CNM365. Chào ngày mới 18 tháng 11. Wikipedia Ngày này năm xưa. Năm 1824 – Thủ đô Mexico được Quốc hội Mexico quyết định là một khu vực liên bang, thuộc quyền hạn quản lý của liên bang. Thủ đô Mexico là một thành phố toàn cầu, một trong những trung tâm tài chính quan trọng nhất Bắc Mỹ, đô thị lớn nhất Mexico và châu Mỹ, là trung tâm của một vùng đô thị lớn thứ ba thế giới về quy mô dân số, sau vùng đô thị Seoul và Tokyo. Năm 1067 – Sách Tư trị thông giám được vua Tống Thần Tông ban tên cho biên niên sử Thông chí do tác giả Tư Mã Quang dâng lên. Tác phẩm này rất nổi tiếng, Mao Trạch Đông khi ở đỉnh cao quyền lực đã luôn không rời tay, để học về thuật cai trị của đế vương, nhằm tìm trong sự rối loạn của lịch sử những quy luật và mưu lược kinh bang tế thế. Năm 1959 – Phim sử thi Ben-Hur được công chiếu tại New York, phim đoạt được 11 giải Oscar, trong đó có Giải Oscar cho phim xuất sắc nhất, và là phim tốn kém nhất cho đến đương thời.
18 tháng 11
Ngày 18 tháng 11 là ngày thứ 322 (323 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 43 ngày trong năm.
« Tháng 11 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 |
15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 |
22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 |
29 | 30 | |||||
Mục lục
Sự kiện
- 794 – Thiên hoàng Kammu dời đô từ Nagaoka đến Heian, mở đầu Thời kỳ Heian trong lịch sử Nhật Bản.
- 923 – Hậu Đường Trang Tông Lý Tồn Úc đem quân đến thủ đô Đại Lương của triều Hậu Lương, Hoàng đế Hậu Lương Chu Hữu Trinh tự sát.
- 935 – Sau khi phụ thân là Mân Huệ Tông Vương Diên Quân qua đời trong một cuộc binh biến, Vương Kế Bằng tuyên bố rằng Hoàng thái hậu lệnh cho ông giám quốc và tức hoàng đế vị trong ngày, tức ngày Tân Tị (20) tháng 10 năm Ất Mùi
- 1067 – Tống Thần Tông ban tên Tư trị thông giám cho biên niên sử Thông chí mà Tư Mã Quang dâng lên.
- 1095 – Hội đồng Clermont, do Giáo hoàng Urban II kêu gọi, bắt đầu để thảo luận về việc gửi lính đi giải phóng Đất Thánh trong cuộc Viễn chinh Chữ thập đầu tiên.
- 1302 – Giáo hoàng Boniface VIII ra sắc lệnh Unam sanctam.
- 1307 – William Tell bắn một quả táo khỏi đầu của con ông.
- 1421 – Một quãng tường của bờ đê ven biển Zuider Zee bị vỡ, làm 72 làng bị ngập và làm vào khoảng 10.000 người bị chết ở Hà Lan.
- 1477 – William Caxton in ra Dictes or Sayengis of the Philosophres (Tục ngữ của các Nhà triết học), cuốn sách đầu tiên mà được in ra dùng máy in ở nước Anh.
- 1493 – Christopher Columbus lần đầu tiên kiếm thấy đảo Puerto Rico ngày nay.
- 1626 – Đền thờ Thánh Phêrô ở Thành Vatican được thánh hiến.
- 1812 – Các cuộc chiến tranh của Napoléon: Mặc dù quân Pháp chiến bại trong trận Krasnoi tại Nga song Thống chế Michel Ney trở thành người dũng cảm nhất trong số những người dũng cảm.
- 1824 – Quốc hội Mexico quyết định Thủ đô Mexico là một khu vực liên bang, thuộc quyền hạn quản lý của liên bang.
- 1865 – Câu chuyện The Celebrated Jumping Frog of Calaveras County (Con ếch nhảy nổi tiếng của Quận Calaveras) của Mark Twain được xuất bản trong tờ báo New York Saturday Press.
- 1883 – Các hãng đường xe lửa thiết lập năm múi giờ tiêu chuẩn cho Bắc Mỹ, làm khỏi bị lẫn lộn do hàng ngàn giờ địa phương.
- 1912 – Chiến tranh Balkan lần thứ nhất: Quân Ottoman đại thắng trước quân Bungary trong Trận Çatalca lần thứ nhất tại Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.
- 1930 – Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam được thành lập. [1]
- 1959 – Phim sử thi Ben-Hur được công chiếu tại New York, phim đoạt được 11 giải Oscar và là phim tốn kém nhất cho đến đương thời.
Mất
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về 18 tháng 11 |
Thành phố México
Thành phố México Ciudad de México |
|||
---|---|---|---|
![]() Chùm ảnh về Thành phố México
|
|||
|
|||
Tên hiệu: Ciudad de los palacios (Thành phố của các lâu đài), Ciudad de la Esperanza (Thành phố của Hy vọng) | |||
Khẩu hiệu: Capital en movimiento (Thủ đô năng động) | |||
![]() Vị trí của thành phố México ở trung nam México |
|||
Tọa độ: 19°24′B 99°7′T | |||
Quốc gia | México | ||
Phân cấp Liên bang | Đặc khu Liên bang | ||
Phường | 16 delegaciones | ||
Thành lập | kh.18 tháng 3, 1325 (với tên Tenochtitlan) |
||
Thị xã | 1325 (với tên Mexico Tenustitlán) |
||
Quận liên bang | 1824 | ||
Người sáng lập | Hernán Cortés | ||
Chính quyền | |||
• Thị trưởng | Marcelo Ebrard (![]() |
||
Diện tích1 | |||
• Thành phố | 1.479 km2 (571 mi2) | ||
Độ cao | 2.240 m (7.349 ft) | ||
Dân số (2005) | |||
• Thành phố | 8,720,916 | ||
• Mật độ | 5.741/km2 (14,870/mi2) | ||
• Vùng đô thị | 19.231.829 | ||
• Mật độ vùng đô thị | 137,586/km2 (356.345/mi2) | ||
• Tên gọi dân cư ngụ | Defeño. Chilango. Capitalino | ||
Múi giờ | Múi giờ miền trung Bắc Mỹ (UTC-6) | ||
• Mùa hè (DST) | Múi giờ miền trung Bắc Mỹ (UTC-5) | ||
01000 đến 16999 | |||
Mã điện thoại | 55 | ||
Mã ISO 3166 | MX-CMX | ||
Thành phố kết nghĩa | Andorra la Vella, Athena, Arequipa, Bắc Kinh, Beirut, Berlin, Bogotá, Buenos Aires, San Juan, Puerto Rico, Cairo, Caracas, Chicago, Ciudad Juárez, Cuzco, Doha, Dolores Hidalgo, Thành phố Guatemala, Istanbul, Jakarta, Kaliningrad, Kiev, Thành phố Kuwait, La Paz, Lima, Lisboa, Los Angeles, Madrid, Manila, Montevideo, Nagoya, Nicosia, Thành phố Panama, Ranchi, Rio de Janeiro, Santiago de Chile, São Paulo, San Salvador, Seoul, Stockholm, Stuttgart, Sydney, Tel Aviv, Toronto, Niardo, Houston, Tokyo, La Habana, Maracaibo, Santo Domingo, Guadalajara, Monterrey, Malmö, Cádiz, Rosario, Murom, Samarkand | ||
Trang web | http://www.df.gob.mx | ||
1 Diện tích của Quận liên bang bao gồm khu vực ngoại thành phía nam. |
Thành phố México (tiếng Tây Ban Nha: Ciudad de México) hay Đặc khu Liên bang (Distrito Federal), là thủ đô của México. Thành phố này cũng là đô thị lớn nhất México cũng như tại châu Mỹ và là trung tâm của một vùng đô thị lớn thứ ba thế giới về quy mô dân số, sau vùng đô thị Seoul và Tokyo. Đây là một thực thể liên bang của México và không thuộc bất kỳ bang nào trong tổng số 31 bang của đất nước. Thành phố México là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa quan trọng nhất của đất nước.
Thành phố México là một thành phố toàn cầu [1]. Đây là một trong những trung tâm tài chính quan trọng nhất tại Bắc Mỹ[2]. Thành phố nằm trên Thung lũng México, một thung lũng lớn trên một cao nguyên ở trung tâm của đất nước México với độ cao trung bình 2.240 mét (7350 ft).
Mục lục
Lịch sử
Thời kỳ Aztec
Thành phố mà nay là thủ đô của đất nước México vốn được thành lập bởi những người da đỏ Mexica, hay còn gọi là người Aztec. Thành phố Mexica cổ nay được đề cập đến là Tenochtitlan. Mexica là một nơi cuối cùng của những người nói tiếng Nahuatl, những người đã di cư đến sau sự sụp đổ của Đế chế Toltec. Sự hiện diện của họ đã gặp phải sự chống đối của những cư dân bảm địa trong thung lũng, nhưng người Mexica đã thành lập dược một thành phố trên một hòn đảo nhỏ ở phần phía tây của hồ Texcoco. Bản thân người Mexica có hẳn một câu truyện về cách mà thành phố của họ được xây dựng, sau khi dược Đấng tối cao Huitzilopochtli dẫn đường đến hòn đảo. Theo câu truyện, đấng tối cao đã cho biết quê hương mới của họ bằng một tín hiệu, một con đại bàng đã đậu trên một cây xương rồng với một con rắn trên mỏ của nó. Giữa các năm 1325 và 1521, Tenochtitlan đã phát triển cả về kích cỡ cũng như thực lực, cuối cùng đã chi phối các thành bang khác quanh hồ Texcoco, và tại Thung lũng México. Khi người Tây Ban Nha đến, Đế chế Aztec đã có phạm vi vươn tới nhiều nơi ở Trung Mỹ, giáp cả vịnh México cũng như Thái Bình Dương.
Tây Ban Nha xâm chiếm
Sau khi hạ thủy ở Veracruz, Hernán Cortés đã nghe nói về một thành phố vĩ đại và cả những kình địch cũng như bất bình với thành phố này. Mặc dù Cortés đến Mexico chỉ với một đội quân nhỏ, ông ta đã có thể thuyết phục nhiều người dân bản địa cùng với ông ta tiêu diệt Tenochtitlan[3]. Cortés đã lần đầu nhìn thấy Technochtitlan vào ngày 8/11/1519[4]. Do mới nhìn thấy thành phố lần đầu, Cortés và những người lính của ông đã sững sờ vì vẻ đẹp và quy mô của thành phố. Những người Tây Ban Nha hành quân dọc theo bờ đất chính để vào thành phố từ phía Iztapalapa. Mặc dù Montezuma đã đi ra khỏi trung tâm Tenochtitlan để chào đón họ và trao đổi quà biếu, sự thân thiết này đã không kéo dài lâu [5]. Cortés đã quản thúc tại gia Montezuma và hy vọng quyền lực sẽ về tay ông [6]. Căng thẳng tăng lên cho đến đêm ngày 30/6/1520, trong cuộc chiến thường được biết đến với tên gọi là “La Noche Triste”, người Aztec đã nổi dậy chống lại sự xâm phạm của người Tây Ban Nha và đã bắt giam hoặc đuổi được những người châu Âu và những đồng minh người Tlaxcalan của họ[7]. Cortés tái lập lực lượng ở Tlaxcala. Người Aztec sau đó đã bầu chọn vị vua mới Cuitláhuac nhưng ông đã chết sau đó vài tháng vì bệnh đậu mùa; vị vua tiếp theo là Cuauhtémoc[8]. Cortéc đã quyết định bao vây Tenochtitlan vào tháng 5 năm 1521. Trong ba tháng, thành phố đã phải trải qua sự thiếu thốn về lương thực, nước sạch cùng như việc lây lan bệnh đậu mùa do những người châu Âu mang đến[3]. Cortés và những đồng minh của ông đã đưa lực lượng của họ lên phía nam của hòn đảo và chiến đấu trong thành phố trên từng con phố, từng ngôi nhà [9]. Cuối cùng, Cuahtémoc đã đầu hàng vào tháng 8 năm 1521[3]
Tái thiết
Người Tây Ban Nha trên thực tế đã san bằng Tenochtitlan. Cortés đầu tiên định cư tại Coyoacán, nhưng đã quyết định xây dựng lại Aztec để xóa bỏ tất cả các dấu tích xưa[4]. Cortés không thiết lập một lãnh thổ độc lập mà xây dựng một lãnh thổ được chế ngự do ông là lãnh đạo duy nhất, ông ta vẫn trung thành với hoàng gia Tây Ban Nha. Phó vương đầu tiên của lãnh thổ mới đã đến Thành phố México 14 năm sau đó. Vào lúc đó, thành phố đã trở lại thành một thành bang, có sức mạnh vượt ra xa ranh giới của nó[10] Mặc dù người Tây Ban Nha duy trì các bố trí cơ bản của Tenochtitlan, họ đã xây dựng các nhà thờ Công giáo lên trên các ngôi đến Aztec và tuyên bố cung điện hoàng gia cũ là của họ [10]. Tenochtitlan được đổi tên thành “México” cho người Tây Ban Nha dễ dàng phát âm [4].
Thành phố thuộc địa
Thành phố phát triển cùng với sự gia tăng dân số, ngược lại là mực nước trong hồ. Thế kỷ 16 đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của các nhà thờ, nhiều trong số chúng vẫn còn tồn tại đến ngày nay và trở thành các di tích lịch sử. Về mặt kinh tế, thành phố México trở nên phồn thịnh là nhờ vào việc giao thương. Không giống như Brasil hay Peru, Mexcio có thể dễ dàng tiếp cận với cả các nước ở Thái Bình Dương cũng như Đại Tây Dương. Mặc dù hoàng gia Tây Ban Nha đã thử chỉnh đốn hoàn toàn tất cả ngành thương nghiệp trong thành phố, nhưng việc này đã chỉ thành công một phần [11]. Một cách mà người Tây Ban Nha đã thử kiểm soát hoàn toàn là tôn giáo, nhưng sự thành công không được trọn vẹn. Người bản địa vẫn thi hành các phong tục của mình cùng với các nghi thức của Công giáo La Mã.
Khái niệm về tầng lớp quý tộc phát triển ở Tân Tây Ban Nha theo một cách không giống như những nới khác ở châu Mỹ. Người Tây Ban Nha đã chạm trán với một xã hội mà ở đó khái niệm về tầng lớp quý tộc đã phản ánh chính họ. Người Tây Ban Nha tôn trọng những người bản địa thuộc tầng lớp quý tộc và gia nhập nó. Các thế kỷ tiếp theo, một danh hiệu quý tộc ở Mexico không có nghĩa là có quyền lực chính trị vô cùng lớn và quyền lực của một người bị hạn chế khi sự giàu có của họ không còn [12]. Khái niệm về quý tộc ở México nói chung không liên quan đến địa vị chính trị nhưng phần nào vẫn là một xã hội Tây Ban Nha bảo thủ, dựa trên thế lực của gia đình. Hầu hết các gia đình này chứng tỏ giá trị của mình bằng việc thử vận may ở những vùng đất bên ngoài các thành phố ở Tân Tây Ban Nha, sau đó giành những thu nhập này cho thủ đô, xây dựng những nhà thờ, làm từ thiện và xây những cung điện nguy nga. Việc say mê xây dựng ngôi nhà sang trọng nhất có thể đã lên tới đỉnh vào nửa cuối của thế kỷ 18. Nhiều căn nhà trong số đó vẫn còn cho tới nay, khiến cho thành phố México có biệt danh là “Thành phố của những cung điện” do Alexander Von Humboldt đặt[10].
Thời kỳ đầu độc lập
México tuyên bố độc lập vào năm 1821 sau khi ông cùng nghĩa quân của mình tiến vào thành phố. Trong khi đó việc từ chức của Iturbide đã giữ cho hầu hết các công trình cổ còn lại nguyên vẹn. México sau đó đã tuyên bố là một nước cộng hòa năm 1824 với thành phố México là thủ đô quốc gia [13]. Tình trạng bất ổn kéo dài vài thế kỷ sau đó và là kết quả của các hành động vũ lực để kiểm soát đất nước[14]. Quận Liên Bang México được thành lập bởi chính phủ mới và được ghi vào trong Hiến pháp mới, khái niệm về một quận liên bang được phỏng theo Hiến pháp Hoa Kỳ[15]. Trước đó, thành phố Mexcico giữ vai trò là trung tâm chính quyền đầy đủ của cả Bang México và đất nước. Texcoco và sau đó là Toluca trở thành thủ phủ của Bang México[16]. Trong chiến tranh Hoa Kỳ-México, các lực lượng Hoa Kỳ đã hành quân tới gần thành phố sau khi chiếm được Veracruz[17]. Cuộc xung đột lên đến đỉnh điểm với việc đột kích của lực lượng Hoa Kỳ vào Lâu đài Chapultepec ở bên trong thành phố[18]. Hiệp ước Guadalupe Hidalgo được ký tại nơi mà nay thuộc về phía cực bắc của thành phố[19]. Các sự kiện như Chiến tranh Cải cách đã để lại một thành phố tương đối hoàn chỉnh và thành phố tiếp tục phát triển sau đó, đặc biệt là dưới thời Tổng thống Porfirio Díaz. Trong thới kỳ này, thành phố phát triển các cơ sở hạ tầng hiện đại như đường phố, trường học, hệ thống vận tải và truyền thông. Tuy nhiên, chế độ này chỉ tập trung tài sản vào tay một số người trong khi phần còn lại trong xã hội sống trong cảnh nghèo nàn. Tình trạng này đã dẫn đến cuộc Cách mạng Mexico[14]. Hầu hết các biểu tượng cho giai đoạn này của thành phố là La decena trágica (“10 ngày bi thương”), một cuộc đảo chính chống lại Tổng thống Francisco I. Madero và Phó Tổng thống José María Pino Suárez. Victoria Huerta, Tổng chưởng lý của Quân đội Liên bang đã nắm lấy quyền lực và bắt hai người phải viết đơn từ chức. Cả hai sau đó bị giết trên đường đến nhà tù[20]
Thế kỷ 20 đến nay
Lịch sử thành phố México từ thế kỷ 20 tới nay nổi bật bởi sự phát triển nhanh chóng cũng như về môi trường và chính trị của mình. Năm 1900, dân số thành phố México chỉ là 500.000 người [21]. Thành phố bắt đầu phát triển nhanh về hướng tây trong những năm 1950 với việc Torre Latinoamericana là tòa cao ốc đầu tiên[3]. Thế Vận Hội năm 1968 đem lại nhiều công trình thuận lợi cho việc tổ chức các sự kiện thể thao tầm cỡ[10]. Năm 1969, hệ thống Tàu điện ngầm được khánh thành[3]. Dân số thành phố México bùng nổ bắt đầu từ thập niên 1960, với những khu dân cư đông đúc kéo dài từ trong ranh giới thành phố cho đến tận Bang México lân cận, đặc biệt là ở phía bắc, tây bắc và đông bắc. Từ năm 1960 đến 1980, dân số thành phố đã tăng gấp đôi lên 8.831.079[10]. Năm 1980, một nửa số người làm trong các ngành kỹ nghệ trong cả nước sống ở thủ đô. Với sự phát triển quá nóng, chính quyền thành phố chỉ cung cấp vừa đủ các dịch vụ cho người dân. Những người dân từ các vùng nông thôn đổ về thủ đô để mong thoát khỏi cành nghèo nàn cũng đã góp phần làm cho tình hình thành phố thêm xấu đi. Những người này không có nhà để ở và rốt cuộc họ phải tìm đến những vùng ngoại ô và tạo nên những khu ổ chuột rộng lớn[14]. Vấn đề ô nhiếm không khí và nguồn nước của thành phố khá trầm trọng và thành phố này đang thấp dần vì nạn khai thác nước ngầm quá mức[22]. Tình hình ô nhiếm đã được cải thiện ở một số khu vực cùng với các dự án của chính quyền như nâng cấp các loại phương tiện và hiện đại hóa như xe máy,ôtô… nói riêng
các phương tiện giao thông công cộng nói chung
Các chính quyền độc đoán đã cầm quyền ở thành phố Mexico từ Cách mạng đã dần trở nên khoan dung hơn, chủ yếu vì những phát triển kinh tế từ sau Thế chiến II. Tuy nhiên nhiều vấn đề về dân sinh cũng như môi trường còn có những bất cập. Ngày 19/9/1985, thành phố México đã bị tàn phá một trận động đất mạnh 8,1 độ richter[23]. Mặc dù mức độ phá hủy cũng như thương vong không lớn như ở một số trận động đất khác trên thế giới[24], nó đã chứng tỏ sự yếu kém của hệ thống chính trị một đảng. Chính quyền đã bị tê liệt vì nạn quan liêu và tham nhũng, bắt buộc những người dân bình thường không chỉ phải tạo lập và điều khiển lẫn nhau để giải thoát mình mà còn phải tự nỗ lực tái thiết những ngôi nhà bị phá hủy[25]. Sự bất bình này cuối cùng đã dẫn đường cho Cauhtémoc Cárdenas, một thành viên của Đảng Cách mạng Dân chủ trở thành thị trưởng đầu tiên thông qua bầu cử ở thành phố México vào năm 1997. Cárdenas đã hứa hẹn một chính quyền dân chủ hơn và đảng của ông đã tuyên bố một số thắng lợi trong việc chống lại tội phạm, ô nhiễm, và các vấn đề chính khác.
Địa lý
Thành phố Mêxico nằm trên thung lũng cùng tên, đôi khi cũng được gọi là Lòng chảo Mêxico. Thung lũng này nằm trên Vành đai Núi lửa Xuyên Mêxico nằm ở các cao nguyên có độ cao lớn tại phía nam của miền trung đất nước này.[26]. Nơi thấp nhất của thung lũng có độ cao là 2.200 mét (7.217 ft) trên mực nước biển và được bao quanh bởi các ngọn núi cũng như một số núi lửa cao trên 5000 mét [27]. Thung lũng này không có hệ thống sông nào để có thể thoát nước chảy từ những ngọn núi xuống nên thành phố có thể bị nạn lũ lụt đe dọa. Một hệ thống thoát nước nhân tạo được thiết lập bằng cách sử dụng các con kênh và đường hầm bắt đầu vào thế kỷ 17.[28]. Thành phố chủ yếu nằm trên Hồ Texcoco và các hoạt động địa chấn thường xuyên xảy ra tại đây[29]. Hồ nước này bị cạn nước dần từ thế kỷ 17 và khi nó đã cạn hết, thành phố đã được xây dựng trên nó với một nền đất sét bão hòa. Nền đất mềm của thành phố là nguyên nhân gây ra nhiều vụ sập nhà và từ khoảng đầu thế kỷ 20, thành phố đã bị lún trên 9 mét ở một số khu vực. Việc sụt lún của thành phố là nguyên nhân gây ra các vấn đề về quản lý nguồn nước như nạn ngập lụt, đặc biệt là trong mùa mưa. Các khu rừng còn lại của thành phố nằm ở các phía nam của các khu Milpa Alta, Tlalpan và Xochimilco.
Khí hậu
Thành phố Mexico có kiểu khí hậu cao nguyên cận nhiệt đới. Khu vực htấp của thung lũng nhận được ít mưa hơn so với các khu vực thượng du ở phía nam; các khu thấp là Iztapalapa, Iztacalco, Venustiano Carranza và phần phía tây của khu Gustavo A. Madero, các khu này thường khô hơn và ấm hơn phần phía nam của các khu Tlalpan và Milpa Alta, có một khu rừng thông và sồi nằm trên rặng núi Ajusco.
Nhiệt độ trung bình của thành phố dao động từ 12˚C đến 16˚C (54 đến 61˚F), phụ thuộc vào độ cao của các khu. Nhiệt độ thấp nhất thường xuất hiện vào tháng 1 và tháng hai, có thể xuống thấp đến -2 đến -5˚C (28 đến 23˚F) và thường đi cùng với tuyết rơi ở vùng phía nam Ajusco, nhiệt độ cao nhất xuất hiện vào cuối xuân và hè và có thể lên trên 32˚C (90˚F). Mưa tập trung chủ yếu vào mùa hè và có thể xuất hiện mưa đá. Trung tâm thung lũng México hiếm khi có tuyết vào mùa đông.
Khu vực Thung lũng México nhận được một hệ thống xoáy nghịch, nghĩa là các cơ gió yếu không thể phân tán, bên ngoài lòng chảo, không khí bị ô nhiễm vì có hàng vạn cơ sở công nghiệp và hàng triệu phương tiện giao thông thuộc Vùng đô thị cũng như tại các vùng xa hơn[30].
Khu vực nhận được 820 milimét (32,3 inch) lượng mưa trung bình năm, tập trung từ tháng 6 đến khoảng tháng 9 hay tháng 10 với hơi ẩm nhiệt đới thổi từ biển vào, các tháng mùa khô còn lại có rất ít hoặc thậm chí không có mưa, độ ẩm tương đối thấp. Mùa khô được phận ra thành thời kỳ lạnh từ tháng 11 đến tháng 2 và thời kỳ ấm từ tháng 3 đến tháng 5[31].
[hiện]Dữ liệu khí hậu của Thành phố México (Tacubaya) 1921–1989 |
---|
Hành chính
Đặc khu Liên bang được chia thành 16 “delegaciones” hay các khu. Mặc dù các khu này chưa đủ chức năng để tương đương với một khu đô thị tự trị, song 16 khu này có một số quyền tự trị đáng kể. Từ năm 2000, người đứng đầu các khu đã được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu (trước đó do Thị trưởng Quận Liên bang bổ nhiệm). Thành phố México được định nghĩa tương đương với Đặc khu Liên bang, hầu hết các dịch vụ công của thành phố được đáp ứng bởi Chính quyền Đặc khu Liên bang chứ không phải bởi chính quyền cấp khu, điều này ngược lại với các bang khác ở México vì chính quyền các đô thị tự trị thuộc các bang là cấp chủ yếu phục vụ các dịch vụ công. 16 khu của Đặc khu Liên bang là:
- Álvaro Obregón
- Azcapotzalco
- Benito Juárez
- Coyoacán
- Cuajimalpa
- Cuauhtémoc
- Gustavo A. Madero
- Iztacalco
- Iztapalapa
- Magdalena Contreras
- Miguel Hidalgo
- Milpa Alta
- Tláhuac
- Tlalpan
- VenustianoCarranza
- Xochimilco
Các khu được chia tiếp thành hàng trăm colonias hay các khu phố, chính quyền đơn vị này không có quyền tự quản hay đại diện. Tên của đơn vị hành chính này có nghĩa là “thuộc địa” hay “khu kiều dân”, xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 khi một trong những khu đô thị phát triển đầu tiên bên ngoài trung tâm thành phố là dành cho những người thực dân Pháp định cư. Một vài colonias được biết đến như: Condesa được biết đến với kiểu kiến trúc Art Deco và là một trung tâm nghệ thuật của thành phố; Santa Fe là một tring tâm thương mại và tài chính đang phát triển; Roma là một trong những khu phố cổ nhất thành phố.
Y tế
Kinh tế
Nhân khẩu
Về mặt lịch sử, từ thời Tiền Tây Ban Nha, thung lũng Anáhuac đã là một trong những khu vực có mật độ dân số cao nhất tại México. Khi Quận Liên bang được thành lập vào năm 1824, khu vực đô thị của thành phố México được mở rộng xấp xỉ diện tích của khu Cuauhtémoc ngày nay. Bắt đầu thế kỷ 20, quá trình đô thị hóa phát triển và những người di cư đổ về khu vực phía tây và nam của thành phố và chẳng bao lâu các đô thị nhỏ Micoac và San Ángel được sáp nhập vào thành phố. Theo thống kê năm 1921, dân số thành phố México có dưới một triệu người và trong đó 54,78% dân số thành phố tự nhận mình là người Mestizo (lai giữa người da đỏ và người Âu), 22,79% tự nhận là người Âu và 18,74% tự nhận là người da đỏ[35].
Đến thập niên 1980, Quận Liên bang đã trở thành thực thể liên bang đông dân nhất México, nhưng từ sau đó dân cư thành phố đã ổn định ở mức khoảng 8,7 triệu người. Sự phát triển của thành phố đã vươn ra xa giới hạn của Quận Liên bang đến 59 đô thị tự trị của Bang México và 1 đô thị tự trị của Bang Hidalgo[36]. Vùng đô thị México có xấp xỉ 19,8 triệu người (năm 2008)[37], và đây là một trong những siêu đô thị đông dân nhất trên thế giới. Tuy nhiên, tốc độ tăng dân số hàng năm của Vùng đô thị Thành phố México thấp hơn nhiều sao với các khu vực đô thị lớn khác tại México[38], một hiện tượng được cho là bởi chính sách phi tập trung hóa. Tỷ lệ di cư thực của Quận Liên bang từ 1995 đến 2000 là gần như tương đương[39].
Trong khi chiếm 18,74% dân số thành phố, những người da đỏ từ những vùng khác của đất nước México đã nhập cư đến thủ đô để tìm kiếm cơ hội tốt hơn. Các dân tộc da đỏ Náhuatl, Otomí, Mixteco, Zapoteco, và Mazahua là những ngôn ngữ bản xứ có số lượng người sử dụng lớn nhất tại Thành phố Mexico[40]
Trên một phương diện khác, Thành phố México là nơi sinh sống của nhiều cộng đồng ngoại kiều và những người nhập cư, đáng kể nhất là từ Nam Mỹ (chủ yếu từ Argentina), và Châu Âu (chủ yếu là Tây Ban Nha và Đức) [41][42], Trung Đông (chủ yếu từ Liban và Syria[43]. và gần đây là từ Châu Á (chủ yếu đến từ Trung Quốc và Hàn Quốc)[44]. Mặc dù không số liệu chính thức, dân số của những cộng đồng này khá đáng kể. Thành phố Mexco là thành phố có nhiều công dân Hoa Kỳ sinh sống nhất bên ngoài nước này. Một số ước tính lên tới 600.000 người, trong khi Cục thống kê Hoa Kỳ ước tính năm 1999 có trên 440.000 người Mỹ sống ở Vùng đô thị Thành phố México[45][46]
Tôn giáo
Đại đa số (90,5%) cư dân của Thành phố México là tín đồ Công giáo La Mã, cao hơn bình quân cả nước cho dù đã có sự suy giảm so với những thập kỷ trước[47]. Tuy nhiên, nhiều tôn giáo cũng như triết lý sống khác cũng tồn tại trong thành phố như các nhóm giáo phái Tin Lành hay các nhóm Do Thái giáo, Phật giáo, Hồi giáo cũng như thuyết vô thần
Biểu tượng
Trung tâm Lịch sử của Thành phố Mexico và Xochimilco | |
---|---|
![]() |
|
Quốc gia | Mexico |
Kiểu | Văn hóa |
Hạng mục | ii, iii, iv, v |
Tham khảo | 412 |
Vùng UNESCO | Châu Mỹ |
Lịch sử công nhận | |
Công nhận | 1987 (kì thứ 11) |
Trung tâm Lịch sử (Centro Histórico) và “những khu vườn nổi” ở khu Xochimilco đã được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới vào năm 1987. Các biểu tượng nổi tiếng tại Trung tâm Lịch sử bao gồm Plaza de la Constitución (Quảng trường Hiến pháp) (Zócalo), là một quảng trường chính ở khu vực trung tâm với thời kỳ xung đột giữa Nhà thờ lớn Chính quốc thời kỳ Tây Ban Nha và Cung điện Quốc gia, và Delran, một đền thờ Aztec cổ.
Hầu hết biểu tượng được mọi người công nhận của Thành phố Mexico là Tượng Thiên thần Độc lập bằng vàng, dựa trên địa thế rộng rãi, tao nhã của Đại lộ Páeo de la Reorma, được thiết kế theo chỉ thị của Hoàng đế Maximilian của Mexico tiếp sau Đại lộ Champs-Élysées ở Paris. Đại lộ này là tuyến lộ cổ nhất Châu Mỹ trong thế kỷ 19, kết nối Cung điện Quốc gia (trụ sở chính phủ) với Lâu đài Chapultepec, dinh thự của hoàng đế. Ngày nay, đại lộ này là khu vực tài chính quan trọng và nhiều Công ty chứng khoán đặt trụ sở trên tuyến đường này. Các đại lộ quan trọng khác là Avenida de los Insurgentes, dài tới 28,8 km (17,9 mi) và là một trong những đại lộ đô thị dài nhất thế giới.
Lâu đài Chapultepec nay là một bảo tàng trên một ngọn đồi và có thể nhìn thấy các bảo tàng, các đài tưởng niệm và sở thú quốc gia cũng như Bảo tàng Nhân loại học. Tổng cộng, thành phố có khoảng 160 bảo tàng, 100 nhà triển lãm nghệ thuật và khoảng 30 nhà hát, chúng đều duy trì được các hoạt động văn hóa trong suốt cả năm. Thành phố đứng thứ 4 về số lượng nhà ca kịch trên thế giới sau New York, Luân Đôn, và Toronto và là thành phố có nhiều bảo tàng nhất thế giới.
Giao thông
Thành phố Mé xico được phục vụ bởi Sistema de Transporte Colectivo Metro, một hệ thống tàu điện ngầm dài 207 km, lớn nhất khu vực Mỹ Latinh. Đoạn đầu tiên của hệ thống bts đầu hoạt động vào năm 1969 và sau đó được mở rộng với 11 tuyến và 175 nhà ga. Một hệ thống tàu ngoại ô, được gọi là Tren Suburbano, kết nối trung tâm thương mại của thành phố tới các khu ngoại ô phía bắc. Tuyến tàu điện ngầm thứ 12 đang được xây dựng và khi hoàn thành sẽ nâng chiều dài của toàn tuyến thêm 25 km. Hệ thống tàu điện ngầm của thành phố là một trong những hệ thống vận chuyển bận rộn nhất thế giới với xấp xỉ 4,5 triệu người hàng ngày, chỉ kém các tuyến xe điện ngầm ở Moskva (7,5 triệu), Tokyo (5,9 triệu) và New York (5,1 triệu)[48]. Hệ thống giao thông công cộng này được trợ cấp với tiền vé rẻ nhất thế giới, mỗi chuyến đi chỉ phải trả 3 Peso Mexico và hành khách có thể đi đến hầu khắp các nơi trong thành phố từ 5 giờ sáng đến nửa đêm. Một vài ga tàu trưng bày những đồ khảo cổ và các kiến trúc từ thời tiền Colombo được phát hiện trong quá trình xây dựng hệ thống tàu điện ngầm. Tuy nhiên, tàu điện ngầm không đi đến những khu vực ngoài ranh giới Đặc khu Liên bang và bởi vậy đi bằng xe bus vẫn là một lựa chọn phổ biển. Các xe bus được quản lý bởi các công ty tư nhân và được phép kéo dài lộ trình với điều kiện vẫn đảm bảo được chất lượng phục vụ.
Chính quyền thành phố cũng điều khiển hoạt động của một mạng lưới các xe bus lớn, tương phản với các xe bus nhỏ của tư nhân (peseros), với tiền vé vượt trội so với xe điện ngầm. Ngoài ra còn có một vài tuyến xe điện và tuyến tàu hỏa Ánh sáng Xochimilco, cả hai được điều hành bởi Servicio de Transportes Eléctricos. Tuyến xe điện cuối cùng tại khu vực trung tâm đã đóng cửa năm 1979, nhưng đang có kếch hoạch tái sử dụng chúng để làm tăng thêm tính lịch sử cho khu vực trung tâm[49]. Tuyến xe bus nhanh đầu tiên trong thành phố, Metrobús, bắt đầu hoạt động vào tháng 5 năm 2005, cùng với kỷ niệm Ngày khởi nghĩa. Một tuyến thứ hai đã được xây dựng dọc theo Eje 4 Sur, bắt đầu hoạt động vào tháng 12 năm 2008 [50] và tuyến thứ ba được mở vào tháng 2 năm 2011.
Sân bay Quốc tế Thành phố Mexico phục vụ giao thông bằng hàng không cho thành phố. Đây là sân bay bận rộn nhất và lớn nhất Mỹ Latinh, với các chuyến bay hàng ngày đến Bắc Mỹ, Trung Mỹ, Caribe, Nam Mỹ, Châu Âu, Châu Á cũng như các chuyến bay nội địa. Aeroméxico (Skyteam) và Mexicana (Oneworld) đặt trụ sở tại sân bay này, và cung cấp các thỏa thuận với các Hãng hàng không nước ngoài để nối chuyến đến toàn cầu. Sân bay phục vụ trên 26 triệu hành khách mỗi năm[51]
Thành phố có 4 trạm xe bus chính (Bắc, Nam, Observatorio (Đài Thiên Văn), TAPO), là một trong những tổ hợp chuyên chở lớn nhất thế giới, xe bus đi tới nhiều thành phố khắp nước và có kết nối quốc tế. Thành phố có một ga tàu hỏa, được sử dụng cho các mục đích thương mại và công nghiệp (chuyên chở giữa các bang gần như không tồn tại ở Mexico).
Vào cuối thập kỷ 1970 có nhiều trục đường chính đã được thiết kế lại thành “ejes viales”; đường một chiều có dung lượng lớn, có thể băng từ đầu này tới đầu bên kia của thành phố. Để giải quyết vấn đề môi trường, thành phố đã lập ra ngày không lái xe “Hoy No Circula”, dựa vào số cuối của biển xe để lưu thông trong một số ngày nhất định
Thể thao
Giáo dục
Trường đại học cổ thứ nhì của Châu Mỹ, Đại học Quốc gia Tự trị Mexico (UNAM) nằm tại Thành phố Mexico. Đây là đại học lớn nhất toàn lục địa với 305.969 sinh viên đang theo học. Ba người từng được trao giải Nobel, một số doanh nhân hàng đầu Mexico và hầu hết các tổng thống Mexico ngày nay đều từng là sinh viên cũ của trường. UNAM xếp thứ 45 trong số 200 Trường Đại học Thế giới[52] và là trường đại học nói tiếng Tây Ban Nha có thứ hạng cao nhất. Một khu các trường đại học, được gọi là Ciudad Universtaria (Thành phố đại học), đã được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới năm 2007.
Học viện giáo dục bậc cao lớn thứ nhì là Học viện Bách khoa Quốc gia (IPN), các cơ sở giáo dục bậc cao khác trong thành phố là Đại học Tự trị Thủ đô (UAM), ITAM, ITESM (3 khu), Universidad Panamerica (Đại học Liên Mỹ) (UP), Universidad Anáhuac, Đại học Quốc tế Liên minh (AIU), Universidad Iberoamerica, El Colegio de Mexico (Colmex), Escuela Libre de Derecho và Centro de Investigación y Docencia Económica, (CIDE).
Truyền thông
Thành phố Mexico là trung tâm của ngành công nghiệp truyền hình, âm nhạc và phim truyện của cả khu vực Mỹ Latinh. Đây cũng là trung tâm quan trọng nhất của ngành in và xuất bản Mexico. Hàng chục các tờ nhật báo được xuất bản trong thành phố, như El Universal, Excélsior, Reforma và La Jornada. Các tạp chí hàng đầu là Expansión, Proceso, Poder, hay ấn bản địa phương của tạp chí Vogue.
Hai công ty truyền thông lớn nhất trong cộng đồng các nước nói tiếng Tây Ban Nha là Televisa và TV Azteca có trụ sở tại thành phố Mexico. Các mạng truyền hình khác gồm có Canal 11, Canal 22, Cadena Tres, Teveunam và 11 kênh truyền hình miễn phí.
Thành phố cũng là trung tâm của ngành công nghiệp quảng cáo. Hầu hết các hãng quảng cáo lớn có tầm cỡ quốc tế đều có văn phòng tại thành phố, có thể kể đến là Grey, JWT, Leo Burnett, Euro RSCG, BBDO, Ogilvy, Saatchi & Saatchi, và McCann Erickson. Nhiều hãng địa phương cũng khá thành công trong lĩnh vực này như Alazraki, Olabuenaga/Chemistri, Terán, Augusto Elías, và Clemente Cámara.
Mua sắm
Thành phố Mexico kihá rộng lớn và có nhiều tần lớp người tiêu dùng khác nhau, với hàng nghìn sự lựa chọn từ những thứ đồ ăn giản đơn đến những hàng hóa cấp cao. Khu vực trung tâm thương mại của thành phố được biết đến là khu bán lẻ chuyên dụng với giá cả thấp hơn. Mercado La Merced là một trong những nơi cổ nhất của thành phố và được coi là phiên bản thu nhỏ và cổ kính của Central de Abastos, nơi hàng nghìn món hàng được bán. Mercado de Jamaica đặc trưng với hoa tươi.
Calle Dolores, một khu phố tại Avenida Juárez được biết đến là một khu Phố Tàu của Thành phố Mexico. Khu phố gồm nhiều cửa hiệu bán những đồ dùng quan trọng của người Hoa với những nhà hàng bán món vịt quay Bắc Kinh. Xa ra phía ngoài, khu dân cư Zona Rosa là nơi có vài khu phố được miêu tả là Phố Hàn (Quốc).
Có hàng trăm cửa hàng bán lẻ hiện đại khắp thành phố. Có một số trung tâm hay phố mua sắm lớn, bao gồm Phố buôn bán Santa Fé với 300 cửa hiệu, nhà hàng và rạp chiếu phim. Các nơi khác có thể kể đến là Plaza Universidad, Plaza Satélite, Galerías Insurgentes, Galerías Coapa, Parque Delta, Parque Lindavista, Pabellón Polanco, Pabellón Bosques, Mundo E, Perinorte and Plaza Lindavista.
Văn hóa
Thi hành luật pháp
Tương lai phát triển
Hiện tại Thành phố Mexico có trên 30 dự án xây dựng các tòa nhà siêu cao tầng trong thời gian tới. Cùng với tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế Mexico cũng như thu nhập bình quân đầu người trong nước, tầng lớp thượng lưu và trung lưu phát triển ngày càng đông. Các trung tâm mua sắm và dịch vụ cao cấp sẽ tiếp tục được xây dựng ngày một nhiều trong thập kỷ 2010-2020 khi GDP của México được một số dự báo là sẽ tăng ít nhất là gấp đôi trong giai đoạn này. Những vấn đề thách thức như quá tải dân số, ô nhiễm hay phân bổ thu nhập và chi phí sinh hoạt đắt đỏ được cho rằng vẫn là những mâu thuẫn trong xã hội khi số người thuộc tầng lớp trên trở nên đông đảo hơn.
Hiện tại chính quyền thành phố México đang cố gắng thực hiện vài dự án không chỉ để khắc phục hậu quả của tình trạng bùng nổ dân số vào khoảng thời gian trước đây mà còn hồi sinh những di sản từ thời Tiền Colombo. Các dự án như phục hồi hoàn toàn các kim tự tháp của Teotihuacan, cải tạo có giới hạn Hồ Texcoco và hồi sinh khu vực quận Xochimilco lịch sử.
Chính quyền Thành phố México cũng đã cố gắng làm giảm việc nhập cư đến thành phố từ các khu vực nông thôn bằng những việc như tăng đầu tư, hạn chế ô nhiễm, giảm tỷ lệ tội phạm, tận dụng những dịch vụ công cộng cơ bản và di dời các cơ sở công nghiệp nặng ra xa các trung tâm dân cư.
Chú thích
- ^ Foreign Policy (2008). “The 2008 Global Cities Index”
- ^ “WFE – Member Exchanges”
- ^ a ă â b c “Historia de la Ciudad de Mexico”
- ^ a ă â Marroqui, Jose Maria (1969). La Ciudad de Mexico. Mexico City: Ayuntamiento del Distrito Federal. pp. 21–25.
- ^ “November 1519 Cortes Arrives to Tenochtitlan”
- ^ “November, 1519 Montezuma Arrested”
- ^ “June 1520 Massacre at Tenochtitlán”
- ^ “December 1520Siege, Starvation & Smallpox”
- ^ “The Last Stand: An Aztec Iliad”
- ^ a ă â b c Alvarez, Jose Rogelio (2000). “Mexico, Ciudad de” (in Spanish). Enciclopedia de Mexico. 9. Encyclopædia Britannica. pp. 5242–5260.
- ^ [Hamnett, Brian R. (1998). Concise History of Mexico.. Port Chester, New York, USA: Cambridge University Press.]
- ^ [Ladd, Doris M (1998). Artes deMexico Palacios de la Nueva España The Mexican Nobility. Mexico City: Artes de Mexico y del Mundo. pp. 84–86. ISBN 978-968-6533-61-3.]
- ^ “Don Agustín de Iturbide”
- ^ a ă â “Mexico City History”
- ^ [Weil, Thomas E. (ngày 1 tháng 1 năm 1991). Mexico: Chapter 3B. Evolution of a Nation. Bureau Development, Inc..]
- ^ [Mody, Ashoka (ngày 31 tháng 10 năm 1996). Infrastructure Delivery. World Bank Publications. p. 187. ISBN 978-0-8213-3520-8.]
- ^ “The Battle of Cerro Gordo”
- ^ “The Storming of Chapultepec (General Pillow’s Attack)”
- ^ Richard Griswold del Castillo. “Treaty of Guadalupe Hidalgo”
- ^ “La Decena Trágica, febrero de 1913”
- ^ [LaRosa, Michael J.(Editor) (2005). Atlas and Survey of Latin American History.. Armonk, New York, USA: M. E. Sharpe, Inc.. pp. 118–125.]
- ^ [Mexico City’s Water Supply: Improving the Outlook for Sustainability.. Washington, D.C., USA: National Academies Press. 1995. p. 4.]
- ^ Campus, Yunnven (2005-09-19). “A 20 años del sismo del 85”
- ^ [Moreno Murillo, Juan Manuel (1995). “The 1985 Mexico Earchquake”. Geofisica Coumbia (Universidad Nacional de Colombia) (3): 5–19. ISSN 0121-2974.]
- ^ [Haber, Paul Lawrence (1995). “Earthquake of 1985”. Concise Encyclopedia of Mexico. Taylor & Frances Ltd.. pp. 179–184.]
- ^ “Mexico City: Opportunities and Challenges for Sustainable Management of Urban Water Resources”
- ^ [National Research Council Staff (1995). Mexico City’s Water Supply: Improving the Outlook for Sustainability.. Washington, D.C., USA: National Academies Press. ISBN 978-0-309-05245-0.]
- ^ [httpDiccionario Porrua de Historia, Biografia y Geografia de Mexico 6th ed. – Mexico, Cuenca de. 3. Mexico City: Editorial Porrua. 1995. p. 2238. ISBN 978-968-452-907-6.]
- ^ Yip, Maricela; Madl, Pierre (2002-04-16). Air Pollution in Mexico City
- ^ “Program to improve air quality in the Metropolitan zone of the valley of Mexico – 2002. Secretaría del Medio Ambiente del Distrito Federal, SMA (2002) Programa para Mejorar la Calidad del Aire de la Zona Metropolitana del Valle de Mexico, Gobierno del Distrito Federal”
- ^ Lafregua, J; Gutierrez, A, Aguilar E, Aparicio J, Mejia R, Santillan O, Suarez MA, Preciado M (2003) (PDF). Balance hídrico del Valle de Mexico
- ^ “Normales climatológicas para Mexico–Central–Tacubaya D.F” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Colegio de Postgraduados. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2013.
- ^ “NORMALES CLIMATOLÓGICAS 1981-2000” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Comision Nacional Del Agua. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2013.
- ^ “Tacubaya, Distrito Federal Climate Normals 1961–1990”. National Oceanic and Atmospheric Administration. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2013.
- ^ “The Hispanic Experience – Indigenous Identity in Mexico”
- ^ Consejo Nacional de Población, Mexico; Delimitación de las zonas metropolitanas de Mexico 2005
- ^ Consejo Nacional de Población, Mexico; Proyecciones de la Población de Mexico 2005-2050
- ^ Síntesis de Resultados del Conteo 2005
- ^ “Tasa de emigración, inmigración y migración neta de las entidades federativas”
- ^ Población de 5 y más años hablante de lengua indígena por principales lenguas, 2005
- ^ “Asociaciones de Inmigrantes Extranjeros en la Ciudad de Mexico. Una Mirada a Fines del Siglo XX”
- ^ “Los extranjeros en Mexico, la inmigración y el gobierno ¿Tolerancia o intolerancia religiosa?”
- ^ “Los árabes de Mexico. Asimilación y herencia cultural”
- ^ “Conmemoran 100 años de inmigración coreana”
- ^ Carl Franz and Lorena Havens. “How Many Americans Live in Mexico?”
- ^ “Private American Citizens Residing Abroad”
- ^ Volumen y porcentaje de la población de 5 y más años católica por entidad federativa, 2000
- ^ “MTA NYC Transit – Info”
- ^ [Tramways & Urban Transit magazine (UK), April 2010, p. 150. Light Rail Transit Association.]
- ^ Gómez Flores, Laura (ngày 16 tháng 12 năm 2008). “Con retraso de siete meses inicia línea 2 del Metrobús”
- ^ Aeropuertos Mexico
- ^ “Times Higher Education Supplement, 2006”
![]() |
Wikimedia Commons có thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Thành phố México |
|
|
|
|
|
- Thủ đô Bắc Mỹ
- Thành phố México
- Thành phố đăng cai Thế vận hội Mùa hè
- Thành phố của México
- Di sản thế giới tại México
- Bang của México
- Cựu quốc gia Bắc Mỹ
- Phân cấp hành chính México
Tư trị thông giám
Tư trị thông giám 資治通鑒 |
|
---|---|
Section from one of the original scrolls of the Zizhi Tongjian
|
|
Thông tin sách | |
Tác giả | Tư Mã Quang và cộng sự. |
Quốc gia | Triều Tống |
Ngôn ngữ | Quan Thoại |
Chủ đề | Lịch sử |
Ngày phát hành | 1084 |
Kiểu sách | Quyển |
Tư trị thông giám (chữ Hán: 資治通鑒; Wade-Giles: Tzuchih T’ungchien) là một cuốn biên niên sử quan trọng của Trung Quốc, với tổng cộng 294 thiên và khoảng 3 triệu chữ. Tác giả chính của cuốn sử này là Tư Mã Quang – nhà sử học thời Tống.
Mục lục
Lịch sử
Ban đầu, Tư Mã Quang đặt tên sách là Thông chí, sau đó Tống Thần Tông đổi tên sách thành Tư trị thông giám với hàm ý nhìn việc xưa để thấy rõ việc ngày nay.
Ngoài Tư Mã Quang đóng vai trò chủ biên, những người biên soạn còn có Lưu Thứ, Lưu Ban, Phạm Tổ Vũ và con trai Tư Mã Quang là Tư Mã Khang.
Theo sự phân công của Tư Mã Quang:
- Lưu Ban soạn về giai đoạn Lưỡng Hán
- Lưu Thứ soạn giai đoạn Lưỡng Tấn Nam Bắc triều
- Phạm Tổ Vũ soạn giai đoạn Tùy Đường, Ngũ Đại
Bộ sách là kết quả lao động cật lực của các tác giả sau 19 năm. Để có được công trình này, Tư Mã Quang và các cộng sự đã bỏ ra gần như cả cuộc đời nghiên cứu, khảo chứng. Khi bộ sách hoàn thành năm 1084, Lưu Ban 62 tuổi trông già như ông lão 80, Phạm Tổ Vũ mới 43 tuổi tóc đã bạc, còn Tư Mã Quang 65 tuổi, tóc bạc da mồi và răng rụng[1]. Cuối năm 1084, dù trời mùa đông đầy tuyết, Tư Mã Quang vẫn đóng sách vào 10 chiếc hòm được trang trí chạm trổ lộng lẫy và thân chinh áp tải từ Lạc Dương đến Biện Kinh[2] dâng lên Tống Thần Tông. Khi Tư trị thông giám được mang in ấn nhân bản chưa đầy 1 tháng (1086) thì Tư Mã Quang qua đời vì lao lực[3].
Sử liệu và biên soạn
Triều đình rất ủng hộ việc soạn sách của Tư Mã Quang, cung cấp cho ông nguồn sử liệu phong phú và đa dạng[3]:
- Tàng thư của triều đình có 30.699 quyển sách
- Đích thân Tống Thần Tông ban cho ông 2.400 quyển sách khác
- Tư Mã Quang tự sưu tầm hơn 5.000 quyển sách ở nhà riêng
Tổng cộng số sách mà Tư Mã Quang và những người cộng sự đã tham khảo để soạn Tư trị thông giám lên đến gần 4 vạn cuốn[3]. Thời đó sách đã được in trên giấy, tương truyền số sách tham khảo chất đầy 2 gian phòng.
Quá trình biên soạn của Tư Mã Quang và những người phụ tá chia làm 3 bước:
- Sắp xếp lại các nguồn sử liệu theo trật tự thời gian, phân loại các tài liệu theo hạng mục
- Trường biên, sơ bộ xử lý nguồn tư liệu đã sắp xếp, xem xét lựa chọn và cắt bỏ những phần không liên quan, đồng thời hiệu chỉnh cách hành văn
- San thành định cảo, do Tư Mã Quang trực tiếp đọc, nghiên cứu, khảo đính những điểm giống và khác nhau giữa các tư liệu và loại bỏ những phần thừa, chỉnh lý và hoàn thành bản thảo.
Nội dung
Tác phẩm Tư trị thông giám được viết theo thể biên niên, khái quát một thời kỳ lịch sử dài 1362 năm, từ năm 403 TCN thời Chiến Quốc đến năm 959 hết thời Hậu Chu. Toàn bộ tác phẩm có 294 quyển, có khoảng 3 triệu chữ, ngoài ra còn có 30 quyển mục lục, 30 quyển Khảo dị (khảo sát sự giống và khác nhau).
Tư trị thông giám được chia thành 16 kỷ:
- Chu kỷ, 5 quyển, ghi chép về nhà Chu (từ năm 403 TCN, khi Chu Uy Liệt Vương phong cho ba họ Hàn, Triệu, Ngụy ở nước Tấn trở thành chư hầu)
- Tần kỷ, 3 quyển, ghi chép về nhà Tần. Chu kỷ và Tần kỷ nguyên là quyển Thông chí mà Tư Mã Quang đã dâng lên Tống Anh Tông năm 1066.
- Hán kỷ, 60 quyển, ghi chép về nhà Hán
- Ngụy kỷ, 10 quyển, ghi chép về Tào Ngụy. Thục Hán và Đông Ngô không có kỷ.
- Tấn kỷ, 40 quyển, ghi chép về nhà Tấn
- Tống kỷ, 16 quyển, ghi chép về nhà Lưu Tống
- Tề kỷ, 10 quyển, ghi chép về nhà Nam Tề
- Lương kỷ, 22 quyển, ghi chép về nhà Lương
- Trần kỷ, 10 quyển, ghi chép về nhà Trần. Các triều đại Bắc triều bao gồm Bắc Ngụy, Bắc Tề, Bắc Chu không có kỷ.
- Tùy kỷ, 8 quyển, ghi chép về nhà Tùy
- Đường kỷ, 81 quyển, ghi chép về nhà Đường
- Hậu Lương kỷ, 6 quyển, ghi chép về nhà Hậu Lương
- Hậu Đường kỷ, 8 quyển, ghi chép về nhà Hậu Đường
- Hậu Tấn kỷ, 6 quyển, ghi chép về nhà Hậu Tấn
- Hậu Hán kỷ, 4 quyển, ghi chép về nhà Hậu Hán
- Hậu Chu kỷ, 5 quyển, ghi chép về nhà Hậu Chu. Các nước trong Thập quốc không có kỷ.
Tư Mã Quang viết Tư trị thông giám nhằm mục đích củng cố sự thống trị của triều đình nhà Tống nên nội dung cũng như hình thức mang màu sắc chính trị rõ nét, có thể gọi là sử chính trị[3]. Căn cứ vào đức độ và tài năng của các bậc vua chúa, Tư Mã Quang chia thành năm loại: sáng nghiệp, thủ thành, lăng di, trung hưng và loạn vong. Những vua sáng nghiệp được đề cao như Hán Cao Tổ, Hán Quang Vũ Đế, Tùy Văn Đế, Đường Thái Tông… Những ông vua thủ thành như Hán Văn Đế, Hán Cảnh Đế… Loại vua kém nhất là loại thứ 5: loạn vong như Trần Hậu Chủ, Tùy Dạng Đế…
Tư trị thông giám chú trọng đề cập đến nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong tiến trình phát triển của lịch sử.
- Về quân sự, những trận đánh nổi tiếng như trận Xích Bích hay trận Phì Thủy được đề cập không chỉ nội dung mà còn nguyên nhân cũng được nêu chi tiết.
- Về kinh tế, Tư trị thông giám đi sâu ghi chép những chính sách ruộng đất, tô thuế và lao dịch của các triều đại. Đây là những vấn đề ảnh hưởng đến quốc kế dân sinh như biến pháp của Thương Ưởng thời Chiến Quốc, chính sách trị quốc của Hán Văn Đế, chế độ quân điền của Ngụy Hiếu Văn Đế.
- Về văn hóa tư tưởng và học thuật, Tư trị thông giám đưa ra tổng quan về sự phát triển hưng thịnh của nền học thuật Trung Quốc từ Nho giáo, Đạo giáo, Pháp gia, Hình danh, Âm dương, Tung hoành gia; các học phái nhỏ cũng được thống kê ghi chép.
Không chỉ ghi chép các sự kiện lịch sử, Tư Mã Quang còn đưa ra những bình luận, kiến giải về các sự kiện đó. Có phần do ông ghi lại lời bình chú của người đời trước, có phần do ông tự bình chú.
Đặc điểm và giá trị
Tư trị thông giám được đánh giá là cuốn sử biên niên quan trọng hàng đầu của Trung Quốc[4]. Cuốn sách cung cấp những bài học kinh nghiệm cho giai cấp thống trị theo tôn chỉ ban đầu mà cuốn sách đặt ra và thực sự là kiệt tác của sử học Trung Quốc. Nhà sử học đời nhà Thanh là Vương Minh Thịnh đã đánh giá đây là một cuốn sách “không thể thiếu được trong trời đất, tất cả các học giả đều không thể không đọc”[5].
Những ưu điểm nổi bật của Tư trị thông giám là[5]:
- Tập hợp lịch sử trong 1362 năm vào một bộ sách, được viết với văn phong gọn gàng, chặt chẽ và tiếp thu được một số ưu điểm của thể loại “kỷ truyện”. Mỗi khi bắt đầu một sự kiện lớn trong lịch sử, tác phẩm đều nêu rõ nguyên nhân, kết quả, sử dụng nguồn sử liệu thống nhất, không bị phân tán. Điều đó mở ra một kỷ nguyên mới cho thể biên niên sử
- Sách sáng tạo ra phương pháp biên soạn sử mới gồm 3 bước và khảo dị các sự kiện lịch sử, đóng góp to lớn vào việc soạn sách
- Về tư tưởng sử học, Tư trị thông giám phản ánh chủ trương dựa vào sự việc để viết thành sách, không hoa mỹ, bài trừ tư tưởng mê tín, phản đối thuyết ma quỷ thần thánh, tôn sùng sự tiến bộ, khi nói sự kiện thì nói sơ lược thời cổ, nói kỹ về thời đại.
Tư trị thông giám có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử sử học Trung Quốc. Sự thành công của Tư Mã Quang được sánh ngang với tác phẩm Sử ký Tư Mã Thiên[5].
Có một đặc điểm bị đánh giá là hạn chế của tác phẩm: thể lệ biên niên của sách chỉ biên chép 1 niên hiệu cuối cùng trong năm của các vua chúa, trên thực tế có những năm có hơn 1 niên hiệu lại không được nhắc đến, vì vậy gây khó khăn cho độc giả[6].
Khái niệm chủ yếu
- “Nhược nhục, cường thực” (Yếu thì thịt, mạnh thì ăn) – Tư Trị Thông Giám, chương Đường Kỷ 56 (唐紀 56) viết: “Nhược chi nhục, cường chi thực = Yếu thì thịt, mạnh thì ăn (弱之肉、強之食)”.
- “Giai tiền vạn lý” (Trước thềm, muôn dặm) – Tư Trị Thông Giám, chương Đường Kỷ 65 (唐紀 65) viết: “Khanh đáo bỉ vi chính thiện ác, trẫm giai tri chi, vật vị kỳ viễn. Thử giai tiền tắc vạn lý dã = Bề tôi đến kia để sửa tốt với ác, mọi sự ta đều biết, bất kỳ ở xa. Chỗ muôn dặm như ở trước thềm (卿到彼為政善惡、朕皆知之、勿謂其遠。此階前則萬里也)”.
Xem thêm
Tham khảo
- Nguyễn Thanh Hà (2009), Mười nhà sử học nổi tiếng Trung Quốc, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
Chú thích
Liên kết ngoài
- Tư Trị Thông Giám phần Châu Kỷ (tiếng Việt)
- The Original Text in its Entirety (Chinese)
- Emperor Huan and Emperor Ling from Zizhi Tongjian 54-59 (157–189), Translated and annotated by Rafe de Crespigny.
![]() |
Wikisource có văn bản gốc liên quan đến bài viết: |
Tư Mã Quang
Tư Mã Quang (Phồn thể: 司馬光; Giản thể: 司马光; bính âm: Sima Guang; Wade-Giles: Szuma Kuang; 1019–1086), tự Quân Thật 君實, hiệu Vu Tẩu 迂叟, là một nhà sử học, học giả Trung Quốc, thừa tướng thời nhà Tống. Ông là tác giả của cuối sử nổi tiếng Tư trị thông giám.
Mục lục
Thân thế
Ông sinh năm 1019 tại nơi hiện nay là huyện Vận Thành, tỉnh Sơn Tây trong một gia đình giàu có. Cha ông là Tư Mã Trì từng làm các chức quan huyện, Chuyển vận sứ, Phó sứ tam ty, Lang trung thượng thư Lại bộ, Thiên chương các đãi chế dưới thời Tống Chân Tông và Tống Nhân Tông, nổi tiếng là người trung thực và nhân hậu[1].
Anh Tư Mã Quang là Tư Mã Đán được nối chức cha, trong quan trường trải qua 17 chức vụ khác nhau, làm đến chức Thái trung đại phu, sống khá đạm bạc.
Thời trẻ
Tư Mã Quang được sự giáo dục nghiêm khắc từ nhỏ của cha và anh. Ông theo học Bàng Tịch – bạn của Tư Mã Trì. Sau này Tư Mã Quang cho rằng nếu không có sự dạy dỗ của Bàng Tịch thì ông không có được những thành đạt trong đời[1].
Ông đỗ đầu kỳ thi tiến sĩ khi mới hai mươi tuổi, nhưng khi mới làm quan thì cha và mẹ ông nối nhau qua đời, vì vậy ông phải về chịu tang trong 5 năm.
Sau đó, Tư Mã Quang được Bàng Tịch ra sức tiến cử và truyền đạt tư tưởng tiến thủ trên quan trường. Ông có cơ hội đọc sách làm sử. Ít lâu sau Bàng Tịch mất, ông thờ vợ Bàng Tịch như mẹ mình và coi các con Bàng Tịch như anh em trong nhà[2].
Quan trường
Thời Tống Nhân Tông, Tư Mã Quang lần lượt trải qua các chức quan địa phương và Điện trung thừa, Kiểm khảo sử quán, Khởi cư xá nhân, Đồng tri gián viện, Ngự sử trung thừa, Tri chế cáo, Hàn lâm học kiêm thị giảng… Trong các vị trí, ông đều làm tốt công việc và được vua Tống trọng dụng[2].
Trong các vấn đề trọng đại thời vua Nhân Tông và Anh Tông, ông đều có ý kiến và giải pháp riêng, dần dần trở thành nhân vật quan trọng trên chính trường. Ông luôn giữ tư tưởng truyền thống bảo thủ, vì vậy ông trở thành nhân vật trung tâm của phe bảo thủ chống lại những biến pháp cách tân của Vương An Thạch.
Do tư tưởng giữa ông và Vương An Thạch khác nhau, năm 1070, ông từ chức, rời kinh thành đi Vĩnh Hưng[3]. Sở dĩ Tư Mã Quang phản đối biến pháp của Vương An Thạch vì những ký do[4]:
- Ông không đồng tình với cách dùng người của Vương An Thạch. An Thạch phế bỏ hết các lão thần, trọng thần trong triều mà thăng chức, bổ nhiệm những người mà Tư Mã Quang cho là “tiểu nhân gian tà”.
- Pháp luật không đủ vững chắc, chỉ trong vòng 2 năm mà Vương An Thạch ban bố hàng loạt điều luật mới khiến nhân dân không theo kịp.
- Những cải cách về nông nghiệp và thương mại ở nông thôn, Tư Mã Quang cho rằng làm gánh nặng với nông dân càng nặng thêm.
Năm 1071, ông đến Tây Kinh Lạc Dương nhưng không nhận chức quan nào, không tham gia đàm luận chính sự mà chỉ tập trung viết sử. Ông được triều đình cho phép chở bản thảo sách Tư trị thông giám tiếp tục về đây biên soạn.
Biến pháp của Vương An Thạch đã làm nảy sinh sự bất hòa trong triều đình. Năm 1076, biến pháp rơi vào bế tắc, Vương An Thạch phải xin từ chức. Cuối cùng Tống Thần Tông lại nhờ đến sự giúp đỡ của Tư Mã Quang.
Năm 1085, Tống Thần Tông qua đời, Tư Mã Quang về kinh dự tang lễ hoàng đế. Sau đó ông trở về Lạc Dương. Thái hậu bèn sai người đến Lạc Dương đón ông về triều, phong chức Môn hạ thị lang (phụ tá cho Thừa tướng) nhưng thực tế là chủ trì mọi việc trong triều.
Tháng 2 nhuận năm 1086, Tư Mã Quang được phong làm thừa tướng. Lúc đó ông đã 67 tuổi, sức khỏe yếu. Tuy nhiên, ông vẫn cố đảm đương công việc. Tư Mã Quang phế bỏ những điều luật mới mà Vương An Thạch đề ra, coi đó là “hại dân hại nước”. Đồng thời, ông phạm một số sai lầm như bỏ luôn chính sách miễn nô dịch của Vương An Thạch, không nghe theo những lời khuyên tích cực của Tô Đông Pha và một số kiến nghị khác[5].
Ngày 1 tháng 9 âm lịch năm 1086, Tư Mã Quang qua đời, thọ 67 tuổi.
Soạn Tư trị thông giám
Đóng góp lớn nhất trong lĩnh vực sử học của Tư Mã Quang là bộ sách sử Tư trị thông giám. Thời đó, ông thấy không có một bộ thông sử hoàn chỉnh dễ đọc nào khiến cho người đọc cảm thấy khó nắm bắt các kiến thức. Mặt khác, ông mong muốn vua Tống tu chỉnh, rút ra những bài học xương máu từ sự thịnh suy của các triều đại trước để giữ vừng cơ nghiệp nhà Tống[6].
Năm 1064, ông dâng lên Tống Anh Tông bộ sách năm tập Biểu biên niên, tóm tắt các sự kiện lịch sử Trung Quốc từ năm 403 TCN tới năm 959, đây có thể được coi là lần giới thiệu đầu tiên của cuốn sách và thỉnh cầu được bảo trợ thực hiện công trình. Năm khởi đầu của bộ sách được lựa chọn là năm vị vua nhà Đông Chu công nhận việc phân chia nước Tấn[7] thời Chiến Quốc giữa ba họ lớn là Hàn, Triệu, Ngụy trong nước này, một sự thừa nhận những kẻ chiếm đoạt đánh dấu sự khởi đầu của những cuộc chiến kinh hoàng và mang ý nghĩa quyết định dẫn tới sự chấm dứt nhà Đông Chu và sự thành lập một kiểu đế chế mới Nhà Tần.
Năm 1066, ông dâng một bản khác đầy đủ và nhiều chi tiết hơn Thông chí, gồm tám tập chép lại theo lối sử biên niên giai đoạn từ năm 403 TCN tới năm 207 TCN, và lần này nhà vua đã ra chỉ dụ cho phép ông tiếp tục công việc. Ông được quyền sử dụng thư viện hoàng gia, và triều đình cung cấp mọi chi phí giấy, bút và các vật dụng khác liên quan. Ông cũng được cấp tiền trả cho những phụ tá giúp công việc tìm kiếm tài liệu, gồm cả những nhà sử học giàu kinh nghiệm như Lưu Ban, Lưu Thứ và Phạm Tổ Vũ.
Đầu năm sau, 1067, Anh Tông qua đời, vào tháng 11, ông trình bày trước triều đình và hoàng đế mới Tống Thần Tông về công trình đang tiến hành của mình. Hoàng đế không chỉ xác nhận sự quan tâm tới bộ sử đó mà còn đề xuất đổi tên cuốn sách từ Thông chí thành một cái tên ấn tượng và trang trọng hơn Tư trị thông giám và giao cho ông tiếp tục soạn sách.
Tư trị thông giám không chỉ đề cập các sự kiện lịch sử mà còn có những bình luận, kiến giải về các sự kiện đó. Tư Mã Quang viết Tư trị thông giám nhằm đích củng cố sự thống trị của nhà Tống nên nội dung và hình thức công trình sử học này mang màu sắc chính trị rõ nét[8].
Được Tống Thần Tông ủng hộ, cùng với những tài liệu mà ông sưu tầm, ông có tổng cộng gần 4 vạn đầu sách tham khảo để viết Tư trị thông giám[9]. Cuốn sách được hoàn thành vào năm 1084 sau 19 năm. Tựa đề Thông giám ở đây có thể được hiểu được hiểu là đề cập tới một tác phẩm có tính chất tham khảo và hướng dẫn; vì thế hoàng đế đã chấp nhận tác phẩm trong lĩnh vực khoa học lịch sử và những ứng dụng của nó trong công việc triều đình, và trong nhiều thập kỷ cai trị của mình vị hoàng đế luôn để tâm tới công trình đó.
Cuối năm 1084, dù trời mùa đông đầy tuyết, Tư Mã Quang vẫn đóng sách vào 10 chiếc hòm được trang trí chạm trổ lộng lẫy và thân chinh áp tải từ Lạc Dương đến Biện Kinh[10] dâng lên Tống Thần Tông.
Tư trị thông giám có ảnh hưởng sâu rộng đến lịch sử sử học Trung Quốc, thành công được đánh giá ngang với Sử ký Tư Mã Thiên[11].
Xem thêm
Tham khảo
- Nguyễn Thanh Hà (2009), Mười nhà sử học nổi tiếng Trung Quốc, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
Chú thích
- ^ a ă Nguyễn Thanh Hà, sách đã dẫn, tr 65
- ^ a ă Nguyễn Thanh Hà, sách đã dẫn, tr 66
- ^ Tây An, Thiểm Tây hiện nay
- ^ Nguyễn Thanh Hà, sách đã dẫn, tr 67
- ^ Nguyễn Thanh Hà, sách đã dẫn, tr 68
- ^ Nguyễn Thanh Hà, sách đã dẫn, tr 69
- ^ Sơn Tây hiện nay
- ^ Nguyễn Thanh Hà, sách đã dẫn, tr 70
- ^ Nguyễn Thanh Hà, sách đã dẫn, tr 72
- ^ Khai Phong – Hà Nam
- ^ Nguyễn Thanh Hà, sách đã dẫn, tr 73
Liên kết ngoài
- Emperor Huan and Emperor Ling – Extract from the Zizhi Tongjian Rafe de Crespigny, Internet edition, 1991.
![]() |
Wikimedia Commons có thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Tư Mã Quang |
|
Mao Trạch Đông
Mao Trạch Đông 毛泽东 |
|
![]() Mao Trạch Đông |
|
Chủ tịch Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc | |
---|---|
Nhiệm kỳ | 20 tháng 3 năm 1943 – 9 tháng 9 năm 1976 33 năm, 173 ngày |
Kế nhiệm | Hoa Quốc Phong |
Phó Chủ tịch | Lưu Thiếu Kỳ Lâm Bưu Chu Ân Lai Hoa Quốc Phong |
Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | |
Nhiệm kỳ | 27 tháng 9 năm 1954 – 27 tháng 4 năm 1959 4 năm, 212 ngày |
Kế nhiệm | Lưu Thiếu Kỳ |
Phó Chủ tịch | Chu Đức |
Chủ tịch Ủy ban Quân sự Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc | |
Nhiệm kỳ | 8 tháng 9 năm 1954 – 9 tháng 9 năm 1976 22 năm, 1 ngày |
Kế nhiệm | Hoa Quốc Phong |
Chủ tịch Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân Toàn quốc Trung Quốc | |
Nhiệm kỳ | 1 tháng 10 năm 1949 – 25 tháng 12 năm 1976 27 năm, 85 ngày |
Kế nhiệm | Chu Ân Lai |
Ủy viên Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc | |
Đại diện | Khu vực Bắc Kinh (1954 – 1959; 1964 – 1976) |
Đảng | ![]() |
Sinh | 26 tháng 12 năm 1893 Thiều Sơn, Tương Đàm, Hồ Nam, Đại Thanh Quốc |
Mất | 9 tháng 9 năm 1976 (82 tuổi) Bắc Kinh, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa |
Dân tộc | Hán |
Tôn giáo | Không |
Phu nhân | La Thị (罗一秀) Dương Khai Tuệ (杨开慧) Hạ Tử Trân (贺子珍) Giang Thanh (江青) |
Con cái | Mao Ngạn Anh (毛岸英) Mao Ngạn Thanh (毛岸青) Mao Ngạn Long Lý Mẫn (李敏) Lý Nạp (李讷) |
Mao Trạch Đông Trung văn phồn thể: 毛澤東; giản thể: 毛泽东; bính âm: Máo Zédōng; 26 tháng 12 năm 1893 – 9 tháng 9 năm 1976), tự Nhuận Chi (潤之) ban đầu là Vịnh Chi (詠芝), sau đổi là Nhuận Chi (潤芝, chữ “chi” 之 có thêm đầu chữ thảo 艹), bút danh: Tử Nhậm (子任). Ông là Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1943 đến khi qua đời. Dưới sự lãnh đạo của ông, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã giành thắng lợi trong cuộc nội chiến với Quốc Dân Đảng, lập nên nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) năm 1949 và trở thành đảng cầm quyền ở Trung Quốc.
(Ông đã tạo ra một chủ nghĩa Mác-Lênin được Trung Quốc hóa có tên là chủ nghĩa Mao mà ngày nay ban lãnh đạo Trung Quốc gọi là tư tưởng Mao Trạch Đông (Những người theo chủ nghĩa này được gọi là những người Mao-ít (Maoist), tương tự như Marxist, Leninist)
Mao Trạch Đông là người có công trong việc gần như thống nhất được Trung Quốc, đưa Trung Quốc thoát khỏi ách áp bức của ngoại quốc kể từ cuộc Chiến tranh Nha phiến cuối thế kỷ 19, mở đầu công cuộc hiện đại hóa Trung Quốc, nhưng cũng bị phê phán về những chính sách sai lầm dẫn tới nạn đói 1959–1961 và những thiệt hại xã hội của Cách mạng văn hóa. Dưới thời ông, nông nghiệp Trung Quốc được tập thể hóa dưới hình thức công xã nhân dân. Chính sách Đại nhảy vọt trong kinh tế đã để lại những hậu quả tai hại. Mao Trạch Đông cũng là người phát động Đại Cách mạng văn hóa vô sản, thường gọi là Cách mạng văn hóa. Theo một số liệu thống kê[1], các chính sách sai lầm của Mao Trạch Đông đã trực tiếp hay gián tiếp gây ra cái chết cho khoảng 1 triệu người.[2]
Mao Trạch Đông thường được gọi một cách tôn kính tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là Mao Chủ tịch (毛主席). Vào thời đỉnh cao của sự sùng bái cá nhân, ông được tôn là người có bốn cái “vĩ đại”: Người thầy vĩ đại, Lãnh tụ vĩ đại, Thống soái vĩ đại, Người cầm lái vĩ đại (伟大导师,伟大领袖,伟大统帅,伟大舵手 vĩ đại đạo sư, vĩ đại lãnh tụ, vĩ đại thống soái, vĩ đại đà thủ).
Là một nhân vật gây tranh cãi, Mao được coi là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử thế giới hiện đại,[3] và cũng được biết đến như một nhà lý thuyết, nhà chiến lược quân sự, nhà thơ và lãnh đạo có tầm nhìn xa[4]. Những người ủng hộ Mao cho rằng ông đã có công đánh đuổi chủ nghĩa đế quốc ra khỏi Trung Quốc,[5] hiện đại hóa Trung Quốc và xây dựng nước này thành một cường quốc, nâng cao vị thế phụ nữ, cải thiện giáo dục và chăm sóc sức khoẻ và tăng tuổi thọ trung bình khi dân số Trung Quốc tăng từ 550 triệu lên trên 900 triệu dưới sự lãnh đạo của ông.[6][7] Ngược lại, các nhà phê bình coi Mao Trạch Đông là một nhà độc tài tương đương với Adolf Hitler và Joseph Stalin, người đã phá huỷ văn hoá truyền thống Trung Quốc, và coi ông là một tên tội phạm đã vi phạm nhân quyền. Họ ước tính rằng Mao chịu trách nhiệm cho cái chết của 40 đến 70 triệu người vì nạn đói, lao động khổ sai và hành quyết, với các con số này đã đưa giai đoạn Mao cầm quyền trở thành giai đoạn tỷ lệ tử vong hàng đầu trong lịch sử nhân loại[8][9].
Mục lục
Những năm đầu
Là con út trong một gia đình trung nông, Mao Trạch Đông sinh giờ Thìn ngày 19 tháng 11 năm Quý Tị (năm Quang Tự thứ 19) theo âm lịch, tức 26 tháng 12 năm 1893 tại làng Thiều Sơn, huyện Tương Đàm (湘潭縣), tỉnh Hồ Nam. Dòng tộc của ông vào thời nhà Minh đã di cư từ tỉnh Giang Tây đến đây và nhiều đời làm nghề nông.
Trong cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911), lúc này Mao còn là một học sinh 18 tuổi, triều nhà Thanh bị lật đổ, Trung Quốc tuyên bố thành lập chế độ cộng hòa; người lãnh đạo Cách mạng không thành lập được một chính phủ thống nhất và vững vàng, dẫn đến cuộc nội chiến trong một thời gian dài. Khi đó Mao đang phục vụ trong quân đội tỉnh Hồ Nam. Sau đó Mao trở về trường học. Sau khi tốt nghiệp Trường Sư phạm số 1 tỉnh Hồ Nam vào năm 1918, Mao cùng với người thầy học và là cha vợ tương lai, giáo sư Dương Xương Tế (杨昌济), lên Bắc Kinh, nơi giáo sư Dương nhận một chân giảng dạy tại Đại học Bắc Kinh. Nhờ sự giới thiệu của giáo sư Dương, Mao được vào làm nhân viên thư viện của trường đại học (thư viện do Lý Đại Chiêu phụ trách). Đồng thời Mao học tại chức tại Đại học Bắc Kinh, nghe nhiều học giả hàng đầu như Trần Độc Tú, Hồ Thích (胡適) và Tiền Huyền Đồng (錢玄同) giảng bài. Sau này Mao kết hôn với Dương Khai Tuệ, con gái giáo sư Dương và cũng là sinh viên Đại học Bắc Kinh. (Khi Mao 14 tuổi, bố ông đã sắp xếp cho ông lấy một cô gái cùng làng là La thị (羅氏), nhưng Mao không công nhận cuộc hôn nhân ép buộc này.)
Sau phong trào Ngũ Tứ, Mao về Hồ Nam tổ chức đoàn thanh niên, ra hai tờ báo tuyên truyền cách mạng là Tương Giang bình luận và Tân Hồ Nam. Hai tờ báo này bị đóng cửa và Mao bị trục xuất khỏi Hồ Nam. Năm 1920, Mao đã tham gia tiểu tổ cộng sản ở Trường Sa (Hồ Nam).
Ngày 23 tháng 7 năm 1921, Mao đã tham gia Đại hội lần thứ nhất thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Thượng Hải. Hai năm sau, tại Đại hội lần thứ ba (1923), ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương của Đảng chỉ gồm 5 người. Tháng 1 năm 1924, theo chủ trương Quốc – Cộng hợp tác, Mao Trạch Đông tham dự Đại hội lần thứ nhất Quốc dân Đảng họp ở Quảng Châu và được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng. Sau đó ông lên đường đi Thượng Hải làm việc tại cơ quan Ban chấp hành Quốc dân Đảng, rồi sang năm sau lại về Quảng Châu làm quyền trưởng Ban tuyên truyền của Quốc dân Đảng, rồi kiêm thêm một chân trong Ủy ban vận động nông dân của đảng này. Lúc này ông đã bị Trần Độc Tú đẩy ra khỏi Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản tại Đại hội 4 họp vắng mặt ông vào tháng 1 năm 1925. Tại Đại hội lần thứ hai Quốc dân Đảng (tháng 1 năm 1926), ông lại được bầu làm ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng và làm quyền Trưởng ban Tuyên truyền đến tháng 5 năm 1926.
Sau khi Tưởng Giới Thạch quay sang đàn áp Đảng Cộng sản, Mao Trạch Đông chủ trương đấu tranh vũ trang với Tưởng nhưng không được Trần Độc Tú chấp nhận và bị thất sủng. Mao Trạch Đông bèn lui về quê cho ra đời Báo cáo khảo sát phong trào nông dân Hồ Nam, tác phẩm quan trọng đầu tiên của chủ nghĩa Mao.
Chiến tranh và cách mạng
Mao thoát được bạch sắc khủng bố vào năm 1927 và lãnh đạo Cuộc khởi nghĩa Vụ gặt Mùa thu ở Trường Sa, Hồ Nam nhưng thất bại. Tàn quân du kích chưa đầy 1.000 người của Mao tìm nơi ẩn náu ở vùng núi Tỉnh Cương Sơn, nơi giáp giới giữa hai tỉnh Hồ Nam và Giang Tây. Năm 1928 đội quân này hợp nhất với quân của Chu Đức, lập ra Quân đoàn 4 công nông, do Chu Đức làm Quân đoàn trưởng. Mao đã góp phần xây dựng căn cứ, chính quyền và một quân đội tiến hành chiến tranh du kích có hiệu quả, thực hiện cải cách ruộng đất. Chính tại nơi đây từ 1931 đến 1934, nhà nước Cộng hòa Xô-viết Trung Hoa được lập ra và Mao được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Trung ương lâm thời. Vào thời kỳ này, Mao kết hôn với Hạ Tử Trân, sau khi Dương Khai Tuệ bị lực lượng Quốc dân Đảng giết chết.
Khu Xô-viết này trở thành nơi trú ngụ của Ban Lãnh đạo Đảng Cộng sản chạy trốn sự khủng bố của Tưởng Giới Thạch ở các thành phố lớn, chủ yếu là Thượng Hải. Dưới áp lực của các chiến dịch bao vây càn quét của Quốc dân Đảng, trong nội bộ Ban Lãnh đạo Đảng Cộng sản diễn ra cuộc tranh giành quyền lực và đấu tranh về đường lối và chiến thuật. Phe theo đường lối chính thống của Moskva, mà đại diện là nhóm 28 người Bolshevik, đã thắng thế và Mao dần dần bị gạt ra khỏi các chức vụ quan trọng.
Với quyết tâm tiêu diệt bằng được những người cộng sản, tháng 10 năm 1934 Tưởng Giới Thạch trực tiếp chỉ huy 50 vạn quân bao vây tấn công khu Xô-viết trung ương, buộc Hồng quân phải mở đường máu rời bỏ nơi đây, tiến hành cuộc Vạn lý trường chinh cực kỳ gian khổ, vượt 9.600 km trong suốt một năm trời để đến tỉnh Thiểm Tây xây dựng căn cứ mới. Trên đường trường chinh Mao Trạch Đông đã bước lên nắm quyền lãnh đạo từ Hội nghị Tuân Nghĩa họp vào tháng 1 năm 1935. Tại hội nghị này, Chu Ân Lai ngả về phía Mao, Tổng Bí thư Bác Cổ và cố vấn quân sự Otto Braun (tên Trung Quốc là Lý Đức) bị hạ bệ, Mao vào Ban thường vụ Bộ Chính trị, nắm quyền thực tế và năm 1943 được bầu làm Chủ tịch Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Từ căn cứ mới ở Diên An, Mao đã lãnh đạo những người cộng sản tiến hành cuộc kháng chiến chống Nhật (1937–1945) thông qua hợp tác Quốc–Cộng lần thứ hai. Tại đây, Mao đã củng cố quyền lực trong Đảng Cộng sản bằng cách mở cuộc vận động chỉnh phong. Tại Đại hội lần thứ 7 của Đảng Cộng sản Trung Quốc họp tại Diên An tháng 6 năm 1945, Mao được bầu làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng. Cũng tại Diên An, Mao ly thân với Hạ Tử Trân và lấy Lam Bình, một diễn viên mới tới Diên An mà sau này khuynh đảo chính trường Trung Quốc với tên gọi là Giang Thanh.
Ngay sau khi Chiến tranh Trung-Nhật kết thúc, nội chiến đã diễn ra giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản, kết thúc bằng thắng lợi của Đảng Cộng sản vào năm 1949.
Lãnh đạo Trung Quốc
Mao Trạch Đông thuộc phái tả kiên định, năm 1920, Mao trở thành người Mác xít. Năm 1921, là một trong 21 người sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng mãi đến năm 1935, Mao mới trở thành người lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Trung Quốc sau hai lần thất bại vào năm 1927 và 1934, nhưng cuối cùng cũng vượt qua được nhờ Mao Trạch Đông lên nắm quyền lãnh đạo Đảng, lực lượng của Đảng dần được củng cố mạnh lên. Đến năm 1947, Mao Trạch Đông đã chuẩn bị phát động cuộc tấn công toàn diện vào Chính phủ Quốc Dân Đảng do Tưởng Giới Thạch đứng đầu.
Mao Trạch Đông lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc thực hiện cuộc cách mạng dân tộc – dân chủ giành chính quyền năm 1949, chấm dứt tình trạng quân phiệt cát cứ, thu hồi các tô giới của nước ngoài trên lãnh thổ Trung Quốc, xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng với các cường quốc; đặt nền móng cho một đất nước Trung Quốc thống nhất và bắt đầu công cuộc hiện đại hóa đưa Trung Quốc từ một nước phương Đông bị các đế quốc phương Tây chèn ép trở thành một cường quốc trên thế giới. Trong suốt 27 năm, ông và các đồng chí của mình đã kiên trì thực hiện công cuộc cải cách kinh tế – xã hội vĩ đại mang ý nghĩa sâu xa trên đất nước Trung Quốc theo hướng xóa bỏ các tàn tích trung cổ lạc hậu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho xã hội dân chủ và bình đẳng hơn dù trong quá trình thực hiện ông đã mắc một số sai lầm gây ra những hậu quả nghiêm trọng và lâu dài cho xã hội Trung Quốc. Những tổn thất, thiệt hại do những chính sách Mao đưa ra, trong những phong trào do Mao phát động một phần do sự nhiệt tình thái quá đến mức cực đoan của những cán bộ trực tiếp thực thi và của công chúng.
Từ năm 1949 đến 1976, Mao Trạch Đông luôn là nhân vật quan trọng nhất trong Chính quyền Trung ương Trung Quốc. Mao Trạch Đông đã lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đánh bại quân đội Trung Hoa Dân quốc do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Tiếp đó Mao thực hiện những kế hoạch kinh tế ngắn hạn với sự giúp đỡ của Liên Xô để xây dựng nền tảng công nghiệp cho Trung Quốc. Với mong muốn đưa Trung Quốc trở thành một siêu cường trong thời gian còn nhanh hơn cả Liên Xô từng làm, Mao phát động phong trào Đại nhảy vọt và Công xã hoá, vào thời kỳ cuối những năm 50 của thế kỷ XX. Đây là kế hoạch với mục tiêu nhấn mạnh biện pháp sản xuất quy mô nhỏ, sản xuất thủ công, tiến hành cuộc thực nghiệm chủ nghĩa xã hội lớn chưa từng thấy với mục tiêu công nghiệp hóa nhằm đưa Trung Quốc thành siêu cường trong thời gian chỉ 10 – 20 năm. Sự nóng vội quá mức dẫn tới việc kế hoạch bị thất bại và phải hủy bỏ. Cùng với thiên tai, những chính sách kinh tế sai lầm đã gây ra một nạn đói rất lớn trong lịch sử loài người, khoảng 37,5 triệu người (khoảng 5% dân số Trung Quốc) đã chết vì nạn đói do sản xuất nông nghiệp bị đình trệ.[10]
Kế hoạch tiếp theo mà Mao Trạch Đông ủng hộ là cuộc “Đại Cách mạng văn hóa vô sản” vào những năm 60 của thế kỷ 20. Có nhiều quan điểm khác nhau về Cách mạng văn hóa tại Trung Quốc. Theo Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Cách mạng văn hóa là để “đấu tranh với giai cấp tư sản trong lĩnh vực tư tưởng và sử dụng những tư tưởng và lề thói mới của giai cấp vô sản để thay đổi diện mạo tinh thần của toàn bộ xã hội” nhưng cũng có quan điểm cho rằng đây là một cách để Mao Trạch Đông lấy lại quyền kiểm soát Đảng Cộng sản Trung Quốc sau cuộc Đại nhảy vọt thất bại. Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc đã xóa bỏ triệt để những hủ tục còn lại từ thời trung cổ tại Trung Quốc (cúng bái để chữa bệnh, tục bó chân phụ nữ…), nhưng cũng để lại những hậu quả nghiêm trọng không chỉ về kinh tế, xã hội mà cả về văn hóa. Cách mạng văn hóa từ mục tiêu ban đầu là thay đổi diện mạo tinh thần của toàn bộ xã hội đã biến thành quy chụp, tố cáo, chỉ trích, đấu tố, thanh trừng lẫn nhau trên toàn Trung Quốc. Cuộc cách mạng này làm tê liệt các hoạt động kinh tế, chính trị, giáo dục, văn hóa của Trung Quốc; phá vỡ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc và khiến nhà nước không còn duy trì nổi trật tự xã hội; gây chia rẽ nghiêm trọng trong Đảng Cộng sản, trong bộ máy nhà nước và trong xã hội Trung Quốc; phá hủy các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Trong thập niên 1980, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc khi đó là Hồ Diệu Bang đã nhận xét rằng khoảng 100 triệu người Trung Quốc đã chịu đau khổ của thời kỳ này. Đặng Tiểu Bình nhận định Mao Trạch Đông có một phần lỗi trong việc này, nhưng phần khác là do những người thi hành cấp dưới có trình độ kém còn công chúng dễ bị kích động khiến mục tiêu đề ra bị bóp méo: “Cách mạng Văn Hóa là một sai lầm. Chúng ta phải mạnh dạn chối bỏ sai lầm này của Mao trong những năm tháng cuối đời của ông. Nhưng cũng cần nhìn vào sự thật. Sự thật là không phải mọi sai lầm và quá đáng trong cuộc Cách mạng Văn Hóa đều do Mao Trạch Đông.“[11]
Có điều đặc biệt là khi phát động “Đại nhảy vọt”, Mao Trạch Đông đã hơn 60 tuổi; còn “Đại Cách mạng văn hóa” diễn ra lúc ông gần 70 tuổi; và khi quyết định thiết lập ngoại giao với Hoa Kỳ thì Mao đã gần 80 tuổi.
Dù mắc phải nhiều sai lầm nhưng dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, Trung Quốc đã bước đầu xây dựng được nền tảng công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp quốc phòng. Nền kinh tế Trung Quốc đã tự sản xuất được hầu hết các sản phẩm công nghiệp thông dụng, các loại vũ khí thông thường và đặc biệt chế tạo được bom nguyên tử. Đây là nền tảng để Trung Quốc tiếp tục phát triển dưới sự lãnh đạo của người kế thừa ông là Đặng Tiểu Bình.
Qua đời
Mao Trạch Đông qua đời ngày 9 tháng 9 năm 1976, 10 phút sau nửa đêm ở thủ đô Bắc Kinh.
Ông chết vì bệnh xơ cứng teo cơ (tên khoa học amyotrophic lateral sclerosis), ở Hoa Kỳ bệnh này thường được gọi là Lou Gehrig’s hoặc Motor Neurone, cùng một căn bệnh với Stephen Hawking. Sức khỏe của Mao Trạch Đông đã rất kém trong nhiều năm và suy giảm rất rõ rệt trong thời gian vài tháng trước khi chết. Thi hài ông được an táng tại Đại lễ đường nhân dân. Lễ tưởng niệm ông cử hành vào ngày 18 tháng 9 năm 1976 tại quảng trường Thiên An Môn. Trong lễ tưởng niệm có 3 phút mặc niệm. Sau đó thi hài ông được đặt trong Lăng Mao Trạch Đông, mặc dù ông muốn được hỏa táng và là nhà lãnh đạo cấp cao đầu tiên ký văn bản chính thức vào tháng 11 năm 1956 quy định tất cả những người lãnh đạo cấp trung ương sau khi chết sẽ được an táng theo nghi thức hỏa táng.
Đánh giá
Trong tác phẩm “Tình dục, dối trá và chính trị – Những kẻ bị ám ảnh đang lãnh đạo chúng ta” của tác giả Pierre Lunel, nhà xuất bản L’Archipel, ông này cho rằng Mao tán tỉnh các cô gái trẻ qua những buổi tối khiêu vũ. Đây là một điều đặc biệt vì nhảy đầm đã bị Cách mạng cấm vì cho là lối sống suy đồi, và tất cả các sàn khiêu vũ đều bị chính thức đóng cửa thế nhưng Mao hàng tuần vẫn tổ chức những đêm khiêu vũ, tại sảnh Xuân Liên rộng mênh mông, không xa căn hộ của Mao là mấy[cần dẫn nguồn].
Theo cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, của Tân Tử Lăng, do nhà xuất bản Thư Tác Phường ấn hành tháng 7 năm 2007 viết:
“ | Nhân dân đã thức tỉnh. Việc tiếp tục treo ảnh Mao trên Thiên An Môn, tiếp tục để thi hài Mao ở nhà kỷ niệm là lạc hậu so với quần chúng rồi, cần xử lý thỏa đáng đất nước ta triệt để bóng đen Mao Trạch Đông. | ” |
— Tân Tử Lăng
|
“ | Đánh giá một nhà chính trị thời kỳ cận đại là rất khó khăn; Có thể so sánh Mao Trạch Đông với Tần Thủy Hoàng; vì họ đều là người Trung Quốc, đều là các nhà cải cách. Nếu so sánh Mao Trạch Đông với Lê Nin cũng là xác đáng, họ đều sống ở thế kỷ 20, Mao Trạch Đông là người kiến tạo Chủ nghĩa Marx ở Trung Quốc, cũng như Lê Nin là người đặt nền móng cho Chủ nghĩa Marx ở nước Nga. Mới nhìn ta thấy Mao Trạch Đông gần như nổi bật hơn Lê Nin vì Trung Quốc có số dân gấp ba lần Liên Xô, nhưng Lê Nin có trước và đã là một tấm gương cho Mao Trạch Đông, có ảnh hưởng đối với Mao Trạch Đông. | ” |
— Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
|
Gia đình
Những người vợ
- La Thị (羅氏) (1889–1910), do gia đình sắp đặt nhưng Mao không công nhận và hai người chưa hề ăn ở với nhau. Kết hôn năm 1907. Không có con.
- Dương Khai Tuệ (杨开慧, 1901–1930) ở Trường Sa, kết hôn năm 1921, sống với nhau đến năm 1927, bị Quốc dân Đảng hành quyết năm 1930. Bà sinh được 3 người con trai.
- Hạ Tử Trân (贺子珍, 1909? / tháng 8 năm 1910 – 19 tháng 4 năm 1984) người Vĩnh Tân, tỉnh Giang Tây, kết hôn từ tháng 5 năm 1928, đến năm 1937 thì bà sang Liên Xô chữa bệnh. Bà sinh nở 6 lần nhưng năm con chết non hoặc mất tích và chỉ có Lý Mẫn trưởng thành.
- Giang Thanh: kết hôn từ năm 1938 đến lúc Mao mất. Có một con gái là Lý Nạp.
- Theo hồi ký của Lý Chí Thỏa, bác sĩ riêng của ông, Mao đã quan hệ tình dục với cả trăm người phụ nữ khác. Qua đó ông ta chấp nhận là họ có thể bị lây bệnh hoa liễu, bởi vì chính ông đã bị mắc bệnh này mà không thể chữa khỏi được.[12] Tuy nhiên, một số học giả, những người thân và những người từng làm việc với Mao đã lên tiếng chỉ trích về tính chính xác của những nguồn hồi ký cá nhân như vậy.[13] Một nhóm nghiên cứu gồm ba tác giả đã dẫn những hồ sơ y tế cũ của Mao cho thấy Lý Chí Thỏa chỉ chăm sóc Mao có 1 ngày duy nhất (ngày 3 tháng 6 năm 1957). Như vậy, Lý Chí Thỏa không phải là bác sĩ thường trực của Mao Trạch Đông và vì thế không có khả năng có được những thông tin “riêng tư, bí mật” mà ông viết ra trên sách[14].
Ông nội, cụ và bố mẹ
- Mao Di Xương (毛贻昌), bố, tên tự là Mao Thuận Sinh (毛顺生) (15 tháng 10 năm 1870 – 23 tháng 1 năm 1920)
- Văn Thất Muội (文七妹), mẹ (12 tháng 2 năm 1867 – 5 tháng 10 năm 1919), lấy chồng năm 1885
- Mao Ân Phổ (毛恩普), ông nội
- Mao Tổ Nhân (毛祖人), cụ nội
Anh chị em
Bố mẹ Mao Trạch Đông có cả thảy năm con trai và hai con gái. Hai người con trai và cả hai con gái chết sớm, còn lại 3 anh em Mao Trạch Đông, Mao Trạch Dân, Mao Trạch Đàm. Cũng như Dương Khai Tuệ, Mao Trạch Dân và Mao Trạch Đàm đều bị Quốc dân Đảng giết hại trong thời kỳ nội chiến.
- Mao Trạch Dân (毛泽民, 1895? / 3 tháng 4 năm 1896 – 27 tháng 9 năm 1943), em trai
- Mao Trạch Đàm (毛泽覃, 25 tháng 9 năm 1905 – 26 tháng 4 năm 1935), em trai
- Có hai chị em gái đều chết trẻ, trong đó có Mao Trạch Oanh
Ngoài ra Mao Trạch Kiến (毛泽建, 1905 – 1929) tức Mao Trạch Hồng là chị họ, bị Quốc dân Đảng giết hại năm 1930
Những người con
- Mao Ngạn Anh (毛岸英, 1922-1950): Con trai cả của Dương Khai Tuệ, kết hôn với Lưu Tư Tề (刘思齐), tên khai sinh là Lưu Tùng Lâm (刘松林)
- Mao Ngạn Thanh (毛岸青, 1923-2007): Con trai của Dương Khai Tuệ, kết hôn với Thiệu Hoa (邵华), em gái Lưu Tư Tề, sinh ra con trai là Mao Tân Vũ
- Mao Ngạn Long (1927- 1931?): con trai út của Dương Khai Tuệ, mất tích
- Lý Mẫn (李敏, 1936): Con gái của Hạ Tử Trân, kết hôn với Khổng Lệnh Hoa (孔令华), sinh ra con trai là Khổng Kế Ninh (孔继宁), con gái là Khổng Đông Mai (孔冬梅). Mao từng có biệt danh là Lý Đức Thắng, nên Lý Mẫn lấy họ này?
- Lý Nạp /Nột (李讷, 1940): Con gái của Giang Thanh, kết hôn với Vương Cảnh Thanh (王景清), sinh ra con trai là Vương Hiệu Chi (王效芝). Lý là họ gốc của Giang Thanh
Lưu ý là tên đệm trong từng thế hệ gia đình Mao là giống nhau, tuần tự các đời là Tổ-Ân-Di-Trạch-Ngạn. Các con của Mao Trạch Dân và Mao Trạch Đàm có tên đệm là Viễn.
Các tác phẩm
- Thực tiễn luận (Luận về vấn đề “thực tiễn”)
- Mâu thuẫn luận (Luận về vấn đề “mâu thuẫn”)
- Luận trì cửu chiến (Luận về đánh lâu dài)
- Tân dân chủ chủ nghĩa luận (Luận về chủ nghĩa dân chủ mới)
- Mao Trạch Đông ngữ lục (Tổng hợp các câu nói ấn tượng của Mao Trạch Đông)
- Hồng bảo thư
Báo chí Việt Nam và Mao Trạch Đông
Các bài trên báo Cứu quốc của Mặt trận Liên Việt và báo Nhân dân:
“ | Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Các Mác – Lênin – Xíttalin và tư tưởng Mao Trạch Đông, nhân loại tiến bộ nhất định thắng lợi hoàn toàn trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập quốc gia, bảo vệ dân chủ, bảo vệ hòa bình chống đế quốc gây chiến[15] | ” |
“ | Chủ tịch Mao Trạch Đông đã áp dụng tài tình chủ nghĩa Mác- Ăngghen – Lênin – Stalin vào hoàn cảnh Trung Quốc, hoàn cảnh một nước nông nghiệp nửa thuộc địa, lãnh đạo nhân dân Trung Quốc đánh tan thế lực phản động, lập nên nước Trung Hoa cộng hòa nhân dân vĩ đại, cùng với Liên Xô làm một thành trì vô cùng vững mạnh cho phong trào hòa bình thế giới, mở đường cho nhân dân các nước nhỏ yếu đứng dậy đấu tranh đòi độc lập và hòa bình. Đặc biệt đối với Việt Nam, Trung Quốc đã giúp đỡ mọi mặt và là một hậu phương chắc chắn cho cuộc kháng chiến của Việt Nam…Kính yêu và tin tưởng vào Đại nguyên soái Stalin và Mao chủ tịch, nhân dân thế giới học tập và quyết tâm thực hiện mỗi lời nói của hai vị lãnh tụ. Vui mừng sinh nhật Đại nguyên soái Stalin, vị lãnh tụ tối cao của nhân loại tiến bộ, và sinh nhật Chủ tịch Mao Trạch Đông, lãnh tụ tối cao của nhân dân châu Á, nhân dân châu Á và thế giới hướng về Liên Xô và Trung Quốc lấy lời nói của hai vị lãnh tụ làm phương châm…Nhân dân Việt Nam kính yêu Đại nguyên soái Stalin và Chủ tịch Mao Trạch Đông và tỏ lòng biết ơn công lao vĩ đại của hai vị lãnh tụ đối với Cách mạng thế giới và Cách mạng Việt Nam.[16] | ” |
“ | Đại tướng rút ra mấy kinh nghiệm và bài học lớn mà chiến dịch này đã đem lại: 1/Tác dụng quyết định của sự chỉ đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch, Chính phủ và Trung ương Đảng Lao động trong sự nhận định tình hình ngay lúc ban đầu. Nhận định này đã căn cứ trên những phân tách dựa theo lý luận Mác – Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông áp dụng vào chiến tranh ở Việt Nam…[17] | ” |
“ | Đại gia đình hòa bình và dân chủ do Liên Xô lãnh đạo đầy tình thân yêu và có một sức mạnh vĩ đại. Chúng tôi tin rằng tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc sẽ cao như núi, sâu như bể…Chúng ta hãy nâng cốc chúc sức khỏe của Mao Chủ tịch, Mặt Trời vĩ đại của phương đông…[18] | ” |
“ | Đứng bên cạnh Liên Xô, công ơn của Trung Quốc với chúng ta thật không sao kể xiết. Tỏ lòng biết ơn Trung Quốc, biết ơn Mao Chủ tịch, chúng ta nguyện ra sức học tập Trung Quốc. Trong những điều mà cách mạng Trung Quốc dạy chúng ta, quý báu nhất là kinh nghiệm áp dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Ăngghen – Lênin-Stalin vào hoàn cảnh một nước phong kiến lạc hậu thuộc địa, nửa thuộc địa. Đó là tư tưởng Mao Trạch Đông, là kinh nghiệm xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, đấu tranh vũ trang và xây dựng Đảng lãnh đạo. Đó là ba pháp bảo đã đưa cách mạng Trung Quốc đến thành công rực rỡ, và đã được Hồ Chủ tịch và Đảng Lao động Việt Nam vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam khiến công cuộc kháng chiến và kiến quốc của ta đã thu được nhiều thắng lợi lớn.[19] | ” |
“ | Với tư tưởng Mao Trạch Đông kết tinh của chủ nghĩa Mác-Lênin-Stalin áp dụng vào thực tiễn phương Đông, Trung Quốc đang soi đường cho các dân tộc châu Á cùng tiến, để cùng nhân dân thế giới đấu tranh giành độc lập dân tộc và một nền hòa bình, hạnh phúc lâu dài.[20] | ” |
“ | Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc như Mao Chủ tịch nói “đã phát triển từ chỗ không đến chỗ có“…Nhưng nắm vững đường lối “đoàn kết toàn dân, tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến” của Mao Chủ tịch và Đảng Cộng sản Trung Quốc, quân đội của nhân dân Trung Quốc càng ngày càng giành được nhiều thắng lợi lớn…Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, trong ngót ba chục năm lịch sử chiến đấu vĩ đại đã chứng tỏ rằng một quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu thì dù phải đương đầu với những kẻ thù hung ác thế nào, nhất định sẽ chiến thắng[20] | ” |
“ | Nhờ có Mao Chủ tịch và Đảng Cộng sản lãnh đạo, áp dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin- Stalin vào hoàn cảnh Trung Quốc, nhờ quân và dân đoàn kết nhất trí, một lòng một dạ tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng, Quân đội giải phóng và nhân dân Trung Quốc đã chiến thắng phát xít Nhật, bè lũ Tưởng Giới Thạch do Mỹ vũ trang và chỉ huy…Mao Chủ tịch và Đảng Cộng sản đã phát động phong trào “chống Mỹ, giúp Triều, giữ nhà, giữ nước“…Sau ba năm chiến đấu anh dũng, quân dân Trung – Triều đã đánh bại đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ký kết đình chiến ở Triều Tiên. Đó là một thắng lợi lớn lao của nhân dân Trung – Triều và của phe hòa bình và dân chủ trên thế giới.[19] | ” |
.
“ | Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch và Đảng Lao động Việt Nam, nhân dân Việt Nam quyết học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, học tập kinh nghiệm Trung Quốc, ra sức tiêu diệt thực dân Pháp và can thiệp Mỹ[21] | ” |
“ | Mỗi lần lên diễn đài, việc đầu tiên của chúng tôi là chuyển lời chào cùng lời chúc thắng lợi của Mao chủ tịch và nhân dân Trung Quốc. Thế là hàng vạn con người đứng cả dậy, tiếng hô Mao Chủ tịch muôn năm, Hồ Chủ tịch muôn năm, tình đoàn kết Việt – Hoa vang lên như sấm[21] | ” |
.
“ | Phong độ nhân từ, lời nói thấm thía của Người cho chúng tôi cái cảm giác như đứng trước Hồ Chủ tịch thân yêu của chúng ta[22] | ” |
“ | Nhân dân Việt Nam tin chắc rằng lực lượng hùng cường và trái tim sắt đá của 600 triệu nhân dân Trung Quốc, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Mao Chủ tịch và Đảng Cộng sản Trung Quốc và được nhân dân châu Á cùng nhân dân thế giới nhiệt liệt đồng tình, nhất định sẽ giành được thắng lợi hoàn toàn, nhất định giải phóng được Đài Loan[23] | ” |
“ | Phổ biến kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân Trung Quốc, Mao Chủ tịch, lãnh tụ tối cao của nhân dân Trung Quốc và nhân dân châu Á, đã nêu rõ cho nhân dân ta thấy con đường đấu tranh trường kỳ, kiên quyết và bền bỉ chống đế quốc là con đường đi tới thành công hoàn toàn [24] | ” |
.
“ | Kính yêu và tin tưởng vào Đại nguyên soái Stalin và Mao Chủ tịch, nhân dân thế giới học tập và quyết tâm thực hiện mỗi lời nói của hai vị lãnh tụ[16] | ” |
.
“ | Thể hiện tình cảm cách mạng cao cả của Chủ tịch Mao Trạch Đông kính mến: “700 triệu nhân dân Trung Quốc là hậu thuẫn vững mạnh của nhân dân Việt Nam, đất nước Trung Quốc bao la là hậu phương đáng tin cậy của nhân dân Việt Nam“, Đảng Cộng sản, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đã luôn luôn dành cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân miền Nam Việt Nam sự đồng tình sâu sắc…[25] | ” |
Kể từ sau năm 1972, khi quan hệ với Trung Quốc xấu đi, báo chí Việt Nam chỉ trích Mao Trạch Đông vì “tư tưởng bá quyền Trung Quốc”. Văn kiện quan trọng “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” của Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố ngày 4/10/1979 viết:
“ | Những người lãnh đạo Trung Quốc coi Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với chiến lược của họ, luôn luôn tìm cách nắm Việt Nam… một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và giàu mạnh, có đường lối độc lập tự chủ và đường lối quốc tế đúng đắn là một cản trở lớn cho chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc, trước hết là cho chính sách bành trướng của họ ở Đông nam châu Á… Họ tập trung mọi cố gắng để dấy lên một cuộc “thập tự chinh quốc tế” của các lực lượng đế quốc và phản động chống Liên Xô dưới chiêu bài “chống bá quyền” theo công thức của chủ tịch Mao Trạch Đông: “Ngồi trên núi xem hổ đánh nhau”.[26] | ” |
Chú thích
- ^ 1900-2000: A century of genocides
- ^ HOW MANY DID COMMUNIST REGIMES MURDER? – By R.J. Rummel
- ^ “Mao Zedong”. The Oxford Companion to Politics of the World. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2008.
- ^ Short 2001, tr. 630 “Mao had an extraordinary mix of talents: he was visionary, statesman, political and military strategist of cunning intellect, a philosopher and poet.“
- ^ “Chinese Leader Mao Zedong / Part I”. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2015.
- ^ The Cambridge Illustrated History of China, by Patricia Buckley Ebrey, Cambridge University Press, 2010, ISBN 0-521-12433-6, pp. 327
- ^ Atlas of World History, by Patrick Karl O’Brien, Oxford University Press US, 2002, ISBN 0-19-521921-X, pp 254, link
- ^ Short 2001, tr. 631
- ^ Fenby, J (2008). Modern China: The Fall and Rise of a Great Power, 1850 to the Present. Ecco Press. tr. 351. ISBN 0-06-166116-3.
Mao’s responsibility for the extinction of anywhere from 40 to 70 million lives brands him as a mass killer greater than Hitler or Stalin, his indifference to the suffering and the loss of humans breathtaking
- ^ Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, Tr.7, Nhà xuất bản Thư tác bảng, Hồng Công 2007, Thông tấn xã Việt Nam dịch và in 2009
- ^ Global Times ngày 25/5/2011
- ^ Jonathan Mirsky: Unmasking the Monster, The New York Review of Books, Nov 17, 1994, S. 22-28 (Rezension zur englischen Ausgabe von Li Zhisui: Ich war Maos Leibarzt. Die persönlichen Erinnerungen des Dr. Li Zhisui an den Vorsitzenden. Lübbe, Bergisch Gladbach 1994).
- ^ DeBorja, Q.M. and Xu L. Dong (eds) (1996). Manufacturing History: Sex, Lies and Random House’s Memoirs of Mao’s Physician. New York: China Study Group. p. 04
- ^ Lin Ke, Xu Tao and Wu Xujun (1995). Lishi de Zhenshi: Mao Zedong Shenbian Gongzuo Renyuan de Zhengyan (The Truth of History: Testimony of the personnel who had worked with Mao Zedong). Hong Kong: Liwen Chubanshe. Page 150
- ^ Báo Cứu Quốc ngày 17 Tháng Ba 1952
- ^ a ă Cứu Quốc ngày 23 Tháng Mười Hai 1952
- ^ Tường thuật Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói chuyện về chiến thắng Hòa Bình, Báo Cứu Quốc ngày 9 Tháng Ba 1952
- ^ Nhân dân ngày 9 Tháng Tám 1954
- ^ a ă Cứu Quốc ngày 2 Tháng Hai 1954
- ^ a ă Cứu Quốc 2 Tháng Hai 1954
- ^ a ă Cứu Quốc ngày 1 Tháng Mười 1952
- ^ Cứu Quốc ngày 19 Tháng Một 1952
- ^ Nhân dân 21 Tháng Tám 1954
- ^ Cứu Quốc 16 Tháng Hai 1952
- ^ Nhân dân ngày 13 Tháng Ba 1971
- ^ “Kỳ 75: Mao Trạch Đông – ‘Hoàng đế đỏ’ của Trung Hoa cộng sản!”. Một Thế giới. Truy cập 24 tháng 9 năm 2015.
Đọc thêm
- Đời tư của Mao Chủ tịch, hồi ký của Lý Chí Thỏa, từng là bác sĩ riêng và người thân tín của Mao từ 1954 đến 1976 (Li, Zhisui (1996). The Private Life of Chairman Mao. Random House. ISBN 0679764437.).
- Becker, Jasper (1998). Hungry Ghosts: Mao’s Secret Famine. Holt Paperbacks. ISBN 0805056688.
- Chang, Jung; Halliday, Jon (2005). Mao: The Unknown Story. Knopf. ISBN 0679422714.
- Cheek, Timothy, ed. Mao Zedong and China’s Revolutions: A Brief History with Documents (The Bedford Series in History and Culture. NY: Palgrave, 2002).
- Cheek, Timothy, ed.A Critical Introduction to Mao (New York: Cambridge University Press, 2010 ISBN 978-0-521-88462-4).
- Dikötter, Frank. Mao’s Great Famine: The History of China’s Most Devastating Catastrophe, 1958–62. Walker & Company, 2010. ISBN 0-8027-7768-6
- Feigon, Lee (2003). Mao: A Reinterpretation. Ivan R. Dee, Publisher. ISBN 1566635225.
- MacFarquhar, Roderick; Schoenhals, Michael (2006). Mao’s Last Revolution. Harvard University Press. ISBN 0674023323.
- Mobo, Gao (2008). The Battle for China’s Past: Mao and the Cultural Revolution. Pluto Press. ISBN 074532780X.
- Schram, Stuart R. (1967). Mao Tse-Tung. Penguin. ISBN 0140208402.
- Schwartz, Benjamin Isadore (1951). Chinese Communism and the Rise of Mao. Harvard University Press. ISBN 0674122518.
- Short, Philip (2001). Mao: A Life. Owl Books. tr. 761. ISBN 0805066381.
- Spence, Jonathan D. (1999). Mao Zedong. Viking. ISBN 0670886696.
- Terrill, Ross (1980). Mao: A Biography. Stanford University Press. ISBN 0804729212.
- Chinese Writers on Writing featuring Mao Zedong. Ed. Arthur Sze. (Trinity University Press, 2010).
- Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, Nhà xuất bản Thư tác bảng, Hồng Công 2007, Thông tấn xã Việt Nam dịch và in 2009
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Mao Trạch Đông |
- BBC 中国丛谈特辑(上)
- BBC 中国丛谈特辑(上)采访录音
- BBC 中国丛谈特辑(下)
- BBC 中国丛谈特辑(下)采访录音
- “Mao: The Unknown Story” on Amazon.com
- 開放出版社 《毛澤東:鮮為人知的故事》中文版
- 《毛澤東:鮮為人知的故事》 英文注釋
- Asia Source biography
- Mao Zedong Biography From Spartacus Educational
- The Mao Zedong Reference Archive at marxists.org
- Collected Works of Mao Zedong at the Maoist Internationalist Movement
- Mao Zedong on propaganda posters Set of propaganda paintings showing Mao Zedong as the great leader of China.
- Other Chinese leaders
- CNN profile
- (tiếng Trung) Sayings of Chairman Mao [1]
- The Oxford Companion to Politics of the World: Mao Zedong
- Uncounted Millions: Mass Death in Mao’s China (July 1994 Washington Post article by Daniel Southerland)
- Getting My Reestimate Of Mao’s Democide Out (blog article by professor R. J. Rummel)
- China must confront dark past, says Mao confidant by Jonathan Watts for The Guardian
|
|
|
|
|
|
- Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc
- Chủ tịch Trung Quốc
- Sinh 1893
- Mất 1976
- Người Hồ Nam
- Người Cộng sản
- Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc
- Người sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc
- Nhà lý luận Mác-xít
- Nhà cách mạng Trung Quốc
- Lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc
- Lãnh tụ Cộng sản
- Người cách mạng Văn hóa
- Mao Trạch Đông
- Nhà cách mạng
Ben-Hur (phim 1959)
Ben-Hur | |
---|---|
![]() Áp phích phim nguyên thủy của Reynold Brown
|
|
Thông tin phim | |
Đạo diễn | William Wyler |
Sản xuất | Sam Zimbalist |
Kịch bản | Karl Tunberg Uncredited: Gore Vidal Christopher Fry Maxwell Anderson S. N. Behrman |
Dựa trên | Ben-Hur: A Tale of the Christ của Lew Wallace |
Người dẫn chuyện | Finlay Currie |
Diễn viên | Charlton Heston Jack Hawkins Haya Harareet Stephen Boyd Hugh Griffith |
Âm nhạc | Miklós Rózsa |
Quay phim | Robert L. Surtees |
Dựng phim | John D. Dunning Ralph E. Winters |
Phát hành | Metro-Goldwyn-Mayer |
Công chiếu |
|
Độ dài | 212 phút |
Quốc gia | Mỹ |
Ngôn ngữ | Tiếng Anh |
Kinh phí | $15,175,000 |
Doanh thu | $146,900,000 |
Ben-Hur là phim sử thi của Hoa Kỳ sản xuất năm 1959 do William Wyler đạo diễn, với các diễn viên Charlton Heston, Stephen Boyd, Jack Hawkins, Hugh Griffith và Haya Harareet. Phim này đã đoạt kỷ lục 11 giải Oscar, trong đó có Giải Oscar cho phim xuất sắc nhất. Được chuyển thể từ tiểu thuyết Ben-Hur: A Tale of the Christ năm 1880 của nhà văn Lew Wallace, kịch bản do Karl Tunberg viết với sự đóng góp của Maxwell Anderson, S. N. Behrman, Gore Vidal và Christopher Fry. Đây là phim tốn kém nhất tính tới thời điểm đó và cảnh dàn dựng là lớn nhất cho một phim. Phim có cuộc đua xe chariot (xe 2 bánh không mui do ngựa kéo) dài 9 phút, đã trở thành một trong các cảnh nổi tiếng nhất của điện ảnh. Phần nhạc phim do Miklós Rózsa sáng tác là khúc nhạc dài nhất được viết cho một phim và có ảnh hưởng rất cao trong điện ảnh hơn 15 năm sau.
Mục lục
- 1 Cốt truyện
- 2 Sản xuất
- 3 Tiến trình viết kịch bản
- 4 Các vai diễn
- 5 Quay phim và biên tập
- 6 Thiết kế sản xuất
- 7 Cảnh đua xe chariot
- 8 Nhạc phim
- 9 Những khác biệt giữa tiểu thuyết và phim
- 10 Thu nhập
- 11 Phê bình, đánh giá
- 12 Giải thưởng và Vinh dự
- 13 Phát sóng truyền hình và phát hành video, DVD
- 14 Thư mục
- 15 Đọc thêm
- 16 Tham khảo
- 17 Liên kết ngoài
Cốt truyện
Năm 26 sau Công nguyên, Judah Ben-Hur (Charlton Heston đóng) là một ông hoàng và nhà buôn giàu có ở Jerusalem. Người bạn thời niên thiếu Messala (Stephen Boyd đóng), nay là quan bảo hộ (military tribun), từ La Mã tới làm người chỉ huy mới của đơn vị quân đội đồn trú ở Jerusalem. Messala tin vào vinh quang và quyền lực của đế quốc La Mã, trong khi Ben-Hur tận tụy với niềm tin của mình và quyền tự do của dân tộc Do Thái. Messala yêu cầu Ben-Hur cung cấp cho mình tên của những người Do Thái chỉ trích, chống đối người La Mã; nhưng Ben-Hur từ chối và nói với Messala là mình sẽ không giúp Messala để giết người Do Thái.
Ben-Hur sống với mẹ Miriam (Martha Scott đóng) và em gái Tirzah (Cathy O’Donnell đóng). Người nô lệ trung thành của họ Simonides (Sam Jaffe đóng) chuẩn bị một đám cưới được xếp đặt cho con gái mình là Esther (Haya Harareet đóng). Ben-Hur giải phóng (ách nô lệ) cho Esther như một món quà cưới, và khán giả được thấy là Ben-Hur và Esther yêu nhau.
Trong một cuộc diễu binh chào mừng tân tổng trấn Valerius Gratus của vùng Judea, có một viên ngói từ mái nhà của Ben-Hur rớt xuống, trúng phải tổng trấn Gratus khiến ông bị ngã ngựa và bị thương nặng. Mặc dù Messala biết rằng đó là một tai nạn, nhưng vẫn kết án Ben-Hur phải làm nô lệ chèo thuyến chiến (galley) và giam tù bà mẹ cùng em gái Ben-Hur. Bằng việc trừng phạt người bạn và là một công dân danh tiếng, Messala hy vọng sẽ dọa được dân chúng Do Thái. Ben-Hur thề sẽ trả thù. Khi toán nô lệ tới Nazareth thì Ben-Hur ngã quỵ xuống vì gần chết khát, nhưng một người thợ mộc địa phương (người mà khán giả nhận ra là Chúa Giêsu) đã mang nước cho chàng uống.
Sau 3 năm làm nô lệ chèo thuyền chiến, Ben-Hur được điều sang chèo thuyền chỉ huy của quan chấp chính La Mã Quintus Arrius (Jack Hawkins đóng), người được giao nhiệm vụ phá hủy đội tàu cướp biển Macedon. Viên chỉ huy chú ý tới tinh thần kỷ luật tự giác của người nô lệ (Ben-Hur) và muốn huấn luyện anh ta thành một đấu sĩ hoặc người đua xe chariot, nhưng Ben-Hur từ chối, nói rằng Chúa sẽ giúp mình.
Khi Quintus Arrius chuẩn bị trận chiến, ông ra lệnh xích các nô lệ chèo thuyền với nhau, riêng Ben-Hur thì không bị xích. Chiến thuyền của Arrius bị thuyền hải tặc đâm thủng và bị chìm, nhưng Ben-Hur tháo xích cho các nô lệ chèo thuyền, cứu sống Arrius và ngăn không cho ông ta tự sát, vì ông ta tin rằng trận chiến bị thất bại. Arrius được quy là có công trong chiến thắng của hạm đội La Mã, đã xin hoàng đế Tiberius (George Relph đóng) giải phóng ách nô lệ cho Ben-Hur, và nhận Ben-Hur làm con nuôi. Lấy lại được tự do và sự giàu có, Ben-Hur học theo văn hóa La Mã và nóng long muốn trở về gia đình và quê hương.
Khi trở về xứ Judea, Ben-Hur gặp Balthasar (Finlay Currie đóng) và chủ của ông ta, sheik Ả Rập Ilderim (Hugh Griffith đóng). Vị sheik giới thiệu với Ben-Hur bốn con ngựa Ả Rập trắng của mình và yêu cầu Ben-Hur lái xe quadriga (một xe chariot của đế quốc La Mã do 4 ngựa dàn hàng ngang kéo) chạy đua trước sự hiện diện của quan tổng trấn mới của xứ Judea là Pontius Pilatus (Frank Thring đóng). Lúc đầu Ben-Hur từ chối, nhưng sau khi biết có nhà vô địch đua xe chariot Messala tham gia cuộc đua, Ben-Hur đã đồng ý.
Ben-Hur nghe tin cuộc hôn nhân sắp đặt của Esther không xảy ra và cô vẫn còn yêu anh. Ben-Hur tới thăm Messala và yêu cầu anh ta phóng thích mẹ và em gái của mình, nhưng trước đó người La Mã phát hiện ra Miriam và Tirzah bị bệnh phong hủi trong nhà tù nên đã đuổi họ ra khỏi thành phố. Hai mẹ con bà yêu cầu Esther dấu chuyện họ bị phong hủi, không cho Ben-Hur biết, nên cô nói với chàng là mẹ và em gái chàng đã chết.
Ben-Hur tham gia cuộc đua xe chariot. Messala lái chiếc xe chariot có các lưỡi dao nhọn gắn trong ổ trục xe nhằm phá vỡ các xe đua khác. Trong một cuộc đua tàn bạo và dữ dội, Messala định phá xe của Ben-Hur (bằng cách áp sát cho các lưỡi dao ở ổ trục) phá tan xe của đối phương, nhưng ngược lại chính xe của Messala lại bị phá hủy khiến Messala bị thương trí mạng, còn Ben-Hur thì thắng cuộc đua. Trước khi chết, Messala nói với Ben-Hur là “cuộc đua chưa chấm dứt” và rằng Ben-Hur có thể tìm thấy gia đình mình “trong thung lũng của những người phong hủi, nếu anh còn có thể nhận ra họ”.
Phim này có phụ đề là “A Tale of the Christ”, nên bây giờ chúa Giêsu tái xuất hiện. Esther kể cho Ben-Hur biết Bài giảng trên núi[1], và chê trách việc cai trị của người La Mã đối với số phận gia đình chàng, Ben-Hur từ bỏ tài sản của mình và quốc tịch La Mã. Khi được tin là Tirzah sắp chết, Ben-Hur và Esther đưa cô và bà Miriam tới gặp chúa Giêsu, nhưng phiên tòa xử chúa Giêsu tại dinh tổng trấn Pilate đã bắt đầu.
Đã biết chúa Giêsu từ lần gặp gỡ trước (Chúa Giêsu mang nước cho anh ta uống ở Nazareth), Ben-Hur tìm cách cho chúa Giêsu uống nước khi Ngài vác thập giá trên con đường đau khổ (Via Dolorosa) lên đồi Calvary để chịu đóng đinh, nhưng các lính gác đã không cho phép.
Ben-Hur chứng kiến việc đóng đinh chúa Giêsu vào thập giá. Vào lúc chúa Giêsu tắt thở, thì Miriam và Tirzah được lành bệnh – cũng như tâm hồn và trái tim Ben-Hur – do một phép lạ. Anh nói với Esther rằng anh đã nghe thấy chúa Giêsu từ trên thập giá nói lời tha thứ cho những kẻ kết án Ngài: “Tôi cảm thấy lời của Ngài đã tước mất thanh kiếm khỏi tay tôi”. Phim kết thúc bằng cảnh quay các cây thập tự trống trơn trên đồi Calvary và người mục tử nhân lành cùng đoàn chiên của ông.
Sản xuất
Ban đầu hãng MGM công bố việc làm lại phim Ben-Hur trong tháng 12 năm 1952, bề ngoài là một cách để tiêu khoản lợi nhuận bằng đồng lire của Ý (không đưa ra khỏi nước được).[2][3]
Stewart Granger và Robert Taylor được cho là có cơ hội giành được vai chính.[3] Chín tháng sau hãng MGM loan báo sẽ làm phim này theo dạng CinemaScope vào năm 1954.[4] Tháng 11 năm 1953, hãng MGM loan báo đã giao cho nhà sản xuất Sam Zimbalist làm phim này và thuê Karl Tunberg viết kịch bản.[5] Hãng phim thậm chí còn đi xa hơn khi công bố trong tháng 7 năm 1954 là phim này sẽ bắt đầu quay trong tháng 3 năm 1955 với 42 phần có lời thoại và 97 phần phông cảnh khác nhau.[6] Tháng giêng năm 1955, hãng MGM nói đã thuê Sidney Franklin làm đạo diễn và kịch bản do Tunberg viết đã hoàn tất, việc quay phim sẽ được thực hiện ở Roma (Ý) và ở Tây Ban Nha, và rằng Marlon Brando sẽ đóng vai chính.[7] Tuy nhiên việc sản xuất chưa bắt đầu.
Trên thực tế, trong tháng 9 năm 1955, Zimbalist (người vẫn cho rằng kịch bản của Tunberg đã hoàn tất) nói là khoản vốn 7 triệu dollar Mỹ sử dụng cho việc sản xuất trong 6 tới 7 tháng sẽ bắt đầu từ tháng 4 năm 1956 tại Israel hoặc Ai Cập bằng phương pháp màn ảnh rộng 65mm mới của hãng MGM.[8] Nhưng đầu năm 1956, hãng MGM ngưng sản xuất.[9]
Cuối thập niên 1950, tòa án quyết định buộc các hãng phim phải tự loại bỏ các chuỗi rạp chiếu phim[10] và áp lực cạnh tranh của truyền hình đã gây ra khó khăn tài chính đáng kể cho hãng MGM.[11] Trong một canh bạc để cứu hãng phim, và được gợi ý từ sự thành công của cuốn phim sử thi kinh Thánh “The Ten Commandments” (10 giới luật) [11] của hãng Paramount Pictures, năm 1957 người lãnh đạo hãng MGM Joseph Vogel đã tuyên bố là hãng sẽ làm lại phim sử thi Kinh Thánh “Ben-Hur” năm 1925 của mình.[12] Ban giám đốc hãng MGM lại giao cho Sam Zimbalist, người đã sản xuất phim Quo Vadis được coi là phim hay nhất trong năm 1951.
Mặc dù ngân khoản dành cho phim Ben-Hur ban đầu là 7 triệu dollar Mỹ,[13] đến tháng 2 năm 1958 được nói là lên tới 10 triệu dollar Mỹ,[14] nhưng tới lúc bắt đầu quay phim trong tháng 5 năm 1958 đã lên tới 15 triệu dollar—khiến cho phim này trở thành phim đắt tiền nhất từ xưa tới thời điểm đó.[15]
Tiến trình viết kịch bản
Tiểu thuyết của Lew Wallace dài khoảng 550 trang. Zimbalist đã thuê một số nhà viết kịch bản rút gọn câu chuyện và viết thành kịch bản. Theo Gore Vidal, trong mùa xuân năm 1958 đã có trên 12 kịch bản khác nhau được nhiều nhà văn viết ra.[16] Bản thân Vidal cũng được yêu cầu viết một kịch bản trong năm 1957, bị khước từ, và bị ngưng việc.[16] Karl Tunberg là một trong những nhà văn cuối cùng viết kịch bản này. Ban đầu Zimbalist đã chọn đạo diễn Sidney Franklin điều khiển việc quay phim.[13] Tunberg đã tham khảo ý kiến Franklin về kịch bản.[17] Tunberg cắt hết phần diễn biến trong tiểu thuyết sau khi chúa Giêsu đã bị đóng đinh vào thập giá, bỏ đi tiểu truyện trong đó Ben-Hur giả chết và lập ra quân đội Do Thái để lật đổ ách thống trị của La Mã, và thay đổi cách thức mà các phụ nữ bị phong hủi được chữa lành (thay vì họ được chữa lành trong khi chúa Giêsu vào thành Jerusalem cách vinh quang trong ngày Chúa nhật Lễ Lá, thì các phụ nữ này được lành bệnh sau khi tình cờ ngâm mình trong nước mưa nhuốm máu chúa Giêsu sau khi bị đóng đinh).[18] Phiên bản phim câm trước đây đã cho Esther xuất hiện sớm, thay vì giữa chừng như trong tiểu thuyết, và Tunberg cũng giữ nguyên như vậy trong bản thảo kịch bản.[19] Nhưng Zimbalist không hài lòng với kịch bản của Tunberg, và cảm thấy như vậy là chán ngắt[18] không thể “quay thành phim được”.[20]
Nỗ lực viết kịch bản đã đổi hướng khi Franklin bị bệnh phải từ bỏ công việc.[13] Đầu năm 1957 Zimbalist mời William Wyler làm đạo diễn.[21] Ban đầu, Wyler từ chối; nhưng Zimbalist yêu cầu ông hãy đọc kịch bản. Wyler đã đọc, và cảm thấy kịch bản này “rất sơ đẳng, không tinh vi” chẳng khá hơn một tác phẩm chán phèo và không độc đáo,[22] thiếu đặc tính tốt, kết cấu kịch nghèo nàn và các nhân vật chính không hấp dẫn (chỉ là những “người hùng và nhân vật phản diện”).[22] Tuy nhiên, Wyler tỏ ra quan tâm tới cảnh dàn dựng, nhất là cảnh đua xe chariot (không mô tả trong kịch bản). Zimbalist đã chỉ cho Wyler vài storyboard[23] sơ đẳng về cuộc đua xe chariot. Wyler, người từng là một trong 30 phụ tá đạo diễn ở phim Ben-Hur năm 1925,[24] bắt đầu tỏ ra quan tâm tới phim này. Zimbalist bảo Wyler: “Hãy quên cảnh đua xe chariot. Đó chỉ là một trò thứ yếu”.[25] Zimbalist nói rằng thách thức thực sự là làm sao đem lại cho cuốn phim một sự “toàn vẹn, chiều sâu, sự gắn bó chặt chẽ”—mọi cái mà chỉ William Wyler mới có thể mang lại cho cuốn phim, và vì thế mà Wyler được nổi tiếng. Zimbalist cũng bảo Wyler rằng hãng MGM sẽ tiêu tới 10 triệu dollar cho cuốn phim, và Wyler (có ấn tượng với ngân khoản lớn này) đã đồng ý xem xét lại kịch bản lần thứ hai.[25] Càng nghĩ về câu chuyện, Wyler càng thấy có khả năng có thể thực hiện thành phim.[11] Theo một bài tường thuật đăng trên báo New York Times, Wyler đã từ chối cho tới khi ông chắc chắn là mình đã có một nhân vật chính xuất sắc. Hãng MGM cho Wyler khởi sự quay phim. Tháng 4 năm 1957, các phương tiện truyền thông chủ đạo tường thuật là Wyler đã xem xét các nam diễn viên đóng vai chính người Ý, trong đó có Cesare Danova.[26] Ngày 13.6.1957, hãng MGM vẫn chưa xác nhận là Wyler đã chính thức đảm nhiệm việc đạo diễn.[27] Tuy nhiên, hãng phim nói là việc sản xuất sẽ bắt đầu trong tháng 3 năm 1958.[27] Wyler đồng ý làm phim này trong tháng 9 năm 1957,[25] mặc dù cho tới ngày 3.1.1958 hãng MGM chưa chính thức thuê đạo diễn.[28] Dù vẫn còn thiếu một nam diễn viên chính, Wyler đã nhận công việc vì nhiều nguyên nhân: Ông được hứa khoản tiền lương căn bản 350.000 dollar cũng như 8% tổng thu nhập bán vé (hoặc 3% lợi nhuận, nếu cái nào lớn hơn),[29] và ông lại muốn làm việc ở Roma (nơi ông đã quay cuốn Roman Holiday).[11][13] Lương căn bản của ông ở thời điểm đó là khoản lương cao nhất từ trước tới nay cho một đạo diễn của một phim.[11] Nhưng lý do cạnh tranh nghề nghiệp cũng đóng một vai trò. Wyler sau đó thừa nhận rằng ông muốn làm một “sử thi Kinh Thánh của một người tư duy”[30] Trong những năm sau đó, William Wyler đùa rằng phải dùng một người Do Thái để làm một bộ phim hay về Chúa Kitô.[31]
Wyler, cũng như Zimbalist, không hài lòng về kịch bản. Ông cảm thấy bản thảo của Tunberg quá nghiêng về đạo đức với những ngụ ý chính trị phương Tây.[32] Zimbalist đã đưa thêm nhà soạn kịch S. N. Behrman rồi nhà soạn kịch Maxwell Anderson vào viết kịch bản.[13] Behrman đã làm việc khoảng 1 tháng, nhưng không biết rõ ông đã đóng góp bao nhiêu vào phiên bản cuối cùng của kịch bản.[20] Cả bài tường thuật đương thời trên tạp chí Films and Filmmaking của Anh cũng như Fred Kaplan – người viết viểu sử Vidal – đều cho rằng Anderson đã bị bệnh không thể tham gia viết kịch bản.[17][20] Nhưng tờ báo New York Times tường thuật trong tháng 6 năm 1957 là Anderson có tham gia viết kịch bản,[27] mặc dù năm 1959 có tin rằng Anderson bị bệnh nặng không thể viết được.[33] Vào mùa xuân 1958 Gore Vidal nói rằng kịch bản phần lớn do Anderson và Behrman viết và gần như toàn bộ phần đối thoại là của Anderson với “văn phong rất thi vị”[16]
Tạp chí Films and Filmmaking cho biết là thi sĩ kiêm nhà soạn kịch người Anh Christopher Fry được thuê thêm để viết kịch bản tiếp theo, đã khéo tạo ra vài cảnh quan trọng, rồi để lại cho Vidal kết thúc kịch bản.[17] Tuy nhiên, phần lớn các nguồn (cả của chính Vidal) nói rằng Vidal kế tục Anderson, và rằng Fry chưa tham gia viết cho tới khi Vidal sắp sửa thôi viết. Fred Kaplan – người viết tiểu sử Vidal – nói rằng Fry được thuê đồng thời với Vidal, và rằng Zimbalist biết là Vidal sẽ chỉ tham gia viết kịch bản trong một thời gian ngắn trước khi trở về thành phố New York. Zimbalist hy vọng rằng Fry sẽ bắt đầu làm việc vào phần kết kịch bản và 2 nhà văn sẽ “mau chóng gặp nhau giữa đường”.[34] Vidal được ghi như nhà viết kịch bản vì Zimbalist thích ông ta và rất tin cậy ở tài khéo léo của ông. Vidal nói công việc chuẩn bị cho sản xuất phim này đã được tiến hành ở Ý, khi ông bay tới Rome vào đầu tháng 3 năm 1958 để gặp William Wyler.[16][35] Vidal cho biết là Wyler chưa đọc kịch bản, và rằng khi ông ta đã đọc (theo yêu cầu của Vidal) trên chuyến bay từ Hoa Kỳ sang Ý, thì ông ta không hài lòng với phần đối thoại kiểu hiện đại.[16][36] Vidal đã đồng ý sửa chữa kịch bản trong 3 tháng để không bị đình chỉ và hoàn thành hợp đồng của mình với hãng MGM,[13][16] mặc dù Zimbalist thúc giục ông ở lại làm việc cho tới khi sản xuất xong.[34] Vidal tìm kiếm một quyển sách viết về hoàng đế La Mã Julian ở thế kỷ thứ 4, và hiểu được rất nhiều điều về La Mã cổ xưa. Tuy nhiên, Wyler, hầu như không biết gì về thời kỳ đó, và dành hầu hết tháng 3 để chiếu gần như tất cả các bộ phim của Hollywood về La Mã cổ đại được gửi tới Ý cho ông ta.[34]
Cách làm việc của Vidal là để kết thúc một cảnh và xem xét lại cảnh đó với Zimablist. Một khi Vidal và Zimbalist đã nhất trí thì cảnh đó sẽ được trao cho Wyler.[34] Vidal nói ông giữ kết cấu kịch bản của Tunberg/Behrman/Anderson, nhưng viết lại gần như toàn bộ phần đối thoại.[37] Vidal thừa nhận với William Morris trong tháng 3 năm 1959 rằng Fry đã viết lại hầu như 1/3 phần đối thoại mà Vidal đã thêm vào nửa đầu của kịch bản. Tuy nhiên, Vidal có làm một thay đổi cấu trúc. Kịch bản của Tunberg có một cảnh Ben-Hur đoàn tụ với Messala, và Vidal đã chia cảnh này thành 2, lúc đầu họ gặp lại nhau ở lâu đài Antonia rồi sau đó họ tranh luận ở nhà của Ben-Hur. Vidal cũng thêm vào vài chi tiết nhỏ như Ben-Hur mua một cái trâm cài tóc cho Tirzah và một con ngựa cho Messala.[37] Vidal cho biết rằng ông đã sửa chữa nửa đầu tiên của kịch bản (tất cả mọi thứ cho tới cảnh cuộc đua xe chariot), và viết 10 phiên bản của cảnh Judah Ben-Hur đối mặt với Messala để xin trả tự do của gia đình mình.[31][38]
Nhà văn viết kịch bản cuối cùng là Christopher Fry. Heston cho biết Fry là người đầu tiên được Wyler chọn để viết kịch bản, nhưng Zimbalist đã ép ông dùng Vidal.[31] Dù Fry có viết kịch bản trước Vidal hay không, thì các nguồn tin đều đồng ý là Fry đã tới Roma trong đầu tháng 5 năm 1958 và làm việc 6 ngày mỗi tuần tại nơi quay phim, viết đi viết lại những câu thoại cũng như toàn bộ các cảnh cho tới khi cuốn phim kết thúc.[39] Đặc biệt, Fry đã làm cho phần thoại tăng thêm vẻ hình thức và cổ xưa hơn một chút, mà không có nét khoa trương theo kiểu trung cổ.[39] Ví dụ câu “How was your dinner?” (Bữa ăn của anh thế nào?) trở thành “Was the food not to your liking? (Thức ăn không hợp với khẩu vị của anh sao?)”[39] Đầu tháng 6, Fry (làm việc ngược lại từ phần chót trở lại phần đầu) đã hoàn tất các cảnh cuối cùng của phim.[40] Tuy nhiên nhà viết lịch sử điện ảnh Daniel Eagan cho biết là vì thời gian không còn nhiều nên Wyler đã ngưng tìm kiếm các cải tiến kịch bản để kịp hoàn tất cuốn phim.[13]
Wyler nói rằng ông ta đã tìm cách ghi Tunberg và Fry là đồng tác giả kịch bản. Lúc đầu Tunberg đồng ý, nhưng sau đó đã đổi ý, khi Nghiệp đoàn nhà văn viết kịch bản Hoa Kỳ muốn điều tra vụ việc theo thông lệ.[41] Tuy nhiên theo Gore Vidal và nhà viết sử điện ảnh Gary Giddins, thì Wyler đã tìm cách chỉ ghi tên Fry là nhà viết kịch bản.[41][42]
Vụ tranh cãi về việc ai sẽ được ghi là người viết kịch bản đã nhanh chóng trở thành một vụ công khai. Theo báo New York Times, Vidal đã nghi ngờ quyết định ban đầu của Nghiệp đoàn nhà văn viết kịch bản về vấn đề ai được ghi là nhà viết kịch bản phim này.[33] Nghiệp đoàn nhà văn viết kịch bản phân xử việc ghi tên người viết kịch bản theo hệ thống ghi tên của Nghiệp đoàn, và đã nhất trí ghi tên người viết kịch bản duy nhất cho Tunberg (người mà – do sự trùng hợp ngẫu nhiên – là cựu chủ tịch Nghiệp đoàn này).[33][41][43] Cả đạo diễn William Wyler lẫn Sol C. Siegel, giám đốc sản xuất của hãng MGM, đều kháng nghị quyết định của Nghiệp đoàn.[33] Tunberg đồng ý chia sẻ tên người viết kịch bản với người khác, nhưng Nghiệp đoàn khước từ thay đổi quyết định của mình.[33] Wyler công khai vận động để Nghiệp đoàn đảo ngược quyết định của mình, cảm thấy rằng chính sách nội bộ đã khiến cho Nghiệp đoàn ghi một mình Tunberg là người viết kịch bản. Để trả đũa, Nghiệp đoàn đã quảng cáo trên các tờ báo thương mại buộc tội Wyler tìm cách làm suy yếu tính công minh và hệ thống phân xử việc ghi tên người viết kịch bản. Khi phim Ben-Hur được đề cử tranh giải Oscar trong nhiều thể loại, ngoại trừ thể loại kịch bản, thì Nghiệp đoàn đã cáo buộc Wyler tội gây trở ngại trong việc nêu tên Tunberg. Sau đó, khi Charlton Heston nhận giải Oscar cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất, thì anh đã cảm ơn Christopher Fry trong lời phát biểu nhận giải. Nghiệp đoàn nhà văn viết kịch bản đã gửi một lá thư cho Heston cáo buộc anh ta đã cố ý đặt thành vấn đề nghi ngờ danh tiếng của Nghiệp đoàn và của Tunberg.[41] Kịch bản cuối cùng dài 230 trang.
Các vai diễn
- Charlton Heston vai Judah Ben-Hur
- Stephen Boyd vai Messala
- Martha Scott vai Miriam
- Cathy O’Donnell vai Tirzah Bat-Hur
- Haya Harareet vai Esther Bat-Simonides
- Sam Jaffe vai Simonides
- Jack Hawkins vai Quintus Arrius
- Hugh Griffith vai Sheik Ilderim
- Claude Heater (không ghi trong danh mục vai diễn) vai chúa Giêsu Kitô
- Finlay Currie vai Balthasar/Người thuật chuyện
Phân vai diễn
Nhiều nam diễn viên khác đã được mời đóng vai Judah Ben-Hur trước Charlton Heston. Burt Lancaster cho biết ông đã khước từ vai này vì thấy kịch bản chán ngắt (một trong nhiều lý do khác).[44] Paul Newman từ chối và nói rằng chân mình mặc áo dài thắt ngang lưng (toga) không đẹp.[45] Marlon Brando,[45] Rock Hudson,[46] Geoffrey Horne,[47] và Leslie Nielsen[48] cũng được mời đóng vai này, cũng như một số nam diễn viên Ý rất vạm vỡ, đẹp trai (nhiều người trong số này không biết nói tiếng Anh).[49] Trong số các nam diễn viên Ý đã được thử có Cesare Danova.[50] Kirk Douglas quan tâm tới vai này, nhưng đã từ chối để dành cho Heston. Điều này đã gợi ý cho Douglas làm phim Spartacus một năm sau.[51] Heston chính thức nắm vai diễn ngày 22.1.1958.[52] Tiền lương của anh là 250.000 dollar cho 30 tuần lễ, cộng thêm một khoản tiền lương tính theo tỷ lệ cho mọi thời gian vượt quá 30 tuần lễ, và chi phí di chuyển cho gia đình anh.[36]
Stephen Boyd được phân vai Messala, địch thủ của Ben-Hur, ngày 13.4.1958.[53] Ban đầu William Wyler muốn Charlton Heston đóng vai này, nhưng đã buộc phải chuyển Heston sang đóng vai Judah Ben-Hur vì không tìm được ai thay thế.[54] Wyler đã tìm cách lôi kéo Kirk Douglas đóng vai Ben-Hur, nhưng Douglas đã từ chối.[55] Boyd đang là diễn viên ký hợp đồng với hãng 20th Century Fox khi Wyler tìm anh để đóng vai này.[13] Vì đôi mắt của Heston màu xanh, nên Wyler đã cho Boyd mang đôi mắt kính màu nâu lồng vào con ngươi (contact lenses) như một cách tương phản giữa 2 nhân vật.[56]
Wyler đã quyết định phân vai các nhân vật La Mã cho các diễn viên Anh, còn các vai các nhân vật Do Thái cho các diễn viên Mỹ để nhấn mạnh việc phân chia giữa 2 nhóm.[15][57] Những nhân vật La Mã trong phim là những người quý tộc, do đó Wyler tin rằng khán giả người Mỹ sẽ coi giọng của người Anh như là giọng quý phái. Marie Ney ban đầu được phân vai Miriam, nhưng đã bị thải sau 2 ngày làm việc, vì cô không thể khóc đúng lúc (thích hợp).[58] Heston nói rằng anh đã gợi ý cho Wyler là Martha Scott (người đã diễn vai mẹ của Moses (do Heston đóng) trong phim The Ten Commandments (10 giới luật)) có thể đóng vai Miriam.[59] Scott đã được thuê ngày 17.7.1958.[60] Cathy O’Donnell là chị (em) dâu của Wyler, và mặc dù sự nghiệp của cô đang xuống dốc (Ben-Hur là phim diễn xuất cuối cùng của cô) nhưng Wyler phân cho cô vai Tirzah.[61] Có hơn 30 nữ diễn viên được nhắm cho vai Esther.[62] Sắc đẹp kỳ lạ của nữ diễn viên người Israel Haya Harareet, một diễn viên điện ảnh tương đối mới nổi, được phân vai Esther ngày 16.5.1958,[62] sau 30 giây diễn câm thử.[50] Wyler gặp cô ở Liên hoan phim Cannes, và cô đã gây ấn tượng mạnh nơi ông bằng tài khéo đàm thoại và nhân cách của cô.[63] Cả Zimbalist lẫn Wyler đều rất phấn khởi về dáng vẻ bề ngoài và diễn xuất của cô.[32] Sam Jaffe được phân vai Simonides ngày 3.4.1958,[64] chủ yếu vì ông đã nổi tiếng trong các vai tộc trưởng già thông thái trong một số phim.[65] Finlay Currie được phân vai Balthasar trong cùng ngày với Sam Jaffe.[64] Wyler đã phải thuyết phục Jack Hawkins xuất hiện trong phim này, sau khi Hawkins bày tỏ ý không muốn làm một phim sử thi khác ngay sau phim Cầu sông Kwai.[32] Hawkins được phân vai diễn ngày 18.3.1958.[66] Hugh Griffith, người đã được hoan hô trong thời hậu Chiến tranh thế giới thứ hai trong các vở hài kịch ở Ealing Studios, được phân vai hài Sheik Ilderim.[67] Cuối cùng là Currie, người trước đây đã làm việc với Zimbalist trong phim Quo Vadis, đóng vai Thánh Phêrô.[68]
Do tôn trọng thiên tính của Chúa Kitô, và phù hợp với sự yêu thích của tác giả Lew Wallace, Wyler đã quyết định trước khi bắt đầu sản xuất rằng khuôn mặt của Chúa Giêsu sẽ không được lộ rõ. Vai chúa Giêsu do Claude Heater đóng. Heater là một ca sĩ opera người Mỹ trình diễn ở Nhà hát nhạc kịch Vienne tại Roma khi anh được mời thử diễn xuất cho phim này.[69] Anh không được ghi tên mình cho vai diễn.
Wyler đặt nặng tầm quan trọng ở việc biểu lộ đặc tính của nhân vật, chứ không ở ngoại hình hay lịch sử diễn xuất.[61]
Hãng MGM đã mở văn phòng tuyển mộ diễn viên ở Roma từ giữa năm 1957 để tuyển 50.000 người vào các vai phụ và vai làm vì trong phim.[70] Hãng loan báo là việc phân vai diễn cho các vai chính trong phim đã hoàn tất ngày 12.9.1958, khi Kamala Devi được phân vai Iris, con gái của Sheik Ilderim.[71]
Quay phim và biên tập
Robert Surtees, người đã quay nhiều phim sử thi rất thành công trong thập niên 1950 và là người đã làm việc với Sam Zimbalist trong phim Quo Vadis năm 1951, được thuê làm nhà quay phim này.[72] Ngay từ lúc bắt đầu sản xuất, Zimbalist và các nhà điều hành hãng MGM đã quyết định quay phim này ở kích thước màn ảnh rộng.
Phim được quay theo phương pháp gọi là “MGM Camera 65“. Phim Raintree County năm 1957 và phim Ben-Hur là 2 phim đầu tiên của hãng MGM được quay theo phương pháp này.[73] Máy quay phim 65 của hãng MGM sử dụng bản phim màu đặc biệt 65mm với một aspect ratio[74] 2.76:1.[75] ống kính 70 mm anamorphic[76] do công ty Mitchell Camera chế tạo. Các ống kính này nén hình ảnh xuống 1,25 lần cho hợp với diện tích hình ảnh của bản phim.[77] Các hình ảnh 65mm được in trên bản phim 70mm.[78] Khoảng trống còn dư 5mm của bản phim 70mm cho phép hãng phim sử dụng cho 6 rãnh mới âm thanh nổi, mà khán thính giả thời đó ít khi được nghe.[79]
6 ống kính 70mm, mỗi cái trị giá 100.000 dollar, đã được chở bằng tàu thủy tới Roma để dùng quay phim này.[68][80][81]
Việc quay phim chính bắt đầu từ ngày 18.5.1958[43], khi kịch bản còn chưa hoàn tất và Wyler mới chỉ đọc hết 10 trang đầu. William Wyler rời Hoa Kỳ sang Ý trong tháng 4 năm 1958, trước khi việc xử lý hậu sản xuất cuốn phim The Big Country của ông ta kết thúc 5 tháng sau đó. Wyler đã cho phép biên tập viên Robert Swink tự ý biên tập – kể cả việc quay phần kết thúc mới – cuốn phim “The Big Country” mà không cần hỏi ý kiến ông ta,[82] vì ông rất bận trong việc quay phim Ben-Hur. Việc quay phim Ben-Hur mỗi ngày kéo dài từ 12 tới 14 giờ và 6 ngày mỗi tuần. Nhịp độ làm việc rất căng thẳng đến nỗi đã phải thuê một bác sĩ để tiêm vitamin B cho những ai có nhu cầu.[83]
Việc quay 1.100.000 foot (340.000 m) phim.[43] đã mất 9 tháng, trong đó có 3 tháng chỉ dành riêng cho cảnh đua xe chariot.[84] Việc quay các cảnh chính kết thúc ngày 7.1.1959, bằng cảnh quay việc đóng đinh chúa Giêsu vào thập giá.[85][86] Cảnh này đã mất 4 ngày mới xong. Việc xử lý sau sản xuất phải mất tới 6 tháng nữa.[85]
Theo biên tập viên John Dunning, cuốn phim sau khi biên tập cắt giảm lần đầu còn dài 4 giờ 30 phút[87] (tuy nhiên phương tiện truyền thông tường thuật trong tháng 3 năm 1959 là nó dài tới gần 5 giờ).[88] William Wyler nói rằng mục tiêu của ông là thu gọn thời gian của cuốn phim lại trong vòng 3 giời rưỡi.[88] Khi cuốn phim được biên tập hoàn chỉnh, thì nó dài đúng 19.000 foot (5.800 m) và chiếu hết 213 phút.[43] Đây là cuốn phim dài thứ 3 từ trước tới thời điểm đó, sau phim Gone With The Wind (Cuốn theo chiều gió) và The Ten Commandments (Mười giới luật).[43]
Thiết kế sản xuất
Ý là sự lựa chọn hàng đầu của hãng MGM làm nơi sản xuất phim này, mặc dù một số nước khác như Pháp, Mexico, Tây Ban Nha và Vương quốc Anh cũng được xem xét đến.[89] Xưởng phim Cinecittà Studios – một xưởng sản xuất điện ảnh rất lớn xây dựng từ năm 1937 ở ngoại ô thành phố Roma – đã sớm được xác định là nơi quay phim chính.[14]
Việc chuẩn bị trước cho sản xuất (Pre-production) đã bắt đầu ở xưởng phim Cinecittà khoảng tháng 10 năm 1957.[14] Ban Nghệ thuật của hãng MGM đã sản xuất hơn 15.000 bản vẽ, phác thảo trang phục, cảnh dựng, đồ dùng sân khấu, cùng những thứ cần dùng khác cho phim (chỉ riêng trang phục đã có tới 8.000 bản vẽ). Giữa tháng 1 năm 1958, hãng MGM nói rằng việc quay các cảnh ở Bắc Phi (sau đó được tiết lộ là ở Libya) sẽ khởi sự từ ngày 1.3.1958, và rằng đã thuê 200 con lạc đà và 2.500 con ngựa.[90] Việc sản xuất được ấn định sẽ di chuyển về Roma ngày 1.4.1958, nơi Andrew Marton đã được thuê làm đạo diễn đơn vị 2 và 72 con ngựa đã được huấn luyện cho cảnh đua xe chariot.[90] Tuy nhiên, ngày 11.3.1958 chính phủ Libya hủy bỏ giấy phép sản xuất phim này ở Lybia vì lý do tôn giáo, chỉ 1 tuần lễ trước khi tiến hành quay phim.[91]
Việc sản xuất phim Ben-Hur đã sử dụng 300 cảnh dàn dựng rải rác trên 148 mẫu Anh (60 ha) và 9 sound stage (nơi thu âm).[92] Phần lớn phim được quay tại phim trường Cinecittà. Vài cảnh dựng cho phim Quo Vadis từ năm 1951 vẫn còn, đã được tân trang để dùng cho phim Ben-Hur.[92] Khi kết thúc sản xuất, đã sử dụng hết hơn 1.000.000 pound (450.000 kg) vữa và 40.000 foot khối (1.100 m3) gỗ xẻ.[93][94] Đã phải mua sắm trên 100.000 trang phục, 1.000 bộ áo giáp, thuê 10.000 diễn viên phụ (làm vì) và mua hay thuê hàng trăm con lạc đà, lừa, ngựa và cừu.[15] Nhà thiết kế thời trang Elizabeth Haffenden đã phải trông nom đội ngũ 100 thợ làm các tủ quần áo ngay từ 1 năm trước khi bắt đầu quay phim. Vải lụa đặc biệt được nhập cảng từ Thái Lan, áo giáp được làm ở Tây Đức, các hàng len được làm và thêu ở Anh cùng nhiều nước Nam Mỹ. Nhiều hàng da được ép nhũ bằng tay ở Anh, trong khi các thợ giày Ý làm giày và ủng. Đăng ten cho trang phục được mua từ Pháp và đồ nữ trang mua ở Thụy Sĩ.[95] Có hơn 400 pound (180 kg) tóc do các phụ nữ ở vùng Piedmont của Ý tặng để làm tóc giả và râu giả,[96] cùng 1.000 foot (300 m) đường ray được đặt để di chuyển giá đỡ máy quay phim (camera dolly).[93] Một xưởng sử dụng 200 nghệ sĩ và thợ để làm hàng trăm diềm mũ cột cùng các tượng cần thiết. Một quán ăn tự phục vụ dành cho hơn 5.000 diễn viên phụ trong 20 phút cũng được xây dựng.[70] Làng sơn cước Arcinazzo Romano,[96] cách Roma 40 dặm (64 km), được dùng thay cho thành phố Nazareth.[39] Các bãi biển gần Anzio cũng được sử dụng,[97] và các hang động ngay phía nam thành phố Roma được dùng làm khu cư trú của những người phong hủi.[98]
Cuốn phim cũng nhắm tuân thủ các chi tiết chính xác theo lịch sử. Hugh Gray, một sử gia nổi tiếng và là nhà nghiên cứu phim trường điện ảnh, đã được Zimbalist thuê làm cố vấn lịch sử cho phim. Các chi tiết nhỏ nhất về lịch sử đều chính xác. Wyler đã yêu cầu một giáo sư ở Đại học Jerusalem sao cho một phần “Các cuộn Kinh Thánh ở Biển Chết” để sử dụng trong một cảnh đòi phải có bản giấy da với chữ Hebrew trên đó.[96]
Hơn 40 chiến thuyền chèo 3 tầng của La Mã thu nhỏ đã được sản xuất để dùng trong cảnh trận hải chiến, được quay ở phim trường hãng MGM tại Culver City, California.[92][97] Được quay trong tháng 11 và 12 năm 1957,[52] đây là một trong các cảnh quay đầu tiên của phim.[87] Hai chiến thuyền galley dài 175 foot (53 m) đủ khả năng đi biển, được đóng dựa trên các sơ đồ của nhà bảo tàng Ý. Một hồ nhân tạo với trang thiết bị có thể tạo ra sóng cỡ như sóng biển đã được xây ở phim trường Cinecittà để thích ứng cho các chiến thuyền galley và thuyền cướp biển.[93] Một phông cảnh đồ sộ – rộng 200 foot (61 m), cao 50 foot (15 m) – được sơn và dựng để giấu nền phông.[93]
Dunning nói ông đã đạo diễn phần lớn các cảnh ở dưới boong tàu, trong đó có cảnh chiến thuyền chỉ huy của Quintus Arrius bị đâm thủng.[87] Theo Dunning, để làm cho cảnh này đẫm máu hơn, ông đã tìm các diễn viên phụ người Ý vốn đã bị cụt chân hay tay, và cho hóa trang bằng xương và máu giả khiến cho họ trông có vẻ như bị mất tay hay chân thật trong trận chiến.[87]
Dunning cũng nói rằng ông ta đã đạo diễn phần lớn cảnh quan trọng trong đó Quintus Arrius đối diện lần đầu với Judah Ben-Hur trên chiến thuyền galley, và đoạn tiếp theo trong đó Arrius cưỡng bách các tù nhân chèo thuyền phải chèo nhanh hơn.[87] Ông nói, một số đoạn có lời thoại (trên thuyền) là do Wyler đạo diễn, nhưng đa số phần còn lại (kể cả phần chèo thuyền tốc độ cao) là do chính Dunning đạo diễn.[87]
Một trong cảnh dựng lộng lẫy nhất là ở biệt thự của Quintus Arrius, trong đó có 45 vòi phun nước hoạt động với 8,9 dặm (14,3 km) ống dẫn. Các diễn viên làm vì trong bữa tiệc đều là những người khá giả ở Roma[92] trong đó có nam tước phu nhân Lillian de Balzo (Hungary), công chúa Carmen de Hohenlohe (Tây Ban Nha), hoàng tử Cristian Hohenlohe (Tây Ban Nha), nữ bá tước Nona Medici (Ý), bá tước Marigliano del Monte (Ý), bá tước Santiago Oneto (Tây Ban Nha), bá tước Mario Rivoltella (Ý), hoàng tử Emanuele Ruspoli (Ý), hoàng tử Raimondo Ruspoli (Ý), và công chúa Irina Wassilchikoff (Nga).[70] Để tái tạo các đường phố của thành phố Jerusalem cổ, đã phải lót đá tảng một diện tích đường rộng 0,5 dặm vuông Anh (1,3 km2),[11] trong đó có Joppa Gate (cổng Joppa) cao 75 foot (23 m).[92]
Các cảnh dựng (ở Roma) quá rộng lớn và nhìn rất thú vị nên đã trở thành nơi hấp dẫn du khách.[11] Hàng giờ có các chuyến xe bus chở du khách tới tham quan. Các diễn viên như Harry Belafonte, Kirk Douglas, Susan Hayward, Audrey Hepburn, và Jack Palance đã ngừng lại ở Roma để xem việc sản xuất phim này.[99] Các cảnh dàn dựng đồ sộ có thể nhìn thấy từ ngoại ô thành phố Roma, và hãng MGM ước tính có hơn 5.000 người đã tới xem các cảnh dàn dựng này.[93] Khoảng 25.000 du khách khác đã dừng lại ở phim trường để xem tiến trình sản xuất phim.[96]
Cảnh đua xe chariot
Cảnh đua xe chariot trong phim Ben-Hur do Andrew Marton và Yakima Canutt đạo diễn.[100] William Wyler đạo diễn cảnh “lộng lẫy” diễn ra trước cuộc đua, các cảnh đám đông vui mừng và các cảnh chiến thằng sau khi cuộc đua đã qua.[101]
Khu vực đua xe chariot lấy mẫu theo trường đua lịch sử ở Jerusalem.[92] Với diện tích 18 mẫu Anh (7,3 ha), đây là cảnh dàn dựng phim lớn nhất được dựng lên tính tới thời điểm đó.[102] Trường đua này tốn hết 1 triệu dollar, do 1.000 công nhân làm việc hơn 1 năm để đục mỏ đá thành hình bầu dục.[92] Đường đua gồm 1.500 foot (460 m) dài thẳng tắp và các khán đài cao 5 tầng.[92] Hơn 250 dặm (400 km) ống kim loại được sử dụng để dựng lên các khán đài.[93] Hơn 40.000 tấn thiếu (36.000 t) cát được lấy từ các bãi biển Địa Trung Hải để trải đường đua.[103]
Việc lập kế hoạch cho cuộc đua xe chariot đã mất gần một năm mới xong.[92] 78 con ngựa đã được mua và nhập từ Nam Tư và Sicilia trong tháng 11 năm 1957, được nhà huấn luyện thú vật Hollywood Glenn Randall tập luyện để đạt điều kiện thể chất đỉnh cao để kéo xe quadriga (một xe chariot của đế quốc La Mã do 4 ngựa dàn hàng ngang kéo).[92][97] Các con ngựa vùng Andalusia (TâyBan Nha) đóng vai ngựa Ả Rập kéo xe chariot của Ben-Hur, trong khi các con ngựa kéo các xe đua chariot khác chủ yếu là ngựa Lipizzan (giống ngựa gốc Slovenia được nuôi tại trường dạy cưỡi ngựa Tây Ban Nha ở Vienne, Áo).[104] Hãng Danesi Brothers được thuê đóng 18 xe chariot,[105] mỗi xe nặng 900 pound (410 kg).[15], trong đó 9 xe được dùng cho việc luyện tập.[106] Các diễn viên chính, diễn viên phụ và các người diễn xuất thay thế (stunt people) đã tập luyện 100 vòng trên trường đua để chuẩn bị cho việc quay chính thức.[84] Do cuộc đua xe này được coi là quá nguy hiểm nên đã lập ra 1 bệnh xá 20 giường ở cạnh trường đua, do 2 bác sĩ và 2 y tá đảm nhiệm việc chữa trị nếu có người bị thương khi diễn xuất.[96][107]
7.000 diễn viên làm vì đã được thuê đóng vai khán giả hoan hô trên các khán đài.[11][102][108]
Nói chung, cảnh đua xe chariot đã phải quay trong 5 tuần lễ (cách quãng trong hơn 3 tháng) với chi phí tổng cộng là 1 triệu dollar. Hai ống kính 70mm mỗi cái trị giá 100.000 dollar Mỹ đã bị hư khi quay cận cảnh cuộc đua xe chariot[68]
Nhạc phim
![]() |
|
Trục trặc khi nghe tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn. |
Nhạc phim Ben-Hur được Sam Zimbalist thuê Miklós Rózsa – nhạc sĩ viết phần lớn nhạc cho phim sử thi của hãng MGM – sáng tác và điều khiển.[109] Rózsa tiến hành nghiên cứu âm nhạc Hy Lạp và La Mã đương thời để mang lại cho nhạc phim của mình một âm thanh cổ xưa trong khi vẫn là âm nhạc hiện đại. Rózsa tự mình chỉ đạo dàn nhạc giao hưởng 100 người của hãng MGM trong 12 buổi thu âm (kéo dài hơn 72 giờ). Dải ghi âm đã được thâu bằng âm thanh nổi 6 kênh,[95] dài hơn 3 giờ,[110] khiến cho nó trở thành nhạc phẩm được sáng tác dài nhất cho một phim điện ảnh (tính tới năm 2001). Rózsa đã đoạt Giải Oscar cho nhạc phim hay nhất lần thứ ba về nhạc phim này. Tính tới năm 2001, đây là nhạc phim duy nhất trong thể loại phim sử thi thời cổ và trung cổ đoạt được giải Oscar. Cũng giống như hầu hết các phần nhạc thu vào phim, phần nhạc này đã được phát hành thành một album cho công chúng thưởng thức như một phần âm nhạc riêng. Nhưng vì nhạc phim này quá dài, nên nó đã được phát hành không ít hơn 3 đĩa LP[111]. Nhạc phim Ben-Hur của Rózsa là nhạc phim đầu tiên không những được phát hành dưới dạng một tổng thể, mà còn được phát hành như một album riêng biệt. Nhạc phim Ben-Hur được coi là nhạc phim hay nhất trong sự nghiệp của Rózsa.[112]
Những khác biệt giữa tiểu thuyết và phim
Kịch bản có những khác biệt với tiểu thuyết nguyên thủy như:
- Trong tiểu thuyết, Messala có một tình nhân tên Iras. Cô ta không xuất hiện trong phim này.
- Trong tiểu thuyết, Messala bị thương nặng nhưng không đến nỗi táng mạng trong cuộc đua xe chariot. Sau đó anh ta lập mưu giết Judah Ben-Hur,nhưng kế hoạch của anh ta bị thất bại. Phần kết tiểu thuyết cho biết là Iras đã giết Messala khoảng 5 năm sau cuộc đua xe chariot. Trong phim, Messala bị tai nạn khi đua xe chariot do chính mưu toan của anh ta tìm cách phá xe của Ben-Hur, và anh ta bị chết vì các vết thương trí mạng.
- Trong tiểu thuyết, Messala tiếp tục mưu hại Ben-Hur sau cuộc đua xe chariot. Ben-Hur giả chết và sử dụng của cải của người cha nuôi để lập ra một đạo quân trong hoang mạc. Trong phim không có đoạn này.
- Trong tiểu thuyết, cuộc đua xe chariot diễn ra ở Antioch, đúng với lịch sử vì Jerusalem không có trường đua. Trong phim thì cuộc đua xe chariot diễn ra tại Jerusalem.
- Trong tiểu thuyết, Ben-Hur cải theo Kitô giáo trước khi – chứ không phải sau khi – chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá. Trong phim thì Ben-Hur theo Kitô giáo sau khi chúa Giê su bị đóng đinh vào thập giá.
- Trong tiểu thuyết, việc lành bệnh phong hủi của mẹ và em gái Ben-Hur xảy ra khi chúa Giêsu vác thập giá đi qua Jerusalem. Trong phim, việc lành bệnh này xảy ra sau khi chúa Giêsu đã chết, để nhấn mạnh cách mà “máu chúa Kitô” rửa sạch mọi tội lỗi thế gian.
- Trong tiểu thuyết, quan hệ giữa Quintus Arrius với Ben-Hur rất khác. Arrius quen biết cha của Ben-Hur. Ông cũng chết ít lâu sau khi nhận Ben-Hur làm con nuôi, chuyển gia tài và tước hiệu của mình cho Ben-Hur trước khi chàng trở lại Jerusalem. Trong phim, bỏ mọi quan hệ đã có từ trước giữa Arrius và gia đình Ben-Hur, cũng không đề cập tới cái chết của Arrius.
- Tiểu thuyết kết thúc khoảng 30 năm sau cuộc đua xe chariot, bằng việc gia đình Ben-Hur sinh sống ở Misenum, Ý. Trong khi ở Antioch, Ben-Hur được biết rằng Sheik Ilderim đã di chúc cho mình một khoản tiền lớn. Khoảng cùng thời gian đó, anh được biết việc bách hại các Kitô hữu ở Roma bởi hoàng đế Nero. Sau đó, Ben-Hur giúp lập ra hang toại đạo San Callisto để hỗ trợ cộng đồng Kitô hữu. Trong phim không có cảnh Ilderim đã chết, và phim chấm dứt hầu như ngay sau việc đóng đinh chúa Giêsu.
Thu nhập
Phim được chiếu ra mắt ở rạp chiếu bóng Loew tại thành phố New York ngày 18.11.1959. Hiện diện trong buổi chiếu ra mắt này có William Wyler, Charlton Heston, Stephen Boyd, Haya Harareet, Martha Scott, Ramon Novarro (người từng đóng vai Judah Ben-Hur trong phiên bản phim câm năm 1925), Spyros Skouras (chủ tịch hãng 20th Century Fox), Barney Balaban (chủ tịch hãng Paramount Pictures), Jack Warner (chủ tịch hãng Warner Bros.), Leonard Goldenson (chủ tịch hãng American Broadcasting Company), Moss Hart (kịch tác gia), Robert Kintner (ủy viên Ban quản trị hãng truyền hình ABC), Sidney Kingsley (kịch tác gia), và Adolph Zukor (người sáng lập hãng Paramount Pictures).[113] Phim Ben-Hur đã thu được 74,7 triệu dollar tiền bán vé trong nước và 72,2 triệu dollar trên thị trường quốc tế trong đợt phát hành đầu tiên.[114] Đây là bộ phim có doanh thu nhanh nhất[11], cũng là phim có doanh thu cao nhất năm 1959,[115] và đã cứu hãng MGM thoát khỏi tai họa tài chính.[116] Phim này mang lại cho hãng MGM 19,5 triệu dollar lợi nhuận trong đợt phát hành đầu tiên, và 10,1 triệu dollar trong đợt tái phát hành năm 1969.[11] Nó được xếp hạng thứ 9 trong danh sách các phim kiếm được nhiều tiền nhất tính tới năm 1975.[84]
Phê bình, đánh giá
Ben-Hur đã nhận được đánh giá rất tích cực khi phát hành.[117] Bosley Crowther, viết cho tờ New York Times, gọi Ben-Hur là “một bi kịch con người hấp dẫn và rất thông minh”.[118] Trong khi ca ngợi việc diễn xuất và sự đạo diễn chặt chẽ của William Wyler, Crowther cũng rất ca ngợi cảnh đua xe chariot: “Hiếm có cái gì đó trong điện ảnh có thể so sánh với cảnh đua xe chariot trong phim này. Đó là một phức cảm sửng sốt của cảnh dựng hùng vĩ, hành động ly kỳ của người và ngựa, việc quan sát toàn cảnh và việc sử dụng quá nhiều âm thanh gây ấn tượng mạnh”.[118] Jack Gaver, viết cho thông tấn xã UPI, cũng ca ngợi việc diễn xuất, gọi phim này đầy “những cảnh thực sự nồng nhiệt, sôi nổi và những cảnh mật thiết được diễn xuất tuyệt vời”.[119] Philip K. Scheuer của tờ Los Angeles Times gọi phim này là “lộng lẫy, truyền cảm, kinh hoàng, mê hoặc, và mọi tính từ khác mà bạn đã đọc về nó”.[120] Ông ta cũng gọi việc biên tập là “thành thạo nói chung” mặc dù đôi khi đột ngột.[120] Ronald Holloway, viết cho tạp chí Variety, gọi phim Ben-Hur là “một thành tựu hoành tráng, thể hiện một pha trộn tuyệt vời của nghệ thuật điện ảnh bởi các người điêu luyện bậc thầy”, và kết luận rằng phim “Cuốn theo chiều gió”, phim vô địch về tổng thu nhập của chính hãng MGM từ trước tới nay, cuối cùng sẽ phải đứng sau phim này”.[121] Cuộc đua xe chariot “có thể sẽ được bảo quản trong kho lưu trữ phim như mẫu tốt nhất của việc sử dụng máy quay phim điện ảnh để thâu một cảnh hành động. Cuộc đua xe, do Andrew Marton và Canutt Yakima đạo diễn, đưa ra khoảng 40 phút hưng phấn sởn tóc gáy mà khán giả xem phim này đã từng chứng kiến”.[121] Tuy nhiên cũng có vài phê bình: Crowther cảm thấy phim này quá dài.[118] Scheuer cảm thấy sai lầm lớn nhất của bộ phim là quá “cường điệu”, và rằng nó nhấn mạnh các điểm, quá lâu sau khi chúng đã được thực hiện xong. Ông chỉ ra (ví dụ) cảnh chèo thuyền galley, chặng đường Chúa Giêsu đi đến nơi đóng đinh trên thập tự giá, gần như tất cả các cảnh liên quan đến những người phong hủi. Ông cũng chỉ trích nhẹ Charlton Heston vì tỏ ra hấp dẫn về thể xác nhiều hơn tình cảm.[120]
Cũng có những đánh giá tiêu cực. John McCarten của tờ The New Yorker chỉ trích phim này mạnh mẽ. Ông đặc biệt chỉ trích Heston là “nói tiếng Anh như thể anh ta học từ các đĩa thâu âm”.[122] Ngay cả William Wyler sau đó trong chỗ riêng tư cũng thừa nhận là ông thất vọng với cách diễn xuất của Heston.[85] Nhà phê bình phim Dwight Macdonald cũng đánh giá phim này khá tiêu cực.[117] Ông thấy rằng bộ phim này không lôi cuốn và kéo dài mà ông nói “Tôi cảm thấy giống như một người lái xe bị mắc kẹt tại một ngã tư có đường xe lửa băng qua trong khi một chuyến xe lửa dài vận chuyển hàng hóa lăn từ từ qua”.[123] Nhà phê bình phim người Anh John Pym, viết cho công ty xuất bản Time Out (ở London), cho là phim ít giá trị, gọi đó là “bài học 4 giờ trường Chủ Nhật”.[124] Nhiều nhà phê bình phim người Pháp và Hoa Kỳ – những người tin vào auteur theory[125] của việc làm phim – xem phim này như một sự xác nhận niềm tin của họ rằng William Wyler “chỉ đơn thuần là một người thành thạo thương mại” hơn là một nghệ sĩ nghiêm chỉnh.[22]
Giải thưởng và Vinh dự
Ben-Hur được đề cử 12 giải Oscar và đã đoạt kỷ lục 11 giải này. Cho tới năm 2011, chỉ có phim Titanic năm 1998 và phim The Lord of the Rings: The Return of the King năm 2004 là cũng đoạt 11 giải Oscar như phim Ben-Hur.[126][127] Thể loại đề cử duy nhất mà phim Ben-Hur không đoạt giải là Giải Oscar cho kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất, và phần lớn các nhà quan sát cho rằng lý do là tại việc tranh cãi về ghi tên người viết kịch bản chuyển thể.[41][85]
- Giải Oscar cho phim xuất sắc nhất
- Giải Oscar cho đạo diễn xuất sắc nhất (cho William Wyler)
- Giải Oscar cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất (cho Charlton Heston)
- Giải Oscar cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất (cho Hugh Griffith)
- Giải Oscar cho chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất (cho Edward C. Carfagno, William A. Horning, và Hugh Hunt)
- Giải Oscar cho quay phim xuất sắc nhất
- Giải Oscar cho thiết kế trang phục
- Giải Oscar cho hiệu ứng nhìn tốt nhất
- Giải Oscar cho biên tập (cho John D. Dunning và Ralph E. Winters)
- Giải Oscar cho nhạc phim hay nhất
- Giải Oscar cho hòa âm hay nhất (cho Franklin Milton)
- Tháng 3 năm 1960 hãng MGM và hãng Panavision cùng đoạt chung Giải Oscar kỹ thuật đặc biệt cho việc triển khai phương pháp chụp hình bằng máy quay phim 65.[128]
- Giải Quả cầu vàng cho phim chính kịch hay nhất
- Giải Quả cầu vàng cho đạo diễn xuất sắc nhất
- Giải Quả cầu vàng cho nam diễn viên điện ảnh phụ xuất sắc nhất cho Stephen Boyd — và đoạt “Giải thành tựu đặc biệt”(cho Andrew Marton về việc đạo diễn cảnh đua xe chariot).[129]
- Heston được đề cử cho Giải Quả cầu vàng cho nam diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất (nhưng không đoạt giải).
- Giải của Viện hàn lâm điện ảnh Anh cho phim xuất sắc nhất (1960),[130]
- Giải của Hội phê bình phim New York cho phim hay nhất (1959),[131]
- Giải của Nghiệp đoàn đạo diễn Hoa Kỳ cho việc đạo diễn phim truyện xuất sắc nhất (Directors Guild of America Award for Outstanding Directing – Feature Film).[132]
Ben-Hur cũng xuất hiện trên một số danh sách “…xuất sắc nhất” do Viện phim Mỹ, một tổ chức độc lập phi lợi nhuận do Quỹ Hỗ trợ Nghệ thuật Quốc gia Hoa Kỳ lập ra năm 1967. “AFI 100 Years… series” được thành lập bởi các ban giám khảo gồm trên 1.500 nghệ sĩ, học giả, nhà phê bình và những người nghiên cứu lịch sử, bằng việc chọn lựa các phim dựa trên tính được ưa chuộng của bộ phim theo thời gian, ý nghĩa lịch sử, và tác động văn hóa. Ben-Hur xuất hiện trên các danh sách sau:
- Danh sách 100 phim hay nhất của Viện phim Mỹ — #72
- Danh sách 100 phim rùng rợn và ly kỳ của Viện phim Mỹ — #49
- Danh sách 100 năm nhạc phim của Viện phim Mỹ — #21
- Danh sách 100 phim truyền cảm hứng của Viện phim Mỹ — #56
- AFI’s 100 Years… 100 Movies (10th Anniversary Edition) — #100 (Danh sách 100 phim…100 năm của Viện phim Mỹ (Ấn bản đệ thập chu niên)
- Danh sách 10 phim hay nhất thuộc 10 thể loại của Viện phim Mỹ — #2 Phim sử thi
- Năm 2004, Ban bảo tồn phim quốc gia đã chọn đưa phim Ben-Hur vào bảo tồn ở Viện lưu trữ phim quốc gia (Hoa Kỳ) vì là phim điện ảnh “có ý nghĩa quan trọng về văn hóa, lịch sử, hoặc thẩm mỹ”.[133]
Phát sóng truyền hình và phát hành video, DVD
Phim Ben-Hur được chiếu trên truyền hình đầu tiên là ngày chúa nhật 14.2.1971.[134] Cuộc phát sóng kéo dài hơn 5 giờ liền trong một buổi tối,[135] được 85,82 triệu người xem, cho một đánh giá trung bình là 37,1.[136] Đây là phim chiếu trên truyền hình được đánh giá cao thứ nhì tính tới thời điểm đó (sau buổi chiếu ra mắt phim Cầu sông Kwai trên truyền hình).[137]
Ben-Hur được phát hành trên băng video trong vài dịp. Các lần phát hành gần đây là trên đĩa DVD và Blu-ray Disc. Một đĩa đơn 2 mặt màn ảnh rộng phát hành ở Hoa Kỳ ngày 13.3.2001. Bản phát hành này bao gồm vài mục nhỏ, trong đó có cả một bình luận của Charlton Heston, được dùng làm tài liệu (thực hiện cho một đĩa Laser phát hành vào năm 1993), các kiểm tra màn hình, và một thư viện ảnh. Bản này được phát hành ngay sau đó dưới dạng bộ 2 đĩa ở những nước khác. Phim được phát hành trên bộ DVD khác vào ngày 13.9.2005,[138] gồm 4 đĩa trong đó hình ảnh và âm thanh được nâng cao chất lượng, thêm một bình luận, thêm 2 mục nhỏ, và một phiên bản đầy đủ của phim câm Ben-Hur năm 1925.[138] Một “ấn bản sang trọng” đặt trong hộp, phát hành tại Mỹ vào năm 2002, trong đó có các bản in lại theo kích thước tấm bưu thiếp của những “lobby card” (giống bản áp phích, nhưng nhỏ hơn), các ảnh trích từ phim kích thước như bưu thiếp màu đen trắng với chữ ký của các diễn viên sao chép bằng máy, một ảnh màu từ phim lồng khung kính mờ với một khung phim 35mm gắn bên dưới và một bản áp phích phim sao lại kích thước 27 nhân 40 inch (69 nhân 102 cm).[139]
Năm 2011, công ty Warner Home Video phát hành một ấn bản kỷ niệm 50 năm trên Blu-ray Disc.[140] Hình của phim và dải âm thanh cũng lại được tăng cường chất lượng.
Thư mục
- Alexander, Shana. “Will the Real Burt Please Stand Up?” Life. ngày 6 tháng 9 năm 1963.
- Altman, Rick. Sound Theory, Sound Practice. Florence, Ky.: Psychology Press, 1992.
- “An Actor to Watch.” Coronet. ngày 1 tháng 1 năm 1959.
- Belton, John. American Cinema/American Culture. New York: McGraw-Hill, 2008.
- “Ben-Hur Rides a Chariot Again.” Life. ngày 19 tháng 1 năm 1959.
- Block, Alex Ben and Wilson, Lucy Autrey. George Lucas’s Blockbusting: A Decade-by-Decade Survey of Timeless Movies, Including Untold Secrets of Their Financial and Cultural Success. New York: HarperCollins, 2010.
- Bret, David. Rock Hudson. London: Robson, 2004.
- Brosnan, John. Movie Magic: The Story of Special Effects in the Cinema. London: Abacus, 1977.
- Brownlow, Kevin. The Parade’s Gone By… Berkeley, Calif.: University of California Press, 1968.
- Canutt, Yakima and Drake, Oliver. Stunt Man: The Autobiography of Yakima Canutt. Reprint ed. Norman, Okla.: University of Oklahoma Press, 1997
- Casson, Lionel. Ships and Seamanship in the Ancient World. Princeton, N.J.: Princeton University Press, 1971.
- Clark, Al. The Film Year Book 1984. New York: Grove Press, 1983.
- Cole, Clayton. “Fry, Wyler, and the Row Over Ben-Hur in Hollywood.” Films and Filming. March 1959.
- Coughlan, Robert. “Lew Wallace Got Ben-Hur Going—and He’s Never Stopped.” Life. ngày 16 tháng 11 năm 1959.
- Cowley, Robert. “Introduction.” In What Ifs? Of American History: Eminent Historians Imagine What Might Have Been. New York: Penguin, 2004.
- Cyrino, Monica Silveira. Big Screen Rome. Malden, Mass.: Blackwell, 2005.
- Didinger, Ray and Macnow, Glen. The Ultimate Book of Sports Movies: Featuring the 100 Greatest Sports Films of All Time. Philadelphia, Pa.: Running Press, 2009.
- Doherty, Thomas Patrick. Teenagers and Teenpics: The Juvenilization of American Movies in the 1950s. Philadelphia, Pa.: Temple University Press, 2002.
- Dowdy, Andrew. The Films of the Fifties: The American State of Mind. New York: Morrow, 1973.
- Dunning, John D. “‘Good Stuff’ Never Changes: John D. Dunning.” In First Cut: Conversations With Film Editors. Gabriella Oldham, ed. Berkeley, Calif.: University of California Press, 1995.
- Eagan, Daniel. America’s Film Legacy: The Authoritative Guide to the Landmark Movies in the National Film Registry. New York: Continuum, 2010.
- Eldridge, David. Hollywood’s History Films. London: Tauris, 2006.
- Eyman, Scott. The Speed of Sound: Hollywood and the Talkie Revolution, 1926-1930. New York: Simon and Schuster, 1997.
- Feeney, F.X. “Ben-Gore: Romancing the Word With Gore Vidal.” Written By. December 1997-January 1998.
- Gates, Phyllis and Thomas, Bob. My Husband, Rock Hudson: The Real Story of Rock Hudson’s Marriage to Phyllis Gates. New York: Jove Books, 1987.
- Giddins, Gary. Warning Shadows: Home Alone With Classic Cinema. New York: W.W. Norton & Company, 2010.
- Haines, Richard W. Technicolor Movies: The History of Dye Transfer Printing. Jefferson, N.C.: McFarland, 1993.
- Hall, Sheldon and Neale, Stephen. Epics, Spectacles, and Blockbusters: A Hollywood History. Detroit, Mich.: Wayne State University Press, 2010.
- Heater, Claude. Fatal Flaws of the Most Correct Book on Earth. Maitland, Fla.: Xulon Press, 2008.
- Herman, Jan. A Talent for Trouble: The Life of Hollywood’s Most Acclaimed Director, William Wyler. New York: Da Capo Press, 1997.
- Heston, Charlton. In the Arena. New York: Simon & Schuster, 1995.
- Hezser, Catherine. “Ben Hur and Ancient Jewish Slavery.” In A Wandering Galilean: Essays in Honour of Sean Freyne. Boston: Brill Academic Publishers, 2008.
- Hofler, Robert. The Man Who Invented Rock Hudson: The Pretty Boys and Dirty Deals of Henry Willson. New York: Carroll & Graf, 2005.
- Joshel, Sandra R.; Malamud, Margaret; and McGuire, Donald T. Imperial Projections: Ancient Rome in Modern Popular Culture. Baltimore, Md.: Johns Hopkins University Press, 2005.
- Kaplan, Fred. Gore Vidal: A Biography. New York: Doubleday, 1999.
- Kinn, Gail and Piazza, Jim. The Academy Awards: The Complete Unofficial History. Rev. and updated ed. New York: Black Dog & Leventhal Publishers, 2005.
- MacDonald, Laurence E. The Invisible Art of Film Music: A Comprehensive History. New York: Ardsley House, 1998.
- Madsen, Axel. William Wyler: The Authorized Biography. New York: Crowell, 1973.
- Magill, Frank N. Magill’s Survey of Cinema. Englewood Cliffs, N.J.: Salem Press, 1980.
- Malone, Aubrey. Sacred Profanity: Spirituality at the Movies. Santa Barbara, Calif.: Praeger, 2010.
- McAlister, Melani. Epic Encounters: Culture, Media, and U.S. Interests in the Middle East Since 1945. Berkeley, Calif.: University of California Press, 2005.
- Monush, Barry. Screen World Presents the Encyclopedia of Hollywood Film Actors. New York: Applause Theatre and Cinema Books, 2003.
- Morsberger, Robert Eustis and Morsberger, Katharine M. Lew Wallace, Militant Romantic. New York: McGraw-Hill, 1980.
- Mustazza, Leonard. The Literary Filmography, A-L. Jefferson, N.C.: McFarland, 2006.
- “On the Sound Track.” Billboard. ngày 20 tháng 7 năm 1959.
- Parish, James Robert; Mank, Gregory W.; and Picchiarini, Richard. The Best of MGM: The Golden Years (1928-59). Westport, Conn.: Arlington House, 1981.
- Pomerance, Murray. “Introduction.” In American Cinema of the 1950s: Themes and Variations. New Brunswick, N.J: Berg, 2005.
- Powell, Nosher. Nosher. London: Blake Publishing, 2001.
- Pratt, Douglas. Doug Pratt’s DVD: Movies, Television, Music, Art, Adult, and More!, Volume 1. New York: UNET 2 Corporation, 2004.
- Pym, John. Time Out Film Guide. London: Penguin, 2002.
- Raymond, Emilie. From My Cold, Dead Hands: Charlton Heston and American Politics. Lexington, Ky.: University Press of Kentucky, 2006.
- Rode, Alan K. Charles McGraw: Biography of a Film Noir Tough Guy. Jefferson, N.C.: McFarland, 2007.
- Rothwell, Kenneth S. A History of Shakespeare on Screen: A Century of Film and Television. New York: Cambridge University Press, 2004.
- Sandys, John. Movie Mistakes Take 4. London: Virgin, 2006.
- Sennett, Ted. Great Movie Directors. New York: Abrams, 1986.
- Solomon, Jon. The Ancient World in the Cinema. New Haven, Conn.: Yale University Press, 2001.
- Steinberg, Cobbett. Film Facts. New York: Facts on File, 1980.
- Stempel, Tom. American Audiences on Movies and Moviegoing. Lexington, Ky.: University Press of Kentucky, 2001.
- The Story of the Making of ‘Ben-Hur: A Tale of the Christ’. New York: Random House, 1959.
- Sultanik, Aaron. Film, a Modern Art. New York: Cornwall Books, 1986.
- Thomas, Gordon. “Getting It Right the Second Time: Adapting Ben-Hur for the Screen.” Bright Lights Film Journal. May 2006.
- Vidal, Gore. “How I Survived the Fifties.” The New Yorker. ngày 2 tháng 10 năm 1995.
- Winkler, Martin M. Classical Myth & Culture in the Cinema. New York: Oxford University Press, 2001.
- Wreszin, Michael and Macdonald, Dwight. Interviews With Dwight Macdonald. Jackson, Miss.: University Press of Mississippi, 2003.
- Wyler, William. “William Wyler.” In Conversations with the Great Moviemakers of Hollywood’s Golden Age at the American Film Institute. George Stevens, Jr., ed. New York: Random House, 2007.
Đọc thêm
- Hickman, Roger. Miklós Rózsa’s Ben-Hur: A Film Score Guide. Lanham, Md.: Scarecrow Press, 2011.
Tham khảo
- ^ cũng gọi là bài giảng Bát phúc của chúa Giêsu nói về 8 điều phúc thật
- ^ MGM had extensive amounts of income in Italian lira. But in the wake of World War II, the Italian government banned the movement of lira out of Ý as a means of stabilizing the inflation-plagued Italian economy. Finding a way to spend this money in Italy would free up resources elsewhere for the studio.
- ^ a ă Pryor, Thomas M. “Ben-Hur to Ride for Metro Again.” New York Times. ngày 8 tháng 12 năm 1952.
- ^ Pryor, Thomas M. “Metro to Produce 18 Films in ’53-’54.” New York Times. ngày 8 tháng 10 năm 1953.
- ^ Pryor, Thomas M. “Bank of America Wins Movie Suit.” New York Times. ngày 4 tháng 11 năm 1953.
- ^ “Kidd Will Repeat Dances for Movie.” New York Times. ngày 29 tháng 7 năm 1954.
- ^ Pryor, Thomas M. “Hollywood Dossier: New Market Analysis Is Set Up.” New York Times. ngày 5 tháng 12 năm 1954.
- ^ “Six Books Bought for Fox Films.” New York Times. ngày 10 tháng 9 năm 1955.
- ^ Pryor, Thomas M. “Sidney Franklin Resigns at M-G-M.” New York Times. ngày 17 tháng 6 năm 1958.
- ^ United States v. Paramount Pictures, Inc., 334 US 131 (1948)
- ^ a ă â b c d đ e ê g Block and Wilson, p. 411.
- ^ Eagan, p. 558-559.
- ^ a ă â b c d đ e Eagan, p. 559.
- ^ a ă â Hawkins, Robert F. “Viewed on the Bustling Italian Film Scene.” New York Times. ngày 16 tháng 2 năm 1958.
- ^ a ă â b Solomon, p. 207.
- ^ a ă â b c d Vidal, p. 73.
- ^ a ă â Cole, p. 379.
- ^ a ă Morsberger and Morsberger, p. 482.
- ^ Morsberger and Morsberger, p. 489.
- ^ a ă â Kaplan, p. 440.
- ^ “Wyler Weighs Offer.” New York Times. ngày 5 tháng 2 năm 1957.
- ^ a ă â Herman, p. 394.
- ^ bản vẽ minh họa các cảnh sẽ diễn ra trong một phim
- ^ The Story of the Making of ‘Ben-Hur’…, p. 24.
- ^ a ă â Herman, p. 395.
- ^ Makiewicz, Don. “Tour Around the Lot.” New York Times. ngày 7 tháng 4 năm 1957.
- ^ a ă â Pryor, Thomas M. “British Plan Film on ‘Silent Enemy’.” New York Times. ngày 13 tháng 6 năm 1957.
- ^ Pryor, Thomas M. “Debbie Reynolds Is Cast By M-G-M.” New York Times. ngày 4 tháng 1 năm 1958.
- ^ Herman, p. 393.
- ^ Eldridge, p. 15.
- ^ a ă â Herman, p. 400.
- ^ a ă â Madsen, p. 342.
- ^ a ă â b c “‘Ben-Hur’ Credit Is Urged for Fry.” New York Times. ngày 29 tháng 10 năm 1959.
- ^ a ă â b Kaplan, p. 442.
- ^ Vidal says he worked on the script for three months. Fry did not arrive in Rome until May 1958 and Vidal says he did not leave Rome until mid or late June, so Vidal’s arrival in Rome can be deduced with some accuracy. See: Vidal, p. 73; Herman, p. 400-401.
- ^ a ă Herman, p. 396.
- ^ a ă Kaplan, p. 445.
- ^ Giddins, p. 247.
- ^ a ă â b Herman, p. 401.
- ^ Kaplan, p. 444-445.
- ^ a ă â b c Herman, p. 412.
- ^ Giddins, p. 248.
- ^ a ă â b c “‘Ben-Hur to Race for 213 Minutes.” New York Times. ngày 7 tháng 10 năm 1959.
- ^ Alexander, p. 84-85. Accessed 2011-12-25.
- ^ a ă Gordon Thomas, Getting It Right the Second Time. Bright Lights Film Journal. Truy cập 13 tháng 5 năm 2012.
- ^ Hudson’s agent, Henry Willson, refused to allow Hudson to take the role, believing that historical costume epics were not right for his client. See: Bret, p. 95; Gates and Thomas, p. 125.
- ^ Industry columnist Louella Parsons claimed that Horne was all but cast in the film, due to his performance in The Bridge on the River Kwai. See: Hofler, p. 320.
- ^ Giddins, p. 247-248.
- ^ Herman, p. 395-396.
- ^ a ă Pratt, p. 135.
- ^ Rode, p. 132.
- ^ a ă Pryor, Thomas M. “Heston Will Star in M-G-M ‘Ben-Hur’.” New York Times. ngày 23 tháng 1 năm 1958.
- ^ Pryor, Thomas M. “Goetz to Produce 3 Columbia Films.” New York Times. ngày 14 tháng 4 năm 1958.
- ^ McAlister, p. 324, n. 59.
- ^ Kinn and Piazza, p. 135.
- ^ “An Actor to Watch,” Coronet, ngày 1 tháng 1 năm 1959, p. 22.
- ^ Magill, p. 150.
- ^ Pryor, Thomas M. “Frenke Signs Pact With Seven Arts.” New York Times. ngày 4 tháng 8 năm 1958.
- ^ Heston, p. 196.
- ^ Pryor, Thomas M. “Seven Arts Unit Joins Paramount.” New York Times. ngày 18 tháng 7 năm 1958.
- ^ a ă Parish, Mank, and Picchiarini, p. 27.
- ^ a ă Pryor, Thomas M. “Israeli Actress Cast in ‘Ben-Hur’.” New York Times. ngày 17 tháng 5 năm 1958.
- ^ “An Actor to Watch,” Coronet, ngày 1 tháng 1 năm 1959, p. 71.
- ^ a ă Pryor, Thomas M. “Seven Arts Group Teaming With U.A.” New York Times. ngày 4 tháng 4 năm 1958.
- ^ Morsberger and Morsberger, p. 481.
- ^ Pryor, Thomas M. “TV Suit Is Settled By United Artists.” New York Times. ngày 19 tháng 3 năm 1958.
- ^ Monush, p. 296.
- ^ a ă â Cyrino, p. 74.
- ^ Heater, dust jacket back matter.
- ^ a ă â The Story of the Making of ‘Ben-Hur’…, p. 25.
- ^ Godbout, Oscar. “‘Lolita’ Bought By Screen Team.” New York Times. ngày 13 tháng 9 năm 1958.
- ^ Sultanik, p. 299.
- ^ Eldridge, p. 57.
- ^ kích thước ảnh, theo tỷ lệ giữa chiều cao và chiều rộng màn ảnh
- ^ Haines, p. 114.
- ^ dạng méo, một kỹ thuật quay phim màn ảnh rộng trên phim tiêu chuẩn 35 mm
- ^ Block and Wilson, p. 333.
- ^ Belton, p. 332.
- ^ Altman, p. 158.
- ^ The Story of the Making of ‘Ben-Hur’…, p. 31.
- ^ Most sources agree that the lenses were worth $100,000 each. But at least one source puts the value of each lens at $250,000. See: Herman, p. 406.
- ^ Herman, p. 391.
- ^ Herman, p. 403.
- ^ a ă â Solomon, p. 213.
- ^ a ă â b Eagan, p. 560.
- ^ Pryor, Thomas M. “Mirisch to Film New Uris Novel.” New York Times. ngày 8 tháng 1 năm 1959.
- ^ a ă â b c d Dunning, p. 253.
- ^ a ă Pryor, Thomas M. “Extras Negotiate for Pay Increases.” New York Times. ngày 15 tháng 3 năm 1959.
- ^ The Story of the Making of ‘Ben-Hur’… p. 26.
- ^ a ă Pryor, Thomas M. “Hollywood’s Varied Vistas.” New York Times. ngày 12 tháng 1 năm 1958.
- ^ Pryor, Thomas M. “Libya Cancels U.S. Film Permit.” New York Times. ngày 12 tháng 3 năm 1958.
- ^ a ă â b c d đ e ê g Cyrino, p. 73.
- ^ a ă â b c d Hawkins, Robert F. “Answer to a Question: Quo Vadis, ‘Ben-Hur’?” New York Times. ngày 11 tháng 1 năm 1959.
- ^ Eagan, p. 559-560.
- ^ a ă The Story of the Making of ‘Ben-Hur’…, p. 30.
- ^ a ă â b c The Story of the Making of ‘Ben-Hur’… p. 7.
- ^ a ă â The Story of the Making of ‘Ben-Hur’… p. 27.
- ^ Herman, p. 409.
- ^ Raymond, p. 31.
- ^ Wyler, p. 216.
- ^ Dunning, p. 251.
- ^ a ă Coughlan, p. 119. Accessed 2011-12-25.
- ^ Pomerance, p. 9.
- ^ Solomon, p. 207, 210.
- ^ “Ben-Hur Rides a Chariot Again,” p. 71. Accessed 2011-12-25.
- ^ The Story of the Making of ‘Ben-Hur’… p. 28.
- ^ Didinger and Macnow, p. 157.
- ^ There is dispute over the number of extras used in the chariot race scenes. At least one non-contemporary source puts the number at 15,000. See: Cyrino, p. 73.
- ^ Herman, p. 411.
- ^ “On the Sound Track.” Billboard. ngày 20 tháng 7 năm 1959, p. 19. Accessed 2011-12-27.
- ^ loại đĩa đường kính 12 inches, khoảng 30cm, tốc độ 331/3 vòng một phút
- ^ MacDonald, p. 1966.
- ^ “Notables at Premiere.” New York Times. ngày 19 tháng 11 năm 1959.
- ^ Block and Wilson, p. 324.
- ^ Stempel, p. 23.
- ^ Malone, p. 23.
- ^ a ă Wreszin and Macdonald, p. 13.
- ^ a ă â Crowther, Bosley. “The Screen: ‘Ben-Hur,’ a Blockbuster.” New York Times. ngày 19 tháng 11 năm 1959.
- ^ Gaver, Jack. “Ben-Hur’ Grandiose, Gripping Spectacle.” United Press International. ngày 20 tháng 11 năm 1959.
- ^ a ă â Scheuer, Philip K. “Magnificent ‘Ben-Hur’ Inspiring in Premiere.” Los Angeles Times. ngày 25 tháng 11 năm 1959.
- ^ a ă Holloway, Ronald. “Ben-Hur.” Variety. ngày 17 tháng 11 năm 1959.
- ^ McCarten, John. “The Children’s Hours.” The New Yorker. ngày 5 tháng 12 năm 1959, p. 153.
- ^ Wreszin and Macdonald, p. 16.
- ^ Pym, p. 91.
- ^ lý thuyết cho rằng đạo diễn là tác giả cuốn phim, dù rằng đây là một sản phẩm chung của ngành điện ảnh
- ^ “The 32nd Academy Awards (1960) Nominees and Winners”. oscars.org. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2011.
- ^ As of 2010, the record for the most number of nominations was set in 1950 by All About Eve, with 14. Titanic equaled that record in 1997. Nine films have received 13 nominations: Gone with the Wind (1939), From Here to Eternity (1953), Mary Poppins (1964), Who’s Afraid of Virginia Woolf? (1966), Forrest Gump (1994), Shakespeare in Love (1998), The Lord of the Rings: The Fellowship of the Ring (2001), Chicago (2002), and The Curious Case of Benjamin Button (2008). In addition to Ben-Hur, thirteen films have received 12 nominations: The Song of Bernadette (1943), Johnny Belinda (1948), Mrs. Miniver (1942), A Streetcar Named Desire (1951), On The Waterfront (1954), Becket (1964), My Fair Lady (1964), Reds (1981), Dances With Wolves (1990), Schindler’s List (1993), The English Patient (1996), Gladiator (2000), and The King’s Speech (2010). See: Dirks, Tim. “Academy Awards Summaries. FilmSite.org. 2011. Accessed 2011-12-31.
- ^ Clark, p. 151.
- ^ “Ben-Hur.” Hollywood Foreign Press Association. GoldenGlobes.org. 2010-2011. Accessed 2011-12-31.
- ^ “Film Nominations 1959.” British Academy of Film and Television Arts. BAFTA.org. 2010. Accessed 2011-12-31.
- ^ Weiler, A.H. “‘Ben-Hur,’ Stewart, Audrey Hepburn Cited by Critics.” New York Times. ngày 29 tháng 12 năm 1959.
- ^ Sennett, p. 289.
- ^ Van Gelder, Lawrence. “Arts, Briefly.” New York Times. ngày 29 tháng 12 năm 2004.
- ^ Cowley, p. ii.
- ^ The Alfred I. Du Pont-Columbia University Survey of Broadcast Journalism, p. 98; Segrave, p. 82. Victor David Hanson erroneously states it telecast over four nights. See: Cowley, p. ii.
- ^ “‘GWTW’ Knocks ABC Out of First for Week, Sets Modern Nielsen Record.” Broadcasting. ngày 13 tháng 11 năm 1976, p. 8.
- ^ Kramer, p. 45.
- ^ a ă Kehr, Dave. “New DVD’s.” New York Times. ngày 13 tháng 9 năm 2005.
- ^ Nichols, Peter. “Home Video: Old Favorites in a New Format.” New York Times. ngày 4 tháng 1 năm 2002.
- ^ Taylor, Charles. “Other New Releases.” New York Times. ngày 18 tháng 9 năm 2011.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
![]() |
Wikimedia Commons có thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Ben-Hur (phim 1959) |
Giải thưởng | ||
---|---|---|
Tiền vị The Best Years of Our Lives |
Giải Oscar cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất và nam diễn viên phụ xuất sắc nhất | Kế vị Mystic River |
- Phim năm 1959
- Phim tiếng Anh
- Phim giành giải Oscar cho phim hay nhất
- Phim Mỹ
- Phim sử thi
- Phim của hãng Metro-Goldwyn-Mayer
- Phim của Viện lưu trữ phim Quốc gia Mỹ
- Phim của MGM
- Phim giành giải Oscar cho hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất
- Phim giành giải Oscar cho hòa âm hay nhất
- Phim giành giải Oscar cho nhạc phim hay nhất
- Phim giành giải Oscar cho thiết kế phục trang đẹp nhất
- Phim giành giải Quả cầu vàng cho phim chính kịch hay nhất
- Phim sử thi của Mỹ
- Phim có nhà quay phim giành giải Oscar cho quay phim xuất sắc nhất
- Phim có nhà biên tập giành giải Oscar cho dựng phim xuất sắc nhất
- Phim được lưu trữ tại Cơ quan lưu trữ phim Quốc gia Hoa Kỳ
- Phim Giáng sinh Mỹ
- Phim dựa trên tiểu thuyết Mỹ
- Phim có diễn xuất giành giải Oscar cho Nam diễn viên xuất sắc nhất
- Phim có đạo diễn giành giải Oscar cho Đạo diễn xuất sắc nhất
- Phim có đạo diễn giành giải Quả cầu vàng cho Đạo diễn xuất sắc nhất
- Phim giành giải BAFTA cho phim hay nhất
- Phim có diễn xuất giành giải Oscar cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất
- Phim có diễn xuất giành giải Quả cầu vàng cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất
- Phim có đạo diễn nghệ thuật giành giải Oscar cho chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất
Video yêu thích
Vietnamese food paradise
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học Cây Lương thực Dạy và Học Tình yêu cuộc sống Kim on LinkedIn Kim on Facebook KimTwitter hoangkim vietnam Trở về đầu trang Gạo Việt chất lượng và thương hiệu Con đường lúa gạo Việt Nam.
Pingback: Ký ức CIMMYT ở Mexico | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Gowda địa chỉ xanh ICRISAT Ấn Độ | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Trường tôi và tình yêu ở lại | Tình yêu cuộc sống
Pingback: 60 năm Đại học Nông Lâm TP. HCM | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ngày mới yêu thương | Khát khao xanh
Pingback: Đọc lại và suy ngẫm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ơn Thầy | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lời của Thầy theo mãi bước em đi | Tình yêu cuộc sống
Pingback: CNM365 Tình yêu cuộc sống | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Công việc này trao lại cho em | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Kênh ông Kiệt giữa lòng dân | Tình yêu cuộc sống
Pingback: 24 tiết khí lịch nhà nông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Sao Kim kỳ thú | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chu Văn Tiếp ở Đồng Xuân | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bàn cờ thế sự | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Mark Twain là Lincoln văn học Mỹ | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chuyện vỉa hè | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Tháp vàng hoa trắng nắng Mekong | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Helen Keller người mù điếc huyền thoại | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ngày Người khuyết tật Quốc tế nhớ bạn | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bí mật cung Đan Dương tại Huế | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Thăm ngôi nhà cũ của Darwin | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đông Dương tìm tòi và cảm nhận | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lên non thiêng Yên Tử | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chào ngày mới 7 tháng 12 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đọc Đỗ Phủ nhớ Đặng Dung | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Hồ đẹp Tanganyika và Victoria | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chào ngày mới 10 tháng 12 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Miên Thẩm là Đỗ Phủ văn chương Việt | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đất Mẹ vùng di sản | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chào ngày mới 14 tháng 12 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Sắn Việt Nam bảo tồn phát triển bền vững | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Sông Thương | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đào Duy Từ còn mãi với non sông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chào ngày mới 16 tháng 12 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đến Thái Sơn nhớ Đào Duy Từ | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chào ngày mới 18 tháng 12 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: CNM365 Chào ngày mới 365 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chào ngày mới 19 tháng 11 | Tình yêu cuộc sống