CNM365. Chào ngày mới 28 tháng 10. Ngày 28 tháng 10 năm 1955, ngày sinh Bill Gates, giám đốc và người sáng lập Microsoft. Năm 1868, Thomas Alva Edison xin cấp bằng sáng chế đầu tiên. Năm 1636 – Đại học Harvard của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ được thành lập sau cuộc bỏ phiếu của Đại phán Thuộc địa Vịnh Massachusetts. Năm 1886 – Tổng thống Hoa Kỳ Grover Cleveland chủ tọa buổi lễ khánh thành Tượng Nữ thần Tự do tại thành phố New York
28 tháng 10
Ngày 28 tháng 10 là ngày thứ 301 (302 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 64 ngày trong năm.
« Tháng 10 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | ||||
4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 |
18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 |
25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 |
Mục lục
Sự kiện
- 312 – Constantinus Đại đế giành thắng lợi trước Maxentius trong trận chiến trên cầu Milvian bắc qua sông Tevere ở phía bắc thành La Mã, trở thành Hoàng đế La Mã duy nhất.
- 1459 – Lê Nghi Dân tiến hành binh biến, sát hại Lê Nhân Tông.
- 1707 – Trận động đất Hōei được ước tính mạnh trên 8 độ Mw làm hơn 5.000 người thiệt mạng ở ba đảo lớn Honshu, Shikoku và Kyūshū của Nhật Bản.
- 1636 – Đại học Harvard thành lập sau cuộc bỏ phiếu của Đại phán của Thuộc địa Vịnh Massachusetts sau này trở thành một phần của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
- 1762 – Chiến tranh Bảy năm: Quân Phổ đánh tan Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh trong trận đánh tại Freiberg.
- 1886 – Tổng thống Grover Cleveland chủ tọa buổi lễ khánh thành Tượng Nữ thần Tự do tại thành phố New York.
- 1868 – Thomas Alva Edison xin cấp bằng sáng chế đầu tiên.
- 1918 – Hội đồng Quốc gia Tiệp Khắc tuyên bố tại Praha rằng Tiệp Khắc trở thành một quốc gia độc lập từ Đế quốc Áo-Hung.
- 1940 – Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Ý bắt đầu tiến vào Hy Lạp, sau khi Hy Lạp bác bỏ tối hậu thư yêu sách về việc chiếm đóng lãnh thổ Hy Lạp của Ý.
- 1962 – Khủng hoảng Tên lửa Cuba kết thúc với việc Nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev ra lệnh rút các tên lửa của Liên Xô khỏi Cuba.
- 1966 – Ngày thành lập Học viện Kỹ thuật Quân sự Việt Nam
- 1998 – Một máy bay phản lực trở khách của Air China đã bị không tặc bởi phi công bất mãn Yuan Bin và bay tới Đài Loan.
- 2014 – Phi thuyền Cygnus CRS Orb-3 nổ sau 6 giây rời bệ phóng tại Virginia
Sinh
- 1955 – Bill Gates, giám đốc và người sáng lập Microsoft
- 1967 – Julia Roberts, nữ diễn viên nổi tiếng người Mỹ, biết đến nhiều nhất qua vai chính trong phim Pretty Woman.
Mất
- 1976 – Luật sư Trần Văn Tuyên, bí thư Việt Nam Quốc dân Đảng và phó thủ tướng Việt Nam Cộng hòa mất khi bị giam trong trại cải tạo lao động ở Việt Nam.
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về 28 tháng 10 |
Bill Gates
Bill Gates | |
---|---|
Bill Gates năm 2013
|
|
Sinh | William Henry Gates III 28 tháng 10, 1955 Seattle, Washington, U.S. |
Nơi cư trú | Medina, Washington, U.S. |
Học vấn | Đại học Harvard (bỏ học) |
Công việc | Chủ tịch Microsoft Chủ tịch Corbis Đồng chủ tịch Quỹ Bill & Melinda Gates Giám đốc của Berkshire Hathaway CEO của Cascade Investment |
Năm hoạt động | 1975–nay |
Tài sản | ![]() |
Tôn giáo | Thuyết bất khả tri[2] |
Vợ (hoặc chồng) | Melinda Gates (1994) |
Con cái | 3 |
Cha mẹ | William H. Gates, Sr. Mary Maxwell Gates |
Chữ ký | ![]() |
Website | |
gatesnotes.com |
William Henry “Bill” Gates III (sinh ngày 28 tháng 10, 1955)[3] là một doanh nhân người Mỹ, nhà từ thiện, tác giả và chủ tịch tập đoàn Microsoft, hãng phần mềm khổng lồ mà ông cùng với Paul Allen đã sáng lập ra. Ông luôn có mặt trong danh sách những người giàu nhất trên thế giới.[4] và là người giàu nhất thế giới từ 1995 tới 2014, ngoại trừ tháng 3/2013, 3/2012, tháng 3/2011 (hạng 2) và 2008 khi ông chỉ xếp thứ ba.[5] Tháng 5 năm 2013, Bill Gates đã giành lại ngôi vị người giàu nhất thế giới. Gần đây, ông cũng là người giàu nhất thế giới với tài sản 77,8 tỷ đô la Mỹ.[6] Trong thực tế Bill Gate là người không học hành đầy đủ ở Microsoft, Gates làm CEO và kiến trúc sư trưởng phần mềm định hướng cho sự phát triển của tập đoàn. Hiện tại, ông là cổ đông với tư cách cá nhân lớn nhất trong tập đoàn, nắm giữ trên 8 phần trăm cổ phiếu.[7] Ông cũng là tác giả và đồng tác giả của một số cuốn sách.
Gates là một trong những doanh nhân nổi tiếng về cuộc cách mạng máy tính cá nhân. Mặc dù nhiều người ngưỡng mộ ông, nhiều đối thủ cạnh tranh đã chỉ trích những chiến thuật trong kinh doanh của ông, mà họ coi là cạnh tranh không lành mạnh hay độc quyền và công ty của ông đã phải chịu một số vụ kiện tụng.[8][9] Trong giai đoạn gần cuối của sự nghiệp, Gates đã theo đuổi một số nỗ lực từ thiện, quyên góp và ủng hộ một số tiền lớn cho các tổ chức từ thiện và nghiên cứu khoa học thông qua Quỹ Bill & Melinda Gates, được thành lập năm 2000.
Gates đã thôi giữ chức giám đốc điều hành của Microsoft từ tháng 1 năm 2000 nhưng ông vẫn còn là chủ tịch và kiến trúc sư trưởng về phần mềm tại tập đoàn. Tháng 6 năm 2006, Gates thông báo ông sẽ chỉ giành một phần thời gian làm việc cho Microsoft và giành nhiều thời gian hơn cho Quỹ Bill & Melinda Gates. Bill dần dần chuyển vị trí kiến trúc sư trưởng sang cho Ray Ozzie, và vị trí giám đốc chiến lược và nghiên cứu sang cho Craig Mundie. Ngày làm việc toàn phần cuối cùng dành cho Microsoft của Gates là ngày 27 tháng 6 năm 2008. Ông vẫn còn giữ cương vị chủ tịch Microsoft nhưng không điều hành hoạt động tập đoàn.[10]
Mục lục
Tiểu sử
Bill Gates sinh ra ở Seattle, Washington, bố là William H. Gates, Sr. và mẹ Maxwell Gates, là những người gốc Anh, Đức và Scotland–Ailen.[11][12] Ông sinh ra và lớn lên trong gia đình khá giả; bố ông là một luật sư có tiếng, mẹ ông thuộc ban giám đốc của công ty tài chính First Interstate BancSystem và United Way of America, và ông ngoại ông, J. W. Maxwell là chủ tịch của một ngân hàng liên bang. Gates có chị gái Kristi (Kristianne), và một em gái là Libby. Ông là đời thứ tư trong gia tộc, nhưng người ta biết đến ông như là William Gates III hay “Trey” (ba) do bố ông đã bỏ hậu tố “III” trong tên gọi.[13] Khi còn nhỏ, nghề nghiệp của bố mẹ Bill Gates đã làm cho ông có ước mơ trở thành luật sư.[14]
Khi Bill còn bé, gia đình ông thường tham dự vào một giáo đoàn của hội Tin lành.[15][16][17]
Năm 13 tuổi, ông vào học trường Lakeside, một trường dự bị cho các học sinh giỏi.[18] Khi ông học lớp 8, câu lạc bộ các bà mẹ (phụ huynh-Mothers Club) ở trường này đã dùng một khoản tiền nhờ việc bán các đồ dùng đã qua sử dụng để mua một máy đánh chữ cơ điện Model 33 ASR và một máy tính của hãng General Electric (GE) cho các học sinh của trường.[19] Gates thấy thích thú khi lập trình trên máy tính của GE bằng ngôn ngữ BASIC, và ông đã bỏ các lớp toán để theo đuổi sở thích của mình. Ông đã viết chương trình đầu tiên trên máy tính này đó là các thao tác của trò chơi tic-tac-toe cho phép người chơi thi đấu với máy tính. Chiếc máy đã thu hút Gates và tự đặt câu hỏi làm sao mà chiếc máy có thể luôn luôn thực thi các mã phần mềm một cách hoàn hảo như vậy. Khi ông nhớ lại thời điểm này, ông nói, “Chỉ cần một cái gì đó rõ ràng cho chiếc máy” (“There was just something neat about the machine”).[20] Khi quỹ của hội phụ huynh đã hết, ông và các học sinh khác chuyển sang các hệ máy khác bao gồm máy tính mini PDP của hãng DEC. Hãng Computer Center Corporation (CCC) sáng chế ra PDP-10 đã cấm bốn học sinh trường Lakeside bao gồm Bill Gates, Paul Allen, Ric Weiland, và Kent Evans sử dụng hệ máy tính này trong mùa hè sau khi bốn người này đã khai thác các lỗi trong hệ điều hành để nhận được thêm thời gian sử dụng hệ máy tính này.[21]
Khi hết hạn cấm, bốn học sinh đề nghị với công ty CCC là họ sẽ tìm các lỗi trong phần mềm của CCC và đổi lại họ được sử dụng các máy tính của công ty này. Thay vì sử dụng các hệ thống thông qua điện báo, Gates đã đến văn phòng CCC và nghiên cứu mã nguồn cho các chương trình khác nhau chạy trên hệ thống, bao gồm cả chương trình trong FORTRAN, LISP, và ngôn ngữ máy. Việc thỏa thuận với CCC bị kết thúc vào năm 1970, khi công ty này bị phá sản. Một năm sau, Information Sciences, Inc. đã thuê bốn học sinh trường Lakeside để viết một chương trình trả lương bằng ngôn ngữ COBOL, cho phép họ có thời gian sử dụng máy tính và bản quyền phần mềm của công ty. Sau khi những người quản lý ở trường biết được khả năng lập trình của ông, Bill đã được giao nhiệm vụ viết một chương trình lập thời khóa biểu cho các lớp học. Ông đã sửa các mã sao cho chương trình sắp xếp ông vào các lớp có nhiều nữ sinh nhất. Sau này ông nhận xét “thật khó có thể tách tôi ra khỏi máy tính mà rõ ràng tôi có thể chứng minh sự thành công từ nó” (“it was hard to tear myself away from a machine at which I could so unambiguously demonstrate success”).[20] Lúc 17 tuổi, Gates lập kế hoạch kinh doanh với Allen đó là Traf-O-Data nhằm đếm lưu lượng giao thông dựa trên bộ xử lý Intel 8008.
Gates tốt nghiệp trường Lakeside vào năm 1973. Ông đạt được 1590 trên 1600 điểm ở kỳ thi SAT[22] và ghi danh vào Đại học Harvard trong mùa thu năm 1973.[23] Khi học ở Harvard, ông đã quen Steve Ballmer, người sau này kế vị chức CEO của Microsoft.
Trong năm học thứ hai, Gates nghĩ ra thuật toán trong vấn đề sắp xếp bánh kếp, bài toán được xếp vào một trong những vấn đề chưa giải được[24] được nêu ra trong lớp toán tổ hợp của giáo sư Harry Lewis, một trong những người thầy của ông. Thuật toán của Gates đã giữ kỉ lục là thuật toán có thời gian giải nhanh nhất trên 30 năm;[24][25] và thuật toán sau này chỉ nhanh hơn nó khoảng một phần trăm.[24] Phương pháp của ông sau này được viết thành một bài báo chung với nhà khoa học máy tính ở Harvard là Christos Papadimitriou.[26]
Gates không có kế hoạch học tập cụ thể ở Harvard[27] và ông đã giành nhiều thời gian bên cạnh các máy tính ở trường. Ông vẫn liên lạc với Paul Allen, cùng tham gia vào Honeywell trong mùa hè năm 1974.[28] Vào năm sau, chứng kiến sự ra đời của máy MITS Altair 8800 trên nền vi xử lý Intel 8080, lúc này Gates và Allen nhận ra đây là cơ hội cho họ sáng lập ra một công ty về phần mềm máy tính.[29] Ông đã nói quyết định này với bố mẹ ông, họ đã ủng hộ ông sau khi thấy được ông sẽ cần bao nhiêu tiền để bắt đầu lập nghiệp với công ty.[27]
Microsoft
BASIC
Sau khi đọc bài báo trên tạp chí Popular Electronics số tháng 1, 1975 về khả năng của máy Altair 8800, Gates đã liên lạc với công ty đã sáng chế ra chiếc mày này là Micro Instrumentation and Telemetry Systems (MITS), để công ty này có thể mời ông và những người khác làm việc với chiếc máy trên nền tảng trình thông dịch BASIC.[30] Thực tế, Gates và Allen đã không được tiếp xúc với máy Altair và họ đã không viết mã chương trình cho nó; hai người chỉ muốn thử xem công ty MITS có muốn họ cộng tác hay không. Giám đốc MITS là Ed Roberts đồng ý cho họ sử dụng phiên bản demo, và chỉ trong vài tuần họ đã phát triển chương trình giả lập máy Altair chạy trên một máy tính mini, và sau đó là ngôn ngữ BASIC. Cuộc thử nghiệm chiếc máy đã diễn ra tại trụ sở của MITS ở Albuquerque đã thành công và kết quả là một bản thỏa thuận với MITS để công ty phân phối trình thông dịch dưới tên gọi Altair BASIC. Paul Allen được mời làm việc cho MITS,[31] và Gates đã không có mặt ở trường Harvard để tới làm việc cùng Allen ở MITS tại Albuquerque vào tháng 11 năm 1975. Họ đặt tên cho sự hợp tác giữa hai người là “Micro-Soft” và trụ sở đầu tiên của công ty đặt ở Albuquerque.[31] Cũng trong năm này, dấu gạch ngang đã được bỏ ra khỏi tên của công ty, và vào ngày 26 tháng 11 năm 1976, thương hiệu “Microsoft” đã được đăng ký tại Văn phòng bang New Mexico.[31] Do đó mà Gates không thể hoàn thành khóa học tại Harvard được.
BASIC của Microsoft được phổ biến trong giới đam mê máy tính, nhưng Gates đã phát hiện ra rằng bản sao chép trước khi phần mềm được đưa ra thị trường đã bị rò rỉ ra cộng đồng và nhanh chóng nó được sao chép và phân tán. Tháng 2 năm 1976, Gates viết “Lá thư mở đến những người đam mê máy tính” trong chuyên san của MITS nói rằng MITS không thể tiếp tục sản xuất phần mềm, phân phối, và duy trì chất lượng cao của phần mềm mà không trả phí cho ông.[32] Lá thư này không được nhiều người đam mê máy tính biết đến nhưng Gates vẫn khăng khăng tin rằng công ty phải trả khoản phí do ông đòi hỏi. Microsoft tách ra khỏi MITS vào cuối 1976, công ty tiếp tục phát triển các ngôn ngữ lập trình cho các hệ máy khác nhau.[31] Ngày 1 tháng 1 năm 1979, công ty chuyển trụ sở từ Albuquerque đến Bellevue, Washington.[30]
Những năm đầu của Microsoft, mọi nhân viên trong công ty cũng phải kiêm luôn hoạt động kinh doanh của nó. Gates giám sát khâu kinh doanh đến từng chi tiết, nhưng vẫn tiếp tục tham gia viết mã chương trình. Trong 5 năm đầu, cá nhân ông thường đánh giá từng dòng lệnh trong các phần mềm đóng gói của công ty, và thường viết lại từng phần của chúng cho đến khi ông thấy phù hợp.[33]
Đối tác với IBM
Năm 1980, IBM thông qua Microsoft để viết trình thông dịch BASIC cho máy tính cá nhân sắp được tung ra của họ là máy IBM PC. Khi người đại diện của IBM đề cập đến họ cần một hệ điều hành trên các máy tính của họ, Gates đã giới thiệu họ với Digital Research (DRI), công ty viết hệ điều hành CP/M được sử dụng rộng rãi thời đó.[34] Thỏa thuận giữa IBM với Digital Research đạt được kết quả không như mong đợi, và hai bên đã không đạt đến được thỏa thuận về đăng ký bản quyền. Đại diện của IBM là Jack Sams nhắc đến sự khó khăn trong vấn đề đăng ký trong cuộc gặp sau đó giữa ông và Bill Gates và nói với ông về đưa ra một hệ điều hành chấp nhận được. Vài tuần sau, Gates đề xuất sử dụng 86-DOS (QDOS), một hệ điều hành tương tự như CP/M do Tim Paterson của hãng Seattle Computer Products (SCP) viết cho các phần cứng có tính năng tương tự như PC. Microsoft đã thực hiện một thỏa thuận với SCP để trở thành đại lý cấp phép độc quyền, và sau đó là chủ sở hữu hoàn toàn đối với 86-DOS. Sau khi nâng cấp hệ điều hành cho phù hợp với PC, Microsoft chuyển giao nó cho IBM với tên gọi PC-DOS với phí một lần trao đổi là $50.000. Gates không đưa ra khả năng chuyển giao bản quyền của hệ điều hành, bởi vì ông tin rằng các nhà sản xuất phần cứng khác sẽ sản xuất PC dựa trên dòng máy của IBM.[35] Và đúng là như vậy, nhờ thị phần lớn của MS-DOS làm cho Microsoft trở thành hãng phần mềm lớn trong công nghiệp phần mềm.[36]
Gates giám sát quá trình tái cơ cấu Microsoft vào ngày 25 tháng 6 năm 1981, trong đó kết hợp lại công ty ở tiểu bang Washington và Gates trở thành Chủ tịch và Chủ tịch hội đồng quản trị của Microsoft.[30]
Windows
Microsoft phát hành phiên bản bán lẻ đầu tiên của Microsoft Windows vào ngày 20 tháng 11 năm 1985, và trong tháng 8, công ty ký hợp đồng với IBM nhằm phát triển một hệ điều hành riêng biệt gọi là OS/2. Mặc dù hai công ty đã phát triển thành công phiên bản đầu tiên của hệ điều hành mới, nhưng sự gắn kết giữa những ý tưởng sáng tạo khác nhau đã dần làm suy yếu quan hệ đối tác. Gates phân phát một bản ghi nhớ nội bộ ngày 16 tháng 5 năm 1991 tuyên bố chấm dứt sự hợp tác trong OS/2 và Microsoft sẽ chuyển sang nỗ lực phát triển nhân hệ điều hành Windows NT.[37]
Phong cách quản lý
Từ khi thành lập Microsoft năm 1975 cho đến 2006, Gates có trách nhiệm chính trong chiến lược sản phẩm của công ty. Ông đã tích cực mở rộng phạm vi sản phẩm của công ty, và ở bất cứ nơi nào Microsoft đạt được vị trí thống trị của nó thì ông mạnh mẽ bảo vệ vị thế này. Ông đạt được danh tiếng vượt xa so với những người khác; vào đầu năm 1981 một giám đốc điều hành công nghiệp phàn nàn trước công chúng rằng: “Gates có tính xấu là không chịu nghe và trả lời bằng điện thoại.”[38] Một vị giám đốc khác nhớ lại rằng sau khi chỉ cho Gates cách chơi một trò trơi điện tử và ông đã đánh bại anh ta với tỷ số 35 trên 37 ván, và khi hai người gặp lại nhau một tháng sau thì Gates “đã giành chiến thắng hoặc mê mẩn với trò chơi. Anh đã nghiên cứu trò này cho đến khi có thể giải được nó. Đây đúng là một đối thủ cạnh tranh.”[39]
Là giám đốc điều hành, Gates thường xuyên gặp gỡ với các nhà quản lý cấp cao và quản lý chương trình phần mềm của Microsoft. Những người tham dự các cuộc họp này mô tả ông luôn sẵn sàng tranh luận trực tiếp, hoặc trách móc các thành viên quản lý để mọi người nhận thấy được các lỗ hổng trong chiến lược kinh doanh của họ hoặc những rủi ro trong đề xuất khi tính đến lợi ích lâu dài của công ty.[40][41]
Ông thường ngắt lời người thuyết trình với những câu phê phán như, “tại sao anh không từ bỏ quyền chọn của mình và gia nhập Peace Corps?”[42] Những người này sẽ phải bảo vệ đề xuất của mình trước những phản biện của ông cho đến khi người đó hoàn toàn thuyết phục được Gates hay không.[43] Khi những người cấp dưới có vẻ chần chừ và muốn trì hoãn, ông thường nói một cách châm biếm rằng, “tôi sẽ làm việc đó vào cuối tuần.”[44][45][46]
Vai trò của Gates tại Microsoft trong phần lớn lịch sử của tập đoàn chủ yếu là người quản lý và điều hành. Tuy nhiên, ông cũng tham gia vào phát triển phần mềm trong những ngày đầu của công ty, đặc biệt về các sản phẩm ngôn ngữ lập trình. Ông không còn đảm nhiệm trưởng nhóm phát triển phần mềm kể từ sản phẩm TRS-80 Model 100 (1983),[47] nhưng vẫn còn viết mã chương trình cho các sản phẩm của công ty cho đến 1989.[45] Ngày 15 tháng 6, 2006, Gates tuyên bố ông rời vị trí quản lý thường nhật của tập đoàn trong hai năm tiếp theo để giành thêm thời gian cho công tác từ thiện. Ông quyết định chia trọng trách đảm nhiệm của mình, đề bạt Ray Ozzie là người quản lý hàng ngày và Craig Mundie giữ vai trò quản lý chiến lược sản phẩm dài hạn.[48]
Vụ kiện chống độc quyền
Nhiều quyết định của Bill Gates trong hoạt động kinh doanh của Microsoft đã dẫn đến vụ kiện chống độc quyền nhằm vào tập đoàn. Trong vụ kiện Hoa Kỳ chống lại Microsoft năm 1998, một số nhà báo đưa tin rằng trong lúc lấy lời khai, Gates trả lời nhiều câu hỏi một cách lảng tránh. Ông cãi với luật sư David Boies với nội dung tương đương một số từ như, “cạnh tranh”, “quan tâm”, và “chúng tôi”.[49] Báo BusinessWeek đăng nội dung:
Ở những vòng lấy lời khai ban đầu, ông thường trả lời lúng túng và nói ‘tôi không nhớ’ rất nhiều lần khiến vị thẩm phán chủ tọa cũng phải cười. Tệ hơn nữa, nhiều lời phủ nhận và biện hộ không thể chối cãi của vị lãnh đạo công nghệ đã bị bên nguyên bác bỏ với những đoạn câu trong e-mail mà Gates đã gửi và nhận được.[50]
Gates sau đó nói rằng ông chỉ đơn giản chống lại những cố gắng của luật sư Boies nhằm hiểu sai những từ và hành động của ông. Nói về những cử chỉ trong lúc trả lời hỏi cung, ông kể, “Tôi có rào đón Boies không?… Tôi đã nhận tội. Cho dùng hình phạt nên áp dụng vào tôi thì sự khiếm nhã của Boies phải được nhắc đến trước tiên.”[51] Mặc dù Gates phủ nhận, quan tòa đã phán quyết rằng Microsoft đã độc quyền và bán kèm đối với những sản phẩm của mình làm cản trở sự cạnh tranh trong thị trường, cả hai điều này đều vi phạm đạo luật chống độc quyền Sherman.[51]
Xuất hiện trong quảng cáo
Bill Gates đã xuất hiện trong một số chương trình quảng bá cho Microsoft vào năm 2008. Phim quảng cáo thương mại đầu tiên, ông diễn cùng với Jerry Seinfeld, là một đoạn đối thoại ngắn dài 90 giây giữa một người lạ do Seinfeld thủ vai đi đến tiệm bán giày giảm giá trong trung tâm mua sắm và gặp Gates đang mua giày ở bên trong. Người bán hàng đang cố bán cho Bill Gates loại giày quá cỡ. Khi Gates đang chọn mua, trên tay ông cầm một thẻ mua hàng giảm giá có ảnh hơi khác ảnh chụp của ông khi bị cảnh sát bắt tạm giữ vì Bill Gates đã vi phạm luật giao thông ở New Mexico năm 1977.[52] Khi hai khách hàng đi ra khỏi trung tâm, Seinfeld hỏi Gates có định hướng cho những nhà phát triển khác không, sau khi Bill trả lời là có thì ông ta hỏi tiếp là có phải họ đang làm cho máy tính trở lên dễ sử dụng hơn không, Gates tiếp tục trả lời là có. Một số người nói rằng đây là sự kính trọng dành cho chương trình hài kịch tình huống của Seinfeld về “không cái gì cả” (Seinfeld).[53] Trong đoạn phim quảng cáo thứ hai, Gates và Seinfeld đến ở nhà của một gia đình trung lưu và cố gắng thích nghi với lối sống của họ.[54]
Hậu Microsoft
Từ khi rời vị trí quản lý thường nhật tại Microsoft (ông vẫn là chủ tịch[55]), Gates giành thời gian cho các hoạt động từ thiện, cùng các dự án khác như mua lại bản quyền ghi hình các bài giảng của Richard Feynman với nội dung Tính chất các định luật vật lý tại Đại học Cornell năm 1964 do hãng BBC ghi lại. Có thể xem miễn phí các video tại dự án Tuva của Microsoft.[56][57]
Tháng 4 năm 2010, Gates được mời nói chuyện tại Viện Công nghệ Massachusetts với sinh viên về những vấn đề khó khăn mà thế giới trong tương lai phải đối mặt.[58][59]
Cuộc sống cá nhân
Gates cưới Melinda French ngày 1 tháng 1 năm 1994. Họ có 3 con: Jennifer Katharine, Rory John, Phoebe Adele.
Gia đình họ sống trong khu biệt thự nhìn ra hồ Washington ở Medina, bang Washington. Theo thống kê công khai của quận King, cho đến 2006 giá trị của khu biệt thự vào khoảng 125 triệu $, và thuế bất động sản hàng năm là $991.000.
Khu bất động sản rộng 66.000 sq ft (6.100 m2) có một bể bơi dài 60 foot (18 m) trang bị hệ thống âm nhạc dưới nước, một phòng tập thể thao 2.500 sq ft (230 m2) và có một phòng ăn rộng 1.000 sq ft (93 m2).[60]
Một trong những bộ sưu tập của Gates là bản thảo Codex Leicester, bao gồm những trang giấy viết tay của Leonardo da Vinci mà Gates đã mua trong cuộc đấu giá với số tiền 30,8 triệu $ năm 1994.[61] Ông cũng là một người ham đọc sách, và trên trần của gian thư viện trong khu biệt thự có khắc một câu nói trong tiểu thuyết The Great Gatsby.[62] Ông cũng thích chơi bài bridge, tennis, và golf.[63][64]
Gates được xếp vào danh sách tỷ phú Forbes 400 từ 1993 đến 2007 và là người giàu nhất thế giới theo danh sách tỷ phú của Forbes từ 1995 tới 2007 và 2009. Năm 1999, tài sản của ông vượt qua 101 tỷ $ trong một thời gian ngắn và các phương tiện truyền thông đã gọi Bill Gates “người giàu trăm tỷ đô”.[65] Mặc dù là người giàu có và thường xuyên phải di chuyển khắp nơi trên thế giới nhưng Gates vẫn đặt vé máy bay hạng phổ thông cho đến tận 1997 khi ông đặt mua một chiếc máy bay riêng.[66] Từ 2000, giá trị cổ phần mà ông nắm giữ tại Microsoft bị tụt giảm do sự giảm giá cổ phiếu của Microsoft sau bong bóng Dot-com và do ông đã giành nhiều tỷ đô la cho quỹ từ thiện của mình. Trong một cuộc phỏng vấn tháng 5 năm 2006, Bill Gates đã nói rằng ông ước gì không trở thành người giàu nhất trên thế giới bởi vì ông không muốn quá nhiều sự chú ý mà danh hiệu này đem lại.[67] Ông cũng đầu tư kinh doanh tại các công ty khác ngoài Microsoft, mà trong năm 2006 ông kiếm được số tiền 966.667$ với mức lương 616.667$ và khoản thưởng 350.000$ từ các công ty này.[68] Ông thành lập hãng Corbis, một công ty ảnh kỹ thuật số vào năm 1989. Năm 2004 ông là giám đốc ban quản trị của Berkshire Hathaway, một tập đoàn đầu tư do người bạn lâu năm Warren Buffett thành lập.[69] Tháng 3 năm 2010, Bill Gates được xếp hạng là người giàu thứ hai thế giới sau Carlos Slim.
Công tác từ thiện
Gates bắt đầu đánh giá cao sự mong đợi từ những người khác khi dư luận cho rằng ông có thể dùng tài sản của mình để làm từ thiện. Gates đã học cách làm của Andrew Carnegie và John D. Rockefeller, và vào năm 1994 ông bán một số cổ phiếu của Microsoft nhằm tạo dựng Quỹ William H. Gates. Năm 2000, Gates và vợ đã sáp nhập ba quỹ của gia đình thành một là Quỹ Bill & Melinda Gates, quỹ từ thiện hoạt động công khai lớn nhất thế giới hiện nay.[70] Cách hoạt động của quỹ cho phép các nhà hảo tâm biết được thông tin mà tiền họ quyên góp sẽ được sử dụng như thế nào, không giống như cách hoạt động của những tổ chức từ thiện lớn khác như Wellcome Trust.[71][72] Sự hào phóng và đóng góp lớn của David Rockefeller cho công việc từ thiện được coi là nhân tố chính tác động đến ông. Gates cùng cha mình đã gặp Rockefeller vài lần, và họ thực hiện công tác từ thiện theo những mục tiêu giống với mục tiêu hoạt động của quỹ từ thiện nhà Rockefeller, như những vấn đề toàn cầu bị chính phủ các nước và các tổ chức bỏ qua hoặc chưa được quan tâm đúng mức.[73] Cho đến 2007, Bill và Melinda Gates là quỹ từ thiện lớn thứ hai ở Hoa Kỳ, với ngân sách tới 28 tỷ $.[74] Họ có kế hoạch dành tới 95% tài sản cho từ thiện.[75]
Quỹ đầu tư vào các công ty có mục đích làm giảm tỷ lệ đói nghèo ở các nước kém phát triển, vào các công ty sản xuất gây ô nhiễm nặng, công ty dược mà nhiều loại thuốc không được bán ở các nước đang phát triển.[76] Mục tiêu của Quỹ là thúc đẩy những ý tưởng sáng tạo, phát triển các công nghệ năng lượng sạch, nâng cao khả năng chăm sóc sức khỏe của xã hội cũng như đầu tư vào giáo dục.[77]
Melinda Gates cho rằng nhiều người nên học lòng từ thiện của gia đình Salwen. Gia đình này đã bán nhà của họ và dành một nửa số tiền thu được cho quyên góp từ thiện, như được miêu tả trong The Power of Half.[78] Gates và vợ đã mời Joan Salwen đến Seattle để kể về những hoạt động mà gia đình họ đã làm. Vào ngày 9 tháng 12 năm 2010, Gates, Warren Buffett, và Mark Zuckerberg đã ký vào bản ghi nhớ “Cam kết cho đi của Gates-Buffet“, mà họ hứa sẽ giành ít nhất một nửa tài sản làm từ thiện trong tương lai.[79][80][81]
Công nhận
Năm 1987, Gates lần đầu tiên trở thành tỷ phú khi có tên trong danh sách Những người giàu nhất Forbes 400 xuất bản ở Hoa Kỳ, chỉ một ngày trước lần sinh nhật thứ 32 của ông. Là một tỷ phú tự thân lập nghiệp trẻ nhất thế giới với tài sản khi đó là 1,25 tỷ $, tăng hơn 900 triệu $ so với tài sản ông có ở năm trước.[82]
Tạp chí Time nêu tên Gates là một trong những người ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20, cũng như một trong 100 người ảnh hưởng nhất trong các năm 2004, 2005, và 2006. Time cũng vinh danh đồng thời Gates, Melinda và trưởng nhóm ban nhạc U2 Bono là Nhân vật của năm 2005 cho những nỗ lực mang tính nhân văn của họ.[83] Năm 2006, ông đứng thứ 8 trong danh sách “Anh hùng của thời đại”.[84] Năm 1999 báo The Sunday Times nêu tên ông trong “Danh sách những người quyền lực nhất”, và Tạp chí Giám đốc điều hành công nhận ông là CEO của năm 1994. Ông xếp thứ nhất trong “Top 50 Nhân vật Công nghệ” của Time năm 1998, xếp thứ hai trong “Danh sách 100 người nổi tiếng” của tờ Upside năm 1999 và là một trong “Top 100 người ảnh hưởng trong truyền thông” của The Guardian năm 2001.[85]
Năm 1994, ông được vinh danh là Hội viên xuất sắc thứ 20 của Hiệp hội Máy tính Anh quốc. Bill Gates đã nhận nhiều bằng tiến sỹ danh dự từ Đại học kinh doanh Nyenrode, Breukelen, Hà Lan năm 2000;[86] Viện công nghệ hoàng gia, Stockholm, Thụy Điển năm 2002;[87] Đại học Waseda, Tokyo, Nhật Bản năm 2005; Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh, Trung Quốc năm 2007;[88] Đại học Harvard năm 2007;[89] Viện Karolinska, Stockholm, năm 2008,[90] và Đại học Cambridge năm 2009.[91] Ông cũng là thành viên danh dự của Đại học Bắc Kinh năm 2007.[92] Gates cũng là Hiệp sĩ danh dự của Đế chế Anh (KBE) do Nữ hoàng Elizabeth II trao năm 2005,[93] và các nhà côn trùng học đặt tên Bill Gates cho một côn trùng họ Ruồi giả ong là Eristalis gatesi.[94]
Tháng 11 năm 2006, ông và vợ nhận Tước hiệu Đại bàng Aztec cho hoạt động từ thiện của họ trên thế giới trong các lĩnh vực sức khỏe và giáo dục, đặc biệt ở Mexico với chương trình “Un país de lectores”.[95] Tháng 10 năm 2009, Gates nhận Giải thưởng Bower 2010 trong lĩnh vực Người lãnh đạo kinh doanh của Viện Franklin vì những thành tựu trong kinh doanh và công tác từ thiện. Năm 2010 ông nhận Giải bạc Buffalo của Hội Nam Hướng đạo Mỹ, giải thưởng cao nhất dành cho người lớn vì những hoạt động dành cho tuổi trẻ.[96]
Năm 2011, Bill Gates là một trong năm người quyền lực nhất trên thế giới theo tạp chí Forbes.[97]
Năm 2013 ông và bà vợ được Viện hàn lâm Khoa học quốc gia Hoa Kỳ trao tặng Huy chương Phúc lợi công cộng.
Đầu tư
- Cascade Investments LLC, công ty bất động sản và đầu tư tư nhân ở Hoa Kỳ, do Bill Gates quản lý, có trụ sở Kirkland, Washington.
- bgC3, một công ty nghiên cứu các công nghệ mới do Bill Gates sáng lập.
- Corbis, công ty dịch vụ ảnh bản quyền kĩ thuật số.
- TerraPower, công ty thiết kế lò phản ứng hạt nhân thế hệ mới.
Sách và phim
Cho tới nay, Bill Gates đã viết hai cuốn sách. Con đường phía trước, viết cùng giám đốc điều hành Nathan Myhrvold và nhà báo Peter Rinearson, xuất bản tháng 11 năm 1995, cuốn sách tổng kết vai trò và ý nghĩa của cuộc cách mạng máy tính cá nhân và miêu tả tương lai sẽ thay đổi như thế nào khi có một mạng lưới truyền thông tin tốc độ siêu cao. Kinh doanh @ tốc độ của Tư duy xuất bản năm 1999, thảo luận về kinh doanh và công nghệ được kết hợp với nhau như thế nào, và tác giả chỉ ra mạng lưới thông tin và cơ sở hạ tầng kĩ thuật số sẽ là một yếu tố cạnh tranh trong thời đại số.
Gates đã xuất hiện nhiều trong phim tài liệu như phim Waiting for “Superman” năm 2010,[98] và loạt phim tài liệu của BBC The Virtual Revolution.
Bill Gates là nhân vật chính trong phim Pirates of Silicon Valley năm 1999, bộ phim kể về lịch sử hình thành và quá trình phát triển của Apple và Microsoft từ đầu thập niên 1970 tới 1997. Diễn viên Anthony Michael Hall thủ vai ông.
Xem thêm
Sách
- Fridson, Martin (2001). How to be a Billionaire: Proven Strategies from the Titans of Wealth. John Wiley & Sons. ISBN 0471416177.
- Gates, Bill (1996). The Road Ahead. Penguin Books. ISBN 0140260404.
- Lesinski, Jeanne M. (2006). Bill Gates (Biography (a & E)). A&E Television Networks. ISBN 0822570270.
- Manes, Stephen (1994). Gates: How Microsoft’s Mogul Reinvented an Industry and Made Himself The Richest Man in America. Touchstone Pictures. ISBN 0671880748.
- Wallace, James (1993). Hard Drive: Bill Gates and the Making of the Microsoft Empire. New York: HarperCollins Publishers. ISBN 0471568864.
Tham khảo
- ^ “William ‘Bill’ Gates”, Forbes (profile), truy cập tháng 9 năm 2014.
- ^ “Bill Gates”. Nndb.com. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2011.
- ^ Manes 1994, tr. 11
- ^ Wahba, Phil (ngày 17 tháng 9 năm 2008). “Bill Gates tops U.S. wealth list 15 years in a row”. Reuters. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2008.
- ^ [1] Forbes.com. Truy cập April 2010.
- ^ Richard Davies (3/2014), Wal-Mart, Kohl’s, Nordstrom Sales Drop, ABC News.
- ^ Gates regularly documents his share ownership through public U.S. Securities and Exchange Commission form 4 filings.
- ^ Manes 1994, tr. 459
- ^ Lesinski 2006, tr. 96
- ^ 10 tỷ phú giàu nhất thế giới 2010
- ^ “Ancestry of Bill Gates”. Wargs.com. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Scottish Americans”. albawest.com. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2009.
- ^ Manes 1994, tr. 15
- ^ Manes 1994, tr. 47
- ^ Jeanne M. Lesinski (ngày 1 tháng 9 năm 2008). Bill Gates: Entrepreneur and Philanthropist. Twenty First Century Books. ISBN 9781580135702. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2011.
The Gates family regularly went to services at the University Congregational Church.
- ^ Janet Lowe (ngày 5 tháng 1 năm 2001). Bill Gates Speaks: Insight from the World’s Greatest Entrepreneur. Wiley. ISBN 9780471401698. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2011.
The Gates family attended the University Congregational Church, where the Reverend Dale Turner was pastor.
- ^ Edward D. Berkowitz (2006). Something Happened: A Political and Cultural Overview of the Seventies. Columbia University Press. ISBN 9780231124942. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2011.
Bill Gates was a member of the baby boom, born in 1955 into an upper-middle-class family near Seattle.” He attended the Congregational Church, participated in the Boy Scouts, and went to a fancy private school.
- ^ Manes 1994, tr. 24
- ^ Manes 1994, tr. 27
- ^ a ă Gates 1996, tr. 12
- ^ Manes 1994, tr. 34
- ^ “The new—and improved?—SAT”. The Week Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2006.
- ^ Gates 1996, tr. 15
- ^ a ă â Kestenbaum, David (ngày 4 tháng 7 năm 2008). “Before Microsoft, Gates Solved A Pancake Problem”. National Public Radio.
- ^ “UT Dallas Team Bests Young Bill Gates With Improved Answer to So-Called Pancake Problem in Mathematics”. University of Texas at Dallas. Ngày 17 tháng 9 năm 2008.
- ^ Gates, William; Papadimitriou, Christos (1979). “Bounds for sorting by prefix reversal”. Discrete mathematics 27: 47–57. doi:10.1016/0012-365X(79)90068-2.
- ^ a ă Gates 1996, tr. 19
- ^ Wallace & 1993 59
- ^ Gates 1996, tr. 18
- ^ a ă â “Microsoft Visitor Center Student Information: Key Events in Microsoft History” (.DOC). Microsoft. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2008. Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
không hợp lệ: tên “keyevents” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác - ^ a ă â b “Microsoft history”. The History of Computing Project. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2008.
- ^ Manes 1994, tr. 81
- ^ Gates, Bill. “Remarks by Bill Gates” Waterloo, Ontario (ngày 13 tháng 10 năm 2005). Địa chỉ URL được truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2008
- ^ Maiello, John Steele Gordon Michael (ngày 23 tháng 12 năm 2002). “Pioneers Die Broke”. Forbes. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2008.
- ^ Gates 1996, tr. 54
- ^ Manes 1994, tr. 193
- ^ “ngày 16 tháng 5 năm 1991 internal strategies memo from Bill Gates”. Bralyn. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2008.
- ^ Freiberger, Paul (ngày 31 tháng 8 năm 1981). “Bugs in Radio Shack TRS-80 Model III: How Bad Are They?”. InfoWorld. tr. 49. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2011.
- ^ Thorlin, Fred (tháng 4 năm 2000). Fred Thorlin: The Big Boss at Atari Program Exchange. Phỏng vấn bởi Kevin Savetz. Atari archives. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2012.
- ^ Rensin, David (1994). “The Bill Gates Interview”. Playboy.
- ^ Ballmer, Steve (ngày 9 tháng 10 năm 1997). “Steve Ballmer Speech Transcript — Church Hill Club”. Microsoft. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2008.
- ^ Bank, David (ngày 1 tháng 2 năm 1999). “Breaking Windows”. The Wall Street Journal. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2008.
- ^ “When Steve Met Bill: ‘It was a kind of weird seduction visit’”. CNN. Octorber 24, 2011. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2012. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp) - ^ Chapman, Glenn (ngày 27 tháng 6 năm 2008). “Bill Gates Signs Off”. Agence France-Presse. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2012.
- ^ a ă Gates, Bill. “Remarks by Bill Gates” San Diego (ngày 26 tháng 9 năm 1997). Địa chỉ URL được truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2008
- ^ Herbold, Robert (2004). The Fiefdom Syndrome: The Turf Battles That Undermine Careers and Companies – And How to Overcome Them. ISBN 0-385-51067-5.
- ^ Allison, David (interviewer). “Bill Gates Interview”. National Museum of American History. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2011.
- ^ “Microsoft Announces Plans for July 2008 Transition for Bill Gates”. Microsoft. Ngày 15 tháng 6 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 5 năm 2012.
- ^ “Gates deposition makes judge laugh in court”. CNN. Ngày 17 tháng 11 năm 1998. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2008.
- ^ “Microsoft’s Teflon Bill”. BusinessWeek. Ngày 30 tháng 11 năm 1998. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2008.
- ^ a ă Chen, Hy; Wu, JS; Hyland, B; Lu, XD; Chen, JJ; Heilemann, John (ngày 1 tháng 11 năm 2000). “The Truth, The Whole Truth, and Nothing But The Truth”. Wired 46 (8): 833–9. doi:10.1007/s11517-008-0355-6. PMID 18509686. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2008.
- ^ “Mugshots”. The smoking gun. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Microsoft Jerry Seinfeld and Bill Gates Commercial”. MS. MS. 2008‐9‐8. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2010. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp) - ^ “Microsoft’s second commercial with Jerry and Bill”. MS. MS. 2008‐9‐8. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2010. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp) - ^ “Official Bill Gates page at Microsoft.com”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 5 năm 2012.
- ^ Fried, Ina (ngày 14 tháng 7 năm 2009). “CNET Project Tuva”. News.cnet.com. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Softpedia”. News.softpedia.com. Ngày 20 tháng 7 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2010.
- ^ Guo, Jeff; McQueen, Rob, “Gates asks students to tackle world’s problems: Disease and education among biggest challenges”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2012., The Tech, Volume 130, Issue 21, Friday, ngày 23 tháng 4 năm 2010
- ^ Guo, Jeff, “In interview, Gates describes philanthropic journey”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2012., The Tech, Volume 130, Issue 21, ngày 23 tháng 4 năm 2010. (video & transcript). “After he spoke at Kresge Auditorium, Bill Gates sat down with The Tech to talk more about his college tour, his philanthropy, and the philosophy behind it.”
- ^ “coverage of the Gates’ Medina, Washington estate”. Forbes. Ngày 22 tháng 5 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2010.
- ^ Lesinski 2006, tr. 74
- ^ Paterson, Thane (ngày 13 tháng 6 năm 2000). “Advice for Bill Gates: A Little Culture Wouldn’t Hurt”. Business Week. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Bill Gates: Chairman”. Microsoft Corporation. 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 5 năm 2012.
- ^ “Profile: Bill Gates”. BBC news. Ngày 26 tháng 1 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2010.
- ^ Fridson 2001, tr. 113
- ^ Zuckerman, Laurence (ngày 27 tháng 10 năm 1997). “New Jet Eases Travel Hassles For Bill Gates”. The New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2012.
- ^ Bolger, Joe (ngày 5 tháng 5 năm 2006). “I wish I was not the richest man in the world, says Bill Gates”. The Times (UK). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2008.
- ^ “Microsoft 2006 Proxy Statement”. Microsoft. Ngày 6 tháng 10 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2008.
- ^ Fried, Ina (ngày 14 tháng 12 năm 2004). “Gates joins board of Buffett’s Berkshire Hathaway”. CNET. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2008.
- ^ “Flat-pack accounting”. The Economist. Ngày 11 tháng 5 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2008.
- ^ Cronin, Jon (ngày 25 tháng 1 năm 2005). “Bill Gates: billionaire philanthropist”. BBC News. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Our Approach to Giving”. Bill & Melinda Gates Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2008.
- ^ “2005 Annual Report” (PDF). Quỹ anh em Rockefeller. Ngày 1 tháng 1 năm 2006. Bản gốc lưu trữ (PDF) ngày 16 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2008.
- ^ “The 50 most generous Americans”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2012.
- ^ “Bill and Melinda Gates give 95% of wealth to charity”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Dark cloud over good works of Gates Foundation”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2012., Los Angeles Times, ngày 7 tháng 1 năm 2006.
- ^ “LETTER FROM BILL AND MELINDA GATES”. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2012., Bill & Melinda Gates Foundation, 2012.
- ^ Bina Abraham (ngày 1 tháng 10 năm 2010). “They half it in them”. Gulf News. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2011.
- ^ Moss, Rosabeth (ngày 14 tháng 12 năm 2010). “Four Strategic Generosity Lessons”. Business Week. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2011.
- ^ “40 billionaires pledge to give away half of wealth”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2010.
- ^ Robyn Griggs Lawrence (ngày 22 tháng 2 năm 2011). “A Rich Gift: Homemade Jelly for Bill and Melinda Gates”. Mother Earth News. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2011.
- ^ Thibault, Marie (ngày 19 tháng 1 năm 2010). “The Next Bill Gates”. Forbes. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2010.
- ^ Lesinski 2006, tr. 102
- ^ Cowley, Jason (ngày 22 tháng 6 năm 2006). “Heroes of our time — the top 50”. New Statesman (UK). Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Gates ‘second only to Blair’”. BBC News. Ngày 26 tháng 9 năm 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2008.
- ^ “Eredoctoraat Universiteit Nyenrode voor Wim Kok” (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Hà Lan). Nyenrode Business Universiteit. Ngày 13 tháng 8 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2008.
- ^ “IIT’s diaspora has a party – Times Of India”. Articles.timesofindia.indiatimes.com. Ngày 26 tháng 1 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2011.
- ^ “News Of Tsinghua University-Bill Gates Awarded Honorary Doctorate of Tsinghua”. News.tsinghua.edu.cn. Ngày 19 tháng 4 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2010.
- ^ Hughes, Gina (ngày 8 tháng 6 năm 2007). “Bill Gates Gets Degree After 30 Years”. Yahoo!. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2008.
- ^ Svärd, Madeleine (ngày 24 tháng 1 năm 2008). “Bill Gates honored with a doctor’s cap”. Karolinska Institutet. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2008.
- ^ University of Cambridge (ngày 12 tháng 6 năm 2009). “The Chancellor in Cambridge to confer Honorary Degrees”. University of Cambridge. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2009.
- ^ Blakely, Rhys (ngày 18 tháng 7 năm 2007). “Gates how piracy worked for me in China”. The Times (London). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Knighthood for Microsoft’s Gates”. BBC News. Ngày 2 tháng 3 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2008.
- ^ Thompson, F. Christian (ngày 19 tháng 8 năm 1999). “Bill Gates’ Flower Fly Eristalis gatesi Thompson”. The Diptera Site. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Proclamation of the Award”. Diario Oficial de la Federación. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2008.
- ^ “2010 Silver Buffalo Recipients”. Scouting: 39. September–October 2010.
- ^ “The World’s Most Powerfull People”. Forbes. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2012.
- ^ “Bill Gates Goes to Sundance, Offers an Education”. ABC News. Ngày 23 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2012.
Liên kết ngoài
Tìm hiểu thêm về Bill Gates ở các dự án khác của Wikipedia: | |
![]() |
Định nghĩa ở Wiktionary |
![]() |
Nội dung đa phương tiện ở Commons |
![]() |
Tư liệu học tập ở Wikiversity |
![]() |
Tin tức ở Wikinews |
![]() |
Câu nói nổi tiếng ở Wikiquote |
![]() |
Văn bản ở Wikisource |
![]() |
Sách ở Wikibooks |
Tiền nhiệm: Warren Buffett |
Những người giàu nhất hành tinh 1996–2007 |
Kế nhiệm: Carlos Slim Helú |
- Pages with reference errors
- Sinh 1955
- Nhân vật còn sống
- Bill Gates
- Tỷ phú Hoa Kỳ
- Người tiên phong trong ngành máy tính
- Doanh nhân Mỹ thế kỷ 20
- Người giàu nhất thế giới theo Forbes
- Nhà từ thiện
- Forbes 400
- Nhân viên Microsoft
- Chủ tịch tập đoàn kinh doanh
- Người Mỹ gốc Scotland
- Người Washington
- Người thuận tay trái
- Nhà từ thiện Mỹ
- Lập trình viên Mỹ
- Lịch sử tin học
- Nhà phát minh Mỹ
- Người Mỹ gốc Anh
- Điện toán cá nhân
- Nhà nhân đạo Mỹ
- Người Mỹ gốc Đức
- Doanh nhân Mỹ thế kỷ 21
Thomas Edison
Thomas Edison | |
---|---|
![]() “Genius is one percent inspiration, ninety-nine percent perspiration.” – “Thiên tài là một phần trăm cảm hứng, chín mươi chín phần trăm mồ hôi.”
– Thomas Alva Edison, Harper’s Monthly (Tháng 9 năm 1932) |
|
Sinh | Thomas Alva Edison 11 tháng 2, 1847 Milan, Ohio, Hoa Kỳ |
Mất | 18 tháng 10, 1931 (84 tuổi) West Orange, New Jersey, Hoa Kỳ |
Công việc | Nhà phát minh, nhà khoa học, thương gia |
Tôn giáo | Thuyết thần giáo tự nhiên |
Vợ (hoặc chồng) | Mary Stilwell (1871–1884) Mina Miller (1886–1931) |
Con cái | Marion Estelle Edison (1873–1965) Thomas Alva Edison Jr. (1876–1935) William Leslie Edison (1878–1937) Madeleine Edison (1888–1979) Charles Edison (1890–1969) Theodore Miller Edison (1898–1992) |
Cha mẹ | Samuel Ogden Edison, Jr. (1804–1896) Nancy Matthews Elliott (1810–1871) |
Người thân | Lewis Miller (cha vợ) |
Chữ ký | ![]() |
Thomas Alva Edison (11 tháng 2 năm 1847 – 18 tháng 10 năm 1931) là một nhà phát minh và thương nhân đã phát triển rất nhiều thiết bị có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống trong thế kỷ 20. Ông được một nhà báo đặt danh hiệu “Thầy phù thủy ở Menlo Park”, ông là một trong những nhà phát minh đầu tiên ứng dụng các nguyên tắc sản xuất hàng loạt vào quy trình sáng tạo, và vì thế có thể coi là đã sáng tạo ra phòng nghiên cứu công nghiệp đầu tiên. Một số phát minh được gán cho ông tuy ông không hoàn toàn là người đầu tiên có ý tưởng đó, nhưng sau khi bằng sáng chế đầu tiên được thay đổi nó trở thành của ông (nổi tiếng nhất là bóng đèn), trên thực tế là công việc của rất nhiều người bên trong công ty của ông. Tuy nhiên, Edison được coi là một trong những nhà phát minh giàu ý tưởng nhất trong lịch sử, ông giữ 1.093 bằng sáng chế tại Hoa Kỳ dưới tên ông, cũng như các bằng sáng chế ở Anh Quốc, Pháp, và Đức (tổng cộng 1.500 bằng phát minh trên toàn thế giới)
Mục lục
Gia đình
Tổ tiên Edison (Gia đình Edison ở Hà Lan) đã nhập cư tới New Jersey năm 1730. John Edison vẫn trung thành với Anh Quốc khi các thuộc địa tuyên bố độc lập (xem Những người trung thành với Đế chế thống nhất), dẫn tới việc ông bị bắt giữ. Sau khi suýt bị treo cổ, ông và gia đình bỏ đi tới Nova Scotia,Canada, định cư trên vùng đất mà chính phủ thuộc địa dành cho những người trung thành với nước Anh.
Ra đời và những năm thơ ấu
Thomas Edison sinh tại Milan, Ohio, con của Samuel Ogden Edison, Jr và Nancy Matthews Elliott (1810–1871). Thomas là đứa con thứ bảy trong gia đình. Thuở nhỏ, Edison nổi tiếng là một cậu bé hiếu kì. Edison đi học muộn vì ông vốn ốm yếu. Đầu óc ông luôn lơ mơ và giáo viên của ông là Reverend Engle gọi ông là “rối trí”. Trong khi bạn bè đồng lứa còn ham chơi thì Edison đã không những luôn băn khoăn tìm hiểu mọi vật quanh mình mà còn muốn hiểu thấu đáo các vật đó. Vì những trò nghịch ngợm của mình mà Edison đã bị đuổi học ngay khi chưa kết thúc tiểu học. Mẹ ông từng là một giáo viên ở Canada và bà rất vui mừng đảm nhận việc dạy con. Bà khuyến khích và dạy ông đọc và làm thực nghiệm. Sau này ông nhớ lại, “Mẹ tôi đã tạo ra tôi. Bà rất tin tưởng và chắc chắn về tôi; và tôi cảm thấy rằng tôi có một điều gì đó để sống, một ai đó để tôi không thể làm cho thất vọng.”[1]
Cuộc sống của Edison ở Port Huron vừa cay đắng vừa ngọt ngào. Ông bán kẹo và bán báo trên các chuyến tàu hỏa từ Port Huron đến Detroit. Hơi điếc từ thời thanh niên, ông đã trở thành một điện tín viên sau khi ông cứu Jimmie Mackenzie khỏi lao vào tàu hoả. Cha của Jimmie là nhân viên nhà ga J.U. Mackenzie ở Mount Clemens, Michigan, rất vui mừng bảo trợ cho Edison và dạy ông trở thành điện tín viên. Vì bị điếc nên Edison tránh khỏi mọi tiếng ồn ào và cũng không phải nghe nhân viên điện báo bên cạnh. Một trong những cố vấn của ông những năm đầu tiên này là một điện tín viên già và là một nhà phát minh tên là Franklin Leonard Pope, ông đã cho phép chàng trai trẻ sống và làm việc trong tầng hầm ở nhà ông tại nhà Elizabeth, New Jersey.
Một số trong những phát minh đầu tiên của ông liên quan tới điện tín gồm cả máy đếm phiếu. Edison đã xin cấp bằng phát minh đầu tiên, máy đếm phiếu điện tử, ngày 28 tháng 10, 1868.
Các cuộc hôn nhân và cuộc sống sau đó
Năm 1871, ở tuổi 24, Edison trở thành chủ một xí nghiệp được nhiều người biết tiếng. Cuộc sống dần ổn định và nhu cầu có một mái ấm gia đình chợt đến trong đầu. Ông chú ý đến cô thư kí Mary Stilwell dịu dàng, thanh mảnh làm việc trong công ty, một hôm, ông đến gặp nàng và nói: “Thưa cô, tôi không muốn phí thì giờ nói những câu vô ích. Tôi xin hỏi cô một câu rất ngắn gọn và rõ ràng: Cô có muốn làm vợ tôi không?”. Cô gái sửng sốt, không tin ở tai mình – “Ý cô thế nào? Cô nhận lời tôi nhé? Tôi xin cô hãy suy nghĩ trong năm phút” – Edison nhắc lại lời cầu hôn cấp tốc của mình. “Năm phút cơ à? thế thì lâu quá! Vâng em nhận lời” – đỏ mặt lí nhí, Mary đáp. Ngày 25 tháng 12, 1871, ông cưới Mary, và họ có ba người con, Marion Estelle Edison, Thomas Alva Edison, Jr., và William Leslie Edison. Mary vợ ông qua đời năm 1884. Ngày 24 tháng 2 1886, ở tuổi ba chín, ông lấy Mina Miller một cô gái mười chín tuổi. Họ có thêm ba người con nữa: Madeleine Edison, Charles Edison (người tiếp quản công ty sau khi cha qua đời, và sau này trở thành Bộ trưởng Hải quân, được bầu làm Thống đốc bang New Jersey), và Theodore Edison.
Thomas Edison mất ở New Jersey ở tuổi 84. Sáng Chủ Nhật ngày 18/10/1931, Thomas Edison lìa trần chỉ 3 ngày trước lễ kỉ niệm sinh nhật lần thứ 52 của chiếc bóng điện đầu tiên. Những từ cuối cùng của ông nói với vợ là: “Ở ngoài kia đẹp quá”.
Nước Mỹ tưởng nhớ ông bằng cách tắt toàn bộ đèn điện trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ trong một phút để tưởng nhớ người vĩ nhân, “người bạn của nhân loại” đã mang đến cho con người một thứ ánh sáng quý giá, một “mặt trời thứ hai”.
Nhà phát minh
Không học ở trường, Edison tự học ở sách theo cách riêng của mình. Dần dần, với sự suy nghĩ, tìm tòi, thực hiện không chú trọng lí thuyết suông, từng bước Edison đã chinh phục những gì mà người thời bấy giờ cho là không tưởng. Phát minh đầu tiên của ông là một chiếc máy điện báo tải hai có khả năng cùng một lúc phát đi hai tin. Ít lâu sau, ông cải tiến thành máy tải ba, tải tư rồi đa tải. Tải tư được bán cho Western Union với giá 10.000 USD.
Một thời gian sau, chán nản với công việc của một điện báo viên, Edison đến New York, trung tâm tài chính bậc nhất lúc bấy giờ, với hy vọng sẽ kiếm thêm chi phí cho các cuộc thí nghiệm của mình. Tại đây, ông đã hợp tác với vài người bạn thành lập một công ty nhỏ chuyên về điện và điện báo. Phát minh thứ hai của ông là cải tiến chiếc máy điện báo đa tải thành Hệ thống điện báo nhận các tin tức hối đoái ngân hàng. Chiếc máy đầu tiên đã đem về cho ông một số tiền lớn. Toàn bộ số tiến kiếm được lúc này, ông trút hết vào các thí nghiệm của mình về sau.
Phát minh đầu tiên mang lại nổi tiếng cho Edison là máy quay đĩa năm 1877. Công chúng không thể ngờ được về phát minh này và coi nó là điều ma thuật. Edison bắt đầu được gọi là “Thầy phù thủy ở Menlo Park, New Jersey”, nơi ông sống. Chiếc máy quay đĩa đầu tiên của ông ghi lại âm thanh trên các trụ bọc thiếc cho chất lượng âm thanh thấp và nó phá hủy luôn đường rãnh ghi âm khi nghe lại nên chỉ có thể nghe được một lần. Trong thập kỷ 1880, một model được thiết kế lại sử dụng các trụ bìa giấy các tông tráng sáp ong được chế tạo bởi Alexander Graham Bell, Chichester Bell, và Charles Tainter. Đây là một lý do khiến Thomas Edison tiếp tục làm việc để tạo ra chiếc “Máy hát hoàn thiện” của riêng ông.
Ông cũng từng phát minh ra máy Kiểm phiếu điện tử và đã xin cấp bằng sáng chế, nhưng đã bị từ chối.
Menlo Park
Sự cách tân lớn nhất của Edison chính là phòng thí nghiệm ở Menlo Park, nó được xây dựng ở New Jersey. Đây là viện nghiên cứu đầu tiên được thành lập với mục đích chuyên biệt nhằm tạo ra các cải tiến và cách tân liên tục trong công nghệ. Chính tại đây, đa số các phát minh được đưa vào thực tiễn của ông đã ra đời, mặc dù việc căn bản của ông là quản lý và điều hành công việc của các nhân viên.
. Ông góp công trong việc thực nghiệm điện thoại, máy quay đĩa, tàu điện, máy phân tích quặng, đèn điện, và một số cải tiến phát minh khác. Tuy nhiên, ban đầu ông làm việc về đèn điện và chịu trách nhiệm thử nghiệm và ghi lại về thiết bị đó. Năm 1880 ông được chỉ định làm kỹ sư trưởng của Xưởng đèn Edison. Trong năm đầu tiên này, xưởng dưới sự quản lý của Francis Upton, đã sản xuất ra 50.000 bóng đèn. Theo Edison, Hammer là “một người tiên phong trong lĩnh vực đèn chiếu sáng”.
Đa số các bằng sáng chế của Edison là những bằng sáng chế hữu ích, chỉ khoảng hơn mười chiếc là bằng sáng chế thiết kế. Nhiều phát minh của ông không hoàn toàn là ý tưởng ban đầu của ông, nhưng những cải tiến giúp nó có thể được sản xuất hàng loạt là của ông. Ví dụ, trái với điều mọi người vẫn nghĩ, Edison không phát minh ra bóng đèn điện. Nhiều thiết kế đã được phát triển bởi các nhà phát minh từ trước đó gồm cả bằng sáng chế mà ông mua lại từ Henry Woodward và Mathew Evans, Moses G. Farmer,[2] Joseph Swan, James Bowman Lindsay, William Sawyer, Humphry Davy, và Heinrich Göbel. Năm 1878, Edison xin cấp phép cho thuật ngữ sợi dây tóc cho yếu tố dây phát sáng mang dòng điện, mặc dù nhà phát minh người Anh Joseph Swan đã sử dụng thuật ngữ đó từ trước. Edison đã lấy các đặc tính từ các thiết kế trước đó và trao nhiệm vụ cho các công nhân của ông tạo ra những bóng đèn có tuổi thọ cao hơn. Năm 1879, ông đã sản xuất ra một ý niệm mới: một chiếc đèn có sức chịu đựng cao trong một môi trường chân không lớn, nó sẽ cháy sáng hàng trăm giờ. Trong khi những nhà phát minh trước đó đã sản xuất ra đèn điện trong các điều kiện phòng thí nghiệm, Edison đã tập trung vào việc áp dụng thương mại hóa và đã có thể bán ý tưởng của mình tới các gia đình và các cửa hàng bằng cách sản xuất hàng loạt các bóng đèn có tuổi thọ cao và tạo ra một hệ thống phát và cung cấp điện.
Phòng thí nghiệm Menlo Park có thể được xây dựng nhờ tiền bán bộ máy thu phát cùng lúc bốn tín hiệu mà Edison sáng chế ra năm 1874. Chiếc máy điện báo thu phát bốn tín hiệu cùng lúc có thể gửi bốn tín hiệu điện báo cùng lúc trên cùng một dây dẫn. Khi Edison liên hệ bán máy cho Western Union, ông đã bị sốc khi Western Union đưa ra một cái giá không thể ngờ nổi; quyền sáng chế được bán với giá $10.000. Chiếc máy điện báo này là thành công tài chính lớn đầu tiên của ông.
Lĩnh vực điện khí
Năm 1879 Edison thành lập ra Thomson-Houston đến năm 1890 ông thành lập công ty Edison General Electric. Hai năm sau Edison General Electric và Thomson-Houston hợp nhất hình thành công ty Edison General Electric and Thomson-Houston, tiền thân của tập đoàn điện khí khổng lồ GE ngày nay. Về sau có tới hơn 10 công ty mang tên ông
Bắt đầu vận hành nhà máy điện đầu tiên
Năm 1880 Edison đăng ký bằng sáng chế về phân phối điện, sự kiện đó đóng vai trò chính trong việc tích lũy để phát minh ra đèn điện. Tháng 12 năm 1880, Edison thành lập Công ty Chiếu sáng mang tên ông đặt tại số 257, đường Pearl thành phố New York và đến năm 1882 đã thành công khi đưa trạm phát điện đầu tiên đi vào hoạt động.
Trạm phát điện đầu tiên “Jumbo số 1” là một máy phát điện chạy bằng hơi nước trực tiếp nặng 27 tấn, riêng phần lõi (armature) nặng đến 6 tấn và được sử dụng để làm mát không khí. Trạm phát điện này có thể làm sáng 700 ngọn đèn gồm 16 nến. Trong vòng 14 tháng, nhà máy điện đầu tiên của Edison đã phục vụ cho 508 thuê bao và hỗ trợ 12.732 bóng đèn.
Thành công thực sự của Edison, giống như người bạn của ông Henry Ford, trong khả năng của mình để tối đa hóa lợi nhuận thông qua việc thành lập hệ thống sản xuất hàng loạt và các quyền sở hữu trí tuệ. George Westinghouse và Edison đã trở thành đối thủ vì Edison xúc tiến việc sử dụng dòng điện một chiều (DC) cho phân phối điện trong hệ thống luân phiên thay vì một hệ thống đơn giản hơn là dòng điện xoay chiều (AC) được phát minh bởi Nikola Tesla và xúc tiến bởi Westinghouse. Không giống như DC, dòng điện xoay chiều có thể được tăng cường điện áp rất cao với các máy biến áp, được gửi qua những đường dây điện mảnh hơn và rẻ hơn, và hạ điện áp tại điểm đến để phân phối cho người sử dụng.
Năm 1887, có 121 trạm phát điện Edison ở Hoa Kỳ cung cấp điện dòng điện một chiều cho khách hàng. Khi những hạn chế của dòng điện một chiều đã được thảo luận trước công chúng, Edison đã phát động một chiến dịch tuyên truyền để thuyết phục mọi người rằng dòng điện xoay chiều là quá nguy hiểm để sử dụng. Vấn đề với dòng điện một chiều là các nhà máy điện này chỉ cung cấp cho khách hàng trong vòng khoảng một dặm rưỡi (khoảng 2,4 km) từ các trạm phát điện, do đó nó chỉ thích hợp cho các trung tâm thương mại. Khi George Westinghouse đề nghị sử dụng điện áp cao dòng điện xoay chiều thay thế, vì nó có thể mang điện hàng trăm dặm và mất mát điện ít, Edison đã tiến hành một “cuộc chiến tranh dòng điện” để ngăn chặn dòng điện xoay chiều được thông qua.
Cuộc chiến chống lại dòng điện xoay chiều đã khiến ông tham gia vào việc phát triển và xúc tiến ghế điện (sử dụng AC) như một nỗ lực để miêu tả dòng điện xoay chiều có khả năng gây tử vong lớn hơn so với DC. Edison đã thực hiện một chiến dịch ngắn gọn nhưng mạnh mẽ để cấm việc sử dụng dòng điện xoay chiều hoặc hạn chế điện áp nhằm những mục đích an toàn. Trong một phần của chiến dịch này, nhân viên của Edison cho giật điện công khai một số động vật để chứng minh sự nguy hiểm của AC;[3][4] dòng điện xoay chiều hơi nguy hiểm hơn ở những tần số gần 60 Hz có khả năng đáng kể gây nguy hiệm đến tính mạng hơn dòng điện một chiều.[5] Một trong những thí nghiệm đáng chú ý của ông vào năm 1903, những công nhân của Edison cho giật điện con voi tên Topsy tại Luna Park, gần đảo Coney, sau khi nó giết vài người và chủ của nó muốn giết nó.[6] Công ty của ông đã quay phim lại những cuộc tử hình bằng giật điện.
Dòng điện xoay chiều thay thế hầu hết dòng điện một chiều trong các trạm phân phối điện, nhanh chóng mở rộng phạm vi và cải tiến hiệu quả của các trạm phân phối điện. Mặc dù dòng điện một chiều không còn được ưa chuộng sử dụng, nó vẫn tồn tại đến ngày nay trong những hệ thống dẫn truyền dòng điện một chiều điện áp cao (HVDC). Dòng điện một chiều điện áp thấp vẫn còn tiếp tục được sử dụng cho những khu vực dông dân cư trong nhiều năm nhưng cuối cùng bị thay thế bởi hệ thống dòng điện xoay chiều điện áp thấp.[7]
Nhà cửa
Vào Thập niên 1880, Thomas Edison mua đất đai ở Fort Myers, Florida, và xây Seminole Lodge làm nơi nghỉ đông. Henry Ford, ông trùm ô tô, sau này đã sống ở nhà nghỉ đông của ông, The Mangoes phía đối diện. Edison thậm chí cũng đóng góp về kỹ thuật cho ngành ô tô. Họ là bạn bè tới tận khi Edison mất trong trạng thái bình yên, thọ 84 tuổi. Edison and Ford Winter Estates hiện đang mở cửa cho công chúng.
Chuyện ngoài lề
- Thomas Edison là một người có tư tưởng độc lập, và giống như một nhà thần luận, tuyên bố rằng ông không tin vào “Chúa và các nhà thần học”, nhưng lại không nghi ngờ rằng “có một sự hiểu biết siêu nhiên”. Tuy nhiên, ông phản đối ý kiến về siêu nhiên, cùng với những ý tưởng về linh hồn, sự bất tử, và hiện thân của Chúa. Ông nói, “Thiên nhiên không nhân từ và đáng yêu, mà hoàn toàn tàn nhẫn, xa lạ.”[8]
- Ông đã mua một ngôi nhà gọi là “Glenmont” năm 1886 coi đó là món quà cưới cho Mina ở Llewellyn Park tại West Orange, New Jersey. Mộ của Thomas và Mina Edison hiện đang được chôn cất tại đó. Vùng đất rộng 13.5 acre (55.000 m²) được National Park Service giữ gìn làm Di tích lịch sử quốc gia Edison.
- Edison đã trở thành người sở hữu nơi sinh của ông Milan, Ohio năm 1906, và, trong lần tới thăm cuối cùng năm 1923, ông đã sốc khi thấy ngôi nhà cũ của mình vẫn được chiếu sáng bằng đèn và nến.
- Năm 1878, ông được phong tước Hiệp sỹ Quân đoàn danh dự của Pháp, và năm 1889, ông được phong làm Chỉ huy Quân đoàn danh dự.
- Bị ảnh hưởng bởi một chế độ ăn giàu chất béo vào hồi đó, trong những năm cuối đời “ông không ăn gì ngoài cứ ba giờ uống một lít sữa”.[9] Ông tin rằng chế độ ăn như vậy sẽ giúp ông hồi phục sức khỏe.
- Trong cả cuộc đời ông rất nặng tai.
- Thomas Edison đã viết một bức thư nổi tiếng cho nhà chế tạo đàn piano là Steinway & Sons sau khi định giá một trong những chiếc đàn của họ:
- “Gửi Steinway & Sons —
- “Thưa các quý ông,
- “Tôi đã quyết định giữ chiếc đàn piano tuyệt vời của các vị. Vì một số lý do không thể hiểu được đối với tôi nó đã mang lại những kết quả tuyệt diệu so với những lần tôi từng thử trước đó. Xin hãy gửi hóa đơn cho tôi với giá rẻ nhất.
- “— Thomas Edison.
Danh sách các cống hiến
Người ta thống kê được, Edison có tổng cộng đến 1.907 phát minh được cấp bằng sáng chế – một con số khổng lồ.
- Máy quay đĩa
- Máy chiếu phim
- Máy ghi âm
- Cung cấp hỗ trợ tài chính cho công việc của Guglielmo Marconi về truyền phát radio và có được nhiều bằng sáng chế.
- Tattoo gun (Dựa trên Bút điện, được sử dụng để tạo ra các bản copy rô nê ô)
- Bóng đèn
Những cải tiến công việc của Edison
- Lewis Latimer được cấp bằng sáng chế một cách cải tiến cách sản xuất dây tóc đèn trong bóng (không có bằng chứng rằng thứ này từng được sử dụng ở một công ty của Edison).
- Nikola Tesla đã phát triển phân phối điện xoay chiều, có thể được dùng để truyền điện qua khoảng cách xa hơn điện một chiều của Edison vì khả năng biến thế. Có thể nói rằng dòng điện xoay chiều không có nguồn gốc từ công việc của Edison, nhưng nó liên quan tới cả hai người. Tesla là cựu nhân viên của Edison, và đã rời bỏ ông để đi theo con đường điện xoay chiều – mà Edison không ủng hộ.
- Emile Berliner đã phát triển máy hát, về cơ bản nó là một máy quay đĩa cải tiến, với khác biệt căn bản là sử dụng bản ghi phẳng với các đường rãnh xoắn ốc.
- Edward H. Johnson có những bóng đèn được chế tạo đặc biệt, và được lắp đặt ở nhà ông ở Fifth Avenue tại thành phố New York trên Cây thông Noel đầu tiên được trang trí bằng điện vào 22 tháng 12, 1882.
Tưởng nhớ
- Thị trấn Edison, New Jersey, và Thomas Edison State College, một trường trung học nổi tiếng quốc gia cho thanh niên ở Trenton, New Jersey, được đặt theo tên nhà phát minh. Có một Tháp tưởng niệm và Bảo tàng Thomas Alva Edison Memorial Tower ở thị trấn Edison.
- Huy chương Edison được thành lập ngày 11 tháng 2, 1904 bởi một nhóm bạn và người cộng tác với Edison. Bốn năm sau Viện kỹ sư điện Hoa Kỳ (AIEE), sau này là IEEE, đã đồng ý với nhóm trên để dùng huy hiệu làm phần thưởng cao quý nhất của họ. Huy hiệu đầu tiên được trao năm 1909 cho Elihu Thomson, và đáng ngạc nhiên là cả Tesla năm 1917. Huy hiệu Edison là phần thưởng xưa nhất trong lĩnh vực điện và kỹ thuật điện, và được trao hàng năm “cho một thành quả chuyên môn xứng đáng trong khoa học điện, kỹ thuật điện hay nghệ thuật điện.”
- Tạp chí Life (Mỹ), trong một số đặc biệt, đã đưa Edison vào danh sách “100 người quan trọng nhất trong 1000 năm qua”, ghi chú rằng bóng đèn của ông đã “chiếu sáng thế giới”. Ông được xếp hạng ba mươi năm trên danh sách Những khuôn mặt có ảnh hưởng nhất trong thế kỷ của Michael H. Hart.
- Khách sạn của thành phố, ở Sunbury, Pennsylvania, là tòa nhà đầu tiên được chiếu sáng với hệ thống ba dây của Edison. Khách sạn này được đổi tên thành Khách sạn Edison, và hiện vẫn giữ tên đó.
- Bảo tàng Port Huron, ở Port Huron, Michigan, vẫn gìn giữ bến xe lửa nơi Thomas Edison từng bán bánh kẹo. Bến xe lửa này đã được đổi tên một cách rất thích hợp thành Bảo tàng nhà ga Thomas Edison. Thị trấn có nhiều mốc lịch sử của Edison gồm mộ cha mẹ Edison.
- Hải quân Hoa Kỳ đặt tên chiếc USS Edison (DD-439), một Gleaves-class tàu khu trục, để vinh danh ông năm 1940. Chiếc tàu này đã được giải giới vài tháng sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1962, hải quân đặt hàng chiếc tàu USS Thomas A. Edison (SSBN-610), một tàu ngầm năng lượng nguyên tử mang tên lửa đạn đạo. Nó được giải giới ngày 1 tháng 12, 1983, Thomas A. Edison đã bị tác động mạnh nhất từ Naval Vessel Register vào ngày 30 tháng 4, 1986. Nó thuộc Chương trình các tàu năng lượng nguyên tử và những tàu ngầm tái chế của hải quân ở Bremerton, Washington, bắt đầu vào 1 tháng 10, 1996. Khi nó kết thúc chương trình ngày 1 tháng 12, 1997, nó bị tháo dỡ thành những mảnh rời.
- Để ghi nhớ những cống hiến to lớn của các nhà phát minh dành cho đất nước và thế giới, Nghị viện, theo Nghị quyết số 140 của cả hai nghị viện (Luật công cộng 97 – 198), đã chỉ định ngày 11 tháng 2, là ngày kỷ niệm ngày sinh của Thomas Alva Edison, là Ngày các nhà phát minh quốc gia.
- Ở Hà Lan giải thưởng âm nhạc lớn được lấy theo tên ông.
Tham khảo
- Thomas Edison trong Dimiþox
- Ernst Angel: Edison. Sein Leben und Erfinden. Berlin: Ernst Angel Verlag, 1926.
- Mark Essig: Edison & the Electric Chair: A Story of Light and Death. New York: Walker & Company, 2003. ISBN 0-8027-1406-4
- ^ “Edison Family Album” (HTML). NPS. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2006.
- ^ “Moses G. Farmer, Eliot’s Inventor” (HTML). Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2006.
- ^ “IMDB entry on Electrocuting an Elephant (1903)”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2006.
- ^ “Wired Magazine: “Jan. 4, 1903: Edison Fries an Elephant to Prove His Point””. Ngày 4 tháng 1 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Electrocution Thresholds for Humans”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2009.
- ^ Tony Long (ngày 4 tháng 1 năm 2008). “Jan. 4, 1903: Edison Fries an Elephant to Prove His Point”. AlterNet. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2008.
- ^ Lee, Jennifer (ngày 14 tháng 11 năm 2007). “Off Goes the Power Current Started by Thomas Edison”. The New York Times Company. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2007.
- ^ Vernon, Thomas S. “Thomas Alva Edison” (HTML). Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2006.
- ^ Paul Israel. Edison: A Life of Invention.
Đọc thêm
- Albion, Michele Wehrwein. (2008). The Florida Life of Thomas Edison. Gainesville: University Press of Florida. ISBN 978-0-8130-3259-7.
- Adams, Glen J. (2004). The Search for Thomas Edison’s Boyhood Home. ISBN 978-1-4116-1361-4.
- Angel, Ernst (1926). Edison. Sein Leben und Erfinden. Berlin: Ernst Angel Verlag.
- Baldwin, Neil (2001). Edison: Inventing the Century. University of Chicago Press. ISBN 978-0-226-03571-0.
- Clark, Ronald William (1977). Edison: The man who made the future. London: Macdonald & Jane’s: Macdonald and Jane’s. ISBN 978-0-354-04093-8.
- Conot, Robert (1979). A Streak of Luck. New York: Seaview Books. ISBN 978-0-87223-521-2.
- Davis, L. J. (1998). Fleet Fire: Thomas Edison and the Pioneers of the Electric Revolution. New York: Doubleday. ISBN 978-0-385-47927-1.
- Essig, Mark (2004). Edison and the Electric Chair. Stroud: Sutton. ISBN 978-0-7509-3680-4.
- Essig, Mark (2003). Edison & the Electric Chair: A Story of Light and Death. New York: Walker & Company. ISBN 978-0-8027-1406-0.
- Israel, Paul (1998). Edison: a Life of Invention. New York: Wiley. ISBN 978-0471529422.
- Jonnes, Jill (2003). Empires of Light: Edison, Tesla, Westinghouse, and the Race to Electrify the World. New York: Random House. ISBN 978-0-375-50739-7.
- Josephson, Matthew (1959). Edison. McGraw Hill. ISBN 978-0-07-033046-7.
- Koenigsberg, Allen (1987). Edison Cylinder Records, 1889-1912. APM Press. ISBN 0-937612-07-3.
- Pretzer, William S. (ed). (1989). Working at Inventing: Thomas A. Edison and the Menlo Park Experience. Dearborn, Michigan: Henry Ford Museum & Greenfield Village. ISBN 978-0-933728-33-2.
- Stross, Randall E. (2007). The Wizard of Menlo Park: How Thomas Alva Edison Invented the Modern World. Crown. ISBN 1-400-04762-5.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Thomas Edison |
- Biography, Pictures, and Sounds
- Edison cylinder recordings, từ Cylinder Preservation and Digitization Project tại Thư viện của Đại học California, Santa Barbara.
- 4-disc DVD set containing over 140 films produced by the Thomas Edison Company.
- Danh sách đầy đủ 1.093 bằng sáng chế.
- Tiểu sử
- Edison, His Life and Inventions của Frank Lewis Dyer và Thomas Commerford Martin, tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg
- “Edison, His Life And Inventions” bởi Frank Lewis Dyer tại Worldwideschool.org
- “Thomas Edison“, bởi Gerry Beales.
- “Thomas Alva Edison” bởi John Patrick Michael Murphy.
- Những địa điểm lịch sử
- Edison Birthplace Museum
- Thomas Edison House
- Edison National Historic Site
- Menlo Park
- Edison Depot Museum
- Edison exhibit and Menlo Park Laboratory at Henry Ford Museum
- Tài liệu
- Rutgers: Edison Papers
- Rutgers: Edison Patents
- Edisonian Museum Antique Electrics
- Thomas A. Edison in his laboratory in New Jersey, 1901
- “Edison’s Miracle of Light.” American Experience, PBS.
- William J. Hammer collection – ca. 1874-1935, 1955-1957. Archives Center, National Museum of American History, Smithsonian Institution.
- Sinh 1847
- Mất 1931
- Nhà phát minh Mỹ
- Đại lộ Danh vọng Hollywood
- Thomas Edison
- Người Mỹ gốc Hà Lan
- Người Mỹ gốc Anh
- Người Mỹ gốc Scotland
Đại học Harvard
Viện Đại học Harvard | |
---|---|
![]() Con dấu của Đại học Harvard
|
|
Khẩu hiệu | Veritas[1] |
Nghĩa | Chân lý |
Thành lập | 1636[2] |
Loại hình | Tư thục |
Tài trợ | 32,3 tỉ USD (2013)[3] |
Hiệu trưởng | Drew Gilpin Faust |
Giảng viên | 2.100[4] |
Nhân viên | 2.500; 11.000 nhân viên y tế |
Sinh viên | 21.000 |
Sinh viên đại học | 7.200: 6.700 chính quy, 500 mở rộng |
Sinh viên sau đại học | 14.000 |
Khuôn viên | Nội thị. Khuôn viên chính: 210 mẫu Anh (85 ha); khu y khoa: 21 mẫu Anh (8,5 ha); khu Allston: 360 mẫu Anh (150 ha); những nơi khác: 4.500 mẫu Anh (1.800 ha)[5] |
Vị trí | Cambridge,,Massachusetts, Hoa Kỳ |
Màu | Đỏ thắm |
Biệt danh | Harvard Crimson |
Thể thao | 42 Varsity Teams; Ivy League; NCAA Division I |
Website | Harvard.edu |
Viện Đại học Harvard (tiếng Anh: Harvard University), còn gọi là Đại học Harvard, là một viện đại học nghiên cứu tư thục, thành viên của Liên đoàn Ivy, ở Cambridge, Massachusetts, Hoa Kỳ. Với lịch sử, tầm ảnh hưởng, và tài sản của mình, Harvard là một trong những viện đại học danh tiếng nhất thế giới.[6][7][8][9][10]
Được thành lập vào năm 1636 bởi Cơ quan Lập pháp Thuộc địa Vịnh Massachusetts và không lâu sau đó đặt theo tên của John Harvard – người đã hiến tặng của cải cho trường, Harvard là cơ sở học tập bậc cao lâu đời nhất Hoa Kỳ.[11] Mặc dù chưa bao giờ có mối quan hệ chính thức với bất kỳ giáo phái nào, Trường Đại học Harvard (Harvard College, sau này là trường giáo dục bậc đại học của Viện Đại học Harvard) trong thời kỳ đầu chủ yếu đào tạo các mục sư Kháng Cách thuộc hệ phái Tự trị Giáo đoàn. Chương trình học và thành phần sinh viên của trường dần dần trở nên có tính chất thế tục trong thế kỷ 18, và đến thế kỷ 19 thì Harvard đã nổi lên như một cơ sở văn hóa chủ chốt của giới tinh hoa vùng Boston.[12][13] Sau Nội chiến Hoa Kỳ, Charles W. Eliot trong nhiệm kỳ viện trưởng kéo dài nhiều năm của mình (từ 1869 đến 1909) đã chuyển đổi trường đại học này và các trường chuyên nghiệp liên kết với nó thành một viện đại học nghiên cứu hiện đại. Harvard là thành viên sáng lập Hiệp hội Viện Đại học Bắc Mỹ vào năm 1900.[14] James Bryant Conant lãnh đạo viện đại học này trong suốt thời kỳ Đại suy thoái và Chiến tranh thế giới thứ hai, và sau chiến tranh bắt đầu cải cách chương trình học và mở rộng việc tuyển sinh. Trường Đại học Harvard trở thành cơ sở giáo dục dành cho cả nam lẫn nữ vào năm 1977 khi nó sáp nhập với Trường Đại học Radcliffe.
Viện Đại học Harvard được tổ chức thành 11 đơn vị học thuật – 10 phân khoa đại học và Viện Nghiên cứu Cao cấp Radcliffe – với các khuôn viên nằm rải rác khắp vùng đô thị Boston:[15] khuôn viên chính rộng 209 mẫu Anh (85 ha) nằm ở thành phố Cambridge, cách Boston chừng 3 dặm (4,8 km) về phía tây bắc; Trường Kinh doanh và các cơ sở thể thao, bao gồm Sân vận động Harvard, nằm bên kia sông Charles ở khu Allston của Boston; còn Trường Y khoa, Trường Nha khoa, và Trường Y tế Công cộng thì nằm ở Khu Y khoa Longwood.[5] Trong số các tổng thống Hoa Kỳ, có tám người là cựu sinh viên Harvard; chừng 150 người được trao giải Nobel là sinh viên, giảng viên, hay nhân viên của viện đại học này. Ngoài ra, có 62 tỉ phú hiện đang còn sống và 335 Học giả Rhodes, hầu hết sống ở Hoa Kỳ, là cựu sinh viên Harvard.[16][17] Thư viện Viện Đại học Harvard cũng là thư viện đại học lớn nhất ở Hoa Kỳ.[18] Tính đến tháng 6 năm 2013, tổng số tiền hiến tặng mà Harvard có được là 32,3 tỷ đô-la, lớn hơn ở bất cứ cơ sở học thuật nào trên thế giới.[3]
Mục lục
Lịch sử
Thời thuộc địa
Harvard được thành lập vào năm 1636 theo sau cuộc bỏ phiếu của Cơ quan Lập pháp vùng Thuộc địa Vịnh Massachusetts. Ban đầu được gọi là New College hay “trường đại học ở New Towne“. Năm 1638, trường đại học này trở thành nơi có chiếc máy in đầu tiên được biết là có mặt ở Bắc Mỹ, do con tàu John of London chở từ Anh sang.[19][20] Năm 1639, trường được đổi tên thành Harvard College, theo tên mục sư John Harvard (1607-1638), một cựu sinh viên của Viện Đại học Cambridge ở Anh, người đã hiến tặng tài sản cho trường. John Harvard khi mất đã để lại cho trường 779 bảng Anh (một nửa gia sản của ông) và chừng 400 cuốn sách.[21]
Trong những năm đầu của mình, Trường Đại học Harvard đã đào tạo nhiều mục sư Thanh giáo.[22] Chương trình học của trường dựa theo mô hình viện đại học Anh – nhiều nhà lãnh đạo ở vùng thuộc địa này từng theo học ở Viện Đại học Cambridge – với các môn học cổ điển nhưng làm cho phù hợp với triết lý Thanh giáo thịnh hành lúc bấy giờ. Mặc dù chưa bao giờ thuộc bất kỳ giáo phái nào, nhiều sinh viên tốt nghiệp từ Harvard ra đã trở thành mục sư cho các nhà thờ theo phái Giáo đoàn Tự trị và phái Nhất thể ở khắp vùng New England.[23] Một tập sách giới thiệu, xuất bản vào năm 1643, đã mô tả việc thành lập trường đại học này như là để đáp ứng lại mong muốn “thúc đẩy và làm sống mãi sự học, nếu không thì sợ rằng sẽ để lại những mục sư thất học cho nhà thờ”.[24]
Mục sư hàng đầu Boston bấy giờ là Increase Mather đã giữ chức hiệu trưởng từ năm 1685 đến 1701. Năm 1708, John Leverett trở thành hiệu trưởng đầu tiên không phải là người thuộc giới tăng lữ; đây là bước đánh dấu sự chuyển mình của Trường Đại học Harvard khiến nó trở nên độc lập về mặt trí thức khỏi ảnh hưởng của Thanh giáo.
Thế kỷ 19
Trong suốt thế kỷ 18, những ý tưởng của Thời kỳ Khai minh về sức mạnh của lý tính và ý chí tự do trở nên phổ biến trong giới mục sư theo Giáo đoàn Tự trị, khiến họ và giáo đoàn của họ ở trong thế căng thẳng với những nhóm theo thần học Calvin có quan điểm truyền thống hơn.[25] Khi Giáo sư Thần học David Tappan qua đời vào năm 1803 và viện trưởng Harvard[26] Joseph Willard qua đời một năm sau đó, năm 1804, một cuộc đấu tranh đã nỗ ra trong quá trình tìm người thay thế. Henry Ware được chọn vào vị trí giáo sư thần học vào năm 1805, và Samuel Webber – một người theo khuynh hướng tự do – được chỉ định làm viện trưởng hai năm sau đó, đánh dấu sự thay đổi từ thời kỳ những ý tưởng của chủ nghĩa truyền thống là chủ đạo ở Harvard sang thời kỳ những ý tưởng của chủ nghĩa tự do theo lối của Jacobus Arminius.[25][27]
Năm 1846, những bài giảng về lịch sử tự nhiên của Louis Agassiz được chào đón nồng nhiệt ở New York lẫn trong khuôn viên Trường Đại học Harvard. Cách tiếp cận của Agassiz duy tâm theo một cách hoàn toàn khác và đã đặt cơ sở cho “sự tham gia vào Bản thể Thần tính” của người Mỹ và khả năng hiểu “những hiện thể tri thức”. Cách nhìn của Agassiz về khoa học kết hợp quan sát với trực giác và giả định rằng người ta có thể nắm bắt được “kế hoạch thần thánh” trong tất cả các hiện tượng. Quan điểm lưỡng nguyên về tri thức này phù hợp với tư tưởng của chủ nghĩa hiện thực mang tính cảm quan kinh nghiệm bắt nguồn từ hai triết gia Scotland Thomas Reid và Dugald Stewart, người có tác phẩm được đưa vào chương trình học của Harvard vào thời ấy.[29]
Charles W. Eliot, làm viện trưởng giai đoạn 1869–1909, đã loại trừ khỏi chương trình học vị trí được ưu ái của Ki-tô giáo trong khi cho phép sinh viên tự chủ động. Mặc dù Eliot là nhân vật chủ chốt nhất trong việc thế tục hóa nền giáo dục đại học Hoa Kỳ, ông hành động không phải vì mong muốn thế tục hóa giáo dục mà vì những niềm tin theo trường phái Nhất thể Tiên nghiệm (Transcendentalist Unitarian). Bắt nguồn từ William Ellery Channing và Ralph Waldo Emerson, những niềm tin này tập trung vào phẩm cách và giá trị của bản chất con người, quyền và khả năng của mỗi người trong việc tiếp nhận sự thật, và thần tính nằm trong mỗi người.[30]
Thế kỷ 20
Trong suốt thế kỷ 20, danh tiếng quốc tế của Harvard gia tăng khi những khoản tiền hiến tặng nhận được gia tăng và các giáo sư xuất sắc mở rộng phạm vi ảnh hưởng của viện đại học. Số sinh viên theo học cũng tăng lên khi các trường sau đại học mới được thiết lập và ngôi trường đại học dành cho việc giáo dục sinh viên bậc đại học được mở rộng. Trường Đại học Radcliffe, được thành lập vào năm 1879 như là một trường chị em với Trường Đại học Harvard, trở thành một trong những trường hàng đầu dành cho nữ giới ở Hoa Kỳ.[31] Harvard trở thành thành viên sáng lập Hiệp hội Viện Đại học Bắc Mỹ vào năm 1900.[14]
James Bryant Conant, giữ chức viện trưởng từ năm 1933 đến 1953, đã tạo sinh lực mới cho hoạt động học thuật sáng tạo và bảo đảm là nó có vị trí hàng đầu trong các cơ sở nghiên cứu. Conant xem giáo dục đại học như là nơi cung cấp cơ hội cho những người có tài thay vì là quyền của những người giàu, từ đó ông thay đổi các chương trình để nhận diện, thu hút, và hỗ trợ những người trẻ có tài. Năm 1943, ông yêu cầu tập thể giảng viên đưa ra lời phát biểu dứt khoát về việc giáo dục tổng quát phải như thế nào, cả ở bậc trung học lẫn đại học. Bản “Báo cáo” (Report) nhận được, xuất bản vào năm 1945, là một trong những tuyên ngôn có nhiều ảnh hưởng nhất trong lịch sử giáo dục Hoa Kỳ thế kỷ 20.[32]
Trong giai đoạn 1945-1960, chính sách tuyển sinh được mở rộng để thu hút sinh viên từ nhiều hoàn cảnh khác nhau. Trường dành cho sinh viên bậc đại học nay thu hút sinh viên thuộc tầng lớp trung lưu từ các trường công lập, chứ không phải chỉ chủ yếu thu hút sinh viên từ một số trường dự bị đại học ở New England; có nhiều sinh viên Do Thái và Công giáo hơn được nhận, dù vẫn có ít sinh viên da đen, Hispanic, hay Á châu.[33]
Sinh viên nữ vẫn học riêng ở Radcliffe, mặc dù ngày càng có nhiều người lấy các lớp học ở Harvard. Ngoài ra, thành phần sinh viên bậc đại học của Harvard vẫn chủ yếu là nam giới, cứ khoảng bốn nam sinh theo học Trường Đại học Harvard thì có một nữ sinh theo học Radcliffe. Theo sau việc Harvard và Radcliffe bắt đầu tuyển sinh chung vào năm 1977, thành phần nữ sinh viên bậc đại học tăng đều, phản ánh xu hướng chung của giáo dục đại học Hoa Kỳ. Các trường sau đại học của Harvard, vốn nhận sinh viên nữ và những nhóm sinh viên khác với số lượng lớn hơn, cũng đã trở nên có thành phần sinh viên đa dạng hơn trong thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1999, Trường Đại học Radcliffe chính thức sáp nhập vào Viện Đại học Harvard và trở thành Viện Nghiên cứu Cao cấp Radcliffe.
Thế kỷ 21
Drew Gilpin Faust, Hiệu trưởng Trường Đại học Radcliffe, trở thành nữ viện trưởng đầu tiên của Harvard vào năm 2007. Bà được bổ nhiệm sau khi vị tiền nhiệm là Lawrence Summers từ chức vào năm 2006.[34]
Học thuật
Cơ cấu viện đại học
Viện Đại học Harvard hiện có các phân khoa đại học sau đây:
- Phân khoa Khai phóng và Khoa học (Faculty of Arts and Sciences), chịu trách nhiệm về hoạt động giáo dục ở
- Trường Đại học Harvard (Harvard College, thành lập năm 1636), đào tạo sinh viên trong các chương trình bậc đại học.
- Trường Sau đại học về Khai phóng và Khoa học (Graduate School of Arts and Sciences, 1872).
- Trường Kỹ thuật và Khoa học Ứng dụng (Harvard School of Engineering and Applied Sciences, 2007; thành lập từ 1950 và đã có nhiều tên gọi khác nhau).
- Phân khoa Giáo dục Thường xuyên (Harvard Division of Continuing Education), bao gồm Trường Mùa hè (Harvard Summer School, 1871) và Trường Phổ biến Kiến thức (Harvard Extension School, 1910).
- Trường Y khoa (Harvard Medical School, 1782)
- Trường Thần học (Harvard Divinity School, 1816)
- Trường Luật (Harvard Law School, 1817)
- Trường Nha khoa (Harvard School of Dental Medicine, 1867)
- Trường Kinh doanh (Harvard Business School, 1908)
- Trường Sau đại học về Thiết kế (Harvard Graduate School of Design, 1914)
- Trường Sau đại học về Giáo dục (Harvard Graduate School of Education, 1920)
- Trường Sức khoẻ Công cộng (Harvard School of Public Health, 1922)
- Trường Quản lý Nhà nước John F. Kennedy (John F. Kennedy School of Government, 1936)
Ngoài ra còn có Viện Nghiên cứu Cao cấp Radcliffe (Radcliffe Institute for Advanced Study).
Thư viện và viện bảo tàng
Hệ thống Thư viện Viện Đại học Harvard, trung tâm là Thư viện Widener ở khu Harvard Yard, có hơn 80 thư viện riêng lẻ chứa hơn 15 triệu tài liệu.[35] Theo Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ thì đây là thư viện đại học lớn nhất Hoa Kỳ và là một trong những thư viện lớn nhất thế giới.[18] Thư viện Khoa học Cabot, Thư viện Lamont, và Thư viện Widener là ba trong số các thư viện được sinh viên bậc đại học ưa thích nhất do dễ tiếp cận và ở vào vị trí thuận lợi. Trong hệ thống thư viện của Harvard có những sách hiếm, bản thảo, và các bộ sưu tập đặc biệt;[36] Thư viện Houghton, Thư viện Lịch sử Phụ nữ Arthur và Elizabeth Schesinger, và Văn khố Viện Đại học Harvard là nơi chủ yếu lưu giữ các tài liệu quý hiếm ít đâu có. Bộ sưu tập tài liệu ngôn ngữ Đông Á lớn nhất bên ngoài Đông Á được lưu trữ tại Thư viện Harvard-Yenching.
Harvard điều hành một số viện bảo tàng nghệ thuật, văn hóa, và khoa học. Hệ thống Viện Bảo tàng Nghệ thuật Harvard có ba viện bảo tàng. Viện Bảo tàng Arthur M. Sackler có các bộ sưu tập nghệ thuật cổ, châu Á, Hồi giáo, và Ấn Đô thời kỳ sau; Viện Bảo tàng Busch-Reisinger trưng bày nghệ thuật Trung Âu và Bắc Âu; còn Viện Bảo tàng Fogg thì trưng bày nghệ thuật Tây phương từ thời Trung cổ đến thời hiện tại, nhấn mạnh đến nghệ thuật Ý thời kỳ đầu Phục hưng, nghệ thuật Anh thời tiền-Raphael, và nghệ thuật Pháp thế kỷ 19. Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Harvard bao gồm Viện Bảo tàng Khoáng chất Harvard, Viện Bảo tàng Thực vật Harvard, và Viện Bảo tàng Động vật Đối chiếu. Những viện bảo tàng khác bao gồm Trung tâm Nghệ thuật Thị giác Carpenter, do Le Corbusier thiết kế, Viện Bảo tàng Khảo cổ và Nhân học Peabody chuyên về lịch sử văn hóa và văn minh Tây Bán cầu, và Viện Bảo tàng Semitic trưng bày các hiện vật khai quật được ở Trung Đông.
Nhân sự và thành phần sinh viên
Harvard có hai cơ quan quản trị là Board of Overseers (Hội đồng Quản trị) và President and Fellows of Harvard College (còn gọi là Harvard Corporation). Hai cơ quan này có thẩm quyền bổ nhiệm Viện trưởng Viện Đại học Harvard. Viện trưởng đương nhiệm là Drew Gilpin Faust. Hiện Harvard có chừng 16.000 giảng viên và nhân viên,[37] trong số đó có chừng 2.400 giảng viên.[38]
Trong sáu năm vừa qua, tổng số sinh viên Harvard nằm trong khoảng từ 19.000 đến 21.000. Harvard có 6.655 sinh viên trong các chương trình bậc đại học, 3.738 sinh viên trong các chương trình sau đại học, và 10.722 sinh viên trong các chương trình chuyên nghiệp sau đại học.[39][40] Sinh viên nữ chiếm 51%, 48%, và 49% trong tổng số sinh viên bậc đại học, sau đại học, và chuyên nghiệp.[39]
Trường Đại học Harvard nhận 27.500 đơn xin vào học khóa tốt nghiệp vào năm 2013, 2.175 được nhận (chiếm 8%), và 1.658 theo học (76%).[41] 95% sinh viên năm nhất từng nằm trong 10 sinh viên đứng đầu khóa ở trường trung học.[41] 88% sinh viên tốt nghiệp trong vòng 4 năm, 98% tốt nghiệp trong vòng 6 năm.[42] Đối với khóa sẽ tốt nghiệp đại học vào năm 2017, Trường Đại học Harvard chỉ nhận có 5.8% trong số các ứng viên nộp đơn.[43]
Khuôn viên
Khuôn viên chính của Harvard rộng 209 mẫu Anh (85 ha), trung tâm là Harvard Yard ở thành phố Cambridge, nằm cách khu trung tâm thành phố Boston chừng 3 dặm (4,8 km) về phía tây-tây bắc, và mở rộng ra khu Quảng trường Harvard ở chung quanh. Khu Harvard Yard có các tòa nhà hành chính và những thư viện chính của viện đại học, các khu học tập bao gồm Sever Hall và University Hall, Nhà thờ Memorial, và phần lớn các cư xá dành cho sinh viên năm nhất. Các sinh viên năm hai, ba, và tư sống trong 12 khu nhà nội trú; chín trong số này nằm ở phía nam Harvard Yard, dọc theo hoặc gần sông Charles, ba khu nhà còn lại vốn trước đây dành cho sinh viên Trường Đại học Radcliffe nằm trong khu dân cư cách Harvard Yard chừng nửa dặm về phía tây bắc ở khu Tứ giác (Quadrangle).
Trường Kinh doanh Harvard và nhiều trong số những cơ sở thể thao của viện đại học, bao gồm Sân vận động Harvard, nằm trong một khuôn viên rộng 358 mẫu Anh (145 ha) nằm ở khu Allston, đối diện với Cambridge bên kia sông. Cầu John W. Weeks là cầu đi bộ bắc qua sông Charles, kết nối hai khuôn viên. Trường Y khoa Harvard, Trường Nha khoa Harvard, và Trường Y tế Công cộng nằm ở một khuôn viên rộng 21 mẫu Anh (8,5 ha) ở Khu Học thuật và Y khoa Longwood, cách trung tâm Boston chừng 3,3 dặm (5,3 km) về phía tây nam và cách khuôn viên chính ở Cambridge chừng 3,3 dặm (5,3 km) về phía nam.[5]
Ngoài những khuôn viên chính ở Cambridge, Allston, và Longwood, Harvard còn sở hữu và điều hành Vườn Bách thảo Arnold (Arnold Arboretum), ở khu Jamaica Plain của Boston; Trung tâm Lưu trữ và Thư viện Nghiên cứu Dumbarton Oaks (Dumbarton Oaks Research Library and Collection) ở Washington, D.C.; Rừng Harvard ở Petersham, Massachusetts; Trạm Thực nghiệm Concord (Concord Field Station) ở Estabrook Woods, Concord, Massachusetts[44] và trung tâm nghiên cứu Villa I Tatti[45] ở Florence, Ý. Harvard cũng điều hành Trung tâm Harvard Thượng Hải ở Trung Quốc.[46]
Thể thao
Tại Harvard có các cơ sở thể thao như Lavietes Pavillion, một vận động trường đa năng và là sân nhà của các đội bóng rổ của Harvard. Trung tâm Thể thao Malkin (MAC) vừa là tiện nghi thể dục thể thao phục vụ sinh viên của trường vừa là cơ sở vệ tinh cho các cuộc thi đấu liên trường. Tòa nhà năm tầng của MAC có hai phòng tim mạch, một hồ bơi tiêu chuẩn Olympic, một hồ bơi nhỏ cho môn thể dục nhiệp điệu dưới nước và các môn khác, một tầng lửng dành cho các lớp học suốt cả ngày, một phòng tập xe đạp trong nhà, ba phòng tập thể hình, và ba sân tập thể dục có thể sử dụng để chơi bóng rổ. MAC cũng cung cấp dịch vụ huấn luyện cá nhân và các lớp học đặc biệt. MAC là sân nhà của các đội bóng chuyền, đấu kiếm, và wrestling của Harvard.
Weld Boathouse và Newell Boathouse là địa điểm tập luyện của các đội chèo thuyền nam và nữ. Đội chèo thuyền nam cũng sử dụng khu phức hợp Red Top ở Ledyard, Connecticut làm trại huấn luyện cho Harvard-Yale Regatta, cuộc đua thuyền hằng năm giữa Harvard và Yale khởi đầu từ năm 1852. Trung tâm Hockey Bright là sân nhà của các đội hockey của Harvard, còn Trung tâm Murr dành cho các đội quần vợt và bóng quần (squash), và là trung tâm chăm sóc sức khỏe cho vận động viên tất cả các môn thi đấu.
Đến năm 2006, Harvard có 41 đội thi đấu trong Bảng 1 liên trường (đại học), đứng đầu danh sách các đại học thuộc Bảng 1 của Hiệp hội Thể thao Đại học Quốc gia (NCCA).
Đối thủ của Harvard là Yale, tất cả các cuộc tranh tài giữa hai trường này đều quyết liệt, cao điểm là các cuộc thi đấu bóng bầu dục mùa thu mỗi năm, khởi đầu từ năm 1875, trở nên nổi tiếng đến nỗi khi nhắc đến nó người ta chỉ đơn giảin gọi là “trận đấu”. Dù không còn được xem là đội bóng số một như một thế kỷ trước đây (từng đoạt giải Rose Bowle năm 1920), Harvard và Yale đã ảnh hưởng đáng kể trên phong cách thi đấu của giải.
Lâu đời hơn giải Rose Bowl đến 23 năm là Harvard-Yale Regatta, các cuộc thi đấu giữa Harvard và Yale đều bắt nguồn từ giải này. Cuộc đua thuyền Harvard-Yale Regatta tổ chức hằng năm vào tháng Sáu trên sông Thames phía đông tiểu bang Connecticut. Đội Harvard được xếp vào một trong các đội chèo thuyền hàng đầu của quốc gia. Trong các môn thể thao khác, các đội thi đấu của Harvard cũng ở trong nhóm đầu như môn hockey trên băng (đối thủ chính là Cornell), bóng quần, mới đây Harvard giành các danh hiệu vô địch môn đấu kiếm nam và nữ của NCAA. Harvard cũng giành ngôi vô địch của Hiệp hội Đua thuyền Liên Đại học năm 2003.
Cựu sinh viên
Trong số những nhân vật nổi tiếng nhất từng theo học ở Harvard có những chính khách Hoa Kỳ như John Hancock, John Adams, John Quincy Adams, Rutherford B. Hayes, Theodore Roosevelt, Franklin Roosevelt, tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ John F. Kennedy, Al Gore, tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ George W. Bush, tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ Barack Obama và phu nhân Michelle Obama, toàn quyền Canada David Lloyd Johnston, các thủ tướng Canada Mackenzie King và Pierre Trudeau; các doanh nhân và nhà từ thiện Aga Khan IV và Bill Gates; nhà từ thiện Huntington Hartford; các tổng thống Mexico Felipe Calderón,[47] Carlos Salinas de Gortari và Miguel de la Madrid, tổng thống Chile Sebastián Piñera, tổng thống Colombia Juan Manuel Santos, tổng thống Costa Rica José María Figueres, tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu, thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu và chủ tịch Tối cao Pháp viện Israeli Aharon Barak, tổng thống Peru Alejandro Toledo, thủ tướng Albania Fan S. Noli, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon; triết gia Henry David Thoreau, các nhà văn Ralph Waldo Emerson và William S. Burroughs, nhà giáo dục Harlan Hanson, nhà thơ Wallace Stevens, T. S. Eliot và E. E. Cummings; chỉ huy dàn nhạc Leonard Bernstein, danh cầm violon Yo Yo Ma, danh hài Conan O’Brien; các diễn viên Fred Gwynne, Jack Lemmon, Natalie Portman, Mira Sorvino, Ashley Judd, Tatyana Ali, Elisabeth Shue, Rashida Jones, Scottie Thompson, Hill Harper, Matt Damon và Tommy Lee Jones; đạo diễn Darren Aronofsky, Mira Nair, Whit Stillman, và Terrence Malick; kiến trúc sư Philip Johnson; các nhạc sĩ Rivers Cuomo, Tom Morello, và Gram Parsons; nhà soạn nhạc Ryan Leslie, người sáng lập Facebook Mark Zuckerberg, nhà lập trình Richard Stallman, danh thủ bóng bầu dục Ryan Fitzpatrick, danh thủ bóng rổ Jeremy Lin và lãnh tụ dân quyền W. E. B. Du Bois.
Trong số những người Việt Nam nổi tiếng là cựu sinh viên Harvard có ông Nguyễn Xuân Oánh (Tiến sĩ Kinh tế, 1954), cựu Phó Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa kiêm Thống đốc Ngân hàng Quốc gia tại Sài Gòn; Phó Bá Long (Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh, 1956), cựu Khoa trưởng Phân khoa Chính trị Kinh doanh, Viện Đại học Đà Lạt;[48] Ngô Vĩnh Long (Tiến sĩ Lịch sử Đông Á và Ngôn ngữ vùng Viễn Đông, 1978), giáo sư Viện Đại học Maine, Hoa Kỳ; Đinh Đồng Phụng Việt (Tiến sĩ Luật, 1993), cựu Phụ tá Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ; Nguyễn Anh Tuấn (tham gia khóa đào tạo và nghiên cứu ngắn hạn vào năm 2004), cựu tổng biên tập báo Vietnamnet. Hội Sinh viên Việt Nam tại Harvard (HVA) thành lập từ đầu thập niên 1990 nhằm thúc đẩy sự quan tâm lẫn nhau, tinh thần cộng đồng, và hiểu biết nhiều hơn về văn hóa Việt.[49]
Trong văn học nghệ thuật
Nhờ có vị trí trung tâm trong giới tinh hoa nước Mỹ, Harvard thường được chọn làm bối cảnh cho nhiều tác phẩm văn học, kịch nghệ, điện ảnh cũng như trong các lĩnh vực văn hóa khác.
Love Story (Chuyện tình), xuất bản năm 1970, của Erich Segal, cựu sinh viên Harvard và là giáo sư môn văn chương cổ điển ở Yale, viết về mối tình lãng mạn giữa một sinh viên luật Harvard con nhà dòng dõi (do Ryan O’Neal thủ diễn) với một nữ sinh viên âm nhạc vào Radcliffe nhờ học bổng (Ali MacGraw). Cả cuốn tiểu thuyết và cuốn phim đều thấm đẫm những hình ảnh thơ mộng của Cambridge.[50] Trong những năm gần đây, ở Harvard vẫn có lệ mỗi năm cho chiếu phim Love Story vào dịp đón tiếp tân sinh viên. Các tác phẩm khác của Erich Segal như The Class (1985) và Doctors (1988) cũng có các nhân vật chính là sinh viên Harvard.
Harvard cũng xuất hiện trong nhiều xuất phẩm điện ảnh ở Mỹ như Stealing Harvard, Legally Blonde, Gilmore Girls, Queer as Folk, The Firm, The Paper Chase, Good Will Hunting, With Honors, How High, Soul Man, 21, và Harvard Man. Kể từ lúc Love Story được dựng thành phim với bối cảnh Harvard thập niên 1960 cho đến phim The Great Debaters thực hiện năm 2007, Harvard không cho phép quay phim bên trong các tòa nhà; hầu hết các cảnh quay đều thực hiện tại những địa điểm có khung cảnh giống Harvard như ở Toronto, hoặc các viện đại học như UCLA, Trường Đại học Wheaton, hay Viện Đại học Bridgewater State, mặc dù cảnh quan ngoài trời và các cảnh quay từ trên cao khuôn viên Harvard ở Cambridge vẫn thường được sử dụng.[51] Phim Legally Blonde có những cảnh quay trước Thư viện Widener của Harvard nhưng không chịu sử dụng sinh viên Harvard làm diễn viên quần chúng vì trang phục của họ trông “không giống Harvard”.[52] Cảnh quay lễ tốt nghiệp trong phim With Honors thực hiện tại trước Thính phòng Foellinger của UIUC.
Nhiều cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh Harvard hoặc có các nhân vật chính liên quan đến Harvard. Robert Langdon, nhân vật chính trong các tác phẩm The Da Vinci Code (Mật mã Da vinci) và Angels and Demons của Dan Brown được miêu tả là “giáo sư môn nghệ thuật biểu trưng” (mặc dù “nghệ thuật biểu trưng” – symbolgoy – không phải là tên chính xác của bất kỳ môn học nào).[53] Pamela Thomas-Graham, nhân vật chính trong một bộ tiểu thuyết trinh thám (Blue Blood, Orange Crushed, và A Darker Shade of Crimson) là một giáo sư Harvard người Mỹ gốc Phi. Trong số các tiểu thuyết nổi tiếng có nhân vật chính là sinh viên Harvard phải kể đến cuốn The Sound and the Fury (Âm thanh và Cuồng nộ) của William Faulkner, và Prozac Nation của Elizabeth Wurtzel. Cựu nhân viên CIA Wyman Ford trong Tyrannosaur và Blasphemy của Douglas Preston cũng là cựu sinh viên Harvard.
Cũng mượn khung cảnh Harvard là loạt phim truyền hình rất được ưa thích của Hàn Quốc Love Story in Harvard (“Chuyện tình Harvard”, đã chiếu ở Việt Nam),[54] thực hiện những cảnh quay ở Viện Đại học Nam California.
Những nhận xét về Harvard
Năm 1893, sách hướng dẫn của Baedeker gọi Harvard là “học viện lâu đời nhất, giàu nhất, và nổi tiếng nhất ở Mỹ.” Hai chi tiết đầu đến nay vẫn còn chính xác; nhưng chi tiết thứ ba thì đang bị tranh cãi.[55] Đến năm 2007, Harvard vẫn đứng đầu trong tất cả bảng xếp hạng các viện đại học trên thế giới của THES-QS University Rankings,[56] và Academic Ranking of World Universities. Năm 2007, tờ U.S. News & World Report cũng xếp Harvard đầu bảng “các viện đại học trong nước”.[57]
Tuy nhiên, Harvard cũng là mục tiêu của không ít chỉ trích, bị phê phán về tình trạng lạm phát điểm số giống các cơ sở giáo dục đại học khác.[58] Sau những chỉ trích từ các phương tiện truyền thông, Harvard hạn chế hạng danh dự từ 90% trong năm 2004 xuống còn 60% năm 2005, và tỏ ra chọn lọc hơn khi được ban tặng các danh hiệu danh dự “John Harvard Scholar” cho nhóm 5% đầu lớp và “Harvard College Scholar” cho nhóm 5% kế cận – với điểm trung bình tối thiểu là 3.8.[59][60][61][62] Quỹ Carnegie Thúc đẩy Hoạt động Giảng dạy, tờ The New York Times, và một số sinh viên lên tiếng chỉ trích Harvard đã phụ thuộc vào các trợ giảng trong một số môn học trong chương trình cử nhân; theo họ, điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng đào tạo.[63][64] Một bài viết đăng trên tờ New York Times cho thấy tình trạng này cũng phổ biến tại một số viện đại học thuộc Liên đoàn Ivy.
Tờ Globe cho đăng kết quả khảo sát của Consortium on Financing Higher Education (COFHE) đối với 31 viện đại học hàng đầu,[65] trình bày những vấn đề như tính sẵn sàng của ban giảng huấn, chất lượng giảng dạy, chất lượng tham vấn, đời sống xã hội ở trường học, và tình cảm cộng đồng kể từ năm 1994. Tờ Harvard Crimson cũng đưa ra những phê phán tương tự.[66][67] Theo trích dẫn của Harvard Crimson, Hiệu trưởng Trường Đại học Harvard là Benedict Gross tỏ ra quan tâm đến các vấn đề COFHE đã nêu, và hứa sẽ cải thiện tình hình.[68] Cựu viện trưởng Viện Đại học Harvard là Larry Summer nhận xét, “Tôi nghĩ vấn đề quan trọng duy nhất là mối quan hệ giữa ban giảng huấn và sinh viên, chúng ta đã để quá nhiều sinh viên cao học tham gia giảng dạy. Các lớp học quá đông đến nỗi giảng viên không biết tên sinh viên. Ít người có cơ hội trải nghiệm phương pháp học tập tích cực như vào phòng thí nghiệm, thảo luận trong lớp, đối thoại tại các hội nghị chuyên đề, hoặc làm việc theo nhóm trong văn khố.”[69]
Chú thích
- ^ Harvard’s Veritas appears on the university’s arms; heraldically speaking, however, a ‘motto’ is a word or phrase displayed on a scroll in conjunction with a shield of arms. Since 1692 University seals have borne Christo et Ecclesiae (for Christ and the Church) in this manner, arguably making that phrase the university’s motto in a heraldic sense. This legend is otherwise not in general use today.
- ^ An appropriation of £400 toward a “school or college” was voted on ngày 28 tháng 10 năm 1636 (OS), at a meeting which convened on September 8 and was adjourned to October 28. Some sources consider ngày 28 tháng 10 năm 1636 (OS) (ngày 7 tháng 11 năm 1636 NS) to be the date of founding. Harvard’s 1936 tercentenary celebration treated September 18 as the founding date, though 1836 bicentennial was celebrated on ngày 8 tháng 9 năm 1836. Sources: meeting dates, Quincy, Josiah (1860). History of Harvard University. 117 Washington Street, Boston: Crosby, Nichols, Lee and Co., p. 586, “At a Court holden September 8th, 1636 and continued by adjournment to the 28th of the 8th month (October, 1636)… the Court agreed to give £400 towards a School or College, whereof £200 to be paid next year….” Tercentenary dates: “Cambridge Birthday”. Time. Ngày 28 tháng 9 năm 1936. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2006.: “Harvard claims birth on the day the Massachusetts Great and General Court convened to authorize its founding. This was Sept.ngày 1 tháng 8 năm 1637 under the Julian calendar. Allowing for the ten-day advance of the Gregorian calendar, Tercentenary officials arrived at Sept. 18 as the date for the third and last big Day of the celebration;” “on Oct. 28, 1636… £400 for that ‘school or college’ [was voted by] the Great and General Court of the Massachusetts Bay Colony.” Bicentennial date: Marvin Hightower (ngày 2 tháng 9 năm 2003). “Harvard Gazette: This Month in Harvard History”. Harvard University. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2006., “Sept. 8, 1836 – Some 1,100 to 1,300 alumni flock to Harvard’s Bicentennial, at which a professional choir premieres “Fair Harvard.”… guest speaker Josiah Quincy Jr., Class of 1821, makes a motion, unanimously adopted, ‘that this assembly of the Alumni be adjourned to meet at this place on the 8th of September, 1936.'” Tercentary opening of Quincy’s sealed package: The New York Times, ngày 9 tháng 9 năm 1936, p. 24, “Package Sealed in 1836 Opened at Harvard. It Held Letters Written at Bicentenary”: “September 8th, 1936: As the first formal function in the celebration of Harvard’s tercentenary, the Harvard Alumni Association witnessed the opening by President Conant of the ‘mysterious’ package sealed by President Josiah Quincy at the Harvard bicentennial in 1836.”
- ^ a ă “U.S. and Canadian Institutions Listed by Fiscal Year 2013 Endowment Market Value and Change in Endowment Market Value from FY 2012 to FY 2013” (PDF). National Association of College and University Business Officers and Commonfund Institute. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2014.
- ^ Office of Institutional Research. (2009). “Faculty”. Harvard University Fact Book (PDF). (“Unduplicated, Paid Instructional Faculty Count: 2,107. Unduplicated instructional faculty count is the most appropriate count for general reporting purposes.”)
- ^ a ă â “Faculties and Allied Institutions” (PDF). Office of the Provost, Harvard University. 2012. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2013.
- ^ Keller, Morton; Keller, Phyllis (2001). Making Harvard Modern: The Rise of America’s University. Oxford University Press. tr. 463–481. ISBN 0-19-514457-0.
Harvard’s professional schools… won world prestige of a sort rarely seen among social institutions. (…) Harvard’s age, wealth, quality, and prestige may well shield it from any conceivable vicissitudes.
- ^ Spaulding, Christina (1989). “Sexual Shakedown”. Trong Trumpbour, John. How Harvard Rules: Reason in the Service of Empire. South End Press. tr. 326–336. ISBN 0-89608-284-9.
… [Harvard’s] tremendous institutional power and prestige (…) Within the nation’s (arguably) most prestigious institution of higher learning…
- ^ David Altaner (ngày 9 tháng 3 năm 2011). “Harvard, MIT Ranked Most Prestigious Universities, Study Reports”. Bloomberg. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2012.
- ^ Collier’s Encyclopedia. Macmillan Educational Co. 1986.
Harvard University, one of the world’s most prestigious institutions of higher learning, was founded in Massachusetts in 1636.
- ^ Newport, Frank. “Harvard Number One University in Eyes of Public Stanford and Yale in second place”. Gallup.
- ^ Rudolph, Frederick (1961). The American College and University. University of Georgia Press. tr. 3. ISBN 0-8203-1285-1.
- ^ Story, Ronald (1975). “Harvard and the Boston Brahmins: A Study in Institutional and Class Development, 1800–1865”. Journal of Social History 8 (3): 94–121. doi:10.1353/jsh/8.3.94.
- ^ Farrell, Betty G. (1993). Elite Families: Class and Power in Nineteenth-Century Boston. State University of New York Press. ISBN 0-7914-1593-7.
- ^ a ă “Member Institutions and years of Admission”. Association of American Universities. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2010.
- ^ “Faculties and Allied Institutions” (PDF). Office of the Provost, Harvard University. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2010.
- ^ “US Rhodes Scholarship Winners by institution (1904-2013)” (PDF). The Rhodes Trust. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2013.
- ^ Janhavi Kumar Sapra (ngày 11 tháng 8 năm 2010). “Billionaire Universities”. Forbes. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2010.
- ^ a ă “The Nation’s Largest Libraries: A Listing By Volumes Held”. American Library Association. Tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2009.
- ^ “The instrument behind New England’s first literary flowering”. Harvard University. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2014.
- ^ “Rowley and Ezekiel Rogers, The First North American Printing Press” (PDF). Maritime Historical Studies Centre, University of Hull. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2014.
- ^ “John Harvard Facts, Information.”. The Columbia Encyclopedia, Sixth Edition. 2008. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2009.
He bequeathed £780 (half his estate) and his library of 320 volumes to the new established college at Cambridge, Mass., which was named in his honor.
- ^ “The Harvard Guide: The Early History of Harvard University”. Harvard University. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2010.
- ^ Harvard Office of News and Public Affairs (ngày 26 tháng 7 năm 2007). “Harvard guide intro”. Harvard University. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2010.
- ^ Wright, Louis B. (2002). The Cultural Life of the American Colonies. tr. 116. ISBN 978-0-486-42223-7.
- ^ a ă Gary J. Dorrien. The Making of American Liberal Theology: Imagining Progressive Religion, 1805-1900, Volume 1. Westminster John Knox Press, 2001
- ^ Harvard được công nhận tư cách viện đại học vào năm 1780; xem Historical Facts
- ^ Peter S. Field Ralph Waldo Emerson: The Making of a Democratic Intellectual Rowman & Littlefield, 2003 ISBN 978-0847688425
- ^ “Arader Galleries Iconic College Views”, Rummell, Richard, Littig & Co. 1915
- ^ Nartonis, David K. (2005). “Louis Agassiz and the Platonist Story of Creation at Harvard, 1795–1846”. Journal of the History of Ideas 66 (3): 437–449. JSTOR 3654189.
- ^ Shoemaker, Stephen P. (2006–2007). “The Theological Roots of Charles W. Eliot’s Educational Reforms”. Journal of Unitarian Universalist History 31: 30–45.
- ^ Schwager, Sally (2004). “Taking up the Challenge: The Origins of Radcliffe”. Trong Laurel Thatcher Ulrich (ed.). Yards and Gates: Gender in Harvard and Radcliffe History. New York: Palgrave Macmillan. tr. 115. ISBN 1-4039-6098-4.
- ^ Anita Fay Kravitz, “The Harvard Report of 1945: An historical ethnography”, Ph.D. dissertation, University of Pennsylvania, 1994, 367 pages; AAT 9427558
- ^ Malka A. Older. (1996). Preparatory schools and the admissions process. The Harvard Crimson, ngày 24 tháng 1 năm 1996
- ^ Bombardieri, M. (2005). Summers’ remarks on women draw fire. The Boston Globe, ngày 17 tháng 1 năm 2005.
- ^ See the FAQ on the Harvard-Google partnership.
- ^ See the library portal listing of archives and special collections Harvard Libraries: Archives and Special Collections Listed Alphabetically by Name.
- ^ Burlington Free Press, ngày 24 tháng 6 năm 2009, page 11B, “”Harvard to cut 275 jobs” Associated Press
- ^ Office of Institutional Research (2009). Harvard University Fact Book 2009–2010 (PDF). (“Faculty”)
- ^ a ă “Degree Student Head Count: Fall 2010” (PDF). Harvard University. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2013.
- ^ See Demographics of the United States for references.
- ^ a ă “Common Data Set 2008–09” (PDF). Harvard University. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2010.
- ^ “U-CAN: Harvard University”. University and College Accountability Network. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2010.
- ^ Yaqhubi, Zohra D. “Harvard College Accepts Record Low of 5.8 Percent to the Class of 2017 | News | The Harvard Crimson”. Thecrimson.com. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2013.
- ^ http://www.oeb.harvard.edu/cfs/
- ^ “Villa I Tatti: The Harvard University Center for Italian Renaissance Studies”. Itatti.it. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Harvard Center Shanghai”. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
- ^ Doug Gavel (ngày 7 tháng 7 năm 2006). “Alum is Apparent Winner of Presidential Election in Mexico”. Harvard KSG. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2009.
- ^ Làng Thông Reo
- ^ Harvard Vietnamese Association
- ^ Rogers, M. F. (1991). Novels, Novelists, and Readers: Toward a Phenomenological Sociology of Literature. SUNY Press, ISBN 0-7914-0603-2.
- ^ Burr, T. (2005)
- ^ Reel Boston. The Boston Globe, ngày 27 tháng 2 năm 2005.
- ^ Jampel, C. E. (2004). Ruffling Religious Feathers. The Harvard Crimson, ngày 12 tháng 2 năm 2004.
- ^ Catalano, N. M. (2004). Harvard TV Show Popular in Korea. The Harvard Crimson, ngày 13 tháng 12 năm 2004.
- ^ Baedeker, Karl (1971) [1893]. The United States, with an Excursion into Mexico: A Handbook for Travellers. New York: Da Capo Press. ISBN 0-306-71341-1., p. 83. (Facsimile reprint of original, published in Leipzig and New York)
- ^ [1] — A 2008 ranking from the THES – QS of the world’s research universities.
- ^ US News and World Report. (2006). National Universities: Top Schools.
- ^ Rosane, O. (2006). College Administrators Take On Inflated Grade Averages. Columbia Spectator, ngày 20 tháng 3 năm 2006.
- ^ No author given. (2003). Brevia. Harvard Magazine, January-February 2003.
- ^ Milzoff, R. M., Paley, A. R., & Reed, B. J. (2001). Grade Inflation is Real. Fifteen Minutes ngày 1 tháng 3 năm 2001.
- ^ Bombardieri, M. & Schweitzer, S. (2006). “At Harvard, more concern for top grades.” The Boston Globe, ngày 12 tháng 2 năm 2006. p. B3 (Benedict Gross quotes, 23.7% A/25% A- figures, characterized as an “all-time high.”).
- ^ Associated Press. (2004). Princeton becomes first to formally combat grade inflation. USA Today, ngày 26 tháng 4 năm 2004.
- ^ Hicks, D. L. (2002). Should Our Colleges Be Ranked?. Letter to [The New York Times, ngày 20 tháng 9 năm 2002.
- ^ Merrow, J. (2004). Grade Inflation: It’s Not Just an Issue for the Ivy League. Carnegie Perspectives, The Carnegie Foundation for the Advancement of Teaching.
- ^ Bombardieri, M. (2005). Student life at Harvard lags peer schools, poll finds. The Boston Globe, ngày 29 tháng 3 năm 2005.
- ^ Adams, W. L., Feinstein, B., Schneider, A. P., Thompson, A. H., & and Wasserstein, S. A. (2003). The Cult of Yale. The Harvard Crimson, ngày 20 tháng 11 năm 2003.
- ^ Feinstein, B., Schneider, A. P., Thompson, A. H., & Wasserstein, S. A. (2003). The Cult of Yale, Part II. The Harvard Crimson, ngày 20 tháng 11 năm 2003.
- ^ Ho, M. W. & Rogers, J. P. (2005). Harvard Students Less Satisfied Than Peers With Undergraduate Experience, Survey Finds. The Harvard Crimson, ngày 31 tháng 3 năm 2005.
- ^ Summers talks of legacy, need for change at Harvard – CNN 29-06-2006
Đọc thêm
- Hoerr, John, We Can’t Eat Prestige: The Women Who Organized Harvard; Temple University Press, 1997, ISBN 1-56639-535-6
- John T. Bethell, Harvard Observed: An Illustrated History of the University in the Twentieth Century, Harvard University Press, 1998, ISBN 0-674-37733-8
- Harry R. Lewis, Excellence Without a Soul: How a Great University Forgot Education (2006) ISBN 1-58648-393-5
- John Trumpbour, ed., How Harvard Rules. Reason in the Service of Empire, Boston: South End Press, 1989, ISBN 0-89608-283-0
- Story, R. The Forging of an Aristocracy: Harvard and the Boston Upper Class,1800-1870, Middletown, CT: Wesleyan University Press, 1981
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đại học Harvard |
|
Tượng Nữ thần Tự do
Tượng Nữ thần Tự do | |
---|---|
![]() |
|
Vị trí | Đảo Liberty Thành phố New York Tiểu bang New York, Hoa Kỳ[1] |
Toạ độ | 40°41′21″B 74°2′40″TTọa độ: 40°41′21″B 74°2′40″T |
Chiều cao | |
Khánh thành | 28 tháng 10 năm 1886 |
Phục hồi lại | 1938, 1984–1986, 2011–2012 |
Nhà điêu khắc | Frédéric Auguste Bartholdi |
Lượng tham quan | 3,2 triệu (năm 2009)[2] |
Cơ quan quản lý | Cục Công viên Quốc gia Mỹ |
Loại | Văn hóa |
Tiêu chuẩn | i, vi |
Ngày nhận danh hiệu | 1984 (Phiên họp thứ 8) |
Số hồ sơ tham khảo | 307 |
State Party | ![]() |
Vùng | Châu Âu và Bắc Mỹ |
Tên chính thức: Tượng đài Quốc gia Nữ thần Tự do, Đảo Ellis và Đảo Liberty” | |
Ngày nhận danh hiệu | 15 tháng 10 năm 1966[3] |
Số hồ sơ tham khảo | 66000058 |
Ngày nhận danh hiệu | 15 tháng 10, 1924 |
Quyết định | Tổng thống Calvin Coolidge[4] |
Loại | Cá biệt |
Ngày nhận danh hiệu | 14 tháng 9 năm 1976[5] |
Vị trí tượng Nữ thần Tự do ở cảng New York
|
Tượng Nữ thần Tự do (tên đầy đủ là Nữ thần Tự do soi sáng thế giới; tiếng Anh: Liberty Enlightening the World; tiếng Pháp: La Liberté éclairant le monde) là một tác phẩm điêu khắc theo phong cách tân cổ điển với kích thước cực lớn, đặt trên Đảo Liberty tại cảng New York. Tác phẩm này do kiến trúc sư Frédéric Bartholdi thiết kế và được khánh thành vào ngày 28 tháng 10 năm 1886. Đây là tặng vật của nhân dân Pháp gửi nước Mỹ.
Tượng Nữ thần Tự do có hình dáng một người phụ nữ mặc áo choàng, tiêu biểu cho Libertas, nữ thần tự do của La Mã, tay phải cầm ngọn đuốc còn tay kia một tấm đá phiến có khắc ngày tháng độc lập của Hoa Kỳ. Bức tượng này là biểu tượng mẫu mực của lý tưởng tự do cũng như của chính Hoa Kỳ.
Kiến trúc sư Bartholdi lấy cảm hứng từ một lời nói của chính trị gia kiêm giáo sư luật học người Pháp, Édouard René de Laboulaye vào năm 1865 rằng bất cứ tượng đài nào dựng lên để đánh dấu ngày độc lập của Hoa Kỳ thì cũng đáng là một dự án chung của cả hai dân tộc Pháp và Mỹ. Vì tình hình chính trị xáo trộn tại Pháp, công trình bị hoãn cho đến đầu thập niên 1870. Năm 1875, Laboulaye đề nghị rằng Pháp sẽ tài trợ việc đúc tượng còn Mỹ sẽ xây phần bệ và tìm vị trí đặt tượng. Bartholdi hoàn thành phần đầu tượng và cánh tay cầm đuốc trước khi bức tượng được thiết kế toàn bộ. Các bộ phận của tượng được trưng bày triển lãm cho công chúng xem trong nhiều đợt triển lãm quốc tế. Riêng cánh tay phải cầm ngọn đuốc được trưng bày tại Công viên Quảng trường Madison của Thành phố New York từ năm 1876 đến năm 1882. Công việc xúc tiến gây quỹ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt về phía người Mỹ. Năm 1885 công việc xây dựng bệ tượng bị đe dọa đình chỉ vì thiếu ngân sách. Joseph Pulitzer, chủ bút của nhật báo New York World, phải khởi động cuộc vận động quyên góp để hoàn thành dự án. Chiến dịch vận động của ông đã thu hút trên 120.000 người ủng hộ. Trong số người góp tiền, đa số góp dưới một đô la mỗi người.
Bức tượng được xây dựng tại Pháp, xếp trong các thùng lớn và vận chuyển bằng tàu biển, rồi sau đó được ráp vào bệ tượng nằm trên hòn đảo vốn xưa kia có tên là Đảo Bedloe. Để đánh dấu việc hoàn thành bức tượng, một cuộc diễn hành lớn diễn ra tại Thành phố New York. Đó cũng là lần đầu tiên công chúng chứng kiến hoa giấy tung xuống đường phố như tuyết rơi. Buổi lễ khánh thành do Tổng thống Grover Cleveland làm chủ tọa.
Tượng Nữ thần Tự do được Ban đặc trách Hải đăng Hoa Kỳ quản lý cho đến năm 1901 và rồi sau đó là Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ; kể từ năm 1933 thì do Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ quản lý.
Bức tượng phải đóng cửa để tu sửa lớn vào năm 1938. Vào đầu thập niên 1980, vì có dấu hiệu hư hại, tượng lại trải qua một đợt đại trùng tu nữa. Trong thời gian tu sửa từ năm 1984 đến 1986, ngọn đuốc và phần lớn cấu trúc bên trong cũng được thay thế. Sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001, Tượng Nữ thần Tự do bị đóng cửa vì lý do an ninh; bệ tượng mở cửa lại vào năm 2004 và toàn phần tượng lại đón khách vào xem kể từ năm 2009 nhưng với số lượng hạn chế được phép đi lên đến phần mũ miện. Nhà chức trách dự trù đóng cửa khoảng một năm, bắt đầu từ cuối năm 2011 để trang bị thêm một cầu thang phụ. Lối vào ban công bao quanh ngọn đuốc bị ngăn lại vì lý do an toàn kể từ năm 1916.
Mục lục
Thiết kế và xây dựng
Nguồn gốc
Dự án Tượng Nữ thần Tự do là do chính trị gia kiêm giáo sư luật học người Pháp, Édouard René de Laboulaye gợi ý vào giữa năm 1865. Trong một buổi nói chuyện sau giờ ăn tối ở tư gia gần Versailles, Laboulaye, một người nhất mực ủng hộ phe liên bang trong Nội chiến Hoa Kỳ, đã phát biểu rằng “nếu một tượng đài cần được dựng lên tại Hoa Kỳ để làm đài kỷ niệm đánh dấu nền độc lập của họ, tôi thiết nghĩ lẽ tự nhiên duy nhất là nếu nó được xây dựng bằng sự hợp lực – một việc làm chung của cả hai quốc gia chúng ta.”[6]

Lời phát biểu của Laboulaye không có dụng ý khởi xướng dự án nhưng đã gây nguồn cảm hứng cho một điêu khắc gia trẻ, Frédéric Bartholdi, người có mặt trong buổi ăn tối hôm đó.[6] Vì chế độ độc tài chuyên chế của Napoleon III lúc bấy giờ, Bartholdi không thể thực hiện ý tưởng đó ngoài việc bàn luận với Laboulaye. Trái lại, Bartholdi tiếp xúc với Ismail Pasha và Khedive (quốc vương) của Ai Cập để đệ trình dự án xây một ngọn hải đăng khổng lồ có hình dạng một nữ nông dân cổ Ai Cập, vận áo choàng và tay cầm một ngọn đuốc đưa lên cao. Tượng sẽ đặt ở Cảng Said ngay lối vào phía Bắc Kênh đào Suez. Hình vẽ phác thảo và hình mẫu được thực hiện như dự định, nhưng ngọn hải đăng này không được thực hiện.
Trong lịch sử thì trước kia có một bức tượng cổ điển dựng lên bên bờ Kênh đào Suez; đó là Tượng thần Mặt Trời ở Rhodes, một pho tượng đồng tạc hình thần mặt trời Hy Lạp, Helios. Bức tượng này tương truyền cao trên 30 mét (100 ft), dáng đứng ngay lối vào cửa biển, tay cầm một ngọn đèn để hướng dẫn tàu thuyền.[7]
Chiến tranh Pháp-Phổ sau đó tiếp tục trì hoãn dự án xây bức tượng cho nước Mỹ. Bartholdi phải nhập ngũ, phục vụ với cấp bậc thiếu tá địa phương quân.[8] Trong cuộc chiến tranh này, Hoàng đế Napoleon III bị bắt và truất ngôi. Tỉnh Alsace, quê hương của Bartholdi bị nhượng cho Phổ còn ở Pháp, một nền cộng hòa mới, cấp tiến hơn hình thành.[6]
Từ lâu Bartholdi từng ấp ủ ý định viếng thăm Hoa Kỳ. Sau khi bàn bạc với Laboulaye, ông cho là thời điểm đã đến nên hỏi ý chính giới Mỹ.[9] Tháng 6 năm 1871, Bartholdi vượt Đại Tây Dương với lá thư giới thiệu do Laboulaye ký.[10] Khi đến Thành phố New York, Bartholdi chọn đảo Bedloe làm nơi đặt tượng vì nhận thấy đây là địa điểm lý tưởng khi tàu thuyền ra vào hải cảng New York đều sẽ đi ngang qua hòn đảo này. Ông càng hứng khởi khi biết rằng hòn đảo này thuộc chính phủ liên bang Hoa Kỳ vì trước kia Nghị viện Tiểu bang New York đã nhượng đảo cho chính phủ Hoa Kỳ từ năm 1800 để phòng thủ bến cảng. Bartholdi kết luận trong lá thư gởi cho Laboulaye, “đất này là đất chung của tất cả các tiểu bang.”[11] Ngoài các cuộc gặp mặt với nhiều thân hào New York, Bartholdi còn đến thăm Tổng thống Ulysses Simpson Grant nhưng Grant cho rằng trưng dụng đảo Bedloe làm nơi dựng tượng là chuyện rất khó.[12]
Bartholdi đi khắp từ đông sang tây Hoa Kỳ hai lần bằng xe lửa, gặp mặt nhiều người Mỹ ủng hộ dự án.[10] Tuy nhiên, Bartholdi cho rằng công luận ở cả Pháp lẫn Mỹ vẫn chưa đón nhận dự án một cách nồng nhiệt bèn cùng Laboulaye hoãn chờ một thời gian, đợi ngày mở cuộc vận động công chúng.[13]
Bartholdi làm mô hình đầu tiên theo phác thảo của năm 1870.[14] Theo người con của họa sĩ Mỹ John La Farge (bạn với Bartholdi) thì nhà điêu khắc Bartholdi cho ra đời phác họa đầu tiên nhân chuyến viếng thăm phòng tranh của La Farge ở Rhode Island, Hoa Kỳ. Bartholdi tiếp tục phát triển phác thảo này sau khi quay về Pháp.[14] Khi về Pháp ông thực hiện một số tác phẩm điêu khắc làm khơi dậy lòng yêu nước của người Pháp dù bại trận sau chiến tranh Pháp-Phổ. Một trong số những bức tượng của thời kỳ đó là Sư tử Belfort, một tác phẩm điêu khắc tạc bằng sa thạch đặt ở chân pháo đài Belfort. Nơi này trong cuộc chiến đã cầm cự suốt hơn ba tháng cuộc vây hãm của quân Phổ. Con sư tử bất khuất này có chiều dài 22 mét (73 ft) và cao hơn 10 mét, biểu hiện thật hùng hồn đường nét lãng mạn mà sau này Bartholdi cũng đã lồng vào Tượng Nữ thần Tự do.[15]
Thiết kế, kiểu mẫu và biểu tượng

Bartholdi và Laboulaye cùng nhau cân nhấc, tìm cách diễn tả ý niệm lý tưởng tự do của Mỹ.[16] Họ có hai mô típ để dùng. Từ thuở khai quốc, hai nhân vật phụ nữ thường dùng làm biểu tượng văn hóa của đất nước Hoa Kỳ[17] là Columbia và Libertas. Columbia được xem như hiện thân của Hoa Kỳ cũng giống như Britannia là biểu tượng của Vương quốc Anh và Marianne đại diện cho nước Pháp. Trước đó công chúa da đỏ đã được dùng là biểu tượng của Mỹ nhưng vì công luận cho đó hàm ý mọi rợ, kém văn minh, thật không xứng đáng với nước Mỹ nên Columbia đã thay thế công chúa da đỏ.[17] Còn Libertas, vị nữ thần tự do được thờ phụng rộng rãi vào thời cổ đại La Mã, nhất là trong giới nô lệ được phóng thích thì hình tượng này đã được dùng trên nhiều đồng tiền kim loại của Mỹ vào thời đó.[16] Đồng thời Libertas cũng phổ biến trong mỹ thuật công cộng và văn hóa bình dân. Tiêu biểu là Tượng Tự do (1863) của Thomas Crawford nằm trên mái vòm của Tòa Quốc hội Hoa Kỳ.[16] Hình tượng Nữ thần Tự do cũng có mặt trên Quốc ấn của Pháp.[16]
Mỹ thuật thế kỷ 18 và thế kỷ 19 thường dùng Nữ thần Tự do là biểu tượng lý tưởng công chính của nền cộng hòa.[16] Tuy nhiên Bartholdi và Laboulaye không muốn dùng hình nữ thần tự do để đề cao tinh thần cách mạng như trong bức tranh nổi tiếng Nữ thần Tự do dẫn dắt Nhân dân (tiếng Pháp: La Liberté guidant le peuple) (1830) của họa sĩ Eugène Delacroix. Bức tranh này kỷ niệm cuộc cách mạng Pháp năm 1830 với Nữ thần Tự một tay phất cờ, tay kia cầm súng hô hào toán người vũ trang tiến lên, đạp lên cả xác người đã gục.[17] Laboulaye không có cảm tình với phe cách mạng nên hình ảnh Bartholdi chọn làm mẫu là thần tự do vận áo choàng dài.[17] Thay vì đặt bạo động là trọng tâm như tác phẩm của Delacroix, Bartholdi muốn tạo cho tượng vẻ thanh thản, tay trương ngọn đuốc tượng trưng cho tiến bộ.[18]
Về phần pho tượng của Crawford trên mái vòm của Tòa Quốc hội Hoa Kỳ thì tượng được thiết kế vào đầu thập niên 1850. Ban đầu, theo dự định thì đầu tượng đội mũ hình nấm (pileus), một kiểu mũ của người nô lệ sau khi phóng thích có từ thời cổ La Mã. Tuy nhiên Bộ trưởng Chiến tranh Hoa Kỳ là Jefferson Davis, vốn là người miền Nam (sau làm tổng thống của Liên minh miền Nam Hoa Kỳ) thì ngần ngại cho rằng mũ hình nấm là biểu tượng của chủ nghĩa bãi nô nên không chấp thuận. Davis mới ra lệnh thay thế mũ hình nấm bằng mũ giáp (helmet).[19] Tranh của Delacroix thì vẽ thần Tự do đội mũ hình nấm,[17] và Bartholdi có ý định dùng cùng một kiểu mũ nhưng sau chọn kiểu mũ miện (diadem hay như vương miện crown) cho pho tượng.[20] Kiểu mũ miện tránh sự ngộ nhận thần Tự do với Marianne, biểu tượng nước Pháp vì Marianne luôn mũ hình nấm.[21]
Mũ miện của Bartholdi có bảy tia như vầng hào quang[22] mặt Trời, tương ứng với bảy đại dương, và bảy đại lục địa.[23] Ngoài ra tia sáng của mũ miện cùng ngọn đuốc thể hiện ánh sáng của Tự do rạng soi khắp thế giới.[18]
Tất cả những mẫu hình đầu tiên của Bartholdi đều có chung một nét: một người phụ nữ theo thể tân cổ điển tượng trưng cho tự do. Thân tượng khoác áo choàng dài (kiểu áo thường được dùng để cho các nữ thần La Mã); tay tượng cầm ngọn đuốc giương cao. Khuôn mặt tượng tạc theo chân dung của Charlotte Beysser Bartholdi, mẹ của chính điêu khắc gia.[24] Ông thiết kế tượng với bố cục khỏe khoắn, không quá rườm rà để hòa vào biển trời bao la của hải cảng New York. Khách trên thuyền vào cửa bể có thể ngắm nhìn pho tượng từng khía cạnh một khi thuyền chậm tiến vào Manhattan. Tượng mang đậm nét cổ điển, điêu khắc gọn ghẽ, giản lược để tăng phần quy mô và vẻ uy nghi của toàn bố cục.[18] Bartholdi tự thuật như sau:
Vỏ ngoài của tượng nên khái quát và đơn giản; thiết kế thì cần xác định rõ ràng và đậm nét, nhấn mạnh ở vài trọng điểm. Tránh khuếch đại hay lặp lại những chi tiết thêm chi ly. Nếu phóng đại đường nét để dễ thấy hơn hay tăng cường những tiểu tiết thì ắt làm hỏng tỷ lệ toàn tác phẩm. Cuối cùng, mẫu hình như trong thiết kế cần có đặc tính tổng thể ví như ta phác thảo thật nhanh. Điều cần thiết là nét đặc trưng phải do chủ ý và nghiên cứu; nghệ nhân khi tập trung kiến thức sẽ tìm thấy hình thể và đường nét trong cái thật là đơn giản.[25]
Ngoài việc thay đổi kiểu mũ trên đầu tượng, bản mẫu cũng thay đổi những chi tiết khác trong lúc dự án đang tiến hành. Bartholdi định thêm sợi dây xích đứt trong tay Nữ thần Tự do nhưng sau đó lại thôi vì cho rằng hình ảnh đó chỉ gây chia rẽ giữa hai miền Nam Bắc Hoa Kỳ khi vừa mới xong chiến cuộc. Thay vì cầm xích, ông cho tượng đứng giẫm lên trên một đoạn xích gãy, một phần có gấu áo che khuất nên khó thấy từ chân bệ tượng nhìn lên.[20] Ban đầu Bartholdi còn phân vân không biết tay trái của Nữ thần sẽ cầm gì; sau ông mới quyết định dùng tấm tabula ansata, một mảnh đá phiến như dạng đá đỉnh vòm (keystone),[26] tượng trưng cho ý tưởng luật pháp.[27] Một mặt Bartholdi rất khâm phục Hiến pháp Hoa Kỳ nhưng ông chọn khắc dòng chữ “JULY IV MDCCLXXVI” trên tấm tabula ansata, nối liền ngày Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ với ý niệm tự do.[26]
Sau khi tham khảo xưởng đúc kim loại mỹ thuật Gaget, Gauthier & Co., Bartholdi kết luận rằng vỏ tượng tốt nhất nên làm bằng những tấm đồng được nện thành hình như ý muốn qua phương pháp “repoussé”. Theo cách tạo hình này thì tấm kim loại mỏng được trang trí hay tạo hình bằng cách nện uốn bên mặt trái.[28] Lợi điểm của repoussé là toàn bức tượng khá nhẹ vì lớp vỏ đồng chỉ dày khoảng 0,094 inch (2,4 mm). Ông ấn định chiều cao của pho tượng là 151 ft (46 mét), tức là cao gấp đôi tượng Colosso di San Carlo Borromeo của Ý và tượng Arminius của Đức. Hai tác phẩm đó cũng làm theo phương pháp repoussé.[29] Với dự án này, Bartholdi đã lôi cuốn được người thầy cũ là kiến trúc sư Eugène Viollet-le-Duc cùng hợp tác. Viollet-le-Duc đóng góp trong việc xây lõi gạch bên trong tượng để đính vỏ đồng ra bên ngoài.[30]
Vận động & khởi công
Năm 1875, trong khi tình hình chính trị Pháp dần ổn định và kinh tế cũng hồi phục sau cuộc chiến tranh với Phổ thì dân chúng cũng náo nức mong đợi Hội chợ Thế giới năm 1876 sắp khai trương tại Philadelphia, Hoa Kỳ. Nhân cơ hội này Laboulaye mới vận động tìm hậu thuẫn để thực hiện dự án.[31] Tháng 9 năm 1875, ông chính thức thông báo dự án và lập liên hội Mỹ-Pháp với vai trò gây quỹ cho kế hoạch Nữ thần Tự đo Soi sáng Thế giới.[32] Pháp nhận tài trợ việc đúc tượng còn Mỹ thì sẽ lãnh phần trang trải khoản phí xây bệ tượng.[33] Thông báo dự án của Laboulaye gây nhiều phấn khởi ở Pháp cho dù công luận ở Pháp vẫn còn có người oán giận Hoa Kỳ đã không hỗ trợ Pháp trong cuộc chiến với Phổ vừa qua.[32] Phe bảo hoàng ở Pháp thì phản đối bức tượng chỉ vì Laboulaye là người khởi xướng mà Laboulaye thì thuộc phe cấp tiến đối lập. Dù vậy Laboulaye lại đắc cử là một trong 75 nghị sĩ với nhiệm kỳ trọn đời[33] (tiếng Pháp: sénateur inamovible, nghị sĩ bất khả phế) nên tiếng tăm ông càng nổi. Laboulaye liền ra sức vận động chính giới Pháp cùng thân hào nhân sĩ bằng buổi trình diễn đặc biệt tại nhà hát nhạc kịch Paris. Vở kịch ngày 25 tháng 3 năm 1876 cũng là buổi ra mắt nhạc kịch “cantata” mới được Charles Gounod hoàn tất với tựa là La Liberté éclairant le monde. Đó cũng chính là tên tiếng Pháp của bức tượng.[32]

Tuy ban đầu họ tập trung vận động giới thượng lưu nhưng sau liên hội Mỹ-Pháp đã thành công huy động được mọi tầng lớp xã hội: thường dân và cả học sinh đều tham gia. Có 181 xã trải rộng khắp nước Pháp cũng góp tiền. Hưởng ứng lời kêu gọi nồng nhiệt là thân hữu của Laboulaye trong chính giới Pháp cùng hậu duệ quân nhân Pháp từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Ngoài ra còn có những thành phần tuy góp tiền nhưng có dụng ý muốn mua chuộc Hoa Kỳ để hậu thuẫn Pháp thực hiện kênh đào Panama. Công ty Japy Frères, chuyên buôn đồng hiến tặng toàn lượng đồng cần thiết để xây tượng, trị giá 64.000 franc (khoảng 16.000 đô la đương thời, tương đương với 323.000 đô la ngày nay).[34][35] Có người cho rằng lượng đồng này xuất xứ từ Visnes, Na Uy,[36] nhưng đến nay vẫn chưa rõ hư thực.[37]
Dù kế hoạch xây dựng tượng chưa được hoàn toàn đúc kết, Bartholdi liền khởi công, bắt đầu với cánh tay phải cầm ngọn đuốc và phần đầu tượng. Công việc tiến hành ở xưởng đúc Gaget, Gauthier & Co.[38] Tháng 5 năm 1876, nhân danh là một thành viên trong phái đoàn Pháp tham dự Hội chợ Thế giới, Bartholdi vượt Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ.[39] Hội chợ ở Philadelpha năm đó cũng là năm kỷ niệm 100 năm nền độc lập Hoa Kỳ nên Bartholdi cũng thu xếp để triển lãm bức họa khổng lồ ở New York hầu công chúng hình dung được pho tượng vĩ đại ông muón thực hiện.[40] Nếu đúng theo kế hoạch thì cánh tay cầm đuốc của pho tượng đồng cũng sẽ ra mắt dân chúng Mỹ khi Hội chợ khai mạc nhưng chuyến tàu hàng đến trễ nên rốt cuộc khi tàu cập bến Philadelphia vào tháng 8 thì đã trễ không kịp ghi danh. Vì thế mà danh mục triển lãm không ghi tên tác phẩm của Bartholdi khiến có nơi gọi lầm nó là “Cánh tay khổng lồ” hay “Ngọn đèn điện của Bartholdi”. Khu trưng bày cũng có những tác phẩm quy mô khác, thu hút khách đến xem. Ngoài cánh tay đồng, Bartholdi cũng góp một đài phun nước rất lớn do ông thiết kế.[41] Cánh tay được nhiều người chú ý, nhất là vào những ngày cuối cuộc triển lãm; khách được leo lên tận ban công của ngọn đuốc để ngắm nhìn toàn cảnh khu triển lãm.[42] Sau khi bế mạc, tay tượng chuyển về New York, dựng ở Công viên Quảng trường Madison vài năm cho công chúng đến xem trước chuyển về Pháp “đoàn tụ” với thân tượng.[42]
Trong chuyến đi lần thứ hai này đến Hoa Kỳ, Bartholdi đi diễn thuyết nhiều nơi, nói chuyện về dự án lớn của ông và kêu gọi bên phía Mỹ hãy mau lập ủy ban cùng hợp tác với liên hội Mỹ-Pháp để xây tượng.[43] Lần lượt các ủy ban địa phương ra đời tại New York, Boston và Philadelphia, phụ trách việc quyên góp để tài trợ phần xây bệ.[44] Riêng ủy ban New York đảm nhiệm phần lớn việc vận động tại Hoa Kỳ nên sau mang danh là “Ủy ban Hoa Kỳ”.[45] Một trong những ủy viên ở New York lúc bấy giờ là Theodore Roosevelt, một thanh niên mới 19 tuổi. Nhân vật này sau đắc cử thống đốc tiểu bang New York rồi lên làm tổng thống Hoa Kỳ.[43] Ngày 3 tháng 3 năm 1877, vào ngày cuối cùng của nhiệm kỳ, Tổng thống Grant ký một nghị quyết chính thức nhận bức tượng là quà tặng của Pháp. Tổng thống Rutherford Birchard Hayes, người kế nhiệm ngày hôm sau, đã phê duyệt và chọn lấy đảo Bedloe y như Bartholdi đề nghị trước kia.[46]
Xây tượng tại Pháp
Khi về Pháp năm 1877, Bartholdi tập trung vào việc hoàn tất phần đầu của pho tượng. Công đoạn này sau được ra mắt tại Hội chợ Thế giới Paris năm 1878. Nhiều mô hình nhỏ hơn được đem bán để hỗ trợ việc gây quỹ. Dân chúng cũng có thể mua vé vào xem công đoạn xây tượng đang diễn ra tại xưởng Gaget, Gauthier & Co.[35] Ngoài ra chính phủ Pháp cho mở một cuộc xổ số; giải thưởng có một cái đĩa bằng bạc và một mô hình tượng bằng đất nung. Tính đến cuối năm 1879 thì đã quyên góp được khoảng 250.000 franc Pháp.[47]
Viollet-le-Duc có công trong việc cấu tạo đầu và tay tượng nhưng ông ngã bệnh năm 1879 rồi mất. Là người then chốt trong giai đoạn này, Viollet-le-Duc lại không để văn bản nào về cách ráp phần da vỏ đồng bên ngoài vào lõi tượng bằng nề bên trong.[48] Phải đến năm sau Bartholdi mới tìm được người tiếp sức với nhiều sáng kiến: nhà xây cất và thiết kế Gustave Eiffel.[35] Eiffel cùng với kỹ sư xây cất Maurice Koechlin quyết định bỏ không dùng lõi gạch; thay vào đó sẽ dùng giàn tháp cao bằng sắt. Eiffel cũng không dùng giàn cứng chắc vì áp suất sẽ đè lên vỏ ngoài, dần gây ra rạn nứt. Chủ ý của Eiffel là muốn pho tượng di dịch ít nhiều vì vị trí ở cửa biển đôi khi sẽ có gió lớn. Ngoài ra vào những ngày hè oi bức, tượng cần co giãn. Ông giải quyết hai nhu cầu trên bằng cách nối vỏ tượng ngoài vào giàn tháp trong bằng một khung giáp (armature). Khung này dùng mảnh sắt tạo từ những khuyên sắt nhỏ nối vỏ ngoài với sườn trong một cách kiên cố. Trong tiến trình thi công, mỗi mảnh bằng khuyên sắt phải được gia công riêng.[49] Để ngăn ngừa cơ nguy vỏ bằng đồng làm soi mòn giàn tháptrong, Eiffel cho bọc lớp vỏ đồng bằng chất amiăng có trộn sơn cánh kiến.[50] Việc thay đổi cấu trúc từ lõi bằng nề sang giàn tháp sắt đã cho phép Bartholdi sử đổi cách ráp tượng. Trước kia ông có ý định ráp vỏ tượng tại nơi dựng tượng khi khung nề hoàn tất như Viollet-le-Duc thiết kế; tuy nhiên với giàn tháp sắt Bartholdi chọn cho ráp tượng tại Pháp, sau đó tháo ra rồi chuyển đến Hoa Kỳ để ráp lại tại đảo Bedloe.[51]
Thiết kế của Eiffel đã làm cho bức tượng này trở thành một trong số những mẫu công trình xây dựng đầu tiên sử dụng kỹ thuật xây vách treo mà theo đó phần bên ngoài của công trình không phải là phần chịu tải, thay vào đó phần ngoài được một khung sườn phía bên trong nâng đỡ. Ông gắn thêm hai cầu thang hình xoáy ốc bên trong để khách tham quan dễ dàng di chuyển lên điểm quan sát nằm trên chiếc mũ miện hơn.[52] Lối vào ban công quan sát nằm quanh ngọn đuốc cũng được thiết kế nhưng vì chỗ cánh tay hẹp nên chỉ có thể đặt được duy nhất 1 cái thang đơn độc dài 40 ft (12 mét).[53] Khi sườn tháp được từ từ xây cao lên, Eiffel và Bartholdi cùng điều hợp công việc của họ một cách cẩn thận sao cho các đốt vỏ tượng ăn khớp hoàn toàn vào khung cấu trúc chống đỡ.[54]
Trong một hành động mang tính chất biểu tượng, Đại sứ Mỹ tại Pháp là Levi P. Morton đã đóng cây đinh tán đầu tiên vào vỏ tượng để kìm giữ tấm đồng vào ngón chân to của bức tượng.[55] Tuy nhiên, vỏ tượng không được thi công theo đúng chiều thứ tự từ thấp đến cao; công việc lắp ráp vỏ tượng được tiến hành cùng lúc trên nhiều đoạn tượng khác nhau theo cách thường hay làm cho khách tham quan lẫn lộn.[56] Một số công đoạn được những nhà thầu thi công — một số những ngón tay được làm đúng theo chi tiết của Bartholdi là do hãng làm kim loại đồng ở thị trấn Montauban miền Nam nước Pháp phụ trách.[57] Vào năm 1882, bức tượng đã được hoàn chỉnh lên đến phần ngực, đây là một sự kiện mà Barthodi ăn mừng bằng cách mời các phóng viên đến dự một buổi ăn trưa được tổ chức trên một bục nền xây bên trong bức tượng.[58] Năm 1883, Laboulaye qua đời. Ferdinand de Lesseps, người xây kênh đào Suez lên kế nhiệm ông làm chủ tịch ủy ban Pháp. Bức tượng hoàn chỉnh được chính thức trao cho Đại sứ Morton trong một buổi lễ tại Paris ngày 4 tháng 7 năm 1884, và de Lesseps thông báo rằng chính phủ Pháp đồng ý trả tiền cho việc chuyên chở bức tượng tới Thành phố New York.[59] Bức tượng vẫn được để nằm yên tại Paris, chờ đợi phần bệ tượng đang được hoàn thành; đến tháng giêng năm 1885, việc gì đến đã đến, bức tượng được tháo rời và đóng thùng sẵn sàng cho chuyến vượt đại dương.[60]
Vận động quyên góp quỹ, sự chỉ trích và quá trình xây dựng tại Hoa Kỳ
Ủy ban tại Hoa Kỳ đối mặt với những khó khăn to lớn trong việc tìm nguồn quỹ cho bức tượng. Nỗi lo sợ năm 1873 đã tạo ra cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài nhiều thập niên. Dự án tượng Nữ thần Tự do không phải là dự án duy nhất đối mặt với khó khăn khi tìm nguồn quỹ: công trình xây dựng đài tưởng niệm hình tháp mà sau đó được biết với tên tượng đài Washington đôi khi bị ngưng trệ trong nhiều năm trời; sau cùng mất đến trên 3 thập niên rưỡi mới hoàn thành xong.[61] Từng có sự chỉ trích cả về bức tượng của Bartholdi và việc món quà tặng của người Pháp lại phải bắt người Mỹ bỏ tiền ra xây bệ tượng. Trong những năm sau Nội chiến Hoa Kỳ, đa số người Mỹ ưa chuộng các tác phẩm nghệ thuật hiện thực mô tả những vị anh hùng và các sự kiện xảy ra trong lịch sử quốc gia hơn là những tác phẩm có tính chất biểu tượng như tượng Nữ thần Tự do.[61] Cũng có ý kiến rằng người Mỹ nên tự thiết kế những công trình công cộng của Mỹ – việc lựa chọn họa sĩ Constantino Brumidi sinh tại Ý để trang trí Tòa Quốc hội Hoa Kỳ đã gây ra cuộc chỉ trích dữ dội cho dù ông là một công dân Mỹ nhập tịch.[62] Tạp chí Harper’s Weekly tuyên bố ước gì “Ông Bartholdi và các anh em họ người Pháp của chúng ta đã ‘chi trọn gói’ khi xây tượng và trao cho chúng ta cả bức tượng và bệ tượng ngay cùng một lúc.”[63] Nhật báo The New York Times lên tiếng rằng “không có người yêu nước chân chính nào có thể cho phép bất cứ sự chi tiêu nào như thế cho những hình tượng nữ bằng đồng với tình trạng tài chính hiện tại của chúng ta.”[64] Vì phải đối mặt với những lời chỉ trích như thế nên ủy ban Mỹ chỉ có một ít động thái trong vài năm.[64]
Nền móng cho bức tượng được đặt bên trong đồn Wood, một căn cứ lục quân bị bỏ hoang nằm trên Đảo Bedloe, được xây dựng giữa năm 1807 và 1811. Từ năm 1823, đồn này ít khi được sử dụng, tuy trong thời Nội chiến Hoa Kỳ, nó được dùng làm nơi tuyển mộ binh sĩ.[65] Vành đai bảo vệ của căn cứ này có hình ngôi sao 11 cánh. Nền móng và bệ tượng được chỉnh sao cho bức tượng quay mặt về hướng Đông Nam để chào đón tàu thuyền từ Đại Tây Dương đi vào trong bến cảng.[66] Năm 1881, ủy ban New York ủy nhiệm Richard Morris Hunt thiết kế bệ tượng. Trong mấy tháng, Hunt đệ trình một dự án chi tiết và cho biết rằng ông ước tính sẽ hoàn thành bệ tượng này trong 9 tháng.[67] Ông đề nghị một bệ tượng cao 114 ft (35 mét); vì đối mặt với các vấn đề tài chính nên ủy ban quyết định giảm chiều cao bệ tượng xuống còn 89 ft (27 mét).[68]
Bản thiết kế bệ tượng của Hunt gồm có những chi tiết kiến trúc cổ điển trong đó có các cổng dùng thức cột Doric, và phần khối to lớn của nó được chia thành từng mảng với các chi tiết kiến trúc tỉ mỉ để tập trung sự chú ý vào bức tượng.[68] Về hình thể, bệ tượng là một kim tự tháp bị cắt đỉnh nhọn, có đáy rộng 19 m2 (62 bộ vuông) và phần chóp rộng 12 m2 (39,4 bộ vuông). Bốn phía có hình dạng giống nhau. Ngay trên cửa ở mỗi phía có mười đĩa tròn mà Bartholdi đề nghị đặt huy hiệu của các tiểu bang Hoa Kỳ (giữa năm 1876 và 1889, có 40 tiểu bang Hoa Kỳ) nhưng điều này không được thực hiện. Phía trên đó, một ban công đặt ở mỗi phía được các cột đỡ chia thành từng ô. Bartholdi đặt một đài quan sát gần đỉnh của bệ tượng, nơi bức tượng vươn lên ở phía trên.[69] Theo tác giả Louis Auchincloss, bệ tượng “ít nhiều gợi lên uy quyền của một châu Âu cổ đại mà sức chi phối của hình ảnh Tượng Nữ thần Tự do vươn đến tầm cao hơn”.[68] Ủy ban thuê cựu tướng lãnh lục quân là Charles Pomeroy Stone giám sát việc thi công xây dựng.[70] Công cuộc xây dựng bắt đầu bằng việc xây một nền móng sâu 4,6 mét (15 ft) vào năm 1883, và viên đá đặt nền của bệ được đặt xuống vào năm 1884.[67] Theo khái niệm ban đầu của Hunt, bệ tượng phải được làm hoàn toàn bằng đá granit. Những vấn đề tài chính lần nữa bắt buộc ông phải thay đổi bản thảo; bản thiết kế cuối cùng gồm có việc xây những bức tường bằng bê tông dày 6,1 mét (20 ft), và trên bề mặt được trang trí bằng những khối đá granit.[71][72] Khối lượng bê tông được dùng đến ở mức lớn nhất chưa từng có vào thời đó.[72]
Cuộc vận động gây quỹ cho bức tượng bắt đầu từ năm 1882. Ủy ban Hoa Kỳ tổ chức một số lớn các sự kiện gây quỹ.[73] Một cuộc đấu giá nghệ thuật và bản thảo viết tay đã được tổ chức như một phần của công cuộc vận động gây quỹ. Thi sĩ Emma Lazarus được kêu cầu góp phần đầu tiên. Ban đầu bà từ chối và nói rằng bà không thể làm một bài thơ về một bức tượng. Vào lúc đó, bà cũng đang tham gia vào công cuộc giúp đỡ người tị nạn đến Thành phố New York sau khi họ vượt thoát khỏi các cuộc náo loạn bài Do Thái tại Đông Âu. Những người tị nạn này buộc phải sống trong những điều kiện mà bà Lazarus giàu có chưa từng trải qua. Bà tìm thấy một cách để bày tỏ sự thông cảm của bà đối với những người tị nạn qua những từ ngữ diễn tả về bức tượng.[74] Kết quả là bài thơ “The New Colossus” theo thể điệu “sonnet” ra đời, trong đó có những câu nổi bật như “Hãy cho tôi nỗi mệt mỏi và đáng thương của bạn/Đoàn người các bạn túm tụm nhau khao khát hít thở tự do”, được xác định là có một không hai về Tượng Nữ thần Tự do. Bài thơ này được khắc trên một tấm bia đặt trong viện bảo tàng nằm dưới nền móng bức tượng.[75]

Nhưng ngay cả với những nỗ lực trên, cuộc vận động gây quỹ vẫn tụt lùi ở phía sau. Grover Cleveland, thống đốc New York, phủ quyết một đạo luật cho phép tài trợ 50.000 đô la cho dự án vào năm 1884. Một cố gắng vào năm sau đó để xin Quốc hội Hoa Kỳ cung cấp 100.000 đô là đủ để hoàn thành dự án cũng thất bại khi các dân biểu thuộc đảng Dân chủ không đồng ý chi trả. Với vỏn vẹn 3.000 đô la trong ngân hàng, Ủy ban New York đã đình chỉ công việc xây bệ tượng. Đang lúc dự án gặp bế tắc thì các nhóm người từ những thành phố khác của Mỹ trong đó có Boston và Philadelphia đề nghị trả toàn bộ chi phí dựng tượng để đổi lấy việc dời vị trí dựng tượng sang thành phố của họ.[76] Joseph Pulitzer, chủ bút nhật báo World của Thành phố New York, thông báo một chiến dịch gây quỹ 100.000 đô la (tương đương khoảng 2,3 triệu đô la ngày nay).[34] Pulitzer tuyên bố là sẽ in tên của từng người đóng góp, không cần biết là họ đóng góp nhiều hay ít.[77] Chiến dịch gây quỹ này đập vào mắt người New York, đặc biệt là khi Pulitzer bắt đầu cho in ra những dòng chữ mà ông nhận được từ những người đóng góp. “Một người con gái trẻ cô độc trên thế giới” quyên góp “60 xu, đây là kết quả của sự tự chối bỏ mình.”[78] Một người quyên tặng cho “năm xu như là một phần nhỏ đóng góp của một cậu bé tạp dịch nghèo dành cho Quỹ xây bệ tượng.” Một nhóm trẻ em gởi tặng một đô la như là “số tiền mà chúng em tiết kiệm được để đi xem xiếc.”[79] Một đô la khác được quyên góp từ một “người phụ nữ rất già và cô độc.”[78] Những cư dân trong một ngôi nhà dành cho những người nghiện rượu trong thành phố đối thủ với Thành phố New York là thành phố Brooklyn (hai thành phố này vẫn chưa được sáp nhập mãi cho đến năm 1898) quyên tặng 15 đô la; những người nghiện rượu khác giúp đỡ tại các thùng quyên góp đặt trong quán bar và các nơi công cộng khác.[80] Một lớp mẫu giáo tại Davenport, Iowa gởi đến tòa soạn nhật báo World một món quà là 1,35 đô la.[78]
Khi các cuộc quyên góp rầm rộ lên thì ủy ban bắt tay vào công việc trở lại để xây bệ tượng.[81] Tháng 6, người New York tỏ ra hăng say nhiệt tình đối với bức tượng khi chiếc tàu Pháp Isère đến, mang theo những thùng hàng có chứa những mảnh rời của bức tượng. Hai trăm ngàn người đứng dọc theo các bến tàu và hàng trăm tàu thuyền chạy ra cửa biển để chào mừng con tàu Isère.[82] Sau năm tháng kêu gọi hàng ngày để quyên góp quỹ cho bức tượng, ngày 11 tháng 8 năm 1885, nhật báo World thông báo rằng 102.000 đô la đã quyên góp được từ 120.000 người trong đó 80% tổng số tiền quyên góp được là từ những phần đóng góp riêng lẻ ít hơn 1 đô la cộng chung lại.[83]
Cho dù cuộc vận động gây quỹ thành công nhưng bệ tượng vẫn chưa được hoàn thành cho đến tháng 4 năm 1886. Ngay sau đó, công việc lắp ráp tượng bắt đầu được tiến hành. Khung sườn sắt của Eiffel được mắc kết nối vào các thanh thép hình chữ I nằm bên trong bệ tượng bằng bê tông cốt thép và được lắp ráp lại.[84] Ngay sau khi hoàn thành, các khúc đoạn của vỏ tượng được gắn vào một cách cẩn thận.[85] Vì chiều rộng của bệ tượng nên không thể nào dựng các giàn giáo. Các công nhân phải đu đưa trên những sợi dây thừng được cột chặt vào khung giáp để gắn các phân đoạn của vỏ tượng. Tuy nhiên, không có ai thiệt mạng trong suốt những ngày lắp ráp tượng.[86] Bartholdi trước đó có dự tính sẽ đặt những chiếc đèn pha trên ban công của ngọn đuốc để thắp sáng ngọn đuốc; một tuần trước lễ khánh thành, Công binh Lục quân Hoa Kỳ phủ quyết đề nghị này vì sợ rằng các hoa tiêu tàu bè đi qua bức tượng sẽ bị chói mắt. Thay vào đó, Bartholdi cắt những lỗ nhỏ trong ngọn đuốc (ngọn đuốc được bọc bằng vàng lá) và đặt những ngọn đèn bên trong.[87] Một máy phát điện được gắn trên đảo để thắp sáng ngọn đuốc và cũng để dùng cho những nhu cầu khác về điện.[88] Sau khi vỏ tượng được lắp ráp hoàn toàn, kiến trúc sư nổi tiếng về cảnh quan là Frederick Law Olmstead, người vẽ thiết kế cho Công viên Trung Tâm của Thành phố New York và Công viên Prospect của thành phố Brooklyn, trông coi việc dọn dẹp Đảo Bedloe để chuẩn bị cho lễ khánh thành tượng.[89]
Khánh thành

Lễ khánh thành được tổ chức vào buổi trưa ngày 28 tháng 10 năm 1886. Tổng thống Grover Cleveland, cựu thống đốc tiểu bang New York đứng ra làm chủ tọa cho buổi lễ.[90] Vào buổi sáng ngày khánh thành, một cuộc diễu hành được tổ chức trong Thành phố New York; ước tính về số người xem từ vài trăm ngàn đến 1 triệu người. Tổng thống Cleveland dẫn đầu buổi diễu hành, rồi đứng vào đài quan sát để xem các ban nhạc và đoàn người diễu hành đến từ khắp nước Mỹ. Tướng Stone là trưởng ban phụ trách nghi lễ cho buổi diễu hành. Đường diễu hành bắt đầu từ Quảng trường Madison và tiến về Công viên Battery ở mũi phía Nam của Manhattan, qua ngã đường số 5 và đường Broadway với một chút đổi hướng để cuộc diễu hành đi ngang trước mặt tiền tòa báo World nằm trên đường Park Row. Khi đoàn diễu hành đi ngang qua Sở giao dịch chứng khoán New York, những người mua bán chứng khoán quăng các cuộn hoa giấy từ các cửa sổ xuống, khởi đầu cho truyền thống diễu hành có quăng hoa giấy tại Thành phố New York.[91]
Một cuộc diễu hành trên biển bắt đầu lúc 12:45 trưa. Tổng thống Cleveland lên một du thuyền đưa ông ngang bến cảng để tới Đảo Bedloe cho lễ khánh thành.[92] De Lesseps thay mặt ủy ban Pháp đọc bài diễn văn đầu tiên, theo sau là diễn văn của chủ tịch ủy ban New York là Thượng nghị sĩ William M. Evarts. Một lá cờ Pháp quấn quanh mặt tượng sẽ được buông xuống như là nghi thức khánh thành bức tượng khi Evarts kết thúc bài diễn văn của mình. Nhưng vì Bartholdi lầm tưởng rằng bài diễn văn đã kết thúc khi Evarts ngưng giữa chừng bài diễn văn của mình và vì vậy lá cờ bị buông xuống trước khi bài diễn văn thật sự kết thúc. Những tiếng reo hò tiếp theo đó đã chấm dứt bài diễn văn của Evarts.[91] Tiếp theo là Tổng thống Cleveland lên nói chuyện. Ông phát biểu rằng “luồng ánh sáng của bức tượng sẽ xuyên qua bóng tối của dốt nát và sự áp bức của con người cho đến khi Nữ thần Tự do soi sáng thế giới”.[93] Bartholdi, đứng quan sát gần bục lễ đài, được mời đến để nói chuyện nhưng ông từ chối. Sau đó Chauncey M. Depew kết thúc buổi lễ bằng một bài diễn văn dài.[94]
Không có thành viên công chúng nào được phép đến đảo trong suốt buổi lễ khánh thành mà chỉ dành riêng hoàn toàn cho giới quyền cao chức trọng. Những phụ nữ duy nhất được phép dự lễ khánh thành là vợ Bartholdi và cháu gái của de Lesseps; các viên chức nói rằng họ sợ phụ nữ có thể bị thương trong đám đông chen lấn. Sự hạn chế này đã xúc phạm đến những người vận động mở rộng quyền đầu phiếu đến mọi công dân. Họ thuê một chiếc tàu và tiến gần sát đảo ở mức có thể được. Những người lãnh đạo nhóm đọc diễn văn hoan nghênh việc chọn người phụ nữ làm hiện thân của Thần Tự do và hô hào cổ vũ cho quyền đầu phiếu của phụ nữ.[93] Một buổi bắn pháo hoa được dự trù trước đó đã bị dời lại cho đến ngày 1 tháng 11 vì thời tiết xấu.[95]
Ngay sau khi kết thúc lễ khánh thành, tuần báo The Cleveland Gazette của người Mỹ gốc Phi đề nghị rằng ngọn đuốc của bức tượng không nên thắp sáng cho đến khi nào Hoa Kỳ trở thành một quốc gia tự do “thật sự”:
“Nữ thần Tự do soi sáng thế giới”, thật hay ho làm sao! Lời lẽ này làm cho chúng tôi phát bệnh. Chính phủ này là một kẻ giễu cợt trò hề đang kêu rống. Họ không thể hay đúng hơn là không hề bảo vệ công dân ngay trong chính biên cương của họ. Hãy xô bức tượng của Bartholdi, ngọn đuốc và tất cả xuống đại dương cho đến khi nào “tự do” của quốc gia này như thể biến thành sự thật cho một người da màu cần cù siêng năng và vô hại có thể kiếm được cuộc sống đàng hoàng cho chính mình và gia đình mà không bị “Ku Klux Klan” làm hại, có thể là bản thân anh ta bị mưu sát, vợ và con gái bị sỉ nhục và tài sản bị hủy hoại. Ý tưởng về “tự do” của quốc gia này “soi sáng thế giới” hay thậm chí soi sáng Patagonia thật quá sức khôi hài.[96]
Lịch sử từ khi khánh thành
Ban đặc trách Hải đăng và Bộ chiến tranh Hoa Kỳ (1886–1933)
Ngọn đuốc được thắp sáng vào đêm khánh thành tượng chỉ sinh ra một vệt sáng yếu ớt, khó nhìn thấy từ Manhattan. Nhật báo World diễn tả nó giống “như một con đom đóm hơn là một hải đăng.”[88] Bartholdi đề nghị mạ tượng để tăng khả năng phản chiếu ánh sáng nhưng điều này được chứng minh là quá tốn kém. Ban đặc trách Hải đăng Hoa Kỳ tiếp quản Tượng Nữ thần Tự do vào năm 1887 và cam kết gắn trang thiết bị để gia tăng hiệu quả của ngọn đuốc; mặc dù có nhiều cố gắng nhưng bức tượng vẫn gần như vô hình vào đêm. Khi Bartholdi trở lại Hoa Kỳ năm 1893, ông có thêm những đề nghị khác nhưng tất cả đều được chứng thực là không hiệu quả. Ông đã thành công trong việc vận động hành lang cho việc cải tiến hệ thống đèn bên trong bức tượng để cho du khách chiêm ngưỡng thiết kế bên trong bức tượng của Eiffel tốt hơn.[88] Năm 1901, Tổng thống Theodore Roosevelt, trước đây từng là một thành viên của Ủy ban New York, ra lệnh thuyên chuyển tượng sang cho Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ vì nó đã được chứng minh là vô dụng trong vai trò của một hải đăng.[97] Một đơn vị của Quân đoàn Truyền tin Lục quân Hoa Kỳ đã đóng trại trên Đảo Bedloe cho đến năm 1923. Sau đó lực lượng quân cảnh thay thế và ở đó trong khi hòn đảo này còn nằm dưới thẩm quyền quân sự.[98]
Bức tượng nhanh chóng trở thành một danh thắng của Thành phố New York. Nhiều di dân vào Hoa Kỳ đi qua Thành phố New York thấy bức tượng như một dấu hiệu chào mừng họ. Những câu chuyện kể của di dân đã ghi lại những cảm xúc phấn khởi của họ khi lần đầu tiên thấy Tượng Nữ thần Tự do. Một di dân đến từ Hy Lạp nhớ lại:
Tôi thấy Tượng Nữ thần Tự do. Và tôi tự nói với chính mình, “Chào bà, bà đẹp như thế đó! Bà đã mở rộng đôi tay và đón nhận tất cả người ngoại quốc đến đây. Hãy cho tôi cơ hội chứng minh rằng tôi đáng được như vậy để làm điều gì đó, để là người nào đó tại Mỹ.” Và bức tượng ấy luôn ở trong tâm trí tôi.[99]
Ban đầu, bức tượng có màu đồng sậm nhưng chẳng bao lâu sau năm 1900, một lớp rỉ xanh do vỏ đồng bị ôxy hóa bắt đầu lan rộng. Đến đầu năm 1902, báo chí bắt đầu đề cập đến vấn đề này, cho đến năm 1906, lớp rỉ xanh bao phủ đã toàn bộ bức tượng.[100] Vì người ta tin rằng lớp rỉ này là bằng chứng của sự ăn mòn kim loại nên Quốc hội Hoa Kỳ cho phép chi tiêu 62.800 đô la để sơn bức tượng cả từ trong ra ngoài.[101] Công chúng đã phản đối việc sơn bên ngoài bức tượng như đã được đề nghị.[102] Công binh Lục quân Hoa Kỳ đã nghiên cứu lớp rỉ xanh xem có bất cứ hiệu ứng hư hại nào đối với bức tượng không và đi đến kết luận rằng lớp rỉ xanh đó đã bảo vệ vỏ tượng.[103] Bức tượng chỉ được sơn phần bên trong. Công binh Lục quân cũng gắn thêm một thang máy để đưa du khách từ tầng nền lên đến đỉnh của bệ tượng.[103]

Ngày 30 tháng 7 năm 1916, trong thời Đệ nhất Thế chiến, những kẻ phá hoại người Đức đã gây một vụ nổ trên bán đảo Black Tom nằm bên Thành phố Jersey, tiểu bang New Jersey trong khu vực mà ngày nay là một phần của Công viên Tiểu bang Nữ thần Tự do gần Đảo Bedloe. Những toa xe chở đầy chất nổ và những vật liệu nổ khác đang được chuẩn bị gởi đến Anh và Pháp phục vụ chiến tranh bị kích nổ. Bảy người bị thiệt mạng trong vụ việc này. Bức tượng bị thiệt hại nhẹ, phần lớn là ở chỗ cánh tay phải cầm đuốc và phải đóng cửa khoảng 10 ngày. Tổn phí sửa chữa bức tượng và những tòa nhà trên đảo là khoảng 100.000 đô la. Lối hẹp đi lên ngọn đuốc bị chặn lại vì lý do an toàn cho công chúng và nó vẫn còn đóng cửa từ đó đến ngày nay.[94]
Cùng năm đó, Ralph Pulitzer, thừa kế người cha làm chủ bút nhật báo World, bắt đầu mở chiến dịch quyên góp 30.000 đô la cho một hệ thống chiếu sáng bên ngoài để thắp sáng bức tượng về đêm. Ông tuyên bố có trên 80.000 người đóng góp nhưng không đạt đến số tiền mong muốn. Phần chi phí còn thiếu được một người giàu có lặng lẽ đóng góp — đây là sự thật không được công bố mãi cho đến năm 1936. Một dây cáp ngầm được đặt dưới biển để truyền điện từ đất liền sang và đèn pha được đặt dọc theo những bức tường của Đồn Wood. Gutzon Borglum, người sau này tạc tượng Núi Rushmore, đã thiết kế lại ngọn đuốc. Ông thay thế phần lớn khối đồng ban đầu bằng thủy tinh màu. Ngày 2 tháng 12 năm 1916, Tổng thống Woodrow Wilson bấm nút máy điện tín để bật đèn lên thắp sáng bức tượng một cách thành công.[104]
Sau khi Hoa Kỳ tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1917, những hình ảnh về bức tượng đã được sử dụng nhiều trong các tấm áp phích cổ động nhập ngũ và cổ động cho Trái phiếu Tự do, hối thúc công dân Hoa Kỳ ủng hộ tài chính cho chiến tranh. Việc này khiến công chúng cảm kích vì mục đích chiến tranh được cho là để đảm bảo sự tự do và được xem như một điều nhắc nhở rằng nước Pháp đang bị chiến tranh hoành hành đã từng trao tặng cho Hoa Kỳ bức tượng.[105]
Năm 1924, Tổng thống Calvin Coolidge dùng quyền lực của mình theo Đạo luật Antiquities tuyên bố bức tượng là một tượng đài quốc gia.[97] Vụ tự tử thành công duy nhất trong lịch sử của bức tượng xảy ra 5 năm sau đó khi một người đàn ông trèo ra ngoài một trong các cửa sổ ở phần mũ miện và nhảy xuống tìm cái chết. Người này trượt qua ngực tượng và rơi xuống cạnh bàn chân nữ thần.[106]
Những năm đầu dưới Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ (1933–1982)

Năm 1933, Tổng thống Franklin Roosevelt ra lệnh thuyên chuyển bức tượng sang Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ (NPS). Năm 1937, Cục Công viên nhận được thẩm quyền quản lý những phần còn lại trên Đảo Bedloe.[97] Với việc ra đi của Lục quân, Cục Công viên Quốc gia bắt đầu chuyển đổi hòn đảo thành một công viên.[107] Cơ quan Quản trị Tiến triển Công chánh (Works Progress Administration, viết tắt là WPA) san bằng phần lớn các tòa nhà cũ, phân định và sửa sang lại góc phía Đông hòn đảo, đồng thời xây một nền bậc thang bằng đá granit để làm một lối mới cho công chúng đến bức tượng từ phía sau lưng. WPA cũng tiến hành công việc trùng tu bên trong bức tượng, tạm thời tháo các tia khỏi vầng hào quang của tượng để thay thế phần nâng đỡ đã bị rỉ sét của chúng. Những bậc thang bằng gang rỉ sét trong bệ tượng được thay thế bằng những bậc thang mới làm bằng bê tông cốt thép;[108] phần phía trên của những chiếc cầu thang bên trong tượng cũng được thay thế. Lớp bọc bằng đồng được gắn vào bệ tượng để chống nước mưa thấm vào gây thêm hư hại.[109] Bức tượng bị đóng cửa từ tháng 5 cho đến tháng 12 năm 1938.[108]
Trong thời Đệ nhị Thế chiến, bức tượng vẫn mở cửa cho du khách nhưng không được thắp sáng về đêm vì lệnh tắt đèn ban đêm ở bên ngoài thời chiến (phi công đối phương có thể dễ dàng tìm thấy mục tiêu tấn công). Tượng được thắp sáng ngắn ngủi vào ngày 31 tháng 12 năm 1943 và vào ngày D-Day, 6 tháng 6 năm 1944, khi các ngọn đèn của tượng chớp “chấm-chấm-chấm-gạch”, mã Morse biểu thị cho chữ V có nghĩa là victory (chiến thắng). Hệ thống đèn mới và cực mạnh được gắn năm 1944–1945, và bắt đầu vào Ngày chiến thắng bức tượng lần nữa được thắp sáng sau hoàng hôn. Đèn được thắp chỉ vài tiếng đồng hồ mỗi chiều tối mãi cho đến năm 1957 thì bức tượng được thắp sáng cả đêm mỗi buổi tối.[110] Năm 1946, phần bên trong của tượng ở những nơi mà du khách có thể với tay tới được bọc loại chất dẻo đặc biệt để có thể lau xóa các hình vẽ hay chữ viết trên tường.[109]
Năm 1956, một đạo luật của Quốc hội Hoa Kỳ chính thức đổi tên Đảo Bedloe thành Đảo Liberty (Đảo Tự do). Việc đổi tên đảo đã từng được những thế hệ của Bartholdi vận động trước đây. Đạo luật cũng có nhắc đến nỗ lực xây một Bảo tàng Di dân Mỹ trên hòn đảo mà những người hậu thuẫn cho nó đã tiến hành, vì mặc dù liên bang đã chấp thuận dự án nhưng chính phủ chậm chạp trong việc cấp ngân quỹ.[111] Bằng tuyên cáo của Tổng thống Lyndon Johnson năm 1965, Đảo Ellis gần đó được biến thành một phần của Tượng đài Quốc gia Tượng Nữ thần Tự do.[97] Năm 1972, bảo tàng di dân nằm trong nền tượng cuối cùng cũng được khánh thành bằng một buổi lễ do Tổng thống Richard Nixon chủ trì. Bảo tàng này đóng cửa năm 1991 sau khi bảo tàng di dân trên Đảo Ellis khánh thành.[84]
Năm 1976, một hệ thống đèn chiếu sáng cực mạnh mới được lắp đặt trước lễ mừng Hoa Kỳ 200 năm. Ngày 4 tháng 7 năm 1976, bức tượng là điểm hội tụ của Chiến dịch Thuyền buồm, một cuộc đua thuyền buồm gồm có những chiếc thuyền buồm cao to đến từ khắp nơi trên thế giới vào bến cảng New York và chạy quanh Đảo Liberty.[112] Cuộc đua kết thúc với màn bắn pháo hoa hoành tráng gần bức tượng.[113]
Trùng tu đến nay (từ năm 1982)

Năm 1986, bức tượng được nhóm kỹ sư Hoa Kỳ và Pháp kiểm tra rất tỉ mỉ như là một phần của kế hoạch kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của tượng.[114] Năm 1982, có thông báo rằng bức tượng cần phải được trùng tu đáng kể. Cuộc nghiên cứu tỉ mỉ cho thấy cánh tay phải được gắn không chính xác vào cấu trúc chính của tượng. Cánh tay đung đưa nhiều hơn khi gặp gió mạnh và có nguy cơ đổ sập rất lớn. Ngoài ra, phần đầu tượng đã được gắn lệch khỏi trung tâm đến 0,61 mét (2 ft) và một trong số những tia trên mũ miện đã làm thủng một lỗ trên cánh tay phải khi bức tượng chuyển động theo gió. Cơ cấu khung giáp bị ăn mòn một cách tệ hại, và khoảng 2% các đĩa tròn bên ngoài cần được thay thế.[115] Tuy những vấn đề của khung giáp đã được phát hiện từ sớm vào năm 1936, khi đó những phần thay thế bằng gang cho một số thanh trụ đã được gắn, nhưng phần nhiều những chỗ ăn mòn bị che lấp bởi nhiều lớp sơn phủ lên trong nhiều năm.[116]
Tháng 5 năm 1982, Tổng thống Ronald Reagan thông báo thành lập Ủy ban Trăm năm Tượng Nữ thần Tự do – Đảo Ellis do chủ tịch của công ty Chrysler Corporation là Lee Iacocca lãnh đạo nhằm vận động quyên góp quỹ cần thiết để hoàn thành công việc trùng tu.[117] Qua chi nhánh vận động quyên góp của mình là Quỹ Tượng Nữ thần Tự do – Đảo Ellis, ủy ban này đã quyên góp được trên 350 triệu đô la.[118] Tượng Nữ thần Tự do là một trong số những công trình hưởng lợi đầu tiên nhất của một chiến dịch tiếp thị gồm có nỗ lực của cả các tổ chức bất vụ lợi và các công ty thương mãi hợp tác tham gia (tiếng Anh gọi là cause marketing campaign). Một cuộc vận động tiếp thị năm 1983 quảng cáo rằng cứ mỗi lần mua hàng sử dụng thẻ tín dụng của American Express thì công ty sẽ đóng góp 1 xu cho việc trùng tu bức tượng. Chiến dịch vận động tiếp thị này tạo ra một khoảng đóng góp lên đến 1,7 triệu cho dự án trùng tu tượng.[119]
Năm 1984, bức tượng bị đóng cửa để trùng tu trong một khoảng thời gian dài. Các công nhân dựng giàn giáo làm che khuất bức tượng. Nitơ lỏng dùng để tẩy sạch các lớp sơn được quét lên phía bên trong vỏ tượng bằng đồng trong nhiều thập niên, để lại hai lớp nhựa than đá mà ban đầu được quét để bịt kín những chỗ xì và chống ăn mòn. Bột nổi được thổi vào để tẩy các lớp nhựa than đá mà không làm hư hại phần lõi đồng.[120] Công việc trùng tu bị ngưng lại vì chất có chứa Amiăng mà Bartholdi đã sử dụng (không hiệu quả như các cuộc kiểm tra cho thấy) để chống ăn mòn đinh tán. Các công nhân trong khu vực bức tượng phải mặc quần áo bảo vệ, được gán tên là “bộ đồ lên cung trăng”, cùng với hệ thống mặt nạ dưỡng khí.[121] Những lỗ to hơn trên vỏ tượng được sửa chữa và thêm đồng vào chỗ cần thiết.[122] Vỏ tượng thay thế được tháo từ phần trên cùng của một mái nhà của công ty Bell Labs (Phòng thí nghiệm Bell) vì lớp trên của mái nhà này có lớp đồng rỉ xanh tượng tự như của tượng nữ thần; đổi lại, phòng thí nghiệm được lấy vỏ đồng cũ để thí nghiệm.[123] Ngọn đuốc được phát hiện bị nước rò rỉ vào sau nhiều lần thay đổi vào năm 1916 đã được thay thế bằng một mô hình y hệt như ngọn đuốc gốc bạn đầu của Bartholdi.[124] Vấn đề thay thế cánh tay và bờ vai cũng được xem xét; Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ luôn cho rằng nên sửa chữa chúng hơn là thay thế.[125]

Toàn bộ khung giáp được thay thế. Những thanh sắt mà Eiffel sử dụng dần bị loại bỏ. Những thanh mới gắn vào tháp tượng được chế tạo từ thép không gỉ, có độ chống ăn mòn cao. Những thanh có đinh kẹp nằm cạnh bên vỏ tượng được làm bằng ferralium, một loại hợp kim dễ dàng uốn cong nhẹ nhàng và quay trở về hình thể ban đầu của nó khi bức tượng chuyển động.[126] Để tránh các tia trên mũ miện và cánh tay va chạm vào nhau, các tia được điều chỉnh lại khoảng vài độ.[127] Hệ thống chiếu sáng lại được thay thế – việc thắp sáng ban đêm hiện nay là do những ngọn đèn metal halide đảm trách. Chúng truyền từng chùm ánh sáng đến những phần đặc biệt trên bệ tượng hay bức tượng, soi rõ từng chi tiết khác nhau.[128] Lối dẫn vào bệ tượng đi xuyên qua một chiếc cổng được xây trong thập niên 1960 được tân trang mở rộng và gắn thêm một bộ cửa đồng đồ sộ.[129] Một thang máy hiện đại được lắp đặt giúp cho người tàn tật có thể dễ dàng lên đến khu vực quan sát của bệ tượng.[130] Một thang máy khẩn cấp có thể đi lên đến bờ vai tượng được gắn bên trong bức tượng.[131]
Ngày 3–6 tháng 7 năm 1986 được ấn định là “Những ngày cuối tuần Tự do”, đánh dấu 100 năm bức tượng và ngày khánh thành của nó. Tổng thống Reagan chủ tọa buổi lễ tái khánh thành cùng với sự hiện diện của Tổng thống Pháp François Mitterrand. Ngày 4 tháng 7 là ngày trở lại của Chiến dịch Thuyền buồm (cuộc đua thuyền buồm, khởi sự lần đầu tiên tại bến cảng New York ngày 4 tháng 7 năm 1976).[132] Bức tượng được mở cửa trở lại cho công chúng ngày 5 tháng 7.[133] Trong bài diễn văn tái khánh thành của Tổng thống Reagan, ông nói rằng “Chúng ta là những người giữ ngọn lửa của tự do; chúng ta đưa cao ngọn lửa cho thế giới nhìn thấy.”[132]
Sau các vụ tấn công ngày 11 tháng 9, bức tượng và Đảo Liberty lập tức bị đóng cửa. Đảo được mở cửa trở lại vào cuối năm 2001 trong khi đó bệ tượng và bức tượng vẫn được đặt trong tình trạng đóng cửa đối với công chúng. Bệ tượng mở cửa lại vào tháng 8 năm 2004,[133] nhưng Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ thông báo rằng các du khách có thể không được an toàn khi vào bức tượng vì rất khó thoát ra khi có tình trạng khẩn cấp. Cục Công viên Quốc gia vẫn duy trì lập trường này cho đến hết thời gian còn lại của chính quyền George W. Bush.[134] Anthony D. Weiner, một dân biểu Hoa Kỳ từ tiểu bang New York, đã tiến hành một cuộc vận động cá nhân để bức tượng được mở cửa trở lại.[135] Ngày 17 tháng 5 năm 2009, Bộ trưởng Nội vụ của Tổng thống Barack Obama là Ken Salazar thông báo rằng vì là “một món quà tặng đặc biệt” cho nước Mỹ nên bức tượng sẽ được mở cửa trở lại cho công chúng vào ngày 4 tháng 7, nhưng mỗi ngày chỉ có một số người hạn chế được phép đi lên đến phần mũ miện.[134] Bức tượng được dự trù đóng cửa vào cuối năm 2011 với thời hạn từ 9 tháng đến 1 năm để gắn vào một cầu thang mới nhằm trợ giúp cho tình trạng khẩn cấp phải di tản.[136]
Hướng dẫn tham quan và đặc điểm tượng
Vị trí và viếng thăm

Bức tượng nằm trong Vịnh Thượng New York trên Đảo Liberty, phía Nam Đảo Ellis. Cả hai đảo này được tiểu bang New York nhượng lại cho chính phủ liên bang năm 1800.[137] Như thỏa thuận được ký năm 1834 giữa tiểu bang New York và tiểu bang New Jersey trong việc ấn định đường ranh giới nằm ở khoảng giữa vịnh, các đảo gốc vẫn thuộc lãnh thổ New York mặc dù vị trí của chúng nằm bên phía ranh giới của New Jersey. Phần đất san lấp nhân tạo tại Đảo Ellis là lãnh thổ của New Jersey.[138]
Lối vào Tượng đài Quốc gia Tượng Nữ thần Tự do thì miễn phí nhưng tất cả du khách phải trả tiền phí qua phà vì các tàu thuyền tư không thể đậu ở hòn đảo. Năm 2007, “Statue Cruises” được chuyển nhượng quyền điều hành giao thông và bán vé cho các cơ sở tham quan trên đảo, thay thế “Circle Line” là dịch vụ phà hoạt động từ năm 1953.[139] Các chuyến phà khởi hành từ Công viên Tiểu bang Liberty trong Thành phố Jersey và Battery Park trong Hạ Manhattan cũng dừng lại ở Đảo Ellis giúp thực hiện được một chuyến tham quan kết hợp.[140] Cùng với vé qua phà, du khách có ý định vào tầng hầm của bức tượng và bệ tượng phải mua một vé “mời tham quan bảo tàng/bệ tượng”.[27] Những ai muốn dùng cầu thang nằm trong bức tượng để lên đến phần mũ miện thì phải mua vé đặc biệt. Vé này có thể phải đặt mua trước đến 1 năm. Tổng cộng chỉ có khoảng 240 người được phép đi lên đến phần mũ miện mỗi ngày: mỗi nhóm là 10 người, mỗi giờ có 3 nhóm. Những người lên đó có thể chỉ được phép mang theo thuốc uống và máy ảnh – có các hộp tủ khóa cung cấp sẵn để cất những thứ vật dụng còn lại – và phải được kiểm tra an ninh lần thứ hai.[27]
Những bản khắc chữ và tri ân

Có một vài bản khắc chữ (plaque) và bản nhỏ (tablet) tri ân được đặt trên hay gần Tượng Nữ thần Tự do. Một bản khắc nằm ngay phía dưới chân nữ thần tuyên bố rằng đây là một bức tượng khổng lồ đại diện cho Nữ thần Tự do, do Bartholdi thiết kế và phân xưởng Paris của công ty Gaget, Gauthier et Cie (Cie là chữ viết tắt tiếng Pháp có nghĩa là công ty) xây dựng. Một bản nhỏ giới thiệu cũng mang tên của Bartholdi, tuyên bố bức tượng là một món quà của nhân dân Pháp nhằm vinh danh “sự liên minh của hai quốc gia trong công cuộc giành độc lập cho Hoa Kỳ và chứng thực tình hữu nghị vĩnh cửu của hai quốc gia.”[141] Có một bản nhỏ do ủy ban New York dựng lên để kỷ niệm cuộc vận động gây quỹ để xây bệ tượng. Viên đá đặt nền xây bệ tượng cũng có mang một bản khắc do các thành viên của Hội Tam điểm dựng.[141]
Năm 1903, những người bạn của nữ thi sĩ Emma Lazarus trao tặng bà một bản khắc chữ nhỏ bằng đồng có chứa lời bài thơ “The New Colossus” và cũng là để tưởng niệm nữ thi sĩ. Bản khắc được đặt bên trong bệ tượng cho đến lần trùng tu năm 1986; hiện nay vẫn nằm trong Bảo tàng Tượng Nữ thần Tự do ở tầng nền. Nó được đặt cùng với một tấm bảng nhỏ ca ngợi cuộc đời của nữ thi sĩ do Ủy ban Tưởng niệm Emma Lazarus trao tặng năm 1977.[141]
Một nhóm gồm nhiều bức tượng được đặt ở góc cuối phía Tây của hòn đảo để vinh danh những người có liên quan mật thiết với Tượng Nữ thần Tự do. Hai người Mỹ là Pulitzer và Lazarus cùng ba người Pháp là Bartholdi, Laboulaye, và Eiffel được tạc tượng. Những bức tượng này là tác phẩm của điêu khắc gia từ tiểu bang Maryland là Phillip Ratner.[142]
Năm 1984, Tượng Nữ thần Tự do được UNESCO công bố là di sản thế giới. Trong “Lời tuyên bố về tầm quann trọng”, UNESCO miêu tả bức tượng như một “kiệt tác tinh thần của nhân loại” đang “đứng vững như một biểu tượng hùng tráng cao độ — truyền cảm hứng cho dự tính, tranh luận và đấu tranh – cho những lý tưởng như tự do, hòa bình, nhân quyền, bãi nô, dân chủ và cơ hội.”[143]
Đặc điểm về hình thể
Mô tả | Hệ đo lường Hoa Kỳ | Hệ đo lường quốc tế |
---|---|---|
Chiều cao tượng đồng | 151 ft 1 in | 46 m |
Nền bệ tượng (mặt đất) đến đỉnh ngọn đuốc | 305 ft 1 in | 93 m |
Gót chân đến đỉnh đầu tượng | 111 ft 1 in | 34 m |
Chiều dài bàn tay | 16 ft 5 in | 5 m |
Ngón tay trỏ | 8 ft 1 in | 2,44 m |
Chu vi ở khớp thứ hai | 3 ft 6 in | 1,07 m |
Đầu từ cằm đến sọ | 17 ft 3 in | 5,26 m |
Bề dày đầu từ tai đến tai | 10 ft 0 in | 3,05 m |
Khoảng cách hai mắt | 2 ft 6 in | 0,76 m |
Chiều dài mũi | 4 ft 6 in | 1,48 m |
Chiều dài tay phải | 42 ft 0 in | 12,8 m |
Chỗ dày nhất trên tay phải | 12 ft 0 in | 3,66 m |
Độ dày thắt lưng | 35 ft 0 in | 10,67 m |
Chiều dài miệng | 3 ft 0 in | 0,91 m |
Chiều dài bản nhỏ (tablet) | 23 ft 7 in | 7,19 m |
Chiều rộng bản nhỏ | 13 ft 7 in | 4,14 m |
Độ dày bản nhỏ | 2 ft 0 in | 0,61 m |
Chiều cao bệ tượng | 89 ft 0 in | 27,13 m |
Chiều cao nền | 65 ft 0 in | 19,81 m |
Trọng lượng đồng dùng trong bức tượng | 60.000 cân Anh | 27,22 tấn |
Trọng lượng thép dùng trong bức tượng | 250.000 cân Anh | 113,4 tấn |
Tổng trọng lượng bức tượng | 450.000 cân Anh | 204,1 tấn |
Độ dày lớp vỏ đồng | 3/32 inch | 2,4 mm |
Nguồn: National Park Service[66] |
Mô hình, phim ảnh về bức tượng
Phiên bản tại Tokyo.
|
![]() Phiên bản tại Île aux Cygnes, Paris.
|
Hàng trăm mô hình Tượng Nữ thần Tự do được trưng bày khắp thế giới.[144] Một mô hình nhỏ hơn, khoảng 1 phần 5 chiều cao bức tượng gốc, được cộng đồng người Mỹ tại Paris tặng cho thành phố. Hiện nay nó đứng trên Île aux Cygnes, quay mặt về hướng Tây nhìn về phía người chị em lớn hơn của mình (bức tượng gốc tại New York).[144] Một mô hình của bức tượng cao 9,1 mét (30 ft) đặt trên nóc Liberty Warehouse ở Đường số 64 trong quận Manhattan đã đứng đó trong nhiều năm liền;[144] hiện nay được đặt tại Bảo tàng Brooklyn.[145] Trong cử chỉ bày tỏ lòng yêu nước như một phần của chiến dịch “Làm vững mạnh Cánh tay Tự do” năm 1949–1952, Nam Hướng đạo Mỹ đã tặng khoảng hàng trăm mô hình tượng Nữ thần Tự do làm bằng đồng, cao khoảng 2,5 mét (100 inch) cho các tiểu bang và khu tự quản khắp nơi ở Hoa Kỳ.[146] Mặc dù không phải là mô hình thật nhưng bức tượng được biết với tên gọi là Nữ thần Dân chủ được dựng tạm thời trong suốt Cuộc biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn năm 1989 đã nhận cảm hứng tương tự từ những truyền thống dân chủ Pháp – những người tạc tượng này đã rất cẩn trọng để tránh mô phỏng trực tiếp Tượng Nữ thần Tự do.[147] Trong các công trình giải trí ở Thành phố New York, bản sao của bức tượng là một phần cảnh quan dùng để trang trí bên ngoài tại Khách sạn và Sòng bài New York-New York ở Las Vegas, Nevada.[148]
Là một hình tượng Mỹ, Tượng Nữ thần Tự do từ lâu đã được in trên những con tem thư và tiền kim loại của Hoa Kỳ, xuất hiện trên những đồng tiền kim loại tưởng niệm được phát hành để đánh dấu sinh nhật 100 năm của tượng và trên phiên bản tiền 25 xu của tiểu bang New York năm 2001 thuộc bộ phát hành tiền 25 xu kỷ niệm các tiểu bang Hoa Kỳ.[149] Năm 1997, hình của bức tượng được chọn dùng cho loại tiền không lưu hành là đồng bạch kim đại bàng Mỹ (American Eagle platinum bullion coins) và xuất hiện ở mặt trái hay còn gọi là “mặt chữ” của bộ tiền kim loại 1 đô la Tổng thống đang được lưu hành.[23] Hai hình ngọn đuốc của bức tượng (một lớn và một nhỏ) xuất hiện trên tờ giấy bạc 10 đô la lưu hành hiện nay.[150]
Nhiều cơ sở và cơ quan vùng cũng đã sử dụng mô hình hay hình tượng của bức tượng. Giữa năm 1986 và 2000, tiểu bang New York phát hành biển đăng ký số xe có hình bức tượng.[151][152] Đội New York Liberty thuộc Hội Bóng rổ Nữ Quốc gia Hoa Kỳ sử dụng cả tên lẫn hình ảnh của tượng trên biểu trưng của mình trong đó ngọn lửa của tượng được cách điệu nhân đôi thành một quả bóng rổ.[153] Đội New York Rangers thuộc Liên đoàn Khúc côn cầu Quốc gia Hoa Kỳ in hình đầu tượng trên áo thi đấu của mình bắt đầu từ năm 1997.[154]
Bức tượng là một đề tài thường xuyên có mặt trong văn hóa đại chúng. Trong âm nhạc, nó được gợi lên để chỉ sự ủng hộ cho những chính sách của Mỹ, thí dụ như trong bài hát “Courtesy of the Red, White, & Blue (The Angry American)” của Toby Keith. Trong chiều hướng đối ngược, bức tượng xuất hiện trong album phiên bản cover Bedtime for Democracy của ban nhạc The Dead Kennedys có nội dung phản đối những chính sách của chính phủ Reagan.[155] Trong phim ảnh, ngọn đuốc là cảnh quay cao trào của bộ phim năm 1942 của đạo diễn Alfred Hitchcock với tựa đề Saboteur.[156] Một trong những lần xuất hiện trên màn bạc nổi tiếng nhất của bức tượng là trong bộ phim năm 1968 có tựa đề Planet of the Apes, trong đó có cảnh bức tượng bị chôn vùi nửa phần dưới cát.[155][157] Bức tượng cũng bị phá hủy trong những bộ phim khoa học viễn tưởng như Independence Day, The Day After Tomorrow và Cloverfield.[155] Trong tiểu thuyết du hành thời gian của Jack Finney có tựa đề là Time and Again, cánh tay phải của bức tượng đóng vai trò quan trọng và được trưng bày trong Công viên Quảng trường Madison vào đầu thập niên 1880.[158] Robert Holdstock, người tham vấn biên tập của Bách khoa Tự điển Khoa học Viễn tưởng, đã tự hỏi vào năm 1979:
[Khoa học viễn tưởng] sẽ về đâu nếu không có Tượng Nữ thần Tự do? Trong nhiều thập niên nó đã vụt đứng thẳng lên hay bị đổ nát trên những vùng đất ngập nước của Trái Đất hoang vắng — những người khổng lố lật đổ nó, những người hành tinh tò mò tìm hiểu nó … biểu tượng của Tự do, của lạc quan, đã trở thành một biểu tượng của cái nhìn bi quan về tương lai trong khoa học viễn tưởng.”[159]
Xem thêm
Tham khảo
Chú thích
- ^ “Statue of Liberty National Monument”. National Park Service. 31 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2008.
- ^ Hernandez, Javier C. (5 tháng 7 năm 2008). “U.S. to Study Access to Liberty’s Crown”. The New York Times. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2010.
- ^ National Park Service (1994). National Register of Historic Places, 1966–1994: Cumulative List Through January 1, 1994. Washington DC: National Park Service. tr. 502. ISBN 978-0-89133-254-1.
- ^ “National Monument Proclamations under the Antiquities Act”. National Park Service. 16 tháng 1 năm 2003. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2011.
- ^ “Statue of Liberty National Monument” (PDF). New York City Landmarks Preservation Commission. 14 tháng 9 năm 1976. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2011.
- ^ a ă â Harris 1985, tr. 7.
- ^ Harris 1985, tr. 7–8.
- ^ Harris 1985, tr. 8–9.
- ^ Khan 2010, tr. 60–61.
- ^ a ă Moreno 2000, tr. 39–40.
- ^ Harris 1985, tr. 12–13.
- ^ Khan 2010, tr. 102–103.
- ^ Harris 1985, tr. 16–17.
- ^ a ă Khan 2010, tr. 85.
- ^ Harris 1985, tr. 10–11.
- ^ a ă â b c Sutherland 2003, tr. 17–19.
- ^ a ă â b c Bodnar, John (2006). “Monuments and Morals: The Nationalization of Civic Instruction”. Trong Warren, Donald R.; Patrick, John J. Civic and Moral Learning in America. New York: Macmillan. tr. 212–214. ISBN 1403973962.
- ^ a ă â Turner, Jane (2000). The Grove dictionary of art: From Monet to Cézanne: late 19th-century French artists. New York: Oxford University Press US. tr. 10. ISBN 0312229712.
- ^ Khan 2010, tr. 96–97.
- ^ a ă Khan 2010, tr. 105–108.
- ^ Blume, Mary (2004–07–16). “The French icon Marianne à la mode”. The New York Times. Truy cập 2010–07–29.
- ^ “Get the Facts (Frequently Asked Questions about the Statue of Liberty)”. Statue of Liberty. National Park Service. Truy cập 2010–08–10.
- ^ a ă “Lady Liberty Reverse Statue of Liberty (1886)”. Presidential $1 coin. United States Mint. Truy cập 2010–07–29.
- ^ Moreno 2000, tr. 52–53, 55, 87.
- ^ Bartholdi, Frédéric (1885). The Statue of Liberty Enlightening the World. New York: North American Review. tr. 42.
- ^ a ă Khan 2010, tr. 108–111.
- ^ a ă â “Frequently asked questions”. Statue of Liberty National Monument. National Park Service. Truy cập 2010–08–10.
- ^ Khan 2010, tr. 118, 125.
- ^ Harris 1985, tr. 26.
- ^ Khan 2010, tr. 120.
- ^ Khan 2010, tr. 121.
- ^ a ă â Khan 2010, tr. 123–125.
- ^ a ă Harris 1985, tr. 44–45.
- ^ a ă “Seven Ways to Compute the Relative Value of a U.S. Dollar Amount, 1774 to Present/”. Measuringworth. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2010. (Consumer price index)
- ^ a ă â Khan 2010, tr. 137.
- ^ “News of Norway, Issue 4”. norway.org. 1999. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2010.
- ^ “Answers about the Statue of Liberty, Part 2”. City Room. The New York Times. 2009–07–02. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2010.
- ^ Khan 2010, tr. 126–128.
- ^ Bell 1984, tr. 25.
- ^ Bell 1984, tr. 26.
- ^ Khan 2010, tr. 130.
- ^ a ă Harris 1985, tr. 49.
- ^ a ă Khan 2010, tr. 134.
- ^ Bell 1984, tr. 30.
- ^ Moreno 2000, tr. 94.
- ^ Khan 2010, tr. 135.
- ^ Bell 1984, tr. 32.
- ^ Khan 2010, tr. 136–137.
- ^ Khan 2010, tr. 139–143.
- ^ Harris 1985, tr. 30.
- ^ Khan 2010, tr. 144.
- ^ Harris 1985, tr. 33.
- ^ Harris 1985, tr. 32.
- ^ Harris 1985, tr. 34.
- ^ “Statue of Liberty”. pbs.org. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2010.
- ^ Harris 1985, tr. 36–38.
- ^ Harris 1985, tr. 39.
- ^ Harris 1985, tr. 38.
- ^ Bell 1984, tr. 37.
- ^ Bell 1984, tr. 38.
- ^ a ă Khan 2010, tr. 159–160.
- ^ Khan 2010, tr. 163.
- ^ Khan 2010, tr. 161.
- ^ a ă Khan 2010, tr. 160.
- ^ Moreno 2000, tr. 91.
- ^ a ă “Statistics”. Statue of Liberty. National Park Service. 16 tháng 8 năm 2006. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2010.
- ^ a ă Khan 2010, tr. 169.
- ^ a ă â Auchincloss, Louis (1986–05–12). “Liberty: Building on the Past”. New York: 87. Truy cập 2010–07–29.
- ^ Bartholdi, Frédéric (1885). The Statue of Liberty Enlightening the World. New York: North American Review. tr. 62.
- ^ Harris 1985, tr. 71–72.
- ^ Sutherland 2003, tr. 49–50.
- ^ a ă Moreno 2000, tr. 184–186.
- ^ Khan 2010, tr. 163–164.
- ^ Khan 2010, tr. 165–166.
- ^ Moreno 2000, tr. 172–175.
- ^ Levine, Benjamin; Story, Isabelle F. (1961). “Statue of Liberty”. National Park Service. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2010.
- ^ Bell 1984, tr. 40–41.
- ^ a ă â Harris 1985, tr. 105.
- ^ Sutherland 2003, tr. 51.
- ^ Harris 1985, tr. 107.
- ^ Harris 1985, tr. 110–111.
- ^ Harris 1985, tr. 112.
- ^ Harris 1985, tr. 114.
- ^ a ă Moreno 2000, tr. 19.
- ^ Bell 1984, tr. 49.
- ^ Moreno 2000, tr. 64.
- ^ Hayden 1986, tr. 36.
- ^ a ă â Harris 1985, tr. 133–134.
- ^ Moreno 2000, tr. 65.
- ^ Khan 2010, tr. 176.
- ^ a ă Khan 2010, tr. 177–178.
- ^ Bell 1984, tr. 52.
- ^ a ă Harris 1985, tr. 127.
- ^ a ă Moreno 2000, tr. 71.
- ^ Harris 1985, tr. 128.
- ^ “Postponing Bartholdi’s statue until there is liberty for colored as well.”. The Cleveland Gazette (Cleveland, Ohio). 1886–11–27. tr. 2. Truy cập 2010–08–05.
- ^ a ă â b Moreno 2000, tr. 41.
- ^ Moreno 2000, tr. 24.
- ^ Sutherland 2003, tr. 78.
- ^ “Answers about the Statue of Liberty”. City Room. The New York Times. 2009–07–01. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2010.
- ^ “To paint Miss Liberty”. The New York Times. 1906–07–19. tr. 1. Truy cập 2010–07–30.
- ^ “How shall “Miss Liberty”‘s toilet be made?”. The New York Times. 1906–07–29. tr. SM2. Truy cập 2010–07–30.
- ^ a ă Harris 1985, tr. 168.
- ^ Harris 1985, tr. 136–139.
- ^ Moreno 2000, tr. 148–151.
- ^ Harris 1985, tr. 147.
- ^ Moreno 2000, tr. 136.
- ^ a ă Moreno 2000, tr. 202.
- ^ a ă Harris 1985, tr. 169.
- ^ Harris 1985, tr. 141–143.
- ^ Moreno 2000, tr. 147–148.
- ^ Harris 1985, tr. 143.
- ^ Moreno 2000, tr. 20.
- ^ Harris 1985, tr. 165.
- ^ Harris 1985, tr. 169–171.
- ^ Hayden 1986, tr. 38.
- ^ Moreno 2000, tr. 204–205.
- ^ Moreno 2000, tr. 216–218.
- ^ Daw, Jocelyne (tháng 3 năm 2006). Cause Marketing for Nonprofits: Partner for Purpose, Passion, and Profits. Hoboken, NJ: John Wiley & Sons. tr. 4. ISBN 9780471717508.
- ^ Hayden 1986, tr. 81.
- ^ Hayden 1986, tr. 76.
- ^ Hayden 1986, tr. 55.
- ^ Harris 1985, tr. 172.
- ^ Hayden 1986, tr. 153.
- ^ Hayden 1986, tr. 75.
- ^ Hayden 1986, tr. 74–76.
- ^ Hayden 1986, tr. 57.
- ^ Moreno 2000, tr. 153.
- ^ Hayden 1986, tr. 71.
- ^ Hayden 1986, tr. 84.
- ^ Hayden 1986, tr. 88.
- ^ a ă Sutherland 2003, tr. 106.
- ^ a ă “History and Culture”. Statue of Liberty. National Park Service. Truy cập 2010–07–18.
- ^ a ă Chan, Sewell (2009–05–08). “Statue of Liberty’s Crown Will Reopen July 4”. The New York Times. Truy cập 2010–07–18.
- ^ Neuman, William (2007–07–05). “Congress to Ask Why Miss Liberty’s Crown is Still Closed to Visitors”. The New York Times. Truy cập 2010–07–22.
- ^ Long, Colleen (2010–08–09). “Statue of Liberty to get new staircase”. Yahoo! News. Associated Press. Truy cập 2010–08–09.
- ^ “Early History of Bedloe’s Island”. Statue of Liberty Historical Handbook. National Park Service. Truy cập 2010–08–19.
- ^ Supreme Court of the United States (1998). “NEW JERSEY v. NEW YORK 523 U.S. 767”. Truy cập 2010–08–15.
- ^ Ramirez, Anthony, Anthony (29 tháng 6 năm 2007). “Circle Line Loses Pact for Ferries to Liberty Island”. New York Times. Truy cập 2010–08–15
- ^ “NPS: Liberty and Ellis Island ferry map”. Ferry Map. National Park Service. Truy cập 2010–08–15.
- ^ a ă â Moreno 2000, tr. 222–223.
- ^ Harris 1985, tr. 163.
- ^ “Statue of Liberty”. World Heritage. UNESCO. Truy cập 2010–07–19.
- ^ a ă â Moreno 2000, tr. 200–201.
- ^ “Collections: American Art: Replica of the Statue of Liberty, from Liberty Storage & Warehouse, 43-47 West 64th Street, NYC”. Brooklyn Museum. Truy cập 2010–08–02.
- ^ Attoun, Marti (October năm 2007). “Little Sisters of Liberty”. Scouting. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2010.
- ^ Moreno 2000, tr. 103–104.
- ^ Goldberger, Paul (1997–01–15). “New York-New York, it’s a Las Vegas town”. The New York Times (New York). Truy cập 2010–08–02.
- ^ “Statue of Liberty postage stamps”. Statue of Liberty-Ellis Island Foundation, Inc. Truy cập 2010–07–29.
- ^ “The redesigned $10 note”. newmoney.gov. Bureau of Engraving and Printing. Truy cập 2010–07–30.
- ^ “State to start issuing new license plates July 1”. The New York Times (New York). 1986–01–24. Truy cập 2010–08–02.
- ^ “State license plates to get new look”. The New York Times (New York). 2000–01–11. Truy cập 2010–08–02.
- ^ “’Liberty’ for New York club”. The New York Times (New York). 1997–02–14. Truy cập 2010–08–02.
- ^ Lapointe, Joe (1997–01–12). “Lady Liberty laces up at the Garden”. The New York Times (New York). Truy cập 2010–08–02.
- ^ a ă â Morris, Tracy S. “The Statue of Liberty in Popular Culture”. Travel Tips. USA Today. Truy cập 2010–07–29.
- ^ Spoto, Donald (1983). The Dark Side of Genius: The Life of Alfred Hitchcock. New York: Ballantine. tr. 262–263. ISBN 0-345-31462-X.
- ^ Greene, Eric; Slotkin, Richard (1998). Planet of the Apes as American myth: race, politics, and popular culture. Middletown, CT: Wesleyan University Press. tr. 52. ISBN 0819563293.
- ^ Darrach, Brad (1970–06–26). “The spy who came in from 1882”. Life (New York). tr. 16. Truy cập 2010–08–01.
- ^ Nicholls, Peter (1979). The Encyclopedia of Science Fiction. St Albans, Herts, UK: Granada Publishing Ltd. tr. 14. ISBN 0-586-05380-8.
Thư mục
- Bell, James B.; Abrams, Richard L. (1984), In Search of Liberty: The Story of the Statue of Liberty and Ellis Island, Garden City, N.Y.: Doubleday & Co, ISBN 0-385-19624-5
- Glassberg, David (2003), Rethinking the Statue of Liberty:, National Park Service
- Harris, Jonathan (1985), A Statue for America: The First 100 Years of the Statue of Liberty, New York, N.Y.: Four Winds Press (a division of Macmillan Publishing Company), ISBN 0-02-742730-7
- Hayden, Richard Seth; Despont, Thierry W. (1986), Restoring the Statue of Liberty, New York, N.Y.: McGraw-Hill Book Company, ISBN 0-07-027326-X
- Khan, Yasmin Sabina (2010), Enlightening the World: The Creation of the Statue of Liberty, Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, ISBN 978-0-8014-4851-5
- Moreno, Barry (2000), The Statue of Liberty Encyclopedia, New York, N.Y.: Simon & Schuster, ISBN 9780738536897
- Sutherland, Cara A. (2003), The Statue of Liberty, New York, N.Y.: Barnes & Noble Books, ISBN 9780760738900
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Tượng Nữ thần Tự do |
- Statue of Liberty National Monument
- Statue of Liberty trên trang Structurae
- Statue of Liberty-Ellis Island Foundation
- “A Giant’s Task—Cleaning Statue of Liberty”, Popular Mechanics (February 1932)
|
Video yêu thích
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học CNM365 Tình yêu cuộc sống Cây Lương thực Dạy và Học Kim on LinkedIn KimYouTube Kim on Facebook
Pingback: Chào ngày mới 29 tháng 10 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: CNM365 Tình yêu cuộc sống | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đọc lại và suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Tình Mẹ và đức Nhẫn | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đêm thu | Khát khao xanh
Pingback: Giống khoai lang ở Việt Nam | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Biển Đông vạn dặm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lên Yên Tử sưu tầm thơ đức Nhân Tông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Sớm thu trên đồng rộng | Khát khao xanh
Pingback: Angkor nụ cười suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chuyện vỉa hè | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Im lặng mà bão giông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Myanmar đọc lại và suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ký ức CIMMYT ở Mexico | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Gowda địa chỉ xanh ICRISAT Ấn Độ | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Trường tôi và tình yêu ở lại | Tình yêu cuộc sống
Pingback: 60 năm Đại học Nông Lâm TP. HCM | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ngày mới yêu thương | Khát khao xanh
Pingback: Ơn Thầy | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lời của Thầy theo mãi bước em đi | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Công việc này trao lại cho em | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Kênh ông Kiệt giữa lòng dân | Tình yêu cuộc sống
Pingback: 24 tiết khí lịch nhà nông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Sao Kim kỳ thú | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chu Văn Tiếp ở Đồng Xuân | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bàn cờ thế sự | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Mark Twain là Lincoln văn học Mỹ | Tình yêu cuộc sống
Pingback: CNM365 Chào ngày mới 365 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Học sử: Đọc lại và suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống