CNM365. Chào ngày mới 10 tháng 11. Ngày Thổ Nhĩ Kỳ tưởng nhớ Atatürk (hình) là vị Tổng thống đầu tiên, nhà cách mạng, quốc phụ của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày này năm xưa. Năm 1038 Tây Hạ lập quốc bởi thủ lĩnh tộc Đảng Hạng là Lý Nguyên Hạo lên ngôi hoàng đế, thoát ly triều Tống. Người Đảng Hạng vốn ở Tứ Xuyên đến thời Đường thì di cư tới Thiểm Bắc. Tây Hạ với Tống và Liêu hình thành cục diện chân vạc ba nước. Tây Hạ bị Mông Cổ tiêu diệt vào năm 1227. Năm 1983, hệ điều hành Microsoft Windows dựa trên giao diện người dùng đồ họạ được phát triển và phân phối lần đầu bởi Microsoft, sau này trở thành hệ điều hành phổ biến nhất trên thế giới đến năm 2015.
10 tháng 11
Ngày 10 tháng 11 là ngày thứ 314 (315 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 51 ngày trong năm.
« Tháng 11 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 |
15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 |
22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 |
29 | 30 | |||||
Mục lục
Sự kiện
- 621 – Tùy mạt Đường sơ: Lương Đế Tiêu Tiển hạ lệnh mở cổng thành Giang Lăng đầu hành quân Đường.
- 1038 – Thủ lĩnh tộc Đảng Hạng Lý Nguyên Hạo thoát ly triều Tống, lên ngôi hoàng đế, lập quốc “Đại Hạ”, sử gọi là Tây Hạ.
- 1293 – Sau khi đẩy lui quân Nguyên, Raden Wijaya trở thành quân chủ đầu tiên của Majapahit trên đảo Java.
- 1444 – Trong Trận Varna, Thập tự quân dưới quyền Quốc vương Władysław III chiến bại trước quân Ottoman của Sultan Murad II, quốc vương Władysław III cũng tử chiến.
- 1775 – Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ bắt đầu hình thành khi Đệ nhị Quốc hội Lục địa quyết định thành lập các tiểu đoàn Thủy quân lục chiến Lục địa trong Cách mạng Mỹ.
- 1871 – Henry Morton Stanley tìm được nhà truyền giáo và nhà thám hiểm bị mất tích David Livingstone gần hồ Tanganyika thuộc Tanzania hiện nay.
- 1983 – Microsoft lần đầu phát hành hệ điều hành Windows 1.0, là phiên bản đầu tiên của dòng Microsoft Windows.
- 1989 – Nhà lãnh đạo lâu năm của Cộng hòa Nhân dân Bulgaria Todor Hristov Zhivkov từ chức do áp lực từ các thành viên cấp cao khác trong Đảng Cộng sản.
Sinh
- 1965 – Jonas Åkerlund, đạo diễn người Thụy Điển
Mất
- 1946 – Nguyễn Văn Thinh, Thủ tướng Nam Kỳ quốc tự sát.
- 1971 – Nguyễn Văn Bông, Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh bị đặc công Việt cộng ném bom ám sát ở Sài Gòn.
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về 10 tháng 11 |
Thổ Nhĩ Kỳ
Türkiye Cumhuriyeti | |||||
---|---|---|---|---|---|
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Egemenlik, kayıtsız şartsız Milletindir (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Chủ quyền vô điều kiện thuộc về Quốc gia) |
|||||
Quốc ca | |||||
İstiklâl Marşı | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa nghị viện | ||||
Tổng thống Thủ tướng |
Recep Tayyip Erdoğan | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ | ||||
Thủ đô | Ankara |
||||
Thành phố lớn nhất | Istanbul | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 780.580 km² (hạng 36) | ||||
Diện tích nước | 1,3% % | ||||
Múi giờ | EET (UTC+3); mùa hè: CEST (UTC+2) | ||||
Lịch sử | |||||
Ngày thành lập | 23 tháng 4 năm 1920 19 tháng 5 năm 1919 30 tháng 8 năm 1922 29 tháng 10 năm 1923 |
||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2012) | 79.749.461 [1] người (hạng 17) | ||||
Dân số (2000) | 67.844.903 người | ||||
Mật độ | 90 người/km² (hạng 82) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2006) | Tổng số: 611,6 tỷ đô la Mỹ | ||||
HDI (2003) | 0,750 trung bình (hạng 94) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Lira Thổ Nhĩ Kỳ mới (TL ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .tr |
Thổ Nhĩ Kỳ (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Türkiye Cumhuriyeti), quốc danh hiện tại là Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ ( ), là một nước nằm trên cả lục địa Âu-Á phần lãnh thổ chính tại bán đảo Anatolia phía Tây Nam châu Á, một phần nhỏ diện tích ở vùng Balkan phía Đông Nam châu Âu. Thổ Nhĩ Kỳ có chung biên giới với: Bulgaria ở phía tây bắc; Hy Lạp phía tây; Gruzia, Armenia và phần Nakhichevan của Azerbaijan ở phía đông bắc; Iran phía đông; Iraq và Syria phía đông nam. Ngoài ra, nước này còn có biên giới với Biển Đen ở phía bắc; Biển Aegae và Biển Marmara phía tây; Địa Trung Hải phía nam. Danh xưng “Thổ Nhĩ Kỳ” trong tiếng Việt bắt nguồn từ “土耳其”, dịch danh Trung văn của quốc hiệu Thổ Nhĩ Kỳ.
Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ là một nước cộng hoà dân chủ, theo hiến pháp phi tôn giáo. Hệ thống chính trị của họ đã được thành lập từ năm 1923. Thổ Nhĩ Kỳ là thành viên của Liên Hiệp Quốc, NATO, OSCE, OECD, OIC, Cộng đồng châu Âu và đang đàm phán đề gia nhập Liên minh châu Âu. Vì có vị trí chiến lược ở giữa châu Âu và châu Á và giữa ba biển, Thổ Nhĩ Kỳ từng là ngã tư đường giữa các trung tâm kinh tế, và là nơi phát sinh cũng như nơi xảy ra các trận chiến giữa các nền văn minh lớn.
Mục lục
Lịch sử
Bài chính: Lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ
Vì có vị trí chiến lược ở điểm giao cắt giữa châu Á và châu Âu, Anatolia từng là cái nôi của nhiều nền văn minh từ thời tiền sử, những khu định cư thời đồ đá mới như Çatalhöyük (Pottery Neolithic), Çayönü (Pre-Pottery Neolithic A cho tới Pottery Neolithic), Nevali Cori (Pre-Pottery Neolithic B), Hacilar (Pottery Neolithic), Göbekli Tepe (Pre-Pottery Neolithic A) và Mersin. Việc định cư ở Troia đã bắt đầu từ thời đồ đá mới và kéo dài tới Thời đồ sắt. Trong những bản ghi chép lịch sử, người Anatolia đã sử dụng các ngôn ngữ Ấn-Âu, Semitic và Kartvelian cũng như nhiều loại ngôn ngữ nhánh chưa được xác định chính xác khác. Trên thực tế, vì sự lâu đời của các ngôn ngữ Hittite và Luwian trong hệ Ấn-Âu, một số học giả đã cho rằng Anatolia có thể là một trung tâm, từ đó các ngôn ngữ Ấn-Âu phát triển rộng ra xung quanh. Các tác giả khác lại cho rằng người Etruscan ở Ý cổ có nguồn gốc từ Anatolia. Và những dân tộc đã định cư hay đã chinh phục Anatolia gồm người Phrygia, người Hittite, người Lydia, người Lycia, người Mushki, người Kurds, người Cimmeria, người Armenia, người Ba Tư, người Tabal, người Hy Lạp. Người Turk đã chinh phục Anatolia ở thời nhà Seljuk trong Trận Manzikert và sự trỗi dậy của Đế chế Đại Seljuk trong thế kỷ 11 chấm dứt cùng với sự lớn mạnh của Đế chế Ottoman. Trong suốt 2 thế kỷ 16 và thế kỷ 17, ở đỉnh cao quyền lực của mình, Đế chế Ottoman chiếm cả Anatolia, Bắc Phi, Trung Đông, đông nam và Đông Âu cùng Caucasus.
Tuy nhiên, từ thế kỷ XIII tới thế kỷ XX, Thổ Nhĩ Kỳ đã liên tiếp gây chiến tranh với Áo, Montenegro, Hy Lạp, Armenia, Gruzia, Pháp, Bulgaria, Serbia, Anh & đặc biệt là Nga. Các cuộc Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ đã gây thiệt hại nặng cho Thổ Nhĩ Kỳ, thậm chí họ đã nhiều lần bị Nga đè bẹp. Ngoài ra, họ còn gây ra các cuộc chiến khác trong lịch sử như Chiến tranh Hy Lạp-Thổ Nhĩ Kỳ, Chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ-Armenia, Chiến tranh Anh-Thổ Nhĩ Kỳ, v.v…
Sau nhiều năm suy tàn, Đế chế Ottoman tham gia Thế chiến thứ nhất với tư cách đồng minh của Đức năm 1914, hoàn toàn bị đánh bại và bị chiếm đóng. Các cường quốc phương Tây tìm cách chia nhỏ đế chế này thông qua Hiệp ước về Cách đối xử (xem Sự trỗi dậy của Chủ nghĩa quốc gia thời Đế chế Ottoman). Với sự hỗ trợ của Đồng Minh, Hy Lạp chiếm İzmir theo quy định trong Hiệp ước.
Ngày 19 tháng 5 năm 1919 sự kiện này đã thúc đẩy sự hình thành một phong trào quốc gia dưới sự lãnh đạo của Mustafa Kemal Pasha, một chỉ huy quân sự, người đã trở nên nổi tiếng từ Chiến dịch Gallipoli. Kemal Pasha tìm cách huỷ bỏ các điều khoản trong hiệp ước do sultan Mehmed VI đã ký tại Istanbul, hành động này đã huy động được mọi thành phần hưởng ứng trong xã hội Thổ Nhĩ Kỳ tham gia vào cái sẽ trở thành Chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Kurtuluş Savaşı).
Tới ngày 18 tháng 12 năm 1922 quân đội chiếm đóng phải rút lui và đất nước được giải phóng. Ngày 1 tháng 11 năm 1922 Đại Quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ chính thức bãi bỏ chức danh sultan Ottoman, và cũng chấm dứt luôn 631 năm cầm quyền của nhà Ottoman. Năm 1923 Hiệp ước Lausanne công nhận chủ quyền của nước Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ mới, Kemal được Quốc Hội trao tên tôn kính Atatürk (nghĩa “Cha của người Thổ”) và sẽ trở thành Tổng thống đầu tiên của nước Cộng hoà. Atatürk tiến hành nhiều cuộc cải cách sâu rộng với mục tiêu hiện đại hoá đất nước và loại bỏ những tàn tích cũ từ quá khứ Ottoman.
Thổ Nhĩ Kỳ tham gia Thế chiến thứ hai cùng với Đồng Minh ở giai đoạn cuối của cuộc chiến và trở thành một thành viên Liên Hiệp Quốc. Những khó khăn mà Hy Lạp phải đối đầu trong việc dẹp yên một cuộc nổi dậy cộng sản và yêu cầu của Liên bang Xô viết về việc thành lập các căn cứ quân sự ở Eo biển Thổ Nhĩ Kỳ khiến Hoa Kỳ phải tuyên bố Học thuyết Truman năm 1947. Học thuyết này đề ra các mục tiêu của Mỹ nhằm đảm bảo an ninh cho Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp và tiếp sau đó là viện trợ kinh tế cũng như quân sự ở mức độ lớn của Hoa Kỳ cho hai nước.
Sau khi tham gia với các lực lượng Liên Hiệp Quốc tại cuộc xung đột Triều Tiên, năm Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập Tổ chức hiệp ước bắc Đại Tây Dương (NATO). Thổ Nhĩ Kỳ can thiệp và tấn công quân sự vào Síp tháng 7 năm 1974 để trả đũa một cuộc đảo chính do EOKA-B của Hy Lạp tiến hành. Nền độc lập trên thực tế của Bắc Síp không được bất kỳ một nước nào chính thức công nhận trừ chính Thổ Nhĩ Kỳ.
Giai đoạn thập niên 1970 và 1980 được đánh dấu bởi sự bất ổn và thay đổi chính trị nhanh chóng, nhưng cũng có những giai đoạn phát triển kinh tế. Một loạt những cú sốc kinh tế dẫn tới một cuộc tuyển cử mới năm 2002, khiến Đảng Công lý và Phát triển bảo thủ do cựu thị trưởng Istanbul, Recep Tayyip Erdoğan lãnh đạo lên nắm quyền lực. Tháng 10 năm 2005, Liên minh châu Âu bắt đầu các cuộc đàm phán về việc gia nhập với Ankara và vì thế Thổ Nhĩ Kỳ hiện là một ứng cử viên gia nhập Liên minh châu Âu.
Chính trị
Thổ Nhĩ Kỳ |
![]() Chính trị và chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ |
|
|
Chính trị Thổ Nhĩ Kỳ dựa trên hệ thống cộng hoà nghị viện đại diện dân chủ phi tôn giáo, theo đó Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ là lãnh đạo chính phủ, và một hệ thống đa đảng. Quyền hành pháp thuộc về chính phủ. Quyền lập pháp thuộc cả chính phủ và Quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ. Tư pháp độc lập với hành pháp và lập pháp.
Quan hệ nước ngoài
Các mối quan hệ chính trị, kinh tế và quân sự chính của Thổ Nhĩ Kỳ là với phương Tây và Hoa Kỳ. Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang trong quá trình gia nhập Liên minh Châu Âu, và họ đã ký kết thỏa thuận liên kết với khối này từ năm 1964, cũng như Liên minh Thuế quan từ năm 1996. Một trở ngại chính ngăn cản tham vọng gia nhập EU của họ là vấn đề Síp, một thành viên của EU mà Thổ Nhĩ Kỳ không công nhận, nhưng họ lại ủng hộ “nước” Cộng hòa bắc Síp Thổ Nhĩ Kỳ trên thực tế. Ankara đã nhiều lần bị hối thúc phải mở cửa các cảng của mình và công nhận Cộng hòa Síp nếu không sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn trong đàm phán. Thổ Nhĩ Kỳ ủng hộ một thỏa thuận hòa bình năm 2004 do Liên hiệp quốc bảo trợ nhưng bị người Síp Hy Lạp phản đối, còn người Síp Thổ Nhĩ Kỳ ủng hộ, vì thế phần Síp Hy Lạp đã được trao tư cách thành viên. Chính quyền Síp Hy Lạp đe dọa dùng quyền phủ quyết của họ nếu Ankara không đáp ứng các yêu cầu của EU, dù việc này đã bị coi là một hành động khó có thể xảy ra và có thể dẫn tới việc Thổ Nhĩ Kỳ sáp nhập phần phía bắc đảo Síp với đa số dân Thổ Nhĩ Kỳ.
Thổ Nhĩ Kỳ là một đồng minh thân cận của Hoa Kỳ, ủng hộ nước này trong cuộc chiến chống khủng bố sau sự kiện 11 tháng 9. Tuy nhiên, chiến tranh Iraq đã gây ra nhiều phản ứng mạnh mẽ trong nước và vì thế nghị viện Thổ Nhĩ Kỳ đã phải bỏ phiếu chống lại việc cho phép quân đội Mỹ tấn công Iraq từ Thổ Nhĩ Kỳ. Việc này đã dẫn tới một giai đoạn lạnh nhạt trong quan hệ hai nước, nhưng lại nhanh chóng qua đi cùng với những viện trợ gián tiếp về nhân đạo quân sự và các biện pháp ngoại giao. Thổ Nhĩ Kỳ đặc biệt lo ngại về sự nổi lên của một nhà nước của người Kurd sau khi Mỹ tấn công Iraq. Thổ Nhĩ Kỳ đã tiến hành một cuộc chiến chống lại cuộc nổi dậy của PKK, một nhóm du kích người Kurd đòi thành lập một quốc gia độc lập của người Kurd, cuộc chiến đã khiến khoảng 30.000 người thiệt mạng. Vì thế Ankara đã gây áp lực với Mỹ kiểm soát chặt chẽ các trại huấn luyện du kích ở phía bắc Iraq, dù Mỹ tỏ ra khá miễn cưỡng vì ở đây vẫn yên ổn hơn miền bắc Iraq. Vì thế Thổ Nhĩ Kỳ phải cân bằng các áp lực trong nước bằng cách cam kết sát cánh với đồng minh mạnh nhất của mình.
Các quan hệ với nước Hy Lạp láng giềng vốn đã căng thẳng từ trong quá khứ, và nhiều lần đã cận kề tình trạng chiến tranh. Síp và những tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển Êgê (Aegean) vẫn là điểm bất đồng chính giữa hai nước. Síp tiếp tục bị chia thành Síp Hy Lạp phía nam và Síp Thổ Nhĩ Kỳ phía bắc, và các nỗ lực nhằm thống nhất hòn đảo này dưới sự bảo trợ của Liên hiệp quốc vẫn chưa mang lại thành công. Vùng biển Êgê, có tầm quan trọng chiến lược đối với tàu bè Thổ Nhĩ Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ đã tuyên bố rõ ràng rằng họ sẽ không chấp nhận 12 hải lý lãnh hải bao quanh hòn đảo. Dù sao những tranh chấp lịch sử giữa hai đối thủ cũng đã có phần giảm nhẹ, sau cuộc động đất có mức độ tàn phá lớn năm 1999 tại Thổ Nhĩ Kỳ, và sự giúp đỡ nhanh chóng của Hy Lạp quan hệ hai nước đã bước vào một giai đoạn ấm dần lên, với việc Hy Lạp ủng hộ tư cách ứng cử viên gia nhập EU của Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày 23 tháng 5, 2006, một máy bay chiến đấu Hy Lạp và một của Thổ Nhĩ Kỳ đã va chạm vào nhau trên bầu trời phía nam vùng biển Êgê. Viên phi công Hy Lạp thiệt mạng trong khi phi công Thổ Nhĩ Kỳ nhảy dù an toàn. Cả hai nước đã đồng ý rằng sự kiện này sẽ không làm ảnh hưởng tới mối quan hệ của họ.[2]
Quân đội
Lực lượng quân đội Thổ Nhĩ Kỳ (tiếng Thổ: Türk Silahlı Kuvvetleri hay TSK) gồm Quân đội, Hải quân (gồm Không quân Hải quân và Thủy quân lục chiến) và Không quân. Hiến binh và lực lượng Phòng vệ bờ biển hoạt động trong khuôn khổ Bộ nội vụ trong thời bình và phụ thuộc vào Quân đội cũng như Hải quân. Thời chiến cả hai đều có chức năng bảo vệ pháp luật và quân sự. Các lực lượng quân đội, với số binh lính lên tới 1.043.550[3] người, là đội quân đông thứ hai trong NATO sau Hoa Kỳ. Hiện tại, 36.000[4] quân đồn trú tại Bắc Síp được Thổ Nhĩ Kỳ công nhận. Mọi nam giới là công dân Thổ phải phục vụ trong quân đội trong những thời hạn khác nhau từ 1 đến 15 tháng tùy theo trình độ giáo dục, vị trí công việc. Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành một thành viên của NATO từ ngày 18 tháng 2, 1952.
Năm 1998, Thổ Nhĩ Kỳ đã thông báo một chương trình hiện đại hóa quân đội giá trị khoảng $31 tỷ trong giai đoạn mười năm gồm xe tăng, máy bay trực thăng và vũ khí tấn công. Thổ Nhĩ Kỳ là bên đóng góp đứng hạng ba vào chương trình Máy bay tấn công chung (JSF), khiến họ có cơ hội phát triển và có ảnh hưởng tới việc chế tạo thế hệ máy bay tấn công tiếp theo của Hoa Kỳ.
Theo truyền thống, các lực lượng vũ trang có vị thế quyền lực chính trị quan trọng, tự coi mình là người bảo vệ di sản của Atatürk. Họ đã thực hiện ba cuộc đảo chính trong giai đoạn 1960 và 1980, trong khi cũng có tác động quan trọng tới việc lật đổ chính phủ theo khuynh hướng Hồi giáo của Necmettin Erbakan năm 1997. Thông qua Hội đồng an ninh quốc gia, quân đội gây ảnh hưởng tới chính sách về các vấn đề mà họ coi là mối đe dọa tới đất nước, gồm cả vấn đề liên quan tới cuộc nổi dậy của người Kurd, và Chủ nghĩa Hồi giáo. Trong những năm gần đây, các cuộc cải cách đã được tiến hành để tăng cường sự hiện diện dân sự trong NSC và giảm bớt ảnh hưởng của giới quân sự nhằm đáp ứng tiêu chí Copenhagen của EU. Dù ảnh hưởng trong lĩnh vực dân sự đã giảm bớt, quân đội tiếp tục được quốc gia ủng hộ vai trò quan trọng của họ, thường xuyên được người dân coi là thể chế đáng tin cậy nhất.[5]
Tư lệnh Lục quân kiêm quyền Tổng tham mưu trưởng Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay là Necdet Ozel.
Địa lý
- Chủ đề chính: Địa lý Thổ Nhĩ Kỳ
Lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ trải dài từ 36° tới 42° Bắc và từ 26° tới 45° Đông ở vùng Âu Á. Nước này gần có hình chữ nhật và rộng 1.660 kilômét (1.031 dặm). Diện tích Thổ Nhĩ Kỳ không tính các hồ là 814.578 kilômét vuôngs (314.510 dặm vuông), trong đó 790.200 kilômét vuông (305.098 sq dặm) ở bán đảo Anatolia (cũng được gọi là Tiểu Á) ở Châu Á, và 3% hay 24.378 kilômét vuông (9.412 sq dặm) nằm ở Châu Âu. Nhiều nhà địa lý coi Thổ Nhĩ Kỳ theo chính trị là thuộc Châu Âu, dù đúng ra đó là một nước liên lục địa giữa Châu Á và Châu Âu. Biên giới trên bộ của Thổ Nhĩ Kỳ tổng cộng 2.573 kilômét (1.599 dặm), và đường bờ biển (gồm cả các đảo) tổng cộng 8.333 kilômét (5.178 dặm).
Nói chung Thổ Nhĩ Kỳ được chia thành bảy vùng: Marmara, Êgê, Địa Trung Hải, Trung Anatolia, Đông Anatolia, Đông nam Anatolia và vùng Biển Đen. Vùng đất không bằng phẳng phía bắc Anatolia chạy dọc theo Biển Đen thành một dải dài và hẹp. Vùng này chiếm khoảng 1/6 tổng diện tích đất liền Thổ Nhĩ Kỳ. Theo xu hướng chung, vùng cao nguyên bên trong Anatolia dần có nhiều đồi núi hơn khi đi về hướng đông.
Thổ Nhĩ Kỳ tạo thành một cây cầu giữa Châu Âu và Châu Á, với đường phân chia hai châu lục chạy từ Biển Đen (Karadeniz) từ hướng bắc xuống dọc theo eo biển Bosporus (Istanbul Boğazı) qua eo Biển Marmara (Marmara Denizi) và Dardanelles (Çanakkale Boğazı) tới Biển Êgê (Ege Denizi) và Biển Địa Trung Hải (Akdeniz) về hướng nam. Bán đảo Anatolia hay Anatolia (Anadolu) gồm một cao nguyên có độ cao lớn với những đồng bằng hẹp ven biển, nằm giữa Köroğlu và dãy núi Đông Biển Đen ở hướng bắc và Dãy Taurus (Toros Dağları) ở phía nam. Phía đông có nhiều núi non hơn, là nơi khởi nguồn của nhiều con sông như Euphrates (Fırat), Tigris (Dicle) và Araks (Aras), cũng như Hồ Van (Van Gölü) và Núi Ararat (Ağrı Dağı), điểm cao nhất Thổ Nhĩ Kỳ cao 5.137 mét (16.853 ft).
Thổ Nhĩ Kỳ cũng là nơi phải chịu nhiều trận động đất mạnh. Bospho và Dardanelles đứng trên đường nứt gãy chạy xuyên Thổ Nhĩ Kỳ, dẫn tới việc thành tạo Biển Đen. Có một đường động đất chạy ngang phía bắc đất nước từ phía tây sang phía đông. Trong thế kỷ trước, đã có nhiều trận động đất xảy ra dọc đường đứt gãy này, tầm cỡ và vị trí của những trận động đất có thể được quan sát tại hình ảnh về Các đường nứt gãy và Động đất. Hình ảnh này cũng gồm một bản đồ tỷ lệ nhỏ thể hiện các đường nứt gãy khác ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Khí hậu Thổ Nhĩ Kỳ là khí hậu ôn hoà Địa Trung Hải, với mùa hè nóng và khô, mùa đông lạnh ẩm và dịu, dù các điều kiện thời tiết có thể khắc nghiệt hơn ở những vùng khô cằn bên trong.
Khu vực hành chính
Múi giờ của Thổ Nhĩ Kỳ là (GMT-4:00)
Thổ Nhĩ Kỳ được chia thành 81 tỉnh (iller trong tiếng Thổ; số ít il). Mỗi tỉnh lại được chia thành tỉnh nhỏ (ilçeler; số ít ilçe). Tỉnh thường được đặt cùng tên với thành phố thủ phủ, cũng được gọi là các trung tâm tỉnh nhỏ; ngoại trừ Hatay (thủ phủ: Antakya), Kocaeli (thủ phủ: İzmit) và Sakarya (thủ phủ: Adapazarı). Các tỉnh lớn gồm: İstanbul 11 triệu, Ankara 4 triệu, İzmir 3.5 triệu, Bursa 2.1 triệu, Tỉnh Konya 2.2 triệu, Tỉnh Adana 1.8 triệu.
Các thành phố
Thành phố thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ là Ankara, nhưng thủ đô lịch sử là İstanbul vẫn là một trung tâm văn hoá, kinh tế và tài chính quan trọng của đất nước. Các thành phố quan trọng khác gồm İzmir, Bursa, Adana, Trabzon, Malatya, Gaziantep, Erzurum, Kayseri, İzmit (Kocaeli), Konya, Mersin, Eskişehir, Diyarbakır, Antalya và Samsun. Ước tính 68% dân số Thổ Nhĩ Kỳ sống tại các vùng thành thị.[6]
Kinh tế
Kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ là sự hòa trộn phức tạp giữa thương mại và công nghiệp hiện đại cùng với lĩnh vực nông nghiệp truyền thống trong năm 2005 vẫn chiếm tới 30% lực lượng lao động. Thổ Nhĩ Kỳ có khu vực kinh tế tư nhân mạnh và phát triển nhanh, nhưng nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng trong công nghiệp căn bản, ngân hàng, vận tải, và viễn thông.
Thổ Nhĩ Kỳ đã tiến hành nhiều cải cách trong thập niên 1980 nhằm mục đích biến nền kinh tế từ một hệ thống trì trệ, cô lập thành một nền kinh tế với lĩnh vực tư nhân chiếm phần trăm lớn hơn và dựa trên thị trường. Những cải cách đã mang lại phát triển kinh tế cao, nhưng sự tăng trưởng này đã bị ngắt quãng bởi một cuộc khủng hoảng đột ngột và các khủng hoảng tài chính năm 1994, 1999, và 2001. Việc Thổ Nhĩ Kỳ không thành công trong nỗ lực theo đuổi cách cải cách kinh tế cộng với những khoản nợ lớn ngày càng tăng của lĩnh vực công cộng khiến lạm phát tăng cao, làm tăng tính bất ổn của kinh tế vĩ mô và một lĩnh vực ngân hàng yếu kém.
GDP trên đầu người từng đạt mức rất cao 210% ở thập niên bảy mươi. Nhưng không bền vững và đã giảm mạnh xuống còn 70% trong thập niên tám mươi và ở mức đáng thất vọng 11% những năm chín mươi.
Chính phủ Ecevit, lên nắm quyền từ năm 1999 tới 2002, đã tái khởi động các cải cách cấu trúc cùng lúc với các chương trình kinh tế đang thực hiện theo thoả thuận ký kết với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), gồm cả việc thông qua cải cách an sinh xã hội, cải cách tài chính công cộng, ngân hàng nhà nước, lĩnh vực ngân hàng, tăng tính minh bạch của lĩnh vực công cộng và cũng đưa ra các luật lệ liên quan nhằm tự do hoá lĩnh vực thông tin và năng lượng. Theo chương trình của IMF, chính phủ cũng tìm cách sử dụng chính sách tỷ giá hối đoái để kiềm chế lạm phát.
Trong thập kỷ 1990, kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ trải qua một giai đoạn thay đổi chính phủ liên tục với các chính sách điều hành kinh tế kém cỏi, dẫn tới một chu trình phát triển-khủng hoảng lên tới đỉnh điểm ở cuộc khủng khoảng ngân hàng, kinh tế tồi tệ năm 2001 và một sự giảm phát kinh tế mạnh mẽ (GNP giảm 9.5% năm 2001) và thất nghiệp gia tăng.
Chính phủ buộc phải thả nổi đồng lira và đưa ra những chương trình cải cách tham vọng hơn, gồm một chính sách thuế rất chặt chẽ, thúc đẩy cải cách cơ cấu, và vay mượn IMF ở mức cao chưa từng thấy.
Các khoản vay lớn của IMF — với mục đích giúp thực hiện các cải cách kinh tế đầy tham vọng — đã cho phép Thổ Nhĩ Kỳ ổn định tỷ lệ lãi suất và tiền tệ ở mức yêu cầu khi vay nợ. Năm 2002 và 2003, các cải cách bắt đầu mang lại kết quả. Chỉ trừ một giai đoạn không ổn định trước khi xảy ra cuộc chiến Iraq, lạm phát và tỷ lệ lãi suất đã giảm rất nhiều, đồng tiền ổn định, và lòng tin bắt đầu quay trở lại. Kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức tăng trưởng bình quân 7.5% hàng năm từ 2002 tới 2005 – một trong những tỷ lệ tăng trưởng cao nhất thế giới, có thể sánh với Trung Quốc và Ấn Độ. Lạm phát và tỷ lệ lãi suất giảm, đồng tiền ổn định, nợ chính phủ giảm ở mức có thể chấp nhận được, lòng tin của giới kinh doanh và người tiêu dùng đã quay trở lại. Cùng lúc đó, sự bùng nổ kinh tế và dòng chảy đầu tư lớn đã góp phần làm tăng thâm hụt tài khoản vãng lai. Dù sự dễ bị tổn thương của kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm bớt, nó vẫn phải đối mặt với các vấn đề nếu xảy ra một sự thay đổi bất thường trong quan điểm của nhà đầu tư dẫn tới sự sụt giảm lớn về tỷ giá hối đoái. Tiếp tục thực hiện cải cách, gồm cả việc thắt chặt chính sách thuế, là việc làm chủ chốt nhằm duy trì tăng trưởng và ổn định.
Ngày 1 tháng 1 năm 2005 đồng Lira của Thổ Nhĩ Kỳ bị thay thế bằng đồng Lira Mới Thổ Nhĩ Kỳ, với tỷ giá trao đổi 1 lira mới bằng 1.000.000 lira cũ. Điều này minh chứng cho sự ổn định có được của đồng tiền trong những năm gần đây và giúp thúc đẩy trao đổi, đầu tư và thương mại.
Thổ Nhĩ Kỳ tham gia một số hiệp ước đầu tư và thuế đa bên gồm với Hoa Kỳ, đảm bảo tự do di chuyển vốn bằng ngoại tệ mạnh và hạn chế đánh thuế hai lần. Sau nhiều năm có mức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở mức thấp, năm 2005 Thổ Nhĩ Kỳ đã thu hút được $9.6 tỷ FDI và hiện đang được dự báo thu hút được mức đầu tư tương đương trong năm 2006. Những chính sách tư nhân hoá lớn, sự ổn định cần thiết cho quá trình đàm phán gia nhập EU của Thổ Nhĩ Kỳ, tăng trưởng nhanh và ổn định, thay đổi cơ câu ngân hàng, bán lẻ, viễn thông, tất cả đang góp phần vào sự tăng trưởng đầu tư nước ngoài.
Thổ Nhĩ Kỳ đang tìm cách cải thiện môi trường đầu tư thông qua việc hợp lý hoá hành chính, chấm dứt cản trở đầu tư, tăng cường pháp luật về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, một số tranh cãi liên quan tới đầu tư nước ngoài ở Thổ Nhĩ Kỳ và một số chính sách như thuế cao đánh vào các sản phẩm từ cola và những khe hở vẫn còn trong việc bảo hộ sở hữu trí tuệ, đang cản trở đầu tư. Uỷ ban tư nhân hoá Thổ Nhĩ Kỳ đang tiến hành tư nhân hoá một loạt công ty nhà nước, gồm cả công ty rượu và thuốc lá và công ty lọc dầu. Năm 2004, Uỷ ban tư nhân hoá đã tư nhân hoá công ty điện thoại và một số ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước. Chính phủ cũng cam đoan với Tổ chức thương mại thế giới về việc tự do hoá lĩnh vực viễn thông từ đầu năm 2004.
Xã hội
Nhân khẩu học
Việc sử dụng thuật ngữ “Người Thổ Nhĩ Kỳ” (tiếng Anh “Turkish” – một công dân Thổ Nhĩ Kỳ) theo quy định của hiến pháp khác biệt so với định nghĩa dân tộc (một dân tộc Thổ – ethnic Turk trong tiếng Anh). Tuy nhiên, đa số dân Thổ Nhĩ Kỳ là thuộc dân tộc Thổ. Các nhóm thiểu số dân tộc gồm, bên cạnh các nhóm được xác định chính thức, Abkhazia, Albania, Ả Rập, Bosna, Chechen, Circassia, Grizia, Kabard, Kurd, Laz và Zaza.
Chính thuật ngữ “thiểu số” cũng vẫn còn là một vấn đề nhạy cảm ở Thổ Nhĩ Kỳ, bởi vì Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ chỉ công nhận các công đồng được đề cập tới trong văn bản Hiệp ước Lausanne. Các cộng đồng thiểu số gồm Armenia,Hy Lạp, Hamshenis, Do Thái, Levant, Ossetians, Pomaks và Roma (Roma là tên gọi người Gypsy).
Cộng đồng dân tộc không phải Thổ lớn nhất là người Kurd, một nhóm dân tộc riêng biệt tập trung ở phía đông nam. Cuộc điều tra dân số năm 1965 cho thấy 7.1% dân số sử dụng tiếng Kurd làm ngôn ngữ chính và số người biết tiếng này chiếm 12.7% tổng dân số, nhưng có nhiều người Kurd nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. Theo CIA fact book [8], 20% dân số được ước tính thuộc dân tộc Kurd. Tuy nhiên, không có những con số chính xác về số lượng người Kurd.
Vì Tây Âu ngày càng có nhiều nhu cầu về lực lượng lao động trong khoảng từ 1960 đến 1980 nhiều công dân Thổ Nhĩ Kỳ đã di cư sang Tây Đức, Hà Lan, Pháp và các nước Tây Âu khác, tạo thành một lực lượng đáng kể người Thổ ở nước ngoài.
Giáo dục
Giáo dục là bắt buộc và không mất tiền từ 7 đến 15 tuổi. Có khoảng 820 viện giáo dục bậc cao gồm các trường đại học, với tổng số sinh viên khoảng hơn 1 triệu người. 15 trường đại học chính nằm ở Istanbul và Ankara. Giáo dục cấp ba (đại học và cao đẳng) thuộc trách nhiệm của Ủy ban Giáo dục Cấp cao, và được chính phủ cấp ngân sách. Từ năm 1998 các trường đại học được trao quyền tự chủ rộng lớn hơn và được khuyến khích tìm kiếm thêm ngân quỹ từ bên ngoài thông qua hoạt động hợp tác với các ngành công nghiệp.
Có khoảng 85 trường Đại học ở Thổ Nhĩ Kỳ. Có hai kiểu trường chính, trường nhà nước và tư thục. Các trường đại học nhà nước lấy học phí rất thấp còn trường tư có mức học phí rất đắt đỏ, có thể lên tới $15 000 hay thậm chí còn cao hơn. Tổng năng lực các trường đại học Thổ Nhĩ Kỳ là 300.000. Một số trường có mức tiêu chuẩn cao sánh ngang với các trường tốt nhất trên thế giới, trong khi đó những trường khác chỉ đạt mức trung bình vì thiếu ngân sách hoạt động. Tuy nhiên, các sinh viên đại học là một thiểu số được ưu tiên ở Thổ Nhĩ Kỳ. Các trường cung cấp các khóa đào tạo từ 2 đến 4 năm cho các sinh viên mới nhập trường. Đối với các sinh viên đã ra trường, thông thường họ đi học thêm hai năm nữa, theo kiểu thường thấy trên thế giới.
Ủy ban Nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật Thổ Nhĩ Kỳ điều phối các hoạt động nghiên cứu và phát triển cơ bản cũng như ứng dụng. Có 64 viện và các tổ chức nghiên cứu. Những mặt mạnh của cơ quan này là nông nghiệp, lâm nghiệp, y tế, công nghiệ sinh học, kỹ thuật hạt nhân, khoáng chất, vật liệu, IT và quốc phòng.
Văn hoá
Thổ Nhĩ Kỳ có một nền văn hóa rất đa dạng bắt nguồn từ nhiều yếu tố của Đế chế Ottoman, Châu Âu, và các truyền thống Hồi giáo. Vì Thổ Nhĩ Kỳ đã chuyển đổi thành công từ một nhà nước tôn giáo thời Đế chế Ottoman để trở thành một quốc gia hiện đại với một sự tách biệt rất rõ ràng giữa nhà nước và tôn giáo, nên sự tự do thể hiện nghệ thuật được tôn trọng rõ rệt. Trong những năm đầu của nền cộng hoà, chính phủ đã đầu tư nhiều khoản tài nguyên vào nghệ thuật, như hội hoạ, điêu khắc và kiến trúc cũng như nhiều ngành khác. Điều này được thực hiện nhờ vào cả quá trình hiện đại hóa và việc sáng tạo một bản sắc văn hóa riêng. Hiện nay kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ đã phát triển tới mức đủ đảm bảo cho sự tự do sáng tạo nghệ thuật của nghệ sĩ.
Vì nhiều yếu tố lịch sử còn đóng vai trò quan trọng trong việc xác định bản sắc Thổ Nhĩ Kỳ, văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ là một sự tổng hợp đáng chú ý giữa các nỗ lực rõ rệt nhằm trở thành “hiện đại” và tây phương Hoá, cộng với sự cảm giác cần thiết phải giữ lại truyền thống tôn giáo và các giá trị lịch sử.
Văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ | |||||
Âm nhạc | Điện ảnh | Thi ca | Văn xuôi | Ẩm thực | Văn học |
Tôn giáo
Trên danh nghĩa, 99% dân số theo Hồi giáo. Đa số thuộc phái Hồi giáo Sunni. Khoảng 15-20% dân số là người Hồi giáo Alevi. Cũng có một thiểu số Twelver Shi’a nhưng có vai trò khá quan trọng, đa phần họ là con cháu người Azeri.
1% dân số còn lại, đa số là người Ki-tô giáo. Có khoảng 120.000 tín hữu Ki-tô giáo thuộc các hệ phái khác nhau, bao gồm ước tính 80.000 người Chính thống giáo Cổ Đông phương (Oriental Orthodox), 35.000 người Công giáo La mã, 5.000 người Chính thống giáo Đông phương (Eastern Orthodox) (trong số đó có khoảng ba tới bốn ngàn là người Hy lạp) và một số nhỏ hơn các tín hữu Kháng Cách. Thượng phụ Đại kết Constantinopolis ở Istanbul là vị lãnh đạo tinh thần của các giáo hội Chính thống trên toàn thế giới
Không giống các nước có cộng đồng Hồi giáo đa số khác, ở Thổ Nhĩ Kỳ từ lâu đã có truyền thống tách biệt giữa tôn giáo và quốc gia. Thậm chí nhà nước không có bất kỳ hành động/hay khuyến khích tôn giáo, nhà nước giám sát tích cực những lĩnh vực tôn giáo. Hiến pháp cấm phân biệt giữa các tôn giáo và thực hiện điều này rất chặt chẽ. Hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ công nhận tự do tôn giáo cho các cá nhân, và các cộng đồng tôn giáo nằm dưới sự bảo vệ của nhà nước, nhưng hiến pháp cũng quy định rõ rằng tôn giáo không được can thiệp vào quá trình chính trị, ví dụ thông qua cách thành lập một đảng phái tôn giáo. Không đảng phái nào được tuyên bố rằng mình được hình thành để đại diện cho một niềm tin tôn giáo. Tuy nhiên, những sự nhạy cảm tôn giáo nói chung thường được thể hiện thông qua các đảng bảo thủ.
Trường đạo chính của Hồi giáo Sunni Hanafite phần lớn được nhà nước tổ chức thông qua Diyanet İşleri Başkanlığı (Bộ các vấn đề tôn giáo). Diyanet là cơ cấu chính của Hồi giáo được thành lập sau khi Ulama và Seyh-ul-Islam của chế độ cũ bị bãi bỏ. Vì thế, họ kiểm soát mọi thánh đường Hồi giáo và các tu sĩ. Các thầy tế được đào tạo trong Imam Hatip school và trên lý thuyết nó thuộc sở quản lý các trường đại học. Sở này ủng hộ Hồi giáo Sunni và được phép đưa ra các phán quyết (Fatwa) về các vấn đề Hồi giáo. Một số người Hồi giáo Alevi chỉ trích sở này vì không ủng hộ đức tin của họ.
Cộng đồng Do Thái có khoảng 26.000 người được lãnh đạo bởi Hahambasi, Lãnh tụ Do Thái ở Thổ Nhĩ Kỳ, tất cả đều đóng trụ sở tại Istanbul. Dân Do Thái ở Thổ Nhĩ Kỳ là một trong những cộng đồng Do Thái lớn nhất và mạnh nhất bên ngoài Israel.
Hình ảnh Thổ Nhĩ Kỳ
Xem thêm
- Thổ Nhĩ Kỳ – Danh sách chủ đề liên quan
- Lễ hội Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ
- Bảo tàng Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ
- Thông tin đại chúng Thổ Nhĩ Kỳ
- Thể thao Thổ Nhĩ Kỳ
- Ngày nghỉ Thổ Nhĩ Kỳ
- Tình trạng phi giáo hội
- Nhân quyền Thổ Nhĩ Kỳ
- Türkiye İzcilik Federasyonu
Liên kết ngoài
Tham khảo
- ^ Dân số các Quốc Gia trên Thế Giới, CIA World Factbook ước tính
- ^ BBC News Online May 23, 2006.
- ^ Economist Intelligence Unit: Turkey 2005 p.23.
- ^ Ibid.
- ^ A poll published in September 2005 in the national Hürriyet paper found the army to Turkey’s most trusted national institution. See Aydinli, Ersen, 2006. The Turkish Military’s March Toward Europe. Foreign Affairs Jan/Feb2006, Vol. 85 Issue 1, p77-90.
- ^ Globalis – an interactive world map – Turkey – Urban Population
- ^ [1]
- ^ “CIA — The World Factbook”. CIA. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2006.
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Thổ Nhĩ Kỳ |
Mustafa Kemal AtatürkBách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mục từ “Kemal” dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại Kemal (định hướng).
Mustafa Kemal Atatürk
Mustafa Kemal Atatürk (phát âm tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: [musˈtafa ceˈmal ataˈtyɾk]; (1881 – 10 tháng 11 năm 1938) là một sĩ quan quân đội, nhà cách mạng, và là quốc phụ cũng như vị Tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. Atatürk được biết đến với tài nghệ thống soái siêu việt trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất[1]. Sau khi Đế quốc Ottoman thất bại trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, ông đã lãnh đạo Phong trào Dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ đấu tranh giành lại độc lập cho đất nước. Sau khi thành lập chính phủ lâm thời tại Ankara, ông đã đánh bại lực lượng Đồng Minh. Cuộc kháng chiến này đã thành công và dẫn đến kết quả là nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ ra đời. Sau chiến tranh Atatürk đã tiến hành một công cuộc cải cách chính trị, kinh tế và văn hóa nhằm biến cựu Đế quốc Ottoman thành một nhà nước hiện đại và thế tục. Những nguyên tắc của cuộc Cải cách Atatürk, mà từ đó đất nước Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại ra đời, được biết đến với cái tên Chủ nghĩa Kemal. Mục lục
Những danh hiệuTên khai sinh của ông là Mustafa (có nghĩa là “người được lựa chọn”), sau đó mang thêm tên thứ hai Kemal (“hoàn hảo”). Cho tới khi từ chức dưới thời Đế chế Ottoman, ông được biết đến dưới tên gọi Kemal Pasha (một chức vụ cao cấp trong hệ thống chính trị, thường được trao cho Tướng quân và quan Tổng đốc, tương được với danh hiệu Lord của người Anh). Trong cuộc Chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ, ông mang thêm danh hiệu Gazi. Cho tới ngày 24 tháng 11 năm 1934, Hội đồng Quốc gia Thỗ Nhĩ Kỳ quyết định trao tặng tên Atatürk có nghĩa là “Cha già dân tộc Thổ”, vì những cống hiến lớn lao vì tổ quốc và nhân dân của ông. Thời niên thiếuAtatürk sinh năm 1881 tại thành phố Selânik thuộc Đế quốc Ottoman (nay là Thessaloniki[2], Hy Lạp). Cha ông, một thương nhân buôn gỗ, qua đời khi ông mới bảy tuổi, người mẹ phải gánh lấy trách nhiệm nuôi nấng Mustafa và em gái ông cho tới trưởng thành. Khi Mustafa mười hai tuổi ông vào học trường quân sự ở Selânik và sau đó Manastır (nay là Bitola thuộc Macedonia). Do thành tích trong học tập, trong thời gian này thầy giáo đă tặng ông cái tên thứ hai Kemal. Ông hoàn thành khóa học, ra trường với quân hàm trung úy và được thuyên chuyển đến Quân đoàn 5 đồn trú tại Dasmacus. Mustafa nhanh chóng tham gia một hội cách mạng bí mật có tên “Tổ quốc và tự do” (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Vatan ve Hürriyet). Đến năm 1907 ông đạt đến cấp đại úy và sang Quân đoàn 3 ở Manastir. Ông tích cực tham gia trong phong trào “Thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ” nhằm lật đổ Sultan nhà Ottoman là Abdul Hamid II. Sau khi Abdul Hamid II bị lật đổ, ông trở thành một nhân vật quan trọng trong quân đội. Năm 1911, ông phục vụ trong Bộ Chiến tranh ở kinh đô Constantinopolis (nay là Istanbul). Binh nghiệpMustafa Kemal Atatürk, lúc làm tư lệnh của Quân đội,(1918).
Năm 1911, chiến tranh nổ ra giữa Đế chế Ottoman và Ý nhằm giành vùng Trablusgarp (Libya ngày nay). Trong trận Tobruk (hay còn gọi trận đánh tại đồi Nadura) ngày 22 tháng 12 năm 1911, Đại úy Mustafa Kemal thống lĩnh gần 200 liên quân Thổ Nhĩ Kỳ – Lybia đã đẩy lùi cuộc tấn công của hơn 2000 lính Ý, ngăn cản ý đồ xâm chiếm hải cảng chiến lược ở phía Đông biển Địa Trung Hải này. Ông được trao quyền chỉ huy ở Derne ngày 6 tháng 3 năm 1912. Cuối cùng, quân Ý vẫn giành chiến thắng trung cuộc. Tháng 12 năm 1912, cuộc Chiến tranh Balkan lần thứ nhất nổ ra, Mustafa Kemal được điều động về Constantinopolis để nghênh chiến với quân Bulgaria ở Gallipoli và Bolyir. Mustafal Kemal đóng vai trò quan trọng trong cuộc tái chiếm cố đô Edirne và Didymoteicho trong cuộc Chiến tranh Balkan lần thứ hai. Đến năm 1913, ông được bổ nhiệm đến Sofia với sứ mệnh tùy viên quân sự, nhưng thực chất là nhằm lôi ông tránh xa những mưu đồ chính trị. Mustafa Kemal được nâng đến hàm trung tá năm 1914 khi Thế chiến thứ nhất nổ ra và nắm quyền chỉ huy Trung đoàn 19, thuộc Quân đoàn 5 bố trí ở bán đảo Dardanelles. Tư lệnh tối cao là Thống chế Otto Liman von Sanders. Khi Hội đồng Chiến tranh Anh quyết định sử dụng hạm đội liên hợp Anh–Pháp, mục đích là pháo kích và chiếm các pháo đài của Thổ Nhĩ Kỳ dọc bán đảo Gallipoli, sau đó sẽ tiến đến chiếm kinh đô Constantinopolis buộc Đế chế Ottoman phải đầu hàng và, cuối cùng, mở đường biển tiếp viện cho Nga. Khoảng 19-25 tháng 2, trong một cuộc đụng độ giữa các lực lượng trú phòng Thổ và quân trinh sát Anh, một trung sĩ 20 tuổi tên Mehmet (sau này có tên đầy đủ là Mehmet Hasanoğlu), khi súng trường của anh bị kẹt, đã lấy đá để tấn công quân địch. Mustafa Kemal lập tức nắm lấy cơ hội này và phổ biến câu truyện cho toàn quân nhằm nâng cao sĩ khí, đồng thời ra đời tên gọi “Mehmetçik” cho đến ngày nay vẫn sử dụng khi chỉ binh lính Thổ. Sau các cuộc tấn công đơn độc bằng lực lượng hải quân lần lượt thất bại, quân Đồng Minh quyết định tiến hành cuộc đổ bộ lớn nhất trong Thế chiến thứ nhất. Vị trí của Mustafa Kemal nằm ngay giữa trung tâm của cuộc tấn công, đối mặt với quân ANZACS (Australian and New Zealand Army Corps), một lực lượng không những áp đảo về số lượng và vũ trang mà còn được sự hỗ trợ của chiến thuyền từ biển. Trong đợt 1 của chiến dịch tính từ ngày 25 tháng 4 năm 1915, nhiều cuộc chiến đẫm máu diễn ra nhằm dành đỉnh Chanuk Bair được biết đến là “Cuộc đua giành cao điểm”. Đây là một trong những mục tiêu quan trọng nhất quyết định thành công hay thất bại của cả hai phe tham chiến. Đến đợt 2 bắt đầu từ ngày 6 tháng 5, do tình hình chiến sự căng thẳng, Mustafa Kemal hầu như chỉ cách chiến tuyền đầu chưa đầy 300 mét. Ông chỉ huy trong suốt cuộc đổ bộ ở vịnh Anzac, và nhiều trận đánh quan trọng khác như trận đồi Scimitar, trận Chanuk Bair, trận Sari Bair. Mustafa nói với binh sĩ:
Nhờ những chỉ đạo tài tình và cương quyết của Mustafa đã góp phần đẩy lùi đà tiến quân của lực lượng Đồng Minh và đưa cuộc chiến vào trạng thái bế tắc. Trước những thiệt hại nặng nề và nhu cầu quân lực ở Mặt trận phía Tây, quân Đồng Minh buộc phải rút quân. Trận Gallipoli không những là một trong những giây phút anh dũng và quả cảm nhất trong lịch sử của người Thổ mà còn đem lại niềm tin và hy vọng cho quốc gia này đang trong thời điểm lụi tàn: một chiến thắng vang dội sau chuỗi những thất bại. Đó là “cú thở gắt cuối cùng” của Đế chế Ottoman. Đối với Mustafa Kemal, tuy chưa nổi tiếng trong nước song đã được cả đồng nghiệp lẫn kẻ địch công nhận là một trong những tướng lĩnh tuyến đầu xuất sắc nhất. Nhiều sử gia cho rằng Enver Pasha đã cố ý trỳ hoãn việc nâng hàm cho Mustafa Kemal, lúc này đã là đại tá. Dù sao, khi được thuyên chuyển đến Mặt trận Caucasus năm 1916 để nắm quyền chỉ huy Quân đoàn 2, Mustafa Kemal đã được thăng lên hàm thiếu tướng. Tình hình ở đây khác hẳn Gallipoli, khi binh lính Thổ hăng hái chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Người Armenia, chiếm đại đa số trong khu vực muốn thành lập quốc gia riêng của mình, chán ghét chính quyền Ottoman và chuyển sang hỗ trợ cho quân Nga. Đường tiếp tế liên tục bị tấn công, cộng với hàng trăm ngàn dân tản cư thuộc sắc tộc Kurd, vốn có mâu thuẫn sâu sắc với người Armenia. Mặc dầu vậy, Mustafa Kemal nhanh chóng vực dậy tinh thần quân sĩ và không cho quân Nga lấn sâu hơn. Ông tập trung thời gian đi thăm nom các thương bệnh binh và giúp đỡ dân tị nạn, cải thiện đời sống của nhân dân. Do những nỗ lực và cống hiến trên, Mustafa Kemal được trao tặng huân chương Kiếm Vàng Imtiyaz. Không lâu sau Mustafa Kemal lại được thuyên chuyển xuống lãnh đạo Quân đoàn 7 trong chiến dịch Palestine. Ông đụng độ với kẻ thù cũ là quân đội Anh của tướng Edmund Allenby (với lực lượng nòng cốt là các đơn vị của Ai Cập, Ấn Độ và ANZACS), và lại dưới quyền chỉ huy của Thống chế Đức Otto Liman von Sanders. Ông tích cực nghiên cứu bản đồ chiến sự và thị sát các mặt trận và nắm rõ thực lực địch-ta. Tại Syria không hề có sự hiện diện của thống đốc hay chính phụ dân sự. Khắp nơi, gián điệp ngầm của Anh cài vào do thám và tiến hành tuyên truyền ly khai, tổ chức Cuộc khởi nghĩa của dân Ả Rập. Dân chúng nói chung không còn thiết tha gì ngoại trừ chờ trực quân Anh đến càng sớm càng tốt. Khi Mustafa Kemal rút lui đến Jordan tổng số quân đào ngũ đã xấp xỉ 300000. Ông bày tỏ sự thất vọng trước sự yếu kém về khâu lãnh đạo trong một bức điện tín cho Sultan Ottoman:
Khi cuộc chiến tranh đã đi dần đến hồi kết thúc, Mustafa Kemal chuyển từ chiến đấu chống quân Đồng Minh sang chống lại sự tan rã của đế chế. Trước tình thế chiến trường và chính trị bất lợi cho phía Đế chế Ottoman, Mustafa Kemal vẫn cương quyết chiến đấu, vừa đánh vừa rút nhằm bảo toàn những gì còn lại ở phía nam của đế chế. Chính đường biên giới được hoạch định sau đó còn được giữ gìn đến ngày nay cho Thỗ Nhĩ Kỳ có nhiều đóng góp của ông. Sự tan rã của Đế quốc Ottoman, 1918Ngày 30 tháng 10 năm 1918 Hiệp định đình chiến Mudros được ký kết với phe Đồng Minh, dẫn đến sự hình thành của các quốc gia Ả Rập ngày nay: Syria, Liban, Iraq, Kuwait, Jordan và Thổ Nhĩ Kỳ. Nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ khát khao thành lập quốc gia của riêng mình càng nhanh càng tốt. Nhưng theo hiệp ước thì các lực lượng vũ trang của Thổ buộc phải giải giáp và chịu sự chiếm đóng của quân Đồng Minh. Mustafa Kemal trở về kinh đô Istanbul vào ngày 13 tháng 11 năm 1918 và được trao vị trí trong Bộ Chiến tranh. Liên quân các nước Anh, Ý, Pháp và Hy Lạp bắt đầu chiếm đóng Tiểu Á với ý đồ chỉ để một phần của trung tâm Tiểu Á lại cho người Thổ Nhĩ Kỳ. Hành động này lập tức được đáp trả bằng các phong trào dân tộc của nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ, kết quả là cuộc chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ, hay còn được biết đến “sự tái sinh của nước Thổ”. Cuộc chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ KỳTrái với ước nguyện của nhân dân Thổ là được bảo toàn trọn vẹn lãnh thổ của mình, các nhà lãnh đạo phe Đồng Minh đã bí mật chia chác quyền lợi trên thất bại của Đế chế Ottoman trong Hiệp định Paris, dựa trên các điều khoản bí mật ký kết năm 1915–1917. Đó là một Đế quốc Hy Lạp mới (Megalic Idea), dựa trên ý tưởng mở rộng một quốc gia mới bao gồm tất cả các nhóm dân Hy Lạp và được sự chấp thuận của Thủ tướng Anh là Lyoud George. Ý sẽ chiếm vùng giáp biển Địa Trung Hải mà họ đã được hứa hẹn ở Hiệp định St-Jean-de-Maurienne. Pháp theo Hiệp định Sykes-Picot, chờ đợi Hatay, Liban và Syria còn thèm muốn một phần miền Tây-Nam nữa của Tiểu Á. Anh đã có sẵn phần của họ ở Ả Rập, Palestine, Jordan và Iraq cũng nhắm tới quyền kiểm soát eo biển Thổ Nhĩ Kỳ. Giai đoạn tổ chức ban đầu 1919-20Thay vì giải giáp các lực lượng vũ trang chính quy và các tổ chức dân tộc, Mustafa Kemal quay sang liên lạc với những nhà lãnh đạo địa phương và kêu gọi cho các thống đốc và sỹ quan chỉ huy tiến hành kháng chiến chống lại quân chiếm đóng. Ngày 22 tháng 6 năm 1919, cùng với các nhà ái quốc khác như Rauf Orbay, Refet Bele và Ali Fuat Cebesoy, Mustafa Kemal ra thông cáo Amasya tuyên bố sự độc lập của Thổ Nhĩ Kỳ đang trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” do triều đình Ottoman chịu sự lệ thuộc vào ngoại quốc nên người dân Thổ phải tự thành lập ra một nhà nước của mình. Người Anh đã được báo động và e ngại các hoạt động của Mustafal Kemal và lập tức liên lạc với triều đình Ottoman. Họ hạ lệnh bắt giữ và kết án tử ông với lý do bất chấp mệnh lệnh. Ngày 9 tháng 7, Mustafa Kemal từ chức và tham gia Hội nghị Erzurum, tụ họp các nhà cách mạng Thổ. Tại đây, ông được trao tặng danh hiệu “Công dân danh dự” với giấy đăng ký công dân hạng nhất. Mustafa Kemal trở thành người đại diện cho thành phố cửa ngõ của dân nhập cư vào Tây Tiểu Á này. Ông lập tức kêu gọi bỏ phiếu toàn quốc để lập ra một nghị viện mới đặt tại Ankara, trên cương vị là người phát ngôn của đại hội Silvas. Cuộc chiến tranh giành độc lập 1920-22Tại Đại hội quốc gia của Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 23 tháng 4 năm 1920, Mustafa Kemal được bầu làm tổng thống. Hiệp ước Serves được ký kết giữa chính phủ Ottoman và lực lượng Đồng Minh chuẩn bị những bước cuối cùng cho kế hoạch chiếm đóng Tiểu Á. Sự kiện này kích động mâu thuẫn giữa triều đình Istanbul và chính quyền Ankara do đối với Mustafa Kemal và các đồng sự của ông hành động này là không thể chấp nhận được và sẽ là sự chấm dứt của một quốc gia Thổ độc lập. Thái độ kiên quyết của những nhà ái quốc được sự hưởng ứng nhiệt liệt của đại bộ phận nhân dân, và Hội đồng quốc gia nhanh chóng phê chuẩn sự thành lập của một đội quân quốc gia. Chiến sự nổ ra ở cả ba mặt trận: chiến tranh Hy Lạp-Thổ Nhĩ Kỳ, chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ-Armenia, chiến tranh Pháp-Thổ Nhĩ Kỳ cùng với việc trấn áp các cuộc nổi loạn trong nước, kéo dài từ 1920 đến 1921. Chính Hy Lạp là quốc gia trực tiếp muốn xâm lược Tiểu Á. Sau hàng loạt các cuộc đụng độ quân đội Hy Lạp tiến đến sông Sakarya, chỉ cách Ankara hơn 80 kilômét. Mustafa Kemal được chọn làm tổng tư lệnh của lực lượng vũ trang với toàn quyền. Sau đó quân Hy Lạp bị đánh đại bại trong trận Sakarya kéo dài gần 12 ngày, từ 23 tháng 8 đến 13 tháng 9 năm 1921. Khi Mustafa Kemal dẫn đoàn quân chiến thắng trở về Ankara, ông được trao hàm thống soái của quân đội và danh hiệu gazi (người chiến binh của đức tin chống quân vô thần). Cuối cùng, quân đội Hy Lạp bị đánh bại hoàn toàn ở trận Dumlupinar vào ngày 30 tháng 8 năm 1922. Cùng với sự sụp đổ của Đế quốc Nga vào năm 1917, ba nước cộng hòa độc lập được thành lập ở vùng Caucasus: Armenia, Azerbaijan và Gruzia. Kemal và phong trào của ông tức giận trước quyết định công nhận quyền tự trị cho Armenia trong Hiệp ước Sèvres của triều đình Ottoman. Mùa thu năm 1920, quân đội của Kemal tấn công Armenia và chiếm phần lớn lãnh thổ của nước cộng hòa này. Tháng 12 năm 1920, Armenia yêu cầu đình chiến. Sau đó các hiệp ước với Liên Xô, Thổ Nhĩ Kỳ được nhượng lại phần lớn lãnh thổ của nước cộng hòa dân chủ Armenia yểu thọ này. Giai đoạn chuẩn bị cho hòa bình (1922-23)Hiệp định Kars được ký kết ngày 23 tháng 11 năm 1921 đã giải quyết chiến sự ở vùng biên giới phía đông Thổ Nhĩ Kỳ và trả lại chủ quyền các thành phố Kars và Ardahan cho người Thổ, vốn bị cướp mất 3 thập kỷ trước bởi Đế quốc Nga trong cuộc Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1877–1878). Tại Hội nghị Lausanne vào tháng 7 năm 1923, Ismet Inönün đòi hỏi chính phủ ở Ankara được đối xử như một nhà nước độc lập và có chủ quyền, ngang hàng với tất cả các nhà nước khác. Theo sự chỉ dẫn của Mustafa Kemal, trong khi tranh cãi các vấn đề liên quan đến tính pháp lý và tài chính của Thổ Nhĩ Kỳ, Thỏa ước đầu hàng của Đế chế Ottoman, eo biển Thỗ Nhĩ Kỳ…, đồng thời từ chối mọi thỏa thuận gây tổn thương đến chủ quyền của Thổ Nhĩ Kỳ. Cuối cùng, sau nhiều cuộc tranh luận, vào ngày 24 tháng 7 Hiệp ước Lausanne được ký kết, chấm dứt những năm dài chiến tranh đã hủy hoại quốc gia này. Lãnh thổ của quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ vốn được công bố 3 năm trước cuối cùng cũng được công nhận, ngoại trừ toàn bộ chủ quyền đối với các thành phố Mosul, Kirkuk, Hatay (Antioch) và Iskenderun, (Alexandretta). Nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ và tư tưởng KemalTổng thống Mustafa Kemal Atatürk giới thiệu bảng chữ cái mới của Thổ Nhĩ Kỳ cho người dân tại Kayseri (20 tháng 9 năm 1928)
Ngày 29 tháng 10 năm 1923, Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ được thành lập. Mustafa Kemal đưa Fevzi Çakmak, Kazım Özalp và İsmet İnönü vào những vị trí quan trọng trong nội các mới. Họ sẽ giúp ông thực hiện các cuộc cải cách mà gần như bất khả thi trong những năm trước 1923. Trong những năm đầu của nước cộng hòa này, họ phải đối đầu với thù trong giặc ngoài: chế độ cũ muốn trở lại. Mustafa Kemal nhìn ra hậu quả của chủ nghĩa phát xít nên loại bỏ. Ông cố sức ngăn cản sự truyền bá của chế độ chuyên chế như các nước đế quốc Ý, Đức. Cuộc cải cách Atatürk bị đánh giá là quá gấp rút: Những phong tục tập quán có hàng ngàn năm lịch sử gần như thay đổi hoàn toàn. Đặc biệt là những cải cách tôn giáo của ông gặp nhiều phản đối, và tạo nên một mối bất đồng đáng kể giữa xã hội và chính trị tồn tại cho đến ngày nay. Những ngày cuối cùngGiữa năm 1937, sức khỏe của Ataturk suy giảm, và có dấu hiệu của bệnh xơ gan. Trong bản di chúc viết ngày 5 tháng 9 năm 1938, ông hiến toàn bộ tài sản của mình cho Đảng Nhân dân Cộng hòa. Tang lễMustafa Kemal Ataturk qua đời tại Istanbul vào lúc 09:05 tối ngày 10 tháng 11 năm 1938, hưởng thọ 57. Hơn 17 quốc gia viếng tang bằng người đại diện và đội nghi lễ. Hài cốt ông được đưa vào Bảo tàng Dân tộc học ở Ankara vào tháng 11 năm 1953, đám diễu hành gồm toàn bộ các thành viên nội các kéo dài hơn 2 dặm, cùng hơn 21 triệu dân khắp cả nước. Gia đình và đời sống cá nhânMustafa Kemal kết hôn với Latife Uşaklıgil ngày 29 tháng 1 năm 1923. Cuộc hôn nhân kéo dài không lâu và họ ly dị ngày 5 tháng 8 năm 1925. Tuy vậy nền học vấn phương Tây, vốn đa ngôn ngữ, của bà được cho là có phần nào ảnh hưởng trong quyết định đưa nước Thổ Nhĩ Kỳ theo Hồi giáo thành một nhà nước hiện đại phi tôn giáo. Hoàn cảnh cuộc ly dị vẫn còn là một bí mật mặc dầu phần lớn tin rằng Uşaklıgil không chấp nhận được thói nghiện rượu và các buổi dạ hội muộn của Ataturk. Các lá thư và nhật kí của bà bị cấm xuất bản. Ataturk không có con mà nhận con nuôi: con gái Afet (İnan), Sabiha (Gökçen) (nữ phi công chiến đấu cơ đầu tiên trên thế giới), Fikriye, Ülkü, Nebile, Rukiye, Zehra và con trai Mustafa. Ngoài ra ông còn bảo trợ cho Abdurrahim and İhsan. Trong tổng số 5 anh chị em ruột của Atatürk tất cả đều mất sớm, chỉ còn người chị Makbule. Trong thời gian rảnh rỗi không bận việc nước Atatürk dành thời gian đọc sách, cưỡi ngựa, chơi cờ, bơi… đặc biệt là kiêu vũ. Ông thông thạo tiếng Pháp và tiếng Đức, và sở hữu một thư viện sách phong phú về chính trị, lịch sử, ngôn ngữ v.v. Di sản AtatürkKhẩu hiệu nổi tiếng nhất của Atatürk là “hòa bình tại gia, hòa bình trên toàn thế giới”, thể hiện cho tư tưởng và quan điểm của ông về tính nhất quán giữa chính sách đối nội và đối ngoại. Đây không chỉ là quyết định ngẫu nhiên, nó xuất phát từ nhu cầu cấp bách của một nhà nước non trẻ mà tính ổn định lâu dài của nó phụ thuộc nhiều vào quan hệ quốc tế.[3] Ông thiết lập mối quan hệ gần gũi hơn với kẻ thù cũ Hy Lạp bằng việc mời thủ tướng Hy Lạp là Eleftherios Venizelos đến thăm thủ đô Ankara năm 1923, và Venizelos thậm chí còn đề cử Ataturk cho giải Nobel Hòa bình năm 1934. Tướng Douglas McArthur của Mỹ nhiều lần bày tỏ lòng ngưỡng mộ và “vinh dự là một người bạn trung thành của Ataturk”. Tên tuổi và chân dung của Ataturk có thể nghe và thấy khắp Thổ Nhĩ Kỳ: ở công trình công cộng, trường học, sách giáo khoa và tiền tệ. Hàng năm, vào chính xác thời điểm ông qua đời ngày 10 tháng 11 gần như tất cả mọi người Thổ sẽ dừng lại dành một phút tưởng niệm cho Ataturk. Tượng tưởng niệm ông được xây dựng khắp hầu hết các thành phố lớn của Thổ Nhĩ Kỳ và trên thế giới: đài kỷ niệm Ataturk ở New Zealand và Úc, quảng trường Ataturk ở Roma v.v. Năm 1981, UNESCO công bố năm Ataturk, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhật của ông. Chú thích
Tài liệu tham khảo
Liên kết ngoài
Tây HạBách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mục từ “Tây Hạ” dẫn đến bài này. Xin đọc về đơn vị hành chính cùng tên tại Tây Hạ (quận).
Tây Hạ (tiếng Trung: 西夏; bính âm: Xī Xià; Tây Hạ văn: Người Đảng Hạng vốn cư trú trên cao nguyên Tùng Phan ở Tứ Xuyên, đến thời Đường thì thiên cư tới Thiểm Bắc. Do người Đảng Hạng có công bình loạn giúp triều đình, được hoàng đế Đường phong là Hà châu Tiết độ sứ, trước sau thần phục Đường, các triều Ngũ Đại và Tống. Sau khi chính quyền Hạ châu bị Bắc Tống thôn tính, Lý Kế Thiên không muốn đầu hàng nên một lần nữa lập quốc, nhận được sắc phong của Hoàng đế triều Liêu. Lý Kế Thiên chọn sách lược liên kết với Liêu chống Tống, liên tiếp chiếm lĩnh được khu vực Lan châu và Hà Tây tẩu lang. Năm 1083, Lý Nguyên Hạo xưng đế kiến quốc, tức Hạ Cảnh Tông, Tây Hạ chính thức lập quốc. Trong chiến tranh với Tống và với Liêu, Tây Hạ về cơ bản giành được thắng lợi, hình thành cục diện chân vạc ba nước. Sau khi Hạ Cảnh Tông qua đời, đại quyền nằm trong tay thái hậu và mẫu đảng, sử gọi là thời kỳ mẫu đảng chuyên chính. Do đối đầu giữa hoàng đảng và mẫu đảng, Tây Hạ phát sinh nội loạn, Bắc Tống thừa cơ nhiều lần đem quân đánh Tây Hạ. Tây Hạ đề kháng phòng ngự thành công, đồng thời đánh tan quân Tống, song bị mất Hoành Sơn khiến cho tuyến phòng ngự của Tây Hạ xuất hiện lỗ hổng. Sau khi triều Kim của người Nữ Chân nổi lên rồi tiêu diệt Liêu và Bắc Tống, Tây Hạ chuyển sang thần phục Kim, thu được không ít đất đai, hai bên kiến lập “Kim-Hạ đồng minh” và nhìn chung có quan hệ hòa bình. Trong thời gian Hạ Nhân Tông Lý Nhân Hiếu trị vì, Tây Hạ xảy ra sự kiện thiên tai và “Nhâm Đắc Kính phân quốc”, song sau khi trải qua cải cách, đến những năm Thiên Thịnh thì lại xuất hiện thịnh thế. Tuy nhiên, Đại Mông Cổ Quốc ở Mạc Bắc nổi lên, sáu lần đem quân xâm lược Tây Hạ, phá vỡ đồng minh giữa Tây Hạ và Kim, khiến Tây Hạ và Kim tàn sát lẫn nhau. Trong nội bộ Tây Hạ cũng nhiều lần diễn ra việc giết vua, nội loạn, kinh tế do hậu quả của chiến tranh mà tiến đến bờ sụp đổ. Cuối cùng, Tây Hạ bị Mông Cổ tiêu diệt vào năm 1227.[3] Tây Hạ có nền chính trị liên hiệp Phiên-Hán, lấy người Đảng Hạng làm chủ đạo, người Hán và các dân tộc khác là phụ. Chế độ chính trị lưỡng nguyên Phiên-Hán dần biến thành chế độ nhất nguyên hóa theo Hán pháp. Hoàng quyền Tây Hạ phải chịu sự cạnh tranh với các thế lực quý tộc, mẫu đảng hay quyền thần, cho nên hỗn loạn không ổn định.[4] Tây Hạ nằm tại khu vực Hà Tây tẩu lang và Hà Sáo, ở giữa các thế lực hùng mạnh, do vậy triều đại này về mặt đối ngoại thì chọn sách lược dựa vào kẻ mạnh, công kích kẻ yếu, dùng chiến tranh để cầu hòa bình.[5] Phương pháp quân sự của người Đảng Hạng rất linh hoạt, phối hợp với địa hình sa mạc, lựa chọn chiến thuật là tiến khi thuận lợi, thoái khi bất lợi, dụ địch đến nơi bố trí mai phục, cắt đứt đường vận chuyển lương thảo của địch; đồng thời có các binh chủng đặc thù như “thiết diêu tử”, “bộ bạt tử”, “bát hỉ” phụ trợ.[6] Về mặt kinh tế, súc mục nghiệp và thương nghiệp là chủ yếu, mậu dịch đối ngoại của Tây Hạ dễ chịu ảnh hưởng từ triều đại Trung Nguyên, việc có thể lũng đoạn Hà Tây tẩu lang và tuế tệ của Bắc Tống khiến cho nền kinh tế Tây Hạ được hỗ trợ rất lớn.[7] Tây Hạ là một quốc gia Phật giáo, cho xây dựng một lượng lớn chùa tháp, nổi tiếng nhất là “Thừa Thiên tự tháp”. Tuy vậy, Tây Hạ cũng là một quốc gia xem trọng Nho học và Hán pháp, trước khi lập quốc thì tích cực Hán hóa; tuy nhiên Hạ Cảnh Tông đề xướng văn hóa Đảng Hạng, Hồi Cốt và Thổ Phồn để duy trì bảo hộ văn hóa bản địa; đồng thời sáng lập ra Tây Hạ văn, đặt ra hệ thống quan lại, tập quán riêng; song từ sau thời Hạ Nghị Tông đến Hạ Nhân Tông, Tây Hạ chuyển từ Phiên-Hán đồng hành sang Hán hóa toàn diện.[4] Văn học Tây Hạ chủ yếu là thi ca và ngạn ngữ. Về nghệ thuật, tại hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng, hang Du Lâm ở Qua Châu có các bích họa về Phật giáo, với điểm đặc sắc “lục bích họa”. Ngoài ra, trên các mặt điêu khắc, âm nhạc hay vũ đạo, Tây Hạ cũng có đặc điểm độc đáo.[8] Mục lụcLịch sửThiên di và cát cứ Hạ châuMột phần của một bích họa thế kỷ 10 hay 11, nam giới trong hình có thể là người Đảng Hạng
Tây Hạ do người Đảng Hạng lập nên, tộc người này là một chi của người Khương, có thuyết thống Tiên Ti. Thời Đường, người Đảng Hạng cư trú tại khu vực cao nguyên Tùng Phan thuộc Tứ Xuyên ngày nay,[9] là một trong các châu ki mi của triều Đường. Đương thời, người Đảng Hạng phân thành tám bộ, Thác Bạt thị là cường thịnh nhất. Thời trung Đường, Thổ Phồn khuếch trương lãnh thổ, áp bách người Đảng Hạng, triều đình Đường bang trợ thủ lĩnh Đảng Hạng đưa người dân thiên cư đến khu vực Thiểm Bắc,[chú 2] Năm 881, người thuộc Bình Hạ bộ là Thác Bạt Tư Cung do có công giúp Đường trấn áp loạn Hoàng Sào nên được Đường Hy Tông phong làm Hạ châu tiết độ sứ, hiệu là Định Nan quân. Sau khi Thác Bạt Tư Cung hiệp trợ triều đình thu phục Trường An, lại được hoàng đế Đường phong là Hạ quốc công, ban cho họ Lý,[10] (của hoàng tộc triều Đường), được lĩnh vùng đất Hạ-Ngân[chú 3] chính quyền Hạ châu (tên gọi chính thức là Hạ châu tiết độ sử hoặc Định Nan quân) hình thành, trở thành một phiên trấn cát cứ ở Thiểm Bắc. Thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, chính quyền Hạ châu tránh tham gia vào các tranh đấu giữa những thế lực tại Trung Nguyên, xưng thần với Ngũ Đại và Bắc Hán để củng cố thế lực tại Thiểm Bắc. Thời Hậu Đường, Hậu Đường Minh Tông Lý Tự Nguyên có ý muốn hoán đổi chức vụ của Đình châu Tiết độ sứ An Trọng Tiến và Hạ châu Tiết độ sứ Lý Di Siêu, mục đích là để thôn tính chính quyền Hạ châu. Tuy nhiên, Lý Di Siêu cực lực phản đối, cuối cùng đẩy lui được đội quân Hậu Đường do An Trọng Hối lãnh đạo, sang những năm đầu Bắc Tống thì chính quyền Hạ châu có được thực lực hùng hậu.[3][11] Sau khi Triệu Khuông Dận kiến lập triều Tống vào năm 960, thủ lĩnh chính quyền Hạ châu là Lý Di Ân xưng thần với Bắc Tống, đồng thời nhiều lần hiệp trợ Bắc Tống trong việc đối kháng với Bắc Hán. Sau khi Bắc Tống liên tiếp bình định các nước phương nam, Tống Thái Tông Triệu Khuông Nghĩa chuyển chú ý sang phương bắc, có ý muốn trừ bỏ chính quyền Hạ châu. Năm 982, Tống Thái Tông mời Hạ châu Tiết độ sứ Lý Kế Phủng và tộc nhân thiên cư đến Khai Phong, mệnh một người thân Tống là Lý Khắc Văn kế nhiệm, chính quyền Hạ châu bị Bắc Tống thôn tính. Tộc đệ của Lý Kế Phủng là Lý Kế Thiên không muốn đầu hàng triều đình Tống, đem tộc nhân chạy đến Địa Cân Trạch (nay là đông bắc Hoành Sơn, Thiểm Tây) để kháng Tống. Năm 984, triều đình Tống cử Doãn Hiến, Tào Quang Thật đi đánh quân Hạ. Năm sau, thế lực của Lý Kế Thiên mạnh lên, sau khi công phá quân Tống lại liên tiếp thu phục các lãnh địa Hạ châu. Năm 990, Lý Kế Thiên được Liêu Thánh Tông sắc phong là Hạ quốc vương, sau này được truy tôn là Hạ Thái Tổ. Triều đình Tống lựa chọn phương thức “lấy Di chế Di”, phái Lý Kế Phủng hồi nhiệm Hạ châu, chiêu phủ Lý Kế Thiên nhậm chức tại Ngân châu, ban họ Triệu của hoàng tộc Tống cho hai người. Không lâu sau, Lý Kế Thiên lại phản lại triều đình, năm 996 đánh lui được 5 lộ đại quân dưới quyền tướng Tống Lý Kế Long. Sau khi củng cố lãnh địa Hạ châu, Lý Kế Thiên cố gắng mở rộng lãnh địa về phía tây đến khu vực Hà Tây, cuối cùng trong lần tiến công thứ ba vào năm 1002 thì đánh hạ được Linh châu (nay ở tây nam Linh Vũ, Ninh Hạ), đổi tên thành Tây Bình phủ. Đến lúc này, triều đình Tống bất lực không thể vây chặn, năm sau phải thừa nhận Lý Kế Thiên nắm giữ lãnh địa Hạ châu. Lý Kế Thiên liên tiếp chiếm lĩnh các trọng trấn ở Hà Tây như Lương châu (nay là Vũ Uy, Cam Túc), đánh lui liên quân của Tống và Lục Cốc bộ Thổ Phồn. Năm 1004, Lý Kế Thiên qua đời do bị thủ lĩnh Phan La Chi của Lục Cốc bộ tập kích, con là Lý Đức Minh kế vị, sau được truy tôn là Hạ Thái Tông.[3][11] Lập quốcSau khi Lý Đức Minh kế vị, do lãnh địa được bành trướng nhanh chóng, nhằm củng cố quốc lực để chống lại nước đối địch tứ phương nên có ý muốn hòa đàm với triều đình Tống. Ngoài ra, triều Tống sau khi ký kết Thiền Uyên chi minh với Liêu cũng muốn ổn định khu vực tây bắc. Năm 1006, hai bên ký kết “Cảnh Đức hòa nghị”. Để duy trì nền độc lập, Lý Đức Minh hòa bình với Tống ở phía đông, tuân phục triều Liêu ở phía bắc, đồng thời cho con là Lý Nguyên Hạo kết hôn với Hưng Bình công chúa của Liêu. Về mặt đối nội, Lý Đức Minh định đô ở Hưng châu (nay ở đông nam Ngân Xuyên, Ninh Hạ), lựa chọn sách lược “bảo cảnh an dân”, chú trọng sản xuất. Đồng thời, Lý Đức Minh cũng thỉnh cầu Bắc Tống lập “các trường” (chợ biên) tại Bảo An quân (trị sở nay là Chí Đan, Thiểm Tây) nhằm làm nơi mậu dịch giữa hai bên. Ngoài ra, Lý Đức Minh còn tích cực tây chinh Hà Tây, năm 1028 phái Lý Nguyên Hạo đem quân đánh hạ Cam châu (nay là Trương Dịch, Cam Túc), thủ lĩnh Cam Châu Hồi Cốt là Dạ Lạc Cách Thông tự sát, hàng phục thủ lĩnh Lục Cốc bộ là Chiết Bô Du Long Bát. Sau đó, quân Đảng Hạng lại đoạt được Túc châu, hàng phục Quy Nghĩa quân Tiết độ sứ Tào Hiền Thuận. Đến lúc này, quốc lực của chính quyền Hạ châu đã rất thịnh, tạo nên cơ sở vững chắc để Lý Nguyên Hạo xưng đế lập quốc sau này. Năm 1032, Lý Đức Minh qua đời, Lý Nguyên Hạo kế vị.[3][11] Lăng mộ hoàng thất Tây Hạ
Sau khi kế vị, Lý Nguyên Hạo hoàn thành việc chiếm lĩnh Hà Tây tẩu lang, đồng thời tích cực chuẩn bị chính thức độc lập khỏi triều Tống. Đầu tiên, ông bỏ họ Lý, tự xưng họ Ngôi Danh, tự xem mình là hậu duệ hoàng thất Bắc Ngụy.[chú 4] Lý Nguyên Hạo nghe theo kiến nghị của Dương Thủ Tố, lấy lý do là húy kỵ phụ thân, cải niên hiệu triều Tống (Minh Đạo) sang niên hiệu riêng (Hiển Đạo). Sau đó, Lý Nguyên Hạo cho xây dựng cung điện, hạ “thốc phát lệnh” (lệnh tóc hói), khôi phục tục cũ, định đô tại Hưng Khánh phủ, thiết lập hai ban văn võ, lập quân danh, dùng binh chế, sáng tạo văn tự riêng, cải định lễ nhạc. Năm 1038, Lý Nguyên Hạ xưng đế, tức Hạ Cảnh Tông, định đô tại Hưng châu đồng thời đổi gọi là Hưng Khánh phủ, quốc hiệu là “Đại Hạ”, đến lúc này thì Tây Hạ chính thức lập quốc. Hạ Cảnh Tông thoát ly quan hệ thần thuộc với Liêu và Tống. Để làm bá chủ ở phía tây, Lý Nguyên Hạo tiến hành mở rộng lãnh thổ ra bốn phía, trước sau khai chiến với Tống và Liêu, là giai đoạn đỉnh cao về vũ lực của Tây Hạ.[5][11] Năm sau, Hạ Cảnh Tông lựa chọn chiến lược ‘liên Liêu kháng Tống’, không ngừng cho quân xâm nhập biên cảnh Tống, đồng thời yêu cầu triều Tống thừa nhận Tây Hạ độc lập. Đương thời, Bắc Tống lập không ít thành lũy tại dãy núi Hoành Sơn,[chú 5] tuy nhiên khả năng phòng ngự của trọng trấn Diên châu ở phía đông lại mỏng yếu, tướng trấn thủ là Phạm Ung không có năng lực. Năm 1040, Hạ Cảnh Tông phát động trận Tam Xuyên Khẩu, suất 10 vạn đại quân bao vây Diên châu, tập kích viện quân của tướng Tống Lưu Bình, Thạch Nguyên Tôn ở Tam Xuyên Khẩu, cuối cùng quân Hạ do gặp tuyết lớn nên giải vây và triệt thoái. Đối diện với việc Tây Hạ xâm nhập trên quy mô lớn, triều đình Tống phái Hạ Tủng làm chính sứ, Hàn Kỳ và Phạm Trọng Yêm làm phó sứ kinh lược, tức đối phó với Tây Hạ. Đương thời, quân Tống có nhiều binh hơn Tây Hạ, song không giỏi dã chiến, việc tiếp tế cũng không dễ dàng, Hàn Kỳ chủ chiến còn Phạm Trọng Yêm thì chủ thủ nên tranh chấp không ngưng. Năm 1041, Hạ Cảnh Tông phát động đại quân bao vây khu vực Vị Xuyên, Hoài Viễn ở biên giới phía tây của Tống, Hàn Kỳ không lắng nghe kiến nghị của Phạm Trọng Yêm, phái đại tướng Nhâm Phúc suất đại quân cứu viện Hoài Viễn, Hạ Cảnh Tông dụ quân Tống đến chỗ mai phục rồi tập kích, tức trận Hảo Thủy Xuyên. Sau đó, triều đình Tống chuyển sách lược sang phòng ngự, cải phái Trần Chấp Trung, Hạ Tủng kinh lược, đồng thời lập ra bốn lộ phòng tuyến.[chú 6] Năm 1042, mưu thần của Tây Hạ là Trương Nguyên kiến nghị tránh phòng tuyến của Tống, đi đường vòng đánh úp Kinh Triệu phủ. Cùng năm, Hạ Cảnh Tông phát động trận Định Xuyên trại nhằm vào Kính Nguyên lộ của Tống, bao vây Định Xuyên trại và tiêu diệt toàn bộ quân Tống, mục tiêu là Trường An, song quân Tây Hạ bị Tri châu Nguyên châu Cảnh Thái của Tống chặn đứng nên phải bãi binh. Chiến tranh Tống-Hạ kéo dài đến năm 1044 mới thôi, hai bên ký kết “Khánh Lịch hòa nghị”, triều Tống thừa nhận địa vị cát cứ của Tây Hạ, cấp cho nhiều tài vật và trà, phong Hạ Cảnh Tông là “Hạ quốc chủ”. Tây Hạ xưng thần với Tống, song bên trong thì vẫn xưng đế như cũ, trên thực tế vẫn là một quốc gia độc lập.[5][11] Sau khi đánh bại triều Tống, Tây Hạ tự xưng là Tây triều, gọi Liêu là Bắc triều. Liêu Hưng Tông Da Luật Tông Chân bất mãn trước một Tây Hạ lớn mạnh, có ý đồ một lần nữa buộc nước này quy phục. Năm 1043, Liêu Hưng Tông lấy lý do người Đảng Hạng ở tây nam bộ của Liêu làm phản nương nhờ Tây Hạ, vào năm sau suất đại quân đánh Tây Hạ. Tây Hạ cầu hòa bất thành, lựa chọn phương thức “kiên bích thanh dã” (lũy chắc đồng trống) mà đánh tan được quân Liêu. Sau khi Hạ Cảnh Tông qua đời vào năm 1048, quân Liêu thừa cơ tái xâm phạm Tây Hạ vào năm 1049, quân Tây Hạ tích cực kháng cự, cuối cùng hai bên hòa đàm.[5][11] Hạ Cảnh Tông kiến quốc, đồng thời thi hành thể chế trung ương tập quyền, mặc dù điều này giúp củng cố quyền lực cho hoàng đế song đồng thời lại khiến mâu thuẫn với quý tộc thêm sâu sắc. Hạ Cảnh Tông độc đoán chuyên chế, ngày càng kiêu ngạo phóng đãng đồng thời ham thích nữ sắc. Lộn xộn trong hậu cung dẫn đến quý tộc Vệ Mộ thị làm phản vào năm 1034. Hạ Cảnh Tông từng trúng kế phản gián của người Tống Chủng Thế Hành mà giết lầm Dã Lợi Vượng Vinh và Dã Lợi Ngộ Khất, đồng thời lại say đắm thê của Da Lợi Ngộ Khất là Một Tạng thị mà lấy về, sinh ra Lý Lượng Tộ. Thái tử Lý Ninh Minh oán hận phụ hoàng vì phế mẫu (Dã Lợi hoàng hậu) và đoạt thê (Một Di hoàng hậu), lại bị em của Một Tạng thị là Một Tạng Ngoa Bàng xúi giục, do vậy ám sát Hạ Cảnh Tông vào ngày 19 tháng 1 năm 1048. Sau khi Hạ Cảnh Tông mất, Một Tạng Ngoa Bàng giết Thái tử Lý Ninh Minh, lập Lý Lượng Tộ mới 1 tuổi lên kế vị, tức Hạ Nghị Tông.[5][11] Mẫu đảng chuyên quyềnThế cục năm 1111: Liêu
Bắc Tống
Tây Hạ
Thời kỳ Hạ Nghị Tông (1048–1067) và Hạ Huệ Tông (1067–1086), triều đình Tây Hạ về đối nội đã tiến thêm một bước trong việc củng cố quyền thống trị, về đối ngoại thì thường cùng hai nước Tống và Liêu ở trong trạng thái chiến tranh và nghị hòa. Hạ Nghị Tông khi kế vị vẫn còn nhỏ tuổi, mẹ là Một Tạng thái hậu cùng với Một Tạng Ngoa Bàng chuyên chính. Đương thời, Liêu Hưng Tông lại một lần nữa đem quân tiến đánh Tây Hạ, Tây Hạ xưng thần với Liêu. Một Tạng thái hậu hoang dâm háo sắc, nhiều lần cấu kết với người ngoài, trong đó Lý Thủ Quý và Cật Đa Kỷ nhiều lần tranh sủng. Kết quả là Lý Thủ Quý giết Thái hậu và Cật Đa Kỷ, Một Tạng Ngoa Bàng giết Lý Thủ Quý. Một Tạng Ngoa Bàng lại đem con gái gả cho Hạ Cảnh Tông để khống chế tiểu hoàng đế. Năm 1059, Hạ Nghị Tông tham dự chính sự, Một Tạng Ngoa Bàng định mưu sát Hạ Nghị Tông, tuy nhiên việc không thành và cả nhà Một Tạng Ngoa Bàng bị giết. Sau khi thân chính, Hạ Nghị Tông kết hôn với Lương thị– người hiệp trợ cùng ông trừ khử Một Tạng Ngoa Bàng, bổ nhiệm những người như Lương Ất Mai, Cảnh Tuân. Về đối nội, Hạ Nghị Tông tiến hành chỉnh trị quân đội, phân lập văn võ quan viên ở cấp địa phương nhằm để họ kiểm soát lẫn nhau, đề xướng văn hóa và kỹ thuật Hán, phế bỏ Phiên lễ, đổi sang dùng Hán nghi, đồng thời vào năm 1063 lại đổi sang họ Lý. Về đối ngoại, Tây Hạ cùng Tống hoạch định lại biên giới, khôi phục ‘các trường’, bình thường hóa mậu dịch. Tây Hạ nhiều lần có chiến sự với các bộ lạc Thổ Phồn, chiếm lĩnh khu vực Hà Hoàng và Thanh Hải, vào năm 1063 chiêu phủ thủ lĩnh Thổ Phồn Vũ Tạng Hoa Ma ở Tây Vực thành (nay là Định Tây, Cam Túc). Cải cách của Hạ nghị Tông có ảnh hưởng sâu rộng đến các triều sau đó, tuy nhiên Hạ Nghị Tông trúng tên bị thương trong khi giao chiến với Bắc Tống vào năm 1066, hai năm sau thì qua đời, con là Lý Bỉnh Thường kế vị khi mới 7 tuổi, tức Hạ Huệ Tông.[5][11] Bích họa “Văn thù biến đồ” trong hang số 3 của quần thể hang Du Lâm tại Qua Châu
Do Hạ Huệ Tông còn nhỏ tuổi, mẹ là Lương thái hậu nắm giữ đại quyền, hình thành cục thế Lương thái hậu và mẫu đảng (do em Thái hậu là Lương Ất Mai đứng đầu) chuyên quyền. Mẫu đảng nỗ lực phát triển thế lực, đề xướng Phiên lễ, trọng dụng Đô La Vĩ và Võng Manh Ngoa, chèn ép phái phản đối gồm Ngôi Danh Lãng Ngộ– em của Hạ Cảnh Tông. Năm 1080, Hạ Huệ Tông được hoàng tộc Ngôi Danh thị hiệp trợ nên bắt đầu thân chính. Hạ Huệ Tông xem trọng Hán pháp, hạ lệnh dùng Hán lễ Phiên nghi, bị phái bảo thủ đứng đầu là Lương thái hậu cực lực phản đối. Đối với việc này, Hạ Huệ Tông muốn nghe theo kiến nghị của đại thần Lý Thanh Sách, đem khu vực Hà Nam của Tây Hạ trả lại cho Tống nhằm lợi dụng triều Tống làm suy yếu thế lực ngoại thích. Tuy nhiên, cơ mật bị lộ, Lương thái hậu giết Lý Thanh Sách, quản thúc Hạ Huệ Tông. Hành động của Lương thái hậu khiến hoàng đảng và nhiều tộc làm phản, liên hợp với người Thổ Phồn là Vũ Tạng Hoa Ma thỉnh cầu triều Tống phái binh đánh Lương thái hậu. Vào lúc này, quốc lực triều Tống được tăng cường sau Vương An Thạch biến pháp, đồng thời vào năm 1071 do Vương Thiều chiếm lĩnh được Hi Hà lộ, tạo thành uy hiếp đối với Tây Hạ. Năm 1081, Tống Thần Tông nghe theo kiến nghị của Chủng Ngạc, thừa cơ Tây Hạ có nội loạn, cho Lý Hiến làm tổng chỉ huy, phát động 5 lộ phát Hạ,[chú 7] mục tiêu là Hưng Khánh phủ. Lương thái hậu chọn sách lược “kiên bích thanh dã” (lũy chắc đồng trống), tập kích đường vận chuyển lương thảo, quân Tống cuối cùng chỉ đoạt được Lan châu. Năm sau, quân Tống sử dụng chiến thuật ‘điêu bảo’ (xây công sự kiên cố), phái Từ Hi xây dựng Vĩnh Lạc thành,[chú 8] từng bước gia tăng áp lực lên không gian quân sự của Tây Hạ tại Hoành Sơn. Lương thái hậu lợi dụng Vĩnh Lạc thành mới xây, suất 30 vạn đại quân bao vây đánh chiếm, quân Tống thảm bại, sử gọi là trận Vĩnh Lạc thành. Mặc dù Tây Hạ nhiều lần đánh tan quân Tống, song việc mậu dịch với Tống bị gián đoạn khiến cho kinh tế Tây Hạ suy thoái, chiến sự thường xuyên cũng khiến cho quốc lực Tây Hạ tổn hại nhiều, trong khi nhân dân thì bất mãn. Cuối cùng, Lương thái hậu và Lương Ất Mai phải để cho Hạ Huệ Tông phục vị để làm dịu mâu thuẫn, song Hạ Huệ Tông vẫn không có thực quyền. Sau khi Lương Ất Mai qua đời, chính quyền Tây Hạ do con của ông ta là Lương Khất Bô kiểm soát. Năm 1086, Hạ Huệ Tông qua đời trong uất hận, con là Lý Càn Thuận kế vị khi mới 3 tuổi, tức Hạ Sùng Tông.[5][11] Lúc này, chính quyền Tây Hạ lại nằm trong tay tiểu Lương thái hậu và Lương Khất Bô. Thời kỳ Tống Triết Tông (1085–1100), tri Vị châu là Chương Tiết kiến nghị đối với Tây Hạ cần chọn chế tài về kinh tế và tác chiến kiểu điêu bảo, vào năm 1096 ông cho xây dựng Bình Hạ thành và Linh Bình trại ở Vị Xuyên trên đoạn biên giới phía tây, đồng thời nhiều lần đánh lui quân Hạ. Năm sau, quân Tống đánh vào Hồng châu và Diêm châu trên đoạn biên giới phía đông. Năm 1098, tiểu Lương thái hậu cùng Hạ Sùng Tông tiến công Bình Hạ thành song thất bại, đại tướng Ngôi Danh A Mai và Muội Lặc Đô Bô đều bị bắt, sử gọi là trận Bình Hạ thành. Quân Tống sau đó xây dựng Tây An châu và Thiên Đô trại, đả thông Kính Nguyên lộ và Hi Hà lộ, Tần châu biến thành nội địa. Sau khi triều Tống khống chế được khu vực Hoành Sơn, tình cảnh Tây Hạ ngày càng khó khăn. Năm 1099, dưới tác động của Liêu Đạo Tông, Tống và Tây Hạ lại tiến hành hòa đàm, Tây Hạ thỉnh tội với Tống, chiến tranh kết thúc. Tây Hạ ở trong tình trạng mẫu đảng chuyên quyền, Lương Khất Bô dựa vào uy thế “Lương thị nhất môn nhị hậu”, liên tiếp phát động chiến tranh với Tống và Liêu, khiến Tây Hạ chịu tổn thất nghiêm trọng. Lương Khất Bô thường khoe khoang công lao của mình trước các đại thần tại triều đình, nói rằng Tây Hạ liên tục xuất chinh chủ yếu là buộc triều Tống khuất phục, chỉ có theo cách đó thì Tây Hạ mới có được hòa bình. Khi diễn ra trận Hoàn Khánh, Lương Khất Bô bị tiểu Lương thái hậu ngăn cấm xuất chinh nên ôm hận trong lòng. Lương Khất Bô có ý đồ làm phản, tuy nhiên cơ sự bị lộ. Tiểu Lương thái hậu lệnh cho Ngôi Danh A Ngô, Nhân Đa Tông Bảo, Tát Thần suất binh bắt giữ và xử tử Lương Khất Bô. Sau khi tiểu Lương thái hậu tự thân chuyên quyền, bà tăng cường chiến sự với Tống, nhiều lần xin viện quân của Liêu song bị từ chối. Triều đình Liêu đối với tiểu Lương thái hậu thì cực kỳ phản cảm, nhận định rằng chiến tranh Liêu-Hạ là do bà mà ra, tiểu Lương thái hậu nhiều lần bị cự tuyệt cũng có ác ngôn với Liêu. Năm 1099, gần đến lúc Hạ Sùng Tông thân chính, song Lương thị vẫn chuyên quyền, Liêu Đạo Tông khiển sứ đến Tây Hạ, dùng độc dược giết tiểu Lương thái hậu. Đến thời điểm này, cục diện kéo dài Thái hậu chuyên chính kết thúc, hoàng đế Tây Hạ có thể thân chính.[5] Khó khăn trong ngoàiSau khi thân chính vào năm 1099, Hạ Sùng Tông lựa chọn sách lược dựa vào Liêu, kiến tạo hòa bình với Tống, giảm thiểu chiến tranh. Về đối nội, Hạ Sùng Tông cho phổ biến văn hóa Hán, chú trọng kinh tế, khiến kinh tế-xã hội Tây Hạ được phục hồi và phát triển. Thời kỳ Tống Huy Tông (1100-1126), triều đình Tống thực hiện chính sách “Thiệu thịnh khai biên”, năm 1114, Đồng Quán kinh lược Tây Hạ, suất lĩnh 6 lộ quân Tống (bao gồm hai lộ Vĩnh Hưng, Tần Phượng) phạt Hạ. Mặc dù Tây Hạ nhiều lần đánh bại các tướng Tống là Lưu Pháp, Lưu Trọng Vũ hay Chủng Sư Đạo, song quân Tống vẫn đánh chiếm được không ít thành lũy. Cuối cùng, Tây Hạ phải khẩn cấp thỉnh cầu Liêu chu toàn giúp, đến năm 1119 quân Tống mới rút, Hạ Sùng Tông lại một lần nữa biểu thị thần phục với Tống. Đến lúc này, quốc thế Tây Hạ không còn như xưa, song Bắc Tống cũng đến bên bờ sụp đổ.[5][11] Từ khi triều Kim của người Nữ Chân được thành lập vào năm 1115, cục diện chân vạc ba nước bị phá vỡ, Liêu và Bắc Tống lần lượt bị Kim tiêu diệt, kinh tế Tây Hạ bị Kim khống chế. Năm 1123, Liêu Thiên Tộ Đế có ý muốn chạy từ Mạc Bắc xuống Tây Hạ, tướng Kim là Hoàn Nhan Tông Vọng khuyến dụ Hạ Sùng Tông tìm bắt Liêu Đế, đồng thời uy hiếp Tây Hạ. Hạ Sùng Tông đáp ứng theo, chuyển sang liên Kim diệt Liêu, từ đó Tây Hạ quy phục Kim. Sau khi Liêu bị diệt vào năm 1125, Kim hẹn Tây Hạ giáp công Bắc Tống, lấy đất Tống làm điều kiện. Sau khi Tây Hạ chiếm lĩnh các khu vực Thiên Đức quân, Vân Nội, năm 1126 lại bị Kim cưỡng chiếm, đồng thời còn bị đòi Hà Đông bát quán. Để bù đắp cho Tây Hạ, Kim đồng ý sau khi chiếm lĩnh Thiểm Tây sẽ trao lại Hoành Sơn cho Tây Hạ, song không giữ lời. Những điều này khiến cho quan hệ giữa Kim và Tây Hạ ở trong trạng thái bất tín nhiệm. Tuy nhiên, lúc này Tây Hạ và Nam Tống cách biệt, chỉ có thể dựa dẫm vào kinh tế của Kim. Tây Hạ do vậy duy trì quan hệ hòa bình lỏng lẻo với Kim, cùng lắm thì chỉ có chiến sự quy mô nhỏ. Năm 1141, Kim đồng ý thiết lập ‘các trường’, từng bỏ lệnh cấm xuất nhập sắt. Đến thời Kim Thế Tông (1161-1189), Kim không muốn dùng sản phẩm vải lụa để đổi lấy xa xỉ phẩm của Tây Hạ, vì vậy chọn phương thức giảm thiểu mậu dịch, 10 năm sau mới khôi phục mậu dịch bình thường. Hạ Sùng Tông mất vào năm 1132, con là Lý Nhân Hiếu kế vị, tức Hạ Nhân Tông.[12] Thời kỳ Hạ Nhân Tông, lĩnh vực văn hóa và tư tưởng của Tây Hạ phát triển đến đỉnh cao, nhìn chung ở trong trạng thái hòa bình với Kim. Tuy nhiên, Hạ Nhân Tông là người trọng văn khinh võ, chú trọng vào những thứ không thực, khiến quân lực Tây Hạ dần trở nên suy lạc. Hàng tướng Tống Nhâm Đắc Kính là người có tài trí, liên tiếp bình định tướng Tiêu Hợp Đạt làm phản vào năm 1140, và thủ lĩnh Sơn Ngoa là Mộ Vị, Mộ Tuấn chạy sang Kim vào năm sau, được Hạ Nhân Tông trọng dụng. Năm 1143, Tây Hạ xảy ra nạn đói lớn và động đất, người dân cực kỳ khó khăn, Xỉ Ngoa và những người khác phát động dân biến ở Uy châu, Tĩnh châu, Định châu, Hạ Nhân Tông lại phái Nhâm Đắc Kính đi bình định. Do được trọng dụng, Nhâm Đắc Kính nảy dã tâm bành trướng, lại được Tấn vương Lý Sát Ca tiến cử nhập kinh. Sau khi Lý Sát Ca qua đời vào năm 1156, Nhâm Đắc Kính kiểm soát chính quyền, mở rộng thế lực của bản thân. Năm 1160, Nhâm Đắc Kính được phong làm Sở vương, trên thực tế thể hiện giống như hoàng đế. Nhâm Đắc Kính có ý muốn soán vị, ông lấy Linh châu làm đô thành, vào năm 1170 buộc Hạ Nhân Tông phải cấp cho Linh châu, các lãnh địa ở tây nam Tây Hạ. Tuy nhiên, do nhiều lần không được triều đình Kim ủng hộ, Nhâm Đắc Kính cùng những người khác âm mưu làm loạn. Được Kim ủng hộ, Hạ Nhân Tông thành công trong việc đánh diệt phe của Nhâm Đắc Kính, tình trạng quyền thần khống chế chính quyền kéo dài suốt hai thập niên đến đây bị loại bỏ. Sau dân biến năm 1143, Hạ Nhân Tông tiến hành cải cách để khiến kinh tế ổn định. Hạ Nhân Tông sửa đổi chế độ địa tô và phú thuế; phát triển giáo dục, thực hành khoa cử; Nho giáo được đề cao, dùng khoa cử để chọn kẻ sĩ làm quan; những biện pháp này có tác dụng nhất định trong việc ức chế thế gia đại tộc; cải cách lễ nhạc và pháp luật. Đến những năm Thiên Thịnh (1149-1169), xuất hiện cục diện thịnh thế. Năm 1193, Hạ Nhân Tông qua đời, con là Lý Thuần Hựu kế vị, tức Hạ Hoàn Tông.[12] Về cơ bản, Hạ Hoàn Tông noi theo quốc sách của Hạ Nhân Tông, về đối nội thì ‘an quốc dưỡng dân’, thi hành Hán pháp Nho học, về đối ngoại thì hòa hảo với Kim. Tuy nhiên, vào lúc này do Tây Hạ quá an nhàn nên quân lực suy giảm mạnh. Không lâu sau, Đại Mông Cổ Quốc nổi lên ở phía bắc, phá vỡ cục diện chân vạc Kim-Tống-Hạ. Em của Tống Nhân Tông là Việt vương Lý Nhân Hữu có công lao trong việc đánh bại Nhâm Đắc Kính, sau khi qua đời thì con là Lý An Toàn thượng biểu thỉnh cầu tuyên dương công lao của phụ thân đồng thời thừa tập vương vị. Tuy nhiên, Hạ Hoàn Tông không những không đồng ý, còn giáng Lý An Toàn làm Trấn Di quận vương. Lý An Toàn bất mãn, trong lòng nảy sinh ý soán đoạt đế vị. Năm 1206, Lý An Toàn cùng mẹ của Hạ Hoàn Tông là La thái hậu liên hiệp phế Hạ Hoàn Tông, Lý An Toàn tự lập làm hoàng đế, tức Hạ Tương Tông, Hạ Hoàn Tông mất không lâu sau đó.[12] Mông Cổ xâm lượcKhắc Liệt bộ ở Mạc Bắc và Tây Hạ có quan hệ rất hữu hảo, tuy nhiên sau này Thiết Mộc Chân lãnh đạo bộ lạc của mình tiến thôn tính các bộ lạc khác. Năm 1203, Khắc Liệt bộ bị Thiết Mộc Chân thôn tính, con của thủ lĩnh Vương Hãn là Tang Côn chạy sang Tây Hạ. Hai năm sau, Thiết Mộc Chân suất quân xâm nhập Tây Hạ, cướp bóc các thành thị ở vùng biên giới rồi rút lui. Để mong đẩy lui được ngoại hoạn, Hạ Hoàn Tông đổi tên Hưng Khánh phủ thành Trung Hưng phủ, mang ý nghĩa quốc gia trung hưng, trên thực tế Tây Hạ ngược lại phải chịu uy hiếp từ Mông Cỏ. Năm 1206, Thiết Mộc Chân kiến lập Đại Mông Cổ Quốc, tức Thành Cát Tư Hãn (sau này được triều Nguyên tôn xưng là Nguyên Thái Tổ). Thành Cát Tư Hãn muốn tiêu diệt triều Kim đối địch, do vậy tìm cách phá vỡ liên minh Tống-Kim, Tây Hạ trở thành một mục tiêu của Mông Cổ. Năm sau, khi Hạ Tương Tông đoạt vị chưa lâu thì Thành Cát Tư Hãn suất đại quân đánh phá Oát La Hài thành (nay ở phía tây kỳ Ô Lạp Đặc Hậu, Nội Mông)- một công sự kiên cố của Tây Hạ, các lộ quân Tây Hạ tận lực đề kháng và đẩy lui quân Mông Cổ. Năm 1209, Mông Cổ hàng phục Cao Xương Hồi Cốt ở phía tây Tây Hạ, khu vực Hà Tây do đó cũng nằm dưới uy hiếp của Mông Cổ. Trong lần đánh Tây Hạ thứ ba, quân Mông Cổ xâm nhập từ Hà Tây, xuất Hắc Thủy thành, vây đánh Oát La Hài quan khẩu. Hạ Tương Tông phái con là Lý Thừa Trinh suất quân kháng cự song thất bại, tướng Hạ là Cao Dật bị bắt rồi chết. Quân Mông Cổ lại đánh chiếm Tây Bích Ngoa Đáp- nơi thủ bị của Oát La Hài thành, tiến sát phòng tuyến cuối cùng của Trung Hưng phủ là “Khắc Di Môn”. Tướng Hạ Ngôi Danh Lệnh Công suất quân phục kích quân Mông Cổ, song cuối cùng bị quân Mông Cổ đánh tan. Trung Hưng phủ bị quân Mông Cổ vây khốn, Hạ Tương Tông phái sứ sang cầu cứ Hoàng đế Hoàn Nhan Vĩnh Tế của Kim, song bị cự tuyệt. Cuối cùng, Hạ Tương Tông phải dâng con gái thỉnh hòa, dâng một lượng lớn vật tư cho Mông Cổ, đồng thời cam kết phụ Mông phạt Kim.[12][13] Thành Cát Tư Hãn qua đời năm 1227 trong khi đang tiến hành xâm lược Tây Hạ.
Sau khi Hạ Tương Tông chuyển sang phụ Mông phạt Kim, Tây Hạ tiến hành chiến tranh hơn 10 năm với Kim, hai bên tổn thất rất lớn. Ở trong nước, bách tính Tây Hạ rất nghèo túng, sản xuất kinh tế chịu bị phá hoại, quân đội suy nhược, chính trị hủ bại. Bản thân Hạ Tương Tông say đắm trong tửu sắc, cả ngày không lo việc triều chính. Năm 1211, Tề vương Lý Tuân Húc phát động chính biến cung đình, phế truất Hạ Tương Tông, tự lập làm hoàng đế, tức Hạ Thần Tông, hay còn gọi là Trạng Nguyên hoàng đế.[14] Bất chấp phản đối của các đại thần trong nước, Hạ Thần Tông vẫn tiếp tục kiên trì phụ Mông kháng Kim, Kim Tuyên Tông cũng nhiều lần phản kích Tây Hạ. Đến lúc này, kinh tế xã hội của Tây Hạ bị suy sụp, các cuộc dân biến diễn ra không ngừng. Lấy lý do Tây Hạ không đồng ý giúp đỡ Mông Cổ tây chinh năm 1216, Thành Cát Tư Hãn vào năm sau suất quân tiến công Tây Hạ lần thứ tư. Hạ Thần Tông cho Thái tử Lý Đức Vượng phòng vệ Trung Hưng phủ, còn bản thân tránh đến Tây Kinh Linh châu. Cuối cùng, Lý Đức Vượng phái sứ đến chỗ người Mông Cổ hòa đàm, chiến tranh kết thúc. Năm 1223, Hạ Thần Tông nhượng vị cho Thái tử Lý Đức Vương, tức Hạ Hiến Tông. Đến lúc này, triều đình Hạ nhận thấy rõ Mông Cổ muốn tiêu diệt Tây Hạ, do vậy Hạ Hiến Tông quyết định chuyển sang sách lược liên Kim kháng Mông. Nhân lúc Thành Cát Tư Hãn tây chinh, Tây Hạ phái sứ thuyết phục các bộ lạc ở Mạc Bắc liên hiệp kháng Mông, mục đích là để củng cố biên cương phía bắc của Tây Hạ. Đương thời, tướng Mông Cổ tổng quản Hán địa là Bột Lỗ (con của Mộc Hoa Lê) phát hiện ra ý đồ của Tây Hạ, vào năm 1224 suất quân từ phía đông đánh vào Tây Hạ, đánh chiếm Ngân châu, tướng Hạ Tháp Hải bị bắt. Năm sau, Thành Cát Tư Hãn hồi quốc sau khi tây chinh thắng lợi, đồng thời suất quân tiến công Sa châu. Cuối cùng, Hạ Hiến Tông phải đồng ý đầu hàng theo điều kiện của quân Mông Cổ, quân Mông Cổ triệt thoái.[12][13] Năm 1226, Thành Cát Tư Hãn lấy lý do Hạ Hiến Tông không làm đúng theo thỏa thuận, phân binh giáp công Tây Hạ từ đông và tây. Thành Cát Tư Hãn suất đội quân chủ lực đến Ngột Lạt Hài thành (nay thuộc Bayan Nur, Nội Mông) tiến về phía tây đánh chiếm Hắc Thủy thành, sau đó lại tiến đến Hạ Lan Sơn (nay ở tây bắc Ngân Xuyên, Ninh Hạ) ở phía đông, đánh tan quân của tướng Hạ A Sa Cảm Bất, cuối cùng đóng quân tại Hồn Thùy Sơn (nay ở bắc Tửu Tuyền, Cam Túc). Cánh quân Tây do A Đáp Xích suất lĩnh, cùng với Hốt Đô Thiết Mục Nhi, hàng tướng Tây Hạ Tích Lý Linh Bộ, Sát Hãn mượn đường Tây Châu Hồi Cốt, liên tiếp đánh chiếm Sa châu, Túc châu và Cam châu. Tuy nhiên, khi quân Mông Cổ vây đánh Cam châu, tướng trấn thủ của Tây Hạ là Hòa Điển Dã Khiếp Luật ngoan cường đề kháng, cuối cùng Thành Cát Tư Hãn tự thân đánh chiếm, đồng thời hàng phục tướng trấn thủ Lương châu là Oát Trát Quỹ. Đến lúc này, toàn bộ khu vực Hà Tây tẩu lang của Tây Hạ rơi vào tay Mông Cổ. Hạ Hiến Tông lo lắng mà qua đời, cháu là Nam Bình vương Lý Hiển kế vị, tức Hạ Mạt Đế.[12][13] Tháng tám cùng năm, Thành Cát Tư Hãn suất quân xuyên qua Sa Đà, vượt Hoàng Hà đánh chiếm Ứng Lý (nay là Trung Vệ, Ninh Hạ). Sau đó, Mông Cổ phân binh đánh chiếm Hạ châu, chủ lực bao vây Linh châu. Hạ Mạt Đế phái Ngôi Danh Lệnh Công suất quân cứu viện, hai bên quyết chiến trên Hoàng Hà đang đóng băng. Sau đó, Ngôi Danh Lệnh Công và tướng trấn thủ là Phế Thái tử Lý Đức Nhâm hợp quân, Thành Cát Tư Hãn qua đời. Quân Mông Cổ bao vây Trưng Hưng phủ, đồng thời phân binh tiến về phía nam đánh chiếm các lãnh địa Tích Thạch châu (nay thuộc Tuần Hóa, Thanh Hải), Tây Ninh (nay thuộc Tây Ninh, Thanh Hải) của Tây Hạ, đồng thời lưu lại Lục Bàn Sơn của Tây Hạ. Tây Hạ chỉ còn lại Trung Hưng phủ, đến năm 1227 thì Hạ Mạt Đế bị vây tại Trung Hưng phủ, nửa năm sau thì đầu hàng, Tây Hạ mất. Mặc dù Thành Cát Tư Hãn qua đời từ trước song quân Mông Cổ không phát tang nhằm không để Tây Hạ tận dụng thời cơ, Đà Lôi giết Lý Hiển theo di chiếu của Thành Cát Tư Hãn. Sau khi quân Mông Cổ đánh chiếm Trung Hưng phủ, họ tiến hành đồ sát, đốt cháy cung thất và lăng viên, về sau do Sát Hãn khuyến gián mới thôi, song nhân khẩu trong thành đã không còn nhiều.[11][13][15] Cương vực và hành chínhKhi Tây Hạ kiến quốc vào năm 1038, cương vực bao trùm các khu vực nay là Ninh Hạ, tây bắc bộ Cam Túc, đông bắc bộ Thanh Hải, bắc bộ Thiểm Tây và một phần Nội Mông. Đông đến Hoàng Hà, tây đến Ngọc Môn, nam đến Tiêu Quan (nay ở nam Đồng Tâm, Ninh Hạ), bắc đến Đại Mạc. Đông bắc Tây Hạ liền kề với Tây Kinh của Liêu, phía đông và đông nam giáp với Tống. Sau khi Kim diệt Liêu và Bắc Tống, các mặt đông bắc, đông và nam của Tây Hạ đều liền kề với Kim. Nam bộ và tây bộ của Tây Hạ liền kết với lãnh địa của các bộ lạc Thổ Phồn, Hoàng Đầu Hồi Cốt và Tây Châu Hồi Cốt. Trên hai phần ba lãnh thổ Tây Hạ có địa hình sa mạc, nguồn nước chủ yếu là Hoàng Hà và nước ngầm có nguồn gốc từ tuyết trên núi. Thủ đô Hưng Khánh phủ nằm tại bình nguyên Ngân Xuyên, tây có Hạ Lan Sơn làm rào cản, đông có Hoàng Hà cung cấp nước.[16] Tây Hạ là triều đại do người Đảng Hạng kiến lập, ban đầu tộc người này định cư ở cao nguyên Tùng Phan thuộc Tứ Xuyên ngày nay. Thời kỳ Đường Cao Tông, người Đảng Hạng bị Thổ Phồn áp bách, cuối cùng được triều đình Đường hiệp trợ thiên di đến khu vực Hà Sáo–Thiểm Bắc, phân thành Bình Hạ bộ và Đông Sơn bộ, có được vùng đất làm cơ sở cho việc hình thành Tây Hạ. Năm 881, nhân người Bình Hạ bộ là Thác Bạt Tư Cung có công giúp triều đình trấn áp loạn Hoàng Sào, được phong làm Hạ châu Tiết độ sứ, đến lúc này chính thức được lĩnh 5 châu: Ngân châu (nay là Mễ Chi, Thiểm Tây), Hạ châu (nay là Hoàng Sơn, Thiểm Tây), Tuy châu (nay là Tuy Đức, Thiểm Tây), Hựu châu (nay là Tĩnh Biên, Thiểm Tây), Tĩnh châu (nay là tây Mễ Chi, Thiểm Tây). Đến thời Tống, Tống Thái Tông thôn tính Hà châu Tiết độ sứ, tuy nhiên Lý Kế Thiên không muốn đầu hàng nên đem bộ lạc tiến công tứ xứ, cuối cùng thu phục đất đai 5 châu. Sau khi đánh hạ Linh châu, thế lực của người Đảng Hạng mở rộng đến khu vực Hà Sáo và Hà Tây tẩu lang. Sau khi Hạ Cảnh Tông kế vị, Tây Hạ tiếp tục củng cố Hà Tây tẩu lang, khi khai quốc xưng đế cương vực Tây Hạ bao gồm 20 châu. Sau đó, Hạ Cảnh Tông tiến hành chiến tranh với Tống ở khu vực Hoành Sơn, đồng thời có ý chiếm lĩnh Quan Trung. Sau thời Hạ Cảnh Tông, Tây Hạ và Bắc Tống tiến hành chiến tranh qua lại, hai bên chiếm lĩnh thành lũy hay trại của đối phương, chiến tranh còn lan đến khu vực Hà Hoàng ở Thanh Hải. Hậu kỳ Hạ Sùng Tông (1086-1139), Tây Hạ để mất khu vực Hoành Sơn, từng gặp phải nguy hiểm. Sau khi Kim diệt Liêu và Bắc Tống, Tây Hạ liên tục thu phục đất đai bị mất, đồng thời chiếm lĩnh khu vực Tiền Sáo Hoàng Hà. Tuy nhiên, thế lực của Tây Hạ bị Kim hạn chế, lãnh thổ được mở rộng không nhiều. Đến thời Hạ Nhân Tông, Tây Hạ ước tính có 22 châu, thời kỳ này là lần cuối bản đồ Tây Hạ ở trong trạng thái ổn định.[16] Về phân chia hành chính, nhìn chung Tây Hạ thi hành hai cấp châu (phủ) và huyện, lập phủ ở một số châu trọng điểm. Ngoài ra còn phân tả hữu sương 12 giám quân ty, là khu quân quản. Từ 5 châu trước khi kiến quốc, Tây Hạ sau khi chiếm lĩnh khu vực Hà Sáo và Hà Tây tẩu lang, vào thời Hạ Sùng Tông-Hạ Nhân Tông có 22 châu: 9 châu Hà Nam (nam Hoàng Hà), 9 châu Hà Tây (tây Hoàng Hà), ngoại Hi Hà-Tần Hà có 4 châu.[17] Châu có số huyện không nhiều, một bộ phận chỉ có pháo đài và thành trấn, quy mô không bằng một châu của Tống. Mục đích của châu chỉ là để khuếch đại thanh thế, an trí thân tín để khống chế chặt chẽ. Các châu được thăng thành phú có: Hưng châu (Hưng Khánh phủ, Trung Hưng phủ) và Linh châu (Tây Bình phủ) ở Hà Sáo, Lương châu (Tây Lương phủ) và Cam châu (Tuyên Hóa phủ) ở Hà Tây tẩu lang. Hạ châu, Linh châu và Hưng châu nối tiếp nhau làm thủ đô của chính quyền Đảng Hạng trước khi lập quốc, có địa vị hết sức quan trọng. Lương châu ở giữa Hà Tây tẩu lang và Hà Sáo, có vị trí địa lý quan trọng. Ở Cam châu đặt ra Tuyên Hóa phủ nhằm phục trách xử lý các vấn đề Thổ Phồn và Hồi Cốt. Tả hữu sương và 12 giám quân ty chủ yếu do Hạ Cảnh Tông sắp xếp và thiết lập nhằm làm phương tiện quản lý và điều khiển quân đội. Mỗi một giám quân ty đều lập quân doanh phỏng theo chế độ của Tống, quy định đất trú đóng.[18] Thể chế chính trịMô hình lăng mộ hoàng thất Tây Hạ.
Tây Hạ có nền chính trị Phiên-Hán liên hiệp, người Đảng Hạng là dân tộc thống trị chủ yếu, đồng thời liên hiệp với người Hán, người Thổ Phồn, người Hồi Cốt để cùng nhau thống trị. Hoàng tộc Tây Hạ chú ý đến quan hệ với quý tộc Đảng Hạng, dùng thông hôn và chia sẻ quyền lực để gắn kết, song mẫu đảng “quý sủng dụng sự” nên giữa hoàng tộc với mẫu đảng và quý tộc thường phát sinh xung đột. Vào tiền kỳ, Tây Hạ dùng quan chế Phiên-Hán giống như của Liêu, song đến trung hậu kỳ thì toàn diện sử dụng quan chế Tống, Phiên quan dần sa sút.[4] Thể chế quốc gia và phương thức thống trị của Tây Hạ chịu ảnh hưởng sâu của chính trị-văn hóa Nho gia, phần lớn dựa theo quan chế Tống. Khi lập quốc vào năm 1038, quan phân thành hai ban văn võ, “Trung thư ty”, “Xu mật ty”, “Tam ty” (Diêm thiết bộ, Độ chi bộ, Hộ bộ) phân biệt quản lý hành chính, quân sự và tài chính. “Ngự sử đài” phụ trách giám sát, “Khai Phong phủ” quản lý sự vụ ở khu vực thủ đô, ngoài ra còn có “Dực vệ ty”, “Quan kế ty”, “Thụ nạp ty”, “Nông điền ty”, “Quần mục ty”, “Phi long uyển”, “Ma khám ty”, “Văn tư viện”, các cơ cấu Phiên học và Hán học. Năm sau, Hạ Cảnh Tông phỏng theo chế độ của Tống mà thiết lập chức “Thượng thư lệnh”, đổi nhị thập tứ ty của Tống thành thập lục ty, phân thành lục tào: công, thương, hộ, binh, pháp, sĩ; khiến chế độ và cơ cấu quan lại của Tây Hạ có quy mô đáng kể. Đến thời Hạ Nghị Tông, lại đặt thêm các chức thượng thư và thị lang các bộ, Nam-Bắc tuyên huy sứ và trung thư, học sĩ. Các chức quan và cơ cấu được phân nhỏ, cải cách quan chế chuyển từ đặt thêm quan chức chính trị-quân sự sang quan chức kinh tế-văn hóa-xã hội.[4][19] Phiên quan là các chức quan chuyên do người Đảng Hạng đảm nhiệm, có thuyết nói đây là chế độ tước vị. Phiên quan chủ yếu là nhằm bảo toàn địa vị chủ đạo của quý tộc Đảng Hạng trong chính quyền trung ương, người thuộc các dân tộc khác không được đảm nhiệm, có “ninh lệnh” (đại vương), “mô ninh lệnh” (thiên đại vương), “đinh lô”, “đinh nỗ”, “tố trai”, “tổ nho”, “lã tắc”, “xu minh” và các chức khác. Sau khi Hạ Cảnh Tông đặt thêm phiên quan, còn học tập một số chế độ từ Liêu và Thổ Phồn như quan chế Nam-Bắc diện. Chế độ Phiên quan Tây Hạ rất lộn xộn, thời Hạ Nghị Tông lại đặt thêm không ít chức quan,[chú 9] tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa rõ về chức năng của các chức quan này, có thuyết cho rằng Phiên quan chỉ là Tây Hạ văn biểu thị quan danh Hán quan mà thôi.[20] Với việc các hoàng đế Tây Hạ sau này xem trọng Hán pháp, đổi Phiên lễ dùng Hán nghi, hệ thống Phiên quan dần sa sút. Sau thời Hạ Sùng Tông, Phiên quan không còn xuất hiện trong các văn hiến liên quan.[4][19] Liên quan đến phương diện pháp luật, do luật cũ của Tây Hạ có chỗ không rõ ràng, Hạ Nhân Tông theo chủ trương ‘thượng văn trọng pháp’ mà ban bố “Thiên Thịnh cải cựu tân định luật lệnh”, còn gọi là “Thiên Thịnh luật lệnh”, “Khai Thịnh luật lệnh”. Chủ yếu do Bắc vương-Trung thư lệnh Ngôi Danh Địa Bạo và các quan lại trọng yếu của Trung thư, Xu mật viện, Trung Hưng phủ, Điện tiền ty, Cáp môn ty tham gia soạn viết. Pháp điển của bộ luật này tham khảo từ pháp điển của triều Đường và triều Tống, đồng thời kết hợp với tình hình quốc dân Tây Hạ, nâng cao độ thích hợp với thực tế. Trên một số phương diện (như súc mục nghiệp, quản chế, dân tục) lại có thêm đặc điểm bản dân tộc.[21] Ngoại giaoTây Hạ có địch thủ ở tứ phía, liên tiếp phải ứng phó với uy hiếp và chiến tranh từ Hậu Đường, Hồi Cốt, Thổ Phồn, Tống, Liêu, Kim và Mông Cổ, do vậy triều đình Tây Hạ xem trọng vấn đề ngoại giao. Sách lược ngoại giao của Tây Hạ chủ yếu là liên hiệp hoặc dựa vào kẻ mạnh đồng thời công kích kẻ yếu, dùng chiến tranh cầu hòa bình, nhờ đó quốc gia Tây Hạ có thể tiếp tục tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, do nước phụ thuộc vào quá lớn mạnh, cuối cùng vẫn không thoát khỏi số mệnh bị tiêu diệt.[5] Chính quyền Hạ châu (Định Nan quân) từ trước đó đã phụng sự triều Đường, các triều Ngũ Đại rồi Bắc Tống để duy trì thế lực của bản thân. Về sau, Bắc Tống thôn tính chính quyền Hạ châu, Lý Kế Thiên cất binh nổi dậy. Vào thời điểm đó, ông chọn sách lược liên Liêu kháng Tống, nhiều lần đánh lui quân Tống, đồng thời khuếch trương thế lực, đến năm 990 thì được Liêu Thánh Tông sắc phong làm Hạ quốc vương. Đến thời Lý Đức Minh, nhằm củng cố lãnh địa mới, người Đảng Hạng hòa đàm với Bắc Tống, đến năm 1006 thì ký kết Cảnh Đức hòa nghị, song Lý Đức Minh vẫn duy trì quan hệ với Liêu như xưa. Ngoài việc phải ứng phó chiến sự với Liêu-Tống, Tây Hạ vì muốn xưng bá vùng Hà Tây nên trước sau tiến hành đánh diệt Cam Châu Hồi Cốt, Quy Nghĩa quân, đối kháng với Lục Cốc bộ và Giác Tư La Quốc của người Thổ Phồn, tiếp cận Tây Châu Hồi Cốt.[5] Hạ Cảnh Tông chính thức xưng đế kiến quốc, tự xưng Bang Nê Định Quốc, xưng là con trai chứ không xưng thần với Tống, nhiều lần xâm nhập biên cương của Tống. Tống Nhân Tông bất mãn trước việc Tây Hạ độc lập, phái binh tiến đánh, chiến tranh Tống-Hạ bùng nổ. Hạ Cảnh Tông giành thắng lợi trước quân Tống trong ba chiến dịch lớn (Tam Xuyên Khẩu, Hảo Thủy Xuyên, Định Xuyên Trại), sau đó hai bên ký kết Khánh Lịch hòa ước vào năm 1004. Triều Tống cấp cho Hoàng đế Tây Hạ danh hiệu là “Hạ quốc chủ”, Tây Hạ xưng thần với Tống song trên thực tế Hoàng đế Tây Hạ trong nước vẫn xưng là quân vương, Tống cũng cấp cho Tây Hạ tiền bạc, trà và một lượng lớn vật tư. Tây Hạ đánh bại Tống khiến Liêu bất mãn, hai bên phát sinh ba lần chiến tranh, cuối cùng Tây Hạ xưng thần với Liêu. Sau này, Tống Thần Tông thừa cơ Tây Hạ có nội loạn, phát động “Ngũ lộ phạt Hạ” và chiến dịch Vĩnh Lạc thành, song Tây Hạ đều giành chiến thắng. Tuy nhiên, quốc lực Tây Hạ dần suy yếu, khu vực Hoành Sơn cũng bị Bắc Tống chiếm lĩnh, sau đó nhờ vào Liêu sắp xếp mới có thể duy trì quân hệ chân vạc ba bên Tống-Liêu-Hạ.[5] Sau khi Kim nổi lên, diệt Liêu rồi diệt Bắc Tống, Tây Hạ từ bỏ đồng minh Liêu-Hạ, thần phục Kim nhằm tự bảo vệ. Lãnh thổ Kim bao quanh phía đông và phía nam của Tây Hạ, kiểm soát kinh tế của Tây Hạ, do vậy triều đình Tây Hạ không dám có hành động tùy tiện với Kim, cùng lắm giữa hai bên chỉ có chiến sự quy mô nhỏ. Sau khi Mông Cổ nổi lên, nhiều lần xâm nhập Tây Hạ, phá hoại đồng minh Kim-Hạ. Hạ Tương Tông và Hạ Thần Tông chuyển sang dùng sách lược “liên Mông công Kim”, nhiều lần phát sinh chiến tranh với Kim, tuy nhiên đây là một phương châm sai lầm. Đến thời Hạ Hiến Tông, Tây Hạ lại chuyển sang “liên Kim kháng Mông”, song Tây Hạ bị Mông Cổ tiêu diệt vào năm 1227. Kim sử viết về Tây Hạ “lập quốc hơn hai trăm năm, chống lại ba nước Liêu, Kim, Tống, mạn hương vô thường, xem xét thế mạnh yếu của ba nước để đưa ra sách lược khác nhau”.[5][22] Đối với Hồi Cốt, Thổ Phồn và các dân tộc thiểu số khác, Tây Hạ chọn phương thức xoa dịu và chiêu phủ, so với Tống có vẻ họ còn làm tốt hơn. Như thủ lĩnh Thổ Phồn là Vũ Tạng Hoa Ma ở Tây Sứ thành (nay ở tây nam Định Nam, Cam Túc) không muốn hàng Tống, từng bị tướng Tống là Vương Thiều đánh cướp, Hạ Nghị Tông lập tức phái binh chi viện, còn gả tông nữ cho ông ta, Vũ Tạng Hoa Ma đem Tây Sứ thành và Lan châu dâng cho Tây Hạ.[5] Chế độ quân sựChế độ quân sự của Tây Hạ lấy binh chế bộ lạc Đảng Hạng làm cơ sở, thêm vào chế độ của triều Tống để hoàn thiện hơn. Tây Hạ là quốc gia được dựng nên từ chiến tranh, quân đội là cơ sở trong việc duy trì sinh hoạt. Do vậy, Tây Hạ thi hành chế độ ‘toàn dân là binh’, thời bình thì sản xuất, thời chiến thì quân sự và kinh tế-xã hội hợp làm một. Ngoại trừ một phần rất nhỏ trang bị quân sự được cấp cho quân quan và chính quân, những người còn lại khi tác chiến đều phải tự mang lương thực. Đơn vị quân sự nhỏ nhất của Tây Hạ là “sao” (抄), mỗi sao do ba người hợp thành, một người chủ lực, một người phụ chủ, một người phụ đảm. Xu mật viện là cơ cấu lãnh đạo quân sự tối cao của Tây Hạ, bên dưới đặt ra các “ty”. Hệ thống chỉ huy có: “thống quân”, “hành chủ”, “tá tướng”, “thủ lĩnh”, “tá thủ lĩnh”, “tiểu thủ lĩnh”. Quân đội toàn quốc phân thành hai hệ thống là quân trung ương và quân địa phương. Bố phòng quân sự lấy Hạ Lan Sơn, Hưng Khánh phủ và Lan châu làm phòng tuyến tam giác, là trung tâm trong việc tác chiến của Tây Hạ. Khi địch mạnh đến gần, quân biên phòng nhanh chóng hồi kinh trợ thủ; khi biên cương nguy cấp, quân chủ lực lập tức đến chi viện, quân đội được điều động rất linh hoạt. Khi tác chiến, quân Tây Hạ tiến khi thuận lợi và thoái khi bất lợi. Do địa hình Tây Hạ chủ yếu là sa mạc và núi, quân đội Tây Hạ do vậy mà giỏi về việc dụ địch vào nơi phục kích, cắt đường vận chuyển lương thảo của địch, tập trung binh lực tiến hành vận động chiến, do vậy đương thời có thể lấy ít thắng mạnh.[6] Ấn bằng đồng có khắc chữ “thủ lĩnh” bằng Tây Hạ văn
Hệ thống quân trung ương phân thành Cầm sinh quân, Vệ thú quân, Thị vệ quân, Bát hỉ, Thiết diêu tử, Tràng lệnh lang và Bộ bạt tử. Số quân của Cầm sinh quân ước tính khoảng 10 vạn, nhiệm vụ chủ yếu là bắt người trong khi chiến đấu để biến làm nô lệ, tương đương “đả thảo cốc kị” trong quân đội Liêu, không đảm trách nhiệm vụ quyết chiến. Số quân của Vệ thú quân ước tính có 25 nghìn, bộ thuộc tại khu vực quanh Hưng Khánh phủ, được trang bị rất hoàn thiện, phó binh phối bị bố trí đạt nhiều đến 7 vạn, là đội quân chủ lực của Tây Hạ. Thị vệ quân còn có tên là “Ngự viên nội lục ban trực”, có khoảng 5 nghìn người, tuyển từ những con em hào tộc với tiêu chuẩn là giỏi cưỡi ngựa bắn cung, phụ trách việc bảo vệ an toàn của hoàng đế, phân thành tam phiên túc vệ. Bát hỉ ước có khoảng hai trăm người, là pháo binh của Tây Hạ, làm chủ kỹ thuật “hỏa thốc lê”, cũng có thể bắn đạn đá, do kị binh bắn, hết sức linh hoạt.[23] Thiết diêu tử có khoảng ba trăm người, sau mở rộng lên đến vạn người, là kị binh hạng nặng của Tây Hạ, có đặc điểm là cơ động linh hoạt, có uy lực khi tác chiến ở bình địa, thường theo hoàng đế tác chiến.[24] Tràng lệnh lang gồm các binh sĩ tráng kiện người Hán bị Tây Hạ bắt được, dùng làm bia đỡ đạn khi tác chiến, giúp giảm thiểu tổn thất về người của quân đội Tây Hạ. Bộ Bát tử là bộ binh của Tây Hạ, giỏi về tác chiến ở vùng núi, hợp thành từ các tráng đinh thuộc những bộ lạc sống ở khu vực Hoành Sơn, thường cùng với Thiết diêu tử đột kích quân địch.[6][25] Đối với quân địa phương, Hạ Cảnh Tông đem quân khu toàn quốc phân thành tả sương, hữu sương với 12 giám quân ty, Tả sương: Thần Dũng quân ty trú tại Di Đà động ở Ngân Xuyên (nay là phía đông Du Lâm, Thiểm Tây), Tường Hựu quân ty trú tại Thạch châu, Gia Ninh quân ty trú tại Hựu châu, Tĩnh Tắc quân ty trú tại Vi châu, Tây Thọ Bảo Thái quân ty trú tại bắc Nhu Lang Sơn (nay thuộc Bình Xuyên, Cam Túc), Trác La Hòa Nam quân ty trú tại Khách La Xuyên (nay thuộc Vĩnh Đăng, Cam Túc); Hữu sương: Triều Thuận quân ty trú tại Khắc Di Môn ở Hạ Lan Sơn (nay thuộc vùng núi Thạch Chủy ở Ninh Hạ), Cam Châu Cam Túc quân ty trú tại đất cũ của huyện San Đan, Qua Châu Tây Bình quân trú tại Qua châu, Hắc Thủy trấn Yên quân ty trú tại Hắc Thủy thành (nay thuộc kỳ Ngạch Tể Nạp, Nội Mông), Bạch Mã Cường Trấn quân ty trú tại Lâu Bác Bối (nay thuộc trấn Cát Lan Thái, kỳ A Lạp Thiện Tả, Nội Mông), Hắc Sơn Uy Phúc quân ty trú tại Hà Sáo (nay thuộc huyện Ngũ Nguyên, Nội Mông).[6] Thời kỳ toàn thịnh, “chư quân binh đạt hơn 50 vạn”, binh chủng chủ yếu là kị binh và bộ binh. Mỗi một giám quân ty đều phỏng theo chế độ của Tống mà lập ra quân danh, đặt chức đô thống quân, phó thống quân và giám quân ty các, do hoàng đế bổ nhiệm người trong giới quý tộc. Ở bên dưới, đặt ra chức chỉ huy sứ, giáo luyện sứ và 10 tả hữu thị cấm quan, do người Đảng Hạng và người Hán chia nhau đảm nhiệm.[6] Nhân khẩuKhông có ghi chép trong sử sách chuyên về nhân khẩu Tây Hạ, do vậy ước tính về nhân khẩu của Tây Hạ rất mơ hồ, hiện nay giới sử học cũng không thống nhất được số liệu. Tuy nhiên, do Tây Hạ theo chế độ toàn dân là binh nên có thể từ số lượng binh lực mà suy ra lượng nhân khẩu.[26] Hiện nay nhận định rằng số lượng nhân khẩu của Tây Hạ không ít hơn 30 vạn hộ, không cao hơn 2 triệu hộ. Theo ghi chép trong “Tống sử” thì Tây Hạ có 50 vạn đại quân.[27] Hiện có luận điểm cho rằng Tây Hạ có 37 vạn quân, đồng thời tại “Đông Đô sự lược- Tây Hạ truyện” thì ghi rằng “Nẵng Tiêu có 158.500 binh” (chỉ tính quân Tây Hạ là người Đảng Hạng). Lại có luận điểm cho rằng Tây Hạ có hơn 50 vạn quân địa phương, cộng thêm 19 vạn quân trung ương, tổng cộng có khoảng trên dưới 70 vạn quân, do vậy có thể suy ra số lượng nhân khẩu Tây Hạ là khoảng 2-3 triệu người.[26] Tuy nhiên, còn có luận điểm cho rằng số liệu này quá phóng đại, họ căn cứ theo “Tục thư trị thông giám trường biên” và “Long bình tập”, binh lực của Tây Hạ ước tính khoảng từ 15 vạn đến 18 vạn, tổng số hộ do vậy ước khoảng trên dưới 30 vạn.[28][29] Liên quan đến diễn biến nhân khẩu Tây Hạ, các nhà nghiên cứu cũng không có sự thống nhất, căn cứ theo “Trung Quốc nhân khẩu sử” của Triệu Văn Lâm và Tạ Thục Quân vào lúc đỉnh cao năm 1038 là 243 vạn người, sau đó giảm thiểu không ngừng do chiến tranh với Tống và Liêu, sau khi chiến tranh chấm dứt thì phục hồi chậm; năm 1069, nhân khẩu Tây Hạ đạt 230 vạn, mức cao nhất sau khi kiến quốc, rồi sau lại giảm thiểu; vào giai đoạn 1131-1210 thì nhân khẩu duy trì ở mức trên dưới 120 vạn.[30] Tuy nhiên căn cứ theo “Trung Quốc nhân khẩu phát triển sử” của Cát Kiếm Hùng thì nhân khẩu Tây Hạ đạt mức cao nhất là 3 triệu vào thời Hạ Cảnh Tông; sau năm 1127 nhân khẩu Tây Hạ luôn dưới 3 triệu. Căn cứ theo “Trung Quốc nhân khẩu sử”-quyển 3- Liêu Tống Kim Hạ thời kỳ của Ngô Tùng Đệ thì nhân khẩu Tây Hạ đạt đỉnh cao vào năm 1100 thời Hạ Sùng Tông với khoảng 3 triệu người. Mật độ nhân khẩu của Tây Hạ về tổng thể thì thấp hơn mật độ các lộ của Bắc Tống hay các đạo của Đường, song riêng với Lũng Hữu đạo thời Đường thì cao hơn. Điều này là do lãnh thổ Tây Hạ phần lớn là sa mạc, phạm vi thích hợp cho con người cư trú không lớn, lại thêm việc thi hành chế độ toàn dân là binh nên nhân khẩu bị tiêu hao không ít do chiến sự kéo dài.[26] Tây Hạ là một triều đại đa dân tộc, dân tộc chủ thể là người Đảng Hạng, ngoài ra còn có người Hán, người Thổ Phồn, người Hồi Cốt. Người Tây Hạ phần lớn đều có vóc dáng cao và thanh mảnh, thể hiện ra tính cách thô thiển mạnh mẽ, mau lẹ thẳng thắn. Đẳng cấp xã hội phân biệt rõ ràng, phục sức lễ nghi hàng ngày có sự phân chia. Trang phục của hoàng đế, văn quan và võ quan đều có quy định tiêu chuẩn, bình dân bách tính chỉ được phép mặc y phục xanh lục. Vật đội trên đầu cũng là một căn cứ để phân chia đẳng cấp, hoàng đế đội mũ len, hoàng hậu đội mũ long phượng, mệnh phụ đội mũ hình cành cây hoa lá, văn quan quấn khăn che đầu, võ quan cũng có các kiểu đội đầu.[31] Kinh tếKinh tế Tây Hạ lấy súc mục nghiệp làm cơ sở, lấy bò, cừu, ngựa và lạc đà làm chính. Nông sản phẩm chủ yếu là đại mạch, gạo, đậu tất, thanh khoa (lúa mạch núi). Nguyên liệu thuốc và một số chế phẩm thủ công của Tây Hạ đặc biệt nổi tiếng. Tại Tây Hạ, các ngành thủ công nghiệp như luyện kim, làm muối, nung gạch, gốm sứ, xe sợi dệt vải, làm giấy, in ấn, nấu rượu, chế tác đồ vàng bạc hay gỗ đều có quy mô và trình độ nhất định. Sau Khánh Lịch hòa nghị năm 1044, triều đình Tống lập ra ‘các trường’, khôi phục quan hệ dịch giữa Tống và Hạ, sản xuất thủ công nghiệp và thương nghiệp mậu dịch của Tây Hạ phát triển nhanh chóng. Thời Hạ Sùng Tông và Hạ Nhân Tông, kinh tế Tây Hạ phát triển mạnh, vật phẩm tứ phương được đưa đến thủ đô Hưng Khánh, là thời kỳ kinh tế Tây Hạ thịnh vượng nhất.[7] Nông nghiệpBích họa miêu tả cảnh cày bằng bò, hang số 3 của quần thể hang Du Lâm.
Người Đảng Hạng là dân tộc du mục, nông nghiệp của họ phát triển chậm hơn so với súc mục nghiệp, nông-mục đều được xem trọng là điểm đặc sắc trong kinh tế xã hội Tây Hạ. Thời Lý Kế Thiên, người Đảng Hạng liên tiếp chiếm lĩnh các khu vực ở Hà Sáo và Hà Tây tẩu lang, là những nơi thuận lợi cho việc sản xuất ngũ cốc. Trong đó, khu vực Hưng Khánh-Linh châu và khu vực Hoành Sơn là vùng sản xuất lương thực chủ yếu của Tây Hạ,[32] sản lượng lương thực ở đó còn có thể dùng để cứu tế các cư dân chịu ảnh hưởng của thiên tai,[33] lương thực ở khu vực Hoành Sơn đương thời thường được sử dụng để nuôi quân Tây Hạ đánh Tống. Nông sản phẩm chủ yếu của Tây Hạ là đại mạch, gạo, đậu tất, thanh khoa (lúa mạch núi),[34] Dược tài khá nổi tiếng của Tây Hạ có đại hoàng, củ kỷ, cam thảo, nằm trong số các mặt hàng mà các thương nhân gắng sức mua lấy. Ngoài ra Tây Hạ còn có các dược tài như xạ tề, linh giác, sài hồ, thung dung, hồng hoa hay sáp ong. Người Đảng Hạng học tập các kỹ thuật canh tác tương đối tiên tiến của người Hán, sử dụng phổ biến nông cụ làm bằng sắt và dùng bò để cày.[7] Lãnh thổ Tây Hạ phần nhiều là sa mạc, tài nguyên nước khan hiếm, do vậy triều đại này rất xem trọng việc xây dựng công trình thủy lợi. Kênh lạch thời Tây Hạ chủ yếu phân bổ tại Hưng châu và Linh châu, trong đó nổi danh nhất là Hán Nguyên cừ và Đường Lai cừ ở Hưng châu. Thời Hạ Cảnh Tông, triều đình Tây Hạ cho xây dựng kênh tưới nước từ Thanh Đồng Hạp đến Bình La hiện nay, thế gian gọi là “Hạ Vương cừ” hay “Lý Vương cừ”.[35] Tại khu vực Cam châu, Lương châu, người Tây Hạ lợi dụng nước tuyết tan từ Kỳ Liên Sơn, nạo vét và đào sâu thêm các sông lạch, dẫn nước tưới cho ruộng đồng, trong số các tài nguyên nước này thì Hắc Thủy tại Cam châu là được biết đến nhất. Vùng núi Hoành Sơn có các tài nguyên nước như Vô Định Hà, Bạch Mã Xuyên. Trong pháp điển “Thiên Thịnh cải cựu tân định luật lệnh” thời Hạ Cảnh Tông, triều đình Tây Hạ khuyến khích người dân khai khẩn đất hoang, đồng thời quy định về các vấn đề thủy lợi.[36] Súc mục nghiệp Tây Hạ rất phát triển,[37] triều đình Tây Hạ còn đặt ra ‘quần mục ty’ để chuyên quản lý. Các khu chăn nuôi phân bố tại khu vực phía bắc của Hoành Sơn và Hà Tây tẩu lang, trọng yếu là ở Hạ châu, Tuy châu, Ngân châu, Diêm châu và Hựu châu, ngoài ra cao nguyên Ngạc Nhĩ Đa Tư, thảo nguyên A Lạp Thiện và Ngạch Tể Nạp cùng thảo nguyên Hà Tây tẩu lang đều là các khu chăn nuôi thuận lợi. Vật nuôi chủ yếu là bò, cừu, ngựa, và lạc đà, ngoài ra cũng có lừa, la hay lợn. Ngựa ở Tây Hạ dùng cho mục đích quân sự và sản xuất, đồng thời cũng là thương phẩm và cống phẩm trọng điểm đối với bên ngoài, khiến “ngựa Đảng Hạng” có được danh tiếng. Lạc đà chủ yếu được nuôi ở khu vực A Lạp Thiện và Ngạch Tể Nạp, chúng là công cụ vận chuyển trọng yếu ở khu vực cao nguyên và sa mạc. Trong từ thư Tây Hạ “Văn hải” có ghi chép nghiên cứu tỉ mỉ về chăn nuôi gia súc, ghi chép rõ ràng về việc cho ăn, bệnh tật, sinh sản và giống, cho thấy rằng người Tây Hạ có kinh nghiệm rất phong phú đối với chăn nuôi gia súc.[38] Ngoài chăn nuôi gia súc ra, nghề săn bắn cũng rất phát triển, đối tượng săn chủ yếu là chim ưng, cáo, chó, ngựa. Quy mô săn bắn không nhỏ, như trong cống phẩm dâng cho Liêu có 1000 bộ da cáo thảo nguyên.[39] Nghề săn bắn vào trung hậu kỳ Tây Hạ vẫn còn hưng thịnh, được đại thần Tây Hạ xem trọng,[40] quân đội Tây Hạ thường dùng việc săn bắn để huấn luyện hay diễn tập quân sự. Thủ công nghiệpĐồ gốm hình Ca Lăng Tần Già của Tây Hạ
Thủ công nghiệp Tây Hạ phân thành hai loại là quan doanh và dân doanh, trong đó quan doanh là chính. Mục đích sản xuất chủ yếu là để cung cấp cho quý tộc Tây Hạ sử dụng, kế đến là sản xuất để bán ra bên ngoài. Các ngành thủ công nghiệp tương đối toàn diện, trong pháp điển “Thiên Thịnh cải cựu tân định luật lệnh- Ty tự hành văn môn” có phân loại chi tiết.[41] Các ngành thủ công nghiệp chính là xe sợi dệt vải, luyện kim, chế tác đồ bằng vàng bạc hay gỗ, làm muối, nấu rượu, gốm sứ, xây dựng, nung gạch, chế tạo binh khí cũng khá phát triển.[42] “Thanh diêm” là thương phẩm được cư dân ở biên giới Tống-Hạ ưa chuộng, cũng là một trong các tài nguyên trọng yếu của Tây Hạ. Khu vực sản xuất chủ yếu là các giếng muối Ô Trì, Bạch Trì, Ngõa Trì và Tế Hạng Trì ở Diêm châu (nay ở bắc Diêm Trì, Ninh Hạ), hay là Ôn Tuyền Trì ở Linh châu (nay ở Ngô Trung, Ninh Hạ). Thanh diêm sản xuất ở Tây Hạ có vị ngon giá thấp, được hoan nghênh hơn so với muối từ Giải Trì ở Hà Đông (tức tỉnh Sơn Tây ngày nay) của Tống, ngoài ra ở Kiềm Ôi Xuyên tại Tây An châu (nay ở tây Hải Nguyên, Ninh Hạ) còn sản xuất bạch diêm, hồng diêm, chất lượng chỉ kém thanh diêm. Thanh diêm và bạch diêm sản xuất tại Tây Hạ ngoài việc dùng để cung cấp cho nhân dân trong nước, chủ yếu dùng để mậu dịch theo đường chính phủ với Liêu, Tống và Kim, trong đó hầu hết là vận chuyển đến Quan Trung của Tống và dùng nó để đổi lấy một lượng lớn lương thực. Do vậy, triều đình Tống từng cấm chỉ thanh diêm của Tây Hạ qua cửa khẩu, người Tống từ đó chỉ có thể nhập lậu và kiếm được lợi nhuận lớn.[43] Thảm len của Tây Hạ là một thương phẩm xuất khẩu quý hiếm, Livre des merveilles du monde ghi theo lời Marco Polo nhận xét loại len trắng làm từ lông lạc đà trắng ở khu vực Tây Hạ là tốt nhất thế giới.[7] Tây Hạ có tài nguyên khoáng sản khá phong phú, do vậy nghề chế tạo binh khí của triều đại này, như áo giáp rèn nguội khiến cả “thần tí cung”, “toàn phong pháo”, “kính nỗ” cũng không thể bắn xuyên qua, đều được thế nhân khen ngợi; đặc biệt là “Hạ quốc kiếm” sắc nhọn đến mức đương thời không thứ nào bì được, được người Tống quý trọng.[7] Người Tây Hạ tiếp thu văn hóa Hán đồng thời duy trì văn hóa của mình, dùng hai loại văn tự Hán và Tây Hạ trong việc khắc in sách. Nhằm phát triển nghề in ấn, triều đình Tây Hạ còn đặt ra “Khắc tự ty” để chuyên quản việc xuất bản, ngoài ra tư nhân và học hiệu ở Tây Hạ cũng có khả năng in khắc sách. Chủng loại sách được khắc in thì có nhiều, như kinh Phật, kinh điển Hán học, văn học thi ca, âm vận, bói toán bùa chú, y học, kỹ thuật, trong đó kinh Phật có số lượng nhiều nhất. Năm 1189, Hạ Nhân Tông cho phát tán 10 vạn quyển “quan Di Lặc thượng thăng đâu suất thiên kinh” bằng chữ Tây Hạ và Hán, 5 vạn quyển “Kim cương Phổ Hiền hành tụng kinh” cùng “Quan Âm kinh” và các đầu sách khác bằng chữ Hán.[42] Tây Hạ vốn không có đồ sứ, số đồ họ có được chủ yếu là cướp đoạt từ người Tống. Sau Khánh Lịch hòa nghị năm 1044, Tây Hạ học được kỹ thuật làm đồ sứ của người Hán. Đến thời Hạ Nghị Tông, Tây Hạ bắt đầu phát triển nghề làm đồ sứ, chủ yếu lấy Hưng Khánh phủ làm trung tâm sản xuất. Từ những hiện vật khảo cổ khai quật được, có thể thấy đồ sứ được nung của Tây Hạ chủ yếu là bát sứ trắng, mâm sứ trắng. Kỹ thuật của đồ sứ Tây Hạ không bằng được sứ Tống, song đơn giản trang trọng, hình thành một phong cách độc đáo.[42] Thương nghiệp và tiền tệLãnh thổ Tây Hạ bao trùm Hà Tây tẩu lang- nơi con đường tơ lụa đi qua, lại thêm việc trong nước chỉ sản xuất được nhiều gia súc, còn lại thì có nhu cầu lớn về lương thực, trà và một bộ phận sản phẩm thủ công, do vậy mậu dịch đối ngoại là một trong những huyết mạch của kinh tế Tây Hạ, chủ yếu phân thành mậu dịch triều cống, mậu dịch “các trường”, chợ ngầm. Các thành thị thương nghiệp quốc nội của Tây Hạ rất phồn vinh, Hưng Khánh, Lương châu, Cam châu, Hắc Thủy thành đều rất hưng thịnh.[44] Thương phẩm chính là thực phẩm, vải, lụa, vật nuôi, thịt.[45] Tây Hạ có thể sử dụng việc khống chế Hà Tây tẩu lang để quản lý mậu dịch qua lại giữa Tây Vực và Trung Nguyên, bản thân Tây Hạ có mậu dịch thương mại thường xuyên với Bắc Tống, Liêu, Kim, Tây Châu Hồi Cốt và các bộ Thổ Phồn. Do Tây Hạ lũng đoạn quá độ Hà Tây tẩu lang, khiến một bộ phận thương nhân Tây Vực chuyển sang đi băng qua bồn địa Sài Đạt Mộc, qua Thiện châu (nay thuộc Thanh Hải, Tây Ninh) và men theo sông Hoàng Thủy mà sang Tần châu (nay thuộc Thiên Thủy, Cam Túc) của Tống, sử gọi là ‘con đường Thổ Dục Hồn‘.[45] Đối với triều đình Trung Nguyên và Liêu, Tây Hạ lựa chọn hình thức mậu dịch triều cống, đương thời thường dùng lạc đà hay bò cừu để đổi lấy lương thực, trà, hay vật tư trọng yếu. Sau khi Tây Hạ giành được thắng lợi trong chiến tranh Tống-Hạ, theo điều khoản trong Khánh Lịch hòa nghị năm 1044, Tây Hạ mỗi năm có được từ Tống 5 vạn lạng bạc, 13 vạn thất lụa, 2 vạn cân trà; ngoài ra vào các ngày lễ tết mỗi năm còn có thể thu thêm được 2,2 vạn lạng bạc, 2,3 vạn thất lụa, 1 vạn cân trà. Từ thời Lý Kế Thiên, người Đảng Hạng bắt đầu triều cống cho Liêu, đến khi mất nước thì có tổng cộng cống cho Liêu được 24 lần. Tây Hạ còn dùng trà và tuế tệ của Tống để đổi lấy cừu của người Hồi Cốt hay Thổ Phồn, rồi bán lại cho Liêu, Tống hay Kim, thu được lợi nhuận. Mậu dịch triều cống thường bị gián đoạn bởi chiến tranh, mức độ ổn định không lớn.[45] Mậu dịch ‘các trường’ tương đối quy mô mà lại ổn định, ở nơi biên cảnh giữa Tây Hạ với Tống, Liêu, Kim thì hai bên cho đặt ‘các trường’ dùng chung cho mục đích giao dịch biên mậu. Trên biên giới Hạ-Tống thì lập ‘các trường’ ở Bảo An quân (nay thuộc Chí Đan, Thiểm Tây), Trấn Nhung quân (nay thuộc Cố Nguyên, Ninh Hạ), Lân châu, Diên châu. Trên biên giới Hạ-Liêu, lập ‘các trường’ tại Thiên Đức phủ hay Vân Nội ở tây bắc Tây Kinh của Liêu, Ngân Úng Khẩu cùng Quá Yêu Đái và Thượng Thạch Lăng Pha ở tây bắc Vân Trung. Ở những nơi này có không gian ổn định cho hoạt động mậu dịch, có nha nhân đánh giá đẳng cấp của hàng hóa, được quan phủ hai bên trông coi, cùng quản lý thị trường và thu thuế. Vật nuôi, đồ đan len, thảo dược là những mặt hàng mậu dịch chính, ngoài “quan thị” thì các chủng loại thương phẩm có sự phong phú hơn.[45] Sau khi Kim diệt Bắc Tống, mậu dịch đối ngoại của Tây Hạ nằm trong tay của Kim, kinh tế Tây Hạ phụ thuộc vào Kim. Năm 1141, Kim đồng ý mở cửa ‘các trường’ tại Bảo An quân, Lan châu, Tuy Đức, Hoàn châu, Đông Thắng châu. Năm 1172, Kim Thế Tông lấy cớ đóng cửa ‘các trường’ Bảo An quân, Lan châu, Tuy Đức; cho rằng việc đổi tơ lụa lấy xa xỉ phẩm của Tây Hạ là không thích hợp. Điều này khiến cho hai bên có chiến sự không ngừng vào cuối thời Hạ Nhân Tông, 10 năm sau mới khôi phục mậu dịch bình thường. Cuối cùng là “thiết thị” (chợ ngầm) có số lượng lớn và phân tán, là thị trường phi chính thức và buôn lậu, như mậu dịch ‘thanh diêm’ lựa chọn phương thức này để đổi lấy lương thực của Tống.[45] Do thương nghiệp Tây Hạ hưng thịnh, tiền tệ lưu thông cũng hết sức quan trọng: một loại là tiền do Tây Hạ đúc; còn có tiền đến từ Tống hay Kim. Tây Hạ đúc tiền ngay từ thời Hạ Cảnh Tông, các hoàng đế sau này chỉ trừ Hạ hiến Tông và Hạ Mạt Đế ra thì đều có cho đúc tiền, Hạ Nhân Tông và năm 1158 còn thiết lập ‘Thông tế giám’ để quản lý việc đúc tiền. Tiền tệ do Tây Hạ đúc phần lớn đều tốt đẹp, có thư pháp mềm mại thanh thoát. Hiện nay đã phát hiện được năm loại tiền tệ có Tây Hạ văn, phân biệt là “Phúc Thánh bảo tiền”, “Đại An bảo tiền”, “Trinh Quán bảo tiền”, “Càn Hựu bảo tiền”, “Thiên Khánh bảo tiền”.[45] Văn hóaVăn hóa Tây Hạ chịu ảnh hưởng sâu của văn hóa Hán vùng Hà Lũng, cũng như văn hóa Thổ Phồn và Hồi Cốt. Người Tây Hạ đồng thời cũng tích cực tiếp thu văn hóa và chế độ phép tắc Hán,[46] phát triển Nho học,[47] phổ biến Phật học, hình thành một vương quốc Phật giáo có chế độ phép tắc Nho gia.[48] Người Đảng Hạng khởi đầu là bộ lạc du mục, còn Phật giáo sau khi truyền đến Lương châu vào thế kỷ 1 thì dần trở nên hưng thịnh trong khu vực, người Tây Hạ sau khi kiến quốc đã sáng tạo ra nền văn hóa nghệ thuật Phật giáo độc đáo của riêng mình. Chùa khắc đá Bách Nhãn ở kỳ Ngạc Thác Khắc thuộc Nội Mông là kho báu nghệ thuật bích họa Phật giáo Tây Hạ. Trong Hắc Thủy thành ở kỳ Ngạch Tể Nạp phát hiện được kinh Phật bằng Tây Hạ văn, tháp Phật Thích Ca, tượng Quan Âm đắp bằng đất. Ngoài ra, Tây Hạ còn tích cực phát triển hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng. Sau khi Tây Hạ đánh diệt Quy Nghĩa quân vào năm 1036, họ chiếm lĩnh Qua châu và Sa châu, kiểm soát hang Mạc Cao. Từ thời Hạ Cảnh Tông đến thời Hạ Nhân Tông, hoàng đế Tây Hạ nhiều lần hạ lệnh xây dựng sửa chữa trong hang Mạc Cao, khiến nơi đây thêm phần huy hoàng. Đương thời, hang Mạc Cao được bôi màu lục, tiếp thu văn hóa Trung Nguyên và phong cách Úy Ngột Nhi, Thổ Lỗ Phồn.[48] Ngoài ra, biểu hiện cho văn hóa Tây Hạ còn có Tây Hạ văn, còn gọi là “Phiên thư”. Tây Hạ thiết lập Phiên học và Hán học khiến ý thức dân tộc Tây Hạ được tăng cường, bách tính “thông Phiên-Hán tự”, trình độ văn hóa được tăng thêm nhiều. Lý Nguyên Hạo từng ban bố “Thốc Phát lệnh”, lệnh cho nam giới tên toàn quốc trong ba ngày phải cạo đầu, ai trái lệnh phải chết. Tư tưởng và giáo dụcMột phần “Tôn Tử binh pháp” viết bằng Tây Hạ văn theo lối thảo thư.
Thể chế quan liêu và văn hóa cùng chế độ chính trị của Tây Hạ chịu ảnh hưởng sâu của văn hóa Nho gia, từ thời Lý Kế Thiên đến những năm cuối, các đế vương Tây Hạ không ai không học tập và phỏng theo phép chế của người Hán. Thời Lý Kế Thiên, “ngầm đặt chức quan, khác biệt hoàn toàn so với quy chế của người Khương, hết lòng mời Nho sĩ, dần thi hành tập tục Trung Quốc”; đến thời Lý Đức Minh thì “đều như chế độ ở Trung Quốc”. Các thế hệ hoàng thân tông thất của Tây Hạ sùng bái Khổng Tử, tôn trọng ngưỡng mộ văn hóa Hán tộc.[49] Ngoài ra, người Tây Hạ còn soạn viết một số thư tịch dung hợp và tuyên dương học thuyết Nho gia, như “Thánh lập nghĩa hải”, “Tam tài tạp tự”, “Đức hành ký”, “Tân tập từ hiếu truyền”, “Tân tập cẩm hiệp đạo lý”, “Đức sự yếu văn”.[19] Nho học được đề xướng tại các triều Cảnh Tông, Nghị Tông, Huệ Tông, và Sùng Tông, đến thời Nhân Tông thì trở nên rất thịnh. Khi Hạ Cảnh Tông thiết lập quan chế, đồng thời cũng cho thiết lập Phiên học và Hán học để làm cái nôi giúp bồi dưỡng văn hóa.[50] Nhà bác học đa tài Dã Lợi Nhân Vinh được phân chủ trì Phiên học do Hạ Cảnh Tông xem trọng Phiên học, đồng thời ở các châu đặt chức ‘giáo thụ’, để tiến hành giảng dạy Phiên học. Tây Hạ nhìn chung thiết lập 5 loại học hiệu: Phiên học, quốc học, tiểu học, cung học, thái học. Mục đích của việc thiết lập học hiệu chủ yếu là để bồi dưỡng nhân tài, tôn Khổng Tử làm Văn Tuyên Đế. Tây Hạ vào thời trung hậu kỳ còn phát triển chế độ khoa cử, hậu kỳ Hạ Sùng Tông thì bắt đầu tiến hành ‘Đồng tử khoa’, tiến hành khảo thí khoa cử; năm 1147 Hạ Nhân Tông phong cử nhân, lập lại ‘Đồng tử khoa’. Tây Hạ vào hậu kỳ về cơ bản dùng khoa cử để chọn kẻ sĩ làm quan, bất luận là người Hán hay các dân tộc khác, cũng như tông thất quý tộc đều phải trải qua khoa cử trên con đường làm quan.[19] Văn học, sử học và văn tựẤn khắc bằng đồng thanh, dùng để đóng dấu vào các pháp lệnh nhằm xác minh thân phận.
Tây Hạ xem trọng văn hóa Hán, song tác phẩm văn học sáng tác bằng Hán văn truyền thế không nhiều, phần lớn là thi ca và ngạn ngữ. Thi ca Tây Hạ có các thể loại như thơ cung đình, thơ tôn giáo khuyến thiện, thơ khai sáng, kỉ sự và sử thi. Thi ca Tây Hạ có luật vần, thường có kết cấu đối xứng, thông thường là thể ngũ ngôn hoặc thất ngôn, cũng có thể đa ngôn, mỗi câu thơ có số âm tiết khác nhau. “Đại tụng thi” của tác giả Tây Hạ văn Dã Lợi Nhân Vinh nhận được sự tán dương, khá có tiếng. “Hạ thánh căn tán ca” là tác phẩm mang tính sử thi, nội dung phần nhiều là truyền thuyết dân gian, cách dùng từ chọn câu giàu sắc thái ca dao dân gian.[51] Trong đó, bắt đầu bằng ba câu: “Hắc đầu thạch thành mạc thủy biên, Xích diện phụ trủng bạch hà thượng, Cao di dược quốc tại bỉ phương” (黑頭石城漠水邊, 赤面父冢白河上, 高彌藥國在彼方), được các học giả Tây Hạ học sử dụng trong việc nghiên cứu lịch sử khởi nguyên của người Đảng Hạng. Ngoài ra còn có “Tân tu Thái Học ca” khen ngợi Thái Học được xây dựng lại, mang phong cách thơ cung đình. Hạ Sùng Tông xem trọng văn học, bản thân cũng từng sáng tác “Linh chi ca” đối đáp với đại thần Vương Nhân Trung, truyền thành giai thoại.[52] Stephen Wootton Bushell giải mã 37 chữ Tây Hạ sang chữ Hán vào năm 1896.
Ngạn ngữ Tây Hạ đối ngẫu tinh tế chỉnh tề, kết cấu nghiêm ngặt, số từ không giống nhau, nội dung có phạm vi rộng và phản ánh các mặt của xã hội Tây Hạ, đồng thời liên quan đến các yếu tố sản xuất, phong tục, tôn giáo của bách tính. Tập sách ngạn ngữ Tây Hạ nổi tiếng có “Tân tập cẩm hiệp từ”, do Lương Đức Dưỡng biên soạn sơ khởi vào năm 1176, được Vương Nhân Trì biên soạn bổ sung vào năm 1187, tổng cộng có 364 điều ngạn ngữ.[53] Nội dung của tập sách có ghi rằng “Ngạn ngữ không thành thạo thì không cần phải nói”; “thiên thiên chư nhân”, “vạn vạn dân thứ” đều không thể thiếu được ngạn ngữ, thể hiện ra tính quan trọng của ngạn ngữ đối với nhân dân Tây Hạ.[52] Hoàng đế Tây Hạ rất xem trọng công tác biên soạn quốc sử của nước mình. Oát Đạo Xung vào thời Lý Đức Minh đã giữ chức chủ quản việc soạn viết quốc sử của Tây Hạ, hậu duệ của người này sau đó kế tiếp nhiệm vụ. Đến thời Hạ Nhân Tông, đặt ra Hàn lâm học sĩ viện, mệnh Vương Thiêm, Tiêu Cảnh Nhan tham khảo phỏng chiếu theo quy cách viết quốc sử kiểu thực lục của Tống, phụ trách việc viết “Lý thị thực lục”. Năm 1225, Nam viện tuyên huy sứ La Thế Xương sau khi bãi quan đã viết “Hạ quốc thế thứ”, song sau đó bị mất.[54] Vào đêm trước khi lập quốc, để đáp lại kiến nghị về ngôn ngữ quốc gia, Hạ Cảnh Tông phái Dã Lợi Nhân Vinh phỏng theo kết cấu của Hán tự để tạo ra Tây Hạ văn, đến năm 1036 thì ban hành, cũng được gọi là “quốc thư” hoặc “Phiên thư”; biểu, tấu, văn thư qua lại với vương triều xung quanh đều sử dụng Tây Hạ văn. Văn tự này được cấu thành phần nhiều là tương tự cấu tạo lục thư (tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú, giả tá) của Hán tự, song so với Hán tự thì có số nét nhiều hơn.[55] Văn học gia người Tây Hạ là Cốt Lặc Mậu Tài nhận định quan hệ giữa Tây Hạ văn và Hán văn là “luận mạt tắc thù, khảo bổn tắc đồng” (論末則殊,考本則同). Tây Hạ văn sau khi xuất hiện thì được sử dụng rộng rãi trong các sách lịch sử, pháp luật, văn học, y học, hay trên các văn bia được chạm khắc, các tiền tệ được đúc, trên các bùa chú hay thẻ bài. Triều đình Tây Hạ cũng thiết lập Phiên học, do Dã Lợi Nhân Vinh chủ trì, tuyển chọn bổ nhiệm con em quý tộc quan lại phiên dịch văn điển Hán hay kinh điển Phật giáo. Để phục vụ cho việc phiên dịch giữa văn tự Hán và Tây Hạ, Cốt Lặc Mậu Tài vào năm 1190 soạn viết ra “Phiên Hán hiệp thì chưởng trung châu” (番漢合時掌中珠), lời tựa có cả Tây Hạ văn và Hán văn, nội dung tương đồng. Nói rằng “không học nói tiếng Phiên thì không thể hòa hợp với dân Phiên, không biết tiếng Hán thì sao hợp được với phép tắc người Hán”, biểu thị rằng quyển sách này có mục đích là để cho người Tây Hạ và người Hán có thể học tập ngôn ngữ của nhau, là một chìa khóa quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử Tây Hạ hiện nay.[52] Tôn giáoThừa Thiên tự tháp được lập vào thời Hạ Nghị Tông, với sự ủng hộ mạnh mẽ của Một Tạng thái hậu
Nhân dân Tây Hạ nhìn chung chọn Phật giáo làm tín ngưỡng chủ yếu, trước khi kiến quốc thì họ sùng bái tự nhiên là chính.[56] Người Đảng Hạng khi còn ở khu vực Tùng Phan Tứ Xuyên vào thời Đường đã lấy “trời” làm đối tượng sùng bái[57] Những người Đảng Hạng sau khi thiên di đến khu vực Thiểm Bắc, từ sùng bái tự nhiên phát triển đến tín ngưỡng quỷ thần.[58] Sau khi kiến quốc, người Đảng Hạng vẫn tôn sùng tín ngưỡng đa thần, với các vị thần tự nhiên như sơn thần, thủy thần, long thần, thụ thần, các thần thổ địa.[59] Ví dụ như Hạ Cảnh Tông từng “tự đến Tây Lương phủ cúng tế thần”; Hạ Nhân Tông từng lập bia cầu Hắc Thủy ở ven sông Hắc Thủy tại Cam châu, tế cáo chư thần, thỉnh cầu bảo hộ cầu, dẹp yên lũ lụt. Ngoài sùng bái quỷ thần, người Đảng Hạng còn tôn sùng vu thuật, tức ma thuật. Người Đảng Hạng gọi việc cúng quỷ là “tư” (廝), thầy cúng quỷ được gọi là “tư kê” (廝乩), là cầu nối giữa người và quỷ thần, chủ yếu đảm nhiệm về đuổi quỷ và xem bói. Trước chiến tranh, người Tây Hạ tiến hành việc xem bói để hỏi về lành dữ, trong chiến tranh thì họ thường xuyên tiến hành vu thuật “sát quỷ chiêu hồn”.[60] “Kim quang minh tối thắng vương kinh” khắc bằng Tây Hạ văn.
Phật giáo là quốc giáo của Tây Hạ, người Đảng Hạng trước khi kiến quốc từng sáu lần xin đổi lấy kinh Phật của Tống, triều đình Tống ban cho “Đại tạng kinh“. Hạ Cảnh Tông sau khi lập quốc liền bắt đầu cho phiên dịch kinh Phật sang Tây Hạ văn. Trong vòng năm mươi mấy năm, dịch được 820 bộ kinh Đại Thừa và Tiểu Thừa, với 3.579 quyển, đáp ứng nhu cầu của nhân dân đối với Phật giáo. Ngoài ra, Hạ Cảnh Tông cùng các hoàng đế và thái hậu sau đó của Tây Hạ cũng cho xây dựng nhiều chùa chiền Phật giáo, với các trung tâm Hưng Khánh phủ-Hạ Lan sơn, Cam châu-Lương châu, Đôn Hoàng-An Tây, Hắc Thủy thành.[61] Ví dụ, Thừa Thiên tự được xây dựng dựa theo yêu cầu của Một Tạng thái hậu- mẫu hậu của Hạ Nghị Tông, năm 1093 lại trùng tu tháp Cảm Thông và chùa miếu ở Lương châu, năm sau lập “Trùng tu Hộ Quốc tự Cảm Thông tháp bi”. Thời kỳ Hạ Sùng Tông, lại xây dựng thêm Ngọa Phật tự ở Cam châu. Triều đình Tây Hạ hết sức đề xướng Phật giáo, đề cao địa vị của tăng nhân, tăng nhân do đó không cần nộp thuế và gánh vác tạp dịch; nếu phạm tội có thể được giảm miễn tội hình, khu vực xung quanh khuôn viên chùa cũng được triều đình bảo hộ. Đến hậu kỳ, Tây Hạ có xu thế ngày càng chịu ảnh hưởng lớn của Phật giáo Tạng truyền, năm 1159 sơ tổ Đô Tùng Khâm Ba của Già Mã Già Cử phái cho lập chùa Thô Bố, Hạ Nhân Tông phái sứ đến Tây Tạng nghênh tiếp cung phụng. Đô Tùng Khâm Ba phái đại đệ tử Cách Tây Tạng Tỏa Bố đem theo kinh văn đến Hưng Khánh phủ của Tây Hạ, được Hạ Nhân Tông tôn làm thượng sư, đồng thời tham dự vào việc phiên dịch kinh văn. Tây Hạ còn đặt ra chức đế sư, điều mà sau này triều Nguyên cũng thực hiện, và đề cao địa vị của Phật giáo Tạng truyền. Ngoài đế sư ra, Tây Hạ còn có ‘quốc sư’, các tăng nhân còn có nhiều tôn hiệu cao cấp khác, đóng vai trò là trung tâm và xương sống trong việc thúc đẩy sự phát triển của Phật giáo Tây Hạ.[48] Bên cạnh Phật giáo, Tây Hạ cũng bao dung các tôn giáo khác. Đạo giáo cũng được lưu truyền ở Tây Hạ, như hoàng tử của Hạ Cảnh Tông là Ninh Minh học tập tịch cốc thuật của Nho gia mà chết.[62] “Văn hải” giải thích chữ “tiên” (仙) là “người cầu đạo trên núi”, “người cầu trường thọ trên núi). Đến vãn kỳ của Tây Hạ, tại khu vực Sa châu và Cam châu còn lưu truyền Cảnh giáo và Hồi giáo, như Livre des merveilles du monde ghi theo lời kể của Marco Polo ghi rằng tại Đôn Hoàng (tỉnh Tangut) và Cam châu có bộ phận môn đệ Cảnh giáo và Hồi giáo.[63][64] Nghệ thuậtBích họa “Phồ Hiền biến đồ” tại hang số 3 của quần thể hang Du Lâm.
Nghệ thuật của Tây Hạ rất đa nguyên và phong phú, trên các mặt như hội họa, thư pháp, điêu khắc, vũ đạo và âm nhạc đều có thành tựu. Hội họa Phật giáo của Tây Hạ vẫn còn truyền lại cho đến nay, xuất hiện tại bích họa trong các hang đá hay chùa miếu, cho đến nay thì hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng và hang Du Lâm ở Qua Châu là những nơi phong phú nhất. Thời đầu, nghệ thuật hội họa Tây Hạ học tập phong cách của Bắc Tống, sau đó thì chịu ảnh hưởng của Phật giáo Hồi Cốt và Phật giáo Tạng truyền từ Thổ Phồn, cuối cùng hình thành nên phong cách nghệ thuật độc đáo. Nội dung hội họa bao gồm cố sự và thuyết pháp Phật giáo, cung dưỡng Bồ Tát và nhân tượng, hoa văn trang trí trong hang, các tác phẩm có tiếng nhất là “Văn thù biến đồ”, “Phổ Hiền biến đồ”, “Thủy nguyệt Quan Âm đồ”, và “Thiên thủ thiên nhãn Quan Âm kinh biến đồ”. Ngoài ra, trong “Nông canh đồ”, “Đạp đối đồ”, “Đoán thiết đồ” còn quan sát được khung cảnh sản xuất và sinh hoạt trong xã hội Tây Hạ. Về tranh khắc gỗ, phần nhiều là bắt nguồn trong kinh Phật Tây Hạ văn và Hán văn. Tại Hắc Thủy thành khai quật được một lượng lớn tranh vẽ Phật giáo, như “Văn Thù đồ”, “Phổ Hiền đồ”, “Thắng Tam Thế Minh vương Mạn đồ la đồ”, được vẽ đậm với màu nặng, sắc điệu thâm trầm. Còn bản vẽ “Mại nhục đồ” và “Ma quỷ hiện thế đồ” miêu tả sinh động, phản ánh chiều sâu của hội họa Tây Hạ.[8] Về thư pháp, khải thư được thấy nhiều trên các bản kinh được chép và bia văn, triện thư xuất hiện trên đầu bia và quan ấn. Thời kỳ Hạ Nhân Tông, Hàn lâm học sĩ Lưu Chí Trực giỏi về thư pháp, ông dùng bút được làm từ lông đuôi của linh dương Mông Cổ, người thời đó cũng bắt chước theo.[8] Điêu khắc rất phát triển, có đúc đồng, khắc đá, khắc gạch, khắc gỗ, khắc tre, nặn tượng đất, gốm sứ; chúng có đặc điểm là cân đối, đao pháp tinh tế, rất chân thực. Nặn tượng đất lấy đắp tượng chùa Phật làm đại biểu, phần nhiều vận dụng thủ pháp tả thực và khoa trương nghệ thuật, tạo ra hình tượng nhân vật sinh hoạt hiện thực. Ví dụ như vào thời kỳ Hạ Sùng Tông cho dựng Thích Ca Mâu Ni Niết Bàn tượng ở Đại Phật tự tại Cam châu, tượng Tây Hạ cung dưỡng thiên nữ đầy màu sắc ở hang số 491 tại quần thể hang Mạc Cao tại Đôn Hoàng. Các sản phẩm nghệ thuật gốm sứ khác có kỹ thuật khắc tinh tế và sinh động.[8] Thời kỳ đầu, người Đảng Hạng dùng các nhạc khí tì bà, hoành xuy, kích phữu là chính, trong đó hoành xuy tức là ống sáo trúc. Sau đó, người Đảng Hạng tiếp thụ văn hóa âm nhạc Trung Nguyên, thời Lý Đức Minh lựa chọn khuôn phép âm nhạc kiểu Tống và dần dần phát triển. Hạ Cảnh Tông sau khi kiến quốc lại trừ bỏ đi âm nhạc mang tính lễ tiết quá nhiều của Đường-Tống, “đổi nhạc ngũ âm thành nhất âm”.[65] Năm 1148, Hạ Nhân Tông lệnh cho nhạc quan là Lý Nguyên Nho cải đính âm luật, ban danh là “Đỉnh tân luật”. Âm nhạc Tây Hạ rất phong phú,[66] cũng đặt ra ‘Phiên-Hán nhạc nhân viện’, thời Hạ Huệ Tông từng chiêu dụ giới kỹ nữ, nhạc nhân người Hán gia nhập nhạc viện, các hí khúc như “Lưu Tri Viễn chư cung điệu” cũng được truyền nhập tới Tây Hạ.[8] Vũ đạo vào thời kỳ Tây Hạ được lưu lại trên các bia khắc và bích họa trong hang đá, có hình tượng sinh động, dung nạp phong cách vũ đạo Đường-Tống và vũ đạo Mông Cổ. Ví dụ như hai bên trên phần đỉnh bia của “Lương châu Hộ Quốc tự Cảm Ứng tháp” có khắc vũ kỹ, tư thế của người múa đối xứng, khỏa thân, cầm khăn và đeo chuỗi ngọc ở cổ, trong khung cảnh hào phòng cũng hiện ra vẻ tha thướt yêu kiều. Trong hang số 3 trong quần thể hang Du Lâm có bích họa Tây Hạ “Nhạc vũ đồ”, với tư thế mạnh mẽ.[8] Khoa học kỹ thuậtKhoa học kỹ thuật của riêng Tây Hạ tương đối yếu kém, chủ yếu tiếp thu kỹ thuật từ Tống hay Kim, tuy nhiên có chỗ độc đáo trên phương diện rèn đúc vũ khí. Về mặt thiên văn khí tượng, chủ yếu là học tập thiên văn và lịch pháp của triều Tống. Người Tây Hạ đặt ra ‘Ty thiên giám’ để quan sát thiên văn, đồng thời đặt ra chức ‘thái sử’, ‘ty thiêm’ và ‘chiêm giả’ để phân tích, giải thích thiên văn. Trong “Phiên Hán hiệp thì chưởng trung châu” của Cốt Lặc Mậu Tài có ghi chép chi tiết về thiên văn tinh tượng. Ví dụ như phân bầu trời thành các phương vị Thanh Long (đông), Bạch Hổ (tây), Chu Tước (nam), Huyền Vũ (bắc), mỗi phương vị lại đặt ra 7 Tinh tú. Trên phương diện khí tượng, người Tây Hạ cũng có phân tích chi tiết, ví dụ về gió có hòa phong (gió ôn hòa), thanh phong (gió mát), kim phong (gió thu), sóc phong (gió bắc), hắc phong (cuồng phong), toàn phong (gió lốc); về mưa có cao vũ, cốc vũ, thì vũ, ti vũ; mây có yên vân, hạc vân, quyền vân, la vân, đồng vân. Về mặt lịch pháp, Tây Hạ vào năm 1004 có được “Nghi Thiên lịch” từ Bắc Tống, là bản sách lịch đầu tiên của Tây Hạ. Sau khi lập quốc, Tây Hạ thiết lập cơ cấu “Đại hằng lịch viện” để quản lý biên chế và ban hành lịch pháp. Tây Hạ dùng hai loại sách lịch là sách lịch Phiên-Hán hợp bích và sách lịch do triều Tống ban cho, tình hình chi tiết cần phải nghiên cứu thêm.[54] Tri thức y học của người Đảng Hạng vào thời kỳ đầu hết sức thiếu thốn, bách tính mê tín quỷ thần, đại đa số chữa bệnh bằng cách cầu khấn thần linh.[67] Sau khi lập quốc, người Tây Hạ tích cực tiếp thu nền y học và dược học của triều Tống, đồng thời xuất bản tác phẩm y học như “Trị liệu ác sang yếu luận” (治療惡瘡要論). Triều đình Tây Hạ cũng thiết lập “y nhân viện”, trong cơ cấu chính phủ thì thuộc về “trung đẳng ty”. Đối với việc nhận biết bệnh lý thì người Tây Hạ đại đa phân thành các quan điểm huyết mạch không thông,[68] truyền nhiễm[69], “tứ đại bất hòa” (địa, thủy, hỏa, phong)[70] trong đó thì “tứ đại bất hòa” bắt nguồn từ thuyết pháp của Phật giáo Tạng truyền. Do nền y học Tây Hạ không bằng được triều đại Trung Nguyên,[54] vì vậy không thể chữa khỏi một số chứng bệnh nan giải, phải cầu trợ Tống hoặc Kim. Vào thời Hạ Nhân Tông, quyền thần Nhâm Đắc Kính mắc bệnh, điều trị lâu nhưng không khỏi, Hạ Nhân Tông phải phái sứ sang Kim để thỉnh cầu chi viện y liệu.[71] Thời kỳ Hạ Hoàn Tông, mẫu thân của hoàng đế mắc bệnh khiến ông phải khiển sứ sang Kim cầu y.[72] Người Tây Hạ chế tác vũ khí hết sức tinh thâm chất phác, trong đó “Hạ quốc kiếm” là có tiếng nhất, được người Tống khen là “thiên hạ đệ nhất”.[73] Áo giáp Tây Hạ được khen ngợi là cứng trơn chói sáng, không nỏ nào bắn vào được, chuyên cấp cho “Thiết diêu tử” sử dụng. Ngoài ra, Tây Hạ còn có các vũ khí có tiếng khác: chiến xa dùng để công thành gọi là “đỗi lũy”, có thể vượt hào rãnh mà tiến; “toàn phong pháo” đặt trên yên lạc đà, có thể bắn ra đạn đá lớn; “thần tí cung” rất mạnh, có thể bắn trong khoảng từ 240 đến 300 bộ, “có thể xuyên qua áo giáp”.[74] Quân chủThế phả[hiện]
Chú thích
Tham khảoVăn hiến
Thư mục tham khảo
Thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, Liêu, Tống, Hạ, Kim[hiện]
Microsoft WindowsBách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài này viết về một hệ điều hành. Đối với bài về nội dung khác cùng tên, xem Windows (định hướng).
Microsoft Windows (hoặc đơn giản là Windows) là tên của một họ hệ điều hành dựa trên giao diện người dùng đồ hoạ được phát triển và được phân phối bởi Microsoft. Nó bao gồm một vài các dòng hệ điều hành, mỗi trong số đó phục vụ một phần nhất định của ngành công nghiệp máy tính. Các dòng Windows hiện tại gồm Windows NT, Windows Embedded và Windows Phone; chúng có thể bao gồm các phân họ, VD: Windows Embedded Compact (Windows CE) hoặc Windows Server. Các dòng Windows đã bị ngừng gồm Windows 9x và Windows Mobile. Microsoft giới thiệu một môi trường điều hành có tên là Windows vào 20 tháng Mười Một, 1985 như một giao diện hệ điều hành đồ hoạ cho MS-DOS để đáp ứng với sự quan tâm ngày càng tăng với các giao diện người dùng đồ hoạ (GUI).[4] Microsoft Windows dần chiếm ưu thế trong thị trường máy tính cá nhân thế giới với hơn 90% thị phần, vượt qua Mac OS, đã được giới thiệu năm 1984. Tuy nhiên, từ 2012, thị phần của nó đã bị tụt lại so với Android, sau đó trở thành hệ điều hành phổ biến nhất năm 2014, khi tính tất cả các nền tảng máy tính mà Windows chạy (giống như Android); vào 2014, số thiết bị Windows đã bán ít hơn 25% của Android.[cần dẫn nguồn] (Tính đến Tháng Bảy 2015), phiên bản Windows gần đây nhất cho các máy tính cá nhân, máy tính bảng, điện thoại thông minh là Windows 10. Phiên bản gần đây nhất cho máy chủ và thiết bị nhúng lần lượt là Windows Server 2012 R2 và Windows Embedded 8. Cũng có một phiên bản Windows đặc biệt chạy trên máy chơi game console Xbox One.[5] Phiên bản Windows tiếp theo dành cho các máy chủ là Windows Server 2016, được dự kiến ra mắt đầu năm 2016. Mục lụcCác phiên bảnThuật ngữ Windows mô tả chung bất kỳ hoặc tất cả thế hệ hệ điều hành của Microsoft. Những sản phẩm này thường được phân loại như sau: Các phiên bản đầu tiênWindows 1.0, phiên bản đầu tiên, ra mắt năm 1985
Tháng Chín năm 1981, Chase Bishop, một kĩ sư tin học đã thiết kế mẫu thiết bị điện tử đầu tiên và dự án “Interface Manager” được bắt đầu. Nó được công bố vào tháng Mười Một 1983 dưới cái tên “Windows” (cửa sổ), nhưng Windows 1.0 lại không được ra mắt cho đến Tháng Mười Một 1985.[6] Windows 1.0 được cho là cạnh tranh với hệ điều hành của Apple nhưng lại ít phổ biến hơn. Windows 1.0 không phải là một hệ điều hành hoàn chỉnh, đúng hơn, nó là bản mở rộng của MS-DOS. Giao diện của Windows 1.0 thường được biết đến với cái tên MS-DOS Executive. Các tiện ích bao gồm Máy tính, Lịch, Cardfile (trình quản lý thông tin cá nhân), trình xem bộ nhớ tạm, Đồng hồ, Bảng điều khiển (Control Panel), Notepad, Paint (Vẽ), Trò chơi Reversi, Dòng lệnh và Viết. Windows 1.0 không cho phép chồng xếp các cửa sổ. Chỉ có một số hộp thoại mới được chồng lên các cửa sổ khác. Windows 2.0 ra mắt vào Tháng Mười Hai 1987 và còn phổ biến hơn người tiền nhiệm. Các tính năng bao gồm cải thiện giao diện và quản lý bộ nhớ.[cần dẫn nguồn]Windows 2.0 cho phép các cửa sổ xếp chồng lên nhau. Sự thay đổi này khiến Apple cáo buộc Microsoft vi phạm bản quyền của Apple.[7][8] Windows 2.0 còn thêm vào các phím tắt bằng bàn phím và có thể sử dụng với bộ nhớ ngoài. Windows 2.1 ra mắt với 2 phiên bản: Windows/286 và Windows/386. Windows/386 sử dụng chế độ ảo hóa 8086 của Intel 80386 để chạy nhiều chương trình DOS. Windows/286, đúng như tên gọi, chạy trên Intel 8086 và Intel 80286. Nó chạy trên chế độ thực nhưng có thể dùng vùng bộ nhớ lớn. Windows 3.0 và 3.1Windows 3.0 được ra mắt vào năm 1990 đã cải tiến thiết kế, chủ yếu nhờ dung lượng bộ nhớ ảo và VxDs cho phép Windows chia sẻ các thiết bị tùy ý giữa các chương trình đa nhiệm DOS.[cần dẫn nguồn]Các ứng dụng trên Windows 3.0 có thể chạy trong chế độ bảo vệ giúp cho chúng truy cập đến một vài megabyte bộ nhớ mà không cần phải tham gia vào quá trình bộ nhớ ảo. Windows 3.0 cũng thêm vào một số cải tiến mới cho giao diện người dùng. Microsoft viết lại các hoạt động quan trọng từ C sang hợp ngữ. Windows 3.0 là phiên bản Windows đầu tiên đạt được thành công thương mại lớn. bán được 2 triệu bản trong 6 tháng đầu.[9][10] Windows 3.1 phát hành rộng rãi vào 1 tháng Ba 1992 cho thấy một sự đổi mới. Tháng Tám 1993, Windows cho Workgroups, một phiện bản đặc biệt kèm theo giao thức mạng ngang hàng và cái tên Windows 3.11 được ra mắt và được bán cùng Windows 3.1. Các hỗ trợ cho Windows 3.1 kết thúc vào 31 tháng Mười Hai 2001.[11] Windows 9xPhiên bản tiêu dùng theo định hướng lớn tiếp theo và có lẽ là lớn nhất của Windows là Windows 95, được ra mắt vào 24 tháng Tám 1995. Trong khi vẫn phụ thuộc vào MS-DOS, Windows 95 được giới thiệu là hỗ trợ các ứng dụng 32-bit, phần cứng Plug and Play, đa nhiệm ưu tiên, tên tệp tin dài đến 255 ký tự và cung cấp tăng tính ổn định hơn người tiền nhiệm. Windows 95 cũng giới thiệu một giao diện mới, hướng tới đối tượng, thay thế Trình quản lý chương trình bằng Menu Start, thanh điều hướng và Windows Explorer. Windows 95 là một thành công thương mại lớn cho Microsoft. Microsoft đã phát hành 4 bản OSR (OEM Service Releases) cho Windows 95 mỗi bản tương đương với 1 bản service pack. Bản OSR đầu tiên phiên bản đầu tiên của Windows được đi kèm với trình duyệt web của Microsoft, Internet Explorer.[12] Hỗ trợ chính cho Windows 95 kết thúc vào 31 tháng Mười Hai 2000 và hỗ trọ mở rộng kết thúc vào 31 tháng Mười Hai 2001.[13] Windows 95 được tiếp nối bằng sự ra mắt của Windows 98 vào 25 tháng Sáu 1998, giới thiệu Windows Driver Model, hỗ trợ các thiết bị USB tổng hợp, ACPI, chế độ ngủ đông và các thiết lập đa màn hình. Windows 98 cũng kèm theo Internet Explorer 4. Tháng Năm 1999, Microsoft ra mắt Windows 98 Second Edition, một bản cập nhật cho Windows 98. Windows 98 SE thêm vào Internet Explorer 5 và Windows Media Player 6.2 cùng với một số nâng cấp khác. Hỗ trợ chính cho Windows 98 kết thúc vào 30 tháng Sáu 2002 và hỗ trợ mở rộng kết thúc vào 11 tháng Bảy 2006.[14] Ngày 14 Tháng Chín 2000, Microsoft ra mắt Windows ME (Millennium Edition), phiên bản Windows dựa trên nền DOS cuối cùng. Windows ME kết hợp cải tiến giao diện trực quan của nó từ Windows 2000 dựa trên nền Windows NT, có thời gian khởi động nhanh hơn các phiên bản trước (tuy nhiên, nó yêu cầu loại bỏ các khả năng truy cập vào một chế độ thực môi trường DOS, loại bỏ khả năng tương thích với một số chương trình cũ),[15] mở rộng chức năng đa phương tiện (bao gồm Windows Media Player 7, Windows Movie Maker và Windows Image Acquisition để nhận ảnh từ máy scan và máy ảnh kỹ thuật số), một số tiện ích tuỳ chọn như Bảo vệ tập tin hệ thống (System File Protection) và Khôi phục hệ thống (System Restore) và cập nhật các công cụ mạng ở nhà.[16] Tuy nhiên, Windows ME đã phải đối mặt với những lời chỉ trích do tốc độ và sự bất ổn định của nó, cùng với vấn đề tương thích phần cứng và sự loại bỏ hỗ trợ chế độ thực nền DOS. PC World đã cho Windows ME là hệ điều hành tồi nhất mà Microsoft đã từng phát hành, và là sản phẩm công nghệ tồi thứ 4 mọi thời đại.[17] Windows NTCác phiên bản đầu tiênTháng Mười Một 1988, một nhóm lập trình từ Microsoft bắt đầu làm việc với một phiên bản mới của IBM và OS/2 của Microsoft với cái tên “NT OS/2”. NT OS/2 được dự định là một hệ điều hành bảo mật, nhiều người dùng với khả năng tương thích POSIX nhân di động với khả năng đa nhiệm ưu tiên và hỗ trợ nền tảng đa nhân. Tuy nhiên với thành công của Windows 3.0, nhóm NT đã quyết định làm lại dự án với bản 32-bit của Windows API với cái tên Win32 thay vì OS/2. Win32 duy trì cấu trúc tương tự như Windows API (cho phép ứng dụng Windows hiện có thể dễ dàng được chuyển đến các nền tảng khác) nhưng vẫn hỗ trợ nhân NT đã có. Sau khi được phê duyệt bởi các nhân viên của Microsoft, các lập trình viên tiếp tục với bản gọi là Windows NT, phiên bản 32-bit đầu tiên của Windows. Tuy nhiên, IBM đã phản đối những thay đổi trên và cuối cùng tự tiếp tục phát triển OS/2 theo riêng họ.[18][19] Kết quả là phiên bản Windows NT 3.1 (liên kết với Windows 3.1) được ra mắt vào tháng Bảy 1993 với phiên bản cho các trạm làm việc để bàn và các máy chủ. Windows NT 3.5 được ra mắt vào tháng Chín 1994, tập trung vào cải thiện hiệu suất và hỗ trợ NetWare của Novell, và được tiếp nối bởi Windows NT 3.51 vào tháng Năm 1995, thêm vào một vài cải thiện và hỗ trợ cho nền tảng PowerPC. Windows NT 4.0 được ra mắt vào tháng Sáu 1996, giới thiệu giao diện mới của Windows 2000 vào nền tảng NT. Ngày 17 tháng Hai 2000, Microsoft ra mắt Windows 2000, kế thừa NT 4.0. Cái tên Windows NT kết thúc vào thời điểm này để nỗ lực tập trung hơn vào thương hiệu Windows.[19] Windows XPPhiên bản lớn tiếp theo của Windows, Windows XP được ra mắt vào 25 tháng Mười 2001. Sự ra đời của Windows XP là sự kết hợp của nền tảng Windows 9x và Windows NT, một sự thay đổi của Microsoft hứa hẹn sẽ đem lại hiệu năng tốt hơn những người tiền nhiệm dựa trên DOS. Windows XP cũng giới thiệu một giao diện mới (bao gồm menu Start mới và Windows Explorer), sắp xếp hợp lý đa phương tiện và các tính năng mạng, Internet Explorer 6, tích hợp dịch vụ Microsoft .NET Passport, chế độ tương thích với các chương trình dành cho các phiên bản trước và chức năng Remote Assistance.[20] Windows XP được phân phối và bán lẻ theo 2 phiên bản chính: phiên bản “Home” hướng tới người tiêu dùng, còn bản “Professional” hướng tới môi trường doanh nghiệp và người dùng chuyên nghiệp, và còn kèm theo các tính năng mạng và bảo mật tuỳ chọn. Hai phiên bản trên sau đó được đi kèm với bản “Media Center” (dành cho PC để giải trí tại nhà với trọng tâm là hỗ trợ chơi DVD, card TV, chức năng ghi hình DVR và điều khiển từ xa) và bản “Tablet PC” (được thiết kế cho các thiết bị di động đáp ứng thông số kỹ thuật của nó cho một máy tính bảng, hỗ trợ bút cảm ứng)[21][22][23] Hỗ trợ chính cho Windows XP kết thúc vào 14 tháng Tư 2009. Hỗ trợ mở rộng kết thúc vào 8 tháng Tư 2014.[24] Sau Windows 2000, Microsoft còn đổi kế hoạch ra mắt cho các hệ diều hành máy chủ; phiên bản cho máy chủ của Windows XP, Windows Server 2003 được ra mắt vào tháng Tư 2003.[19] Phiên bản tiếp theo của nó là Windows Server 2003 R2 ra mắt vào tháng Mười Hai 2005. Windows VistaSau một quá trình lập trình dài, Windows Vista được ra mắt vào 30 tháng Mười Một 2006 cho cấp phép số lượng lớn và vào 30 tháng Giêng 2007 cho người tiêu dùng. Nó chứa một số tính năng mới như giao diện mới, đặc biệt tập trung vào bảo mật. Nó được chia ra thành nhiều phiên bản và là đề tài của nhiều lời chỉ trích. Phiên bản cho máy chủ, Windows Server 2008 được ra mắt vào năm 2008. Windows 7Ngày 22 tháng Bảy 2009, Windows 7 và Windows Server 2008 R2 ra mắt bản RTM, và được ra mắt chính thức vào 22 tháng Mười 2009. Windows 7 được dự định là tập trung hơn, là bản nâng cấp lớn vào dòng Windows, với mục tiêu là tương thích với các ứng dụng và phần cứng mà Windows Vista đã tương thích.[25]Windows 7 hỗ trợ cảm ứng đa điểm, giao diện cải tiến với thanh điều hướng mới, hệ thống mạng nhà gọi là HomeGroup[26] và cải thiện hiệu năng. Windows 8 và 8.1Windows 8, kế nhiệm Windows 7, được chính thức ra mắt vào 26 tháng Mười 2012. Một số thay đổi đáng kể đã được thực hiện trên Windows 8, bao gồm giao diện Metro mới (sau đổi thành Modern vì lý do bản quyền) thích hợp cho các thiết bị cảm ứng như máy tính bảng và máy tính AIO. Các thay đổi này bào gồm màn hình Start sử dụng các ô lớn để dễ dàng hơn trong cảm ứng và hiển thị các thông tin cập nhật, các ứng dụng mới được thiết kế dành riêng cho cảm ứng. Các thay đổi khác gồm tăng độ liên kết với các dịch vụ đám mây và các nền tảng trực tuyến khác (như mạng xã hội và 2 dịch vụ của Microsoft: SkyDrive và Xbox Live), cửa hàng Windows Store để phân phối các ứng dụng, và một biến thể khác là Windows RT sử dụng cho các thiết bị ARM.[27][28][29][30][31][32] Một bản cập nhật của Windows 8 là Windows 8.1 ra mắt vào 17 tháng Mười 2013, thêm nhiều tính năng mới như các kích cỡ ô vuông mới, liên kết với SkyDrive nhiều hơn,…[33] Windows 10Ngày 30 Tháng 9 năm 2014, Microsoft giới thiệu Windows 10 là sự kế thừa cho Windows 8.1. Nó sẽ được phát hành vào cuối năm 2015 và nhằm tới những thiếu sót trong giao diện người dùng đầu tiên được giới thiệu với Windows 8. Những thay đổi bao gồm sự trở lại của Start Menu, một hệ thống Desktop ảo, và khả năng chạy các ứng dụng Windows Store trong cửa sổ trên máy tính để bàn hơn là trong chế độ toàn màn hình. Windows 10 được thông báo là sẽ được cập nhật miễn phí cho các máy tính Windows 7 và Windows 8.1 đủ điều kiện từ ứng dụng ‘Get Windows 10’ (cho Windows 7, Windows 8.1) hoặc Windows Update (Windows 7)[34] Windows CEPhiên bản mới nhất hiện tại của Windows CE, Windows Embedded Compact 7, hiển thị một ý tưởng giao diện trình chơi phương tiện.
Windows CE (Windows Embeded Compact) là một phiên bản Windows chạy trên các máy tính gọn nhẹ như thiết bị định vị vệ tinh và điện thoại di động.Windows Embedded Compact được dựa trên hạt nhân riêng của nó, có tên là Windows CE. Windows CE được sử dụng trong Dreamcast cùng với hệ điều hành độc quyền của Sega dành cho giao diện điều khiển. Windows CE là cốt lõi mà từ đó Windows Mobile xuất hiện. Người kế nhiệm của nó, Windows Phone 7 dựa trên thành phần của cả Windows CE 6.0 và Windows CE 7.0. Tuy nhiên, Windows Phone 8 lại dựa trên nhân NT của Windows 8. Không nên nhầm lẫn giữa Windows XP Embedded hay Windows NT 4.0 Embedded (2 phiên bản mô-đun của Windows dựa trên nhân WIndows NT) với Windows CE. Thời biểuThời biểu Windows: Bảng [hiện]
Thời biểu Windows: Biểu đồ [hiện]
Thời biểu Windows
Thị phần sử dụng
Bảo mậtPhiên bản tiêu dùng của Windows được thiết kế ban đầu cho tính dễ sử dụng trên máy tính một người dùng mà không cần kết nối mạng, và không có tính năng bảo mật được xây dựng từ đầu.[42] Tuy nhiên, Windows NT và những người kế nhiệm của nó được thiết kế cho bảo mật (bao gồm cả trên mạng) và máy tính đa người dùng, nhưng ban đầu không được thiết kế với an ninh Internet, kể từ khi nó được phát triển đầu tiên vào đầu những năm 1990, việc sử dụng Internet ít phổ biến hơn.[43] Những vấn đề thiết kế kết hợp với lỗi lập trình và sự phổ biến của Windows khiến nó trở thành mục tiêu của virus và sâu máy tính. Tháng Sáu 2005, Counterpane Internet Security của Bruce Schneier báo cáo rằng trong 6 tháng có tới hơn 1000 mẫu virus và sâu mới.[44] Năm 2005, Kaspersky tìm thấy khoảng 11.000 các chương trình độc hại và virus, Trojan,… cho Windows.[45] Microsoft thường tung ra các bản vá lỗi qua Windows Update khoảng 1 tháng một lần (thường vào ngày thứ Ba thứ 2 của tháng), còn một vài các cập nhật quan trọng thường được tung ra sớm hơn khi cần.[46] Trong các phiên bản từ Windows 2000 SP3 trở lên, các bản cập nhật có thể được tự động tải xuống và cài đặt khi người dùng cho phép. Kết quả là các Gói dịch vụ (Service Pack) 2 cho Windows XP và 1 cho Windows Server 2003 được cài đặt nhanh chóng hơn nhiều.[47] Trong khi các dòng Windows 9x được cung cấp tùy chọn có các thông tin cho nhiều người dùng, chúng không có khái niệm về quyền truy cập, và không cho phép truy cập đồng thời; và như vậy không phải là hệ điều hành đa người dùng thực sự. Ngoài ra, các HĐH này chỉ thực hiện bảo vệ bộ nhớ một phần. Việc này đã bị chỉ trích nhiều vì sự thiếu an toàn. Dòng hệ điều hành Windows NT thì ngược lại, là hệ điều hành đa người dùng thực sự và thực hiện bảo vệ bộ nhớ tuyệt đối. Tuy nhiên, rất nhiều lợi thế của một hệ điều hành đa người dùng thực sự đã được vô hiệu hóa bởi một thực tế là, trước Windows Vista, tài khoản người dùng đầu tiên được tạo ra trong quá trình cài đặt là một tài khoản quản trị, mà đó cũng là mặc định cho tài khoản mới. Mặc dù Windows XP đã có tài khoản hạn chế, đa số người dùng gia đình không thay đổi một loại tài khoản có ít quyền – một phần do số lượng các chương trình không cần yêu cầu quyền quản trị – và vì vậy hầu hết người dùng gia đình vẫn chạy tài khoản quản trị. Windows Vista đã thay đổi điều này[48] bằng cách giới thiệu một hệ thống đặc quyền cao được gọi là User Account Control (UAC). Khi đăng nhập như một người dùng chuẩn, một phiên đăng nhập được tạo ra và một thẻ chỉ chứa các đặc quyền cơ bản nhất được đưa ra. Bằng cách này, các phiên đăng nhập mới sẽ không có khả năng làm những thay đổi ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống. Khi một ứng dụng yêu cầu đặc quyền cao hơn hoặc “Run as administrator” được nhấp, UAC sẽ yêu cầu để xác nhận, và nếu đồng ý (bao gồm cả thông tin quản trị nếu tài khoản yêu cầu độ cao không phải là một thành viên của nhóm quản trị viên), bắt đầu quá trình sử dụng các mã thông báo không hạn chế.[49] Windows DefenderNgày 06 tháng Một 2005, Microsoft phát hành phiên bản Beta của Microsoft AntiSpyware, dựa trên bản phát hành trước đó Giant AntiSpyware. Ngày 14 tháng Hai 2006, Microsoft AntiSpyware đã trở thành Windows Defender với việc phát hành bản Beta 2. Windows Defender là một chương trình phần mềm miễn phí được thiết kế để bảo vệ chống lại phần mềm gián điệp và phần mềm không mong muốn. Người dùng Windows XP và Windows Server 2003 có bản sao chính hãng của Microsoft Windows có thể tự do tải chương trình từ trang web của Microsoft và Windows Defender như một phần của Windows Vista và 7.[50] Trong Windows 8, Windows Defender và Microsoft Security Essentials được kết hợp thành một chương trình duy nhất, có tên là Windows Defender. Nó dựa trên Microsoft Security Essentials, vay mượn những tính năng và giao diện người dùng. Mặc dù nó được kích hoạt theo mặc định, nó có thể được tắt để sử dụng một giải pháp chống virus khác.[51] Windows Malicious Software Removal Tool và Microsoft Safety Scanner là hai sản phẩm bảo mật miễn phí khác được cung cấp bởi Microsoft. Chương trình giả lậpChương trình giả lập cho phép người sử dụng chạy các chương trình ứng dụng của Windows mà không cần có Windows.
Xem thêmTham khảo
Liên kết ngoài
Video yêu thích Trở về trang chính |
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Thổ Nhĩ Kỳ
|
Pingback: Chào ngày mới 11 tháng 11 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chuyện vỉa hè | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Im lặng mà bão giông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Myanmar đọc lại và suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ký ức CIMMYT ở Mexico | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Gowda địa chỉ xanh ICRISAT Ấn Độ | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Trường tôi và tình yêu ở lại | Tình yêu cuộc sống
Pingback: 60 năm Đại học Nông Lâm TP. HCM | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ngày mới yêu thương | Khát khao xanh
Pingback: Đọc lại và suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ơn Thầy | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lời của Thầy theo mãi bước em đi | Tình yêu cuộc sống
Pingback: CNM365 Tình yêu cuộc sống | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Công việc này trao lại cho em | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Kênh ông Kiệt giữa lòng dân | Tình yêu cuộc sống
Pingback: 24 tiết khí lịch nhà nông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Sao Kim kỳ thú | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chu Văn Tiếp ở Đồng Xuân | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bàn cờ thế sự | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Mark Twain là Lincoln văn học Mỹ | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Tháp vàng hoa trắng nắng Mekong | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Helen Keller người mù điếc huyền thoại | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ngày Người khuyết tật Quốc tế nhớ bạn | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bí mật cung Đan Dương tại Huế | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Thăm ngôi nhà cũ của Darwin | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đông Dương tìm tòi và cảm nhận | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lên non thiêng Yên Tử | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chào ngày mới 7 tháng 12 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đọc Đỗ Phủ nhớ Đặng Dung | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Hồ đẹp Tanganyika và Victoria | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chào ngày mới 10 tháng 12 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Miên Thẩm là Đỗ Phủ văn chương Việt | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đất Mẹ vùng di sản | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chào ngày mới 14 tháng 12 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chào ngày mới 14 tháng 12 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Sắn Việt Nam bảo tồn phát triển bền vững | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Sông Thương | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đào Duy Từ còn mãi với non sông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chào ngày mới 16 tháng 12 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đến Thái Sơn nhớ Đào Duy Từ | Tình yêu cuộc sống
Pingback: CNM365 Chào ngày mới 365 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Miên Thẩm là Đỗ Phủ Việt | Tình yêu cuộc sống