc thầy điêu khắc tại Zimbabwe. Những nghệ sĩ đương đại như nhà điêu khắc New York M. Scott Johnson và nhà điêu khắc California Russel Albans đã học cách pha trộn cả thẩm mỹ học châu Phi và Phi-Do Thái theo một cách vượt quá sự bắt chước đơn giản của nghệ thuật châu Phi của một số nghệ sĩ da đen ở những thế hệ nghệ sĩ trước tại Hoa Kỳ.
Nhiều tác gia nổi tiếng ở cả tại Zimbabwe và nước ngoài. Charles Mungoshi nổi tiếng tại Zimbabwe vì đã viết những câu chuyện truyền thống bằng tiếng Anh và cả tiếng Shona và những bài thơ và sách của ông được bán chạy trong cả những cộng đồng người da trắng và da đen.[154] Catherine Buckle đã có được sự công nhận quốc tế với hai cuốn sách của bà African Tears (Nước mắt châu Phi) và Beyond Tears (Vượt qua Nước mắt) kể lại sự thử thách mà bà đã vượt qua trong cuộc Cải cách ruộng đất năm 2000.[155] Cựu Thủ tướng Rhodesia, Ian Smith, cũng viết hai cuốn sách — The Great Betrayal và Bitter Harvest. Cuốn The House of Hunger của Dambudzo Marechera đã giành một giải thưởng tại Anh năm 1979 và tác phẩm đầu tiên, The Grass Is Singing, của tác gia đoạt giải Nobel Doris Lessing cũng đặt bối cảnh tại Rhodesia.
Những nghệ sĩ nổi tiếng thế giới gồm Henry Mudzengerere và Nicolas Mukomberanwa. Một chủ đề thường được đề cập trong nghệ thuật Zimbabwe là sự thay đổi hình dạng của con người trở thành ác thú.[156] Những nhạc sĩ người Zimbabwe như Thomas Mapfumo, Oliver Mtukudzi, nhóm Bhundu Boys và Audius Mtawarira đã có được sự công nhận quốc tế. Trong số những thành viên của cộng đồng da trắng thiểu số, Theatre có số ngươi hâm mộ đông đảo, với nhiều công ty biểu diễn trình diễn tại các khu vực đô thị Zimbabwe.
Ẩm thực
Như nhiều quốc gia châu Phi khác, đa số dân Zimbabweans sống dựa vào một số loại thực phẩm chính. Thịt, thịt bò và ở một mức độ thấp hơn là thịt gà là những nguyên liệu đặc biệt phổ thông, dù mức tiêu thụ đã sụt giảm dưới chính quyền Mugabe vì mức thu nhập giảm.[cần dẫn nguồn] “Bột Mealie”, cũng được gọi là bột ngô, được dùng chế biến món sadza hay isitshwala và bota hay ilambazi. Sadza là một món cháo đặc được làm bằng cách trộn bột ngô với nước để tạo ra một thứ bột nhão và đặc. Sau khi bột đã được nấu một thời gian, người ta thêm bột ngô nữa để món cháo thêm đặc. Món này thường được ăn như bữa trưa và bữa tối, thường với các loại rau (như rau bina, chomolia, collard greens), đậu và thịt hầm, nướng, hay quay. Sadza cũng là một món phổ thông được dùng với sữa đông, thường được gọi là lacto (mukaka wakakora), hay Tanganyika sardine khô, tại Zimbabwe được gọi là kapenta hay matemba. Bota là một loại cháo ít đặc hơn, được nấu mà không cho thêm bột ngô và thường được thêm bơ đậu phộng, sữa, bơ, hay, thỉnh thoảng, mứt.[157] Bota thường được dùng như bữa sáng.
Các buổi lễ tốt nghiệp, cưới xin, và nhiều dịp tụ tập gia đình khác thường được ăn mừng với việc giết một chú dê hay bò, và thịt sẽ được các thành viên gia đình nướng nguyên con hay quay.
Các loại thực đơn của người Afrikaner khá phổ biến dù họ chỉ là một nhóm nhỏ (0.2%) bên trong cộng đồng da trắng. Biltong, một kiểu thịt bò khô, là một món ăn nhẹ phổ biến, được làm bằng cách treo các miếng thịt đã ướp để khô trong bóng râm.[158] Boerewors (Afrikaans pronunciation: [børəvɞɾs]) được dùng với sadza. Đây là một loại xúc xích dài, thường được tẩm nhiều gia vị, chứa nhiều thịt bò hơn thịt lợn và được nướng lên.
Bởi Zimbabwe từng là một thuộc địa của Anh, nước này đã du nhập một số thói quen Anh Quốc. Ví dụ, hầu hết người dân sẽ ăn cháo đặc vào buổi sáng, tuy nhiên họ vẫn sẽ có bữa trà vào 10 giờ (trà trưa). Họ sẽ ăn trưa, có thể là đồ còn lại từ bữa tối hôm trước, sadza nấu mới, hay sandwiches (rất phổ biến trong các thành phố). Sau bữa trưa họ thường có bữa trà lúc 4 giờ chiều trước bữa tối. Thường họ không uống trà sau bữa tối.
Thể thao
Âm nhạc
Hướng đạo sinh
Du lịch
Các biểu tượng quốc gia, vật tượng trưng và quốc ca
Quốc ca
-
flame lily, quốc hoa của Zimbabwe
Xếp hạng quốc tế
Tổ chức | Khảo sát | Xếp hạng |
---|---|---|
Viện Kinh tế và Hòa bình [5] | Chỉ số Hòa bình toàn cầu[159] | 134 trên 144 |
Tổ chức Minh bạch Quốc tế | Chỉ số nhận thức tham nhũng | 146 trên 180 |
Diễn đàn Kinh tế Quốc tế | Báo cáo cạnh tranh toàn cầu | 132 trên 133 |
Xem thêm
Tham khảo
- ^ a ă â “Zimbabwe”. International Monetary Fund. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Human Development report”. UNDP. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2010. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|accessdate=
(trợ giúp) - ^ “Zimbabwe – big house of stone”. Somali Press. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2008.
- ^ Chipika, J (2000). “Deforestation of woodlands in communal areas of Zimbabwe: is it due to agricultural policies?”. Agriculture, Ecosystems & Environment 79: 175. doi:10.1016/S0167-8809(99)00156-5.
- ^ Jonnalagadda, S (2001). “Water quality of the odzi river in the eastern highlands of zimbabwe”. Water Research 35: 2371. doi:10.1016/S0043-1354(00)00533-9.
- ^ Hall, Martin; Stephen W. Silliman (2005). Historical Archaeology. Wiley Blackwell. tr. 241–244. ISBN 978-1405107518.
- ^ “So Who Was Shaka Zulu- Really?”. The Odyssey. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2008.
- ^ Hensman, Howard. Cecil Rhodes: A Study of a Career. p. 106–107.
- ^ Parsons, Neil. A New History of Southern Africa, Second Edition, 1993. London: Macmillan. pp. 178–181.
- ^ Bryce, James. Impressions of South Africa. p. 170.
- ^ “”A Country in Search of a Name.” The Northern Rhodesia Journal III (1) (1956). p. 78.”. Gray, J. A. (1956). Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2008.
- ^ Palamarek, Ernie. Hatari. p. 132.
- ^ Parsons (1993). p. 292.
- ^ Judd, Denis. Empire: The British Imperial Experience from 1765 to the Present. p. 372.
- ^ Parsons (1993). pp. 318–320.
- ^ “Malawi political background”. NationsEncyclopedia.com. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Zambia political background”. NationsEncyclopedia.com. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2008.
- ^ “On This Day”. BBC News. 1 tháng 6 năm 1979. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2008.
- ^ Chung, Fay. Re-living the Second Chimurenga: memories from the liberation struggle in Zimbabwe, Preben (INT) Kaarsholm. p. 242.
- ^ Preston, Matthew. Ending Civil War: Rhodesia and Lebanon in Perspective. p. 25.
- ^ George M. Houser. “Letter by George M. Houser, Executive Director of the American Committee on Africa (ACOA), on the 1980 independence election in Rhodesia”. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2007.
- ^ “Nyarota speaks”. The Zimbabwe Times. 29 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010.
- ^ a ă Nyarota, Geoffrey. Against the Grain. p. 134.
- ^ “Matabeleland: Its Struggle for National Legitimacy, and the Relevance of this in the 2008 Election”. Heinrich Böll Stiftung. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Chronology of Zimbabwe”. badley.info. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Timeline: Zimbabwe”. BBC News. 15 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Zimbabwe: 1990 General Elections”. EISA. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Voting for Democracy: A Study of Electoral Politics in Zimbabwe”. Jonathon M. Moyo/University of Zimbabwe. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2008.
- ^ “A Brief History of Zimbabwe”. About.com.
- ^ “Zimbabwe: ZANU PF hegemony and its breakdown (1990–1999)”. EISA. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2008.
- ^ “History of Zimbabwe”. Infoplease.
- ^ “Who owns the land?”. BBC News. 8 tháng 8 năm 2002. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2008.
- ^ Fast Track Land Reform in Zimbabwe Human Rights WatchPDF (175 KB)
- ^ Zimbabwe suspended indefinitely from Commonwealth, HumanRightsFirst.org, ngày 8 tháng 12 năm 2003.
- ^ “Zimbabwe destruction: One man’s story”. BBC. Ngày 30 tháng 8 năm 2005. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2008.
- ^ Zimbabwe: Housing policy built on foundation of failures and lies, Amnesty International, ngày 9 tháng 8 năm 2006.
- ^ Crisis profile: Zimbabwe’s humanitarian situation, ngày 26 tháng 7 năm 2005. AlertNet.
- ^ “Zimbabwe Statistics”, World Health Organization.
- ^ “Country Operational Plan: Zimbabwe” (PDF). The U.S. President’s Emergency Plan for AIDS Relief. 28 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2010.
- ^ “Carter warns situation appears dire in Zimbabwe”. CELEAN JACOBSON, Associated Press Writer. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Diamond Industry Calls for Clampdown on Zimbabwe Smuggling”. Rapaport. Ngày 12 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2008.
- ^ a ă “Eerie silence at Zimbabwe mine”, BBC News, ngày 4 tháng 12 năm 2008.
- ^ “The World Factbook”. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Constitution of the Republic of Zimbabwe” (PDF). Parliament of Zimbabwe. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Provincial Councils and Administration Act (Chapter 29:11)” (PDF). Parliament of Zimbabwe. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Rural District Councils Act (Chapter 29:13)” (PDF). Parliament of Zimbabwe. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Traditional Leaders Act (Chapter 29:17)” (PDF). Parliament of Zimbabwe. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2008.
- ^ Constitution of Zimbabwe Amendment (No. 17) Act, 2005 NGO Network Alliance Project
- ^ Mugabe, Robert. (2007). Encyclopædia Britannica. Encyclopædia Britannica 2007 Ultimate Reference Suite. Chicago: Encyclopædia Britannica.
- ^ “Tekere says Mugabe ‘insecure’ in new book”. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2008.
- ^ Zimbabwe: Election Fraud Report, University of Pennsylvania, ngày 18 tháng 4 năm 2005.
- ^ Mugabe’s former ally accuses him of foul play, ngày 12 tháng 3 năm 2005. Independent Online Zimbabwe.
- ^ Zimbabwe stands ‘on a precipice’ BBC, ngày 31 tháng 3 năm 2008.
- ^ “Mugabe rival quits election race”. BBC News (BBC News Online). Ngày 22 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Contrast in styles as contenders hold rallies in Harare townships”. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Zimbabwe’s MDC factions reunite”, SABC News, ngày 28 tháng 4 năm 2008.
- ^ a ă “Opposition reunites in Zimbabwe”, BBC News, ngày 28 tháng 4 năm 2008.
- ^ Cris Chinaka, “All eyes on Zim as ZEC wrap-up recount”, Reuters (IOL), ngày 29 tháng 4 năm 2008.
- ^ Aid Group Says Zimbabwe Misused $7.3 Million, The New York Times, ngày 2 tháng 11 năm 2008.
- ^ “Police baton charge Harare protesters”. ABC News. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2008.
- ^ a ă “Zimbabwe”. Amnesty International. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2007.
- ^ “Zimbabwe — Events of 2006”. Human Rights Watch. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2007.
- ^ “Zimbabwe election violence spreads to Harare”. New Zealand Herald. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2008.
- ^ a ă “Unbowed Tsvangirai urges defiance”. BBC. 14 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2007.
- ^ a ă The Herald, Zimbabwe (14 tháng 3 năm 2007). “Opposition protesters’ case not heard”. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2007.
- ^ Zimbabwe Press, Media, TV, Radio, Newspapers Press Reference, 2006.
- ^ Zimbabwe newspaper bombed BBC News, ngày 28 tháng 1 năm 2001.
- ^ Zimbabwe: Newspaper Silenced, ngày 7 tháng 2 năm 2004. New York Times.
- ^ a ă “Zimbabwe lifts reporting ban on BBC and CNN”, Telegraph, ngày 30 tháng 7 năm 2009.
- ^ Why did Zimbabwe ban the BBC?, ngày 1 tháng 4 năm 2005. BBC News.
- ^ Al Jazeera kicked out of Zimbabwe, ngày 22 tháng 6 năm 2008. Zimbabwe Metro.
- ^ a ă “Zimbabwe Ministry of Defence”. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Zimbabwe Defence Forces News”. ZDF News. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2009.
- ^ “Militarisation of Zimbabwe: Does the opposition stand a chance?”. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2008.
- ^ Godwin, Peter (1996). Mukiwa – A White Boy in Africa. London: Macmillan. ISBN 0333671503.
- ^ “Ministry of Defence, Zimbabwe”. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2007.
- ^ “5th Brigade gets new commander”. Zimbabwe Defence Forces News. 22 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2009.
- ^ “Country Profile – Zimbabwe”. Foreign Affairs and International Trade Canada. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2007.
Bởi nước này có những nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú như khoáng chất, đất canh tác và thiên nhiên hoang dã, có nhiều cơ hội cho các hoạt động kinh tế dựa trên tài nguyên như khai mỏ, nông nghiệp và du lịch và các hoạt động kinh tế phát sinh của chúng.
- ^ a ă â b “No quick fix for Zimbabwe’s economy”. BBC. Ngày 14 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Zimbabwe-South Africa economic relations since 2000”. Africa News. 31 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2007.
Zimbabwe vẫn là đối tác thương mại quan trọng nhất của Nam Phi tại châu Phi.
- ^ Richardson, C.J. 2005. The loss of property rights and the collapse of Zimbabwe. Cato Journal, 25, 541–565. [1]
- ^ Organised Violence and Torture in Zimbabwe in 1999, 1999. Zimbabwe Human Rights NGO Forum.
- ^ “Zimbabwe President Mugabe labels white farmers ‘enemies'”—CNN—ngày 18 tháng 4 năm 2000.
- ^ Robinson, Simon. “A Tale of Two Countries”—Time Magazine—Monday, ngày 18 tháng 2 năm 2002.
- ^ “Zimbabwe forbids white farmers to harvest”—USA Today—ngày 24 tháng 6 năm 2002.
- ^ “White farmers under siege in Zimbabwe”—BBC—Thursday, ngày 15 tháng 8 năm 2002.
- ^ Nick Wadhams (1 tháng 8 năm 2007). “Zimbabwe’s Wildlife Decimated by Economic Crisis”. Nairobi: National Geographic News. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2007.
- ^ “Zimbabwe inflation hits 11,200,000”. CNN.com. 19 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2008.
- ^ (AFP) – ngày 19 tháng 7 năm 2008 (19 tháng 7 năm 2008). “Zimbabwe introduces 100-billion-dollar note”. Afp.google.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010.
- ^ “Zimbabwe hyperinflation ‘will set world record within six weeks’ – Telegraph”. Telegraph.co.uk. 13 tháng 11 năm 2008. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
- ^ Clemens, M. and Moss, T. 2005. Costs and Causes of Zimbabwe’s Crisis. Centre for Global Development
- ^ Meldrum, Andrew. “As country heads for disaster, Zimbabwe calls for return of white farmers”—The Guardian—ngày 21 tháng 5 năm 2005.
- ^ Timberg, Craig. “White Farmers Given Leases In Zimbabwe”—Washington Post—Saturday, ngày 6 tháng 1 năm 2007.
- ^ “Zimbabwe threatens white farmers”—AP—(c/o Washington Post—Monday, ngày 5 tháng 2 năm 2007.
- ^ Chinaka, Cris. “Zimbabwe threatens white farmers on evictions”—Reuters—ngày 8 tháng 8 năm 2007.
- ^ “RBZ”.
- ^ “Zimbabwe Situation”.
- ^ Paul Lewis and agencies (16 tháng 1 năm 2009). “Zimbabwe unveils 100 trillion dollar banknote | World news | guardian.co.uk”. London: Guardian. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010.
- ^ Zimbabwe abandons its currency BBC News, ngày 29 tháng 1 năm 2009.
- ^ “Africa | Zimbabwe dollar sheds 12 zeros”. BBC News. 2 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010.
- ^ How to stay alive when it all runs out, ngày 12 tháng 7 năm 2007. The Economist.
- ^ “Zimbabwe: Sanctions Enhancement” (Thông cáo báo chí). United States Department of State. 2 tháng 3 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2004.
- ^ Analysis: Africa fails again to deal with Zimbabwe, The Jerusalem Post, ngày 1 tháng 4 năm 2007.
- ^ a ă “Zimbabwe Economy: Population, GDP, Inflation, Business, Trade, FDI, Corruption”. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
- ^ “FACTBOX: Zimbabwe’s meltdown in figures”. Reuters. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2010.
- ^ “Zimbabwe Suspends Use of Own Currency”. VOA News. Ngày 12 tháng 4 năm 2009.
- ^ “Zimbabwe”. The World Factbook. Central Intelligence Agency. 15 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ The World Health Organization (2007). “Annex Table 1—Basic indicators for all Member States”. The World Health Report 2006 (PDF). Geneva: World Health Organization. ISBN 9241563141. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2008.
- ^ Peta Thornycroft (10 tháng 4 năm 2006). “In Zimbabwe, life ends before 40”. Harare: Sydney Morning Herald. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2006.
- ^ “Zimbabwe”. UNAIDS. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2007.
- ^ “HIV Prevalence Rates Fall in Zimbabwe”. UNESCO. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2007.
- ^ MSN Encarta. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Zimbabwe”. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Zimbabwe — International Religious Freedom Report 2005”. U.S. Department of State. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2007.
An estimated 1% of the total population is Muslim.
- ^ “The People of Zimbabwe”. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2007.
- ^ a ă “Ethnicity/Race of Zimbabwe”. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2008.
- ^ Quarterly Digest Of Statistics, Zimbabwe Printing and Stationery Office, 1999.
- ^ Quarterly Digest of Statistics, 1998, Zimbabwe Printing and Stationery Office
- ^ Zimbabwe GAP Adventures
- ^ Mother Tongue: Interviews with Musaemura B. Zimunya and Solomon Mutswairo University of North Carolina at Chapel Hill
- ^ Meldrum, Andrew (1 tháng 7 năm 2007). “Refugees flood from Zimbabwe The Observer”. The Guardian (London). Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Zimbabwean refugees suffer in Botswana and South Africa Sokwanele Civic Action Group”.
- ^ a ă â b Internal “Displacement Monitoring Centre (IDMC), Internal displacement in Zimbabwe”.
- ^ “The Many Faces of Displacement: IDPs in Zimbabwe” (PDF). Geneva: Internal Displacement Monitoring Centre. 2008. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2009.
- ^ Tibaijuka, A.K. (2005). “Report of the Fact-Finding Mission to Zimbabwe to assess the Scope and Impact of Operation Murambatsvina” (PDF). Geneva: UN Special Envoy on Human Settlements Issues in Zimbabwe. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2009.
- ^ Davies, R. and Sanders, D. 1998. Adjustment policies and the welfare of children: Zimbabwe, 1980-1985. In: Cornia, G.A., Jolly, R. and Stewart, F. (Eds.) Adjustment with a human face, Vol. II: country case studies.Clarendon Press, Oxford, 272–99. [2]
- ^ Dugbatey, K. 1999. National health policies: sub-Saharan African case studies (1980–1990). Soc. Sci. Med., 49, 223–239. [3]
- ^ Marquette, C.M. 1997. Current poverty, structural adjustment, and drought in Zimbabwe. World Development, 25, 1141–1149 [4]
- ^ “United Nations Statistics Division”. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2008.
- ^ “The death throes of Harare’s hospitals”. BBC. Ngày 7 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Zimbabwe: coping with the cholera outbreak”. Ngày 26 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Zimbabwe cholera deaths near 500”. BBC. Ngày 2 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2008.
- ^ “PM urges Zimbabwe cholera action”, BBC, ngày 6 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Miliband backs African calls for end of Mugabe”, The Times, ngày 5 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Zimbabwe declares national emergency over cholera”. Reuters. Ngày 4 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Zimbabwe declares cholera outbreak a national emergency”. AFP. Ngày 4 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2008.
- ^ a ă On the cholera frontline ngày 9 tháng 3 năm 2009, IRIN
- ^ “Zimbabwe says cholera epidemic may spread with rain”. Reuters. Ngày 30 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2008.
- ^ CIA World Factbook
- ^ Botswana Literacy Survey 2003, Central Statistics Office, Botswana
- ^ Zimbabwe Country Assistance Evaluation World BankPDF (344 KB)
- ^ United Nations Development Programme. “Human development index”. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2007.
- ^ Nkepile Mabuse. “Zimbabwe schools begin fightback”. CNN. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2009.
- ^ a ă “Zimbabwe US Embassy”. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2007.
- ^ Anonymous (19 tháng 4 năm 2007). “BBC report on 40 years in Zimbabwe’s schools”. BBC News. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2007.
- ^ a ă â “”Reporters without Borders Press Freedom Index””. Rsf.org. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010.
- ^ “The nine lives of Wilf Mbanga”, Metrovox, Mach 17, 2005.
- ^ Freedom House 2007 Map of Press Freedom: Zimbabwe.
- ^ “Zimbabwe licenses new private newspapers”, Reuters, ngày 26 tháng 5 năm 2010.
- ^ “independent dailies allowed to resume publishing”, International Freedom of Expression Exchange, ngày 28 tháng 5 năm 2010.
- ^ “Zimbabwe gets first private daily newspaper in years”, Reuters, ngày 4 tháng 6 năm 2010.
- ^ Owomoyela, Oyekan (2002). Culture and Customs of Zimbabwe. Westport, Conn.: Greenwood Press. tr. 77. ISBN 0313315833.
- ^ “Zimbabwe Celebrates 25 years of Independence”. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Tribute to Charles Mungoshi”. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Tribute to Cathy Buckle”. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Cultural Origins of art”. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2008.
- ^ Zambuko.com. “Sadza ne Nyama: A Shona Staple Dish”. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2007.
- ^ Stephanie Hanes (20 tháng 9 năm 2006). “Biltong: much more than just a snack”. The Christian Science Monitor. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2006.
- ^ “Vision of Humanity”. Vision of Humanity. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
Liên kết ngoài
Tìm hiểu thêm về Zimbabwe ở các dự án khác của Wikipedia: | |
![]() |
Định nghĩa ở Wiktionary |
![]() |
Nội dung đa phương tiện ở Commons |
![]() |
Tư liệu học tập ở Wikiversity |
![]() |
Tin tức ở Wikinews |
![]() |
Câu nói nổi tiếng ở Wikiquote |
![]() |
Văn bản ở Wikisource |
![]() |
Sách ở Wikibooks |
- Humanitarian information coverage on ReliefWeb
- Mục “Zimbabwe” trên trang của CIA World Factbook.
- Zimbabwe from UCB Libraries GovPubs
- Zimbabwe tại DMOZ (trang đề nghị)
Wikimedia Atlas của Zimbabwe, có một số bản đồ liên quan đến Zimbabwe.
- Global Integrity Report: Zimbabwe—anti-corruption policy scorecard
- Parliament of Zimbabwe—official government site
- Zimbabwe Government Online—official government site and mirror site
- Chief of State and Cabinet Members
![]() |
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Zimbabwe |
|
|
|
Luna 2
![]() |
|
Tổ chức | Liên Xô |
---|---|
Nhà thầu chính | OKB-1 |
Kiểu nhiệm vụ | Thám hiểm Mặt Trăng Hố va chạm trên Mặt Trăng |
Vệ tinh của | Mặt Trăng |
Quỹ đạo | Không |
Ngày phóng | 12 tháng 9, 1959 lúc 06:39:42 UTC |
Tàu phóng | R-7 – (Luna 8K72) |
Thời gian phi vụ | 33.5 hours |
Nhiệm vụ nổi bật | Lunar impact (see below) |
NSSDC ID | 1959-014A |
Trang chủ | NASA NSSDC Master Catalog |
Khối lượng | 390.2 kg (860.2 lb) |
Hạ xuống Mặt trăng | Lunar collision 13 tháng 9, 1959, 21:02:24 UTC |
Tọa độ hạ cánh | Bản mẫu:Lunar coords and quad cat |
Instruments |
Luna 2 (E-1A series) là tàu vũ trụ thứ hai của Liên Bang Xô Viết được phóng về phía Mặt Trăng. Đây là lần đầu tiên một tàu vũ trụ của con người tiếp cận đến Mặt Trăng. Nó đáp xuống bề mặt phía Tây của Mặt Trăng, gần các miệng núi lửa như Aristides, Archimedes, và Autolycus. Luna 2 là sự phát triển tương tự từ Luna 1, một tàu vũ trụ hình cầu với an-ten nhô ra và các công cụ điều khiển từ xa khác. Những công cụ khác trên Luna 2 cũng tương tự như Luna 1, bao gồm scintillation counters (hiểu nôm na là Máy đếm tia sáng), ống đếm Geiger, Từ kế, Máy đo Cherenkov, và Vệ tinh vi thiên thạch (tên nguồn:micrometeorite detectors). Tuy vậy, Luna 2 không được trang bị động cơ đẩy.
Ý nghĩa và sứ mệnh
Luna 2 trở nên nổi tiếng với sự khám phá ra Gió Mặt trời sớm nhất. Với các bán cầu bẫy ion (tên nguồn: hemispherical ion traps) được phát triển bởi Konstantin Gringauz. Tàu Luna 1 trước kia cũng đã phát hiện ra các ion nhưng không chính xác lắm. Do vậy, lần này Gringauz đã thay đổi 4 dụng cụ cảm ứng thành một mặt tứ diện, thay vì trước đó là mặt phẳng 2 chiều.
Sau khi được phóng vào ngày 12/9/1959, Luna 2 rời khỏi gian đoạn thứ 3, bắt đầu cuộc hành trình về phía Mặt Trăng. Ngày 13/9, Luna 2 nhả ra 1 đám khí Natri màu cam để thử nghiệm về các hoạt động của khí trong không gian trên Mặt Trăng. Ngày 14/9, sau 33,5 giờ bay trong khôn gian, các sóng Radio truyền từ nó đột ngột bị đứt, nó đã chịu sự va chạm với Mặt Trăng.
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Luna 2 |
Lưu Hữu Phước
Lưu Hữu Phước | |
---|---|
![]() |
|
Thông tin nghệ sĩ | |
Tên khai sinh | Lưu Hữu Phước |
Sinh | 12 tháng 9, 1921 Ô Môn, Cần Thơ |
Mất | 8 tháng 6, 1989 (67 tuổi) Thành phố Hồ Chí Minh |
Nghề nghiệp | Nhạc sĩ, Nhà lý luận |
Thể loại | Chính ca, Ca khúc trữ tình, Nhạc thiếu nhi, Nhạc tiền chiến, nhạc đỏ |
Ca khúc tiêu biểu | Lên đàng, Bạch Đằng giang, Hồn tử sĩ, Tiếng gọi thanh niên, Tiến về Sài Gòn, Giải phóng miền Nam |
Lưu Hữu Phước (1921–1989) là một Nhạc sỹ lớn, tác giả của những bản hùng ca, giải phóng; tác phẩm của ông luôn gắn với những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Ông là Giáo sư, Viện sỹ, Nhà lý luận âm nhạc; nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin Văn hóa của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; nguyên Đại biểu Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Giáo dục của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Mục lục
Thời trẻ và bước đầu của sự nghiệp
Lưu Hữu Phước còn có những bút danh khác: Huỳnh Minh Siêng [1], Long Hưng, Anh Lưu, Hồng Chí. Ông sinh ngày 12 tháng 9 năm 1921 tại quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ (nay thuộc thành phố Cần Thơ). Thuở nhỏ được cha cho học đàn kìm, về sau có chơi cả mandoline, guitare và tự học lý thuyết âm nhạc.
Khoảng cuối thập niên 1930, ông lên Sài Gòn học tại trường Petrus Ký. Trong thời gian này, ông kết thân với Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, làm thành bộ 3 Huỳnh – Mai – Lưu, thành lập Câu lạc bộ Học sinh (Scholar Club) ở trường trung học Petrus Ký… là đầu mối hội tụ những học sinh, sinh viên yêu nước. Cũng trong thời gian này, ông sáng tác bài hát La Marche des Étudiants vào cuối năm 1939, và cùng Mai Văn Bộ đặt lời tiếng Pháp để làm bài hát chính thức của Câu lạc bộ.[2]
Sau khi đỗ tú tài, Lưu Hữu Phước ra Hà Nội học trường Y – Dược, thuộc Viện Đại học Đông Dương(1940–1944). Thời này, do ảnh hưởng của phong trào Mặt trận Bình dân nên phong trào đấu tranh chính trị của sinh viên Đông Dương rất mạnh mẽ. Lưu Hữu Phước nhanh chóng trở thành một trong những thủ lĩnh của phong trào, và có dịp tiếp xúc với một số thành viên của Việt Minh. Trong những đợt tổ chức các hoạt động về nguồn của sinh viên, Lưu Hữu Phước đã sáng tác được nhiều ca khúc nổi tiếng, như: “Non sông gấm vóc”, Bạch Đằng Giang, Ải Chi Lăng, Hát giang trường hận (sau đổi tên là Hồn tử sĩ), Hờn sông Gianh, Người xưa đâu tá và Hội nghị Diên Hồng, được xem là đỉnh cao của thể loại bài hát về đề tài lịch sử của Việt Nam, nhằm hun đúc tình thần dân tộc cho thanh niên Việt Nam. Theo bà Trịnh Kim Vinh thì, về ca khúc mở đầu cho loạt bài hát yêu nước chính là bài “Non sông gấm vóc”, được ông sáng tác năm 16 tuổi, chứ không phải bài ” Bạch Đằng giang” như nhiều người nghĩ.
Nhân cuộc hành hương về Đền Hùng nhân ngày Giỗ tổ Hùng Vương năm 1942, nhằm thức tỉnh sinh viên từ bỏ mộng học giỏi đỗ cao để làm quan cho thực dân Pháp, đồng lòng quyết tâm trau dồi ý thức cứu dân, cứu nước, sẵn sàng tiến lên “đáp lời sông núi” khi Tổ quốc cần, ông đã sửa phần lời Việt của bài La Marche des Étudiants thành bài Tiếng gọi sinh viên, biểu diễn dưới chân núi Nghĩa Lĩnh do một dàn hợp xướng mấy chục người trình diễn. Không lâu sau, bài hát trở nên phổ biến từ Bắc chí Nam với tên gọi Tiếng gọi thanh niên.
Bên cạnh đó, ngày 21 tháng 3 năm 1943, vở ca kịch Tục lụy của ông được trình diễn tại Nhà hát lớn Hà Nội. Cái tên Lưu Hữu Phước trở nên nổi tiếng trong giới thanh niên Việt Nam thời bấy giờ.
Năm 1944, Lưu Hữu Phước được Mặt trận Việt Minh giao nhiệm vụ vào Nam tham gia vận động cách mạng cùng với lúc nổ ra phong trào của đông đảo sinh viên ba miền Nam – Trung – Bắc rủ nhau bỏ học để trực tiếp tham gia hoạt động cách mạng. Nhóm Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ và Đặng Ngọc Tốt trong một đêm đã tập trung soạn ba bài hát: Xếp bút nghiên, Mau về Nam và Gieo ánh sáng để kịp thời cổ vũ cho phong trào này, còn được gọi là phong trào Xếp bút nghiên, rầm rộ kéo dài đến mãi tận ngày Cách mạng tháng 8 năm 1945, cùng với sự ra đời của bài ca Khúc khải hoàn của ông.
Tham gia công tác văn nghệ
Sau khi Pháp gây hấn ở Nam Bộ, Lưu Hữu Phước tham gia công tác tuyên truyền với chức vụ Giám đốc phòng xuất bản Nam Bộ trong một thời gian ngắn. Tháng 5 năm 1946, Lưu Hữu Phước được điều động ra Hà Nội, nhận nhiệm vụ thành lập Trung ương Nhạc viện (thành lập tháng 9 năm 1946), sau đó ông cùng tập thể Hội Văn hoá Cứu quốc tản cư đi kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc. Ông được giao nhiệm vụ thành lập đội Thiếu nhi tuyên truyền xung phong, sau được đổi tên là Đoàn nhạc kịch Thiếu nhi kháng chiến thuộc Trung ương Nhạc viện. Đoàn đã lần lượt trình diễn một số vở ca kịch do ông sáng tác như Con thỏ ngọc, Diệt sói lang, Phá mưu bù nhìn, Hai chàng lưng gù và Hái hoa dâng Bác (nhân kỷ niệm 60 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh, về sau được Thái Ly chuyển soạn thành vở vũ kịch Chúc thọ Bác Hồ vào năm 1960, vở vũ kịch đầu tiên của Việt Nam). Năm 1950, ông được giao nhiệm vụ thành lập Trường Thiếu nhi Nghệ thuật và được cử làm Giám đốc.
Trong chiến tranh Đông Dương, ông là tác giả của nhiều tác phẩm âm nhạc như Ca ngợi Hồ Chủ tịch, Đông Nam Á châu đại hợp xướng, Tuổi hai mươi, Thiếu nhi thế giới liên hoan, Nông dân vươn mình, Hăngri Máctanh, Em yêu chị Rây-mông, Cả cuộc đời về ta…
Trong chiến tranh Việt Nam, từ năm 1954 đến 1965, ông làm Trưởng Ban Nghiên cứu Nhạc – Vũ thuộc Vụ Nghệ thuật, Bộ Văn hoá, sau đó làm Vụ trưởng Vụ Âm nhạc và Múa, ngoài ra còn được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Ban Thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Ông cũng có công tổ chức sưu tầm dân ca và đã cho ra đời công trình nghiên cứu “Dân ca quan họ“. Ông còn góp công thành lập Trường Âm nhạc Việt Nam (nay là Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam), Trường Múa, Trường Sân khấu Điện ảnh, Nhà hát Giao hưởng Hợp xướng Nhạc Vũ Kịch Việt Nam.
Tháng 2 năm 1965, Lưu Hữu Phước được cử vào Nam, giữ chức Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng, sau đó Bộ trưởng Bộ Thông tin Văn hóa của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trong giai đoạn này, ông đã sáng tác các bài hát nổi tiếng như Dưới cờ Đảng vẻ vang, Tình Bác sáng đời ta, Bài hát Giải phóng quân, Giờ hành động, Hành khúc giải phóng, Xuống đường, Tiến về Sài Gòn, đặc biệt là Giải phóng miền Nam, bài hát chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Sau năm 1975, ông trở về làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Âm nhạc (1978-1989), được phong học hàm Giáo sư và Viện sĩ thông tấn của Viện Hàn lâm Nghệ thuật CHDC Đức, được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Âm nhạc Quốc gia, Thành viên Hội đồng Âm nhạc Quốc tế, ngoài ra còn là Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Giáo dục của Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
Ông mất ngày 8 tháng 6 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Sự nghiệp âm nhạc
Lưu Hữu Phước được xem là một trong những nhạc sĩ đầu đàn của giới nhạc sĩ Việt Nam, đại diện cho phái âm nhạc Nam Bộ trong thời điểm khởi đầu của nền tân nhạc. Ông là một tên tuổi lớn trong nền âm nhạc cách mạng Việt Nam, một danh nhân văn hóa Việt Nam; là một trong những người đầu tiên sử dụng rất thành công thể loại hành khúc – một thể loại từ Âm nhạc phương Tây – để thức tỉnh, động viên lớp trẻ tham gia phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc; tính thôi thúc, cổ vũ, hiệu triệu luôn nổi rõ trong tác phẩm. Ông đã trở thành tác giả của những chính ca xuất sắc, có tầm tư tưởng lớn, giá trị nghệ thuật rất cao và có giá trị lịch sử như:
- Tiếng gọi Thanh niên: Bài hát chính thức của tổ chức Thanh niên Tiền phong, sau này Chính quyền Việt Nam Cộng hòa sửa lời và chọn làm Quốc ca với tên Tiếng gọi công dân.
- Lên đàng: Bài hát chính thức của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam.
- Hồn tử sĩ: Bài hát được dùng trong các lễ tang theo nghi thức nhà nước của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Bài hát này trước 1975 cũng được Việt Nam Cộng hòa sử dụng trong các nghi thức lễ tang quân dội.
- Ca ngợi Hồ Chủ tịch: Được xem là bài Lãnh tụ ca tại Việt Nam hiện nay.
- Giải phóng miền Nam: Bài hát chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quốc ca Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Ngoài thể chính ca, Lưu Hữu Phước viết ca khúc trữ tình cũng rất thành công. Có lẽ do những yêu cầu của xã hội, của thời cuộc lúc đó mà ông đã phát huy sở trường nhiều ở thể chính ca, ít sáng tác bài ca trữ tình.
Lưu Hữu Phước còn sáng tác cho thiếu nhi rất nhiều bài hát có giá trị lớn, nổi tiếng một thời, đến nay vẫn là chuẩn mực cho thể loại ca khúc thiếu nhi: Thiếu nhi thế giới liên hoan, Reo vang bình minh…
Rất nhiều bài báo, tiểu luận về âm nhạc… do ông viết; Những nghiên cứu, sáng tác của Lưu Hữu Phước đã có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của âm nhạc Việt Nam.
Danh hiệu, tôn vinh
Với những đóng góp của ông vào nền âm nhạc Việt Nam, ông đã được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng nhiều huân chương, huy chương, trong đó có Huân chương Độc lập hạng nhất (1987), giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1 (1996)
- Sau năm 1975, được phong học hàm Giáo sư và Viện sĩ thông tấn của Viện Hàn lâm Nghệ thuật CHDC Đức.
- Một Công viên tại Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ mang tên Lưu Hữu Phước. Công viên Lưu Hữu Phước có diện tích là 20.055 m². Nhìn từ bên ngoài công viên trông giống một ốc đảo xanh giữa lòng Thành phố Cần Thơ.[3]
- Một Trường Trung học Phổ thông tại Quận Ô Môn, Thành phố Cần Thơ mang tên Trường Trung học Phổ thông Lưu Hữu Phước.[4]
- Tên của ông được đặt tên cho một con phố ở Hà Nội nằm trong khu đô thị Mỹ Đình II. Phố Lưu Hữu Phước dài 490m, rộng 17,5m, từ đường Lê Đức Thọ đến đường Nguyễn Cơ Thạch, thuộc phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội[5].
Các tác phẩm
Ca khúc
- Ải Chi Lăng
- Bạch Đằng Giang
- Bài ca giải phóng quân
- Bạn đường đi hội đền Hùng
- Ca ngợi Hồ chủ tịch (Lãnh tụ ca)
- Chào mừng Đảng Lao động Việt Nam
- Dưới cờ Đảng vẻ vang
- Giải phóng miền Nam
- Gieo ánh sáng
- Giờ hành động
- Hành khúc Giải phóng
- Hành khúc học sinh trường Châu Văn Liêm
- Hội nghị Diên Hồng
- Ải Chi Lăng
- Bạch Đằng Giang
- Bài hát giải phóng quân
- Bạn đường đi hội đền Hùng
- Ca ngợi Hồ chủ tịch (Lãnh tụ ca)
- Dưới cờ Đảng vẻ vang
- Giải phóng miền Nam
- Gieo ánh sáng
- Giờ hành động
- Hành khúc Giải phóng
- Hành khúc học sinh trường Châu Văn Liêm
- Hội nghị Diên Hồng
|
Các thể loại khác
Ca cảnh:
|
Ca kịch:
|
Nhạc cho kịch múa:
|
Tham khảo
Chú thích
- ^ Huỳnh Minh Siêng là Bút danh của nhóm bộ 3 Huỳnh – Mai – Lưu (Huỳnh Văn Tiểng – Mai Văn Bộ – Lưu Hữu Phước). Bộ ba Huỳnh – Mai – Lưu này được Bắc Việt giao nhiệm vụ sáng tác một bài hát cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, và họ đã sáng tác bài Giải phóng miền Nam. Để bí mật, nhóm bộ 3 này đã đặt tên tác giả là: “Huỳnh Minh Liêng”; nhưng do sắp chữ khi in, người sắp chữ đã nhầm chữ L thành chữ S, và về sau thì nhóm bộ 3 này – chủ yếu là Lưu Hữu Phước – cũng không muốn sửa nữa vì từ Siêng cũng có cái hay của nó là siêng năng. Huỳnh Minh Siêng – tác giả bài hát Giải phóng miền Nam được đặt tên tác giả là vậy.
- ^ Cũng theo bà Trịnh Kim Vinh, thì “lời ca về các bài hát của Lưu Hữu Phước đều có Lưu Hữu Phước tham gia”
- ^ [1] Cải tạo công viên Lưu Hữu Phước – Tuổi trẻ Online, Thứ Năm, 25/02/2010, 08:36 (GMT+7).
- ^ [2] Lưu Hữu Phước, niềm tự hào Cần Thơ – Báo SÀI GÒN GIẢI PHÓNG, Thứ bảy, 10/05/2008, 22:56 (GMT+7).
- ^ Phố mang tên “người viết sử vĩ đại”
- ^ Bài hát ” Thanh niên 3 sẵn sàng” với ý nghĩa: Sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng nhập ngũ, sẵn sàng đi bất cứ nơi nào khi tổ quốc cần. Chẳng hiểu vì sao, ở một số sách khi nhắc đến tác phẩm này lại thiếu mất số 3.
Liên kết ngoài
|
- Sinh 1921
- Mất 1989
- Người Hậu Giang
- Người Cần Thơ
- Nhạc sĩ tiền chiến
- Nhạc sĩ nhạc đỏ
- Lưu Hữu Phước
- Giáo sư Việt Nam
- Thế hệ sáng lập Hướng đạo Việt Nam
- Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch Việt Nam
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam
- Chính khách Việt Nam
- Giải thưởng Hồ Chí Minh
- Huân chương Độc lập
- Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
- Người Cộng sản Việt Nam
- Cựu học sinh Pétrus Ký – Lê Hồng Phong
- Cựu sinh viên Viện Đại học Đông Dương
- Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
- Nhà soạn nhạc Việt Nam
Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
- Tháp Tự Do giấc mơ Mỹ
- Chào ngày mới 11 tháng 9
- Lương tri tỉnh thức
- Chào ngày mới 10 tháng 9
- Chiến tranh và hòa bình
- Chào ngày mới 9 tháng 9
- Những người Việt lỗi lạc ở FAO
- Cây Lương thực 9.2015
- Chuyện vỉa hè
- Chào ngày mới 8 tháng 9
- Chuyện vỉa hè
- Chào ngày mới 7 tháng 9
- Đến Neva nhớ Pie Đại Đế
- Chào ngày mới 6 tháng 9
- Sấm ký đồng dao huyền thoại
- Chào ngày mới 5 tháng 9
- Cây Lương thực 8.2015
- Khoang trời thung dung
- Văn pháp Truyện Kiều
- Chào ngày mới 4 tháng 9
- Chào ngày mới 3 tháng 9
- Việt Nam Hồ Chí Minh
- Chào ngày mới 2 tháng 9
- Chào ngày mới 1 tháng 9
- Tám người thực sự có siêu năng lực
- Chào ngày mới 31 tháng 8
- Ta về hát Bắc Kim Thang
- Chào ngày mới 30 tháng 8
- Sông Thương
- Chào ngày mới 29 tháng 8
- Anh cùng em đến bên tượng Goethe
- Trí tuệ bậc Thầy
- Tôi có một giấc mơ
- Chào ngày mới 28 tháng 8
- Thơ Hoa Mai của Thiệu Ung
- Chào ngày mới 27 tháng 8
- Chào ngày mới 26 tháng 8
- Chào ngày mới 25 tháng 8
- Chào ngày mới 24 tháng 8
- Chào ngày mới 23 tháng 8
- Chào ngày mới 22 tháng 8
- Chào ngày mới 21 tháng 8
- Bài thơ không thể nào quên
- Tháng bảy mưa Ngâu
- Chào ngày mới 20 tháng 8
- Chào ngày mới 19 tháng 8
- Chào ngày mới 18 tháng 8
- Suối nguồn hạnh phúc
- Chào ngày mới 17 tháng 8
- Thơ tình Hồ Núi Cốc
- Chào ngày mới 16 tháng 8
- Quản lý sắn bền vững ở châu Á
- Học để làm ở Ấn Độ
- Chào ngày mới 15 tháng 8
- Hoa xương rồng
- Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương
- Chào ngày mới 13 tháng 8
- Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi
- Chào ngày mới 12 tháng 8
- Từ Mao Trạch Đông đến Tập Cận Bình
- Thơ hay về biển
- Chào ngày mới 11 tháng 8
- Chào ngày mới 10 tháng 8
- Chào ngày mới 9 tháng 8
- Đến với những bài thơ hay
- Ta về trời đất Hồng Lam
- Ong và Hoa
- Chào ngày mới 8 tháng 8
- Bài ca thời gian
- Chào ngày mới 7 tháng 8
- Chào ngày mới 6 tháng 8
Video yêu thích
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học CNM365 Tình yêu cuộc sống Cây Lương thực Dạy và Học Kim on LinkedIn KimYouTube Kim on Facebook
Pingback: Chào ngày mới 24 tháng 10 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Nghiên cứu Kinh Dược Sư | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đến chốn thung dung | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Minh triết sống thung dung phúc hậu | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đọc lại và suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đêm thu | Khát khao xanh
Pingback: Giống khoai lang ở Việt Nam | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh | Tình yêu cuộc sống
Pingback: CNM365 Chào ngày mới 365 | Tình yêu cuộc sống