CNM365. Chào ngày mới 31 tháng 10. Ngày 31 tháng 10 năm 1941, tượng điêu khắc bốn tổng thống Hoa Kỳ George Washington, Thomas Jefferson, Theodore Roosevelt và Abraham Lincoln, biểu trưng cho lịch sử 130 năm đầu tiên của Hoa Kỳ tại Núi Rushmore, Nam Dakota được hoàn thành sau 14 năm xây dựng. Năm 1517, Martin Luther nhà cải cách tôn giáo nổi tiếng, nhà thần học người Đức, đã treo chín mươi lăm luận đề trên cửa Nhà thờ Lâu đài Wittenberg, nay thuộc Đức, khởi đầu phong trào Kháng cách tân giáo Tin Lành (một trong ba nhánh chính của Cơ Đốc giáo, cùng với Công giáo Rôma và Chính Thống giáo Đông phương). Năm 1138, ngày mất Lý Thần Tông, Hoàng đế thứ năm của nhà Lý, Việt Nam liên quan tới giai thoại thiền sư Nguyễn Minh Không và Kinh Dược Sư.
31 tháng 10
Ngày 31 tháng 10 là ngày thứ 304 (305 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Nó là ngày cuối cùng trong tháng 10, với 61 ngày còn lại trong năm. Ngày này được biết đến một cách quốc tế là ngày Halloween.
« Tháng 10 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | ||||
4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 |
18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 |
25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 |
Mục lục
Sự kiện
- 475 – Romulus Augustus được tuyên bố là hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã, ông là hoàng đế cuối cùng của đế quốc.
- 1517 – Theo thư tịch cổ, Martin Luther treo Chín mươi lăm Luận đề trên cửa Nhà thờ Lâu đài Wittenberg, nay thuộc Đức, đánh dấu khởi đầu Cải cách Tin Lành.
- 1940 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Lực lượng Phát xít chấm dứt giai đoạn oanh tạc dồn dập vào ban ngày nhằm vào lãnh thổ Anh Quốc.
- 1918 – Sau khi thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đế quốc Áo-Hung kết thúc.
- 1941 – Sau 14 năm xây dựng, tượng bốn tổng thống Hoa Kỳ tại Núi Rushmore, Nam Dakota được hoàn thành.
- 1961 – Trong vận động phi Stalin hoá tại Liên Xô, di hài của Stalin bị đưa ra khỏi Lăng Lenin để an táng tại Nghĩa trang tường Điện Kremli.
- 1984 – Cựu Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi bị hai nhân viên bảo vệ ám sát, bạo loạn nhanh chóng nổ ra tại New Delhi khiến gần 10.000 người theo đạo Sikh bị sát hại.
- 1986 – Phoumi Vongvichit bắt đầu đảm nhiệm chức vụ quyền Chủ tịch nước Lào, đại diện cho Souphanouvong.
- 2003 – Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua Công ước phòng chống tham nhũng
- 2003 – Mahathir bin Mohamad từ chức Thủ tướng Malaysia sau 22 năm nắm quyền, thay thế ông là Phó Thủ tướng Abdullah bin Ahmad Badawi
Sinh
- 1291 – Philippe de Vitry, nhà soạn nhạc Pháp (m. năm 1361)
- 1345 – Vua Fernando I của Bồ Đào Nha (m. năm 1383)
- 1391 – Vua Edward của Bồ Đào Nha (m. năm 1438)
- 1424 – Vua Wladyslaw III của Ba Lan (m. năm 1444)
- 1599 – Denzil Holles, 1st Baron Holles, chính khách và nhà văn Anh (m. năm 1680)
- 1620 – John Evelyn, người Anh (m. 1706)
- 1622 – Pierre Paul Puget, nghệ sĩ Pháp (m. năm 1694)
- 1632 – (rửa tội) Johannes Vermeer, họa sĩ Flanders (m. 1675)
- 1636 – Ferdinand Maria, cử tri của Bayern (d. 1679)
- 1692 – Comte de Caylus, nhà khảo cổ học Pháp (m. năm 1765)
- 1705 – Đức Giáo Hoàng Clement XIV (d. 1774)
- 1711 – Laura Bassi, học giả người Ý (m. 1778)
- 1724 – Christopher Anstey, nhà văn người Anh (d. 1805)
- 1737 – James Lovell, Mỹ giáo dục (d. 1789)
- 1795 – John Keats, nhà thơ Anh (m. 1821)
- 1815 – Karl Weierstrass, nhà toán học Đức (m. 1897)
- 1825 – Charles Lavigerie, Hồng Y Pháp (m. 1892)
- 1827 – Richard Morris Hunt, nhà giáo dục Mỹ (m. 1895)
- 1831 – Paolo Mantegazza, nhà thần kinh học Ý (m. năm 1910)
- 1835 – Adelbert Ames, tướng Mỹ (m. 1933)
- 1835 – Adolf von Baeyer, nhà hóa học Đức, người đoạt giải Nobel (d. 1917)
- 1835 – Krišjānis Nhưng nam tước, nhà văn Latvia (m. 1923)
- 1838 – Vua Louis của Bồ Đào Nha (m. năm 1889)
- 1848 – Boston Custer, em trai của George Armstrong Custer (d. 1876)
- 1851 – Lovisa của Thụy Điển, nữ hoàng Đan Mạch (m. 1926)
- 1856 – Charles Leroux, người cởi khí cầu Mỹ và nhảy dù (m. 1889)
- 1860 – Juliette Low, Mỹ sáng lập Hướng đạo girl (m. 1927)
- 1875 – Eugene Meyer, doanh nhân Mỹ và xuất bản báo chí (m. 1954)
- 1875 – Vallabhbhai Patel, nhà chiến đấu và chính khách Ấn ĐỘ (m. 1950)
- 1879 – Sara Allgood, nữ diễn viên Ai-len (m. 1950)
- 1883 – Marie Laurencin, họa sĩ Pháp (m. 1956)
- 1887 – Tưởng Giới Thạch, nhà lãnh đạo Trung Hoa Quốc Dân, cựu Chủ tịch nước Trung Hoa Dân quốc (m. năm 1975)
- 1887 – Newsy Lalonde, cầu thủ cầu thủ khúc côn cầu trên băng người Canada (m. 1970)
- 1888 – Napoleon Lapathiotis, nhà thơ Hy Lạp (m. 1944)
- 1892 – Alexander Alekhine, tuyển thủ cờ vua Nga (m. năm 1946)
- 1895 – B. H. Liddell Hart, quân nhân Anh sử (m. 1970)
- 1896 – Ethel Waters, ca sĩ và nữ diễn viên Mỹ (m. 1977)
- 1902 – Abraham Wald, nhà toán học Hungary (m. 1950)
- 1908 – Muriel Duckworth, người Canada (m. 2009)
- 1912 – Dale Evans, ca sĩ và nữ diễn viên Mỹ (m. 2001)
- 1912 – Ollie Johnston, nhà làm phim hoạt hình Mỹ (m. 2008)
- 1914 – Joe Carcione, người Mỹ (m. 1988)
- 1914 – John Hugenholtz, nhà thiết kế Hà Lan (m. 1995)
- 1915 – Jane Jarvis, nhạc Jazz nghệ sĩ dương cầm Mỹ (m. 2010)
- 1916 – Carl Johan Bernadotte, cựu Hoàng tử Thụy Điển
- 1917 – William Hardy McNeill, sinh ra tại Canada sử
- 1918 – Ian Stevenson, người Mỹ (m. 2007)
- 1919 – Magnus Wenninger, linh mục người Mỹ, tác giả của “mô hình đa diện
- 1920 – Dick Francis, British jockey-biến-tiểu thuyết gia (m. 2010)
- 1920 – Joseph Gelineau nhà soạn nhạc Pháp (m. 2008)
- 1920 – Dedan Kimathi, nhà lãnh đạo nổi dậy Kenya (m. 1957)
- 1920 – Helmut Newton, nhiếp ảnh gia Đức (m. 2004)
- 1920 – Fritz Walter, cầu thủ bóng đá Đức (m. 2002)
- 1922 – Barbara Bel Geddes, nữ diễn viên Mỹ (m. 2005)
- 1922 – Anatoli Papanov, diễn viên Liên Xô (d. 1987)
- 1922 – Illinois Jacquet, nghệ sĩ saxophone người Mỹ (m. 2004)
- 1922 – Vua Norodom Sihanouk của Campuchia
- 1925 – John Pople, nhà hóa học tiếng Anh, giải Nobel Hóa học | người đoạt giải Nobel]] (m. 2004)
- 1926 – Jimmy Savile, nghệ sĩ Anh (m. 2011)
- 1927 – Lee Grant, nữ diễn viên Mỹ
- 1927 – Thomas Hill, diễn viên Canada (m. 2009)
- 1928 – Cleo Moore, nữ diễn viên Mỹ (m. 1973)
- 1929 – Eddie Charlton, tuyển thủ bi-da Úc (m. 2004)
- 1929 – Bud Spencer, diễn viên Ý
- 1930 – Michael Collins, nhà du hành vũ trụ Mỹ
- 1931 – Dan Rather, nhà truyền hình và nhà báo Mỹ
- 1933 – Phil Goyette, cầu thủ hockey trên băng
- 1934 – Fillie Lyckow, nữ diễn viên Thụy Điển
- 1935 – Ronald Graham, American nhà toán học
- 1935 – David Harvey, người Mỹ gốc Anh
- 1936 – Michael Landon, diễn viên người Mỹ (d. 1991)
- 1937 – Tom Paxton, ca sĩ, nhạc sĩ Mỹ
- 1939 – Ron Rifkin, diễn viên người Mỹ
- 1939 – Tom O’Connor, diễn viên hài Anh
- 1939 – Ali Farka Touré, nhạc sĩ Mali (m. 2008)
- 1941 – Dan Alderson, nhà khoa học Mỹ
- 1941 – Derek Bell, tay đua Anh
- 1941 – Spilios Spiliotopoulos, chính khách Hy Lạp
- 1941 – Werner Krieglstein, nhà triết học Séc-Mỹ
- 1942 – Dave McNally, cầu thủ bóng chày Mỹ
- 1942 – David Ogden Stiers, diễn viên người Mỹ
- 1943 – Paul Frampton, vật lí người Anh
- 1943 – Aristotelis Pavlidis, Hy Lạp chính khách
- 1943 – Brian Piccolo, cầu thủ bóng đá Mỹ (m. 1970)
- 1944 – Sally Kirkland, nữ diễn viên Mỹ
- 1945 – Brian Doyle-Murray, diễn viên hài Mỹ
- 1945 – Russ Ballard, ca sĩ / nhạc sĩ, nghệ sĩ guitar Anh
- 1946 – Stephen Rea, diễn viên Ailen
- 1946 – Norman Lovett, diễn viên Anh
- 1947 – Deidre Hội trường, nữ diễn viên Mỹ
- 1947 – Frank Shorter, Á hậu Mỹ
- 1947 – Herman Van Rompuy, chính khách Bỉ
- 1948 – Michael bếp, diễn viên Anh
- 1949 – Bob Siebenberg, tay trống Mỹ
- 1950 – John kẹo, diễn viên hài và diễn viên Canada (m. 1994)
- 1950 – Jozef Stolorz, nghệ thuật họa sĩ Ba Lan
- 1950 – Jane Pauley, người Mỹ
- 1950 – Zaha Hadid, kiến trúc sư Anh
- 1950 – Antonio Taguba, thiếu tướng quân đội Mỹ
- 1951 – Nick Saban, American đại học bóng đá huấn luyện viên
- 1951 – Dave Trembley, American bóng chày quản lý
- 1952 – Bernard Edwards, nghệ sĩ đàn Bass Mỹ (m. 1996)
- 1953 – [[Michael J. Anderson, diễn viên người Mỹ
- 1953 – John Lucas II, cầu thủ bóng rổ và huấn luyện viên Mỹ
- 1954 – Ken Wahl, diễn viên người Mỹ
- 1955 – Michalis Chrysohoidis, chính khách Hy Lạp
- 1956 – Anders Lago, nhà dân chủ xã hội chính khách Thụy Điển
- 1957 – Robert Pollard, rocker Mỹ
- 1957 – [Brian Stokes Mitchell, Mỹ ca sĩ và diễn viên
- 1957 – Shirley Phelps-Roper, luật sư Mỹ
- 1958 – Jeannie Longo, tay đua xe đạp Pháp
- 1959 – Neal Stephenson, tác giả người Mỹ
- 1959 – Mats Näslund, tuyển thủ khúc côn cầu trên băng Thụy Điển
- 1959 – Michael DeLorenzo, diễn viên người Mỹ, đạo diễn và nhạc sĩ
- 1960 – Luis Fortuño, đại biểu Quốc hội
- 1960 – Arnaud Desplechin, Pháp đạo diễn phim
- 1960 – Mike Gallego, cầu thủ bóng chày Mỹ
- 1960 – Reza Pahlavi, cựu thái tử Iran
- 1961 – Peter Jackson, đạo diễn phim New Zealand
- 1961 – Larry Mullen, Ailen tay trống Ailen (U2)
- 1961 – Alonzo Babers, Á hậu Mỹ
- 1961 – Kate Campbell, American nhạc sĩ
- 1963 – Mikkey Dee, nhạc sĩ Thụy Điển, tay trống của Motorhead
- 1963 – Johnny Marr, tay guitar và nhạc sĩ Anh
- 1963 – Fred McGriff, American cầu thủ bóng chày
- 1963 – Dermot Mulroney, diễn viên người Mỹ
- 1963 – Rob Schneider, diễn viên người Mỹ
- 1964 – Colm Ó Cíosóig, tay trống Ailen
- 1964 – Marco van Basten, cầu thủ bóng đá Hà Lan
- 1964 – Marty Wright, đô vật chuyên nghiệp Mỹ
- 1964 – Darryl Worley, Mỹ ca sĩ
- 1965 – Blue Edwards, cầu thủ bóng rổ Mỹ
- 1965 – Denis Irwin, cầu thủ bóng đá Ailen
- 1965 – Rob Rackstraw, giọng nói của diễn viên
- 1966 – Joseph Boyden, Canada tiểu thuyết gia
- 1966 – Adam Horovitz (Adrock), rapper người Mỹ (Beastie Boys)
- 1966 – Koji Kanemoto, đô vật chuyên nghiệp Nhật Bản
- 1966 – Annabella Lwin, ca sĩ Anh (Bow Wow Wow)
- 1966 – Mike O’Malley, diễn viên người Mỹ
- 1967 – Vanilla Ice, rapper người Mỹ
- 1967 – Buddy Lazier, tay đua xe Mỹ
- 1967 – Irina Pantaeva, người mẫu Nga
- 1968 – Antonio Davis, cầu thủ bóng rổ Mỹ
- 1969 – David Coburn, diễn viên người Mỹ / diễn viên lồng tiếng
- 1970 – Nicky Wu, Đài Loan, diễn viên và chuyên gia võ thuật
- 1970 – Linn Berggren, ca sĩ Thụy Điển (Ace of Base)
- 1970 – Rogers Stevens, tay guitar Mỹ (Blind Melon)
- 1970 – Mitch Harris, tay guitar Mỹ
- 1970 – Johnny Moeller, tay guitar Mỹ
- 1970 – Steve Trachsel, American cầu thủ bóng chày
- 1971 – Alphonso Ford, cầu thủ bóng rổ Mỹ (m. 2004)
- 1971 – Ian Walker, tiếng Anh cầu thủ bóng đá
- 1971 – Tom Smith, bóng bầu dục cầu thủ Scotland
- 1971 – Toby Anstis, người Anh
- 1972 – Shaun Bartlett, cầu thủ bóng đá Nam Phi
- 1972 – Matt Dawson, tiếng Anh bóng bầu dục công đoàn cầu thủ bóng đá
- 1972 – Grigoris Georgatos, cầu thủ bóng đá Hy Lạp
- 1973 – Tim Byrdak, cầu thủ bóng chày Mỹ
- 1973 – David Dellucci, cầu thủ bóng chày Mỹ
- 1973 – Beverly Lynne, diễn viên phim khiêu dâm Mỹ
- 1974 – Muzzy Izzet, cầu thủ bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ
- 1974 – Natasja Saad, nghệ sĩ Đan Mạch
- 1974 – Roger Manganelli, nhạc sĩ Brazil
- 1975 – Fabio Celestini, cầu thủ bóng đá Thụy Sĩ
- 1975 – Keith Jardine,
- 1975 – Johnny Whitworth, diễn viên người Mỹ
- 1976 – Guti, cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha
- 1976 – Piper Perabo, nữ diễn viên Mỹ
- 1977 – Sylviane Félix, vận động viên Pháp
- 1977 – Séverine Ferrer, ca sĩ người Pháp
- 1978 – Inka Grings, cầu thủ bóng đá Đức
- 1978 – Emmanuel Izonritei, võ sĩ quyền Anh Nigeria
- 1978 – Zachary Knighton, diễn viên người Mỹ
- 1978 – Martin Verkerk, Hà Lan tay vợt
- 1979 – Saaphyri Windsor, American truyền hình thực tế con số
- 1979 – Simao Sabrosa, cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha
- 1979 – Ricardo Fuller, cầu thủ bóng đá Jamaica
- 1980 – [[Eddie Kaye Thomas, diễn viên người Mỹ
- 1980 – Samaire Armstrong, nữ diễn viên Mỹ
- 1980 – Marcel Meeuwis, cầu thủ bóng đá Hà Lan
- 1980 – Alondra de la Parra, người Mexico sáng lập và là giám đốc nghệ thuật của New York Philharmonic Orchestra của Mỹ
- 1981 – Irina Denezhkina, nhà văn Nga
- 1981 – Frank Iero, nhạc sĩ người Mỹ (My Chemical Romance, Leathermouth, Pencey Prep, người sáng lập của Skeleton Crew (ban nhạc))
- 1981 – Steven Hunter, cầu thủ bóng rổ Mỹ
- 1981 – Selina (Chia-Tuyên Huyên) Jen, ca sĩ Đài Loan
- 1981 – Lollie Alexi Devereaux, nữ diễn viên và nhà văn Pháp
- 1981 – Mike Napoli
- 1982 – Jordan Bannister, cầu thủ bóng đá Úc
- 1982 – Tomáš Plekanec, tuyển thủ khúc côn cầu trên băng người Séc
- 1982 – Justin Chatwin, diễn viên Canada
- 1983 – Katy Pháp, người mẫu Ailen (m. 2007)
- 1984 – Scott Clifton, diễn viên người Mỹ
- 1984 – Pat Murray, cầu thủ Mỹ
- 1986 – Christie Hayes, nữ diễn viên Úc
- 1986 – Chris Alajajian, tay đua Úc
- 1986 – Brent Corrigan, diễn viên khiêu dâm Mỹ
- 1987 – Nick Foligno, cầu thủ khúc côn cầu Canada
- 1988 – Jack Riewoldt, cầu thủ Úc
- 1988 – Sébastien Buemi, tay đua Thụy Sĩ
- 1989 – Ben Brooks, tay đua Anh
- 1990 – Lil ‘JJ, diễn viên hài và diễn viên Mỹ
- 1992 – Vanessa Marano, nữ diễn viên Mỹ
- 2000 – Willow Smith, nữ diễn viên Mỹ và ca sĩ
- 2005 – Infanta Leonor của Tây Ban Nha, con gái của Felipe, Prince of Asturias và Letizia, công chúa của Asturias
Mất
- 1138 – Lý Thần Tông, Hoàng đế thứ năm của nhà Lý, Việt Nam (s. 1116)
- 1993 – River Phoenix, nam diễn viên (s. 1970)
Ngày lễ
Tham khảo
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về 31 tháng 10 |
Martin Luther
Martin Luther | |
---|---|
![]() Martin Luther năm 1529
tranh Lucas Cranach the Elder |
|
Sinh | 10 tháng 11, 1483 Eisleben, Đế quốc La Mã Thần thánh |
Mất | 18 tháng 2, 1546 (62 tuổi) Eisleben, Đế quốc La Mã Thần thánh |
Học vị | Tiến sĩ Thần học |
Học vấn | Đại học Erfurt, Đại học Wittenberg |
Công việc | Nhà Thần học, Tu sĩ, Giáo sư Đại học, Nhà Cải cách |
Tôn giáo | Lutheran (cải đạo từ Công giáo Rôma) |
Vợ (hoặc chồng) | Katharina von Bora |
Con cái | Hans, Elizabeth, Magdalena, Martin, Paul, Margarethe |
Cha mẹ | Hans và Margarethe Luther (nhũ danh Lindemann) |
Chữ ký | ![]() |
Martin Luther (Martin Luder hay Martinus Luther; 10 tháng 11 năm 1483 – 18 tháng 2 năm 1546) là nhà thần học người Đức, tu sĩ Dòng Augustine, và là nhà cải cách tôn giáo.[1]
Thần học Luther đã thách thức thẩm quyền của Giáo hoàng khi rao giảng niềm xác tín rằng Kinh Thánh là nguồn vô ngộ (không sai lầm) duy nhất của thẩm quyền tôn giáo, và địa vị tư tế được dành cho tất cả tín hữu (không dành riêng cho giới tăng lữ).[2] Theo Luther, con người chỉ có thể được cứu rỗi bởi sự ăn năn thật, và bởi đức tin tiếp nhận Chúa Giê-xu là Đấng Cứu thế (Messiah), mà không cần vai trò trung gian của giáo hội. Thần học Luther là ý thức hệ soi dẫn cuộc Cải cách Kháng Cách, và làm thay đổi dòng lịch sử nền văn minh phương Tây.[3]
Sau khi từ chối thần phục thẩm quyền Hoàng đế Karl V của đế quốc La Mã Thần thánh và bị Giáo hội Công giáo Rôma dứt phép thông công, Luther bị đặt ngoài vòng pháp luật. Trong bối cảnh Tây Âu thời Trung Cổ với sự hiệp nhất chặt chẽ giữa Giáo hội Công giáo với các nhà cầm quyền thế tục, sự kiện học thuyết Luther về các quyền tự do cá nhân được phổ biến rộng rãi và giành được sự ủng hộ tích cực được xem là một hiện tượng chưa từng xảy ra.
Tư tưởng của Luther ảnh hưởng sâu đậm đến nền thần học của các giáo hội thuộc cộng đồng Kháng Cách, cũng như các truyền thống Cơ Đốc giáo khác. Nỗ lực của ông nhằm kêu gọi giáo hội trở về với sự dạy dỗ của Kinh Thánh đã dẫn đến sự hình thành những trào lưu mới trong Cơ Đốc giáo.
Bản dịch Kinh Thánh của Luther sang tiếng địa phương, cùng những nỗ lực đem Kinh Thánh đến với người dân thường đã tạo ra những ảnh hưởng sâu sắc trên đời sống tôn giáo và văn hóa Đức. Bản dịch này cũng đã giúp chuẩn hoá Đức ngữ, và góp phần cải thiện kỹ năng dịch thuật,[4] cũng như tạo ảnh hưởng trên bản dịch Kinh Thánh Anh ngữ King James.[5] Những bài thánh ca do ông sáng tác đã làm thay đổi cung cách thờ phụng tại các nhà thờ.[6] Cuộc hôn nhân của ông với Katherina von Bora vào năm 1525 đã khởi đầu thông lệ cho phép các chức sắc giáo hội thuộc cộng đồng Kháng Cách kết hôn.[7]
Mục lục
- 1 Tuổi trẻ
- 2 Tìm kiếm Hoà giải với Thiên Chúa
- 3 Khám phá Ân sủng của Thiên Chúa
- 4 Tranh luận về phép giải tội
- 5 Phản ứng của Giáo hoàng
- 6 Bất đồng gia tăng
- 7 Nghị viện Worms
- 8 Ẩn náu tại lâu đài Wartburg
- 9 Trở lại Wittenberg
- 10 Cuộc Nổi dậy của Nông dân
- 11 Kinh Thánh tiếng Đức
- 12 Xem thêm
- 13 Chú thích
- 14 Liên kết ngoài
Tuổi trẻ
Martin Luther sinh ngày 10 tháng 11 năm 1483 tại Eisleben, Đế quốc La Mã Thần thánh (nay thuộc lãnh thổ nước Đức), con của Hans và Margaretha Luther.[8] Cậu bé chịu rửa tội vào ngày lễ thánh Martin nên được đặt tên theo vị thánh này. Cha của Martin sở hữu một mỏ đồng gần Mansfeld. Xuất thân nông dân, Hans quyết tâm biến con trai của mình thành một công chức và gởi chàng Martin trẻ tuổi đến học tại các trường ở Mansfeld, Magdeburg và Eisenach.[9] Năm 1501, vào tuổi 17, Martin Luther đến học tại Đại học Erfurt, nhận văn bằng cử nhân vào năm 1502, và học vị thạc sĩ năm 1505.[10] Chiều theo ước muốn của cha, Martin theo học luật cũng tại Đại học Erfurt.[10] Song, do khao khát tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống, Luther bị thu hút bởi thần học và triết học, đặc biệt thích Aristotle, William xứ Ockham, và Gabriel Biel.[10] Cậu cũng chịu ảnh hưởng sâu đậm từ hai trợ giáo, Bartholomäus Arnoldi von Usingen và Jodocus Trufetter, từ họ Luther học biết cách tra vấn mọi điều, ngay cả những nhà tư tưởng vĩ đại nhất,[10] và kiểm tra mọi sự qua kinh nghiệm của chính mình.[11]
Nhưng mọi sự đã thay đổi khi Martin Luther bị mắc kẹt trong một cơn giông bão với sấm sét dữ dội vào mùa hè năm 1505. Trong kinh hoàng, Martin đã cầu Thánh Anne giải cứu và hứa nguyện trở thành tu sĩ.
Luther bỏ trường luật, bán hết sách vở, ngày 17 tháng 7 năm 1505, vào dòng tu kín Augustine tại Erfurt.[12] Hans Luther rất tức giận vì hành động này của con trai.[13]
Tìm kiếm Hoà giải với Thiên Chúa
Martin Luther hết lòng hiến mình cho cuộc đời khổ hạnh tại tu viện, tận tụy với mọi việc lành hầu làm vui lòng Thiên Chúa và phục vụ người khác bằng cách cầu nguyện cho sự cứu rỗi linh hồn của họ. Luther thường xuyên kiêng ăn, tự hành xác, dành nhiều thì giờ để cầu nguyện cũng như đi hành hương và thường xuyên xưng tội. Nhưng nỗ lực càng nhiều Luther càng cảm thấy mình tội lỗi nhiều hơn.[14]
Sau khi trở về từ chuyến hành hương đến Rôma năm 1511, Luther càng chìm sâu trong tuyệt vọng. Ông cảm nhận sâu sắc về tội lỗi và tình trạng bất xứng của mình, nhưng cùng lúc thấy mù mịt vì không tìm ra lối thoát. Lòng sùng tín theo kiểu cách thời Trung Cổ trở thành nỗi niềm cay đắng cho Luther, ông bỏ lễ misa và ngưng đọc kinh. Ông căm giận Thiên Chúa và oán hận ngài.[15] Luther miêu tả giai đoạn này là tràn đầy sự thất vọng tâm linh. Ông nói, “Tôi không chịu đến với Chúa Cơ Đốc như là Cứu Chúa và Đấng An ủi, nhưng xem ngài như là cai tù và đao phủ của linh hồn tôi.”[16]
Cha bề trên của Martin Luther, Johann von Staupitz, tin rằng chàng tu sĩ trẻ tuổi cần được giải thoát khỏi trạng thái trầm tư u uất, ra lệnh cho Martin tập chú vào nghiên cứu học thuật.
Năm 1507, ông được thụ phong linh mục. Năm 1508, ông bắt đầu học thần học tại Đại học Wittenberg.[17] Ông nhận bằng cử nhân về nghiên cứu Kinh Thánh năm 1508 và cử nhân tu từ học (môn học bắt buộc cho ngành thần học vào thời Trung Cổ) vào năm 1509.[18] Đại học Wittenberg cấp bằng tiến sĩ thần học cho ông năm 1512 [19]. Ông cũng được phong chức giáo sư dạy về Kinh Thánh (Lectura in Biblia) và đã giữ ghế này suốt cuộc đời mình.
Khám phá Ân sủng của Thiên Chúa
Những yêu cầu trong thời gian học tập cũng như khi chuẩn bị giáo trình giảng dạy sau này đã dẫn Martin Luther vào việc nghiên cứu Kinh Thánh cách chuyên sâu. Chịu ảnh hưởng học thuyết nhân văn (humanism) phải đi đến tận gốc rễ của vấn đề đang nghiên cứu, ông đắm mình trong lời dạy của Kinh Thánh và các giáo phụ.
Tôn giáo không phải là “kiến thức thần học”, mà là sự thông tuệ sản sinh từ trải nghiệm cá nhân. |
Martin Luther[20] |
Martin Luther thuật lại rằng bước đột phá sâu sắc đến với ông vào năm 1513, lúc đang giảng dạy sách Thi thiên (Thánh vịnh). Khi đang chuẩn bị bài giảng cho học kỳ sắp tới, ông bắt gặp câu này trong Thi thiên 31: 1, “Xin hãy lấy sự công chính Ngài mà giải cứu tôi”. Đây là một câu Kinh Thánh quen thuộc, nhưng vào thời điểm ấy nó đến với Luther như một vết dao cắt. Ông cảm thấy sự công chính của Thiên Chúa thật đáng kinh khiếp: luôn nhắc nhở ông về tội lỗi của mình, khiến ông nghĩ về Chúa như một đấng khắc nghiệt, chực chờ đoán phạt con người dựa trên một sự công chính mà con người không bao giờ với tới. Luther quay sang những luận giải của Phao-lô chép trong thư La Mã 3: 23-24[21] để thấy mình bị cuốn sâu hơn vào tình trạng căng thẳng và tuyệt vọng. Đức tin đặt vào Chúa Cơ Đốc càng nâng cao những chuẩn mực đạo đức của Thiên Chúa, theo cách hiểu của Luther vào lúc ấy, là đấng sẵn sàng ra tay trừng phạt con người đang đắm chìm trong tội lỗi.
Trong nhiều ngày, Luther cố tra xem, tìm kiếm từ những câu chữ của Phao-lô hầu có thể tìm thấy ý nghĩa chân xác của kinh văn, cho đến khi ánh sáng soi rọi tâm trí ông để nhận ra rằng sự công chính của Thiên Chúa không phải là động lực thúc đẩy ngài trừng phạt tội nhân, nhưng là sự công chính dẫn đến sự tha thứ tội lỗi, bởi đó chúng ta được xưng công chính trước mặt Thiên Chúa, nhờ ơn thương xót của ngài thể hiện qua sự cứu chuộc trong Chúa Giê-xu. Chỉ bởi đức tin mà chúng ta được xưng công chính. Sự xưng công chính ấy là sự ban cho từ Thiên Chúa, không phải bởi công đức của chúng ta.[22]
Ông nhận ra rằng mệnh đề “sự công chính của Thiên Chúa” trong La Mã 1: 17[23] không có nghĩa là sự công chính chủ động, theo đó con người được xưng công chính bởi Thiên Chúa dựa trên công đức của chính họ, nhưng là sự công chính thụ động, theo đó con người nhận lãnh sự công chính từ Thiên Chúa qua công đức trọn vẹn, sự sống, sự chết và sự phục sinh của Chúa Giê-xu. Chỉ bởi sự công chính này mà con người mới được Thiên Chúa chấp nhận. Những thuật ngữ như sám hối và công chính chỉ nên được hiểu theo nghĩa ấy. Càng nghiên cứu Kinh Thánh, Martin Luther càng tin rằng giáo hội đã đánh mất khả năng nhận biết những chân lý căn cốt này. Và đối với Luther, quan trọng hơn hết thảy là giáo thuyết được xưng công chính chỉ bởi đức tin.[24] Ông viết,
“ | Vầng đá nền vững chãi này mà chúng ta gọi là giáo lý xưng công chính, là trọng tâm của toàn bộ nền thần học Cơ Đốc mà mỗi người yêu kính Thiên Chúa cần phải thấu suốt.[24] | ” |
Luther hiểu rằng sự xưng công chính hoàn toàn là công việc của Thiên Chúa. Trái với giáo huấn thời đó dạy rằng hành vi công chính của người tín hữu là những hành động cùng thực thi với sự hợp tác của Thiên Chúa, Luther viết rằng người tín hữu nhận lãnh sự công chính như một sự ban cho, không phải tự mình hoàn thiện; sự công chính không chỉ đến từ Chúa Cơ Đốc, nhưng đó chính là sự công chính của ngài, và ngài dành cho chúng ta khi chúng ta lấy đức tin để nhận lãnh.[25] “Đó là lý do tại sao chỉ có đức tin mới có thể khiến chúng ta trở nên công chính và làm trọn luật pháp”, Luther viết. “Đức tin khiến chúng ta nhận lãnh Chúa Thánh Linh qua công đức của Chúa Cơ Đốc.”[26] Đức tin, theo Luther, là món quà đến từ Thiên Chúa. Ông luận giải về sự xưng công chính:
“ | Trước tiên và quan trọng hơn hết: Chúa Giê-xu, Thiên Chúa và Chúa của chúng ta, đã chết vì tội lỗi chúng ta, đã sống lại để chúng ta được xưng công chính (La Mã 3: 24, 25[27]). Chỉ mình Ngài là Chiên con của Thiên Chúa, là đấng cất bỏ tội lỗi của thế gian (Phúc âm John 1:29[28]), và Thiên Chúa đặt trên Ngài mọi sự vi phạm của chúng ta (Isaiah 53:6[29]). Chúng ta đều đã phạm tội, và được xưng công chính, không phải bởi công đức và việc làm của mình, bèn là bởi ân điển của Chúa, qua sự cứu chuộc trong Chúa Giê-xu, trong huyết Ngài (La Mã 3: 23-25[30]). Đây là điều cần thiết cho đức tin. Không thể đạt được điều này qua việc làm hay công đức. Như vậy, thật rõ ràng và chắc chắn rằng chúng ta được xưng công chính chỉ bởi đức tin…. Chúng ta không được xem nhẹ hay chối bỏ những tín lý này, ngay cả khi trời, đất và mọi sự đều qua đi.[31][32] | ” |
Với niềm vui tìm ra chân lý, Martin Luther khởi sự giảng dạy niềm xác tín rằng cứu rỗi là sự ban cho bởi ân điển của Thiên Chúa, được nhận lãnh bởi đức tin và lòng tin cậy vào lời hứa của Thiên Chúa tha thứ tội lỗi, dựa trên sự chết của Chúa Giê-xu trên thập tự giá.
Tranh luận về phép giải tội
Lần đầu tiên Martin Luther công khai thách thức quyền lực của Giáo hoàng là vào năm 1517, về việc bán phép giải tội (indulgence). Câu hỏi được đặt ra là liệu giáo hoàng (hoặc bất kỳ ai khác ngoài Chúa Cơ Đốc) có quyền lực hoặc thẩm quyền sử dụng công đức của Chúa Giê-xu và các thánh để cứu những người đang bị giam trong ngục luyện tội (purgatory) hay không.
Luther căm ghét việc bán phép giải tội, ông tin rằng phép giải tội chẳng có ích lợi gì cho việc cứu rỗi linh hồn ngoài mục đích làm đầy túi các chức sắc giáo hội. Ông cũng tin rằng việc mua bán phép giải tội sẽ khuyến khích phạm tội vì khiến người ta tin rằng có thể dùng tiền mua được sự xá tội. Ông cũng hành hương đến La Mã vào năm 1510 nhưng chỉ để cảm thấy ghê tởm nơi chốn, theo Luther, đầy dẫy sự tham lam và thối nát.
Năm 1517 Tổng Giám mục Magdeburg và Halberstadt, Albert von Hohenzollern, muốn có thêm tước vị tổng Giám mục Mainz (tước vị này mang lại nhiều lợi lộc và quyền lực của một vương hầu), nhưng theo luật giáo hội không ai có thể cai quản cùng lúc hai giáo phận. Tuy nhiên, vì cần tiền để xây dựng Đại Giáo đường Thánh Peter, Giáo hoàng Leo X cho phép Albert nhận lãnh tước vị sau khi nộp tiền phạt vì vi phạm giáo luật. Vì phải vay mượn để nộp phạt nên Albert được phép bán phép giải tội để có tiền trả nợ.[33] Một tu sĩ Dòng Dominican tên Johann Tetzel được sai đi khắp giáo phận của Albert bán phép giải tội, và Tetzel đã tỏ ra rất thành công trong công việc được giao phó.[34] Frederick Hiền nhân, Vương hầu xứ Saxony mà Luther là một thần dân, sở hữu một bộ sưu tập lớn các thánh tích. Bộ sưu tập này thu hút đông người đến chiêm ngưỡng vào ngày lễ Các thánh. Nhân dịp này Tetzel cũng đến Wittenberg để bán phép giải tội.
Ngày 31 tháng 10 năm 1517, Luther viết thư cho Albrecht, Tổng Giám mục Mainz và Magdeburg, phản bác việc bán phép giải tội, đính kèm một bản sao tiểu luận “Tranh luận của Martin Luther về Quyền năng và Hiệu lực của Phép Giải tội’, được biết đến dưới tên 95 Luận đề. Hans Hillerbrand viết rằng Luther không có ý định đối đầu với giáo hội, nhưng xem cuộc tranh luận là một sự phản biện về học thuật đối với các tập tục của giáo hội, văn phong của ông thể hiện chủ tâm “tra cứu hơn là lập thuyết.” [35]
Luther bắt đầu thuyết giảng bác bỏ phép giải tội, và theo truyền thuyết, ông treo 95 “Luận đề” tại cửa nhà thờ của lâu đài Wittenberg (nơi treo các thông báo của viện đại học), theo thông lệ vào thời ấy, nhằm mở ra cuộc tranh luận về phép giải tội. Những luận đề của Luther tố cáo sự tham lam và tinh thần thế tục đang phổ biến trong giáo hội (thể hiện qua việc bán phép giải tội), và yêu cầu mở ra tranh luận về thần học. Ngay tức khắc các luận đề này được dịch từ tiếng Latin sang tiếng Đức, được in ấn, và phổ biến. Đây là cuộc tranh luận đầu tiên trong lịch sử có sự hỗ trợ của máy in.[36] Chỉ trong vòng hai tuần lễ chúng đã được phổ biến rộng rãi trên toàn nước Đức, và chỉ trong hai tháng chúng được tìm thấy trên toàn lãnh thổ châu Âu.
Phản ứng của Giáo hoàng
Sau khi tỏ ra xem thường “gã người Đức viết các luận đề khi say rượu, khi tỉnh ra anh ta sẽ đổi ý”,[37] Giáo hoàng Leo X vào năm 1518 chỉ thị Silvester Mazzolini, giáo sư thần học dòng Dominican, xem xét vấn đề này. Nhận thấy Luther là một mối nguy hiểm tiềm tàng, Mazzolini công bố Martin Luther là kẻ dị giáo và viết một bài phản bác các luận đề nhằm khẳng định thẩm quyền của Giáo hoàng trên giáo hội Công giáo và khuyến cáo bất cứ sự chệch hướng nào cũng bị coi là dị giáo.
Khi đang tham dự một hội nghị của Dòng Augustine tại Heidelberg, Martin Luther nhận được lệnh triệu tập đến La Mã. Trong khi vẫn tỏ ý trung thành với giáo hội, ông bắt đầu bác bỏ quyền lực tuyệt đối của Giáo hoàng.
Vì muốn giữ sự hoà hảo với Vương hầu Frederick, người có khả năng được bầu chọn làm hoàng đế cho Đế quốc La Mã Thần thánh và đang tỏ ra muốn bảo vệ Martin Luther, Giáo hoàng chọn giải pháp ôn hoà nhằm thuyết phục Martin Luther ngưng đả kích giáo hội rồi viết thư tỏ ý thuận phục Giáo hoàng và soạn một luận văn nhằm tôn vinh giáo hội La Mã. Bức thư được viết nhưng không được gởi đi vì Martin Luther vẫn giữ nguyên chính kiến, sau này ông cũng viết một luận văn nhưng nhằm mục đích bác bỏ mọi linh nghiệm của phép giải tội dù ông vẫn thừa nhận ngục luyện tội, phép giải tội và sự cầu thay của các thánh.
Cùng với một người bạn, Carlstadt, Martin Luther tham dự cuộc tranh luận với John Eck tại Leipzig từ 27 tháng 6 – đến 18 tháng 7 năm 1519. Tại đây ông đã bác bỏ quyền lực tối thượng của ngai Giáo hoàng, cho rằng “quyền cầm giữ chìa khoá nước Trời” là được ban cho toàn thể Hội thánh (nghĩa là cho tất cả tín hữu), ông cũng khẳng định rằng giáo hội La Mã không giữ vai trò ưu việt nào trong sự cứu rỗi.
Bất đồng gia tăng
Trong khi đó, các tác phẩm của Martin Luther ngày càng được phổ biến rộng rãi hơn, lan truyền đến Pháp, Anh, và Ý vào đầu năm 1519. Nhiều sinh viên tìm đến Wittenberg để nghe các bài thuyết giảng của Martin Luther và Philipp Melancthon. Năm 1518, Melancthon tìm đến để cộng tác với Luther.
Trong Thư gửi giới Quý tộc Đức, ấn hành vào tháng Tám năm 1520, Luther tin rằng cuộc cải cách đến từ ý muốn của Thiên Chúa nhưng đã bị khước từ bởi Giáo hoàng và giới tăng lữ, ông cũng kêu gọi cải cách nhiều lãnh vực từ trong giáo hội ra ngoài xã hội. Trong Đường dẫn đến sự Lưu đày tại Babylon của Giáo hội ông luận bàn về các thánh lễ, bác bỏ chủ nghĩa hình thức trong cử hành các thánh lễ và, theo ông, chỉ có Tiệc Thánh và Báp têm nên được kể là thánh lễ.
Ngày 15 tháng 6 năm 1520, Giáo hoàng cảnh cáo Luther (chiếu chỉ Exsurge Domine) có thể bị dứt phép thông công nếu trong vòng 60 ngày không chịu rút lại 41 câu, trong đó có 95 luận đề.
Sau khi thẳng thừng khước từ vâng phục mệnh lệnh của Giáo hoàng, ngày 3 tháng 1 năm 1521, Martin Luther bị khai trừ khỏi giáo hội.
Nghị viện Worms
Hoàng đế La Mã Thần thánh là Karl V khai mạc Nghị viện của Đế chế tại Worms ngày 22 tháng 1 năm 1521. Martin Luther được triệu tập để xác định lập trường của mình trước hoàng đế và nghị viện. Ông được hoàng đế cam kết bảo vệ an toàn trong thời gian này.
Tại đây, John Eck, trong tư cách là phát ngôn nhân của hoàng đế, đối diện Luther với câu hỏi: “Ông có đồng ý bác bỏ các cuốn sách của ông cùng những điều lầm lạc được chép ở trong?”. Câu trả lời của Luther là: “Trừ khi được thuyết phục bởi Thánh Kinh và lý trí – tôi không công nhận thẩm quyền của các giáo hoàng và các công đồng vì họ tự mâu thuẫn với nhau – lương tâm của tôi chỉ thuận phục Lời của Thiên Chúa, bởi vì chống lại lương tâm thì không đúng và cũng không an toàn”.[38]
“ | Tôi đứng đây; tôi không thể làm gì khác. Nguyện Thiên Chúa phù hộ tôi. Amen! | ” |
—Martin Luther, phát biểu trước Nghị viện Worms (1521)[20] |
Trong năm ngày kế tiếp, các phiên họp kín được triệu tập để quyết định số phận của Luther. Ngày 25 tháng 5 năm 1521, Hoàng đế trình bày bản thảo Chiếu chỉ Worms tuyên bố Luther bị đặt ngoài vòng pháp luật, cấm các tác phẩm của ông, và yêu cầu bắt giữ ông, “Ta muốn bắt giữ và trừng phạt hắn như là một tên dị giáo xấu xa.”[39] Chiếu chỉ kể là tội phạm bất cứ ai chứa chấp hoặc cấp dưỡng cho Luther, và cho phép mọi người giết Luther mà không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Ẩn náu tại lâu đài Wartburg
Việc Martin Luther mất tích trên đường về là một phần trong kế hoạch của Vương hầu Frederick nhằm bảo vệ ông. Một nhóm gồm năm kỵ sĩ bịt mặt chận bắt Martin Luther khi ông vừa rời khỏi Nghị viện Worms và đưa ông về lâu đài Wartburg. Tại đây ông phải mặc trang phục hiệp sĩ, để râu dài và được gọi dưới tên Junker Jorg (Hiệp sĩ George).[40]
Trong thời gian ẩn dật, Luther vẫn tiếp tục làm việc cật lực, lần này ông bắt tay dịch sang tiếng Đức bản Kinh Thánh Tân Ước nổi tiếng (được ấn hành năm 1522).
“ | Chỗ nào Thiên Chúa xây nhà thờ, chỗ đó Ma quỷ cất nhà nguyện. | ” |
—Martin Luther[41] |
Trong khi đó, các thành phần cực đoan bắt đầu gây dựng thanh thế bên trong phong trào cải cách, và đặt phong trào còn non trẻ này vào nguy cơ bị dẫn đi lệch hướng khỏi tôn chỉ ban đầu, đặc biệt là khi những người Anabaptist đến từ Zwickau gia nhập nhóm này để đẩy nhanh tình trạng hỗn loạn vốn đã bộc phát từ khi Luther vắng mặt.
Bất đồng với quan điểm cực đoan của nhóm này và hết sức quan ngại về những hậu họa do họ gây ra, ngày 6 tháng 3 năm 1522, Luther bí mật trở về Wittenberg.
“Trong khi tôi vắng mặt,” ông viết cho Vương hầu Frederick, “Sa-tan đã đột nhập vào bầy chiên, gây biết bao tàn hại mà tôi không thể nào cứu chữa được nếu chỉ bằng thư tín, tình thế đòi hỏi phải có sự hiện diện và tiếng nói của tôi.”[42]
Trở lại Wittenberg
Trong vòng tám ngày trong Tuần thánh, khởi đi từ chủ nhật ngày 9 tháng 3 và kết thúc vào chủ nhật sau, Luther đã thuyết giảng tám lần. Trong tám bài giảng này, ông dẫn dắt thính giả vào tâm điểm của những giá trị căn cốt của Cơ Đốc giáo như tình yêu thương, đức nhẫn nại, bác ái, và sự tự do, cũng như nhắc nhở họ cần phải tin cậy Lời Thiên Chúa thay vì dùng bạo lực để tiến hành những cải cách cần thiết. Ông nói,
“ | Các bạn có biết ma quỷ nghĩ gì khi nhìn thấy chúng ta sử dụng bạo lực để truyền bá phúc âm? Đằng sau những đám lửa hỏa ngục, ma quỷ ngồi khoanh tay, đôi mắt hiểm độc và nụ cười ghê rợn, rít lên rằng, “À, những tên điên khùng này đang làm đúng ý ta! Cứ để chúng tiếp tục, rồi ta sẽ hưởng lợi. Thật vui thích biết bao.” Nhưng khi ma quỷ nhìn thấy Lời Thiên Chúa được rao giảng và hiển lộ quyền năng, ma quỷ sẽ co rúm lại và run rẩy vì khiếp sợ.[42] | ” |
Cuộc Nổi dậy của Nông dân
Xét trên nhiều khía cạnh, cuộc nổi dậy này là sự đáp ứng của nông dân đang sống dưới áp bức đối với lời giảng của Martin Luther và các nhà cải cách khác. Dù đã bộc phát nhiều cuộc nổi dậy ở quy mô nhỏ từ thế kỷ 15,[42] nhưng khi nhiều nông dân tin rằng việc Martin Luther đả kích giáo hội và hệ thống giáo quyền có nghĩa là các nhà cải cách sẽ ủng hộ một cuộc tấn công vào bộ máy cầm quyền của Đế chế, thì họ bắt đầu tiến hành cuộc nổi dậy. Các cuộc nổi dậy khởi phát từ Swabia, Franconia và Thuringia vào năm 1524, nhận được sự ủng hộ rộng rãi từ nhiều nông dân và một số quý tộc bất mãn. Được củng cố lực lượng cùng lúc với sự xuất hiện của nhà lãnh đạo mới, Thomas Müntzer, các cuộc nổi dậy lẻ tẻ trở nên một cuộc chiến tranh toàn diện.[42]
Lúc đầu Martin Luther tỏ ra có thiện cảm với nông dân,[42] ông kết án các áp bức từ giới quý tộc, mặc dù vẫn nhắc nhở giới nông dân cần phải tuân phục bậc cầm quyền. Nhưng khi bạo động bùng nổ, các tu viện, tòa Giám mục, và thư viện bị đốt phá, Luther quay sang chống đối cuộc nổi dậy. Vì phải tìm kiếm sự ủng hộ và bảo vệ từ các vương hầu, ông tránh né đối đầu với họ. Ông khuyến khích giới quý tộc đối xử nặng tay với những người nổi dậy. Từ đó, nhiều người trong giới nông dân nhìn Luther như một kẻ phản bội. Cuộc khởi nghĩa nông dân kết thúc vào năm 1525 khi lực lượng nổi dậy bị tiêu diệt bởi các đạo quân của Liên minh Swabia.[42]
Kinh Thánh tiếng Đức
Việc Martin Luther dịch Tân Ước ra tiếng Đức giúp người dân thường dễ tiếp cận hơn với Kinh Thánh, đồng thời làm suy giảm ảnh hưởng của giới tăng lữ. Ông đã sử dụng bản tiếng Hy Lạp của Erasmus để dịch. Trong thời gian dịch thuật, ông thường đến các thị trấn lận cận, và vào các ngôi chợ để lắng nghe người dân nói chuyện với nhau hầu có thể đưa ngôn ngữ đại chúng vào bản dịch của ông.
Tận dụng thời gian nhàn rỗi khi đang ẩn náu tại Lâu đài Wartburg, năm 1521 Luther một mình bắt tay dịch Kinh Thánh sang tiếng Đức. Theo Philip Schaff, nhà thần học thế kỷ 19, chỉ riêng công trình này cũng đủ để Luther được công nhận là một trong số những người đóng góp nhiều nhất cho các dân tộc nói tiếng Đức.[43]
Bản dịch Tân Ước của Luther xuất bản vào tháng 9 năm 1522. Đến năm 1534, ông hoàn tất bản dịch Cựu Ước với sự cộng tác của Johannes Bugenhagen, Justus Jonas, Caspar Creuziger, Philipp Melanchthon, Matthäus Aurogallus, và George Rörer. Luther vẫn tiếp tục chỉnh sửa bản dịch cho đến cuối đời.
Bản dịch Kinh Thánh của Luther đã đóng góp vào sự hình thành ngôn ngữ Đức đương đại, được xem là dấu mốc trong nền văn chương Đức. Bản Kinh Thánh năm 1534 của Luther tạo ảnh hưởng trên bản dịch của William Tyndale,[44] là ấn bản tiền thân cho bản Kinh Thánh Vua James.[45] Philip Schaff nhận xét về bản dịch này:
Thành quả lớn nhất của Luther trong thời gian ẩn náu tại Wartburg, cũng là thành tựu quan trọng nhất và hữu ích trong suốt cuộc đời ông, là bản dịch Tân Ước, qua đó ông đã mang sự giáo huấn và cuộc đời mẫu mực của Chúa Cơ Đốc và các Sứ đồ vào lòng và tâm trí của người dân Đức, như là một sự tái tạo giống y như thật. Thành quả này có thể được xem như là sự tái ấn hành phúc âm. Ông đã làm Kinh Thánh trở nên quyển sách của nhân dân, có mặt khắp mọi nơi, trong nhà thờ, trường học và gia đình.
Với bản dịch Cựu Ước ấn hành năm 1534, Martin Luther hoàn tất công trình dịch thuật toàn bộ Kinh Thánh. Công trình này giúp chuẩn hóa ngôn ngữ Đức và được xem là dấu mốc quan trọng trong lịch sử văn học Đức.
Xem thêm
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Martin Luther |
Chú thích
- ^ Plass, Ewald M. “Monasticism,” in What Luther Says: An Anthology. St. Louis: Concordia Publishing House, 1959, 2:964.
- ^ Luther, Martin. Concerning the Ministry (1523), tr. Conrad Bergendoff, in Bergendoff, Conrad (ed.) Luther’s Works. Philadelphia: Fortress Press, 1958, 40:18 ff.
- ^ Hillerbrand, Hans J. “Martin Luther: Significance,” Encyclopaedia Britannica, 2007.
- ^ Fahlbusch, Erwin and Bromiley, Geoffrey William. The Encyclopedia of Christianity. Grand Rapids, MI: Leiden, Netherlands: Wm. B. Eerdmans; Brill, 1999–2003, 1:244.
- ^ Tyndale’s New Testament, trans. from the Greek by William Tyndale in 1534 in a modern-spelling edition and with an introduction by David Daniell. New Haven, CT: Yale University Press, 1989, ix–x.
- ^ Bainton, Roland. Here I Stand: a Life of Martin Luther. New York: Penguin, 1995, 269.
- ^ Bainton, Roland. Here I Stand: a Life of Martin Luther. New York: Penguin, 1995, 223.
- ^ Marty, Martin. Martin Luther. Viking Penguin, 2004, p. 1.
- ^ Rupp, Ernst Gordon. “Martin Luther,” Encyclopædia Britannica, truy cập 2006.
- ^ a ă â b Marty, Martin. Martin Luther. Viking Penguin, 2004, p. 5.
- ^ Marty, Martin. Martin Luther. Viking Penguin, 2004, p. 6.
- ^ Schwiebert, E.G. Luther and His Times. St. Louis: Concordia Publishing House, 1950, 136.
- ^ Marty, Martin. Martin Luther. Viking Penguin, 2004, p. 7.
- ^ Bainton, Roland. Here I Stand: a Life of Martin Luther. New York: Penguin, 1995, 40-42.
- ^ Smart, Ninian. The Religious Experience of Mankind. Charles Scribner’s Sons, New York (1967), p. 571
- ^ Kittelson, James. Luther The Reformer. Minneapolis: Augsburg Fortress Publishing House, 1986, 79.
- ^ Bainton, Roland. Here I Stand: a Life of Martin Luther. New York: Penguin, 1995, 44-45.
- ^ Brecht, Martin. Martin Luther. tr. James L. Schaaf, Philadelphia: Fortress Press, 1985–93, 1:93.
- ^ Brecht, Martin. Martin Luther. tr. James L. Schaaf, Philadelphia: Fortress Press, 1985–93, 1:12-27.
- ^ a ă Holborn, Hajo; A HISTORY OF MODERN GERMANY: The Reformation; 1959/1982 Princeton university Press.
- ^ “Vì mọi người đều đã phạm tội, hụt mất sự vinh hiển của Thiên Chúa; nhưng nay nhờ ân điển Ngài mà họ được xưng công chính nhưng không bởi sự cứu chuộc trong Chúa Cơ Đốc Giê-xu.” – La Mã 3: 23-24
- ^ Smart, Ninian. The Religious Experience of Mankind. Charles Scribner’s Sons, New York (1967), p. 572
- ^ “Vì trong Tin Lành đó đã bày tỏ sự công chính của Thiên Chúa do đức tin đến đức tin, như có chép rằng: Người công chính sẽ sống bởi đức tin.” – La Mã 1: 17
- ^ a ă Wriedt, Markus. “Luther’s Theology,” in The Cambridge Companion to Luther. New York: Cambridge University Press, 2003, 88–94.
- ^ Dorman, Ted M., “Justification as Healing: The Little-Known Luther,” Quodlibet Journal: Volume 2 Number 3, Summer 2000. Truy cập 13 tháng 7 năm 2007.
- ^ “Luther’s Definition of Faith”.
- ^ Họ nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng không, bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Chúa Giê-xu Cơ Đốc, là Đấng Thiên Chúa đã lập làm của lễ chuộc tội, bởi đức tin trong huyết Đấng ấy. Ngài đã bày tỏ sự công bình mình như vậy, vì đã bỏ qua tội phạm trước kia, – La Mã 3: 24,25
- ^ Giăng thấy Chúa Giê-xu đến cùng mình thì nói rằng: Kìa, Chiên con của Thiên Chúa, là Đấng cất tội lỗi thế gian đi. – John 1:29
- ^ Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy; Đức Giê-hô-va đã làm cho tội lỗi của hết thảy chúng ta đều chất trên người – Isaiah 53: 6
- ^ Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Thiên Chúa, và họ nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng không, bởi sự chuộc tội, bởi đức tin trong huyết Đấng ấy. Ngài đã bày tỏ sự công bình như vậy, vì đã bỏ qua các tội phạm trước kia, – La Mã 3: 23-25
- ^ “Trời đất sẽ qua đi, song lời ta không bao giờ qua đâu.” – Phúc âm Mark 13: 31
- ^ Luther, Martin. “The Smalcald Articles,” in Concordia: The Lutheran Confessions. (Saint Louis: Concordia Publishing House, 2005, 289, Part two, Article 1.
- ^ Rupp, Ernst Gordon. “Martin Luther,” Encyclopædia Britannica, accessed 2006.
- ^ “Johann Tetzel,” Encyclopaedia Britannica, 2007: “Tetzel’s experiences as a preacher of indulgences, especially between 1503 and 1510, led to his appointment as general commissioner by Albrecht, archbishop of Mainz, who, deeply in debt to pay for a large accumulation of benefices, had to contribute a considerable sum toward the rebuilding of St. Peter’s Basilica in Rome. Albrecht obtained permission from Pope Leo X to conduct the sale of a special plenary indulgence (i.e., remission of the temporal punishment of sin), half of the proceeds of which Albrecht was to claim to pay the fees of his benefices. In effect, Tetzel became a salesman whose product was to cause a scandal in Germany that evolved into the greatest crisis (the Reformation) in the history of the Western church.”
- ^ Hillerbrand, Hans J. “Martin Luther: Indulgences and salvation,” Encyclopaedia Britannica, 2007.
- ^ Brecht, Martin. Martin Luther. tr. James L. Schaaf, Philadelphia: Fortress Press, 1985–93, 1:204-205.
- ^ Schaff, Philip. History of the Christian Church. New York: Charles Scribner’s Sons, 1910, 7:99; Polack, W.G. The Story of Luther. St. Louis: Concordia Publishing House, 1931, 45.
- ^ Macauley Jackson, Samuel and Gilmore, George William. (eds.) “Martin Luther”, The New Schaff-Herzog Encyclopedia of Religious Knowledge, New York, London, Funk and Wagnalls Co., 1908–1914; Grand Rapids, Michigan: Baker Book House, 1951), 72.
- ^ Bratcher, Dennis. “The Edict of Worms (1521),” in The Voice: Biblical and Theological Resources for Growing Christians. Truy cập 13 tháng 7 năm 2007.
- ^ Schaff-Herzog, “Luther, Martin,” 72.
- ^ Table Talk (1569). p. 67
- ^ a ă â b c d Schaff, Philip, History of the Christian Church, Vol VII, Ch IV.
- ^ Shaff, Philip. “Luther’s Translation of the Bible”, History of the Christian Church, New York: Charles Scribner’s Sons, 1910. Schaff quotes Hegel’s Philosophie der Geschichte, p. 503: “Luther hat die Autorität der Kirche verworfen und an ihre Stelle die Bibel und das Zeugniss des menschlichen Geistes gesetzt. Dass nun die Bibel selbst die Grundlage der christlichen Kirche geworden ist, ist von der grössten Wichtigkeit; jeder soll sich nun selbst daraus belehren, jeder sein Gewissen daraus bestimmen können. Diess ist die ungeheure Veränderung im Principe: die ganze Tradition und das Gebäude der Kirche wird problematisch und das Princip der Autorität der Kirche umgestossen. Die Uebersetzung, welche Luther von der Bibel gemacht hat, ist von unschätzbarem Werthe für das deutsche Volk gewesen. Dieses hat dadurch ein Volksbuch erhalten, wie keine Nation der katholischen Welt ein solches hat; sie haben wohl eine Unzahl von Gebetbüchlein, aber kein Grundbuch zur Belehrung des Volks. Trotz dem hat man in neueren Zeiten Streit deshalb erhoben, ob es zweckmässig sei, dem Volke die Bibel indie Hand zu geben; die wenigen Nachtheile, die dieses hat, werden doch bei weitem von den ungeheuren Vortheilen überwogen; die äusserlichen Geschichten, die dem Herzen und Verstande anstössig sein können, weiss der religiöse Sinn sehr wohl zu unterscheiden, und sich an das Substantielle haltend überwindet er sie.”
- ^ Tyndale’s New Testament, xv, xxvii.
- ^ Tyndale’s New Testament, ix–x.
Liên kết ngoài
- Martin Luther – Eine Bibliographie (tiếng Đức)
[hiện]Nhà Cải cách |
---|
- Infobox person using numbered parameter
- Sinh 1483
- Mất 1546
- Cải cách Tin Lành
- Nhà thần học Đức
- Tu sĩ Đức
- Tin Lành
- Giáo sư thần học Đức
- Kitô giáo
- Nhà cách mạng Đức
- Dịch giả Đức
- Martin Luther
- Người bị Giáo hội Công giáo Rôma phạt vạ tuyệt thông
- Người Đế quốc La Mã Thần thánh
Tin Lành
Danh xưng Tin Lành thường được dùng để chỉ một cộng đồng các giáo hội khởi phát từ cuộc cải cách tôn giáo bắt đầu vào thế kỷ 16 bởi Martin Luther. Là tu sĩ Dòng Augustine, mục tiêu ban đầu của Luther là kêu gọi cải cách từ bên trong Giáo hội Công giáo Rôma, về sau ông tách rời khỏi Giáo hội Công giáo và thành lập Giáo hội Luther. Trong khi đó tại Âu châu, nhiều người có quan điểm tương tự như của Luther cũng bắt đầu tách khỏi Công giáo và thành lập các giáo phái khác nhau. Họ được gọi dưới tên chung là Kháng Cách, hay Tân giáo (để phân biệt với cựu giáo là Công giáo). Kháng Cách được xem là một trong ba nhánh chính của Cơ Đốc giáo, cùng với Công giáo Rôma và Chính Thống giáo Đông phương.
Cộng đồng Kháng Cách bao gồm các giáo hội thuộc Cơ Đốc giáo chấp nhận nền thần học của cuộc Cải cách Tin Lành. Nền thần học này từ chối công nhận thẩm quyền của Giáo hoàng, với niềm xác tín rằng chỉ có Kinh Thánh (không phải Truyền thống thánh hoặc quyền giải thích Kinh Thánh dành cho các chức sắc cao cấp của giáo hội[1]) là nguồn chân lý duy nhất, và tin rằng chỉ bởi ân điển của Thiên Chúa mà con người được cứu rỗi. Những luận điểm chính của thần học Kháng Cách được tóm tắt trong Năm Tín lý Duy nhất.
Thuật từ Protestantismus (Kháng Cách), có gốc từ tiếng Latin protestatio nghĩa là tuyên bố hoặc phản đối, được dùng để chỉ thư kháng nghị của các thân vương (trong đó có tuyển đế hầu) và đại diện các thành phố tự do thuộc Thánh chế La Mã chống lại nghị quyết của Hội nghị Speyer lần thứ hai, nghị quyết này tái khẳng định lập trường của Hội nghị Worms chống lại cuộc Cải cách Tin Lành.[2] Lúc ấy, người ta gọi những người ủng hộ thư kháng nghị và lập trường cải cách là người phản kháng hay kháng nghị. Từ đó, thuật từ Kháng Cách, bao hàm nhiều ý nghĩa khác nhau, được dùng để chỉ Cơ Đốc giáo phương Tây không công nhận thẩm quyền của Giáo hoàng.[2] Trước thời điểm xảy ra kháng nghị vào tháng 4 năm 1529, người ta dùng thuật từ evangelisch (gốc từ tiếng Hy Lạp, mang nghĩa là Phúc Âm hay Tin Lành) để gọi những người theo cuộc cải cách.
Trong ý nghĩa rộng lớn hơn, tên gọi Kháng Cách dùng để chỉ các giáo hội khác nhau, tách khỏi Công giáo do chịu ảnh hưởng của Martin Luther và John Calvin, người khởi xướng và lãnh đạo một cuộc cải cách tôn giáo khác tại Geneve, Thuỵ Sĩ. Bên cạnh đó cũng xuất hiện một số phong trào cải cách khác, thường được gọi là Cải cách triệt để. Trong khi đó nhiều nhóm tôn giáo tách khỏi Công giáo cũng được gán cho nhãn hiệu Kháng Cách dù chính họ cũng phủ nhận mọi liên hệ với Luther, Calvin hay với Công giáo.
Mục lục
Lịch sử
Cải cách Tin Lành | |||
---|---|---|---|
![]() |
|||
|
|||
|
|||
|
Phong trào cải cách bùng nổ đột ngột tại nhiều nơi ở Âu Châu, nhưng tìm thấy sức mạnh của mình tại Đức, nơi cuộc cải cách đã gây ra sự phân hoá sâu sắc giữa các vương hầu đang cai trị các phần lãnh thổ nước này. Tuy nhiên, nguyên nhân của sự bùng nổ nầy có thể giải thích bởi các biến động xảy ra trong suốt hai thế kỷ trước đó tại Tây Âu.
Mầm mống của sự bất ổn âm ỉ bên trong giáo hội và đế quốc được đẩy lên đỉnh điểm khi xảy ra việc dời ngai Giáo hoàng về Avignon, Pháp (1308–1378) và sự tranh chấp giáo quyền giữa hai triều Giáo hoàng tồn tại song song (1378–1416), gây ra chiến tranh giữa các vương hầu, các cuộc nổi dậy của nông dân và mối quan tâm về những thối nát trong lòng hệ thống các tu viện. Nó cũng giới thiệu chủ nghĩa quốc gia như là một nhân tố mới vào thế giới trung cổ. Phong trào phục hưng nhân văn khuyến khích giới khoa bảng quan tâm đến quyền tự do dành cho học thuật. Những cuộc tranh luận sôi nổi được tiến hành tại các viện đại học bàn đến các vấn đề như bản chất của giáo hội, nguồn gốc và giới hạn của thẩm quyền dành cho Giáo hoàng, các công đồng và các vương hầu. Một trong những luận thuyết cấp tiến và gay gắt nhất đến từ John Wycliffe của Đại học Oxford, và sau đó là từ Jan Hus của Đại học Praha. Trong nội bộ Giáo hội Giáo hội Công giáo Rôma, cuộc tranh luận này bị khép lại bởi Công đồng Constance (1414–1418), xử tử Jan Hus và thiêu xác John Wycliffe như là kẻ dị giáo. Dù Công đồng Constance nỗ lực khẳng định và củng cố các khái niệm thời trung cổ về giáo hội và đế quốc, lại không thể giải quyết toàn diện các căng thẳng về ý thức quốc gia cũng như những phản kháng về thần học.
Martin Luther, tu sĩ dòng Augustine và giáo sư tại Đại học Wittenberg, chỉ muốn kêu gọi mở ra các cuộc tranh luận về phép ân xá (indulgence). Truyền thuyết cho rằng Luther đã treo 95 luận đề của mình trên cửa nhà thờ lâu đài Wittenberg, nơi dành để treo các thông báo của viện đại học. Tuy nhiên, những phản đối của ông đã thổi bùng lên sự bất mãn âm ỉ từ lâu trong sự đè nén.
Xảy ra cùng lúc với những biến động lại Đức là một phong trào khởi phát tại Thuỵ Sĩ dưới sự lãnh đạo của Huldreich Zwingli. Vẫn tồn tại một số bất đồng giữa hai phong trào này dù họ chia sẻ với nhau một mục tiêu chung và đồng ý với nhau về hầu hết các vấn đề liên quan.
Sau khi Giáo hoàng quyết định trục xuất Luther và lên án cuộc cải cách, các tác phẩm của John Calvin tạo nên nhiều ảnh hưởng trong việc thiết lập một sự đồng thuận tương đối giữa các nhóm cải cách khác nhau tại Thuỵ Sĩ, Scotland, Hung Gia Lợi, Đức và những nơi khác. Việc Anh giáo tách rời khỏi La Mã dưới thời trị vì của Henry VIII, khởi đầu từ năm 1529 và hoàn tất vào năm 1536, đem Vương quốc Anh đồng hành với cuộc cải cách. Dù vậy, những thay đổi tại Anh được tiến hành dè dặt hơn các nơi khác ở Âu châu và người Anh chọn con đường trung dung giữa cựu giáo và tân giáo. (Ngày nay, về thần học, nhiều người Anh vẫn xem mình là Công giáo cải cách hơn là Kháng cách). Như thế phương Tây đã vĩnh viễn bị chia cắt thành hai phần: Giáo hội Công giáo Rôma và Kháng Cách.
Về học thuật, phong trào Kháng Cách – chịu ảnh hưởng thời kỳ phục hưng và được hậu thuẫn bởi những viện đại học ở Tây Âu – thu hút giới trí thức, chính trị gia, giới chuyên môn, thương gia và thợ thủ công. Kỹ thuật in ấn đang phát triển giúp quảng bá tư tưởng Kháng Cách, cũng như trợ giúp hữu hiệu cho việc ấn hành những bản dịch Kinh Thánh sang các ngôn ngữ địa phương. Các khái niệm về sự tự do của lương tâm và quyền tự do cá nhân, nảy sinh từ thời kỳ sơ khai của phong trào Kháng Cách, được định hình và phát triển qua một thời gian dài liên tục đối kháng với thẩm quyền của Giám mục thành Rôma và hệ thống tăng lữ của Giáo hội Công giáo. Dần dà, phong trào Kháng Cách vượt qua những giới hạn truyền thống, tập chú vào các vấn đề như lương tâm cá nhân, gieo mầm cho sự phát triển của tiến trình dân chủ hóa, và cho phong trào Khai sáng (Enlightenment), xảy ra trong các thế kỷ sau.
Thần học căn bản
Có năm chữ La tinh có thể miêu tả niềm xác tín thần học của người Kháng cách, dù không phải tất cả trong số họ đều tin như vậy:
- Solus Christus (Duy Chúa Cơ Đốc): Chỉ có Chúa Cơ Đốc là đấng hoà giải giữa Thiên Chúa và con người (I Ti:2.5). Ngoài một mình Chúa Giê-xu ra, không có một ai khác có thể làm trung gian hòa giải hoặc cầu thay cho con người, kể cả Mẹ Maria, các sứ đồ và thánh đồ đã tử vì đạo.
- Sola Scriptura (Duy Thánh Kinh): Tín hữu Kháng Cách tin rằng truyền thống tông đồ chỉ có thể xuất phát từ các tông đồ là những người được chọn bởi chính Chúa Giê-xu Cơ Đốc, và như thế các truyền thống này chỉ có thể tìm thấy trong Kinh Thánh được viết bởi các tông đồ (I Côr 11.2; Ga: 1.8; II Tês: 2.15), vì vậy Thánh kinh là thẩm quyền duy nhất cho lời giáo huấn của các tông đồ. Tín đồ Kháng Cách tin rằng chỉ có Kinh Thánh là chân truyền từ các tông đồ, hợp pháp và là chuẩn mực cho đức tin. Tín hữu Kháng Cách bác bỏ đức tin Công giáo cho rằng Giám mục thành La Mã (Giáo hoàng) là Tông đồ của Chúa Giê-xu và giáo huấn của Giáo hoàng có thẩm quyền tông đồ.
- Sola Fide (Duy đức tin): Trái với giáo lý Công giáo về công đức (Giacơ:2.24: ICôr: 13.2), về sự ăn năn và phép ân xá, sự cầu nguyện và lễ cầu siêu cho người chết, công đức của các thánh và của người tử đạo và về ngục luyện tội, tín đồ Kháng Cách tin rằng mọi tín hữu đều là thầy tế lễ, được hoà giải với Thiên Chúa chỉ bởi đức tin vào Chúa Giê-xu mà thôi (Rô:3.28; Eph:2.8-9).
- Sola Gratia (Duy ân điển): Đối nghịch với giáo lý Công giáo cho rằng cả đức tin và công đức là cần thiết cho sự xưng công bình (Eph:2.8-9; Gal:5.6), các nhà cải cách tin rằng sự cứu rỗi hoàn toàn là sự ban cho từ Thiên Chúa, vận hành bởi Chúa Thánh Linh, do sự cứu chuộc của Chúa Giê-xu, chứ không bởi công đức của tín hữu (Xem Năm Tín lý Duy nhất).
- Soli Deo Gloria (Duy Chúa được tôn cao): đối nghịch với niềm tin cho rằng con người sống để khẳng định cái tôi và thể hiện chính mình cho người khác xem thấy, các nhà cải chánh cho biết Kinh Thánh khẳng định rằng mục đích sống duy nhất mà Thiên Chúa ban cho con người, đó là để sống vì Thiên Chúa và tôn cao Thiên Chúa (Côlôse 1:16; Êsai 43:6-7, 21; 2Côrinhtô 5:15).
Những phong trào ảnh hưởng đến Kháng Cách
Người ta có thể xác định được khuynh hướng thần học của một tín hữu Kháng Cách nếu biết được người ấy chịu ảnh hưởng của phong trào nào tính từ cuộc cải cách tại Đức và Phong trào Thanh giáo (Puritan) tại Anh cho đến nay.
Phong trào Giám lý
Phong trào Giám Lý (Methodist) bắt đầu vào thế kỷ 18, từ cuộc cải cách Thanh giáo tại Anh, chịu ảnh hưởng của Phong trào Sùng tín (Pietist) tại Đức, sau đó trở về Anh trong mô hình mới thông qua John Wesley và giáo hội Giám Lý cũng như các nhóm tôn giáo nhỏ khác như Quaker. Tích cực trong sống đạo, dấn thân trong công tác xã hội, sâu nhiệm trong kinh nghiệm thuộc linh là những đặc điểm của phong trào Giám Lý. Từ đây hình thành nên Phong trào Thánh khiết (holiness movement), tập chú vào trải nghiệm thánh hóa trong đời sống của tín hữu.
Phong trào Tin Lành
Phong trào Tin Lành (Evangelicalism) khởi phát từ cuối thế kỷ 18, khi các cuộc phục hưng tôn giáo bùng phát trong các giáo phái khác nhau hình thành nên phong trào này. Tín đồ Tin Lành tập chú vào kinh nghiệm qui đạo, sự sùng tín của mỗi cá nhân, nghiên cứu Kinh Thánh và vấn đề đạo đức của xã hội, bao gồm tính tiết độ, các giá trị gia đình và sự bình đẳng. Họ bác bỏ chủ nghĩa hình thức trong thờ phụng, giáo nghi và thần học.
Phong trào Ngũ Tuần
Phong trào Ngũ Tuần (Pentecostalism) khởi phát từ Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 20, bắt nguồn từ phong trào Thánh khiết. Phong trào này chú trọng vào việc tìm kiếm các ân tứ (gift) của Chúa Thánh Linh được chép trong Tân Ước. Khẳng định việc nói tiếng lạ là chứng cớ của “báp têm bởi Thánh Linh” đã trở nên đặc điểm của phong trào này. Họ cũng tập chú vào việc chữa bệnh bởi đức tin và thực hành các phép lạ. Dưới ảnh hưởng của phong trào này, nảy sinh hàng trăm giáo phái tại Hoa Kỳ. Cũng phát sinh từ đây Phong trào Ân tứ (charismatic movement).
Phong trào Tự do
Phong trào Tự do (Liberalism) nhằm giải thích Thánh Kinh theo cách mới sao cho thích hợp với nhân sinh quan đương thời, phong trào tạo nhiều ảnh hưởng trong các giáo hội truyền thống của cộng đồng Kháng cách, đặc biệt vào cuối thế kỷ 19 với Phong trào Tân phái (Modernist) và Phê bình Kinh Thánh.
Phong trào Nền tảng
Phong trào Nền tảng (Fundamentalism) nhấn mạnh đến những điểm nền tảng của thần học Kháng Cách nhằm bác bỏ các quan điểm của phong trào Tự do, đặc biệt là phương pháp phê bình Kinh Thánh. Phong trào này bộc phát vào thế kỷ 20 chủ yếu tại Hoa Kỳ và Canada trong vòng các giáo phái thuộc phong trào Tin Lành. Họ đặc biệt nhấn mạnh vào thẩm quyền và tính trọn vẹn của Kinh Thánh.
Phong trào Tin Lành Hiện đại
Phong trào Tin Lành Hiện đại (Neo-evangelicalism) bắt nguồn từ phong trào Nền tảng nhưng cố gắng làm giảm nhẹ các quan điểm cực đoan, cùng lúc bổ sung các khuynh hướng mới như hội nhập vào xã hội, dấn thân vào các công tác xã hội, phối hợp ở quy mô lớn công tác truyền bá Phúc âm, nâng cao học thuật biện giáo (apologetics).
Các giáo phái Kháng Cách
Tín hữu Kháng Cách thường thích gọi các giáo hội của họ là giáo phái (denomination), ngụ ý rằng các giáo hội, trong cách nhìn của họ, chỉ là một phần trong toàn thể Hội thánh chung.
Trái với những gì người ta thường nghĩ về các nhà cải cách, khái niệm về hội thánh phổ quát, hoặc hội thánh chung (công giáo) không hề bị bác bỏ trong cộng đồng Kháng Cách. Ngược lại, sự hiệp nhất vô hình của hội thánh chung được các nhà cải cách xem là giáo lý quan trọng trong nền thần học Kháng Cách. Những nhà cải cách như Martin Luther, John Calvin, và Ulrich Zwingly tin rằng họ đang nỗ lực cải cách hội thánh chung đang đắm chìm trong dị giáo và thối nát, bác bỏ các cáo buộc cho rằng họ đang tách khỏi hội thánh chung, và bày tỏ niềm xác tín rằng họ đang cố đem hội thánh trở lại với các giáo huấn và các giá trị của hội thánh tiên khởi. Do đó, khái niệm về sự hiệp nhất của hội thánh chung vẫn được xem là yếu tố nền tảng trong các giáo hội thuộc cộng đồng Kháng Cách.
Một trong những kết quả trực tiếp của cuộc Cải cách Tin Lành là sự hình thành các giáo hội cấp quốc gia. Song, trong quan điểm của các nhà cải cách, các giáo hội này cũng chỉ là một phần trong hội thánh chung. Như vậy, các giáo hội cải cách thuộc về hội thánh chung, lập nền trên Năm Tín lý Duy nhất, và bác bỏ thẩm quyền của Giáo hoàng.
Ít có sự khác biệt về thần học giữa các giáo phái, và các giáo phái được thành lập thường dựa trên các đặc thù về địa dư và bộ máy tổ chức, với sự tập chú đặc biệt vào sự hiệp nhất trong hội thánh vô hình – quy tụ những người được cứu bởi huyết của Chúa Giê-xu, vượt lên trên ranh giới của các tổ chức giáo hội “hữu hình” trên trần thế.
Phần lớn tín hữu Kháng Cách gia nhập vào một trong các cộng đồng Kháng Cách sau:
- Calvinist/ Cải cách/ Trưởng Lão
- Giáo hội Luther
- Baptist
- Giám Lý
- Anh giáo
- Ngũ Tuần
Nhiều phong trào đại kết ra đời trong nỗ lực liên kết và tái tổ chức các giáo hội Kháng Cách, nhưng chỉ có được những kết quả hạn chế. Hầu hết các giáo phái Kháng Cách đều đồng thuận với nhau về các giáo lý quan trọng cùng các giá trị căn cốt trong đức tin Cơ Đốc, và tôn trọng sự khác biệt trong quan điểm liên quan đến các vấn đề không quan trọng trong thần học, giáo nghi và tổ chức. Khó có được con số chính xác, nhưng ước tính hiện có khoảng “33 000 giáo phái hiện diện trên 238 quốc gia”.[3]
Có khoảng 593 triệu[4] tín hữu Kháng Cách trên toàn thế giới, bao gồm 170 triệu tại Bắc Mỹ, 140 triệu tại Phi Châu, 120 triệu tại Âu Châu, 70 triệu tại châu Mỹ La tinh, 60 triệu tại Á Châu và 10 triệu tại Úc Châu. Như vậy cộng đồng Kháng Cách chiếm khoảng 27% tổng số gần 2 tỉ[5][6] tín hữu Cơ Đốc giáo.
Truyền giáo
Suốt gần 100 năm sau cuộc Cải cách Tin Lành, do bị vướng bận vào cuộc đấu tranh sinh tồn với Giáo hội Công giáo Rôma, cộng đồng Kháng Cách không mấy quan tâm đến công cuộc truyền giáo.
Song, trong các thế kỷ tiếp theo, ngày càng có nhiều nhà truyền giáo Kháng Cách được gởi đến nhiều xứ sở trên khắp thế giới để công bố thông điệp Cơ Đốc cho các dân tộc. Tại Bắc Mỹ, trong số các nhà truyền giáo tiếp xúc với người Mỹ bản địa có Jonathan Edwards, nhà thuyết giáo nổi tiếng của cuộc Đại Thức tỉnh, từ năm 1750, ông dành phần còn lại trong đời để chuyên tâm truyền giáo cho người dân bộ lạc Housatonic, và giúp họ chống lại sự bóc lột của người da trắng.
Giáo hội Moravian
Giáo hội Moravian đặc biệt quan tâm đến công cuộc truyền giáo. Khi giáo hội chỉ quy tụ 300 tín hữu tại Herrnhut, họ đã cử người đi truyền giáo. Trong vòng 30 năm, giáo hội đã gởi hàng trăm giáo sĩ đến nhiều nơi trên thế giới như vùng Ca-ri-bê, Bắc Mỹ và Nam Mỹ, Bắc Cực, Phi châu, và vùng Viễn Đông.
Họ là giáo hội Kháng Cách đầu tiên thi hành mục vụ cho người nô lệ, cũng là những nhà truyền giáo Kháng Cách đầu tiên tìm đến những vùng đất mới để quảng bá thông điệp phúc âm. Từ năm 1732, đã có một cơ sở truyền giáo Moravian được thiết lập trên đảo St Thomas thuộc vùng Ca-ri-bê.[7]
William Carey
Tại Anh khoảng năm 1780, một người thợ đóng giày trẻ tuổi tên William Carey bắt đầu đọc một quyển sách của Jonathan Edwards viết về một mục sư đã quá cố, David Brainerd, người đã tận tụy giúp đỡ người da đỏ ở Bắc Mỹ bằng cách mở trường học và rao giảng phúc âm; Carey cũng bị thu hút bởi những chuyến du hành của James Cook khám phá quần đảo Polynesia. Từ đó, ông chú tâm đến trách nhiệm truyền giáo cho các dân tộc trên thế giới. Carey tự học tiếng Hi Lạp, Hebrew, Ý, Hà Lan, Pháp, và tìm đọc nhiều sách.
Năm 1792, Carey viết tiểu luận nổi tiếng Tra vấn về Bổn phận của Cơ Đốc nhân sử dụng mọi phương tiện để đem người khác đến với Đức tin Cơ Đốc. Không phải là một cuốn sách thần học khô khan, Carey sử dụng những dữ liệu địa lý và dân tộc học tốt nhất thời ấy để vẽ bản đồ và trình bày số lượng các dân tộc cần nghe Phúc âm, giúp khởi phát phong trào truyền giáo bùng nổ mạnh mẽ cho đến nay. Sau 34 năm hoạt động truyền giáo, năm 1834, Carey từ trần tại Serampore, Ấn Độ.
Thomas Coke
Thomas Coke, Giám mục đầu tiên của Giáo hội Giám Lý Mỹ, được gọi là “Cha đẻ công cuộc truyền giáo Giám Lý”. Sau một thời gian ở Mỹ để cùng Giám mục Francis Asbury gây dựng hội thánh còn non trẻ, Coke rời tân thế giới để hiến mình cho công cuộc truyền giáo ở Tây Ấn. Khi ở Mỹ, ông đã hoạt động tích cực để tìm kiếm sự hỗ trợ cho các cơ sở truyền giáo, đồng thời tuyển dụng thêm nhân lực.
Dù qua đời năm 1803 khi đang trên tàu đến Sri Lanka để mở cơ sở truyền giáo mới, di sản của ông để lại cho các tín hữu Giám Lý – lòng nhiệt huyết cho công cuộc truyền giáo – vẫn còn đến ngày nay.
Hudson Taylor và Hội Truyền giáo Nội địa Trung Hoa
Làn sóng truyền giáo kế tiếp, khởi phát từ đầu thập niên 1850, chủ trương tiến sâu vào nội địa, với Hudson Taylor và Hội Truyền giáo Nội địa Trung Hoa. Năm 1883, Henry Grattan Guinness thành lập Đại học Cliff để đào tạo và cung ứng giáo sĩ cho hội truyền giáo.
Taylor chủ trương hội nhập với người dân địa phương, ông mặc trang phục Trung Hoa và nói tiếng Hoa ngay cả khi ở nhà. Các tác phẩm, những bài diễn thuyết, và đời sống của Taylor là nhân tố giúp hình thành nhiều tổ chức truyền giáo, trong đó có Phong trào Sinh viên Tình nguyện (SVM). Từ năm 1850 đến 1950, phong trào này đã gởi đi gần 10 000 nhà truyền giáo, nhiều người trong số họ đã thiệt mạng do không hợp với thổ nhưỡng địa phương.
Hội nghị Truyền giáo Edinburgh 1910
Năm 1910, Hội nghị Truyền giáo Edinburgh được tổ chức ở Scotland dưới quyền chủ tọa của John Mott (khôi nguyên giải Nobel Hòa bình năm 1946), nhà lãnh đạo tích cực của SVM và là một tín hữu Giám Lý. Hội nghị xem xét tình trạng truyền bá phúc âm, phiên dịch Kinh Thánh, vận động sự hỗ trợ của hội thánh, và huấn luyện giới lãnh đạo địa phương. Hội nghị không chỉ thiết lập cơ chế hợp tác liên giáo hội cho công cuộc truyền giáo mà còn lập nền cho phong trào đại kết tôn giáo.
Hội Phiên dịch Kinh Thánh Wiclyffe
Năm 1935 chứng kiến sự ra đời của làn sóng truyền giáo khởi phát bởi hai nhà truyền giáo Cameron Townsend và Donald McGavran. Nhận thấy rằng dù đã tiếp cận nhiều khu vực địa lý khác nhau, vẫn còn nhiều nhóm dân tộc bị cô lập bởi lý do ngôn ngữ hoặc giai cấp, Cameron thành lập Hội Phiên dịch Kinh Thánh Wycliffe chuyên tâm phiên dịch Kinh Thánh ra các ngôn ngữ địa phương, còn McGavran tập chú vào nỗ lực xóa bỏ các rào cản văn hóa và giai cấp tại những xứ sở như Ấn Độ, đất nước này có 4 600 ngôn ngữ, dân chúng bị chia cắt bởi sự khác biệt trong ngôn ngữ, văn hóa, và giai cấp.
Một khía cạnh quan trọng trong chiến lược truyền giáo là chính người địa phương thiết kế phương pháp tiếp cận với đồng bào của họ. Tại châu Á, chiến lược này được khởi xướng bởi những nhân vật như Tiến sĩ G. D. James của Singapore, Mục sư Theodore Williams của Ấn Độ, và Tiến sĩ David Cho của Hàn Quốc.
Đi đôi với nỗ lực truyền tải thông điệp Cơ Đốc, các tổ chức truyền giáo thường cung ứng cho người dân địa phương các loại dịch vụ y tế và phúc lợi. Hàng ngàn trường học, trại mồ côi, và bệnh viện được thành lập bởi các cơ sở truyền giáo.
Tin Lành tại Việt Nam
Đức tin Kháng Cách được truyền bá tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 do nỗ lực của các nhà truyền giáo thuộc Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp (Christian and Missionary Aliance; C&MA). Năm 1911 thường được kể là năm đánh dấu Kháng Cách đến Việt Nam. Hội thánh Tin Lành Việt Nam (The Evangelical Church of Vietnam) cho đến nay vẫn là giáo hội Kháng Cách lâu đời nhất và có số tín hữu đông nhất tại Việt Nam. Có lẽ vì lý do này cũng như bởi vì bản thân thuật từ Tin Lành (Evangelical) thường được dùng như một từ đồng nghĩa với Kháng Cách (Protestant),[8] mà tại Việt Nam, danh xưng Tin Lành thường được dùng để thay thế cho Kháng Cách. Tin Lành hay Phúc Âm có nghĩa là tin tức tốt lành theo cách gọi của các nhà truyền giáo đầu tiên của Kháng Cách tại Việt Nam.
Theo những ước tính khác nhau, có khoảng từ 1 triệu[9] đến hơn 1,4 triệu[10][11][12] tín hữu thuộc cộng đồng Kháng Cách tại Việt Nam, phần lớn tập trung ở miền Nam. Tin Lành được xem là một trong những tôn giáo phát triển nhanh nhất trên đất nước này.[9][13]
Xem thêm
Chú thích
- ^ O’Gorman, Robert T. and Faulkner, Mary. The Complete Idiot’s Guide to Understanding Catholicism. 2003, page 317.
- ^ a ă Definition of Protestantism at the Episcopal Church website
- ^ World Christian Encyclopedia (2nd edition). David Barrett, George Kurian and Todd Johnson. New York: Oxford University Press, 2001
- ^ Protestantism by country
- ^ “between 1,250 and 1,750 million adherents, depending on the criteria employed”: McGrath, Alister E. Christianity: An Introduction. 2006, page xv1.
- ^ “1.5 thousand million Christians”: Hinnells, John R. The Routledge Companion to the Study of Religion. 2005, page 441.
- ^ Seedtime and Harvest: A Brief History of the Moravian Church in Jamaica 1754-1979, S. U. Hastings & B. L. MacLeavy, The Moravian Church Corporation, 1979.
- ^ “Introduction to Protestantism”.
The term Evangelical (from the Greek evangelion: ‘Good news’) is often used as a synonym for ‘Protestant’.
- ^ a ă “Cả nước có 1 triệu tín đồ Tin Lành”. Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- ^ Nguyễn Cao Thanh, Đạo Tin Lành ở Việt Nam từ 1975 đến nay, tư liệu và một số đánh giá ban đầu, Ban Tôn giáo Chính phủ.
Như vậy, theo ước tính ban đầu, tổng số người theo đạo Tin Lành ở Việt Nam cho đến nửa cuối thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI có khoảng 1.460.000 người đang sinh hoạt ở 6.000 chi hội và điểm nhóm. - ^ Joseph, Martin. “The Protestant Church in Vietnam (Appendix 3: Ethnic groups)”. Christian Publishing.
- ^ Trần Thanh Giang. “Đạo Tin Lành ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra hiện nay”. Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa.
…đạo Tin lành đã có cơ sở trong quần chúng ở nhiều vùng trên đất nước ta, thực tế hiện nay đã có khoảng hơn 1,2 triệu tín đồ. Đặc biệt là khoảng 10 năm trở lại đây, đạo Tin lành phát triển đột biến ở Tây Nguyên, Tây Bắc và một số vùng dân tộc thiểu số khác… - ^ Nguyễn Cao Thanh, Đạo Tin Lành ở Việt Nam từ 1975 đến nay, tư liệu và một số đánh giá ban đầu, Ban Tôn giáo Chính phủ
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Tin Lành |
Ủng hộ
- “Kinh Thánh Tin Lành Mỗi Ngày” Kinh Thánh Tin Lành Mỗi Ngày
- “Godislove.vn – Tin Lanh La Gi ?” Tin Lanh in Vietnam – Đạo Tin Lành là gì ?
- “Is Sola Scriptura a Protestant Concoction?” by Greg Bahnsen
- “Why Protestants Still Protest” by Peter J. Leithart from First Things
Phê phán
- Catholic websites on sola scriptura
- “Protestantism” from the 1917 Catholic Encyclopedia
- “Why Only Catholicism Can Make Protestantism Work” by Mark Brumley
Ảnh hưởng
- Vnchristian.com – Thư viện Tin lành tiếng Việt lớn nhất thế giới
- “Evangelism Explosion – Chứng Đạo Sâu Rộng” Ảnh Hưởng Với Người Việt Nam
- The Future of American Protestantism from Catalyst (United Methodist perspective)
- Protestantism – Christianity in View
- Hội Thanh niên Tin Lành Việt Nam tại Mỹ
- Hội Thánh Tin Lành Việt Nam tại Úc Châu
- Phát Thanh Tin Lành Hy Vọng từ Úc Châu
- Tin Lành cho người Việt
- Người Tin Lành – VietChristian
- Tin lành Việt Nam
Núi Rushmore
-
- Ban nhạc rock thập niên 1960, xem Mount Rushmore (ban nhạc)
Núi Rushmore – Khu Tưởng niệm Quốc gia | |
---|---|
IUCN Loại V (Cảnh quan đất liền/cảnh quan biển được bảo vệ) |
|
![]() (Từ trái sang phải) Tượng điêu khắc của George Washington, Thomas Jefferson, Theodore Roosevelt và Abraham Lincoln, biểu trưng cho lịch sử 130 năm đầu tiên của Hoa Kỳ.
|
|
Vị trí | Hạt Pennington, tiểu bang South Dakota, U.S. |
Thành phố gần nhất | Keystone, tiểu bang South Dakota |
Tọa độ | 43°52′44,21″B 103°27′35,37″TTọa độ: 43°52′44,21″B 103°27′35,37″T |
Diện tích | 1.278,45 mẫu Anh (5,17 km2)[Chuyển đổi: Số không hợp lệ] |
Thành lập | Ngày 3 tháng 3 năm 1925 |
Lượng khách | 14.757.971 lượt khách (năm 2010) |
Cơ quan quản lý | Trung tâm Dịch vụ Công viên Quốc gia (National Park Service) |
Núi Rushmore – Khu Tưởng niệm Quốc gia là một tác phẩm điêu khắc được tạc vào khối đá granite trên núi Rushmore, gần thành phố Keystone, tiểu bang South Dakota, Hoa Kỳ. Là tác phẩm của Gutzon Borglum và sau này là con trai ông, Lincoln Borglum, Núi Rushmore thể hiện bốn gương mặt Tổng thống Hoa Kỳ với chiều cao 60 foot (18 m), từ trái sang phải lần lượt là George Washington, Thomas Jefferson, Theodore Roosevelt và Abraham Lincoln.[1] Toàn thể khu tưởng niệm bao phủ trên diện tích 1.278,45 mẫu Anh (5,17 km2)[2] và cao 5.725 foot (1.745 m) so với mực nước biển.[3]
Người ta cho rằng nhà sử học bang South Dakota, Doane Robinson, là người đưa ra ý tưởng tạc chân dung của những người nổi tiếng tại vùng Black Hills thuộc bang South Dakota để thúc đẩy ngành du lịch trong vùng phát triển. Ban đầu Robinson muốn tạc tượng ở vùng Needles; tuy nhiên, Gutzon Borglum không đồng ý mà lại chọn vùng núi lớn hơn, núi Rushmore. Borglum cũng quyết định nên tạc tượng liên quan đến quốc gia, đồng thời chọn chân dung bốn vị tổng thống để tạc vào núi. Sau khi đảm bảo khoản ngân sách liên bang, việc xây dựng khu tưởng niệm bắt đầu vào năm 1927 và hoàn thành chân dung bốn vị tổng thống vào khoảng thời gian từ năm 1934 đến năm 1939. Khi Gutzon Borglum qua đời vào tháng 3 năm 1941, con trai của ông là Lincoln Borglum đã đảm nhiệm công việc của cha. Mặc dù ý tưởng ban đầu là tạc tượng bốn vị tổng thống từ đầu đến thắt lưng, nhưng do thiếu kinh phí nên công việc chạm khắc chấm dứt vào năm 1941.
Trung tâm Dịch vụ Công viên Quốc gia bắt đầu quản lý khu tưởng niệm vào năm 1933 khi công trình còn đang dang dở và vẫn quản lý cho đến tận hôm nay. Hàng năm tại đây thu hút khoảng 2 triệu khách đến thăm.[4]
Mục lục
Lịch sử
Ban đầu ngọn núi tên là Lakota Sioux, nghĩa là Sáu vị cha già, sau này được đổi tên theo Charles E. Rushmore, một vị luật sư lỗi lạc ở New York qua chuyến thám hiểm năm 1885.[7] Ban đầu, dự án tạc tượng ở núi Rushmore nhằm kích thích ngành du lịch tại vùng Black Hills thuộc bang South Dakota. Sau những cuộc đàm phán kéo dài giữa đoàn đại biểu Quốc hội và Tổng thống Calvin Coolidge, Quốc hội đã thông qua dự án trên. Công việc chạm khắc bắt đầu vào năm 1927 và kết thúc vào năm 1941 với vài ca chấn thương nhưng không ai tử nạn.[4]
Mang tên Sáu vị cha già, ngọn núi là một phần trong chuyến đi tôn giáo đến đỉnh Harney Peak, dẫn đầu là vị tù trưởng của bộ lạc Lakota, Black Elk. Sau một loạt chiến dịch quân sự từ năm 1876 đến năm 1877, Hoa Kỳ đã chiếm lĩnh vùng đất này mặc dù vẫn còn những tranh cãi dựa trên Hiệp ước Fort Laramie năm 1868 (xem mục “Tranh cãi” dưới đây). Với cư dân da trắng Hoa Kỳ, ngọn núi này có nhiều tên gọi như Núi Cougar, Núi Sugarloaf, Núi Slaughterhouse và Vách đá Keystone. Ngọn núi mang tên Núi Rushmore qua một chuyến thám hiểm thăm dò của Charles Rushmore, David Swanzey (chồng của Carrie Ingalls) và Bill Challis.[8]
Năm 1923, nhà sử học Doane Robinson đưa ra ý tưởng tạc tượng trên Núi Rushmore nhằm khuyến khích phát triển du lịch ở tiểu bang South Dakota. Năm 1924, Robinson thuyết phục nhà điêu khắc Gutzon Borglum đến thăm vùng Black Hills nhằm đảm bảo hoàn thành công việc điêu khắc. Borglum đã từng tham gia điêu khắc tác phẩm Đài Tưởng niệm Hiệp hội (Confederate Memorial Carving), một đài tưởng niệm chạm nổi nông (bas-relief) khổng lồ dành cho các vị lãnh đạo Hiệp hội ở vùng núi Stone Mountain thuộc bang Georgia, nhưng các quan chức của tiểu bang lại không đồng ý.[9] Kế hoạch ban đầu là sẽ tiến hành tạc tượng trên những cột đá granite tên là Needles. Tuy nhiên, Borglum nhận thấy rằng những cột đá Needles đang bị xói mòn và không thể tạc tượng trên đó. Ông đã chọn Núi Rushmore với diện tích lớn hơn và vì vách núi quay về hướng Đông Nam nên nhận được nhiều ánh sáng mặt trời nhất. Borglum, sau khi nhìn thấy Núi Rushmore, đã phát biểu như sau: “Nước Mỹ sẽ diễu hành theo đường chân trời ấy”.[10] Quốc hội cho phép bắt đầu Chiến dịch Khu tưởng niệm Quốc gia – Núi Rushmore vào ngày 3 tháng 3 năm 1925.[10] Tổng thống yêu cầu ngoài bức tượng của Washington thì cũng cần phác thảo chân dung hai vị tổng thống Đảng Cộng hòa và một vị Tổng thống Đảng Dân chủ.[11]
Từ ngày 4 tháng 10 năm 1927 đến ngày 31 tháng 10 năm 1941, Gutzon Borglum cùng 400 công nhân đã tạc những bức tượng khổng lồ, cao 60 foot (18m), thể hiện 4 vị Tổng thống Hoa Kỳ là George Washington, Thomas Jefferson, Theodore Roosevelt và Abraham Lincoln, biểu trưng cho lịch sử 130 năm đầu tiên của Hoa Kỳ. Borglum lựa chọn 4 vị tổng thống này dựa vào vai trò bảo vệ nền Cộng Hòa và mở mang bờ cõi của họ.[10][12] Ban đầu người ta dự định tạc tượng Thomas Jefferson về phía bên phải của tượng Washington, nhưng sau khi tiến hành chạm khắc, người ta thấy khối đá ấy không phù hợp nên đã phá nổ khối đá mang hình Jefferson này và tạc một bức tượng mới bên trái tượng Washington.[10]
Năm 1933, Trung tâm Dịch vụ Công viên Quốc gia đã tiến hành quản lý Núi Rushmore. Kỹ sư Julian Spotts giúp đỡ dự án bằng cách cải thiện phần cơ sở hạ tầng. Chẳng hạn như ông đã nâng cấp tàu điện để tàu lên được đỉnh Núi Rushmore nhằm giúp công nhân làm việc dễ dàng hơn. Đến ngày 4 tháng 7 năm 1934, bức tượng khuôn mặt tổng thống Washington đã hoàn thành và được khánh thành. Người ta khánh thành bức tượng tổng thống Thomas Jefferson vào năm 1936 và bức tượng tổng thống Abraham Lincoln vào ngày 17 tháng 9 năm 1937. Vào năm 1937, một dự luật được đệ trình lên Quốc hội nhằm tạc thêm tượng vị thủ lĩnh nhân quyền Susan B. Anthony, tuy nhiên Quốc hội đã bổ sung một phụ lục cho một dự luật đặc quyền, yêu cầu chỉ sử dụng ngân sách liên bang để hoàn thiện bốn bức tượng ban đầu.[13] Năm 1939, bức tượng tổng thống Theodore Roosevelt được khánh thành.
Xưởng Điêu khắc của Nhà Chạm khắc — một khu trưng bày mô hình và dụng cụ bằng nhựa độc nhất liên quan đến công trình điêu khắc — được xây dựng vào năm 1939 dưới dự chỉ đạo của Borglum. Borglum qua đời do bị tắc mạch máu vào tháng 3 năm 1941. Con trai ông, Lincoln Borglum, tiếp tục đảm nhiệm dự án này. Theo kế hoạch ban đầu, người ta sẽ tạc tượng từ đầu đến thắt lưng[14] nhưng do thiếu kinh phí nên buộc phải chấm dứt công trình. Borglum cũng dự tính dựng một tấm bảng lớn có hình dạng khu vực Louisiana Purchase với những chữ cái mạ vàng, tưởng nhớ bản Tuyên ngôn Độc lập, Hiến pháp Hoa Kỳ, khu vực Louisiana Purchase cùng những vùng đất khác, từ Alaska, Texas cho tới Khu Kênh đào Panama.[12]
Toàn bộ dự án tiêu tốn 989.992,32 USD.[15] Dự án trở nên nổi tiếng khi không có bất kỳ công nhân nào tử vong đối với một công trình tầm cỡ như vậy.[16]
Vào ngày 15 tháng 10 năm 1966, Núi Rushmore được liệt vào Danh sách Di tích Lịch sử Quốc gia. Một bài luận của sinh viên William Andrew Burkett từ bang Nebraska đã giành chiến thắng ở hạng mục đồng đội lứa tuổi đại học vào năm 1934, đồng thời được khắc trên bảng đồng tại Entablature vào năm 1973.[13] Năm 1991, Tổng thống George H. W. Bush chính thức khánh thành công trình Núi Rushmore.
Người ta xây dựng một căn phòng tại một hẻm núi phía sau nhóm tượng này, khoan vào lớp đá chỉ 70 feet (21 m), bao gồm một mái vòm với 16 bức phù điêu bằng sứ tráng men. Trên các bức phù điêu là bản Tuyên ngôn Độc lập, Hiến pháp, tiểu sử của 4 vị Tổng thống cùng với Borglum và lịch sử Hoa Kỳ. Căn phòng được xem là lối vào của công trình nằm trong kế hoạch, tên là “Tiền sảnh các Kỷ lục”; mái vòm được lắp đặt vào năm 1998.[17]
Mười năm tái phát triển công trình đã đạt đến thành tựu lớn lao nhất là việc hoàn tất các tiện ích và lối đi mở rộng cho du khách vào năm 1998, chẳng hạn như Trung tâm Đón khách, Bảo tàng Lincoln Borglum cùng với Con đường Tổng thống. Công việc bảo dưỡng khu tưởng niệm hàng năm đòi hỏi những nhà leo núi phải giám sát và bịt các vết nứt. Do ngân sách hạn hẹp nên thỉnh thoảng người ta mới cạo lớp địa y ở khu tưởng niệm. Tuy nhiên, vào ngày 8 tháng 7 năm 2005, Alfred Kärcher GmbH, một nhà sản xuất máy giặt áp suất và máy chùi rửa bằng hơi nước người Đức, đã tiến hành chùi rửa miễn phí trong nhiều tuần bằng cách phun nước áp suất cao với nhiệt độ trên 200 °F (93 °C).[18]
Tranh cãi
Núi Rushmore là chủ đề gây tranh cãi giữa những cư dân Hoa Kỳ do Mỹ đã chiếm vùng đất này từ tay bộ lạc Lakota sau cuộc Đại chiến Sioux năm 1876. Hiệp ước Fort Laramie năm 1868 đã trao quyền quản lý vô thời hạn vùng Black Hills cho bộ lạc Lakota. Các thành viên thuộc Phong trào Người da đỏ châu Mỹ đã tiến hành chiếm giữ khu tưởng niệm vào năm 1971, gọi là chiến dịch “Ngựa núi Giận dữ”. Trong số những thành viên này là những nhà hoạt động trẻ tuổi, các vị bô lão, trẻ em và con người thần Thánh Gioan Fire Lame Deer, là người đã tổ chức một nhóm cầu nguyện trên đỉnh núi. Lame Deer yêu cầu nhóm người trên phủ một tấm vải liệm tượng trưng lên khuôn mặt các vị tổng thống, cho rằng “đó vẫn sẽ là hình tượng bẩn thỉu cho đến khi hiệp ước được thực thi”.[19]
Năm 2004, người ta đã bổ nhiệm người quản lý bản địa đầu tiên cho công viên. Gerard Baker tuyên bố rằng ông sẽ mở thêm “nhiều hướng thông hiểu” và rằng bốn vị tổng thống “chỉ là một hướng với một mục tiêu mà thôi”.[20]
Khu tưởng niệm Crazy Horse Memorial sẽ được xây dựng ở một nơi khác trong vùng Black Hills để tưởng nhớ một thủ lĩnh bản địa Mỹ nổi tiếng và cũng để hưởng ứng cho Núi Rushmore. Dự kiến công trình này sẽ lớn hơn công trình Núi Rushmore và nhận được sự hỗ trợ từ các tù trưởng bộ lạc Lakota; Quỹ Crazy Horse Memorial Foundation đã từ chối lời đề nghị hỗ trợ từ quỹ liên bang. Tuy nhiên, khu tưởng niệm này cũng là một chủ đề gây tranh cãi ngay cả trong cộng đồng dân bản địa Hoa Kỳ.[21]
Khu tưởng niệm này cũng gây tranh cãi do vài người viện cớ rằng cơ bản đây là một đề tài phân biệt chủng tộc được hợp pháp hóa theo ý tưởng của niềm tin Manifest Destiny (chiếm lĩnh lục địa Bắc Mỹ). Tác phẩm được Borglum lựa chọn để chạm khắc trên núi là bốn vị tổng thống đương quyền vào thời kỳ chiếm lĩnh đất đai của dân bản địa châu Mỹ. Chính Gutzon Borglum cũng hứng thú với cuộc tranh cãi này bởi vì ông là một thành viên tích cực của tổ chức white supremacist (ủng hộ học thuyết cho rằng người da trắng là ưu việt), tên là đảng Ku Klux Klan.[9][22]
Biểu trưng
Bốn vị tổng thống này tượng trưng cho những điều khác nhau:[cần dẫn nguồn]
- Lincoln (tổng thống thứ 16) tượng trưng cho sự tự do.
- Washington (tổng thống đầu tiên) tượng trưng cho sự đấu tranh giành độc lập.
- Jefferson (tổng thống thứ 3) tượng trưng cho nền dân chủ.
- Roosevelt (tổng thống thứ 26) tượng trưng cho sự bảo vệ thiên nhiên.
Các thông số
- Xây dựng: 1941
- Cao: 60 foot (18 m)
- Nằm trong khuôn viên rộng 15,7 km²
- Độ cao so với mặt nước biển: 5.725 feet (1.745 m)
- Tọa độ:103°27′35.37″W / 43.8789472, -103.459825
- Từ xa hơn 100 km vẫn có thể nhìn rõ bốn vị tổng thống
Tham khảo
- ^ Rushmore National Memorial. ngày 6 tháng 12 năm 2005.60 SD Web Traveler, Inc. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2006.
- ^ McGeveran, William A. Jr. et al. (2004). The Word Almanac and Book of Facts 2004. New York: World Almanac Education Group, Inc. ISBN 0-88687-910-8.
- ^ Mount Rushmore, South Dakota (ngày 1 tháng 11 năm 2004). Peakbagger.com. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2006.
- ^ a ă “Mount Rushmore National Memorial Frequently Asked Questions”. National Park Service. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2009.
- ^ “Honeycombing process explained from”. nps.gov. Ngày 14 tháng 6 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2010.
- ^ “Geology Fieldnotes”. nps.gov. Ngày 4 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2010.
- ^ “”Mt”. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015. Đã định rõ hơn một tham số trong
|tiêu đề=
và|title=
(trợ giúp) - ^ Keystone Area Historical Society Keystone Characters. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2006.
- ^ a ă “”People & Events: The Carving of Stone Mountain””. American Experience. PBS. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010.
- ^ a ă â b Carving History (ngày 2 tháng 10 năm 2004). National Park Service.
- ^ Fite, Gilbert C. Mount Rushmore (May 2003). ISBN 0-9646798-5-X, the standard scholarly study.
- ^ a ă Albert Boime, “Patriarchy Fixed in Stone: Gutzon Borglum’s ‘Mount Rushmore’,” American Art, Vol. 5, No. 1/2. (Winter – Spring, 1991), pp. 142–67.
- ^ a ă American Experience “Timeline: Mount Rushmore” (2002). Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2006.
- ^ Mount Rushmore National Memorial.
- ^ Mount Rushmore National Memorial. Tourism in South Dakota. Laura R. Ahmann. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2006.
- ^ Mount Rushmore National Memorial. Outdoorplaces.com. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2006.
- ^ “Tiền sảnh các Kỷ lục”. Trang web Núi Rushmore – Khu tưởng niệm Quốc gia. Trung tâm Dịch vụ Công viên Quốc gia. Ngày 14 tháng 6 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2007.
- ^ “”For Mount Rushmore, An Overdue Face Wash””. http://www.washingtonpost.com. Ngày 11 tháng 7 năm 2005. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010.
- ^ Matthew Glass, “Producing Patriotic Inspiration at Mount Rushmore,” Journal of the American Academy of Religion, Vol. 62, No. 2. (Summer, 1994), pp. 265–283.
- ^ David Melmer (ngày 13 tháng 12 năm 2004). “”Historic changes for Mount Rushmore””. http://www.indiancountrytoday.com. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ Lame Deer, John (Fire) and Richard Erdoes. Lame Deer Seeker of Visions. Simon and Schuster, New York, New York, 1972. Paperback ISBN 0-671-55392-5
- ^ “”Gutzon Borglum, The Story of Mount Rushmore””. Ralphmag.org. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Núi Rushmore |
Lý Thần Tông
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lý Thần Tông | |
---|---|
Vua nhà Lý | |
Trị vì | 1127 – 1138 |
Tiền nhiệm | Lý Nhân Tông |
Kế nhiệm | Lý Anh Tông |
Thông tin chung | |
Thê thiếp | Lệ Thiên hoàng hậu Minh Bảo phu nhân Cảm Thánh phu nhân Nhật Phụng phu nhân Phụng Thánh phu nhân Chương Anh thứ phi |
Tên húy | Lý Dương Hoán |
Niên hiệu | Thiên Thuận (1128-1132) Thiên Chương Bảo Tự (1133-1138) |
Thụy hiệu | Quảng Nhân Sùng Hiếu Văn Bũ Hoàng đế |
Miếu hiệu | Thần Tông |
Triều đại | Nhà Lý |
Thân phụ | Sùng Hiền hầu |
Thân mẫu | Đỗ phu nhân Trần Anh phu nhân (mẹ nuôi) |
Sinh | 1116 |
Mất | 31 tháng 10, 1138 Việt Nam |
An táng | Thọ Lăng |
Tôn giáo | Phật giáo |
Lý Thần Tông (chữ Hán: 李神宗; 1116 – 1138[1]), là vị vua thứ năm của nhà Lý, trị vì từ năm 1127 đến năm 1138.
Mục lục
Thân thế
Lý Thần Tông, tên thật là Lý Dương Hoán (李陽煥), sinh vào tháng 6 năm Bính Thân (1116), là con trai của Sùng Hiền hầu – em trai của vua Lý Nhân Tông, tức là cháu gọi Nhân Tông bằng bác.
Có ý kiến cho rằng Lý Thần Tông là hậu thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư, quyển III ghi lại việc Từ Đạo Hạnh thoát xác tại chùa núi Thạch Thất năm 1116, ngay trước khi Lý Dương Hoán ra đời. Người xưa cho rằng vì Lý Nhân Tông không có con nên Từ Đạo Hạnh đầu thai làm con trai Sùng Hiền hầu để duy trì sự nghiệp của nhà Lý.
Cai trị
Tháng Giêng, ngày Giáp Ngọ, năm Kỷ Dậu (1129), Lý Thần Tông tôn cha đẻ là Sùng Hiền hầu làm Thái thượng hoàng. Đại Việt sử lược chép việc ông tôn mẹ nuôi là Thần Phi làm Thái hậu[2], còn Đại Việt sử ký toàn thư lại chép ông tôn thân mẫu Đỗ thị làm Hoàng thái hậu[3]
Ông thường tìm kiếm những con vật lạ trong thiên hạ làm sở thích. Phàm ai có hươu trắng, hươu đen hay chim sẻ trắng, rùa trắng… đều đem dâng vua cả. Lúc ấy, có Đỗ Khánh là lính ở Tả Vũ Tiệp đem dâng con cá xương và con cá công sắc vàng. (Cá xương là một loại cá biển, cũng gọi là cá hầu. Cá công cũng ở biển, còn gọi là cá chiết, trông gần giống như con cua). Ông cho đấy là điềm lành, bèn xuống chiếu cho bề tôi chúc mừng. Cáp môn sứ là Lý Phụng Ân nói rằng[3]:
- “Cá là vật nhỏ mọn mà bệ hạ đã lấy làm điềm lành, vậy nhỡ sau này có người đem tới dâng con lân con phượng thì bệ hạ sẽ làm sao?”
Bởi lời ấy, việc này mới thôi.
Tháng 8 năm 1132, quân Chân Lạp và Chiêm Thành vào cướp phá Nghệ An. Thần Tông sai quan Thái úy Dương Anh Nhị đánh thắng được quân hai nước. Sang năm 1134, hai nước phải đến tiến cống[2].
Tháng 9 năm 1136, tướng Chân Lạp là Tô Phá Lăng lại mang quân vào cướp phá Nghệ An. Thần Tông sai quan Thái phó là Lý Công Bình đi đánh bại quân Chân Lạp.
Vua Thần Tông đại xá cho các tù phạm và trả lại ruộng đất mà đã tịch thu của quân dân trước đó. Ông cũng thực hiện chính sách ngụ binh ư nông, cho binh lính thay phiên nhau cứ sáu lần một tháng được về làm ruộng. Vì thế, việc sản xuất nông nghiệp của Đại Việt phát triển[4].
Giai thoại
Tương truyền năm Thần Tông 21 tuổi (1136), bỗng nhiên mắc bệnh lạ, trên người mọc lông hổ, ngồi xổm chụp người, cuồng loạn, gầm gừ đáng sợ. Triều đình phải làm cũi vàng nhốt Vua trong đó. Khi ấy có đứa bé ở Chân Định hát rằng:
- Nước có Lý Thần Tông,
- Triều đình muôn việc thông.
- Muốn chữa bệnh thiên hạ,
- Cần được Nguyễn Minh Không.
Triều đình sai quan chỉ huy đi đón sư Nguyễn Minh Không. Đến am, sư cười bảo: “Đâu không phải là việc cứu cọp đó ư?” Quan chỉ huy hỏi: “Sao thầy sớm biết trước?” Sư bảo: “Ta đã biết việc này trước ba mươi năm”. Sư đến triều vào trong điện ngồi, lên tiếng bảo: “Bá quan đem cái đảnh dầu lại mau, trong đó để một trăm cây kim, và nấu cho sôi, đem cũi vua lại gần đó.” Sư lấy tay mò trong đảnh lấy một trăm cây kim găm vào thân vua, nói: “Quí là trời”. Tự nhiên lông, móng, răng đều rụng hết, thân vua hoàn phục như cũ. Vua tạ ơn sư một ngàn cân vàng và một ngàn khoảnh ruộng để hương hỏa cho chùa, ruộng này không có lấy thuế.
Về việc này, Đại Việt sử ký toàn thư, quyển III không nhắc đến việc hóa hổ mà chép như sau:
- [Năm 1136] Vua bệnh nặng, chữa thuốc không khỏi. Nhà sư Minh Không chữa khỏi, phong làm quốc sư. Tha thuế dịch cho vài trăm hộ [ban cho Minh Không]. (Tục truyền khi nhà sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc niệm thần chú rồi giao cho học trò là Nguyễn Chí Thành tức Minh Không, dặn rằng 20 năm sau nếu thấy quốc vương bị bệnh lạ thì đến chữa ngay, có lẽ là việc này).
Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục cũng chỉ ghi vắn tắt việc Lý Thần Tông “có tật chữa lâu không khỏi, sau nhờ nhà sư Minh Không chữa được”.
Gia quyến
Lý Thần Tông ở ngôi vua được 10 năm, băng ngày 26 tháng 9 năm Mậu Ngọ (tức 31 tháng 10 năm 1138), ở điện Vĩnh Quang, chỉ thọ 23 tuổi. Kết thúc thời vua Lý Thần Tông, nhà Lý đi vào thời kỳ suy vong.
Lý Thần Tông có 5 người con:
- Minh Đạo vương Lý Thiên Lộc (sinh năm 1132)
- Một hoàng nữ chết sớm (sinh năm 1132)
- Thái tử Lý Thiên Tộ (sinh năm 1136)
- Một hoàng tử không rõ tên (sinh năm 1137)
- Công chúa Thụy Thiên (sinh năm 1137)
Đánh giá
Xem xét trong cuộc đời và tư cách của Lý Thần Tông, có thể thấy ông là vị vua tuy có chút lòng vì cơ nghiệp nước nhà, nhưng có thể vì lên ngôi vì lúc nhỏ, nên khi lớn lên vua lại ham việc hưởng lạc, ưa điềm lành, sinh hoạt trong cung không được điều độ nên mới dẫn đến cái chết khi còn quá trẻ. Thần Tông tuy không phải là một ông vua nhu nhược hay hôn ám, nhưng cũng chưa thể gọi là tốt lắm. Điều may mắn là dưới thời ông, cơ nghiệp nhà Lý vẫn vững bền qua đến thời Lý Anh Tông, điều đó một phần vì ông thừa hưởng sự thịnh thế của thời tiên hoàng Lý Nhân Tông, một phần vì trong triều còn có người giỏi giúp rập, mà bản thân vua cũng không quá mê muội.
Xem thêm
Đọc thêm
Chú thích
- ^ Ngày tháng năm mất chép theo Đại Việt sử ký toàn thư. Đại Việt sử lược chép là mất tháng 9 năm 1137.
- ^ a ă Đại Việt sử lược, quyển 3
- ^ a ă Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 3
- ^ Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, sách đã dẫn, tr 80
Liên kết ngoài
|
Lý Quốc Sư
Lý Quốc Sư | |
---|---|
![]() |
|
Sinh | Nguyễn Chí Thành xã Gia Thắng, Gia Viễn, Ninh Bình |
Danh hiệu | Lý Quốc Sư / Lý Triều Quốc Sư / Thánh Nguyễn |
- Xem các mục từ có tên tương tự tại bài Lý Quốc Sư (định hướng)
Lý Quốc Sư (chữ Hán: 李國師; 15 tháng 10 năm 1065 – 1141) là tên gọi theo quốc tính họ Vua do nhà Lý ban cho ghép với chức danh pháp lý cao nhất của một vị thiền sư từng là dược sư, pháp sư, đại sư rồi quốc sư tên hiệu Nguyễn Minh Không (chữ Hán: 阮明空). Ông là một vị cao tăng đứng đầu tổ chức phật giáo của triều đại nhà Lý trong lịch sử, được xem là vị thiền sư sáng lập nên nhiều ngôi chùa nhất ở Việt Nam[1] và được tôn vinh là ông tổ nghề đúc đồng.
Vì có nhiều công lớn chữa bệnh cho vua và nhân dân mà ông cùng với Trần Hưng Đạo, là những nhân vật lịch sử có thật, sau này được người Việt tôn sùng là đức thánh Nguyễn, đức thánh Trần. Một số ghi chép xưa xếp ông là vị thánh trong tứ bất tử.[2] Trong truyền thuyết dân gian, Nguyễn Minh Không là một nhân vật huyền thoại, xuất hiện với nhiều tình tiết kỳ bí thậm chí hoang đường như khi tu thiền đắc đạo có thể đi mây về gió, niệm chú cho chim lạ rơi xuống đất, ngả nón làm thuyền vượt sông cả, cho cả kho đồng nước Tống vào túi đem về đúc tứ đại khí, thò tay vào vạc dầu đang sôi vớt hàng trăm chiếc kim chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông.[3] Hiện nay ở vùng châu thổ sông Hồng có rất nhiều nơi còn đền thờ ông như ở Ninh Bình, Bắc Ninh, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Thái Bình, Quảng Ninh, Hưng Yên, Bắc Giang.
Mục lục
Tiểu sử
Theo “Thiền Uyển Tập Anh”, Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không tên húy là Nguyễn Chí Thành (阮志誠) sinh tại làng Đàm Xá, phủ Tràng An (nay là làng Điền Xá, xã Gia Thắng, Gia Viễn, Ninh Bình). Theo một số tài liệu, ông còn có đạo hiệu Không Lộ, từng tu ở chùa Không Lộ (Nam Định) và được thờ ở núi Không Lộ (chùa Thầy ngày nay).
Cha của thánh Nguyễn là ông Nguyễn Sùng, quê ở làng Điềm Xá, phủ Tràng An. Mẹ ông là bà Dương Thị Mỹ, quê ở Phả Lại, phủ Từ Sơn nay làng Phả Lại, xã Đức Long, Quế Võ, Bắc Ninh (nơi giáp với phường Phả Lại, thị xã Chí Linh, Hải Dương). Vợ chồng ông Nguyễn Sùng tuy nghèo nhưng luôn chăm lo làm việc thiện. Hai ông bà sinh hạ được một người con trai khôi ngô, tuấn tú, đặt tên là Nguyễn Chí Thành.[4]
Cha mẹ mất sớm, Chí Thành làm ngư dân đánh bắt cá, sinh sống trên sông Hoàng Long.[5] Chí Thành nuôi chí lớn, đi chu du thiên hạ, lúc thì đăng sơn kích thỏ, khi thì phóng thuỷ cầu ngư.[6]
Sự nghiệp
Nguyễn Minh Không là một nhà sư tài danh lẫy lừng. Ông đã được coi là thần y khi chữa bệnh “hóa hổ” cho vua Lý Thần Tông và được ban quốc tính họ Lý, phong làm Quốc sư, được nhà vua cấp cho nhà ở, được miễn thuế má. Khi ông mất rồi được rất nhiều đền chùa thờ phụng. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: “Quốc sư Minh Không rất linh ứng. Phàm khi có tai ương hạn lụt, cầu đảo đều nghiệm cả.” Nguyễn Minh Không là hiện thân quyền lực linh thiêng của Phật giáo hưng thịnh thời Lý – là thầy thuốc tài ba bậc nhất, là ngư dân gắn bó với thôn dã Đại Việt, là thiền sư tài cao đức trọng, là bậc thánh tổ nghề đúc đồng Việt Nam.
Lập chùa, mở mang phật giáo
Nguyễn Chí Thành lớn lên sang Tây Trúc học đạo và kết nghĩa anh em với Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Giác Hải là hai vị chân sư có uy tín đương thời. Khi tu hành đắc đạo, Nguyễn Chí Thành trở về quê nhà dựng chùa Viên Quang, sau đó lại lập nhiều chùa ở vùng châu thổ sông Hồng… để tu hành, lấy vị hiệu là Không Lộ rồi Minh Không. Trong suốt cuộc đời, trên cương vị quốc sư thống lĩnh lực lượng phật giáo quốc gia, Nguyễn Minh Không đã dựng tới 500 ngôi chùa trên đất Đại Việt.[7] Nhiều ngôi chùa lớn còn tồn tại đến ngày nay như: chùa Bái Đính, chùa Cổ Lễ, chùa Non Nước, chùa Địch Lộng, chùa Quỳnh Lâm, chùa Am Tiên, chùa Trông, chùa Kim Liên, chùa Hàm Long,… Quốc sư Minh Không là vị thiền sư sáng lập nên nhiều ngôi chùa nhất ở Việt Nam.[1]
Pháp sư tài danh
Thiền sư Minh Không đồng thời là một dược sư nổi tiếng thời Lý, một trong những kỳ tích của ông được sử sách ghi lại là chữa thành công bệnh cho vua Lý Thần Tông, được phong làm quốc sư.
Tương truyền lúc còn đang học đạo, trong khi dạo chơi ở khu rừng, Từ Đạo Hạnh giả tiếng hổ dọa, Người nói: “Nếu ngươi muốn vậy, sau này chắc sẽ phải chịu quả báo như thế.” Từ Đạo Hạnh hối hận: “Xưa kia đức Thế Tôn tạo quả viên thành còn chịu báo kim sương, mã mạch, huống chi đệ sinh thời mạt pháp đâu có thể tránh được, đời sau sẽ làm quốc chủ và sẽ chịu báo này, huynh với đệ có nhân duyên bằng hữu lúc đó hãy cứu đệ.” Sau khi thiền sư Đạo Hạnh hóa, đầu thai là Dương Hoán, được Vua Nhân Tông yêu quý lập làm Hoàng Thái tử và kế vị ngai vàng tức Lý Thần Tông hoàng đế. Lên ngôi không được bao lâu, tháng 3 năm 1136 Vua Lý Thần Tông bệnh nặng, lông lá mọc khắp cơ thể, gầm thét như hổ suốt ngày, các danh y tài giỏi được triệu đến chữa bệnh nhưng không thuyên giảm. Tức thì trong dân gian, xuất hiện bài đồng dao của trẻ con rằng:
- “Bắc nam có tây đông
- Đáy bể ẩn có rồng
- Vua mắc bệnh khó chữa
- Hãy đón Nguyễn Minh Không.”.
Vua bèn sai sứ tìm gặp Sư. Khi Sư đến, Tôn túc thạc đức các phương đang ở trên điện làm phép, thấy Sư mộc mạc giản dị, có người khinh khí không đáp lễ. Sư đến, đem theo một cái đinh lớn, dài hơn 5 tấc, đóng vào cột, lên tiếng nói: “Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì trước đáng được tôn trọng, sau chữa được bệnh cho vua”.[8] Nói thế ba lần, chẳng ai dám làm. Sư lại lấy hai ngón tay trái, cầm vào thì đinh theo chúng mà ra. Mọi người đều khiếp phục. Khi gặp vua, Sư lớn tiếng nói: “Ðấng đại trượng phu, giàu sang bốn bể, há lại làm ra những điều cuồng loạn đấy ư?” Vua rất run sợ, Sư sai lấy một vạc lớn đựng nước nấu sôi tới cả trăm lần, dùng tay quậy lên khoảng bốn lần, rồi thò tay vào trong vạc dầu đang sôi sùng sục lấy ra đủ 100 cái kim châm cứu cho vua. Bệnh liền bớt ngay. Sau khi khỏi bệnh, cảm phục tài năng, Vua Lý Thần Tông phong ông là Quốc sư, tha thuế dịch cho vài trăm hộ. Trong quốc sử còn ghi rằng: “Tục truyền khi sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc niệm thần chú rồi giao lại cho Nguyễn Chí Thành tức Minh Không, dặn rằng 20 năm sau nếu thấy Quốc Vương bị bệnh lạ thì đến chữa ngay, có lẽ là việc này.” [9]
Vùng đồi núi Gia Sinh, Gia Viễn hiện còn cái tên làng Sinh Dược (làng thuốc sống) do Lý Quốc Sư dùng cây thuốc ở đây chữa bệnh. Từ các loại thảo dược này ông đã chữa bệnh nan y cho vua Lý Thần Tông và bào chế ra nhiều loại thuốc chữa bệnh cho nhân dân, ông đã truyền lại cho dân nhiều bài thuốc hay và sử dụng thuốc nam, châm cứu chữa bệnh. Đến nay vùng đồi núi Sinh Dược, Gia Sinh vẫn còn nhiều cây thuốc quý như: Bình vôi, Ngành ngạnh, Hoài sơn, Khúc Khắc, Mặt quỷ, Bòn bọt, Hà thủ ô, Hy thiêm thảo, chè vằng, Thiên niên Kiện, Bố chính sâm…
Phục hưng nghề đúc đồng
Nguyễn Minh Không được các làng nghề đúc đồng suy tôn là ông tổ của nghề đúc đồng[10] mặc dù từ thế kỷ X, Vua Đinh Tiên Hoàng đã cho đúc tiền bằng đồng đầu tiên trong lịch sử và trước đó người Việt cổ đã đúc trống đồng. Với vai trò là quốc sư triều Lý, ông tham gia gây dựng nhiều công trình phật giáo. Lý Quốc Sư là người đúc tượng phật chùa Quỳnh Lâm; đúc đỉnh đồng trên tháp Báo Thiên[11] góp phần tạo nên An Nam tứ đại khí là những báu vật nổi tiếng của nước Đại Việt thời Lý – Trần. Ông là người sưu tầm và phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa của văn minh Đông Sơn – văn minh người Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng.
Đầu năm 1118 Nguyễn Minh Không đến chùa Tống Xá (nay ở xã Yên Xá huyện Ý Yên), Nam Định, đã đi thăm các cánh đồng ở đây và thấy có một khu đất rộng, có loại đất sét tốt có thể làm khuôn đúc ở đây. Ông bèn hướng dẫn dân làng nghề đúc đồng. Từ đó cánh đồng có hố đào để lấy đất sét được gọi là cánh đồng Hố, từ thời Lê bắc thêm cầu nên gọi là cánh đồng Cầu Hố.[12] Ngày nay ở thôn Tống Xá có đền thờ ông tổ của nghề đúc đồng Việt Nam Nguyễn Minh Không.
Tôn vinh
Đức Thánh Nguyễn
Là một thiền sư giỏi về Phật pháp, giỏi cả pháp thuật, có công chữa bệnh cho vua Lý, là ông tổ của nghề đúc đồng… Nguyễn Minh Không được tôn là đức Thánh Nguyễn bên cạnh chức danh Quốc sư triều Lý. Dân gian có câu:[13]
-
-
- Đại Hữu sinh Vương
- Điềm Dương sinh Thánh.
-
Trong hai câu ca trên thì Vương ở đây chỉ Đinh Tiên Hoàng, Thánh chỉ Nguyễn Minh Không. Hai ông được sinh ra ở hai làng liền kề nhau thuộc huyện Gia Viễn, Ninh Bình.
Tại núi Dương Sơn, có chùa Lạc Khoái xã Gia Lạc (Gia Viễn, Ninh Bình) còn câu đối:
-
-
- Điềm Xá chung linh sinh Nguyễn thánh
- Hoa Lư dục tú xuất Đinh Hoàng.
-
Trong tín ngưỡng Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng có 4 vị thần trong nhóm tứ bất tử đó là Tản Viên Sơn thần, Phù Đổng Thiên vương, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh Công chúa. Tuy nhiên, thực tế các vị thánh trong tứ bất tử từng được ghi chép còn có Lý Quốc Sư.[14]
- Kiều Oánh Mậu người làng Đường Lâm là nhà học giả cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, trong lời Án sách Tiên phả dịch lục[15] có viết:
-
- “Tên các vị Tứ bất tử của nước ta, người đời Minh cho là: Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đúng là như vậy. Vì bấy giờ Tiên chúa (Liễu Hạnh) chưa giáng sinh nên người đời chưa thể lưu truyền, sách vở chưa thể ghi chép. Nay chép tiếp vào.” [16]
- Nguyễn Tông Quai ở thế kỷ XVII là người đầu tiên giải thích thuật ngữ Tứ bất tử, khi ông chú giải điều 32 trong sách Dư địa chí trong bộ Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi. Lời chú ấy như sau:
-
- “… Tản Viên Đại Vương đi từ biển lên núi, Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa bay lên không trung, Đồng tử nhà họ Chử gậy nón lên trời; Ninh Sơn (nay là Sài Sơn), Từ Đạo Hạnh in dấu vào đá để đầu thai. Ấy là An Nam Tứ bất tử vậy.[17]
Thần Khổng Lồ
Các truyền thuyết về tổ nghề đúc đồng thường cho rằng thần Khổng Lồ là tục danh nhà sư Nguyễn Minh Không, hiệu Khổng Lộ, một cao tăng đời Lý có tài biến nhỏ thành to. Ông lấy đất sét nặn thành khuôn rồi rót đồng chảy vào, chế thành những món đồ dùng như mâm, hũ đến tượng Phật. Cũng theo truyền thuyết, Quốc sư Minh Không khi tu thiền đắc đạo có thể đi mây về gió, niệm chú cho chim lạ rơi xuống đất, ngả nón làm thuyền vượt sông cả, cho cả kho đồng nước Tống vào túi đem về đúc tứ đại khí, thò tay vào vạc dầu đang sôi vớt hàng trăm chiếc kim chữa bệnh cho Vua Lý Thần Tông.[3]
Kho tàng văn hóa dân gian Ninh Bình còn lưu giữ nhiều câu chuyện truyền thuyết về thần Khổng Lồ như “Ông Khổng Lồ gánh núi”, “Ông Khổng Lồ bắt lươn”, “Núi Đó và lò nước của ông Khổng Lồ”, “Sự tích núi Kẽm Đó”, “Sự tích núi Con Mèo” gắn với hàng loạt di tích liên quan đến sư Minh Không ở đây như: núi Dương Sơn, núi Đồng Cân, núi Đầu Rau, núi Nút Đó, suối Canh Gà,[18]… Ở khu di tích phòng tuyến Tam Điệp ở Tam Điệp ngày nay có Kẽm đó – Ải Cửu Chân vốn là một dãy núi, nhìn từ xa mạch núi khép kín dần, giống như cái đó bắt cá nên có tên là Kẽm Đó hay Lỗ Đó. Phía Bắc đèo Tam Điệp, đường Thiên Lý cổ len qua một “cửa ải”, hai bên mạch núi đá vôi liên tiếp và khép kín lại, chừa một lối đi như miệng đó đơm cá khổng lồ mà truyền thuyết cho rằng thần Khổng Lồ Nguyễn Minh Không đã đơm đó bắt cá ở đó. Đây là cửa ải ngăn cách giữa hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân xưa thời thuộc Hán. Cửa ải này án ngữ con đường Thiên Lý ra Bắc vào Nam.
Sách Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược viết: “Sư Nguyễn Chí Thành quê ở Điềm Xá Gia Viễn thường câu cá tại núi Tai Mèo, rồi chèo thuyền ra cửa biển Thần Phù, để thẳng đến Tây Chân đi bán, thường gánh đá một bên cho cân với cá, đi đường đá bị rơi sư đạp viên đá ra viên đá vỡ còn dấu tại xã Liên Tỉnh xã Tương Đông“[19]
Theo truyền thuyết Khổng Minh Không, tổ nghề đúc đồng và sự tích Trâu Vàng hồ Tây thì quốc sư Minh Không còn có pháp danh khác là Khổng Lồ cũng chữa khỏi bệnh cho vua phương Bắc. Khi vua trả ơn, hỏi muốn lấy gì, ông chỉ xin một ít đồng đen cho vào tay nải. Và thế là tất cả kho đồng của vua phương Bắc đều chui vào tay nải của ông trước sự kinh ngạc của triều đình. Ông lại thả nón tu lờ làm thuyền bơi về nước Nam. Về đến Thăng Long ông đúc thành chuông. Đồng đen là mẹ vàng, nên khi thỉnh chuông này, con trâu vàng bên phương Bắc nghe tiếng mẹ, chạy vùng sang đến chỗ là hồ Tây bây giờ nó giẫm đất sụt thành hồ, và ẩn luôn dưới đó. Do vậy có tên là hồ Trâu Vàng.[20][21]
Việc thần hóa Nguyễn Minh Không thành vị thần Khổng Lồ là một mô típ độc đáo trong nền văn hoá của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước ở châu thổ sông Hồng. Thần Khổng Lồ Nguyễn Minh Không được xây dựng từ những mảnh vụn huyền thoại, được lịch sử hoá một quốc sư tài danh để trở thành một ông Khổng Lồ có yếu tố của một anh hùng văn hoá. Từ sự tích thần Khổng Lồ có thể thấy sự đan xen các lớp văn hoá, tín ngưỡng khó có thể nhận ra từng yếu tố, đâu là những mảnh vụn huyền thoại được thần thoại hoá, lịch sử hoá, tín ngưỡng thờ thần linh nông nghiệp, thần đánh cá, thờ Tổ nghề và lớp văn hoá Phật giáo để tôn vinh một quốc sư trở thành một vị Thánh bất tử.
Ông tổ nghề đúc đồng
Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không được những địa phương có nghề đúc đồng lâu đời như các làng nghề Yên Xá,[22] Tống Xá[23][24] ở Ý Yên, lễ hội chợ Viềng (Nam Định); phố nghề Ngũ Xã, phố Lò Đúc (Hà Nội) [25]; Đình làng Chè, làng Rỵ (Thiệu Hoá, Thanh Hóa)[26], các làng nghề đồng châu Mỹ, Long Thượng, Đông Mai (Hưng Yên) và Đào Viên, Điện Tiền (Bắc Ninh) đều thờ và tôn vinh ông là ông tổ đúc đồng.[27]
Một số nơi như làng nghề đúc đồng Đông Sơn, Thanh Hóa và đền thờ sư tổ nghề đồng ở số 5 phố Châu Long – Hoàn Kiếm[28] thì Tổ sư nghề đúc đồng là ông Khổng Minh Không. Trong các tài liệu lịch sử không có tên Khổng Minh Không. Dân gian đã hoà nhập Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không làm một thành Khổng Minh Không. Nhân dân những vùng này coi hai ông là tổ sư nghề đồng của Việt Nam. Đây cũng là một sự tích của Không Lộ dân gian nhập vào với Minh Không. Điều này còn tìm thấy trong văn bia chùa Keo Thái Bình, chùa Keo Nam Định và chùa La Vân (Quỳnh Phụ – Thái Bình).
Theo truyền thuyết dân gian một số vùng ở Nam Định và Thái Bình, Thánh Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không hầu như được đồng nhất với nhau trong một thánh Không Lộ[29][30][31]. Một số tư liệu, thư tịch cổ cũng cho rằng Nguyễn Minh Không, húy Chí Thành, hiệu Không Lộ và Không Lộ chỉ là tên ngôi chùa mà nhà sư Minh Không từng ở.[32] Sách “Lĩnh Nam chích quái” chép rằng “chùa Không Lộ ở làng Giao Thuỷ có nhà sư Minh Không“. Có ý kiến rằng Dương Không Lộ thực chất là tên lấy theo họ mẹ của Minh Không ghép với hiệu Không Lộ.
Một số tư liệu, thư tịch cổ và ý kiến của một số nhà nghiên cứu cho rằng Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không là người khác biệt, có tiểu sử rõ ràng, cả hai ông đã từng chữa khỏi bệnh cho vua.[33] Tuy nhiên, tài liệu quan trọng và đầy đủ như Đại Việt sử ký toàn thư lại hoàn toàn không có nhân vật Dương Không Lộ, chỉ thấy 3 đoạn ghi chép về đại sư Minh Không.[34]
Hơn nữa, Theo sách “Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược” (Phòng Địa chí – Thư viện tỉnh Nam Định chế bản) tại trang 146, trong mục chùa Keo thì: Không Lộ tên chính là Nguyễn Chí Thành người xã Điềm Xá huyện Gia Viễn cùng Nguyễn Viết Y người xã Loa Điền Hải Thanh kết bạn với nhau, Chí Thành đạo hiệu là Không Lộ, Viết Y đạo hiệu là Giác Hải, sau gặp sư Từ Đạo Hạnh người Yên Lãng cùng sang Tây Trúc học đạo đều thành.[35]
Ghi công từ hậu thế
Thờ phụng
Tên tuổi của Nguyễn Minh Không đã gắn liền với nhiều truyền thuyết hoang đường và kỳ bí. Rất nhiều nơi, đặc biệt là các chùa ở Việt Nam thờ vị quốc sư này theo kiểu “tiền phật hậu thánh“. Trong số các chùa, đền thờ quốc sư, tập trung nhiều nhất là các tỉnh Ninh Bình, Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nội, Nam Định, Thái Bình… Trong dịp lễ hội ở các đền thờ này, thường có tục bơi chải vào ngày hội, tục này chắc liên quan đến giai thoại nhà sư đi thuyền một đêm mà đến được Kinh đô.[36]
Tại quê hương Ninh Bình, Đức Thánh Nguyễn Minh Không được thờ rất nhiều nơi đặc biệt là ở vùng Gia Viễn quê hương ông ở phía bắc cố đô Hoa Lư. Ông được thờ chung với Vua Đinh Tiên Hoàng ở nhiều di tích gắn với câu ca “Đại Hữu sinh Vương, Điềm Dương sinh Thánh” và được xem như vị thần Khổng Lồ trấn trạch phía Bắc trong Hoa Lư tứ trấn. Nơi thờ tiêu biểu nhất là đền thờ đức Thánh Nguyễn trên mảnh đất sinh ra ông thuộc địa phận hai xã Gia Thắng – Gia Tiến, Gia Viễn. Xưa đây là chùa Viên Quang, sau khi ông mất nhân dân biến Viên Quang Tự thành đền thờ trấn Bắc Hoa Lư tứ trấn.[37]. Đền thờ Nguyễn Minh Không ở khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính là nơi ông đã phát hiện ra các động và biến chúng thành chùa khi đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông. Tại chùa Địch Lộng ở huyện Gia Viễn, nơi được mệnh danh là “Nam thiện đệ tam động”, tức động đẹp thứ ba của trời Nam cũng có đền thờ và tượng của ông. Khu di tích động Hoa Lư thì phối thờ tượng ông cùng với tượng vua Đinh Tiên Hoàng trong ngôi đền cổ. Lý Quốc Sư còn được thờ ở đình Ngô Đồng, xã Gia Phú, Gia Viễn; đền thờ Tô Hiến Thành và chùa Lạc Khoái ở bên sông Hoàng Long gắn với giai thoại tuổi thơ ông hay cụm di tích miếu Bồ Vi – đình Vật ở xóm 10, thôn Bồ Vi, thị trấn Yên Thịnh, Yên Mô. Ông cũng được thờ ở chùa Nhất Trụ và động Am Tiên ở cố đô Hoa Lư. Tại đền Thượng xã Khánh Phú và đền Tam Thánh ở xã Khánh An, Yên Khánh ông được suy tôn là đức thánh cả.
Ở Nam Định cũng có khá nhiều chùa thờ quốc sư Minh Không mà tiêu biểu nhất là chùa Cổ Lễ, ngôi chùa do Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không sáng lập. Đại sư Minh Không cũng được thờ ở chùa Xuân Trung xã Xuân Bắc (Xuân Trường) và xã Điền Xá (Nam Trực). Ở Ý Yên, Thánh tổ Minh Không được thờ ở đình Cổ Hương xã Yên Phương; đình Phúc Thọ xã Yên Thành và đền Tống Xá xã Yên Xá. Ông còn được phối thờ cùng Lý Thần Tông và Giác Hải tại chùa Nghĩa Xá ở xã Xuân Ninh Xuân Trường. Lễ hội chợ Viềng hàng năm gắn liền với việc thờ ông Nguyễn Minh Không, ông tổ đúc đồng, nên trước đình ông Khổng, người dân thường bày bán đồ đồng, đồ sắt.[38] chùa Keo Hành Thiện, xã Xuân Hồng cũng hòa nhập thần tích của Nguyễn Chí Thành và Dương Minh Nghiêm thành một thánh Không Lộ.
Ở Thái Bình các di tích thờ quốc sư Minh Không có nhiều ở huyện Quỳnh Phụ như: Chùa Hóa Long ở thôn Đại Nẫm, xã Quỳnh Thọ;[39] đền thờ và chùa La Vân ở xã Quỳnh Hồng; đền Soi ở thôn Đồng Mỹ xã Quỳnh Lâm; đền Lộng Khê xã An Khê. Các nơi khác thờ đại sư như đền Ngũ xã Điệp Nông, Hưng Hà; Đình, đền làng Lại Trì và chùa Am ở xã Vũ Tây, huyện Kiến Xương. Riêng khu vực Chùa Keo (Vũ Thư) thì có nhiều di tích, thần tích liên quan đến Nguyễn Minh Không.
Ở Hà Nội có đền thờ Lý Quốc Sư trên con phố mang tên Lý Quốc Sư. Chùa Quán Sứ ở phố Quán Sứ hiện là trụ sở giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng có ban thờ riêng để tôn vinh vị cao tăng này. Đền Thần Quang (Ngũ Xã) và chùa Tổ Ong ở 79 phố Lò Đúc cũng thờ ông với tư cách tổ nghề đúc đồng. Ông cũng được thờ ở chùa Thiên Vũ ở La Dương, phường Dương Nội, quận Hà Đông và đền Lạc Chính, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình. Ông cũng được phối thờ cùng Giác Hải tại khu di tích Từ Đạo Hạnh ở chùa Thầy.
Ở Hải Dương có chùa Trông (Hưng Long – Ninh Giang); Đình Cao Dương (Đình Hói) ở xã Gia Khánh và Đình Hậu Bổng (Đình Bóng) tại xã Quang Minh, Gia Lộc; chùa Neo ở xã Đại Đồng, huyện Tứ Kỳ; chùa Kính Chủ ở xã An Sinh, huyện Kim Môn là nơi thờ Nguyễn Minh Không.
Ở Quảng Ninh, Nguyễn Minh Không là sư tổ chùa Quỳnh Lâm, Đông Triều. Đình Minh Châu ở xã đảo Minh Châu, Vân Đồn cũng là nơi thờ Đức Thánh Nguyễn, được xây dựng cách đây gần 200 năm. Căn cứ vào tài liệu “Thần tích Thần sắc xã Quang Châu – Minh Châu – Tổng Vân Hải – Huyện Cẩm Phả – Tỉnh Quảng Yên”, đình Minh Châu là nơi thờ Thánh Tổ Nguyễn Minh Không, đã 2 lần được ban sắc phong năm 1887 và năm 1905.
Ở Hưng Yên, 3 trong 5 làng nghề đúc đồng tạo nên làng Ngũ Xã (Hà Nội) là châu Mỹ, Long Thượng (xã Đại Đồng) và Đông Mai (xã Chỉ Đạo) thuộc huyện Văn Lâm đều thờ ông với tư cách tổ nghề đúc đồng của các làng nghề này. Chùa Ông Khổng, thôn Công Luận 1 thị trấn Văn Giang cũng thờ đại sư Minh Không.
Ở Bắc Ninh, việc thờ Nguyễn Minh Không có tới hàng chục di tích thuộc địa bàn các huyện: thành phố Bắc Ninh, Tiên Du, Quế Võ, Lương Tài, Gia Bình xưa vốn là quê ngoại của người, tiểu biểu như chùa Phả Lại và đền Vệ Xá ở Đức Long, Quế Võ; chùa Hàm Long, thành phố Bắc Ninh và các đình làng Đào Viên, Điện Tiền thuộc xã Nguyệt Đức, huyện Thuận Thành thờ thánh Nguyễn với vai trò sư tổ của nghề đúc đồng. Hội chùa làng Cáp Điền, xã Trung Kênh, Lương Tài được mở vào hai lần 30/10 và 1/11 âm lịch để tôn vinh sư Minh Không.
Ở Bắc Giang, Lý Quốc Sư cũng được thờ ở đình Thắng xã Đức Thắng, Hiệp Hòa,… Ở Hà Nam có chùa Vân Mộng thờ Nguyễn Minh Không với lịch sử là nơi quốc sư từng trụ trì.
Ở Hòa Bình có di tích hang chùa Thượng, đình Liêu ở xã Ngọc Lương huyện Yên Thủy thờ Đức Phật tổ Nguyễn Minh Không và các vị thần có nhiều công lao với đất nước.[40]
-
Đền Lý Quốc Sư ở Hà Nội
-
Hang sáng Chùa Bái Đính
Tên đường
Tên tuổi của quốc sư Minh Không được đặt cho nhiều đường phố ở Việt Nam như đường Lý Quốc Sư ở các thành phố Nha Trang, Hà Nội, Tam Điệp, thành phố Bắc Ninh, TP HCM, Phan Thiết,… hay đường Nguyễn Minh Không ở các thành phố Ninh Bình, Đà Nẵng,… Ở thành phố Thanh Hóa có đường Minh Không còn ở thành phố Rạch Giá có tên đường Sư Minh Không.
Trong thơ ca
Sách Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược trang 127 có viết giai thoại về sư Minh Không như sau: “Sư Nguyễn Chí Thành quê ở Điềm Xá Gia Viễn thường câu cá tại núi Tai Mèo, rồi chèo thuyền ra cửa biển Thần Phù, để thẳng đến Tây Chân đi bán, thường gánh đá một bên cho cân với cá, đi đường đá bị rơi sư đạp viên đá ra viên đá vỡ còn dấu tại xã Liên Tỉnh xã Tương Đông” và trích bài thơ của sử gia Lê Tung (đời Lê Sơ) khi về thăm di tích này như sau:[41]
Nguyên bản: Bài “Kiến Liên xã thuyết đáo Nguyễn thiền sư nhân tác thi sĩ lưu vu tự bi chi hậu”:
- Miêu lĩnh thuyền hành xuất hải tần,
- Thần phù bắc hướng đáo Tây Chân,
- Bộ trình đảm thạch lưu Liên xã,
- Khứ mãi lai cư hữu toạ ngân,
- Tây Lạc thị chiền dân thượng ký,
- Quần Hàn cổ sát ấp tôn thân.
- Lý triều chư xứ phương danh tại,
- Linh khí y nhiên mục tự tân.
Dịch: (Thấy người xã Liên Tỉnh tới nơi Nguyễn thiền sư, nên làm bài thơ khắc vào mặt sau bia chùa:
- Núi Mèo ra biển cửa Thần Phù,
- Thuyền hướng Tây Chân chở lướt đi,
- Liên Tỉnh đá rơi đường chẳng mất,
- Chỗ ngồi bán cá vết như y,
- Chợ nơi Tây Lạc dân còn nhớ,
- Chùa đất Quân Hàn nghĩa vẫn ghi.
- Triều Lý các nơi di tích ấy,
- Khí thiêng nêu đậm buổi tu trì)
Liên kết ngoài
- Lý Quốc Sư – ông tổ nghề đúc đồng Việt Nam
- Thiền sư Nguyễn Minh không và một số lễ hội Phật giáo tiêu biểu ở miền Bắc, Ths.Trần mạnh Quang – Viện Nghiên cứu Tôn giáo Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 4 năm 2014.
Chú thích
- ^ a ă Đề cử hai kỷ lục về Đức Thánh Thích Minh Không
- ^ Tìm lại huy hoàng kỳ 3.3: Lý Triều Quốc Sư – vị tứ bất tử lưu dấu ấn của Phật Pháp tại nhân gian
- ^ a ă Thiền Sư Minh Không
- ^ (Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1 – Nhà xuất bảnKHXH. H, 1983 Tr 322)
- ^ Những huyền thoại ít biết về vị thiền sư nổi tiếng nhất Việt Nam
- ^ trong bài “Đức Thánh Nguyễn Minh Không” của Đỗ Danh Gia (Tạp chí Văn nghệ Ninh Bình, số 59 năm 2008)
- ^ Lý Quốc Sư – ông tổ nghề đúc đồng Việt Nam
- ^ BÁI ĐÍNH VÀ SỰ TÍCH THÁNH NGUYỄN MINH KHÔNG
- ^ LỊCH SỬ CHÙA LÝ TRIỀU QUỐC SƯ
- ^ Lý Quốc Sư – ông tổ nghề đúc đồng Việt Nam
- ^ Tháp Báo Thiên được xây dựng từ đời vua Lý Thánh Tông năm 1057. Tháp này ban đầu xây 12 tầng bằng gạch, sau này sư Minh Không làm thêm tầng 13 đỉnh tháp bằng đồng
- ^ Lã Đăng Bật, Kinh đô Hoa Lư xưa và nay, trang 241
- ^ ĐỀN THỜ ĐỨC THÁNH NGUYỄN
- ^ Những phát hiện mới nhất về Tứ bất tử Việt Nam
- ^ (AB.289, tờ 4a), in năm Canh Tuất 1910
- ^ Án: Ngã Tứ bất tử chi danh, Minh nhân dĩ Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đương chi nhiên; thử thời Tiên chúa vị giáng, cố vị cập thế nhân sở truyền, văn hiến khả trung. Kim tục chi.
- ^ “Lý Triều Quốc Sư – vị tứ bất tử lưu dấu ấn của Phật Pháp tại nhân gian”.
- ^ Xem cuối Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình của Trương Đình Tường, phần IV- Chuyện kể dân gian
- ^ Xem Sách Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược, trang 127
- ^ Hồ Trâu Vàng
- ^ Lễ đúc tượng trâu vàng bên hồ Tây
- ^ Làng đúc Yên Xá
- ^ Làng nghề 900 năm tuổi và… nỗi lo bệnh tật
- ^ Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược trang 143 ghi: Đền thờ tổ nghề rèn đúc, xã Tống Xá tổng Vũ Xá thường gọi là đền Thánh tổ, tổ tên là Nguyễn Chí Thành
- ^ Phố Lò Đúc
- ^ Sự hình thành làng xã ở đồng bằng sông Mã
- ^ Quốc sư Nguyễn Minh Không
- ^ Ông tổ nghề đúc đồng
- ^ sách Chùa Keo của Đỗ Văn Ninh, Trịnh Cao Tưởng, Ty Văn hóa Thái Bình xb 1974, Thơ văn Lý – Trần, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991
- ^ Dương Không Lộ (1016-1094
- ^ Về các lớp văn hóa trong sự tích Thánh Dương Không Lộ
- ^ Theo sách “Quốc sư bảo lục” Đức Thánh Khổng tên thật là Nguyễn Minh Không, ở xã Điền Xá, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, làm nghề chài lưới. Bản tính thông minh, thương người gặp kẻ khó hết lòng giúp đỡ, người ốm đau chữa trị. Năm 29 tuổi xuất gia tu hành, lấy đạo hiệu là Không Lộ. Năm 44 tuổi, ngài cùng thiền sư Từ Đào Hạnh và thiền sư Giác Hải đi Tây Trúc cầu Phật pháp. Không Lộ đã chính quả học được “Tâm ấn lục trí thần thông” do Đức Phật truyền dạy. Sách “Lĩnh Nam chích quái” thì lại chép chùa Không Lộ ở làng Giao Thuỷ có nhà sư Minh Không.
- ^ Tác giả Bùi Duy Lan và Phạm Đức Duật, trong công trình “Chùa Keo” của mình khẳng định: Không Lộ là đạo hiệu của một nhà sư có thật của đời nhà Lý. Không Lộ và Minh Không là hai người khác nhau. Không Lộ ở thế hệ trước cùng với Giác Hải và Từ Đạo Hạnh. Còn Minh Không ở thế hệ sau và là học trò của Từ Đạo Hạnh nhưng thực tế thì Minh Không nhiều tuổi hơn Đạo Hạnh. Nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn giữa Không Lộ và Minh Không vì sự tích hai nhà sư này có những điểm tương tự như nhau: Cả hai người để chữa bệnh chu vua nhà Lý, Không Lộ chữa bệnh sợ tiếng Tắc kè kêu của Lý Nhân Tông còn Minh Không thì chữa bệnh hoá hổ cho Lý Thần Tông. Cả hai người đều được nhà Lý phong làm quốc sư. Minh Không cũng tu ở chùa Viên Quang nơi mà Không Lộ và Giác Hải trước đó từng tu. Lê Mạnh Thát trong “Thiền Uyển tập anh ngữ lục” cũng cho rằng Không Lộ và Minh Không là 2 thiền sư ở 2 thời kỳ khác nhau, nhưng dân gian đã lấy những truyền thuyết, công trạng của Minh Không để dùng cả cho Không Lộ.
- ^ Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” phần kỷ nhà Lý, không có đoạn nào chép riêng về sự tích Dương Không Lộ, chỉ thấy có 3 đoạn đề cập đến thiền sư Minh Không mà thôi. Ví dụ “khoảng tháng 6 năm Tân Hợi, niên hiệu Thiên Thuận thứ 4 (1131) dựng nhà cho đại sư Minh Không”; hoặc có đoạn chép: “Vua bệnh nặng, chữa thuốc không khỏi. Nhà sư Minh Không chữa khỏi, phong làm Quốc sư. Tha thuế dịch cho vài trăm hộ. Khi đại sư Minh Không hoá, “Đại Việt sử ký toàn thư” có đoạn chép “mùa thu tháng 8 (13), Quốc sư Minh Không chết (sư người Đàm Xá, huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên) rất linh ứng, phàm khi có tai ương hạn, lụt, cầu đảo đều nghiệm cả, nay hai chùa Giao Thủy và Phả Lại đều tô tượng để thờ.
- ^ Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược
- ^ Minh Không
- ^ Đền thờ Đức Thánh Nguyễn
- ^ Đi “bán rủi, mua may” chợ Viềng
- ^ Hội chùa Hóa Long
- ^ Dấu ấn lễ hội Đình Liêu – Hòa Bình
- ^ [1]
Pingback: Đọc lại và suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Tình Mẹ và đức Nhẫn | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đêm thu | Khát khao xanh
Pingback: Giống khoai lang ở Việt Nam | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đọc lại và suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Biển Đông vạn dặm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lên Yên Tử sưu tầm thơ đức Nhân Tông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Sớm thu trên đồng rộng | Khát khao xanh
Pingback: Angkor nụ cười suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chuyện vỉa hè | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Im lặng mà bão giông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Myanmar đọc lại và suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ký ức CIMMYT ở Mexico | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Gowda địa chỉ xanh ICRISAT Ấn Độ | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Trường tôi và tình yêu ở lại | Tình yêu cuộc sống
Pingback: 60 năm Đại học Nông Lâm TP. HCM | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ngày mới yêu thương | Khát khao xanh
Pingback: Ơn Thầy | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lời của Thầy theo mãi bước em đi | Tình yêu cuộc sống
Pingback: CNM365 Tình yêu cuộc sống | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Công việc này trao lại cho em | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Kênh ông Kiệt giữa lòng dân | Tình yêu cuộc sống
Pingback: 24 tiết khí lịch nhà nông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Sao Kim kỳ thú | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chu Văn Tiếp ở Đồng Xuân | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bàn cờ thế sự | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Mark Twain là Lincoln văn học Mỹ | Tình yêu cuộc sống
Pingback: CNM365 Chào ngày mới 365 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Học sử: Đọc lại và suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống