CNM365. Chào ngày mới 22 tháng 10. Wikipedia Ngày này năm xưa. Năm 1879 – Thomas Edison lần đầu tiên thành công trong việc thử nghiệm đèn sợi đốt, với một dây tóc cácbon. Năm 1962 – Khủng hoảng tên lửa Cuba: Tổng thống John F. Kennedy tuyên bố trên truyền hình rằng vũ khí hạt nhân Liên Xô được phát hiện ở Cuba và ra lệnh nâng tình trạng báo động quân sự lên mức DEFCON 3. Năm 1913 – ngày sinh Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng của Việt Nam (mất năm1997).
22 tháng 10
Ngày 22 tháng 10 là ngày thứ 295 (296 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 70 ngày trong năm.
« Tháng 10 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | ||||
4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 |
18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 |
25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 |
Mục lục
Sự kiện
- 668 – Tướng quân Lý Thế Tích của Đường đánh chiếm kinh thành Bình Nhưỡng của Cao Câu Ly, bắt giữ Bảo Tạng Vương, tức ngày Quý Tị (12) tháng 9.
- 1956 – Chính phủ Việt Nam Cộng hòa cho cải tổ nhiều đơn vị hành chánh cấp tỉnh.
- 1962 – Khủng hoảng tên lửa Cuba: Tổng thống John F. Kennedy tuyên bố trên truyền hình rằng vũ khí hạt nhân Liên Xô được phát hiện ở Cuba và ra lệnh nâng tình trạng báo động quân sự lên mức DEFCON 3.
- 1967 – Cuộc bầu cử Hạ viện Việt Nam Cộng hòa.
- 1964 – Sau khi Ủy ban Nobel tuyên bố ông đoạt Giải Nobel Văn học, nhà triết học Pháp Jean-Paul Sartre trở thành người đoạt giải Nobel đầu tiên tự ý từ chối nhận giải này, vì không muốn bị “biến đổi”.
- 1968 – Tối cao Pháp viện Việt Nam Cộng hòa nhóm họp lần đầu tiên.
- 2012 – Liên đoàn Xe đạp Quốc tế ra tước 7 danh hiệu vô địch Tour de France và cấm thi đấu suốt đời đối với tay đua Lance Armstrong do cáo buộc sử dụng doping.
Sinh
- 1913 – Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng của Việt Nam (m. 1997)
- 1949 – Arsène Wenger, huấn luyện viên bóng đá người Pháp
Mất
- 1780 – Ngô Thì Sĩ, nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng ở thế kỷ 18 tại Việt Nam (s. 1726),
- 1909 – Sigismund von Schlichting, tướng lĩnh quân đội Phổ (s. 1829),
- 1956 – Fritz Hofmann, nhà hóa học người Đức (s. 1886).
- 1984 – Hoa Phượng, soạn giả Cải lương (s. 1933),
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về 22 tháng 10 |
Lich Vạn Niên ngày 22 tháng 10 năm 2015

Lịch vạn niên 2015, ngày 10 tháng 9, năm 2015 – Âm lịchXem ngày giờ tốt và hướng xuất hànhTrong một tháng có 2 loại ngày tốt, ngày xấu; trong một ngày lại có 6 giờ tốt, 6 giờ xấu gọi chung là Ngày/giờ Hoàng đạo (tốt) và Ngày/giờ Hắc đạo (xấu). Người Việt Nam từ xưa đều có phong tục chọn ngày tốt và giờ tốt để làm những việc lớn như cưới hỏi, khởi công làm nhà, nhập trạch, ký kết, kinh doanh v.v.v. Ngày 10 tháng 9, năm 2015 là ngày Hắc đạo , các giờ tốt trong ngày này là: Canh Dần, Tân Mão, Qúy Tỵ, Bính Thân, Mậu Tuất, Kỷ Hợi Trong ngày này, các tuổi xung khắc nên cẩn thận trong chuyện đi lại, xuất hành, nói chuyện và làm các việc đại sự là: Qúy sửu, Đinh Sửu, Ất Dậu, Ất Mão Xuất hành hướng Đông Bắc gặp Hỷ thần: niềm vui, may mắn, thuận lợi. Xuất hành hướng Nam gặp Tài thần: tài lộc, tiền của, giao dịch thuận lợi. Xem sao tốt và việc nên làm và nên kiêngTrong Lịch vạn niên, có 12 trực được sắp xếp theo tuần hoàn phân bổ vào từng ngày. Mỗi trực có tính chất riêng, tốt/xấu tùy từng công việc. Ngày 10 tháng 9, năm 2015 là Trực Thu: Tốt cho các việc khai trương, lập kho vựa, giao dịch, may mặc. Xấu cho các việc an táng, giá thú, nhậm chức, xuất nhập tài vật |
Thomas Edison
Thomas Edison | |
---|---|
![]() “Genius is one percent inspiration, ninety-nine percent perspiration.” – “Thiên tài là một phần trăm cảm hứng, chín mươi chín phần trăm mồ hôi.”
– Thomas Alva Edison, Harper’s Monthly (Tháng 9 năm 1932) |
|
Sinh | Thomas Alva Edison 11 tháng 2, 1847 Milan, Ohio, Hoa Kỳ |
Mất | 18 tháng 10, 1931 (84 tuổi) West Orange, New Jersey, Hoa Kỳ |
Công việc | Nhà phát minh, nhà khoa học, thương gia |
Tôn giáo | Thuyết thần giáo tự nhiên |
Vợ (hoặc chồng) | Mary Stilwell (1871–1884) Mina Miller (1886–1931) |
Con cái | Marion Estelle Edison (1873–1965) Thomas Alva Edison Jr. (1876–1935) William Leslie Edison (1878–1937) Madeleine Edison (1888–1979) Charles Edison (1890–1969) Theodore Miller Edison (1898–1992) |
Cha mẹ | Samuel Ogden Edison, Jr. (1804–1896) Nancy Matthews Elliott (1810–1871) |
Người thân | Lewis Miller (cha vợ) |
Chữ ký | ![]() |
Thomas Alva Edison (11 tháng 2 năm 1847 – 18 tháng 10 năm 1931) là một nhà phát minh và thương nhân đã phát triển rất nhiều thiết bị có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống trong thế kỷ 20. Ông được một nhà báo đặt danh hiệu “Thầy phù thủy ở Menlo Park”, ông là một trong những nhà phát minh đầu tiên ứng dụng các nguyên tắc sản xuất hàng loạt vào quy trình sáng tạo, và vì thế có thể coi là đã sáng tạo ra phòng nghiên cứu công nghiệp đầu tiên. Một số phát minh được gán cho ông tuy ông không hoàn toàn là người đầu tiên có ý tưởng đó, nhưng sau khi bằng sáng chế đầu tiên được thay đổi nó trở thành của ông (nổi tiếng nhất là bóng đèn), trên thực tế là công việc của rất nhiều người bên trong công ty của ông. Tuy nhiên, Edison được coi là một trong những nhà phát minh giàu ý tưởng nhất trong lịch sử, ông giữ 1.093 bằng sáng chế tại Hoa Kỳ dưới tên ông, cũng như các bằng sáng chế ở Anh Quốc, Pháp, và Đức (tổng cộng 1.500 bằng phát minh trên toàn thế giới)
Mục lục
Gia đình
Tổ tiên Edison (Gia đình Edison ở Hà Lan) đã nhập cư tới New Jersey năm 1730. John Edison vẫn trung thành với Anh Quốc khi các thuộc địa tuyên bố độc lập (xem Những người trung thành với Đế chế thống nhất), dẫn tới việc ông bị bắt giữ. Sau khi suýt bị treo cổ, ông và gia đình bỏ đi tới Nova Scotia,Canada, định cư trên vùng đất mà chính phủ thuộc địa dành cho những người trung thành với nước Anh.
Ra đời và những năm thơ ấu
Thomas Edison sinh tại Milan, Ohio, con của Samuel Ogden Edison, Jr và Nancy Matthews Elliott (1810–1871). Thomas là đứa con thứ bảy trong gia đình. Thuở nhỏ, Edison nổi tiếng là một cậu bé hiếu kì. Edison đi học muộn vì ông vốn ốm yếu. Đầu óc ông luôn lơ mơ và giáo viên của ông là Reverend Engle gọi ông là “rối trí”. Trong khi bạn bè đồng lứa còn ham chơi thì Edison đã không những luôn băn khoăn tìm hiểu mọi vật quanh mình mà còn muốn hiểu thấu đáo các vật đó. Vì những trò nghịch ngợm của mình mà Edison đã bị đuổi học ngay khi chưa kết thúc tiểu học. Mẹ ông từng là một giáo viên ở Canada và bà rất vui mừng đảm nhận việc dạy con. Bà khuyến khích và dạy ông đọc và làm thực nghiệm. Sau này ông nhớ lại, “Mẹ tôi đã tạo ra tôi. Bà rất tin tưởng và chắc chắn về tôi; và tôi cảm thấy rằng tôi có một điều gì đó để sống, một ai đó để tôi không thể làm cho thất vọng.”[1]
Cuộc sống của Edison ở Port Huron vừa cay đắng vừa ngọt ngào. Ông bán kẹo và bán báo trên các chuyến tàu hỏa từ Port Huron đến Detroit. Hơi điếc từ thời thanh niên, ông đã trở thành một điện tín viên sau khi ông cứu Jimmie Mackenzie khỏi lao vào tàu hoả. Cha của Jimmie là nhân viên nhà ga J.U. Mackenzie ở Mount Clemens, Michigan, rất vui mừng bảo trợ cho Edison và dạy ông trở thành điện tín viên. Vì bị điếc nên Edison tránh khỏi mọi tiếng ồn ào và cũng không phải nghe nhân viên điện báo bên cạnh. Một trong những cố vấn của ông những năm đầu tiên này là một điện tín viên già và là một nhà phát minh tên là Franklin Leonard Pope, ông đã cho phép chàng trai trẻ sống và làm việc trong tầng hầm ở nhà ông tại nhà Elizabeth, New Jersey.
Một số trong những phát minh đầu tiên của ông liên quan tới điện tín gồm cả máy đếm phiếu. Edison đã xin cấp bằng phát minh đầu tiên, máy đếm phiếu điện tử, ngày 28 tháng 10, 1868.
Các cuộc hôn nhân và cuộc sống sau đó
Năm 1871, ở tuổi 24, Edison trở thành chủ một xí nghiệp được nhiều người biết tiếng. Cuộc sống dần ổn định và nhu cầu có một mái ấm gia đình chợt đến trong đầu. Ông chú ý đến cô thư kí Mary Stilwell dịu dàng, thanh mảnh làm việc trong công ty, một hôm, ông đến gặp nàng và nói: “Thưa cô, tôi không muốn phí thì giờ nói những câu vô ích. Tôi xin hỏi cô một câu rất ngắn gọn và rõ ràng: Cô có muốn làm vợ tôi không?”. Cô gái sửng sốt, không tin ở tai mình – “Ý cô thế nào? Cô nhận lời tôi nhé? Tôi xin cô hãy suy nghĩ trong năm phút” – Edison nhắc lại lời cầu hôn cấp tốc của mình. “Năm phút cơ à? thế thì lâu quá! Vâng em nhận lời” – đỏ mặt lí nhí, Mary đáp. Ngày 25 tháng 12, 1871, ông cưới Mary, và họ có ba người con, Marion Estelle Edison, Thomas Alva Edison, Jr., và William Leslie Edison. Mary vợ ông qua đời năm 1884. Ngày 24 tháng 2 1886, ở tuổi ba chín, ông lấy Mina Miller một cô gái mười chín tuổi. Họ có thêm ba người con nữa: Madeleine Edison, Charles Edison (người tiếp quản công ty sau khi cha qua đời, và sau này trở thành Bộ trưởng Hải quân, được bầu làm Thống đốc bang New Jersey), và Theodore Edison.
Thomas Edison mất ở New Jersey ở tuổi 84. Sáng Chủ Nhật ngày 18/10/1931, Thomas Edison lìa trần chỉ 3 ngày trước lễ kỉ niệm sinh nhật lần thứ 52 của chiếc bóng điện đầu tiên. Những từ cuối cùng của ông nói với vợ là: “Ở ngoài kia đẹp quá”.
Nước Mỹ tưởng nhớ ông bằng cách tắt toàn bộ đèn điện trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ trong một phút để tưởng nhớ người vĩ nhân, “người bạn của nhân loại” đã mang đến cho con người một thứ ánh sáng quý giá, một “mặt trời thứ hai”.
Nhà phát minh
Không học ở trường, Edison tự học ở sách theo cách riêng của mình. Dần dần, với sự suy nghĩ, tìm tòi, thực hiện không chú trọng lí thuyết suông, từng bước Edison đã chinh phục những gì mà người thời bấy giờ cho là không tưởng. Phát minh đầu tiên của ông là một chiếc máy điện báo tải hai có khả năng cùng một lúc phát đi hai tin. Ít lâu sau, ông cải tiến thành máy tải ba, tải tư rồi đa tải. Tải tư được bán cho Western Union với giá 10.000 USD.
Một thời gian sau, chán nản với công việc của một điện báo viên, Edison đến New York, trung tâm tài chính bậc nhất lúc bấy giờ, với hy vọng sẽ kiếm thêm chi phí cho các cuộc thí nghiệm của mình. Tại đây, ông đã hợp tác với vài người bạn thành lập một công ty nhỏ chuyên về điện và điện báo. Phát minh thứ hai của ông là cải tiến chiếc máy điện báo đa tải thành Hệ thống điện báo nhận các tin tức hối đoái ngân hàng. Chiếc máy đầu tiên đã đem về cho ông một số tiền lớn. Toàn bộ số tiến kiếm được lúc này, ông trút hết vào các thí nghiệm của mình về sau.
Phát minh đầu tiên mang lại nổi tiếng cho Edison là máy quay đĩa năm 1877. Công chúng không thể ngờ được về phát minh này và coi nó là điều ma thuật. Edison bắt đầu được gọi là “Thầy phù thủy ở Menlo Park, New Jersey”, nơi ông sống. Chiếc máy quay đĩa đầu tiên của ông ghi lại âm thanh trên các trụ bọc thiếc cho chất lượng âm thanh thấp và nó phá hủy luôn đường rãnh ghi âm khi nghe lại nên chỉ có thể nghe được một lần. Trong thập kỷ 1880, một model được thiết kế lại sử dụng các trụ bìa giấy các tông tráng sáp ong được chế tạo bởi Alexander Graham Bell, Chichester Bell, và Charles Tainter. Đây là một lý do khiến Thomas Edison tiếp tục làm việc để tạo ra chiếc “Máy hát hoàn thiện” của riêng ông.
Ông cũng từng phát minh ra máy Kiểm phiếu điện tử và đã xin cấp bằng sáng chế, nhưng đã bị từ chối.
Menlo Park
Sự cách tân lớn nhất của Edison chính là phòng thí nghiệm ở Menlo Park, nó được xây dựng ở New Jersey. Đây là viện nghiên cứu đầu tiên được thành lập với mục đích chuyên biệt nhằm tạo ra các cải tiến và cách tân liên tục trong công nghệ. Chính tại đây, đa số các phát minh được đưa vào thực tiễn của ông đã ra đời, mặc dù việc căn bản của ông là quản lý và điều hành công việc của các nhân viên.
. Ông góp công trong việc thực nghiệm điện thoại, máy quay đĩa, tàu điện, máy phân tích quặng, đèn điện, và một số cải tiến phát minh khác. Tuy nhiên, ban đầu ông làm việc về đèn điện và chịu trách nhiệm thử nghiệm và ghi lại về thiết bị đó. Năm 1880 ông được chỉ định làm kỹ sư trưởng của Xưởng đèn Edison. Trong năm đầu tiên này, xưởng dưới sự quản lý của Francis Upton, đã sản xuất ra 50.000 bóng đèn. Theo Edison, Hammer là “một người tiên phong trong lĩnh vực đèn chiếu sáng”.
Đa số các bằng sáng chế của Edison là những bằng sáng chế hữu ích, chỉ khoảng hơn mười chiếc là bằng sáng chế thiết kế. Nhiều phát minh của ông không hoàn toàn là ý tưởng ban đầu của ông, nhưng những cải tiến giúp nó có thể được sản xuất hàng loạt là của ông. Ví dụ, trái với điều mọi người vẫn nghĩ, Edison không phát minh ra bóng đèn điện. Nhiều thiết kế đã được phát triển bởi các nhà phát minh từ trước đó gồm cả bằng sáng chế mà ông mua lại từ Henry Woodward và Mathew Evans, Moses G. Farmer,[2] Joseph Swan, James Bowman Lindsay, William Sawyer, Humphry Davy, và Heinrich Göbel. Năm 1878, Edison xin cấp phép cho thuật ngữ sợi dây tóc cho yếu tố dây phát sáng mang dòng điện, mặc dù nhà phát minh người Anh Joseph Swan đã sử dụng thuật ngữ đó từ trước. Edison đã lấy các đặc tính từ các thiết kế trước đó và trao nhiệm vụ cho các công nhân của ông tạo ra những bóng đèn có tuổi thọ cao hơn. Năm 1879, ông đã sản xuất ra một ý niệm mới: một chiếc đèn có sức chịu đựng cao trong một môi trường chân không lớn, nó sẽ cháy sáng hàng trăm giờ. Trong khi những nhà phát minh trước đó đã sản xuất ra đèn điện trong các điều kiện phòng thí nghiệm, Edison đã tập trung vào việc áp dụng thương mại hóa và đã có thể bán ý tưởng của mình tới các gia đình và các cửa hàng bằng cách sản xuất hàng loạt các bóng đèn có tuổi thọ cao và tạo ra một hệ thống phát và cung cấp điện.
Phòng thí nghiệm Menlo Park có thể được xây dựng nhờ tiền bán bộ máy thu phát cùng lúc bốn tín hiệu mà Edison sáng chế ra năm 1874. Chiếc máy điện báo thu phát bốn tín hiệu cùng lúc có thể gửi bốn tín hiệu điện báo cùng lúc trên cùng một dây dẫn. Khi Edison liên hệ bán máy cho Western Union, ông đã bị sốc khi Western Union đưa ra một cái giá không thể ngờ nổi; quyền sáng chế được bán với giá $10.000. Chiếc máy điện báo này là thành công tài chính lớn đầu tiên của ông.
Lĩnh vực điện khí
Năm 1879 Edison thành lập ra Thomson-Houston đến năm 1890 ông thành lập công ty Edison General Electric. Hai năm sau Edison General Electric và Thomson-Houston hợp nhất hình thành công ty Edison General Electric and Thomson-Houston, tiền thân của tập đoàn điện khí khổng lồ GE ngày nay. Về sau có tới hơn 10 công ty mang tên ông
Bắt đầu vận hành nhà máy điện đầu tiên
Năm 1880 Edison đăng ký bằng sáng chế về phân phối điện, sự kiện đó đóng vai trò chính trong việc tích lũy để phát minh ra đèn điện. Tháng 12 năm 1880, Edison thành lập Công ty Chiếu sáng mang tên ông đặt tại số 257, đường Pearl thành phố New York và đến năm 1882 đã thành công khi đưa trạm phát điện đầu tiên đi vào hoạt động.
Trạm phát điện đầu tiên “Jumbo số 1” là một máy phát điện chạy bằng hơi nước trực tiếp nặng 27 tấn, riêng phần lõi (armature) nặng đến 6 tấn và được sử dụng để làm mát không khí. Trạm phát điện này có thể làm sáng 700 ngọn đèn gồm 16 nến. Trong vòng 14 tháng, nhà máy điện đầu tiên của Edison đã phục vụ cho 508 thuê bao và hỗ trợ 12.732 bóng đèn.
Thành công thực sự của Edison, giống như người bạn của ông Henry Ford, trong khả năng của mình để tối đa hóa lợi nhuận thông qua việc thành lập hệ thống sản xuất hàng loạt và các quyền sở hữu trí tuệ. George Westinghouse và Edison đã trở thành đối thủ vì Edison xúc tiến việc sử dụng dòng điện một chiều (DC) cho phân phối điện trong hệ thống luân phiên thay vì một hệ thống đơn giản hơn là dòng điện xoay chiều (AC) được phát minh bởi Nikola Tesla và xúc tiến bởi Westinghouse. Không giống như DC, dòng điện xoay chiều có thể được tăng cường điện áp rất cao với các máy biến áp, được gửi qua những đường dây điện mảnh hơn và rẻ hơn, và hạ điện áp tại điểm đến để phân phối cho người sử dụng.
Năm 1887, có 121 trạm phát điện Edison ở Hoa Kỳ cung cấp điện dòng điện một chiều cho khách hàng. Khi những hạn chế của dòng điện một chiều đã được thảo luận trước công chúng, Edison đã phát động một chiến dịch tuyên truyền để thuyết phục mọi người rằng dòng điện xoay chiều là quá nguy hiểm để sử dụng. Vấn đề với dòng điện một chiều là các nhà máy điện này chỉ cung cấp cho khách hàng trong vòng khoảng một dặm rưỡi (khoảng 2,4 km) từ các trạm phát điện, do đó nó chỉ thích hợp cho các trung tâm thương mại. Khi George Westinghouse đề nghị sử dụng điện áp cao dòng điện xoay chiều thay thế, vì nó có thể mang điện hàng trăm dặm và mất mát điện ít, Edison đã tiến hành một “cuộc chiến tranh dòng điện” để ngăn chặn dòng điện xoay chiều được thông qua.
Cuộc chiến chống lại dòng điện xoay chiều đã khiến ông tham gia vào việc phát triển và xúc tiến ghế điện (sử dụng AC) như một nỗ lực để miêu tả dòng điện xoay chiều có khả năng gây tử vong lớn hơn so với DC. Edison đã thực hiện một chiến dịch ngắn gọn nhưng mạnh mẽ để cấm việc sử dụng dòng điện xoay chiều hoặc hạn chế điện áp nhằm những mục đích an toàn. Trong một phần của chiến dịch này, nhân viên của Edison cho giật điện công khai một số động vật để chứng minh sự nguy hiểm của AC;[3][4] dòng điện xoay chiều hơi nguy hiểm hơn ở những tần số gần 60 Hz có khả năng đáng kể gây nguy hiệm đến tính mạng hơn dòng điện một chiều.[5] Một trong những thí nghiệm đáng chú ý của ông vào năm 1903, những công nhân của Edison cho giật điện con voi tên Topsy tại Luna Park, gần đảo Coney, sau khi nó giết vài người và chủ của nó muốn giết nó.[6] Công ty của ông đã quay phim lại những cuộc tử hình bằng giật điện.
Dòng điện xoay chiều thay thế hầu hết dòng điện một chiều trong các trạm phân phối điện, nhanh chóng mở rộng phạm vi và cải tiến hiệu quả của các trạm phân phối điện. Mặc dù dòng điện một chiều không còn được ưa chuộng sử dụng, nó vẫn tồn tại đến ngày nay trong những hệ thống dẫn truyền dòng điện một chiều điện áp cao (HVDC). Dòng điện một chiều điện áp thấp vẫn còn tiếp tục được sử dụng cho những khu vực dông dân cư trong nhiều năm nhưng cuối cùng bị thay thế bởi hệ thống dòng điện xoay chiều điện áp thấp.[7]
Nhà cửa
Vào Thập niên 1880, Thomas Edison mua đất đai ở Fort Myers, Florida, và xây Seminole Lodge làm nơi nghỉ đông. Henry Ford, ông trùm ô tô, sau này đã sống ở nhà nghỉ đông của ông, The Mangoes phía đối diện. Edison thậm chí cũng đóng góp về kỹ thuật cho ngành ô tô. Họ là bạn bè tới tận khi Edison mất trong trạng thái bình yên, thọ 84 tuổi. Edison and Ford Winter Estates hiện đang mở cửa cho công chúng.
Chuyện ngoài lề
- Thomas Edison là một người có tư tưởng độc lập, và giống như một nhà thần luận, tuyên bố rằng ông không tin vào “Chúa và các nhà thần học”, nhưng lại không nghi ngờ rằng “có một sự hiểu biết siêu nhiên”. Tuy nhiên, ông phản đối ý kiến về siêu nhiên, cùng với những ý tưởng về linh hồn, sự bất tử, và hiện thân của Chúa. Ông nói, “Thiên nhiên không nhân từ và đáng yêu, mà hoàn toàn tàn nhẫn, xa lạ.”[8]
- Ông đã mua một ngôi nhà gọi là “Glenmont” năm 1886 coi đó là món quà cưới cho Mina ở Llewellyn Park tại West Orange, New Jersey. Mộ của Thomas và Mina Edison hiện đang được chôn cất tại đó. Vùng đất rộng 13.5 acre (55.000 m²) được National Park Service giữ gìn làm Di tích lịch sử quốc gia Edison.
- Edison đã trở thành người sở hữu nơi sinh của ông Milan, Ohio năm 1906, và, trong lần tới thăm cuối cùng năm 1923, ông đã sốc khi thấy ngôi nhà cũ của mình vẫn được chiếu sáng bằng đèn và nến.
- Năm 1878, ông được phong tước Hiệp sỹ Quân đoàn danh dự của Pháp, và năm 1889, ông được phong làm Chỉ huy Quân đoàn danh dự.
- Bị ảnh hưởng bởi một chế độ ăn giàu chất béo vào hồi đó, trong những năm cuối đời “ông không ăn gì ngoài cứ ba giờ uống một lít sữa”.[9] Ông tin rằng chế độ ăn như vậy sẽ giúp ông hồi phục sức khỏe.
- Trong cả cuộc đời ông rất nặng tai.
- Thomas Edison đã viết một bức thư nổi tiếng cho nhà chế tạo đàn piano là Steinway & Sons sau khi định giá một trong những chiếc đàn của họ:
- “Gửi Steinway & Sons —
- “Thưa các quý ông,
- “Tôi đã quyết định giữ chiếc đàn piano tuyệt vời của các vị. Vì một số lý do không thể hiểu được đối với tôi nó đã mang lại những kết quả tuyệt diệu so với những lần tôi từng thử trước đó. Xin hãy gửi hóa đơn cho tôi với giá rẻ nhất.
- “— Thomas Edison.
Danh sách các cống hiến
Người ta thống kê được, Edison có tổng cộng đến 1.907 phát minh được cấp bằng sáng chế – một con số khổng lồ.
- Máy quay đĩa
- Máy chiếu phim
- Máy ghi âm
- Cung cấp hỗ trợ tài chính cho công việc của Guglielmo Marconi về truyền phát radio và có được nhiều bằng sáng chế.
- Tattoo gun (Dựa trên Bút điện, được sử dụng để tạo ra các bản copy rô nê ô)
- Bóng đèn
Những cải tiến công việc của Edison
- Lewis Latimer được cấp bằng sáng chế một cách cải tiến cách sản xuất dây tóc đèn trong bóng (không có bằng chứng rằng thứ này từng được sử dụng ở một công ty của Edison).
- Nikola Tesla đã phát triển phân phối điện xoay chiều, có thể được dùng để truyền điện qua khoảng cách xa hơn điện một chiều của Edison vì khả năng biến thế. Có thể nói rằng dòng điện xoay chiều không có nguồn gốc từ công việc của Edison, nhưng nó liên quan tới cả hai người. Tesla là cựu nhân viên của Edison, và đã rời bỏ ông để đi theo con đường điện xoay chiều – mà Edison không ủng hộ.
- Emile Berliner đã phát triển máy hát, về cơ bản nó là một máy quay đĩa cải tiến, với khác biệt căn bản là sử dụng bản ghi phẳng với các đường rãnh xoắn ốc.
- Edward H. Johnson có những bóng đèn được chế tạo đặc biệt, và được lắp đặt ở nhà ông ở Fifth Avenue tại thành phố New York trên Cây thông Noel đầu tiên được trang trí bằng điện vào 22 tháng 12, 1882.
Tưởng nhớ
- Thị trấn Edison, New Jersey, và Thomas Edison State College, một trường trung học nổi tiếng quốc gia cho thanh niên ở Trenton, New Jersey, được đặt theo tên nhà phát minh. Có một Tháp tưởng niệm và Bảo tàng Thomas Alva Edison Memorial Tower ở thị trấn Edison.
- Huy chương Edison được thành lập ngày 11 tháng 2, 1904 bởi một nhóm bạn và người cộng tác với Edison. Bốn năm sau Viện kỹ sư điện Hoa Kỳ (AIEE), sau này là IEEE, đã đồng ý với nhóm trên để dùng huy hiệu làm phần thưởng cao quý nhất của họ. Huy hiệu đầu tiên được trao năm 1909 cho Elihu Thomson, và đáng ngạc nhiên là cả Tesla năm 1917. Huy hiệu Edison là phần thưởng xưa nhất trong lĩnh vực điện và kỹ thuật điện, và được trao hàng năm “cho một thành quả chuyên môn xứng đáng trong khoa học điện, kỹ thuật điện hay nghệ thuật điện.”
- Tạp chí Life (Mỹ), trong một số đặc biệt, đã đưa Edison vào danh sách “100 người quan trọng nhất trong 1000 năm qua”, ghi chú rằng bóng đèn của ông đã “chiếu sáng thế giới”. Ông được xếp hạng ba mươi năm trên danh sách Những khuôn mặt có ảnh hưởng nhất trong thế kỷ của Michael H. Hart.
- Khách sạn của thành phố, ở Sunbury, Pennsylvania, là tòa nhà đầu tiên được chiếu sáng với hệ thống ba dây của Edison. Khách sạn này được đổi tên thành Khách sạn Edison, và hiện vẫn giữ tên đó.
- Bảo tàng Port Huron, ở Port Huron, Michigan, vẫn gìn giữ bến xe lửa nơi Thomas Edison từng bán bánh kẹo. Bến xe lửa này đã được đổi tên một cách rất thích hợp thành Bảo tàng nhà ga Thomas Edison. Thị trấn có nhiều mốc lịch sử của Edison gồm mộ cha mẹ Edison.
- Hải quân Hoa Kỳ đặt tên chiếc USS Edison (DD-439), một Gleaves-class tàu khu trục, để vinh danh ông năm 1940. Chiếc tàu này đã được giải giới vài tháng sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1962, hải quân đặt hàng chiếc tàu USS Thomas A. Edison (SSBN-610), một tàu ngầm năng lượng nguyên tử mang tên lửa đạn đạo. Nó được giải giới ngày 1 tháng 12, 1983, Thomas A. Edison đã bị tác động mạnh nhất từ Naval Vessel Register vào ngày 30 tháng 4, 1986. Nó thuộc Chương trình các tàu năng lượng nguyên tử và những tàu ngầm tái chế của hải quân ở Bremerton, Washington, bắt đầu vào 1 tháng 10, 1996. Khi nó kết thúc chương trình ngày 1 tháng 12, 1997, nó bị tháo dỡ thành những mảnh rời.
- Để ghi nhớ những cống hiến to lớn của các nhà phát minh dành cho đất nước và thế giới, Nghị viện, theo Nghị quyết số 140 của cả hai nghị viện (Luật công cộng 97 – 198), đã chỉ định ngày 11 tháng 2, là ngày kỷ niệm ngày sinh của Thomas Alva Edison, là Ngày các nhà phát minh quốc gia.
- Ở Hà Lan giải thưởng âm nhạc lớn được lấy theo tên ông.
Tham khảo
- Thomas Edison trong Dimiþox
- Ernst Angel: Edison. Sein Leben und Erfinden. Berlin: Ernst Angel Verlag, 1926.
- Mark Essig: Edison & the Electric Chair: A Story of Light and Death. New York: Walker & Company, 2003. ISBN 0-8027-1406-4
- ^ “Edison Family Album” (HTML). NPS. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2006.
- ^ “Moses G. Farmer, Eliot’s Inventor” (HTML). Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2006.
- ^ “IMDB entry on Electrocuting an Elephant (1903)”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2006.
- ^ “Wired Magazine: “Jan. 4, 1903: Edison Fries an Elephant to Prove His Point””. Ngày 4 tháng 1 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Electrocution Thresholds for Humans”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2009.
- ^ Tony Long (ngày 4 tháng 1 năm 2008). “Jan. 4, 1903: Edison Fries an Elephant to Prove His Point”. AlterNet. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2008.
- ^ Lee, Jennifer (ngày 14 tháng 11 năm 2007). “Off Goes the Power Current Started by Thomas Edison”. The New York Times Company. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2007.
- ^ Vernon, Thomas S. “Thomas Alva Edison” (HTML). Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2006.
- ^ Paul Israel. Edison: A Life of Invention.
Đọc thêm
- Albion, Michele Wehrwein. (2008). The Florida Life of Thomas Edison. Gainesville: University Press of Florida. ISBN 978-0-8130-3259-7.
- Adams, Glen J. (2004). The Search for Thomas Edison’s Boyhood Home. ISBN 978-1-4116-1361-4.
- Angel, Ernst (1926). Edison. Sein Leben und Erfinden. Berlin: Ernst Angel Verlag.
- Baldwin, Neil (2001). Edison: Inventing the Century. University of Chicago Press. ISBN 978-0-226-03571-0.
- Clark, Ronald William (1977). Edison: The man who made the future. London: Macdonald & Jane’s: Macdonald and Jane’s. ISBN 978-0-354-04093-8.
- Conot, Robert (1979). A Streak of Luck. New York: Seaview Books. ISBN 978-0-87223-521-2.
- Davis, L. J. (1998). Fleet Fire: Thomas Edison and the Pioneers of the Electric Revolution. New York: Doubleday. ISBN 978-0-385-47927-1.
- Essig, Mark (2004). Edison and the Electric Chair. Stroud: Sutton. ISBN 978-0-7509-3680-4.
- Essig, Mark (2003). Edison & the Electric Chair: A Story of Light and Death. New York: Walker & Company. ISBN 978-0-8027-1406-0.
- Israel, Paul (1998). Edison: a Life of Invention. New York: Wiley. ISBN 978-0471529422.
- Jonnes, Jill (2003). Empires of Light: Edison, Tesla, Westinghouse, and the Race to Electrify the World. New York: Random House. ISBN 978-0-375-50739-7.
- Josephson, Matthew (1959). Edison. McGraw Hill. ISBN 978-0-07-033046-7.
- Koenigsberg, Allen (1987). Edison Cylinder Records, 1889-1912. APM Press. ISBN 0-937612-07-3.
- Pretzer, William S. (ed). (1989). Working at Inventing: Thomas A. Edison and the Menlo Park Experience. Dearborn, Michigan: Henry Ford Museum & Greenfield Village. ISBN 978-0-933728-33-2.
- Stross, Randall E. (2007). The Wizard of Menlo Park: How Thomas Alva Edison Invented the Modern World. Crown. ISBN 1-400-04762-5.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Thomas Edison |
- Biography, Pictures, and Sounds
- Edison cylinder recordings, từ Cylinder Preservation and Digitization Project tại Thư viện của Đại học California, Santa Barbara.
- 4-disc DVD set containing over 140 films produced by the Thomas Edison Company.
- Danh sách đầy đủ 1.093 bằng sáng chế.
- Tiểu sử
- Edison, His Life and Inventions của Frank Lewis Dyer và Thomas Commerford Martin, tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg
- “Edison, His Life And Inventions” bởi Frank Lewis Dyer tại Worldwideschool.org
- “Thomas Edison“, bởi Gerry Beales.
- “Thomas Alva Edison” bởi John Patrick Michael Murphy.
- Những địa điểm lịch sử
- Edison Birthplace Museum
- Thomas Edison House
- Edison National Historic Site
- Menlo Park
- Edison Depot Museum
- Edison exhibit and Menlo Park Laboratory at Henry Ford Museum
- Tài liệu
- Rutgers: Edison Papers
- Rutgers: Edison Patents
- Edisonian Museum Antique Electrics
- Thomas A. Edison in his laboratory in New Jersey, 1901
- “Edison’s Miracle of Light.” American Experience, PBS.
- William J. Hammer collection – ca. 1874-1935, 1955-1957. Archives Center, National Museum of American History, Smithsonian Institution.
- Sinh 1847
- Mất 1931
- Nhà phát minh Mỹ
- Đại lộ Danh vọng Hollywood
- Thomas Edison
- Người Mỹ gốc Hà Lan
- Người Mỹ gốc Anh
- Người Mỹ gốc Scotland
Khủng hoảng tên lửa Cuba
Khủng hoảng tên lửa Cuba (tiếng Anh: Cuban Missile Crisis hay còn được biết với tên gọi Khủng hoảng tháng 10 tại Cuba) là một cuộc đối đầu giữa Liên Xô, Cuba với Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 1962 trong thời Chiến tranh lạnh. Tháng 9 năm 1962, chính phủ Cuba và Liên Xô bắt đầu bí mật xây dựng các căn cứ trên đất Cuba để khai triển một số tên lửa đạn đạo hạt nhân tầm trung có khả năng đánh trúng đa số các mục tiêu trên Hoa Kỳ lục địa. Hành động này xảy ra sau sự kiện Hoa Kỳ triển khai tên lửa Thor IRBM trên đất Vương quốc Anh vào năm 1958 và tên lửa Jupiter IRBM trên đất Ý và Thổ Nhĩ Kỳ năm 1961; tổng cộng có hơn 100 tên lửa do Hoa Kỳ chế tạo có khả năng đánh trúng Matxcova bằng đầu đạn hạt nhân. Ngày 14 tháng 10 năm 1962, phi cơ do thám U-2 của Hoa Kỳ chụp được những bằng chứng không ảnh cho thấy các căn cứ tên lửa của Liên Xô đang được xây dựng tại Cuba.
Cuộc khủng hoảng này có cấp bậc ngang tầm với cuộc phong tỏa Berlin vì đây là một trong các vụ đối đầu chính của Chiến tranh lạnh và thường được xem là khoảnh khắc mà Chiến tranh lạnh tiến gần nhất để biến thành một cuộc xung đột hạt nhân.[1] Hoa Kỳ đã xem xét đến việc tấn công Cuba bằng không lực và hải lực và tiến hành “cách ly” Cuba bằng quân sự. Hoa Kỳ thông báo rằng họ sẽ không cho phép vũ khí tấn công được gởi đến Cuba và đòi hỏi rằng Liên Xô phải tháo bỏ các căn cứ tên lửa đang được xây hay đã xây dựng xong tại Cuba và dẹp bỏ hết tất cả các loại vũ khí tấn công. Chính phủ của Tổng thống Kennedy hy vọng mỏng manh rằng Điện Kremlin sẽ đồng ý với những đòi hỏi của họ và chờ đợi một cuộc đối đầu quân sự. Về phía Liên Xô, Nikita Khrushchev viết một lá thư gửi cho Kennedy trong đó nói rằng việc Kennedy ra lệnh phong tỏa “giao thông trong vùng biển và không phận quốc tế là một hành động gây hấn đưa con người vào vực thẳm của một cuộc chiến tranh bằng tên lửa hạt nhân toàn cầu.” Fidel Castro khuyến khích Khrushchev mở một cuộc tấn công hạt nhân đánh trước phủ đầu chống Hoa Kỳ.
Ngoài mặt, cả Xô Viết lẫn Hoa Kỳ đều tỏ ra không nhân nhượng trước những đòi hỏi công khai của nhau, nhưng tại các cuộc tiếp xúc bí mật sau hậu trường họ đưa ra một đề nghị giải quyết cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng kết thúc vào ngày 28 tháng 10 năm 1962 khi Tổng thống John F. Kennedy và Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc U Thant đạt đến một thỏa thuận với vị lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev trong việc Liên Xô tháo bỏ các vũ khí tấn công và đưa chúng trở về nước mình dưới giám sát kiểm tra của Liên Hiệp Quốc để đổi lấy việc Hoa Kỳ đồng ý sẽ không bao giờ xâm chiếm Cuba và thỏa thuận ngầm là sẽ rút các tên lửa Jupiter hạt nhân của Mỹ khỏi Thổ Nhĩ Kỳ, những tên lửa này được Mỹ lắp đặt vào năm 1961 tại Ý và Thổ Nhĩ Kỳ.[2] Liên Xô tháo bỏ các hệ thống tên lửa và các trang bị hỗ trợ, đưa chúng xuống tám chiếc tàu Liên Xô từ ngày 5-9 tháng 11. Một tháng sau đó, ngày 5 và 6 tháng 12, các oanh tạc cơ Liên Xô Il-28 được đưa xuống ba chiếc tàu Liên Xô và đưa trở về Liên Xô. Cuộc phong tỏa chính thức kết thúc lúc 18h45 giờ miền Đông Hoa Kỳ ngày 20 tháng 11 năm 1962. Một phần trong thỏa thuận bí mật là tất cả các tên lửa đạn đạo PGM-17 Thor và PGM-19 Jupiter đã được khai triển ở châu Âu phải bị tháo dỡ trước tháng 9 năm 1963.
Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã khai sinh ra thỏa hiệp đường dây nóng (hotline agreement) và đường dây nóng Moscow-Washington, một đường dây thông tin liên lạc trực tiếp giữa Matxcova và Washington, D.C.
Mục lục
Hành động trước đó của Hoa Kỳ
Người Mỹ lo sợ trước sự bành trướng của Liên Xô theo chủ nghĩa Stalin nhưng đối với một quốc gia châu Mỹ Latin công khai liên minh với Liên Xô được xem là không thể chấp nhận được đối với Mỹ khi Liên Xô và Mỹ trở thành kẻ thù từ khi kết thúc Đệ nhị Thế chiến vào năm 1945. Một sự liên hệ như thế cũng sẽ thách thức trực tiếp đến Học thuyết Monroe, một chính sách của Hoa Kỳ với lập trường cho rằng các cường quốc châu Âu không được can thiệp vào các quốc gia nằm trong Tây Bán cầu.
Hoa Kỳ bị mất mặt công khai sau vụ người Cuba lưu vong tiến hành xâm nhập Cuba thất bại vào tháng 4 năm 1961. Vụ xâm nhập của những người Cuba lưu vong này đã được Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ dưới quyền của Tổng thống John F. Kennedy hỗ trợ. Sau vụ đó, cựu Tổng thống Eisenhower có bảo với Kennedy rằng “Sự thất bại của Sự kiện Vịnh Con Lợn sẽ khuyến khích người Xô Viết làm thêm cái gì đó mà chắc chắn họ sẽ không làm nếu như vụ đó không xảy ra.”[3]:10 Cuộc xâm nhập Cuba chỉ được Hoa Kỳ hỗ trợ nữa chừng nên đã để cho nhà lãnh đạo Xô Viết, Nikita Khrushchev và các cố vấn của ông tin tưởng rằng Kennedy là người hay lưỡng lự như một cố vấn Xô Viết có viết rằng “quá trẻ, thông minh, chưa chuẩn bị tốt để tạo quyết định trong các tình huống khủng hoảng… quá thông minh và quá yếu đuối.”[3] Các hoạt động bí mật của Hoa Kỳ tiếp tục năm 1961 với Chiến dịch Mongoose không thành công.[4] Tháng 2 năm 1962, Hoa Kỳ công khai mở cấm vận kinh tế chống Cuba.[5]
Hoa Kỳ lại xem xét đến hành động bí mật và bắt đầu cài các sĩ quan bán quân sự của CIA từ Phân bộ Hoạt động Đặc biệt vào Cuba.[6] Tướng không quân Curtis LeMay đệ trình một kế hoạch ném bom trước khi xâm nhập lên cho Tổng thống Kennedy vào tháng 9 trong khi đó các chuyến bay gián điệp và sự gây hấn quân sự nhỏ của các lực lượng Hoa Kỳ trên Căn cứ Hải quân Vịnh Guantanamo là đề tài phản đối ngoại giao liên tục của Cuba chống chính phủ Hoa Kỳ.
Đầu tháng 8 năm 1962, Hoa Kỳ nghi ngờ người Xô Viết đang xây dựng các cơ sở tên lửa tại Cuba. Trong suốt tháng đó, các cơ quan tình báo của họ thu thập thông tin về việc các nhân viên quan sát mặt đất phát hiện ra các chiến đấu cơ MiG-21 và các oanh tạc cơ hạng nhẹ Il-28 do Nga chế tạo. Các phi cơ do thám U-2 tìm thấy các nơi đặt tên lửa đất đối không S-75 Dvina (NATO đặt tên là SA-2) tại 8 vị trí khác nhau. Ngày 31 tháng 8, Thượng nghị sĩ Kenneth B. Keating, có lẽ nhận được thông tin từ những người Cuba lưu vong ở Florida,[7] cảnh báo trong phòng họp Thượng viện Hoa Kỳ rằng Liên Xô có thể đang xây dựng một căn cứ tên lửa tại Cuba.[8] Giám đốc CIA John A. McCone trở nên nghi ngờ hơn vì có nhiều báo cáo như thế. Ngày 10 tháng 8, ông viết một bản ghi nhớ gởi đến Tổng thống Kennedy trong đó ông đoán rằng người Xô Viết đang chuẩn bị đưa tên lửa đạn đạo vào Cuba.[7]
Cán cân quyền lực
Khi John F. Kennedy tranh cử tổng thống vào năm 1960, một trong những vấn đề then chốt tranh cử của ông là khoảng cách về số lượng tên lửa được cho là thiên lệch theo hướng người Nga dẫn đầu. Trong thực tế thì Hoa Kỳ dẫn đầu Liên Xô. Năm 1961, Xô Viết chỉ có bốn tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM). Đến tháng 10 năm 1962, họ có thể có chừng vài chục tên lửa như vậy mặc dù một số ước tính của giới tình báo cho rằng con số đó có thể lên đến 75.[7] Về phía Hoa Kỳ, họ có đến 170 tên lửa đạn đạo liên lục địa và nhanh chóng chế tạo thêm. Hoa Kỳ cũng có 8 tàu ngầm tên lửa đạn đạo lớp George Washington và lớp Ethan Allen, mỗi chiếc có khả năng phóng 16 tên lửa Polaris có tầm xa 2.000 cây số (1.400 dặm Anh). Khrushchev vô tình làm gia tăng thêm nhận thức về sự cách biệt số tên lửa khi ông lớn tiếng khoe khoang rằng Liên Xô đang chế tạo tên lửa “giống như làm xúc xích” nhưng số lượng và khả năng của chúng thì còn xa mới là sự thật. Tuy nhiên, Liên Xô có một số lượng lớn tên lửa đạn đạo tầm trung, khoảng 700.[7] Trong hồi ký của ông, xuất bản vào năm 1970, Khrushchev viết, “Ngoài việc bảo vệ Cuba, các tên lửa của chúng ta sẽ cân bằng cái mà phương Tây thích gọi là “cán cân quyền lực””[7]
Chiến lược của Khối phía Đông
Nhà lãnh đạo Xô Viết Nikita Khrushchev vào năm 1962 đã đưa ra ý tưởng đối phó lại sự dẫn đầu ngày càng gia tăng của Hoa Kỳ trong việc phát triển và triển khai các tên lửa chiến lược bằng cách đặt các tên lửa hạt nhân tầm trung của chính mình tại Cuba. Phản ứng của Khrushchev một phần là do việc Hoa Kỳ đặt các tên lửa đạn đạo tầm trung PGM-19 Jupiter trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng 4 năm 1962.[7]
Từ lúc mới bắt đầu, hoạt động của Xô Viết bao gồm hành động đánh lừa và chối cãi tinh vi, được biết tại Nga là Maskirovka.[9] Tất cả các kế hoạch và chuẩn bị để chuyên chở và khai triển các tên lửa được tiến hành một cách tối mật, chỉ có một số rất ít người được thông báo về tính chất thật sự của sứ mệnh này. Thậm chí các binh sĩ được giao nhiệm vụ cũng bị đánh lạc hướng. Họ được cho biết rằng họ sẽ phải đi đến một vùng lạnh giá và được trang bị với các giày trượt tuyết, và các thứ trang bị mùa đông khác.[9] Mật danh mà Xô Viết đặt, Chiến dịch Anadyr, cũng là tên của một con sông chảy vào trong Biển Bering và tên của thủ phủ vùng Chukotsky, một căn cứ oanh tạc cơ ở vùng viễn đông Nga. Tất cả những chi tiết này nhằm một mục đích là che giấu kế hoạch, không cho cả người trong và ngoài Xô Viết biết.[9]
Đầu năm 1962, một nhóm chuyên gia xây dựng hệ thống tên lửa và quân sự của Liên Xô tháp tùng một phái đoàn nông nghiệp đến thủ đô La Habana. Họ có cuộc họp với nhà lãnh đạo Cuba, Fidel Castro. Giới lãnh đạo Cuba tin tưởng mạnh mẽ rằng Hoa Kỳ sẽ xâm chiếm Cuba lần nữa nên họ hăng hái chấp thuận ý tưởng lắp đặt các tên lửa hạt nhân tại Cuba. Các chuyên gia xây dựng hệ thống tên lửa núp dưới bóng là “những người điều khiển máy móc cơ giới”, “các chuyên gia thủy lợi” và “các chuyên gia nông nghiệp” bắt đầu đến Cuba vào tháng 7.[9] Nguyên soái Sergei Biryuzov, tư lệnh các lực lượng tên lửa Xô Viết, dẫn một nhóm chuyên gia thị sát đến Cuba. Ông nói với Khrushchev rằng các tên lửa này sẽ được che đậy và ngụy trang bên những cây cọ.[7]
Giới lãnh đạo Cuba càng thêm tức giận khi Quốc hội Hoa Kỳ chấp thuận Giải pháp Quốc hội Hoa Kỳ số 230 vào tháng 9, cho phép sử dụng lực lượng quân sự tại Cuba nếu như lợi ích của Hoa Kỳ bị đe dọa.[10] Cùng ngày hôm đó, Hoa Kỳ thông báo một cuộc tập trận quân sự trong vùng biển Caribe mang tên PHIBRIGLEX-62. Cuba lên án cuộc tập trận này như một sự cố ý khiêu khích và là bằng chứng cho thấy Hoa Kỳ có kế hoạch xâm chiếm Cuba.[10][11]
Khrushchev và Castro đồng ý đặt các tên lửa hạt nhân chiến lược bí mật trên lãnh thổ Cuba. Giống như Castro, Khrushchev cảm thấy rằng việc Hoa Kỳ xâm chiếm Cuba là hiển nhiên, và rằng việc mất Cuba sẽ rất tai hại đối với phe cộng sản, đặc biệt là tại châu Mỹ Latin. Ông nói rằng ông muốn đối đầu với người Mỹ “hơn là lời nói…sự đáp trả hợp lý là tên lửa.”[12]:29 Người Xô Viết tiếp tục duy trì kế hoạch một cách bí mật, viết tay chi tiết kế hoạch của họ. Kế hoạch được Rodion Malinovsky chấp thuận ngày 4 tháng 7 và được Khrushchev chấp thuận ngày 7 tháng 7.
Dựa vào nhận định của họ cho rằng Tổng thống Hoa Kỳ Kennedy là một người thiếu tự tin trong suốt Sự kiện Vịnh Con Lợn nên giới lãnh đạo Xô Viết tin rằng Kennedy sẽ tránh đối đầu với Liên Xô và chấp nhận các tên lửa này như là một “sự việc đã rồi”.[3]:1 Ngày 11 tháng 9, Liên Xô công khai đưa ra cảnh cáo rằng một cuộc tấn công của Hoa Kỳ vào Cuba hay vào bất cứ tàu Xô Viết nào mang hàng tiếp tế đến hòn đảo này sẽ đồng nghĩa với chiến tranh.[8] Người Xô Viết tiếp tục kế hoạch bí mật của mình và ngụy tạo hành động của họ tại Cuba. Họ liên tiếp chối cãi rằng vũ khí đang được đưa vào Cuba là loại vũ khí có bản chất tấn công. Ngày 7 tháng 9, Đại xứ Xô Viết Anatoly Dobrynin bảo đảm với Đại xứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Adlai Stevenson rằng Liên Xô chỉ đang cung cấp các loại vũ khí phòng thủ cho Cuba. Ngày 11 tháng 9, Hãng thông tấn Liên Xô TASS thông báo rằng Liên Xô không cần thiết hay có ý định đưa tên lửa hạt nhân tấn công vào Cuba. Ngày 13 tháng 10, Dobrynin bị cựu Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Chester Bowles chất vấn rằng có phải Liên Xô đang đưa vũ khí tấn công vào Cuba. Dobrynin chối cãi là không có bất cứ kế hoạch nào như thế.[10] Và rồi ngày 17 tháng 10, một lần nữa nhân viên sứ quán Liên Xô Georgy Bolshakov mang một thông điệp cá nhân từ Khrushchev đến cho Tổng thống Kennedy. Bức thông điệp này bảo đảm với tổng thống Hoa Kỳ rằng “dưới bất cứ tình hình nào đi nữa thì cũng không có chuyện các tên lửa địa đối địa sẽ được đưa vào Cuba.[10]:494
Chuyến hàng đầu tiên có các tên lửa R-12 đến vào đêm 8 tháng 9, theo sau là chuyến hàng thứ hai vào ngày 16 tháng 9. Tên lửa R-12 là loại tên lửa đạn đạo tầm trung đầu tiên của Liên Xô có thể sử dụng được, loại đầu tiên được sản xuất hàng loạt, và là loại đầu tiên có trang bị 1 đầu đạn nhiệt hạch tâm do Liên Xô sản xuất. Đây là loại tên lửa nhiên liệu đẩy có thể cất giữ được trong kho, có thể di chuyển trên đường, được phóng đi từ mặt đất, có một tầng duy nhất và có khả năng mang vũ khí hạt nhân[13] Liên Xô đang xây 9 vị trí – 6 cho các tên lửa tần trung R-12 (NATO đặt tên là SS-4 Sandal) có tầm hoạt động hữu hiệu là 2.000 km và 3 vị trí cho tên lửa đạn đạo R-14 (NATO đặt tên là SS-5 Skean) có tầm tối đa 4.500 km.[14]
Lập trường của Cuba
Vào ngày thứ hai, 7 tháng 10, Chủ tịch Cuba, Osvaldo Dorticós nói trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc như sau: “Nếu… chúng tôi bị tấn công, chúng tôi sẽ tự vệ. Tôi xin lập lại, chúng tôi có đủ các phương tiện để tự vệ; chúng tôi thật sự có loại vũ khí thường thấy của chúng tôi, các loại vũ khí mà chúng tôi đã không muốn có và cũng như không muốn triển khai.”
Tên lửa bị phát hiện
Các tên lửa này cho phép Liên Xô đặt gần như toàn bộ Hoa Kỳ lục địa vào trong tầm mục tiêu hữu hiệu của mình. Kho vũ khí được hoạt định gồm có 40 giàn phóng tên lửa. Dân chúng Cuba dễ dàng nhìn thấy các tên lửa này được đưa đến và khai triển. Có hàng trăm tin đồn lan truyền đến thành phố Miami của Hoa Kỳ. Giới tình báo Hoa Kỳ nhận được vô số báo cáo về các tên lửa này. Nhiều trong số đó rất là mù mờ và thậm chí là buồn cười. Đa số các báo cáo này bị bỏ qua vì được cho rằng đó chỉ là những tên lửa phòng thủ. Duy nhất có 5 báo cáo là làm phiền các nhà phân tích. Các báo cáo này diễn tả các xe tải to lớn chạy ngang qua các thị trấn của Cuba vào ban đêm mang theo các vật thể hình trụ rất dài và được che phủ với vải lều. Các xe tải này không thể rẽ trái phải dễ dàng trong thị trấn. Chúng phải lùi sang trái sang phải, chạy tới…mỗi khi phải rẽ trái hay phải. Các tên lửa phòng thủ có thể rẽ trái phải dễ dàng. Các báo cáo này không dễ dàng gì bị bỏ qua.[15]
Các chuyến bay của phi cơ U-2 tìm thấy tên lửa
Mặc dù ngày càng có bằng chứng về một sự gia tăng hoạt động quân sự tại Cuba nhưng không có chuyến bay nào do thám U-2 nào được tiến hành trên bầu trời Cuba từ ngày 5 tháng 9 đến ngày 14 tháng 10. Vấn đề đầu tiên mà khiến cho Hoa Kỳ ngưng các chuyến bay do thám là sự việc xảy ra vào ngày 30 tháng 8 – một chuyến bay do thám U-2 thuộc Bộ tư lệnh Không quân Chiến lược Hoa Kỳ bay lạc vào trong không phận đảo Sakhalin trong vùng Viễn Đông Nga. Người Xô Viết đưa ra phản đối về sự kiện này và Hoa Kỳ buộc phải đưa ra lời xin lỗi. Chín ngày sau, một phi cơ U-2 của Đài Loan làm chủ bị mất tích trên không phận phía tây của Trung Quốc, có lẽ là bị trúng một tên lửa SAM. Giới chức Hoa Kỳ lo ngại rằng một trong các tên lửa SAM của Cuba hay Liên Xô có thể sẽ bắn hạ một phi cơ U-2 của CIA và sẽ tạo ra một sự kiện quốc tế khác. Cuối tháng 9, phi cơ thám thính của Hải quân Hoa Kỳ chụp được hình ảnh tàu Kasimov của Liên Xô và hai kiện hàng lớn trên sàn tàu có kích cỡ và hình thù của các oanh tạc cơ hạng nhẹ Il-28.[7]
Ngày 12 tháng 10, chính phủ Hoa Kỳ quyết định thuyên chuyển các sứ mệnh do thám bằng phi cơ U-2 sang cho Không quân Hoa Kỳ. Trong trường hợp, một phi cơ U-2 bị bắn rơi thì chính phủ nghĩ rằng chuyện chuyến bay của Không quân Hoa Kỳ sẽ dễ dàng giải thích hơn là các chuyến bay do CIA thực hiện. Cũng có thêm bằng chứng cho thấy Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ và Không quân Hoa Kỳ vận động hành lang để được lãnh trách nhiệm thực hiện các chuyến bay do thám trên Cuba.[7] Khi các sứ mệnh do thám được tái cho phép vào ngày 8 tháng 10 thì thời tiết đã không cho phép các chuyến bay thực hiện. Lần đầu tiên Hoa Kỳ có được bằng chứng hình ảnh về các tên lửa là vào ngày 14 tháng 10 khi phi cơ U-2, do thiếu tá Richard Heyser lái, chụp được 928 tấm hình. Những tấm hình này cho thấy hình ảnh của một vị trí xây dựng hệ thống tên lửa SS-4 ở San Cristóbal, tỉnh Pinar del Río, nằm ở phía tây Cuba.[16]
Tổng thống Hoa Kỳ được thông báo
Thứ tư ngày 17 tháng 10, Trung tâm Tình báo Hình ảnh Quốc gia của CIA duyệt xem các tấm hình của U-2 và nhận dạng ra các vật thể mà họ cho rằng là những tên lửa đạn đạo tầm trung. Chiều hôm đó, CIA thông báo đến Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và lúc 8:30pm giờ miền Đông Hoa Kỳ thì báo cáo đến Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, McGeorge Bundy. Cố vấn An ninh Hoa Kỳ chọn giải pháp chờ đợi đến sáng mới thông báo cho tổng thống biết. Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert S. McNamara được báo cáo vắn tắc lúc nữa đêm. Lúc 8:30 a.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ sáng thứ năm, Cố vấn An ninh Bundy họp với Tổng thống Kennedy và cho tổng thống xem các tấm hình và báo cáo ngắn ngủi với tổng thống về các phân tích hình ảnh của CIA.[17] Lúc 6:30 p.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, Tổng thống Kennedy triệu tập một cuộc họp gồm 9 thành viên trong Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ cùng với 5 cố vấn then chốt khác[18] trong một nhóm mà tổng thống chính thức đặt tên là Ủy ban Hành pháp Hội đồng An ninh Quốc gia sau ngày 22 tháng 10 bằng một “Bản ghi nhớ Hành động An ninh Quốc gia số 196”.[19]
Phản ứng được xem xét
Hoa Kỳ không có dự tính gì lúc đó vì giới tình báo Hoa Kỳ luôn tin tưởng rằng Liên Xô sẽ chẳng bao giờ lắp đặt các tên lửa hạt nhân tại Cuba. Ủy ban Hành pháp Hội đồng An ninh Quốc gia nhanh chóng thảo luận 5 phương sách khả dĩ:[20]
- Không làm gì cả.
- Dùng áp lực ngoại giao để buộc Liên Xô tháo bỏ các tên lửa.
- Một cuộc không kích nhắm vào các tên lửa.
- Một cuộc xâm chiếm toàn diện bằng quân sự.
- Phong tỏa vùng biển Cuba. Được tái định nghĩa như một cuộc “cách ly” (ý nghĩa giống như cách ly bệnh nhân) có chọn lựa hơn.
Bộ Tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ nhất trí đồng ý rằng một cuộc tấn công xâm chiếm toàn diện là giải pháp duy nhất. Họ tin rằng Liên Xô sẽ không tìm cách ngăn chặn Hoa Kỳ chiếm Cuba. Tuy nhiên Tổng thống Kennedy ngờ vực chuyện này.
“ | Họ, không hơn chúng ta, có thể để yên những chuyện như thế này xảy ra mà không làm gì. Họ không thể, sau tất cả những lời tuyên bố của họ, cho phép chúng ta loại trừ các tên lửa của họ, giết chết nhiều người Nga, và rồi chẳng làm gì. Nếu họ không có hành động gì ở Cuba thì chắc chắn họ sẽ làm ở Berlin.[21] | ” |
Tổng thống Kennedy kết luận rằng sự việc Cuba sẽ ra hiệu cho Liên Xô tái khởi động “một ranh giới rõ ràng” để chiếm đóng Berlin. Kennedy cũng tin rằng các đồng minh của Hoa Kỳ sẽ nghĩ Hoa Kỳ như “những anh cao bồi hiếu chiến hung hăng” đã để mất Berlin vì không thể giải quyết tình hình Cuba một cách hòa bình.[22]:332
Ủy ban Hành pháp Hội đồng An ninh Quốc gia lại họp bàn về ảnh hưởng đối với cán cân quyền lực chiến lược, cả về mặt chính trị và quân sự. Bộ Tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ tin rằng các tên lửa sẽ chuyển đổi cán cân quân sự trầm trọng, nhưng Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara không đồng ý như vậy. Ông tin rằng các tên lửa này sẽ không có ảnh hưởng đến cán cân chiến lược gì cả. Thêm bốn mươi (tên lửa), ông lý luận rằng, sẽ làm thay đổi một ít khác biệt đối với toàn bộ cán cân chiến lược. Hoa Kỳ lúc đó đã có khoảng chừng 5.000 đầu đạn chiến lược,[23]:261 trong khi Liên Xô chỉ có khoảng 300. Ông kết luận rằng việc Liên Xô có 340 đầu đạn cũng sẽ không làm thay đổi gì nhiều đối với cán cân chiến lược. Năm 1990 ông lập lại rằng “điều đó không tạo ra gì khác biệt…Cán cân quân sự vẫn không thay đổi. Lúc đó tôi đã không tin về điều đó, và bây giờ tôi vẫn không tin điều đó.”[24]
Tuy nhiên, Ủy ban Hành pháp Hội đồng An ninh Quốc gia đồng ý rằng các tên lửa sẽ ảnh hưởng đến cán cân chính trị. Thứ nhất, Tổng thống Kennedy đã hứa rõ ràng với dân chúng Mỹ non 1 tháng trước cuộc khủng hoảng rằng “nếu Cuba thủ đắc một khả năng tiến hành các hành động tấn công chống Hoa Kỳ…Hoa Kỳ sẽ hành động.”[25]:674-681 Thứ hai, uy tín của Hoa Kỳ đối với các quốc gia đồng minh và đối với nhân dân Mỹ sẽ bị tổn thương nếu Hoa Kỳ cho phép Liên Xô lộ diện sửa đổi cán cân chiến thuật bằng cách đặt các tên lửa trên lãnh thổ Cuba. Tổng thống Kennedy giải thích sau cuộc khủng hoảng rằng “về mặt chính trị, nó đã làm thay đổi cán cân quyền lực. Nó có vẻ là như thế và cái vẽ này góp phần tạo ra thực tế.”[26]:889-904
Thứ năm, ngày 18 tháng 10, Tổng thống Kennedy họp với Ngoại trưởng Liên Xô Andrei Gromyko, người tuyên bố rằng các vũ khí này chỉ là những vũ khí tự vệ. Không muốn làm lộ những gì ông biết, và không muốn gây hoang mang cho dân chúng Mỹ,[27] tổng thống không tiết lộ rằng ông đã biết về việc Liên Xô cho xây dựng các hệ thống tên lửa tại Cuba.[28]
Thứ sáu, ngày 19 tháng 10, các chuyến bay thường xuyên của phi cơ do thám U-2 đã trưng bày ra bốn nơi có hoạt động xây dựng hệ thống tên lửa. Như một phần của cuộc phong tỏa Cuba, Quân đội Hoa Kỳ được đặt trong tình trạng cảnh báo cao độ để thi hành lệnh phong tỏa và sẵn sàng xâm chiếm Cuba khi có lệnh. Sư đoàn Cơ giới số 1 Hoa Kỳ được đưa đến tiểu bang Georgia, và năm sư đoàn lục quân được báo động chuẩn bị hành động. Bộ tư lệnh Không quân Chiến lược (SAC) gởi các oanh tạc cơ hạng trung B-47 Stratojet có tầm hoạt động ngắn hơn đến các phi trường dân sự và ra lệnh cho các oanh tạc cơ hạng nặng B-52 Stratofortress cất cánh chờ đợi ở lên cao.[29]
Các kế hoạch hành quân
Hai kế hoạch hành quân đã được xem xét. Kế hoạch Hành quân số 316 có bối cảnh là một cuộc xâm chiếm Cuba toàn diện do các đơn vị Lục quân và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ thực hiện với sự hỗ trợ của Hải quân sau các vụ không kích của Không quân và Hải quân Hoa Kỳ. Tuy nhiên, các đơn vị lục quân tại Hoa Kỳ gặp phải vấn đề thiếu phương tiện tiếp vận và cơ giới trong khi đó Hải quân Hoa Kỳ không thể cung cấp đủ phương tiện tấn công đổ bộ để đưa một lực lượng tầm cỡ trung bình của Lục quân vào lãnh thổ Cuba. Kế hoạch Hành quân 312, chủ yếu là hoạt động của Không quân Hoa Kỳ và lực lượng hàng không mẫu hạm của Hải quân, được lập kế hoạch với đầy đủ tính năng linh hoạt để vô hiệu hóa từng giàn phóng tên lửa để cung cấp không yểm cho các lực lượng trên mặt đất của Kế hoạch Hành quân 316.[30]
Cách ly
![]() |
![]() Tổng thống Hoa Kỳ Kennedy đọc diễn văn trước quốc dân ngày 22 tháng 10 năm 1962 về sự tăng cường hoạt động quân sự tại Cuba
|
Trục trặc khi nghe tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn. |
Tổng thống Kennedy họp với các thành viên trong Ủy ban Hành pháp Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ và các cố vấn cao cấp khác suốt ngày chủ nhật 21 tháng 10 để xem xét hai giải pháp được chọn lựa còn lại: một là không kích thẳng vào các căn cứ tên lửa tại Cuba hay phong tỏa bằng hải quân chống Cuba.[28] Một cuộc xâm chiếm toàn diện không phải là giải pháp lựa chọn đầu tiên của chính phủ Hoa Kỳ, nhưng phải làm một cái gì đó. Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara ủng hộ cuộc phong tỏa bằng hải quân như là một hành động quân sự có giới hạn và mạnh mẽ chứng tỏ rằng Hoa Kỳ đang nắm quyền kiểm soát. Theo luật quốc tế, một cuộc phong tỏa là một hành động chiến tranh nhưng chính phủ Kennedy không nghĩ rằng Liên Xô sẽ bị khiêu khích để tấn công chỉ vì một cuộc phong tỏa.
Đô đốc George Whelan Anderson, Jr., Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ viết một bài lý luận giúp Tổng thống Kennedy phân biệt giữa một cuộc cách ly vũ khí tấn công và một cuộc phong tỏa tất cả mọi thứ hàng hóa. Đô đốc cho biết rằng một cuộc phong tỏa cổ điển không phải là chủ ý ban đầu. Vì nó xảy ra trong vùng biển quốc tế nên Tổng thống Kennedy xin sự chấp thuận của Tổ chức các Quốc gia Châu Mỹ cho hành động quân sự theo các điều khoản phòng vệ bán cầu của Hiệp ước Rio.
“ | Sự tham gia của các quốc gia châu Mỹ Latin trong cuộc cách ly hiện nay gồm có hai khu trục hạm của Argentine, báo cáo trực tiếp với Tư lệnh Hoa Kỳ đặc trách Nam Đại Tây Dương (gọi tắt là COMSOLANT) đóng tại Trinidad ngày 9 tháng 11. Một tàu ngầm của Argentine và một tiểu đoàn Thủy quân lục chiến sẵn sàng được vận chuyển đến nơi tác chiến khi cần thiết. Ngoài ra, hai khu trục hạm của Venezuela và một tàu ngầm đã báo cáo với Tư lệnh Hoa Kỳ đặc trách Nam Đại Tây Dương, sẵn sàng tiến ra biển vào ngày 2 tháng 11. Chính phủ Trinidad và Tobago cho phép các tàu chiến của các quốc gia thuộc Tổ chức các Quốc gia Châu Mỹ sử dụng Căn cứ hải quân Chaguaramas trong suốt thời gian có cuộc cách ly. Cộng hòa Dominican chuẩn bị sẵn một tàu hộ tống. Colombia theo tin báo cáo đã sẵn sàng cung cấp các đơn vị và đã gởi các sĩ quan quân sự đến Hoa Kỳ để thảo luận việc giúp đỡ. Không quân Argentine không chính thức hứa cung cấp ba phi cơ SA-16 ngoài những lực lượng đã được đưa đến hoạt động trong vùng cách ly.[31] | ” |
“ | Ban đầu hành động này gồm có một cuộc phong tỏa bằng hải quân chống các loại vũ khí tấn công theo các điều khoản khung của Tổ chức các Quốc gia Châu Mỹ và Hiệp ước Rio. Một cuộc phong tỏa như thế có thể được mở rộng bao gồm tất cả các loại hàng hóa và cả hàng không. Hành động mở rộng này sẽ được tính đến bằng việc theo dõi tình hình ở Cuba. Kịch bản của Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ được theo dõi sát để tiến hành các bước sau đó của cuộc cách ly. | ” |
Ngày 19 tháng 10, Ủy ban Hành pháp Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ thành lập các nhóm hành động riêng biệt để xem xét các chọn lựa phong tỏa và không kích, và đến chiều hôm đó đa số ủng hộ Ủy ban Hành chính Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ chuyển sang lựa chọn phong tỏa.
Lúc 3:00 p.m. (giờ miền Đông Hoa Kỳ) trưa thứ hai ngày 22 tháng 10, Tổng thống Kennedy chính thức thành lập Ủy ban Hành chính (EXCOMM) bằng Bản ghi nhớ Hành động An ninh Quốc gia số 196. Lúc 5:00 p.m., tổng thống họp với các nhà lãnh đạo Quốc hội Hoa Kỳ luôn lên tiếng chống đối một cuộc phong tỏa và đòi hỏi một biện pháp phản ứng mạnh mẽ hơn. Tại Moscow, Đại xứ Mỹ Kohler thông báo ngắn ngủi với Chủ tịch Liên Xô Khrushchev về vụ phong tỏa đang chờ lệnh và bài diễn văn của Tổng thống Kennedy gởi đến quốc dân Hoa Kỳ. Các đại xứ khắp thế giới chuyển thông báo đến các lãnh đạo ngoài Khối phía Đông. Trước khi đọc diễn văn, các phái đoàn của Mỹ họp với Thủ tướng Canada John Diefenbaker, Thủ tướng Anh Harold MacMillan, Thủ tướng Tây Đức Konrad Adenauer, và Tổng thống Pháp Charles de Gaulle để giải trình ngắn gũi với họ các tin tình báo của Hoa Kỳ và phản ứng đã được đề nghị. Tất cả đều ủng hộ lập trường của Hoa Kỳ.[32]
Chiều tối thứ hai ngày 22 tháng 10 lúc 7:00 p.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, Tổng thống Kennedy đọc diễn văn trên truyền hình được trình chiếu trên toàn quốc để thông báo việc khám phá ra các tên lửa tại Cuba.
“ | Đây là chính sách của quốc gia này xem bất cứ tên lửa hạt nhân nào phóng đi từ Cuba để chống bất cứ quốc gia nào trong Tây Bán cầu đều là một cuộc tấn công vào Hoa Kỳ và vì thế phải bị phản ứng trả đũa toàn diện nhắm vào Liên Xô.[33] | ” |
Tổng thống Kennedy diễn tả kế hoạch của chính phủ Hoa Kỳ như sau:
“ | Để chấm dứt sự tăng cường sức mạnh tấn công này, một cuộc cách ly có giới hạn nhằm vào các trang bị quân sự tấn công đang được đưa đến Cuba hiện đang được khởi sự. Tất cả tàu bè các loại đi đến Cuba từ bất cứ quốc gia nào hải cảng nào, nếu bị tìm thấy có chứa vũ khí tấn công, sẽ bị bắt buộc quay đầu trở lại. Việc cách ly này sẽ được mở rộng nếu cần đối với các loại hàng hóa và tàu bè vận chuyển khác. Tuy nhiên hiện nay chúng ta không phải ngăn cản những hàng nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống như người Liên Xô đã tìm cách làm vậy trong cuộc phong tỏa Berlin năm 1948.[33] | ” |
Trong khi bài diễn văn được đọc thì một sắc lệnh được đưa đến các lực lượng Mỹ khắp thế giới, đặt họ dưới tình trạng báo động sẵn sàng chiến đấu cấp 3 trên biểu đồ báo động có mức độ tối đa là 5.
Khủng hoảng sâu
Ngày thứ ba 23 tháng 10 lúc 11:24 a.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, một bức điện tín được George Ball thảo, được gởi đến Đại sứ Hoa Kỳ tại Thổ Nhĩ Kỳ và Đại sứ Hoa Kỳ tại NATO thông báo với họ rằng chính phủ đang xem xét một lời đề nghị tháo bỏ cái mà Hoa Kỳ biết rõ là những tên lửa gần như phế thải khỏi Ý và Thổ Nhĩ Kỳ để đổi lại việc Liên Xô rút khỏi Cuba. Các giới chức Thổ Nhĩ Kỳ đáp rằng họ sẽ “bực bội sâu sắc” về bất cứ sự trao đổi nào đối với các tên lửa của Hoa Kỳ hiện diện trên lãnh thổ của họ.[34] Hai ngày sau, vào buổi sáng thứ năm ngày 25 tháng 10, nhà báo Walter Lippman đề nghị tương tự trên trang xã luận của mình. Castro tái xác nhận quyền tự vệ của Cuba và nói rằng tất cả các vũ khí này là vũ khí tự vệ và sẽ không cho phép bất cứ một cuộc thanh tra nào.[8]
Phản ứng của quốc tế
Bài diễn văn của Tổng thống Kennedy không mấy được người ta ưa thích tại Vương quốc Anh. Ngày hôm sau, báo chí Anh nhắc lại những hành động sai trái của CIA trước đây và ngờ vực rằng có sự hiện hữu các căn cứ của Liên Xô tại Cuba. Họ cho rằng hành động của Tổng thống Kennedy có thể là liên quan đến việc tái tranh cử của ông.[35]
Hai ngày sau khi Kennedy đọc bài diễn văn, tờ Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc thông báo rằng “650.000.000 người Trung Hoa, nam và nữ sát cánh cùng nhân dân Cuba”.[36]
Tại Tây Đức, báo chí ủng hộ phản ứng của Hoa Kỳ. Đây là phản ứng trái ngược của báo chí Tây Đức đối với những hành động quỳ gối yếu đuối của Mỹ trong vùng suốt những tháng trước đó. Họ cũng tỏ rõ một nỗi lo sợ rằng Liên Xô có thể sẽ trả đũa tại Berlin.[35] Tại Pháp vào ngày 23 tháng 10, cuộc khủng hoảng đã chiếm trọn trang đầu của tất cả các nhật báo. Ngày hôm sau, một bài xã luật đăng trên tờ Le Monde tỏ vẻ nghi ngờ về sự xác thực của những bằng chứng ảnh của CIA. Hai ngày sau đó, sau một chuyến viếng thăm của một viên chức cao cấp của CIA, họ mới chấp nhận tính xác thực của những tấm hình. Cũng tại Pháp, số báo ra ngày 29 tháng 10 của tờ Le Figaro, Raymond Aron viết bài ủng hộ phản ứng của Hoa Kỳ.[35]
Truyền thông Xô Viết
Vào lúc cuộc khủng hoảng tiếp diễn không ngừng, và vào đêm thứ tư ngày 24 tháng 10, thông tấn xã Liên Xô (TASS) phát đi bức điện tín của nhà lãnh đạo Liên Xô Khrushchev gởi Tổng thống Hoa Kỳ Kennedy, trong đó ông Khrushchev cảnh báo rằng “hành động ăn cướp” của Hoa Kỳ sẽ dẫn đến chiến tranh. Tuy nhiên vào lúc 9:24 p.m., theo sau bức điện tín vừa kể là một bức điện tín khác cũng từ ông Khrushchev gởi đến ông Kennedy mà được nhận vào lúc 10:52 p.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ trong đó Khrushchev nói rằng “Nếu ông bình tĩnh định lượng tình hình đang tiến triển và không phó thác cho cảm xúc thì ông sẽ hiểu rằng Liên Xô sẽ không thể không bác bỏ những yêu sách độc đoán của Hoa Kỳ.” và rằng Liên Xô xem cuộc phong tỏa như là một hành động gây hấn và tàu thuyền sẽ được chỉ thị làm ngơ cuộc phong tỏa này.
Hoa kỳ nâng mức báo động
Liên Hiệp Quốc kêu cầu một cuộc họp khẩn cấp Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc vào ngày thứ năm 25 tháng 10. Bằng giọng nói lớn tiếng đòi hỏi, Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Adlai Stevenson, chất vấn Đại xứ Liên Xô Valerian Zorin trong cuộc họp khẩn và yêu cầu ông thừa nhận về sự tồn tại của những tên lửa tại Cuba. Đại xứ Liên Xô Zorin từ chối trả lời. Ngày hôm sau lúc 10:00 p.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, Hoa Kỳ nâng mức báo động sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng thuộc Bộ tư lệnh Không quân Chiến lược Hoa Kỳ lên cấp 2 trên 5. Đây là lần duy nhất được xác nhận trong Lịch sử Hoa Kỳ, các oanh tạc cơ B-52 được phân tán đến nhiều vị trí khác nhau và sẵn sàng cất cánh với đầy đủ trang bị trong vòng 15 phút khi được lệnh.[37] Một phần tám trong số 1.436 oanh tạc cơ của Bộ tư lệnh Không quân Chiến lược Hoa Kỳ được cảnh báo trên không trung. Khoảng 145 tên lửa đạn đạo liên lục địa được cảnh báo sẵn sàng trong khi đó Bộ tư lệnh Phòng không Hoa Kỳ (ADC) tái triển khai 161 phi cơ đánh chặn mang vũ khí hạt nhân đến 16 phi trường khắp nơi trong vòng 9 giờ. Một phần ba trong số phi cơ đánh chặn được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu trong vòng 15 phút.[30]
“Đến ngày 22 tháng 10, Bộ tư lệnh Không quân Chiến thuật (TAC) có 511 khu trục cơ cộng các phi cơ tiếp liệu và phi cơ thám thính hỗ trợ được khai triển để đối phó với Cuba, được đặt trong tình trạng báo động trong vòng 1 giờ đồng hồ. Tuy nhiên, Bộ tư lệnh Không quân Chiến thuật và Cục Vận tải Không quân Hoa Kỳ gặp nhiều vấn đề. Việc tập trung các phi cơ quân sự tại Florida đã làm căng giản các đơn vị hỗ trợ và bộ tư lệnh; chúng ta đối mặt với sự thiếu nhân sự về thông tin liên lạc, trang bị vũ khí và an ninh; sự thiếu ủy quyền ban đầu cho phép tích trữ đạn dược thông thường dành cho chiến tranh đã buộc Bộ tư lệnh Không quân Chiến thuật phải cầu khẩn van xin; và việc thiếu các phương tiện không vận để hỗ trợ một cuộc thả trang bị lớn từ trên không xuống mà rất cần thiết để tổng động viên 24 phi đoàn trừ bị.” [30]
Sáng thứ năm ngày 25 tháng 10 lúc 1:45 a.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, Tổng thống Kennedy trả lời điện tín của nhà lãnh đạo Liên Xô Khrushchev rằng Hoa Kỳ buộc phải hành động sau khi nhận liên tiếp những lời bảo đảm rằng không có tên lửa tấn công đang được khai triển tại Cuba, và rằng khi những lời bảo đảm này được chứng minh là sai sự thật thì việc khai triển “cần phải có những sự đáp trả mà tôi đã thông báo trước đây… Tôi hy vọng chính phủ của ông sẽ có hành động cần thiết để làm cho tình hình trở về trạng thái ban đầu.”
Cách ly bị thách thức
Sáng thứ năm lúc 7:15 a.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, hàng không mẫu hạm chống tàu ngầm USS Essex và khu trục hạm USS Gearing tìm cách đón đầu chiếc Bucharest nhưng thất bại. Đơn giản là vì chiếc tàu không có chứa bất cứ vật liệu quân sự nào nên nó được cho qua khu vực bị phong tỏa. Chiều hôm đó lúc 5:43 p.m., tư lệnh đặc trách nỗ lực phong tỏa ra lệnh cho khu trục hạm USS Kennedy đón chặn và đưa người lên tàu hàng Marucla của Li Băng. Sự việc xảy ra vào ngày hôm sau, và chiếc Marucla được cho phép đi qua khu vực phong tỏa sau khi hàng hóa được kiểm tra.[38]
Lúc 5:00 p.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ tối thứ năm, William Clements thông báo rằng các tên lửa tại Cuba vẫn còn đang được tiến hành triển khai. Báo cáo này sau đó được CIA kiểm chứng cho thấy không có dấu hiệu chậm tiến độ khai triển nào cả. Để đáp lại, Tổng thống Kennedy ra Bản ghi nhớ Hành động An ninh số 199, cho phép gắn các vũ khí hạt nhân vào các phi cơ theo sự chỉ đạo của SACEUR (đây là bộ phận có nhiệm vụ tiến hành các cuộc không kích trước tiên vào Liên Xô). Suốt ngày hôm đó, Liên Xô đáp ứng lại việc phong tỏa bằng cách ra lệnh quay đầu 14 tàu của họ được tin là có chở các vũ khí tấn công.[37]
Khủng hoảng rơi vào bế tắc
Sáng thứ sáu hôm sau ngày 26 tháng 10, Tổng thống Kennedy thông báo với Ủy ban Hành pháp Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ rằng ông tin rằng chỉ có một cuộc xâm chiếm mới có thể tháo bỏ các tên lửa khỏi Cuba. Tuy nhiên, ông được thuyết phục chờ đợi thêm thời gian và tiếp tục bằng cả áp lực ngoại giao và quân sự. Ông đồng ý và ra lệnh thực hiện các chuyến bay ở độ thấp trên Cuba tăng từ 2 chuyến mỗi ngày lên đến một chuyến trong mỗi hai tiếng đồng hồ. Ông cũng ra lệnh một chương trình khởi sự để xây dựng một chính phủ dân sự mới tại Cuba nếu như một cuộc xâm chiếm được xúc tiến.
Vào thời điểm này, bề ngoài có vẻ cuộc khủng hoảng đang bị bế tắc. Liên Xô không có dấu hiệu gì cho thấy rằng họ sẽ lùi bước mà còn phát biểu nhiều lần theo hướng đối ngược. Hoa Kỳ không có lý do gì tin tưởng có sự nhường bước của Liên Xô và chuẩn bị trong giai đoạn đầu cho một cuộc xâm chiếm song song với một cuộc tấn công bằng hạt nhân vào Liên Xô trong trường hợp Liên Xô phản ứng bằng quân sự mà được tin là sẽ xảy ra.[39]
Các cuộc thảo luận bí mật
Lúc 1:00 p.m., giờ miền Đông Hoa Kỳ, thứ sáu ngày 26 tháng 10, thông tín viên tin tức John A. Scali của đài truyền hình ABC dùng cơm trưa với Aleksandr Fomin (là bí danh của Alexander Feklisov, một trưởng toán KGB tại Washington D.C.) theo lời mời của Fomin. Fomin nhận định “Chiến tranh dường như sắp bùng nổ” và yêu cầu thông tín viên Scali dùng mối liên hệ quen biết để nói chuyện với “những người bạn cao cấp” của ông ở Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ để xem Hoa Kỳ có thích thú đến giải pháp ngoại giao hay không. Formin đề nghị ngôn từ giao dịch sẽ gồm có một sự bảo đảm của Liên Xô về việc tháo bỏ các vũ khí dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc và rằng Fidel Castro sẽ công bố rằng ông sẽ không chấp thuận những loại vũ khí như thế trong tương lai, tất cả để đánh đổi lời tuyên bố công khai của Hoa Kỳ rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ xâm chiếm Cuba. Hoa Kỳ phản ứng bằng cách yêu cầu chính phủ Brasil chuyển thông điệp đến Castro rằng Hoa Kỳ sẽ “không thể nào xâm chiếm” Cuba nếu các tên lửa được dẹp bỏ.
Chiều thứ sáu ngày 26 tháng 10 lúc 6:00 p.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ bắt đầu nhận được một thông điệp có lẽ là được chính nhà lãnh đạo Liên Xô Khrushchev viết. Lúc đó là 2:00 a.m. ngày thứ bảy ở Moscow. Lá thư dài này phải mất vài phút mới đến được và phải mất thêm một khoản thời gian để phiên dịch và ghi chép lại.
Robert Kennedy diễn tả bức thư này là “rất dài và đầy cảm xúc”. Nhà lãnh đạo Liên Xô Khrushchev nhắc lại các ý cơ bản mà đã được đề cập với thông tín viên John Scali trước đó trong ngày là “Tôi đề nghị: Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ tuyên bố các tàu của chúng tôi đang hướng về Cuba không có mang bất cứ loại vũ khí nào. Ngài sẽ tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ không xâm chiếm Cuba bằng lực lượng của mình và sẽ không hỗ trợ bất cứ lực lượng nào khác mà có ý định xâm nhập Cuba. Khi đó sự hiện diện cần thiết của các chuyên viên quân sự của chúng tôi tại Cuba sẽ biến mất”. Lúc 6:45 p.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, tin tức về lời đề nghị của Fomin với thông tín viên Scali cuối cùng được loan báo và được người ta diễn giải đó như là một sự chuẩn bị để lá thư của nhà lãnh đạo Liên Xô Khrushchev gởi đến. Lúc đó lá thư được xem là chính thức và xác thực mặc dù sau này người ta biết được rằng Fomin dường như đưa ra lời đề nghị riêng của mình mà không có sự hậu thuẫn chính thức nào. Lệnh nghiên cứu thêm về lá thư được đưa ra và sự việc này tiếp tục cho đến tối.
Cuộc khủng hoảng tiếp diễn
“ | Cuộc xâm lăng trực tiếp chống Cuba sẽ đồng nghĩa với chiến tranh hạt nhân. Người Mỹ nói về cuộc xâm lăng như thế giống như họ không biết hoặc không muốn chấp nhận sự thật này. Tôi không hoài nghi rằng họ sẽ thua một cuộc chiến như thế. —Ernesto “Che” Guevara, tháng 10 năm 1962[40] | ” |
Về phần Fidel Castro, ông tin rằng một cuộc xâm chiếm đang sắp diễn ra không lâu, và ông thảo một lá thư gởi đến nhà lãnh đạo Liên Xô, Khrushchev trong đó Fidel Castro có lẽ yêu cầu Liên Xô tiến hành một cuộc đánh phủ đầu chống Hoa Kỳ. Ông cũng ra lệnh tất cả các loại vũ khí phòng không bắn vào bất cứ phi cơ nào của Hoa Kỳ,[41] mà trước đây chỉ được lệnh bắn vào những nhóm từ hai hay nhiều phi cơ. Lúc 6:00 a.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, thứ bảy ngày 27 tháng 10, CIA gởi một bản ghi nhớ báo cáo rằng ba trong số bốn địa điểm tên lửa tại San Cristobal và hai tại Sagua la Grande có vẻ là đã được đưa vào hoạt động hoàn toàn.
Lúc 9:00 a.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, sáng thứ bảy ngày 27 tháng 10, Đài phái thanh Moscow bắt đầu truyền đi một thông điệp của nhà lãnh đạo Liên Xô, Khrushchev. Trái ngược với lá thư của đêm trước, thông điệp này đề nghị một cuộc trao đổi mới mẻ rằng các tên lửa tại Cuba sẽ được tháo bỏ để đổi lấy việc Hoa Kỳ tháo bỏ các tên lửa Jupiter khỏi Ý và Thổ Nhĩ Kỳ. Lúc 10:00 a.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, ủy ban hành pháp họp để thảo luận tình hình và đi đến kết luận rằng sự thay đổi trong thông điệp có lẽ là do tranh cãi nội bộ giữa nhà lãnh đạo Khrushchev và các viên chức khác trong đảng tại Điện Kremlin.[42]:300 Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, McNamara, ghi nhận rằng một chiếc tàu khác là Grozny đang ở cách xa khoảng 600 dặm Anh (970 km) và nó phải bị chặn lại. Ông cũng ghi nhận rằng Hoa Kỳ chưa cho Liên Xô biết về vòng vây phong tỏa và vì thế ông đề nghị chuyển thông tin này cho Liên Xô qua Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc U Thant.
Trong lúc cuộc họp tiếp diễn, lúc 11:03 a.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, một thông điệp mới từ nhà lãnh đạo Khrushchev bắt đầu được gởi đến. Một phần thông điệp nói như sau,
“ | Ngài bực bội về Cuba. Ngài nói rằng nó làm ngài bực bội vì nó nằm cách bờ biển của Hoa Kỳ chỉ 90 dặm Anh. Nhưng… ngài đã đặt các vũ khí tên lửa tàn phá mà ngài gọi là vũ khí tấn công, tại Ý và Thổ Nhĩ Kỳ, thật sự là sát bên chúng tôi… Thế nên tôi đề nghị thế này: chúng tôi bằng lòng tháo bỏ khỏi Cuba những phương tiện mà ngài xem là vũ khí tấn công… Đại diện của ngài sẽ tuyên bố rõ rằng Hoa Kỳ… sẽ tháo bỏ các phương tiện tương tự khỏi Thổ Nhĩ Kỳ… và sau đó, những người được Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc tin tưởng có thể đến thanh tra việc thực thi những lời hứa đã được tuyên bố. | ” |
Ủy ban Hành pháp Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ tiếp tục họp hết ngày hôm đó.
Suốt cuộc khủng hoảng, Thổ Nhĩ Kỳ liên tiếp nói rằng họ sẽ cảm thấy bực tức nếu như các tên lửa Jupiter bị tháo bỏ. Thủ tướng Ý Fanfani, đồng thời cũng là Ngoại trưởng Ý tạm thời, ra lệnh cho phép rút bỏ các tên lửa đang khai triển tại Apulia như một con bài mặt cả. Ông gởi thông điệp đến một trong những người bạn đáng tin cẩn nhất của ông là Ettore Bernabei, tổng giám đốc đài truyền hình RAI-TV, để chuyển lời đến Arthur M. Schlesinger, Jr.. Ettore Bernabei lúc đó đang ở New York tham dự hội nghị quốc tế về truyền hình vệ tinh. Người Xô Viết không biết chuyện Hoa Kỳ xem các tên lửa Jupiter đã lỗi thời và đang được các tên lửa đạn đạo hạt nhân Polaris đặt trên tàu ngầm thay thế.[7]
Sáng ngày 27 tháng 10, chiếc phi cơ do thám U-2F (chiếc U-2A thứ ba của CIA, được cải tiến cho tiếp nhiên liệu trên không) do thiếu tá Không quân Hoa Kỳ, Rudolf Anderson lái[43], cất cánh từ vị trí hoạt động tiền phương của nó ở McCoy AFB, tiểu bang Florida, và vào khoảng 12:00 p.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, chiếc phi cơ này bị một tên lửa đất đối không S-75 Dvina (NATO đặt tên cho loại tên lửa này là SA-2 Guideline) từ Cuba bắn trúng. Chiếc phi cơ rơi và thiếu tá Anderson thiệt mạng. Căng thẳng tại các cuộc thảo luận giữa Liên Xô và Hoa Kỳ lên cao, và chỉ thời gian lâu sau đó người ta mới biết rằng quyết định khai hỏa các tên lửa được thực hiện bởi một vị tư lệnh Xô Viết tại Cuba hành động theo thẩm quyền riêng của chính mình. Cuối ngày hôm đó, vào khoảng 3:41 p.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, một số phi cơ RF-8A Crusader của Hải quân Hoa Kỳ thực hiện những chuyến bay thật thấp để chụp hình do thám bị bắn. Một chiếc bị một đạn pháo 37 mm bắn trúng nhưng vẫn bay trở về căn cứ an toàn.
Lúc 4:00 p.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, Tổng thống Kennedy triệu tập những thành viên trong Ủy ban Hành pháp Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ vào Nhà Trắng và ra lệnh rằng một thông điệp phải được gởi ngay lập tức đến Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc U Thant, yêu cầu Liên Xô “đình chỉ” triển khai các tên lửa trong khi các cuộc thảo luận đang tiến hành. Trong cuộc họp, Tổng tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ Maxwell Taylor đưa tin rằng chiếc phi cơ U-2 đã bị bắn rơi. Tổng thống Kennedy đã tuyên bố trước đây rằng ông sẽ ra lệnh tấn công vào những vị trí như thế nếu phi cơ Hoa Kỳ bị bắn từ những nơi đó nhưng ông quyết định không hành động trừ khi một vụ tấn công khác được thực hiện. Trong một cuộc phỏng vấn 40 năm sau đó, cựu Bộ trưởng Quốc phòng McNamara nói:
“ | Chúng tôi phải đưa một chiếc U-2 đến đó để thu thập thông tin thám thính để xem các tên lửa của Liên Xô đã sẵn sàng hoạt động chưa. Chúng tôi tin rằng nếu một chiếc U-2 bị bắn rơi thì—người Cuba không có khả năng bắn rơi nó mà là người Xô Viết—chúng tôi tin rằng nếu nó bị bắn rơi thì nó đã bị một đơn vị tên lửa đất đối không của Xô Viết bắn, và rằng điều đó biểu hiện sự quyết định của người Xô Viết leo thang cuộc xung đột. Và vì thế, trước khi chúng tôi đưa chiếc U-2 đi, chúng tôi đã đồng ý rằng nếu nó bị bắn rơi thì chúng tôi sẽ không họp, đơn giản là chúng tôi sẽ tấn công. Chiếc phi cơ bị bắn rơi ngày thứ sáu […]. May mắn thay, chúng tôi đã đổi ý, chúng tôi cứ nghĩ “Ồ, có lẽ đó chỉ là một tai nạn, chúng tôi sẽ không tấn công”. Sau đó, chúng tôi được biết rằng Khrushchev cũng đã lý luận như chúng tôi: chúng tôi đưa phi cơ U-2 lên, nếu nó bị bắn rơi, ông ta lý luận rằng chúng tôi sẽ tin rằng đây là một cuộc leo thang có chủ ý. Và vì vậy, ông đã ra lệnh cho Pliyev, vị tư lệnh Xô Viết tại Cuba, hướng dẫn tất cả các hệ thống phòng không của ông ta không được bắn rơi phi cơ U-2.[44][45] | ” |
Thảo thư trả lời
Các phái viên của cả Tổng thống Kennedy và nhà lãnh đạo Nikita Khrushchev đồng ý họp tại nhà hàng Trung Hoa Yenching Palace nằm trong khu cư dân Công viên Cleveland thuộc thủ đô Washington D.C. vào buổi chiều thứ bảy ngày 27 tháng 10.[46] Tổng thống Kennedy đề nghị rằng họ nên lấy lời đề nghị của nhà lãnh đạo Khrushchev để trao đổi loại bỏ các tên lửa. Đa số các thành viên của Ủy ban Hành pháp Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ không biết gì về việc Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy đã có cuộc họp với Đại xứ Liên Xô tại thủ đô Washington nhằm mục đích khám phá xem có phải những chủ ý thương lượng của Liên Xô là xác thực hay không. Về tổng thể, Ủy ban Hành pháp chống đối lời đề nghị vì nó sẽ làm suy giảm quyền lực của NATO và chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ liên tục nói rằng họ chống đối bất cứ một vụ trao đổi nào như thế.
Khi cuộc họp tiếp diễn, một kế hoạch mới lộ diện và Tổng thống Kennedy từ từ bị thuyết phục. Kế hoạch mới yêu gọi tổng thống làm ngơ thông điệp mới nhất và thay vào đó xem xét lại lời đề nghị trước đó của nhà lãnh đạo Khrushchev. Ban đầu Tổng thống Kennedy do dự vì cảm thấy rằng nhà lãnh đạo Khrushchev sẽ không chấp nhận cuộc mặc cả đó nữa vì lời đề nghị mới đã được đưa ra nhưng Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Xô, Llewellyn Thompson cho rằng dù thế nào đi nữa thì ông có lẽ sẽ chấp nhận kế hoạch mới này. Cố vấn kiêm luật sư đặc biệt Nhà Trắng Ted Sorensen và Robert Kennedy rời phòng họp và quay trở lại 45 phút sau đó với 1 lá thư thảo theo quyết định mới này. Tổng thống Hoa Kỳ sửa đổi chút ít, nhờ người đánh máy và gởi nó đi.
Sau cuộc họp của Ủy ban Hành pháp, một cuộc họp nhỏ hơn tiếp tục tại Văn phòng Bầu dục. Nhóm thành viên cuộc họp cho rằng lá thư nên được nhấn mạnh bằng một thông điệp miệng gởi đến Đại xứ Liên Xô Dobrynin, nói rằng nếu các tên lửa không bị tháo bỏ thì hành động quân sự sẽ được dùng đến để loại bỏ chúng. Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk thêm vào một điều nữa là không có ngôn từ nào trong cuộc mặc cả sẽ nhắc đến Thổ Nhĩ Kỳ mà chỉ nên hiểu rằng các tên lửa sẽ được tháo bỏ “một cách tự nguyện” ngay khi kết cục. Tổng thống Hoa Kỳ đồng ý, và thông điệp được gởi đi.
Theo yêu cầu của Juan Brito, Fomin và Scali lại gặp nhau. Scali hỏi tại sao có đến hai lá thư của nhà lãnh đạo Khrushchev gởi đến có nội dung rất khác nhau và Fomin tuyên bố rằng vì có “sự trục trặc về thông tin liên lạc”. Scali đáp lại rằng lời tuyên bố này không đáng tin tưởng và lớn tiếng nói rằng ông nghĩ đây là một “vụ dối trá hai mang xấu xa”. Ông tiếp tục bằng một tuyên bố rằng cuộc xâm chiến Cuba chỉ còn cách xa vài tiếng đồng hồ. Vào thời điểm này Fomin phát biểu rằng thư phúc đáp đối với thông điệp của Hoa Kỳ từ nhà lãnh đạo Liên Xô, Khrushchev sẽ sớm được gởi đến, và ông hối thúc Scali báo cho Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ rằng Liên Xô không có cố tình dối trá. Scali nói rằng ông không nghĩ là có người còn muốn tin tưởng Fomin nữa nhưng ông đồng ý chuyển đạt thông điệp này. Ngay lập tức Scali đánh máy một bản ghi nhớ gởi cho Ủy ban Hành pháp Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ.
Bên trong nội bộ chính phủ Hoa Kỳ, họ hiểu rõ rằng việc làm ngơ lời đề nghị thứ hai và quay trở lại bàn về lời đề nghị thứ nhất đã khiến cho nhà lãnh đạo Liên Xô gặp vấn đề rắc rối. Những sự chuẩn bị về mặc quân sự tiếp diễn, và tất cả các nhân sự Không quân hiện dịch của Hoa Kỳ được lệnh có mặt tại căn cứ của họ để chờ đợi lệnh hành động. Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ Robert Kennedy sau đó có nhắc lại tâm trạng vào lúc đó “Chúng tôi đã không bỏ qua tất cả hy vọng nhưng những gì hy vọng lại tùy thuộc vào sự thay đổi lập trường của Khrushchev trong khoảng thời gian vài tiếng đồng hồ kế tiếp. Đấy là một hy vọng, chớ không phải là một sự mong đợi. Sự mong đợi là một cuộc đối đầu quân sự vào ngày thứ ba, và có thể là vào ngày mai…”
Lúc 8:05 p.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, lá thư được thảo hồi sáng sớm được gởi đi. Thông điệp viết như sau “Khi ngài đọc lá thư gởi cho ngài, các điều then chốt trong lời đề nghị của ngài—mà dường như về tổng quan có thể chấp nhận được theo như tôi hiểu — là như sau: 1) Ngài sẽ đồng ý tháo bỏ những hệ thống vũ khí này khỏi Cuba dưới sự giám sát thích hợp của Liên Hiệp Quốc; và đảm trách với mức an toàn thích đáng trong việc ngừng đưa thêm những hệ thống vũ khí như thế vào Cuba. 2) Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ – ngay sau khi có dàn xếp đầy đủ qua Liên Hiệp Quốc, đồng ý bảo đảm tiến hành và tiếp tục những điều ràng buộc như sau (a) lập tức bãi bỏ các biện pháp cách ly mà hiện nay đang được áp dụng (b) đưa ra lời bảo đảm không xâm chiếm Cuba”. Lá thư cũng được công bố trực tiếp đến báo chí để bảo đảm rằng nó không bị “trì hoãn”.
Với việc bức này được gởi đi, một sự mặc cả đang nằm trên bàn thương thuyết. Tuy nhiên, như Robert Kennedy ghi nhận, có rất ít trông mong là nó sẽ được chấp nhận. Lúc 9:00 p.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, Ủy ban Hành pháp lại họp bàn để xem xét các hành động cho ngày hôm sau. Các kế hoạch đã được phác thảo cho các cuộc không kích nhắm vào các địa điểm có tên lửa cũng như các mục tiêu kinh tế khác, đặc biệt là kho chứa dầu lửa. Bộ trưởng Quốc phòng McNamara cho biết rằng họ phải “chuẩn bị hai chuyện: một chính phủ mới cho Cuba vì chúng tôi sẽ cần có một chính phủ; và thứ hai là những kế hoạch đáp trả lại Liên Xô tại châu Âu vì chắc chắn rằng Liên Xô sẽ làm cái gì đó ở đó”.
Lúc 12:12 a.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, thứ bảy ngày 27 tháng 10, Hoa Kỳ thông báo với các đồng minh NATO của mình rằng “tình hình càng trở nên ngắn ngủi hơn… Hoa Kỳ có thể thấy cần thiết trong một khoảng thời gian ngắn vì lợi ích của mình và lợi ích của các quốc gia bạn trong Tây Bán cầu để tiến hành bất cứ hành động quân sự nào có thể được xem là cần thiết”. Mối quan tâm thêm gia tăng khi vào lúc 6 a.m., CIA báo cáo rằng tất cả các tên lửa tại Cuba đã sẵn sàng hoạt động.
Sau đó trong ngày, cái mà Nhà Trắng sau này gọi tên “Ngày thứ bảy đen”, Hải quân Hoa Kỳ thả một loạt nhiều “bom chống tàu ngầm loại diễn tập” (khổ nhỏ cỡ bằng lựu đạn[47]) trên một chiếc tàu ngầm Liên Xô (B-59) ở khu vực phong tỏa mà không biết rằng chiếc tàu ngầm này có trang bị thủy lôi mang đầu đạn hạt nhân và được lệnh sử dụng vũ khí này nếu chiếc tàu ngầm bị “đánh thủng” vì bom chống tàu ngầm hay đạn pháo trên mặt nước.[48] Cùng ngày, một chiếc phi cơ do thám U-2 bay lạc vào lãnh thổ duyên hải viễn đông của Liên Xô trong vòng 90 phút.[49] Liên Xô đưa ngay các chiến đấu cơ MIG từ Đảo Wrangel lên đón chặn và để đối phó, Hoa Kỳ ra lệnh cho các chiến đấu cơ F-102 có trang bị tên lửa hạt nhân không đối không cất cánh trên Biển Bering.[50]
Khủng hoảng kết thúc
Sau nhiều bàn cãi giữa Liên Xô và Nội các của Tổng thống Kennedy, Tổng thống Kennedy bí mật đồng ý loại bỏ tất cả các tên lửa đặt tại Ý và Thổ Nhĩ Kỳ (các tên lửa tại Thổ Nhĩ Kỳ nằm trên biên giới với Liên Xô) để đổi lại việc nhà lãnh đạo Liên Xô, Khrushchev, tháo bỏ tất cả các tên lửa tại Cuba.
Lúc 9:00 a.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ, thứ hai ngày 29 tháng 10, một thông điệp mới của nhà lãnh đạo Khrushchev được phát trên Đài phát thanh Moscow. Nhà lãnh đạo Khrushchev phát biểu rằng “chính phủ Liên Xô, ngoài những chỉ thị được đưa ra trước đây về việc ngưng tiến hành xây dựng các vị trí dành cho vũ khi, đã đưa ra một lệnh mới là tháo bỏ các vũ khí mà ngài cho là “vũ khí tấn công” cùng với thùng chứa chúng và đưa chúng trở về Liên Xô.”
Ngay lập tức Tổng thống Kennedy đáp lại bằng một lời tuyên bố, gọi lá thư của nhà lãnh đạo Liên Xô là “một sự đóng góp có tính xây dựng và quan trọng đối với hòa bình”. Ông tiếp tục bằng một lá thư chính thức: “Tôi xem lá thư của tôi gởi cho ngài vào ngày 27 tháng 10 và việc ngài phúc đáp hôm nay như là những cam kết chắc chắn từ cả hai phía chính phủ của chúng ta mà hiện đang được tiến hành một cách nhanh chóng… Hoa Kỳ sẽ đưa ra một tuyên bố trong khuôn khổ của Hội đồng Bảo an liên quan đến vấn đề Cuba như sau: nó sẽ tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ tôn trọng sự vẹn toàn lãnh thổ, chủ quyền của Cuba, rằng Hoa Kỳ sẽ cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ, không xâm nhập và không cho phép sử dụng lãnh thổ của mình làm nơi xuất phát tiến hành xâm chiếm Cuba, và sẽ ngăn chặn những ai có kế hoạch tiến hành một cuộc xâm chiếm chống Cuba, cả từ lãnh thổ Hoa Kỳ hay từ lãnh thổ của các quốc gia lân bang khác của Cuba.”[51]:103
Hoa Kỳ tiếp vẫn tục công việc cách ly phong tỏa Cuba. Trong những ngày tiếp theo sau đó, các chuyến bay do thám đã cho thấy rằng Liên Xô đang dần có tiến triển trong việc tháo bỏ các hệ thống tên lửa. 42 tên lửa và trang bị hỗ trợ của chúng được đưa lên 8 chiếc tàu Liên Xô. Những chiếc tàu này rời Cuba từ 5-9 tháng 11. Hoa Kỳ tiến hành quan sát kiểm chứng lần cuối cùng khi mỗi chiếc tàu đi qua vùng cách ly. Có thêm nhiều nỗ lực ngoại giao khác được thực hiện để yêu cầu Liên Xô đưa các oanh tạc cơ Liên Xô IL-28 về nước. Sau cùng các phi cơ này cũng được đưa lên 3 tàu Liên Xô vào ngày 5 và 6 tháng 12. Cuộc cách ly chính thức kết thúc trước đó vào lúc 6:45 p.m. giờ miền Đông Hoa Kỳ ngày 20 tháng 11 năm 1962.[29]
Trong các cuộc thảo luận với Đại xứ Liên Xô, Anatoly Dobrynin, Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ, Robert Kennedy, đã đề nghị không chính thức rằng các tên lửa Jupiter tại Thổ Nhĩ Kỳ sẽ được tháo bỏ “trong một khoảng thời gian ngắn sau khi cuộc khủng hoảng chấm dứt”.[52]:222 Các tên lửa cuối cùng của Hoa Kỳ được tháo dở vào ngày 24 tháng 4 năm 1963 và được đưa ra khỏi Thổ Nhĩ Kỳ ngay sau đó.[53]
Kết quả thực tế của Hiệp ước Kennedy-Khrushchev là nó đã hữu hiệu làm vững mạnh vị thế của Fidel Castro tại Cuba, bảo đảm rằng Hoa Kỳ sẽ không xâm chiếm Cuba. Rất có thể là nhà lãnh đạo Liên Xô, Khrushchev, chỉ đặt tên lửa tại Cuba để bắt buộc Tổng thống Kennedy tháo bỏ các tên lửa khỏi Ý và Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, sự kiện các tên lửa Jupiter bị tháo bỏ khỏi các căn cứ NATO ở miền nam nước Ý và Thổ Nhĩ Kỳ không được công bố chính thức vào lúc đó nên có vẻ là nhà lãnh đạo Liên Xô, Khrushchev, đã thua trong cuộc xung đột này và trở nên yếu thế. Bề ngoài thì Tổng thống Kennedy đã thắng cuộc tranh đua giữa hai siêu cường và nhà lãnh đạo Liên Xô, Khrushchev, bị mất mặt. Tuy nhiên, đây không phải là toàn bộ tình thế vì cả Tổng thống Kennedy và nhà lãnh đạo Liên Xô, Khrushchev, đã tiến hành từng bước một để tránh một cuộc xung đột toàn diện mặc dù cả hai đều bị áp lực từ chính phủ của họ. Nhà lãnh đạo Liên Xô, Khrushchev, nắm quyền lãnh đạo Liên Xô thêm hai năm nữa.[51]:102-105
Kết cục
Thỏa hiệp đạt được là một sự sượng sùng rất lớn đối với nhà lãnh đạo Liên Xô, Khrushchev, và Liên Xô vì sự kiện Hoa Kỳ tháo bỏ các tên lửa khỏi Ý và Thổ Nhĩ Kỳ đã không được công bố chính thức vào lúc đó – đây là một cuộc mặc cả bí mật giữa Tổng thống Hoa Kỳ và nhà lãnh đạo Liên Xô. Liên Xô được xem là kẻ tháo lui tránh những cảnh ngộ mà tự họ đã khởi sự — mặc dù nếu họ diễn hay thì rất có thể họ đạt được một kết quả ngược lại. Nhà lãnh đạo Liên Xô bị mất quyền lực hai năm sau đó, rất có thể một phần có liên quan đến sự sượng sùng của Bộ chính trị Liên Xô đối với những nhân nhượng sau cùng mà Khrushchev dành cho Hoa Kỳ cũng như việc tính toán sai của ông khi hấp tấp tạo ra cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, Khủng hoảng tên lửa Cuba không phải là lý do duy nhất khiến ông bị mất quyền lực.
Cuba một phần cảm thấy bị Liên Xô phản bội vì các quyết định giải quyết cuộc khủng hoảng đều do Tổng thống Kennedy và nhà lãnh đạo Khrushchev tiến hành. Đặc biệt Fidel Castro rất tức giận khi những vấn đề lợi ích của Cuba, thí dụ như tình trạng vịnh Guantanamo (Hoa Kỳ vẫn duy trì một căn cứ quân sự tại đó cho đến ngày nay) đã không được nói đến. Điều này dẫn đến mối quan hệ giữa Cuba và Liên Xô xuống thấp trong những năm sau đó.[54]:278 Tuy nhiên, theo thỏa hiệp Cuba được bảo đảm không bị xâm chiếm.
Một vị tư lệnh quân sự của Hoa Kỳ không hài lòng với kết quả này. Tướng LeMay nói với Tổng thống rằng đây là “thất bại to lớn nhất trong lịch sử của chúng ta” và rằng đáng lẽ ra Hoa Kỳ nên xâm chiếm Cuba ngay lập tức.
Khủng hoảng tên lửa Cuba đã khiến hai siêu cường ký thỏa hiệp đường dây nóng. Qua thỏa hiệp này, đường dây nóng Moscow-Washington được thiết lập, nối thông tin liên lạc trực tiếp giữa Moskva và Washington, D.C. Mục đích của nó là có một cách để hai nhà lãnh đạo hai quốc gia đối nghịch nhau trong Chiến tranh lạnh có thể liên lạc trực tiếp với nhau để giải quyết một cuộc khủng hoảng như thế. Xác của thiếu tá Anderson, phi công U-2 bị bắn rơi, được hồi hương về Hoa Kỳ. Ông được chôn cất với đầy đủ nghi thức vinh dự quân đội tại Nam Carolina. Ông là người đầu tiên nhận huân chương mới được lập, đó là Huân chương “Air Force Cross” sau khi mất.
Mặc dù thiếu tá Rudolf Anderson là người duy nhất tử trận trong cuộc khủng hoảng này nhưng có đến 11 thành viên của 3 chiếc phi cơ thám thính Boeing RB-47 Stratojet thuộc Phi đoàn Thám thính Chiến lược số 55 bị thiệt mạng trong những vụ rớt phi cơ trong thời gian từ 27 tháng 9 đến 11 tháng 11 năm 1962.[55]
Những người chỉ trích Hoa Kỳ trong đó có Seymour Melman[56] và Seymour Hersh[57] cho rằng Khủng hoảng tên lửa Cuba đã khuyến khích Hoa Kỳ sử dụng các phương tiện quân sự, thí dụ như trong Chiến tranh Việt Nam. Cuộc đối đầu Nga-Mỹ đồng bộ cùng lúc với Chiến tranh Trung-Ấn, kể từ lúc Quân đội Hoa Kỳ tách ly quân sự chống Cuba; nhiều sử gia cho rằng việc Trung Quốc tấn công đánh Ấn Độ vì những vùng đất tranh chấp xảy ra vào cùng lúc với khủng hoảng tên lửa Cuba.[58]
Lịch sử hậu-khủng hoảng
Arthur Schlesinger, một sử gia kiêm cố vấn cho Tổng thống John F. Kennedy, nói với đài phát thanh National Public Radio trong một cuộc phỏng vấn ngày 16 tháng 10 năm 2002 rằng Fidel Castro trước đó đã không muốn các tên lửa đó nhưng chính nhà lãnh đạo Khrushchev đã gây áp lực với Fidel Castro chấp nhận chúng. Chủ tịch Castro không hoàn toàn hài lòng với ý tưởng này nhưng Ban lãnh đạo Cách mạng Quốc gia Cuba đã nhận chúng để bảo vệ Cuba chống cuộc tấn công của Hoa Kỳ và cũng để giúp đồng minh Liên Xô của họ.[54]:272 Schlesinger tin rằng khi các tên lửa này bị tháo bỏ thì Fidel Castro tức giận với Khrushchev hơn là tức giận với Kennedy vì Khrushchev đã không hội kiến với Castro trước khi quyết định tháo bỏ chúng.[59]
Đầu năm 1992, theo xác nhận thì vào lúc cuộc khủng hoảng bùng phát, các lực lượng Liên Xô tại Cuba có nhận các đầu đạn hạt nhân chiến thuật cho các tên lửa và các oanh tạc cơ Il-28 của họ.[60] Fidel Castro nói rằng ông sẽ đề nghị sử dụng chúng vào lúc đó nếu như Hoa Kỳ xâm chiếm Cuba mặt dù ông biết rằng Cuba sẽ bị san bằng.[60]
Có thể nói rằng khoảnh khắc nguy hiểm nhất của cuộc khủng hoảng này chỉ được biết đến trong “Hội thảo Havana về Khủng hoảng tên lửa Cuba” vào tháng 10 năm 2002. Tham dự hội thảo này có các cựu giới chức của cuộc khủng hoảng. Tất cả những người này đều được cho biết rằng vào ngày 26 tháng 10 năm 1962 Chiến hạm USS Beale phát giác và thả những quả bom loại diễn tập chống tàu ngầm (khổ cỡ bằng lựu đạn) trên chiếc tàu ngầm B-59, một tàu ngầm thuộc Dự án 641 của Liên Xô (NATO đặt tên nó là Foxtrot), có trang bị một thủy lôi hạt nhân 15 kiloton nhưng Hoa Kỳ không hề hay biết. Vì cạn không khí và bị bao vây bởi các chiến hạm Mỹ nên nó buộc phải nổi lên mặt nước. Một cuộc tranh cãi xảy ra giữa ba vị sĩ quan trên chiếc tàu ngầm B-59 trong đó có thuyền trưởng tàu ngầm Valentin Savitsky, sĩ quan chính trị Ivan Semonovich Maslennikov, và phó thuyền trưởng Vasiliy Arkhipov. Vì mệt nhọc, thuyền trưởng Savitsky trở nên giận dữ và ra lệnh cho quả thủy lôi hạt nhân trên tàu được triển khai sẵn sàng khai hỏa. Có nhiều lời kể khác nhau về việc liệu có phải do phó thuyền trưởng Arkhipov đã thuyết phục được thuyền trưởng Savitsky không tấn công bằng quả thủy lôi hạt nhân hay liệu có phải chính Savitsky sau cùng đã đi đến quyết định rằng chỉ có cách chọn lựa duy nhất mở ngỏ cho ông là cho chiếc tàu ngầm nổi lên mặt nước.[61]:303, 317 Trong buổi hội thảo, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara nói rằng chiến tranh hạt nhân đã đến gần hơn là mọi người nghĩ. Thomas Blanton, giám đốc Cục lưu trữ Tài liệu An ninh Quốc gia nói, “Một gã tên là Vasili Arkhipov đã cứu thế giới.”
Cuộc khủng hoảng là đề tài chính yếu trong bộ phim tài liệu năm 2003 có tựa đề The Fog of War, nhận được một giải Oscar dành cho phim tài liệu.
Xem thêm
- Cục Tình báo Trung ương
- Khủng hoảng quốc tế
- Chiến tranh lạnh
- Quan hệ Cuba – Hoa Kỳ
- Quan hệ Cuba – Liên Xô
- Stanislav Petrov
- Chiến tranh Trung-Ấn
Truyền thông
- The Missiles of October, a dramatization
- Thirteen Days (sách)
- Thirteen Days (phim)
- The Fog of War, a phim biography of U.S. Secretary of Defense Robert S. McNamara.
- Cuban Missile Crisis: The Aftermath, a videogame set in this period
- The World Next Door, a novel set in this period
- “Unarmed Conflict“, Bertrand Russell, Ruskin House- George Allen & Unwin Ltd, London, 1963
Ghi chú
Tham khảo
- ^ Marfleet, B. Gregory. “The Operational Code of John F. Kennedy During the Cuban Missile Crisis: A Comparison of Public and Private Rhetoric”. Political Psychology 21 (3): 545.
- ^ Gelb, Leslie H. (2012). “The Myth That Screwed Up 50 Years of U.S. Foreign Policy”.
- ^ a ă â Absher, Kenneth Michael (2009). “Mind-Sets and Missiles: A First Hand Account of the Cuban Missile Crisis”. Strategic Studies Institute, United States Army War College.
- ^ Franklin, Jane. The Cuban Missile Crisis – An In-Depth Chronology. Bản gốc
|url lưu trữ=
cần|url=
(trợ giúp) lưu trữ 16 tháng 11, 2007. - ^ John F. Kennedy. “Proclamation 3447—Embargo on all trade with Cuba”. The American Presidency Project. Santa Barbara, California.
- ^ Rodriguez (tháng 10 năm 1989). Shadow Warrior: The CIA Hero of 100 Unknown Battles. John Weisman. Simon & Schuster. ISBN 9780671667214.
- ^ a ă â b c d đ e ê g Correll, John T. (tháng 8 năm 2005). “Airpower and the Cuban Missile Crisis”. Vol. 88, No. 8 (AirForce-Magazine.com). Truy cập 4 tháng 5 năm 2010.
- ^ a ă â Franklin, H. Bruce. “The Cuban Missile Crisis: An In-Depth Chronology”. Truy cập 3 tháng 5 năm 2010.
- ^ a ă â b Hansen, James H. “Soviet Deception in the Cuban Missile Crisis” (PDF). Learning from the Past. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2010.
- ^ a ă â b Blight, James G.; Bruce J. Allyn; David A. Welch (2002). Cuba on the Brink: Castro, the Missile Crisis, and the Soviet Collapse; [revised for the Fortieth Anniversary] (ấn bản 2). Lanham, Maryland: Rowman & Littlefield. ISBN 978-0-7425-2269-5.
- ^ “The Days the World Held Its Breath”. Ngày 31 tháng 7 năm 1997. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2010.
- ^ Weldes, Jutta (1999). Constructing National Interests: The United States and the Cuban Missile Crisis. University of Minnesota Press. ISBN 0816631115.
- ^ “R-12 / SS-4 SANDAL”. Global Security. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
- ^ “R-14 / SS-5 SKEAN”. Global Security. Truy cập 30 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Interview with Sidney Graybeal – 29.1.98”. Episode 21. George Washington University, National Security Archive. Ngày 14 tháng 3 năm 1999.
- ^ “Cuban Missile Crisis”. U.S. Department of State. Truy cập 6 tháng 5 năm 2010.
- ^ “Revelations from the Russian Archives”. Library of Congress. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Cuban Missile Crisis: Miscellaneous Transcripts”. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 0201. Đã bỏ qua văn bản “publisher-John F. Kennedy Museum and Presidential Library ” (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|accessdate=
(trợ giúp) - ^ “National Security Action Memorandum 196”. JFK Presidential Library and Museum. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2010.
- ^ Allison, Graham (1999). Essence of Decision. Pearson Education. tr. 111–116. ISBN 0-321-01349-2.
- ^ Kennedy, Robert (1971). Thirteen Days: A Memoir of the Cuban Missile Crisis. W.W. Norton & Company. tr. 14. ISBN 0-393-09896-6.
- ^ Axelrod, Alan (2009). The Real History of the Cold War: A New Look at the Past. New York: Sterling Publishing Co. ISBN 978-1-4027-6302-1. Truy cập 22 tháng 4 năm 2010.
- ^ Ornstein, Robert Evan (1989). New world new mind: moving toward conscious evolution. The University of Michigan, Doubleday. Đã bỏ qua văn bản “Paul R. Ehrlich” (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ
|unused_data=
(trợ giúp) - ^ Blight, J.; Welch, D. (1990). On the Brink: Americans and Soviets Reexamine the Cuban Missile Crisis. Noonday Press.
- ^ Kennedy, J. (1963). “The President’s News Conference of 13 tháng 9, 1962”. Washington, DC: Government Printing Office. Đã bỏ qua tham số không rõ
|DUPLICATE DATA: title=
(trợ giúp) - ^ Kennedy, J. (17 tháng 12, 1962). “After Two Years: A conversation with the president”. In ‘Public Papers of the Presidents: John F. Kennedy, 1962’ (Television and radio interview) (Washington, DC.: Government Printing Office). Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|year= / |date= mismatch
(trợ giúp) - ^ “Cuban Missile Crisis”. Online Highways LLC. Truy cập 5 tháng 5 năm 2010.
- ^ a ă “JFK on the Cuban Missile Crisis”. The History Place. Truy cập 3 tháng 5 năm 2010.
- ^ a ă “Cuban Missile Crisis”. Global Security. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2010.
- ^ a ă â Kamps, Charles Tustin, “The Cuban Missile Crisis“, Air & Space Power Journal, AU Press, Air University, Maxwell Air Force Base, Alabama, Fall 2007, Volume XXI, Number 3, page 88.
- ^ Anderson, George Whelan Jr.. “The Naval Quarantine of Cuba, 1962”. Report on the Naval Quarantine of Cuba, Operational Archives Branch, Post 46 Command File, Box 10, Washington, DC (U.S. Naval Historical Center). Đã bỏ qua tham số không rõ
|DUPLICATE DATA: title=
(trợ giúp);|chương=
bị bỏ qua (trợ giúp) - ^ Buffet, Cyril; Vincent Touze. “The Cuban Missile Crisis—Brinkmanship”. Truy cập 3 tháng 5 năm 2010.
- ^ a ă “1962 Year In Review: Cuban Missile Crisis”. United Press International, Inc. 1962. Truy cập 22 tháng 4 năm 2010.
- ^ “The Cuban Missile Crisis” (PDF). National Security Archives. Truy cập 3 tháng 5 năm 2010.
- ^ a ă â Buffet, Cyril; Touze, Vincent. “Germany, between Cuba and Berlin”. The Cuban Missile Crisis exhibition. The Caen Mémorial. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2010.
- ^ “The Cuban Missile Crisis — Brinkmanship”. Truy cập 3 tháng 5 năm 2010.
- ^ a ă “The Cuban Missile Crisis, October 18–29, 1962”. History Out Loud. Ngày 21 tháng 8 năm 1997. Truy cập 6 tháng 5 năm 2010.
- ^ Reynolds, K.C. “Boarding MARUCLA: A personal account from the Executive Officer of USS Joseph P. Kennedy, Jr.”. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2010.
- ^ Helms, Richard (Deputy Director for Plans, CIA) (ngày 19 tháng 1 năm 1962). “Memorandum for the Director of Central Intelligence: Meeting with the Attorney General of the United States Concerning Cuba” (PDF). George Washington University, National Security Archive.
- ^ Brandon, Henry (28 tháng 10, 1962). “Attack us at your Peril, Cocky Cuba Warns US”. The Sunday Times.
- ^ Baggins., Brian. “Cuban History Missile Crisis”. Marxist History: Cuba (1959 – present). Marxists Internet Archive. Truy cập 7 tháng 5 năm 2010.
- ^ Christopher, Andrew (ngày 1 tháng 3 năm 1996). For the President’s Eyes Only: Secret Intelligence and the American Presidency from Washington to Bush. Harper Perennial. tr. 688. ISBN 0060921781.
- ^ Pocock, Chris, “50 Years of the U-2: The Complete Illustrated History of the ‘Dragon Lady’ “, Schiffer Publishing, Ltd., Atglen, Pennsylvania, Library of Congress card number 2005927577, ISBN 0-7643-2346-6, page 406.
- ^ McNamara mistakenly dates the shooting down of USAF Major Rudolf Anderson‘s U-2 on Friday, October 26.
- ^ Robert McNamara. Dr. Strangelove or: How I Learned to Stop Worrying and Love the Bomb (DVD). Columbia Tristar Home Entertainment.
- ^ Frey, Jennifer (14 tháng 1, 2007). “At Yenching Palace, Five Decades of History to Go”. Washington Post. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2008.
- ^ “The Submarines of October”. George Washington University, National Security Archive. Truy cập 1 tháng 5 năm 2010.
- ^ “The Cuban Missile Crisis, 1962: Press Release, 11 tháng 10 năm 2002, 5:00 PM”. George Washington University, National Security Archive. Ngày 11 tháng 10 năm 2002. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ Dobbs, Michael (tháng 6 năm 2008). “Why We Should Still Study the Cuban Missile Crisis” (PDF). Special Report 205. United States Institue of Peace. Truy cập 2 tháng 5 năm 2010.
- ^ Schoenherr, Steven (10 tháng 4, 2006). “The Thirteen Days, October 16–28, 1962”. Truy cập 3 tháng 5 năm 2010.
- ^ a ă Faria, Miguel (2002). “Cuba in Revolution—Escape from a Lost Paradise”. Macon, Georgia: Hacienda Publishing. ISBN 0-9641077-3-2.
- ^ Glover, Jonathan (2000). Humanity: a moral history of the twentieth century. Yale University Press. tr. 464. ISBN 0300087004. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2009.
- ^ Schlesinger, Arthur (2002). Robert Kennedy and his times. Houghton Mifflin Harcourt. tr. 523
|các trang=
hay|at=
dư (trợ giúp). ISBN 0618219285. Truy cập 2 tháng 7, 2009. - ^ a ă Ignacio, Ramonet (2007). Fidel Castro: My Life. Penguin Books. ISBN 978-0-1410-2626-8.
- ^ Lloyd, Alwyn T., “Boeing’s B-47 Stratojet”, Specialty Press, North Branch, Minnesota, 2005, ISBN 978-1-58007-071-3, page 178.
- ^ Melman, Seymour (1988). The Demilitarized Society: Disarmament and Conversion. Montreal: Harvest House.
- ^ Hersh, Seymour (1978). The Dark Side of Camelot.
- ^ “Frontier India India-China Section”.
Note alleged connections to Cuban Missile Crisis
- ^ Trong sách viết về cuộc đời của mình, Fidel Castro không so sánh cảm xúc của ông đối với cả hai vị lãnh đạo của hai siêu cường vào lúc đó. Tuy nhiên ông vạch rõ rằng ông tức giận với Khrushchev vì không hỏi thăm ý kiến với ông.{Ramonet 1978}
- ^ a ă “Arms Control Association: Arms Control Today”.
- ^ Dobbs, Michael (2008). One Minute to Midnight: Kennedy, Khrushchev, and Castro on the Brink of Nuclear War. New York: Alfred A. Knopf. ISBN 978-1-4000-4358-3.
Đọc thêm
- Allison, Graham; Zelikow, P. (1999). Essence of Decision: Explaining the Cuban Missile Crisis. New York: Longman.
- Blight, James G.; David A. Welch. (1989). On the Brink: Americans and Soviets Reexamine the Cuban Missile Crisis. New York: Hill and Wang.
- Chayes, Abram. (1974). The Cuban Missile Crisis, International Crisis and the Role of Law . Oxford University Press.
- Diez Acosta, Tomás, tháng 10 năm 1962: The ‘Missile’ Crisis As Seen From Cuba (2002). New York: Pathfinder Press.
|tựa đề=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - Divine, Robert A. The Cuban Missile Crisis; New York: M. Wiener Pub.,1988.
- Dobbs, Michael. (2008). One Minute to Midnight: Kennedy, Khrushchev, and Castro on the Brink of Nuclear War. New York: Alfred A. Knopf. ISBN 978-1-4000-4358-3.
- Faria, Miguel (2002). Cuba in Revolution—Escape from a Lost Paradise. Macon, Georgia: Hacienda Publishing. ISBN 0-9641077-3-2.
- Feklisov, Alexander and Sergei Kostin. (2005). The Man Behind the Rosenbergs. Enigma Books. ISBN 978-1-929631-24-7.
- Frankel, Max (2005). High Noon in the Cold War. Presidio Press (reprint). ISBN 0-345-46671-3.
- Fursenko, Aleksandr; Naftali, Timothy (1998). One Hell of a Gamble – Khrushchev, Castro and Kennedy 1958-1964. New York: W.W. Norton.
- Fursenko, Aleksandr (22–23 October). Night Session of the Presidium of the Central Committee (PDF) 59 (Summer 2006). Naval War College Review. Đã định rõ hơn một tham số trong
|number=
và|issue=
(trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:|date=
(trợ giúp) - George, Alice L. (2006). Awaiting Armageddon: How Americans Faced the Cuban Missile Crisis. University of North Carolina Press. ISBN 0807828289.
- Gonzalez, Servando. The Nuclear Deception: Nikita Khrushchev and the Cuban Missile Crisis. IntelliBooks year=2002. ISBN 0-971-1391-5-6.
- Kennedy, Robert F. Thirteen Days: A Memoir of the Cuban Missile Crisis. ISBN 0-393-31834-6.
- Khrushchev, Sergei (tháng 10 năm 2002). How my father and President Kennedy saved the world. American Heritage magazine.
- May, Ernest R. (editor); Zelikow, Philip D. (editor) (1997). The Kennedy Tapes: Inside the White House during the Cuban Missile Crisis. Belknap Press. ISBN 0-674-17926-9.
- Polmar, Norman; Gresham, John D. (foreword by Clancy, Tom) (2006). DEFCON – 2: Standing on the Brink of Nuclear War During the Cuban Missile Crisis. Wiley. ISBN 0-471-67022-7.
- Pope, Ronald R. (1982). Soviet Views on the Cuban Missile Crisis: Myth and Reality in Foreign Policy Analysis. University Press of America.
- Pressman, Jeremy. “September Statements, October Missiles, November Elections: Domestic Politics, Foreign-Policy Making, and the Cuban Missile Crisis”. Security Studies 10 (3): 80–114.
- Stern, Sheldon M. (2003). Averting the Final Failure: John F. Kennedy and the Secret Cuban Missile Crisis Meetings. Stanford University Press. ISBN 0-804-74846-2.
- Trahair, Richard C.S.; Robert Miller (2009). Encyclopedia of Cold War Espionage, Spies, and Secret Operations. Enigma Books. ISBN 978-1-929631-75-9.
- Stern, Sheldon M. (2005). The Week The World Stood Still: Inside The Secret Cuban Missile Crisis (Stanford Nuclear Age Series). Stanford University Press. ISBN 0804750777.
- The Cuban Missile Crisis: Declassified (Television Program).
Liên kết ngoài
- The CWIHP at the Wilson Center for International Scholars Document Collection on the Cuban Missile Crisis
- New Photos (2009) of the Missile Sites of the Cuban Missile Crisis
- IV. Chronology of Submarine. Contact During the Cuban Missile Crisis. 1 tháng 10, 1962 – 14 tháng 11, 1962. Prepared by Jeremy Robinson-Leon and William Burr.
- CIA Documents on the Cuban Missile Crisis, 1962(.pdf, 354 pgs.) U.S. Central Intelligence Agency, McAuliffe, M. ed., CIA History Staff, 1992.
- Cuban Missile Crisis and Aftermath, 1961 – 1963, Volume XI of the Kennedy Administration in the Foreign Relations of the United States series, U.S. Department of State, Office of the Historian, Keefer, E., Sampson, C., & Smith, L., Eds., U.S. Government Printing Office, Washington, D.C., 1996. The official U.S. documentary historical record.
- Declassified Documents, etc. – Provided by the National Security Archive at The George Washington University.
- Declassified “Memorandum for the Secretary of Defense” on “Justification for U.S. Military Intervention in Cuba,” from the Joint Chiefs of Staff, Washington, D.C., 13 tháng 3, 1962, html text from Cryptome from National Security Archive, at The George Washington University.
- Transcripts and Audio of EXCOMM meetings – From the Miller Center’s Presidential Recordings Program, University of Virginia.
- The Cuban Missile Crisis, October 18-29, 1962 Includes RealPlayer streaming audio of debates between JFK and his advisors during the crisis
- President Kennedy’s Address to the Nation on the Soviet Arms Buildup in Cuba
- The World On the Brink: John F. Kennedy and the Cuban Missile Crisis
- 14 Days in October: The Cuban Missile Crisis High-school level curriculum
- Nuclear Files.org Introduction, timeline and articles about the Cuban Missile Crisis
- Cuba Havana Documentary Documentary about what Cubans are thinking today
- Annotated bibliography on the Cuban Missile Crisis from the Alsos Digital Library.
- October, 1962: DEFCON 4, DEFCON 3
- Spartacus Educational(UK): Cuban Missile Crisis
- Latin American Task Force
- What the President didn’t know
- Document-Britain’s Cuban
- The Cuban Missile War: an alternate history timeline
- No Time to Talk: The Cuban Missile Crisis
- The 32nd Guards Air Fighter Regiment in Cuba (1962-1963) S.Isaev.
- Chiến tranh Lạnh
- Lịch sử Hoa Kỳ
- Lịch sử Cuba
- Lịch sử Nga
- Xung đột năm 1962
- Cách mạng Cuba
- Quan hệ quốc tế 1962
- Hoa Kỳ 1962
Bảo Đại
Bảo Đại | ||
---|---|---|
Hoàng đế Việt Nam (chi tiết…) | ||
![]() Chân dung Hoàng đế Bảo Đại
|
||
Hoàng đế nhà Nguyễn | ||
Trị vì | 6 tháng 11 năm 1925 – 23 tháng 8 năm 1945 | |
Đăng quang | 8 tháng 1 năm 1926 | |
Tiền nhiệm | Nguyễn Hoằng Tông | |
Kế nhiệm | Không có Chế độ quân chủ chấm dứt Hoàng thái tử: Nguyễn Phúc Bảo Long |
|
Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam | ||
Tại vị | 13 tháng 6 năm 1949 – 25 tháng 10 năm 1955 | |
Tiền nhiệm | Nguyễn Văn Xuân (Thủ tướng Chính phủ Lâm thời) |
|
Kế nhiệm | Ngô Đình Diệm | |
Thủ tướng Quốc Gia Việt Nam | ||
Tại vị | 14 tháng 7 năm 1949 – 21 tháng 1 năm 1950 | |
Tiền nhiệm | Nguyễn Văn Xuân (Thủ tướng Chính phủ Lâm thời) |
|
Kế nhiệm | Nguyễn Phan Long | |
Thông tin chung | ||
Hoàng hậu | Nam Phương hoàng hậu | |
Hậu duệ |
|
|
Tên húy | Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy ( | |
Niên hiệu | Bảo Đại | |
Triều đại | Nhà Nguyễn | |
Hoàng gia ca | Đăng đàn cung | |
Thân phụ | Nguyễn Hoằng Tông Khải Định hoàng đế |
|
Thân mẫu | Từ Cung Hoàng thái hậu | |
Sinh | 22 tháng 10 năm 1913 Huế, Việt Nam |
|
Mất | 31 tháng 7, 1997 (83 tuổi) Paris, Pháp |
|
An táng | Nghĩa trang Passy |
Bảo Đại (22 tháng 10, 1913 – 31 tháng 7, 1997) là vị Hoàng đế thứ 13 và cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn, cũng là vị Hoàng đế cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam.
Từ Bảo Đại chỉ là niên hiệu của ông, tục lệ nhà Nguyễn các vị Hoàng đế đời trước chỉ giữ một niên hiệu nên dân gian hay dùng niên hiệu để chí vị Hoàng đế đó. Ông đồng thời cũng là Hoàng đế của Đế quốc Việt Nam và là quốc trưởng của Quốc gia Việt Nam.
Mục lục
- 1 Tiểu sử và sự nghiệp
- 2 Đánh giá
- 3 Gia quyến
- 4 Câu nói nổi tiếng
- 5 Trong thơ ca
- 6 Trong điện ảnh
- 7 Tiền đồng “Bảo Đại thông bảo”
- 8 Chú thích
- 9 Liên kết ngoài
Tiểu sử và sự nghiệp
Thuở nhỏ
Hoàng đế sinh ngày 22 tháng 10 năm 1913[1] tại kinh thành Huế, là người con trai duy nhất của Nguyễn Hoằng Tông Khải Định hoàng đế, mẹ là Từ Cung Hoàng thái hậu Hoàng Thị Cúc. Về thân thế của Bảo Đại Đế cho đến nay vẫn còn nhiều nghi ngờ, vì Khải Định Đế bị mang tiếng là bất lực và không thích gần đàn bà[cần dẫn nguồn][2].
Ngày 28 tháng 4 năm 1922, khi được 9 tuổi, ông được xác lập làm Đông cung Hoàng Thái tử[3]. Ngày 15 tháng 6 năm 1922, ông cùng Khải Định Đế lần đầu sang Pháp để thưởng ngoạn cuộc triển lãm hàng hóa tại Marseille, Pháp.
Tháng 6 năm 1922, Vĩnh Thụy được vợ chồng cựu Khâm sứ Trung kỳ là Jean François Eugène Charles nhận làm con nuôi và học ở trường Lycée Condorcet rồi sau ở trường Sciences Po (École libre des sciences politiques), Paris. Tháng 2 năm 1924, ông về nước để dự Lễ Tứ Tuần Đại Khánh của Khải Định Đế, đến Tháng 11 trở lại nước Pháp để tiếp tục học.
Ngày 6 tháng 11 năm 1925, Khải Định Đế băng hà, Hoàng thái tử Vĩnh Thụy về nước thọ tang. Ngày 8 tháng 1, Thái tử được tôn lên kế vị làm Hoàng đế kế nhiệm, ông lấy niên hiệu Bảo Đại, lúc này ông mới 12 tuổi. Tháng 3 cùng năm, Bảo Đại Đế trở lại Pháp để tiếp tục học tập. Từ niên khóa 1930, Bảo Đại Đế theo học trường Khoa học Chính trị (Sciences Po).
Sau 10 năm đào tạo ở Pháp quốc, ngày 16 tháng 8 năm 1932, Bảo Đại Đế cùng triều quan, xuống tàu D Artagnan về nước. Ngày 19 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại Đế ra đạo dụ số một tuyên cáo chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ Đại Nam hoàng triều. Văn bản này hủy bỏ “Quy ước” ngày 16 tháng 11 năm 1925 lập ra sau khi Hoằng Tông Khải Định Đế băng không lâu.
Đại Nam Hoàng đế
Bảo Đại Đế đã cải cách công việc trong triều như sắp xếp lại việc nội chính, hành chính. Hoàng đế đã cho bỏ một số tập tục mà các Tiên Đế đã bày ra như thần dân không phải quỳ lạy mà có thể ngước nhìn long nhan Thiên tử khi lễ giá tới, mỗi khi vào chầu các quan Tây không phải chắp tay xá lạy mà chỉ bắt tay vua, các quan ta cũng không phải quỳ lạy.
Ngày 8 tháng 4, năm 1932, Bảo Đại Đế đã ban hành một đạo dụ cải tổ nội các, quyết định tự mình chấp chính và sắc phong thêm 5 thượng thư mới xuất thân từ giới học giả và hành chính là Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản, Hồ Đắc Khải, Ngô Đình Diệm và Bùi Đằng Đoàn nhằm thay thế các thượng thư già yếu hoặc kém năng lực là Nguyễn Hữu Bài, Tôn Thất Đàn, Phạm Liệu, Võ Liêm, Vương Tứ Đại[4] . Ông thành lập Viện Dân biểu để trình bày nguyện vọng lên nhà vua và quan chức bảo hộ Pháp và cho phép Hội đồng tư vấn Bắc Kỳ được thay mặt Nam triều trong việc hợp tác với chính quyền bảo hộ, tháng 12 năm 1933, Bảo Đại ngự du Bắc hà thăm dân chúng.
Ngày 20 tháng 3 năm 1934, Bảo Đại làm đám cưới với Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan và tấn phong bà làm Nam Phương hoàng hậu. Đây là một việc làm phá lệ bởi vì kể từ khi vua Gia Long khai sáng triều Nguyễn cho đến vua Khải Định, các vợ vua chỉ được phong tước Hoàng phi, sau khi mất mới được truy phong Hoàng hậu. Ông là nhà vua đầu tiên thực hiện bỏ chế độ cung tần, thứ phi. Cuộc hôn nhân này cũng gặp phải rất nhiều phản đối vì Nguyễn Hữu Thị Lan là người Công giáo và mang quốc tịch Pháp.
Quốc trưởng Đế quốc Việt Nam
Sau khi Nhật đảo chính Pháp và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, Bảo Đại ra đạo dụ “Tuyên cáo Việt Nam độc lập”, tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam, thống nhất Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ.[cần dẫn nguồn] Trong tuyên bố của Bảo Đại, bãi bỏ các hiệp ước bảo hộ và mất độc lập với Pháp trước đây, độc lập theo tuyên ngôn Đại đông Á, và “ông cũng như Chính phủ Việt Nam tin tưởng lòng trung thực của Nhật Bản và nó được xác định làm việc với các nước để đạt được mục đích” (theo Par Francis AGOSTINI).[cần dẫn nguồn]
Ngày 7 tháng 4 năm 1945, Bảo Đại đã ký đạo dụ số 5 chuẩn y thành phần nội các Trần Trọng Kim và ngày 12 tháng 5 giải thể Viện Dân biểu Trung Kỳ.[cần dẫn nguồn] Tháng 6 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam.
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Trần Trọng Kim tuyên bố bảo vệ “độc lập” giành được 9 tháng 3, và ngày 18 tháng 8 tạo ra một Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Theo lời khuyên của ông Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bảo Đại gửi thông điệp cho Tổng thống Truman, vua nước Anh, Thống chế Tưởng Giới Thạch, Tướng de Gaulle đề nghị công nhận độc lập của Việt Nam. Tuy nhiên đến 24 tháng 8 ông đã thực hiện câu trả lời Hội đồng Cơ mật quyết định thoái vị “để không phải là một trở ngại cho sự giải phóng của đất nước”.[5]
Ngày 18 tháng 8, vua Bảo Đại đã xác nhận độc lập của Việt Nam sau khi Nhật đầu hàng, được công bố vào tháng 3 và đồng thời gửi một thông điệp đến De Gaulle yêu cầu công nhận nền độc lập của Việt Nam. Thông điệp này cho rằng sự độc lập của Việt Nam “chỉ có nghĩa là bảo vệ lợi ích của Pháp và ảnh hưởng tinh thần Pháp ở Đông Dương“.[cần dẫn nguồn] Tuy nhiên De Gaulle dự kiến sẽ hậu thuẫn cho một chế độ quân chủ mà người đứng đầu không phải là Bảo Đại, người đã thỏa hiệp với Nhật Bản để được “độc lập”, mà là Vĩnh San, được xem như là một người “Gaullist”.[6]
Thoái vị
Từ tháng 3 năm 1945, Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn do khoảng trống về quyền lực chính trị quá lớn. Người Nhật đang lo chống đỡ các đòn tấn công của quân đội đồng minh Anh-Mỹ. Cả chính phủ của Trần Trọng Kim lẫn triều đình của Bảo Đại đều không đủ lực lượng quân sự và uy tín chính trị để kiểm soát tình hình. Theo Peter A. Pull, chỉ có Việt Minh là lực lượng có tổ chức duy nhất ở nước này có khả năng nắm được quyền chính trị.[7] Chiến tranh đã làm kiệt quệ nền kinh tế, nước Nhật cạn kiệt nguyên liệu nên quân Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm khác, bắt dân phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nạn đói (Nạn đói Ất Dậu) đã xảy ra tại Bắc kỳ và Trung kỳ. Người ta ước tính rằng đã có khoảng hai triệu người chết vì nạn đói này.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Tại các địa phương trên cả nước, Việt Minh buộc chính quyền Đế quốc Việt Nam giao quyền lực cho họ. Trước tình thế đó, Bảo Đại quyết định thoái vị. Bảo Đại không rõ phải liên lạc với ai ở Hà Nội, nên gửi một điện tín tới “Ủy ban Nhân dân Cứu quốc” ở Hà Nội:
“Đáp ứng lời kêu gọi của Ủy ban, tôi sẵn sàng thoái vị. Trước giờ quyết định này của lịch sử quốc gia, đoàn kết là sống, chia rẽ là chết. Tôi sẵn sàng hy sinh tất cả mọi quyền lợi, để cho sự đoàn kết được thành tựu, và yêu cầu đại diện của Ủy ban sớm tới Huế, để nhận bàn giao.“[8]
Sáng ngày 23 tháng 8, hai phái viên của Việt Minh là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận đến cung điện Huế. Theo lời yêu cầu của hai ông này, chiều ngày 25 tháng 8, 1945, Bảo Đại đã đọc Tuyên ngôn Thoái vị trước hàng ngàn người tụ họp trước cửa Ngọ Môn và sau đó trao ấn tín, quốc bảo của hoàng triều cho ông Trần Huy Liệu. Ông trở thành “công dân Vĩnh Thụy”. Trong bản Tuyên ngôn Thoái vị, ông có câu nói nổi tiếng “Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị“.[9]
Tham gia Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Tháng 9 năm 1945, ông được Chủ tịch Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mời ra Hà Nội nhận chức “Cố vấn tối cao Chính phủ Lâm thời Việt Nam”, ông là một trong 7 thành viên của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Hồ Chí Minh đứng đầu.
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Lưu vong sang Trung Quốc
Ngày 16 tháng 3 năm 1946, ông tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Trùng Khánh thăm viếng Trung Hoa, nhưng ông không trở về nước, mà về Côn Minh rồi Hương Cảng. Tại Côn Minh, ông đã tiếp xúc với nhiều giới chính trị, trong đó có người Mỹ. Đại tướng George Marshall, đại diện Hoa Kỳ, đã đem bản giao ước với Bảo Đại về trình Tổng thống Harry S. Truman. Bảo Đại bèn viết thư về nước xin từ chức “Cố vấn tối cao” trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam
Đàm phán với chính phủ Pháp
Đầu năm 1947, D’Argenlieu bị triệu hồi về nước do bị người Việt Nam và các đảng phái cánh tả Pháp căm ghét. Trước áp lực của các đảng phái cánh tả Pháp như Đảng Cộng sản Pháp và Đảng Xã hội Pháp, Thủ tướng Ramadier – một đại biểu xã hội chủ nghĩa, thông báo rằng chính phủ của ông ủng hộ nền độc lập và thống nhất cho Việt Nam: “Độc lập trong Liên hiệp Pháp [và] liên minh của ba nước An Nam, nếu người dân An Nam mong muốn nó” và Pháp sẵn sàng đàm phán hòa giải với những đại diện chân chính của Việt Nam[10].
Để hậu thuẫn cho Bảo Đại đàm phán với Pháp về nền độc lập của Việt Nam, các lực lượng chính trị bao gồm Cao Đài, Hoà Hảo, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, Đại Việt Quốc dân đảng và Việt Nam Quốc dân Đảng liên kết thành lập Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp.[11] Ngay sau đó, Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp quyết định sẽ ủng hộ Bảo Đại đàm phán với Pháp về nền độc lập của Việt Nam. Tháng 5/1947, Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp cử phái đoàn đến Hồng Kông gặp Bảo Đại để thuyết phục ông này thành lập một Chính phủ Trung ương và đàm phán với Pháp về nền độc lập của Việt Nam.[12] Bảo Đại được Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp bao gồm các lực lượng chính trị Cao Đài, Hoà Hảo, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, Đại Việt Quốc dân đảng và Việt Nam Quốc dân Đảng hậu thuẫn.[11] Đây là những tổ chức chính trị hoặc tôn giáo từng tham gia chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hay hợp tác với Việt Minh chống Pháp nhưng do xung đột với Việt Minh nên chuyển sang ủng hộ Bảo Đại thành lập Quốc gia Việt Nam.
Năm 1947, cựu trùm mật thám Pháp ở Đông Dương là Cousseau đã tiếp xúc với Bảo Đại tại Hồng Kông, ngỏ ý mời ông về nước nắm quyền, hình thành nên “giải pháp Bảo Đại”. Có ý kiến cho rằng việc này nhằm chống lại cuộc chiến giành độc lập của phong trào Việt Minh[13], cũng có ý kiến cho rằng giải pháp Bảo Đại được đưa ra nhằm phản ứng với xu hướng quốc tế trao trả độc lập cho các thuộc địa đồng thời nhằm chống lại sự mở rộng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Dương[14]. Còn bản thân Bảo Đại nhận xét rằng “Cái được gọi là giải pháp Bảo Đại hóa ra là giải pháp của người Pháp.”[15]
Mỹ ủng hộ nguyện vọng độc lập dân tộc tại Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, nhưng với điều kiện lãnh đạo của những nhà nước mới “không phải là người cộng sản”, Mỹ ủng hộ việc thành lập các “nhà nước phi cộng sản” ổn định trong khu vực tiếp giáp Trung Quốc. Theo thuyết Domino, Mỹ hỗ trợ những quốc gia đồng minh tại Đông Nam Á vì không hài lòng với điều mà họ cho là “lực lượng cộng sản muốn thống trị Châu Á dưới chiêu bài dân tộc“.[16] Bằng viện trợ, Mỹ ép Pháp phải nhượng bộ chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam. Chính sách của Mỹ là hỗ trợ người Pháp chiến thắng trong cuộc chiến chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sau đó sẽ ép người Pháp rút lui khỏi Đông Dương.[17] Đáp lại, phía Pháp nhận định là Mỹ quá “ngây thơ”, và một người Pháp đã nói thẳng là “những người Mỹ ưa lo chuyện người khác, ngây thơ vô phương cứu chữa, tin tưởng rằng khi quân đội Pháp rút lui, mọi người sẽ thấy nền độc lập của người Việt xuất hiện.”[18]
Ngày 7/12/1947, tại cuộc họp trên tàu chiến Pháp ở Vịnh Hạ Long, Bảo Đại và Pháp đàm phán rồi ký kết Hiệp ước Vịnh Hạ Long. Hiệp ước thể hiện sự đồng thuận của hai bên về việc thành lập Quốc gia Việt Nam trên cơ sở nguyên tắc độc lập và thống nhất của Việt Nam trong Liên hiệp Pháp, mặc dù nghĩa chính xác của từ “độc lập” và các quyền hạn cụ thể của chính phủ mới vẫn chưa được xác định. Chính phủ hoạt động dưới một hiến chương lâm thời, chọn cờ vàng ba sọc đỏ làm quốc kỳ và bản “Thanh niên Hành Khúc” với lời nhạc mới làm quốc ca.[19] Quốc gia Việt Nam sẽ có một quân đội riêng tuy nhiên phải “sẵn sàng bảo vệ bất cứ phần nào của Liên Hiệp Pháp”. Sự độc lập chính trị của nhà nước Quốc gia Việt Nam được quy định trong Hiệp ước Vịnh Hạ Long quá nhỏ nên hiệp ước này bị Ngô Đình Diệm và cả những chính trị gia trong Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp chỉ trích.[11]
Do bị các chính trị gia trong Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp chỉ trích, Bảo Đại chấm dứt đàm phán với Pháp và đi du lịch Châu Âu trong 4 tháng. Người Pháp cử các nhà ngoại giao theo Bảo Đại để thuyết phục ông tiếp tục đàm phán và thành lập Chính phủ. Tháng 1/1948, Cao ủy Pháp tại Đông Dương E. Bollaert tìm gặp Bảo Đại ở Genève, Thụy Sĩ để thuyết phục ông quay về Việt Nam để tiếp tục đàm phán và thành lập Chính phủ. Bảo Đại tuyên bố nếu Hiệp ước Vịnh Hạ Long không được bổ sung ông sẽ không quay về Việt Nam. Sau đó ông đi Cannes, Paris rồi quay về Hồng Kông.[20]
Thành lập Quốc gia Việt Nam
Ngày 24 tháng 4 năm 1948, thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân và Trần Văn Hữu cũng bay tới Hồng Kông để gặp Bảo Đại xin thành lập Chính phủ Lâm thời cho Việt Nam, ngày 15 tháng 5, Bảo Đại gửi thông điệp cho tướng Xuân, tán thành sự thành lập Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam do tướng Xuân điều khiển “để giải quyết vấn đề Việt Nam đối với Pháp và dư luận Quốc tế”.
Ngày 5 tháng 6 năm 1948, Bảo Đại đã gặp gỡ Cao ủy Pháp Bollaert ở vịnh Hạ Long, trên chiến hạm Duguay Trouin, để đàm phán về nền độc lập và thống nhất của Việt Nam. Tháng 1 năm 1949, Bản tuyên ngôn Việt – Pháp được công bố, theo đó nước Pháp công nhận nền độc lập và thống nhất của Việt Nam trong khuôn khổ của khối Liên hiệp Pháp.
Việt Minh chỉ trích Bảo Đại là xấu xa, tội lỗi vì đã lấy lại từ người Pháp chữ “độc lập” thần kỳ mà Hồ Chí Minh đã cố gắng giành giật ở Fontainebleu không được. Những người Pháp có tư tưởng thực dân phản đối điều mà họ cho là sự đầu hàng của Bollaert, đồng thời yêu cầu cắt Nam Kỳ ra khỏi phần còn lại của Việt Nam, đòi đưa Việt Nam quay trở lại chế độ Bảo hộ. Các chính trị gia ở Paris ra sức trấn an những người Pháp ủng hộ chủ nghĩa thực dân và đảm bảo với họ rằng sẽ không có gì thay đổi – cuộc chiến tranh sẽ không chấm dứt. Các lãnh tụ Cộng hoà Bình dân và nhiều người thân cận với Cộng hoà Bình dân lại cho rằng kéo dài chiến tranh sẽ hết sức có lợi và đã đi đến quyết định không để cho cuộc chiến tranh kết thúc sớm[21].
Sau đó Bảo Đại rút lui khỏi các hoạt động chính trị và đi Châu Âu một lần nữa. Ngày 25/8/1948, từ Saint Germain Bảo Đại báo cho E. Bollaert biết ông sẽ không quay về Việt Nam nếu Pháp không hủy bỏ chế độ thuộc địa tại Nam Kỳ và trao trả Nam Kỳ lại cho Quốc gia Việt Nam cũng như nếu ông không nhận được sự đảm bảo của Pháp cho Việt Nam độc lập.[22]
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập một chính quyền Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam, đứng đầu là Bảo Đại. Bảo Đại yêu cầu Pháp phải trao trả Nam Kỳ cho Việt Nam và Pháp đã chấp nhận yêu cầu này.
Ngày 24 tháng 4 năm 1949, Bảo Đại về nước. Hai tháng sau, vào ngày 14 tháng 6, Bảo Đại tuyên bố tạm cầm quyền cho đến khi tổ chức được tổng tuyển cử và tạm giữ danh hiệu Hoàng đế để có một địa vị quốc tế hợp pháp. Ngày 20 tháng 6 năm 1949, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân đệ đơn từ chức, Chính phủ Lâm thời Nam phần tuyên bố giải tán. Ngày 21 tháng 6, thỏa ước Elyseé được công bố.
Cuối tháng 6 năm 1949, Việt Nam chính thức thống nhất dưới sự quản lý của Quốc gia Việt Nam.[11] Pháp chuyển giao những chức năng hành chính cho Quốc gia Việt Nam một cách chậm chạp, hai chức năng quan trọng nhất và tài chính và quân đội thì vẫn phụ thuộc vào Pháp.
Thành lập Chính phủ
Ngày 1 tháng 7 năm 1949, Chính phủ Lâm thời của Quốc gia Việt Nam được thành lập theo sắc lệnh số 1-CP của thủ tướng, tấn phong Bảo Đại là Quốc trưởng, trung tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng[23] (Có tài liệu ghi Bảo Đại là Quốc trưởng kiêm Thủ tướng, Nguyễn Văn Xuân là phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng[24]). Theo đánh giá của người Mỹ, Bảo Đại ít tham gia vào công việc của chính phủ, giành nhiều thời gian cho nghỉ mát[25].
Tháng 1 năm 1950, Bảo Đại chỉ định Nguyễn Phan Long làm Thủ tướng. Ngày 27 tháng 4 năm 1950, giải tán chính phủ Nguyễn Phan Long và ủy nhiệm Thủ hiến Trần Văn Hữu thành lập chính phủ mới. Tính đến đầu năm 1950, có 35 quốc gia công nhận Quốc gia Việt Nam.[26]
Từ tháng 6 cho đến tháng 10 năm 1950, Quốc gia Việt Nam và Pháp họp tại Pau (Pháp) để bàn về việc chuyển giao các chức năng quản lý xuất nhập cảnh, quan hệ ngoại giao, ngoại thương, hải quan và tài chính cho Quốc gia Việt Nam. Tài chính là vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất bao gồm việc kiểm soát lợi nhuận từ hoạt động ngoại hối. Kết quả tất cả các chức năng trên đã được Pháp chuyển giao cho Quốc gia Việt Nam. Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu sau khi ký thỏa thuận với Pháp đã tuyên bố: “Nền độc lập của chúng tôi hiện nay thật tuyệt vời“. Các quan chức Pháp phàn nàn về Bảo Đại: “Ông ấy tập trung quá mức vào việc lấy lại từ chúng tôi những gì có thể thay vì tìm kiếm sự ủng hộ từ nhân dân… Lịch sử sẽ phán xét ông ấy vì quá chú tâm vào chuyện này“. Tuy nhiên người Pháp vẫn dành cho mình quyền quan sát và can thiệp đối với những vấn đề liên quan đến toàn bộ Liên Hiệp Pháp. Người Pháp còn có quyền tiếp cận mọi thông tin nhà nước, tham dự vào tất cả các quyết định của chính phủ và nhận một khoản nhỏ từ lợi tức quốc gia của Việt Nam.[11]
Ngày 8/12/1950, Quốc gia Việt Nam và Pháp ký Hiệp định quân sự thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam bằng cách đặt một số đơn vị quân đội Pháp tại Việt Nam dưới quyền chỉ huy của Quốc gia Việt Nam. Dự kiến quân đội này sẽ bao gồm 120.000 quân và 4.000 sĩ quan. Tất cả sĩ quan đều phải là người Việt.[27] Pháp có trách nhiệm hỗ trợ Quốc gia Việt Nam thành lập những đơn vị mới do sĩ quan Việt Nam chỉ huy và đào tạo sĩ quan người Việt thay thế dần những sĩ quan Pháp đang hiện diện trong Quân đội Quốc gia Việt Nam. Nhà sử học Spencer C. Tucker cho rằng Quân đội Quốc gia Việt Nam được huấn luyện kém và không có sĩ quan chỉ huy cấp cao người Việt, Pháp chỉ đơn giản là đưa những người lính mới tuyển mộ được vào các quân đoàn Viễn chinh của chính Pháp, tại đó, người chỉ huy là các sĩ quan Pháp.[6]
Archimedes L.A Patti nhận xét: “Tất nhiên họ (Quốc gia Việt Nam) đã lầm, không bao giờ Pháp cho Việt Nam độc lập để mất Đông Dương. Bảo Đại trở về Việt Nam và cho rằng ông ta đã làm hết sức mình để người Pháp phải giữ lời cam kết. Ông sẽ chờ và xem. Có thể người Mỹ sẽ khích lệ giúp đỡ. Nhưng sau một ngày ở Sài Gòn, thấy Pháp từ chối không cho ông sử dụng dinh Norodom, trụ sở chính quyền thuộc địa Pháp, Bảo Đại liền rút lui về nhà ở Đà Lạt. Sự việc này cho thấy rõ tình hình chẳng có gì thay đổi cả”.[28]
Tướng Georges Revers, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp, được phái sang Việt Nam để nghiên cứu tình hình (tháng 5, 6 năm 1949) và sau đó đã viết: “Hồ Chí Minh đã có khả năng chống cự lại với sự can thiệp của Pháp lâu đến như thế, chính là vì nhà lãnh đạo Việt Minh đã biết tập hợp chung quanh mình một nhóm những người thực sự có năng lực… Ngược lại, Bảo Đại đã có một chính phủ gồm độ 20 đại biểu của toàn các đảng phái ma, trong số đó đảng mạnh nhất cũng khó mà đếm được 25 đảng viên”[29].
Người Pháp trì hoãn một cách có tính toán việc thi hành thoả hiệp Élysée với Quốc gia Việt Nam. Quân đội của họ tiếp tục tham chiến tại Việt Nam, nhân viên hành chính tiếp tục làm việc ở các cấp chính quyền; Quốc gia Việt Nam chẳng được trao cho một chút quyền hành thực sự nào, như bấy giờ người ta nói, Quốc gia Việt Nam chỉ là một sự nguỵ trang cho nền cai trị của Pháp.[30].
Thay đổi Thủ tướng
Chính phủ do Trần Văn Hữu làm Thủ tướng tồn tại đến ngày 6 tháng 6 năm 1952 thì phải cáo lui, nhường chỗ cho Nguyễn Văn Tâm lên làm thủ tướng cùng thành phần tổng, bộ trưởng đa số là người do Pháp đào tạo.
Ngày 20 tháng 11 năm 1953, hoàng thân Bửu Lộc từ Pháp về Sài Gòn lập chính phủ thay thế chính phủ Nguyễn Văn Tâm. Thời gian này, Quốc trưởng Bảo Đại sống và làm việc tại biệt điện ở Đà Lạt. Xung quanh nơi ở của Bảo Đại có cả một trung đoàn Ngự lâm quân bảo vệ và có cả một đoàn xe riêng gọi là “công xa biệt điện”, lại có cả một đội máy bay riêng do các phi công người Pháp lái phục vụ.
Ngày 11 tháng 1 năm 1954, Chính phủ mới do Bửu Lộc thành lập trình diện Bảo Đại nhưng đến ngày 16 tháng 6 năm 1954, Bửu Lộc từ chức. Quốc trưởng Bảo Đại mời Ngô Đình Diệm về nước, ngày 6 tháng 7, Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ mới.
Sau Hiệp định Genève 1954, Pháp phải rút khỏi Đông Dương, chính quyền và quân đội Quốc gia Việt Nam tập kết ở miền Nam Việt Nam chờ tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam.
Ngô Đình Diệm tiến hành cải tổ chính phủ lần thứ nhất vào ngày 24 tháng 9 năm 1954 và lần thứ hai vào ngày 10 tháng 5 năm 1955.
Bị phế truất
Tháng 9 năm 1954, tướng Nguyễn Văn Hinh không chịu dưới quyền chỉ huy của Ngô Đình Diệm nên đánh điện sang Pháp nhờ Bảo Đại can thiệp. Bảo Đại điện về Sài Gòn triệu tập Diệm sang Cannes gặp Bảo Đại để bàn lại việc sắp xếp nhân sự nhưng Diệm không đi. Bảo Đại quyết định điện về Sài Gòn cách chức thủ tướng của Ngô Đình Diệm.
Tuy nhiên, ngày 4 tháng 10 năm 1955, Ủy ban trưng cầu dân ý thành lập đưa ý kiến đòi truất phế Quốc trưởng Bảo Đại và đưa Thủ tướng Ngô Đình Diệm lên làm Quốc trưởng. Khi cử tri đi đến nơi bỏ phiếu, họ thấy rằng nơi đây đã bị những người ủng hộ Ngô Đình Diệm kiểm soát. Một cử tri sau khi bỏ phiếu đã nói rằng “Người chỉ đạo nói cho chúng tôi hiểu rằng ở đây chỉ có hai sự lựa chọn, hoặc là phiếu đỏ (Ngô Đình Diệm) sẽ được bỏ vào hòm phiếu hoặc phiếu xanh sẽ bị loại đi”.[31] Trong trường hợp này Bảo Đại đã mất cơ hội trở về chính quốc với 5.721.735 phiếu truất còn Ngô Đình Diệm được suy tôn lên chức vị Quốc trưởng, Bảo Đại sống lưu vong ở Pháp khi mới 40 tuổi cho đến khi qua đời vào ngày 31 tháng 7 năm 1997 tại Paris.[32][33]
Cuộc sống lưu vong
Ông sống tại Cannes, sau đó chuyển đến vùng Alsace. Bảo Đại giao du với Jean de Beaumont, cựu nghị sĩ Nam Kỳ, một tay săn bắn có hạng. Bị cơ quan thuế để mắt tới, không còn tiền tài trợ của chính phủ Pháp, ông phải bán dần tài sản của mình. Năm 1963, Nam Phương hoàng hậu qua đời ở Chabrignac. Năm 1972, khi đã tiêu pha hết cả tài sản, Bảo Đại sống với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém Bảo Đại hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946), đến năm 1982 thì kết hôn. Bảo Đại nhập đạo Công giáo lấy tên thánh là Jean-Robert.
Trong thời gian này, ảnh hưởng của Bảo Đại tại các khu vực như Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế vẫn còn rất lớn. Chính vì vậy phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đã phái các đại diện sang Pháp nhằm thuyết phục Bảo Đại tham gia một chính phủ liên hiệp nhằm thống nhất Việt Nam, nhờ đó thông qua Bảo Đại thì miền Bắc có thể thu hút thêm những người ủng hộ tại các địa phương mà Bảo Đại có ảnh hưởng. Dưới ảnh hưởng của các cuộc gặp mặt này, trong những buổi phát biểu công khai Bảo Đại đã thể hiện lập trường chống lại sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, chỉ trích chính phủ Nguyễn Văn Thiệu và kêu gọi thành lập một chính phủ liên hiệp tự do, trung lập và hòa bình tại Việt Nam [cần dẫn nguồn].
Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng tộc ở hải ngoại, Bảo Đại lần đầu tiên sang thăm Mỹ với tư cách cá nhân. Trong chuyến đi này ông đã nhận tên cha để làm lại giấy khai sinh cho những người con ngoại hôn trước đây không ghi tên cha. Tại thị trấn Sacramento, ông được tặng chiếc chìa khóa vàng tượng trưng cho thị trấn này. Ông cũng được bà thị trưởng thành phố Westminster, California tặng danh hiệu “công dân danh dự” của thành phố. Ông cũng thăm viếng và chúc mừng các buổi lễ của cộng đồng Phật giáo và Đạo Cao đài người Việt ở California cùng các cộng đồng người Mỹ gốc Việt ở Texas. Bảo Đại cũng nhân dịp này thăm dò ý kiến của các cộng đồng người Việt sống ở Hoa Kỳ, từ đó tìm ra giải pháp cho việc hòa giải dân tộc.
Tang lễ
Cựu hoàng Bảo Đại là vị vua thọ nhất nhà Nguyễn. Ông qua đời vào 5 giờ sáng ngày 31 tháng 7 năm 1997 tại Quân y viện Val-de-Grâce[34], hưởng thọ 85 tuổi. Ông cũng là một phế đế sống thọ nhất trên thế giới thời hiện đại. Trước đó ông có nhận lời về tham dự Hội nghị thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie) được tổ chức tại Hà Nội vào 1997.[35]
Đám tang Bảo Đại được tổ chức một cách lặng lẽ vào lúc 11 giờ ngày 6 tháng 8 năm 1997 tại nhà thờ Saint-Pierre de chaillot số 35 đại lộ Marceau, quận 16 Paris và linh cữu được mai táng tại nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero.[34]
Trả lời BBC về sự kiện này, bà Monique nói: “Ngày hôm nay tôi rất đau buồn. Dĩ nhiên rồi, trước hết và trên hết là vì chồng tôi vừa qua đời. Nhưng hôm nay trang sử của triều Nguyễn Việt Nam cũng được chấm dứt. Tôi cầu nguyện cho chồng tôi“.[36]
Đánh giá
Trong cuốn “Bảo Đại – hay những ngày cuối cùng của vương quốc An Nam”, Daniel Grandclément viết[37]:
- Bảo Đại đúng như những gì mọi người Việt đã biết về ông: hào hoa, lịch lãm và sành điệu, săn bắn giỏi, lái xe hơi, máy bay giỏi, khiêu vũ, đánh golf, chơi quần vợt giỏi… Ông chỉ không biết làm vua. Ông vua nước Nam cứ quẩn quanh, thậm chí mưu mẹo chỉ để có được từ chiếc xe hơi, máy bay cho đến khẩu súng săn, cuốn album bìa da, thỏa mãn những thú vui vật chất.
- Như lời Bảo Đại thú nhận: “Người Pháp lúc nào cũng muốn tôi ngồi yên một chỗ, không cho thân mật với dân nên trong hai mươi năm trời làm vua tôi ra Bắc một lần, vào Nam kỳ một lần, cũng là đi lướt qua, không thấy rõ ràng một điều gì. Xung quanh tôi họ đặt toàn những người mật thám. Tôi rất buồn biết mình không thể làm chi có ích cho đất nước…”.
- Ông mơ hồ tin tưởng vào “nền độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp” đạt được dễ dàng cùng với các điều kiện vật chất. Quen sung sướng, quen được cung phụng, Bảo Đại dường như chưa bao giờ nghĩ đến việc đi tìm độc lập bằng con đường nếm mật nằm gai như các vua Hàm Nghi, Duy Tân trước ông.
- Ông đã khước từ những cơ hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo ra, mang đến cho ông… Khước từ cơ hội đi chung đường với cả dân tộc, dù ông đã cùng chính phủ cộng hòa non trẻ ngồi họp bàn từ việc lớn đến việc nhỏ trong những ngày khai sinh nhà nước. Con đường mà Bảo Đại chọn cuối cùng đã dẫn đến kết cục “ông hoàng bị quét đi như quét một hạt bụi vô giá trị…”.
- Hành động lớn nhất trong đời ông là thoái vị, và ông đi vào lịch sử chỉ bằng một câu nói: “Tôi muốn làm dân một nước tự do hơn là làm vua một nước nô lệ”.
Gia quyến
- Tổ phụ: Cảnh Tông Thuần hoàng đế Nguyễn Phúc Ưng Kỷ.
- Tổ mẫu: Hựu Thiên Thuần hoàng hậu Dương thị (佑天純皇后楊氏; 18 tháng 4, 1868 – 17 tháng 9, 1944), được tôn phong Khôn Nghi Xương Đức Thái hoàng thái hậu (坤儀昌德太皇太后), còn gọi là Đức Tiên Cung (德仙宮). Khi Bảo Đại Đế còn bé đều do Thái hoàng thái hậu nuôi dưỡng.
- Cha: Hoằng Tông Tuyên hoàng đế Nguyễn Phúc Bửu Đảo.
- Mẹ: Đoan Huy Hoàng thái hậu Hoàng thị (端暉皇太后黃氏; 28 tháng 1, 1890 – 9 tháng 11, 1980), còn gọi là Đức Từ Cung (德慈宮). Bà vốn là Cung nhân, xuất thân thấp kém, sau mang thai Bảo Đại Đế mà được tấn phong Huệ phi (惠妃).
- Hậu phi:
- Nam Phương hoàng hậu Nguyễn Hữu thị (南芳皇后阮友氏; 14 tháng 12, 1914 – 16 tháng 9, 1963), tên húy là Lan (蘭), con gái của Nguyễn Hữu Hào và phu nhân Lê Thị Bính, con gái của Lê Phát Đạt. Quê Gò Công, Tiền Giang, Việt Nam, có hôn thú, có 5 người con
- Bùi Mộng Điệp (裴夢蝶; 22 tháng 6, 1924 – 26 tháng 6, 2011), quê Bắc Ninh, không hôn thú, có 3 người con.
- Ánh phi Lê thị (暎妃黎氏) ở Huế, (24 tháng 06, 1925 – 15 tháng 12, 1986: 61 tuổi) không hôn thú, có 2 người con, Bảo Đại Đế biểu muội, được phong làm Ánh phi (暎妃) vào năm 1935. Về sau đều gọi bà là Lê Phi Ánh (黎妃暎).
- Lý Lệ Hà, quê Thái Bình, vũ nữ, không hôn thú, không có con
- Hoàng Tiểu Lan (黄小兰), còn tên khác là Jenny Woong, vũ nữ Trung Hoa lai Pháp, không hôn thú, có 1 con gái, sau này cũng có đưa về Đà Lạt, cũng có một biệt thự như các bà thứ phi người Việt.
- Quý bà Vicky (Pháp), không hôn thú, có 1 con gái.
- Clément(?), vũ nữ và buôn lậu ở xóm Cigalle (Pháp), không hôn thú
- Monique Marie Eugene Baudot (莫尼克·博多), người Pháp, sinh tại Lorraine vào ngày 30 tháng 4, năm 1946. Năm 1972 vào tháng 2, bà kết hôn với Bảo Đại Đế, được xưng danh Hoàng phi (皇妃; Imperial Princess). Sau khi Bảo Đại Đế băng hà, bà tự xưng làm Thái Phương hoàng hậu (泰芳皇后).[38]
- Hậu duệ: Bảo Đại hoàng đế có 5 hoàng tử và 7 hoàng nữ, tổng cộng 12 người con.
-
- Hoàng tử:
- Nguyễn Phúc Bảo Long, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1936, mất ngày 28 tháng 7 năm 2007. Mẹ là Nam Phương hoàng hậu.
- Nguyễn Phúc Bảo Thắng, sinh ngày 9 tháng 12 năm 1943. Mẹ là Nam Phương hoàng hậu.
- Nguyễn Phúc Bảo Ân, sinh năm 1951 đang sống tại Westminster, là người con nối dõi nhà Nguyễn. Ông Bảo Ân có hai con, gái là Nguyễn Phúc Thụy Sĩ, sinh năm 1976 và trai là Nguyễn Phúc Quý Khang sinh năm 1977. Như vậy, Nguyễn Phúc Quý Khang là cháu đức tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại.[39]. Mẹ là Lê Phi Ánh.
- Nguyễn Phúc Bảo Hoàng, sinh năm (1954 – 1955), chết khi một tuổi. Mẹ là Bùi Mộng Điệp.
- Nguyễn Phúc Bảo Sơn, sinh năm (1957 – 1987), chết khi 30 tuổi vì tử nạn tại Nhật. Mẹ là Bùi Mộng Điệp.
-
- Hoàng nữ:
- Nguyễn Phúc Phương Mai, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1937 tại Đà Lạt.
- Nguyễn Phúc Phương Liên, sinh ngày 3 tháng 11 năm 1938. Mẹ là Nam Phương hoàng hậu.
- Nguyễn Phúc Phương Dung, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1942. Mẹ là Nam Phương hoàng hậu.
- Nguyễn Phúc Phương Thảo, sinh ngày 4 tháng 6, 1946 hiện nay đang sống ở Pháp. Mẹ là Bùi Mộng Điệp.
- Nguyễn Phúc Phương Minh, sinh ngày 15 tháng 1, 1949, bà lấy chồng và lập nghiệp ở Pháp, rồi ly dị, trước Tháng 4 năm 1975 về Sài Gòn thăm mẹ và bị kẹt lại đây, sau đó được bảo lãnh sang Hoa Kỳ lập nghiệp và qua đời tại Hoa Kỳ vào năm 2012. Mẹ là Lê Phi Ánh.
- Nguyễn Phúc Phương An, sinh năm 1955, hiện nay đang sống ở Hawaii, Hoa Kỳ[40][41]. Mẹ là Hoàng Tiểu Lan.
- Nguyễn Phúc Phương Từ, sinh năm 1955[42], hiện đang sống ở Pháp. Mẹ là Quý bà Vicky.
Bảo Đại hoàng đế còn có một người con do bà Từ Cung Hoàng thái hậu nuôi từ nhỏ, nhưng không rõ là con bà nào do ông không tiết lộ.[43].
Câu nói nổi tiếng
- Ta không muốn một quân đội nước ngoài làm đổ máu thần dân ta.[44] phát biểu khi từ chối sự bảo vệ của quân Nhật chống lại nguy cơ đảo chính của Việt Minh
- Làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ.[45]
- Cái được gọi là giải pháp Bảo Đại hóa ra là giải pháp của người Pháp.[15]
- Đã đến lúc kết thúc cuộc chiến huynh đệ tương tàn và ít nhất là phục hồi hòa bình cùng sự hòa hợp.[46] phát biểu năm 1972 nhằm kêu gọi hòa bình và hòa hợp dân tộc ở Việt Nam
- Xin cho tôi được sống và chết trong bình yên.[47]
Trong thơ ca
Khi Bảo Đại sang Trung Quốc, nhà thơ Việt Nam đương thời Tú Mỡ có bài thơ châm biếm về việc này.
Trong điện ảnh
Hình tượng Bảo Đại được dựng thành bộ phim “Ngọn nến Hoàng cung” năm 2004 do diễn viên Huỳnh Anh Tuấn đóng.
Tiền đồng “Bảo Đại thông bảo”
Tiền đồng Bảo Đại thông bảo (保大通寶) là loại tiền đồng Việt Nam kiểu cổ sau cùng được chế tạo. Có ba loại tiền Bảo Đại Thông bảo: loại tiền đúc cỡ nhỏ, loại tiền đúc cỡ lớn mặt sau có nổi chữ “mười văn” và loại tiền đúc lớn có mặt sau “trơn”. Tất cả được phát hành vào năm 1933.
Chú thích
- ^ “Birth of Emperor Bao Dai of Vietnam”. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.
- ^ Xem thêm bài “Vua Bảo Đại con ai” của Võ Hương An
- ^ Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả, NXB Thuận Hóa, 1995, Tr 405
- ^ Việc này được Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn ghi lại trong bài thơ sau:
- Năm trụ khi không rớt cái ình,
- Đất trời sấm dậy thảy đều kinh.
- Bài không đeo nữa đem dâng Lại,
- Đàn nỏ ai nghe khéo dấu Hình.
- Liệu thế không xong Binh chẳng được,
- Liêm đằng giữ tiếng Lễ đừng rinh.
- Công danh thôi thế là hưu hỉ,
- Đại sự xin nhường lớp hậu sinh.
Nguyễn Phúc Tộc gia phả, NXB Thuận Hóa, 1995, tr. 405
- ^ Stéphane Just: A propos d’une possibilité théorique et de la lutte pour la dictature du prolétariat trên La Vérité” n°588 (Septembre 1979)
- ^ a ă Paul-Marie de La GORCE:De Gaulle-Leclerc: de Londres à l’Indochine Espoir n°132, 2002
- ^ Peter A. Pull. Nước Mỹ và Đông Dương-Từ Roosevelt đến Nixon. NXB Thông tin lý luận. Hà Nội. 1986. trang 23.
- ^ Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam, Nguyễn Phước Tộc Xuất Bản, 1990, trang 185
- ^ Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam, Nguyễn Phước Tộc Xuất Bản, 1990, trang 186-188
- ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb Đà Nẵng, 2008, trang 644
- ^ a ă â b c The Pentagon Papers, Chapter 2, “U.S. Involvement in the Franco-Viet Minh War, 1950-1954”, U.S. POLICY AND THE BAO DAI REGIME
- ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb Đà Nẵng, 2008, trang 646 – 647
- ^ Quỳnh Cư-Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh niên, 1999, trang 384
- ^ The first Indochina war: French and American policy 1945-54 – Ronald E Irving – London: Croom Helm, 1986
- ^ a ă H. R. McMaster (1998). Dereliction of Duty: Johnson, McNamara, the Joint Chiefs of Staff, and the Lies That Led to Vietnam. New York, New York: HarperCollins Publishers, Inc.
- ^ The Pentagon Papers, Chapter 2, “U.S. Involvement in the Franco-Viet Minh War, 1950-1954”, MEMORANDUM FOR THE PRESIDENT – Harry S. Truman President, trích “Recognition by the United States of the three legally constituted governments of Vietnam, Laos’ and Cambodia appears desirable and in accordance with United States foreign policy for several reasons. Among them are: encouragement to national aspirations under non-Communist leadership for peoples of colonial areas in Southeast Asia; the establishment of stable non-Communist governments in areas adjacent to Communist China; support to a friendly country which is also a signatory to the North Atlantic Treaty; and as a demonstration of displeasure with Communist tactics which are obviously aimed at eventual domination of Asia, working under the guise of indigenous nationalism.”
- ^ The Pentagon Papers, Chapter 2, “U.S. Involvement in the Franco-Viet Minh War, 1950-1954”, Trích “The U.S.-French ties in Europe (NATO, Marshall Plan, Mutual Defense Assistance Program) only marginally strengthened U.S. urgings that France make concessions to Vietnamese nationalism. Any leverage from these sources was severely limited by the broader considerations of U.S. policy for the containment of communism in Europe and Asia. NATO and the Marshall Plan were of themselves judged to be essential to our European interests. To threaten France with economic and military sanctions in Europe in order to have it alter its policy in Indochina was, therefore, not plausible. Similarly, to reduce the level of military assistance to the French effort in Indochina would have been counter-productive, since it would have led to a further deterioration in the French military position there. In other words, there was a basic incompatibility in the two strands of U.S. policy: (1) Washington wanted France to fight the anti-communist war and win, preferably with U.S. guidance and advice; and (2) Washington expected the French, when battlefield victory was assured, to magnanimously withdraw from Indochina.“
- ^ Alfred McCoy. South Vietnam: Narcotics in the Nation’s Service. Trích dẫn: “The French had little enthusiasm for this emerging nation and its premier, and so the French had to go. Pressured by American military aid cutbacks and prodded by the Diem regime, the French stepped up their troop withdrawals. By April 1956 the once mighty French Expeditionary Corps had been reduced to less than 5,000 men, and American officers had taken over their jobs as advisers to the Vietnamese army. The Americans criticized the french as hopelessly “colonialist” in their attitudes, and French officials retorted that the Americans were naive During this difficult transition period one French official denounced “the meddling Americans who, in their incorrigible guilelessness, believed that once the French Army leaves, Vietnamese independence will burst forth for all to see.” Although this French official was doubtlessly biased, he was also correct. There was a certain naiveness, a certain innocent freshness, surrounding many of the American officials who poured into Saigon in the mid 1950s.”“
- ^ Dương Kiền. Việt Nam thế kỷ 20 biên niên sử. Falls Church, VA: Tiếng Quê Hương, 2005. tr 57
- ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb Đà Nẵng, 2008, trang 648 – 649
- ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb Đà Nẵng, 2008, trang 649
- ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb Đà Nẵng, 2008, trang 650
- ^ Xem thêm “Giai thoại và sự thật về Bảo Đại, vua cuối cùng Triều Nguyễn”, tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2006. Trang 229,287
- ^ Xem chú thích 121, bài “Ngô Đình Diệm, thời chưa năm quyền”
- ^ He divided his time among the pleasure of the resort towns of Dalat, Nha Trang, and Banmethuout, and for all practical purposes, remained outside the process of government – United States – Vietnam Relations, 1945–1967: A Study Prepared by the Department of Defense/II. A. U.S., France and Vietnamese Nationalism
- ^ Hoàng Cơ Thụy. Trang 2301.
- ^ A Brief Overview of the Vietnam National Army and the Republic of Vietnam Armed Forces (1952-1975), PERSPECTIVES ON RVNAF FROM FRUS, Stephen Sherman and Bill Laurie
- ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb Đà Nẵng, 2008, trang 655
- ^ Why Viet Nam?: Prelude to America’s Albatross, Archimedes L.A Patti, University of California Press, 1982, trang 399
- ^ Why Viet Nam?: Prelude to America’s Albatross, Archimedes L.A Patti, University of California Press, 1982, trang 398
- ^ Hoàng Cơ Thụy. tr 2753
- ^ Xem thêm “Giai thoại và sự thật về Bảo Đại, vua cuối cùng Triều Nguyễn”, tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2006. Trang 284-292
- ^ 1954年:越南末代皇帝抵达河内
- ^ a ă Quỳnh Cư-Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh niên, 1999, trang 386
- ^ “Vua Bảo Đại từng bị Tây bắn gãy chân vì… ghen”. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2012.
- ^ Xem thêm “Giai thoại và sự thật về Bảo Đại, vua cuối cùng Triều Nguyễn”, tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2006. Trang 268,269
- ^ Bảo Đại – hay những ngày cuối cùng của vương quốc An Nam, Daniel Grandclément, NXB Phụ Nữ. Lời nói đầu
- ^ Theo tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang, trong cuốn Giai thoại và sự thật về Bảo Đại, vua cuối cùng Triều Nguyễn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2006, thì những người vợ và tình nhân của Bảo Đại gồm:
- ^ Huy Phương (ngày 18 tháng 3 năm 2013). “Gặp gỡ “Mệ” Bảo Ân, con trai út của Cựu Hoàng Bảo Ðại”. Người Việt. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Gác Thọ Lộc”. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Cuộc đời bi thảm, Bảo Đại vẫn không thể thiếu đàn bà”. Báo điện tử Người đưa tin. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Vicky”. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.
- ^ Xem thêm “Giai thoại và sự thật về Bảo Đại, vua cuối cùng Triều Nguyễn“, tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2006. Trang 264
- ^ David George Marr (1995). Vietnam 1945: The Quest for Power. London, England: University of California Press, Ltd.
- ^ Câu “Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ” và câu “Trẫm lấy làm vui được làm dân một nước độc lập” được Bảo Đại tập đọc và đọc tại buổi lễ thoái vị; và câu “làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ” được Bảo Đại viết trong chiếu gửi cho hoàng tộc. Hai chiếu trên Bảo Đại đã nhờ ông Phạm Khắc Hòe soạn hộ và Bảo Đại ký tên, đóng ấn tín vào và ra lệnh dán “chiếu thoái vị” tại Phu Văn Lâu, một chiếu gửi cho hoàng tộc. Theo hồi ký Phạm Khắc Hòe, phần trích lại tại trang 126, 153, 154 cuốn “Giai thoại và sự thật về Bảo Đại, vua cuối cùng Triều Nguyễn”, tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
- ^ Philip Shenon (ngày 2 tháng 8 năm 1997). “Bảo Đại, 83, of Vietnam; Emperor and Bon Vivant”. New York Times.
- ^ Năm 1996, khi các bác sĩ người Pháp giải phẫu mắt cho ông, nhiều đoàn thể và tổ chức chính trị đến chúc mừng và mời ông tham dự với tư cách lãnh tụ, ông khoát tay và nói như van nài: “S’ il vous plaît, laissez- moi vivre et mourir en paix”. Xem Tư liệu (kỳ 9): Hỏi chuyện tình bà “thứ phi” Mộng Điệp với cựu hoàng Bảo Đại của Nguyễn Đắc Xuân, bài được đăng trên tạp chí Kiến thức ngày nay, số 527, tháng 3 năm 2005.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Bảo Đại |
- Bảo Đại tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- Bao Dai (Vietnamese emperor) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Sa Majesté BAO-DAI (Tiếng Pháp).
- Bảo Đại trên trang Việt Nam Gia phả
- 10 ngày cuối cùng của triều Nguyễn
- Vua Bảo Đại thích chơi thể thao ngày Tết, Nguyễn Đông, VnExpress, 25/1/2012
|
|
|
- Sinh 1913
- Mất 1997
- Vua nhà Nguyễn
- Thủ tướng Quốc gia Việt Nam
- Người Huế
- Người Pháp gốc Việt
- Bảo Đại
- Nhân vật trong chiến tranh Việt Nam
Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
- Borlaug và Hemingway
- Chào ngày mới 21 tháng 10
- Bảy ngày đêm tỉnh lặng
- Viếng mộ cha mẹ
- Chào ngày mới 20 tháng 10
- Suối nhạc tình yêu cuộc sống
- Ngủ ngon và tỉnh thức
- Chào ngày mới 19 tháng 10
- Chào ngày mới 18 tháng 10
- Lời Thầy dặn
- Chào ngày mới 17 tháng 10
- Chào ngày mới 16 tháng 10
- Minh Không huyền thoại Bái Đính
- Dạo chơi non nước Việt
- Chào ngày mới 15 tháng 10
- Bàn cờ thế sự
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 14 tháng 10
- Nghị lực
- Quang Dũng những bài thơ hay
- Chào ngày mới 13 tháng 10
- Em ơi em can đảm bước chân lên
- Chào ngày mới 12 tháng 10
- Thắp đèn lên đi em!
- Chào ngày mới 11 tháng 10
- Bài ca Trường Quảng Trạch
- Chào ngày mới 10 tháng 10
- Bàn cờ thế sự 7
- Vua Phổ Friedrich II Đại Đế
- Chào ngày mới 9 tháng 10
- Chào ngày mới 8 tháng 10
- Bước ngoặt lịch sử chiến tranh Đông Dương
- Chào ngày mới 7 tháng 10
- Phan Khôi nắng được thì cứ nắng
- Bàn cờ thế sự 6
- Chào ngày mới 6 tháng 10
- Quả táo Apple Steven Jobs
- Chào ngày mới 5 tháng 10
- Vị tướng của lòng dân
- Chào ngày mới 4 tháng 10
- Praha Goethe và lâu đài cổ
- Chuyện vỉa hè 3
- Cây Lương thực 10.2015
- Chào ngày mới 3 tháng 10
- Chào ngày mới 2 tháng 10
- Sông Mekong tài liệu tổng hợp
- Cây Lương thực 9.2015
- Chào ngày mới 1 tháng 10
- Chào ngày mới 30 tháng 9
- Chào ngày mới 29 tháng 9
- Tiệp Khắc kỷ niệm một thời
- Chào ngày mới 28 tháng 9
- Danh ngôn Albert Einstein
- Bàn cờ thế sự 5
- Bàn cờ thế sự 4
- Chào ngày mới 27 tháng 9
- Cây Lương thực 9.2015
- Chào ngày mới 26 tháng 9
- Chỉ còn anh và em cùng tình yêu ở lại
- Chào ngày mới 25 tháng 9
- Chào ngày mới 24 tháng 9
- Bàn cờ thế sự
- Chào ngày mới 23 tháng 9
- Chào ngày mới 22 tháng 9
- Bàn cờ thế sự
- Di sản Walter Scott
- Chào ngày mới 21 tháng 9
- Chào ngày mới 20 tháng 9
- Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc
- Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
- Chào ngày mới 19 tháng 9
- Đọc “nỗi ám ảnh của quá khứ”
- Chào ngày mới 18 tháng 9
- Chào ngày mới 17 tháng 9
- Nguyễn Du 250 năm nhìn lại
- Chào ngày mới 16 tháng 9
- Chào ngày mới 15 tháng 9
- Bàn cờ thế sự
- Chào ngày mới 14 tháng 9
- Chào ngày mới 13 tháng 9
- Cây Lương thực 9.2015
- Chào ngày mới 12 tháng 9
- Tháp Tự Do giấc mơ Mỹ
- Chào ngày mới 11 tháng 9
- Lương tri tỉnh thức
- Chào ngày mới 10 tháng 9
- Chiến tranh và hòa bình
- Chào ngày mới 9 tháng 9
- Những người Việt lỗi lạc ở FAO
- Chuyện vỉa hè
- Chào ngày mới 8 tháng 9
- Chuyện vỉa hè
- Chào ngày mới 7 tháng 9
- Đến Neva nhớ Pie Đại Đế
- Chào ngày mới 6 tháng 9
- Sấm ký đồng dao huyền thoại
- Chào ngày mới 5 tháng 9
- Cây Lương thực 8.2015
- Khoang trời thung dung
- Văn pháp Truyện Kiều
- Chào ngày mới 4 tháng 9
- Chào ngày mới 3 tháng 9
- Việt Nam Hồ Chí Minh
- Chào ngày mới 2 tháng 9
- Chào ngày mới 1 tháng 9
- Tám người thực sự có siêu năng lực
Video yêu thích
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học CNM365 Tình yêu cuộc sống Cây Lương thực Dạy và Học Kim on LinkedIn KimYouTube Kim on Facebook
Pingback: Năng lượng tích tụ và giải phóng | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Tình Mẹ và đức Nhẫn | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bàn cờ thế sự | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chào ngày mới 24 tháng 10 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Nghiên cứu Kinh Dược Sư | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đến chốn thung dung | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Minh triết sống thung dung phúc hậu | Tình yêu cuộc sống
Pingback: CNM365 Tình yêu cuộc sống | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đọc lại và suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đêm thu | Khát khao xanh
Pingback: Giống khoai lang ở Việt Nam | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Biển Đông vạn dặm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lên Yên Tử sưu tầm thơ đức Nhân Tông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Sớm thu trên đồng rộng | Khát khao xanh
Pingback: Angkor nụ cười suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chuyện vỉa hè | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Im lặng mà bão giông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Myanmar đọc lại và suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ký ức CIMMYT ở Mexico | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Gowda địa chỉ xanh ICRISAT Ấn Độ | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Trường tôi và tình yêu ở lại | Tình yêu cuộc sống
Pingback: 60 năm Đại học Nông Lâm TP. HCM | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ngày mới yêu thương | Khát khao xanh
Pingback: Ơn Thầy | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lời của Thầy theo mãi bước em đi | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Công việc này trao lại cho em | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Kênh ông Kiệt giữa lòng dân | Tình yêu cuộc sống
Pingback: 24 tiết khí lịch nhà nông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Sao Kim kỳ thú | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chu Văn Tiếp ở Đồng Xuân | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Mark Twain là Lincoln văn học Mỹ | Tình yêu cuộc sống
Pingback: CNM365 Chào ngày mới 365 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Học sử: Đọc lại và suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống