CNM365. Chào ngày mới 8 tháng 12. Wikipedia Ngày này năm xưa. Năm 757 – Đỗ Phủ về kinh thành Trường An làm quan trong triều vua Đường Huyền Tông sau loạn An Sử. Đỗ Phủ (712 – 770) là một nhà thơ Trung Quốc nổi bật thời nhà Đường, cùng với Lý Bạch, ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc. Đỗ Phủ được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi thánh và Thi sử do đức độ cao thượng và tài năng tuyệt vời. Tầm vóc các tác phẩm của ông sánh với Shakespeare, Victor Hugo. Cuộc đời Đỗ Phủ, giống như đất nước Trung Hoa bị loạn lạc chiến tranh giằng xé liên miên và điêu đứng tột cùng vì thường xuyên biến động. Xem người đẹp múa kiếm (1) là một trong những bài thơ nổi tiếng của “thi thánh” ca ngợi tài nghệ múa kiếm tuyệt luân của mỹ nhân Công Tôn Đại Nương, gợi cho người đời sau của Việt Nam nhớ đến bài thơ Thuật hoài đêm thanh mài kiếm của Đặng Dung. Tác phẩm của ông gây ảnh hưởng lớn đến văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Cụ Hồ Chí Minh trong Di chúc có trích thơ Đỗ Phủ. Năm 1980 – ngày mất John Lennon, ca sĩ, nhạc sĩ và nhà hoạt động hòa bình người Anh (sinh năm 1940). John Lennon là người sáng lập và thủ lĩnh của ban nhạc huyền thoại The Beatles , một trong những ban nhạc thành công và được ngưỡng mộ nhất lịch sử âm nhạc thế giới. Cùng với Paul McCartney, anh đã tạo nên bộ đôi sáng tác vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Năm 1978 – ngày mất Golda Meir, chính trị gia người Israel sinh tại Đế quốc Nga, Thủ tướng Israel (sinh năm 1898). Golda Meir được bầu giữ chức Thủ tướng Israel ngày 17 tháng 3 năm 1969,[2] sau khi giữ chức Bộ trưởng Lao động và Bộ trưởng Ngoại giao. Bà là người phụ nữ đầu tiên của Israrel và người phụ nữ thứ ba trên thế giới giữ chức vụ này, bà được miêu tả là “Người đàn bà thép” trên chính trường Israel từ lâu trước khi tên hiệu này được gán cho Thủ tướng Anh Margaret Thatcher.[3] Cựu Thủ tướng David Ben-Gurion thường gọi Meir là “người giỏi nhất trong chính phủ “; bà thường được miêu tả là người có “ý chí mạnh mẽ, nói chuyện thẳng thắn, bà của người dân Do Thái”.
8 tháng 12
Ngày 8 tháng 12 là ngày thứ 342 (343 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 23 ngày trong năm.
« Tháng 12 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | ||
6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 |
13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 |
20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 |
27 | 28 | 29 | 30 | 31 | ||
Mục lục
Sự kiện
- 395 – Trong trận Tham Hợp Pha, quân Hậu Yên thất bại nặng nề trước quân của nước chư hầu cũ là Bắc Ngụy.
- 757 – Sau một thời gian lánh nạn loạn An Sử, Đỗ Phủ trở về kinh thành Trường An để làm quan trong triều đình của Đường Huyền Tông.
- 1907 – Quốc vương Gustaf V bắt đầu cai trị Thụy Điển.
- 1914 – Chiến tranh thế giới thứ nhất: Hải quân Anh giành thắng lợi trước Hải quân Đức khi giao chiến tại quần đảo Falkland tại Nam Đại Tây Dương.
- 1941 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Các lực lượng quân sự Nhật Bản đồng thời tiến hành xâm nhập Mã Lai, Thái Lan, Hồng Kông, và Đông Ấn Hà Lan
- 1974 – Đa số cử tri Hy Lạp bỏ phiếu tán thành việc bãi bỏ chế độ quân chủ tại quốc gia.
- 1980 – John Lennon, cựu thành viên của The Beatles, bị Mark David Chapman ám sát ở sảnh của tòa nhà The Dakota tại thành phố New York, Hoa Kỳ.
- 1991 – Các lãnh đạo của Belarus, Nga và Ukraina ký Hiệp ước Belovezh, đồng ý giải thể Liên Xô và thành lập Cộng đồng các Quốc gia Độc lập.
Sinh
- 65 TCN – Horace, nhà thơ La Mã (m. 8 BC)
- 944 – Phạm Cự Lượng, danh tướng thời Đinh – Tiền Lê tại Việt Nam, tức 20 tháng 11 năm Giáp Dần (m. 984)
- 1542 – Mary Stuart, nữ vương của Scotland (m. 1587)
- 1832 – Bjørnstjerne Bjørnson, tác gia người Na Uy, đoạt giải thưởng Nobel (m. 1910)
- 1861 – Aristide Maillol, nhà điêu khắc người Pháp (m. 1944)
- 1865 – Jean Sibelius, nhà soạn nhạc người Phần Lan (m. 1957)
- 1900 – Tôn Lập Nhân, tướng lĩnh người Trung Quốc (m. 1990)
- 1943 – Jim Morrison, ca sĩ người Mỹ (m. 1971)
- 1947 – Thomas Cech, nhà hóa học người Mỹ, đoạt giải Nobel
- 1953 – Kim Basinger, nữ diễn viên người Mỹ
- 1957 – Mikhail Kasyanov, chính trị gia người Nga
- 1964 – Teri Hatcher, nữ diễn viên người Mỹ
- 1965 – Lưu Gia Linh, diễn viên người Hồng Kông
- 1968 – Đặng Văn Địch, hay Wendi Deng Murdoch, doanh nhân người Mỹ gốc Hoa, kết hôn với Rupert Murdoch
- 1978 – Ian Somerhalder, diễn viên người Mỹ
- 1979 – Lâm Phong, diễn vên và ca sĩ người Hồng Kông
- 1981 – Azra Akin, người mẫu và diễn viên người Thổ Nhĩ Kỳ sinh tại Hà Lan, Hoa hậu Thế giới 2002.
- 1982 – Halil Altıntop, cầu thủ bóng đá người Thổ Nhĩ Kỳ
- 1982 – Hamit Altıntop, cầu thủ bóng đá người Thổ Nhĩ Kỳ
- 1982 – Nicki Minaj, ca sĩ người Mỹ sinh tại Trinidad và Tobago
- 1993 – AnnaSophia Robb, nữ diễn viên, ca sĩ người Mỹ
- 1994 – Raheem Sterling, cầu thủ bóng đá người Anh gốc Jamaica
Mất
- 899 – Arnulf của Kärnten, quốc vương Ý, hoàng đế của La Mã Thần thánh (s. 850)
- 1745 – Étienne Fourmont, nhà Đông phương học người Pháp (s. 1683)
- 1830 – Benjamin Constant, nhà văn Thụy Sĩ (s. 1767)
- 1864 – George Boole, nhà toán học và triết gia người Anh (s. 1815)
- 1869 – Narcisa de Jesús, người Ecuador được phong thánh (s. 1832)
- 1894 – Pafnuty Lvovich Chebyshev, nhà toán học người Nga, tức 26 tháng 11 theo lịch Julius (s. 1821)
- 1903 – Herbert Spencer, triết gia người Anh (s. 1820)
- 1907 – Oscar II, quốc vương của Thụy Điển (s. 1829)
- 1933 – Yamamoto Gonnohyoe, sĩ quan và chính khách người Nhật Bản, Thủ tướng thứ 8 của Nhật Bản (s. 1852)
- 1955 – Hermann Weyl, nhà toán học người Đức (s. 1885)
- 1978 – Golda Meir, chính trị gia người Israel sinh tại Đế quốc Nga, Thủ tướng Israel (s. 1898)
- 1980 – John Lennon, ca sĩ, nhạc sĩ và nhà hoạt động hòa bình người Anh (s. 1940)
- 2013 – Phạm Đức Dương, nhà ngôn ngữ học người Việt Nam (s. 1930)
Ngày lễ và kỷ niệm
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về 8 tháng 12 |
Tham khảo
Đỗ Phủ
Đỗ Phủ (杜甫) | |
---|---|
![]() Không hề có bức họa Đỗ Phủ nào của người đương thời; đây là hình vẽ theo cảm tưởng của nghệ sĩ
|
|
Sinh | 712 |
Mất | 770 |
Công việc | Thơ |
Đỗ Phủ (712 – 770) là một nhà thơ Trung Quốc nổi bật thời nhà Đường.
Cùng với Lý Bạch, ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc. Tham vọng lớn nhất của ông là có được một chức quan để giúp đất nước, nhưng ông đã không thể thực hiện được điều này. Cuộc đời ông, giống như cả đất nước, bị điêu đứng vì Loạn An Lộc Sơn năm 755, và 15 năm cuối đời ông là khoảng thời gian hầu như không ngừng biến động. Ông còn làm một bài thơ ca ngợi tài múa kiếm điêu luyện của mỹ nhân Công Tôn Đại Nương. Đó là bài Công Tôn Đại Nương đệ tử vũ kiếm khí hành. Đến nay, bài “Mao ốc vị thu phong sở phá ca ” là 1 bài thơ nổi tiếng nhất của ” thi thánh ”
Mặc dù không nổi tiếng từ đầu, những tác phẩm của ông gây ảnh hưởng nhiều đến cả văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Ông tài năng tuyệt vời và đức độ cao thượng nên từng được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi sử và Thi thánh. Đối với độc giả phương Tây, tầm vóc các tác phẩm của ông sánh ngang với “Virgil, Horace, Ovid, Shakespeare, Milton, Burns, Wordsworth, Béranger, Hugo.
Mục lục
Cuộc đời
Cần nắm chắc cuộc sống tác giả để hiểu được tác phẩm. Điều này càng trở nên quan trọng hơn với Đỗ Phủ vì trong thơ ông, đạo đức và lịch sử đã chiếm phần quan trọng. Một lý do khác là Đường thi thường súc tích, bỏ qua tiểu tiết. Vì thế để hiểu thơ Đỗ Phủ, cần phải nắm vững hoàn cảnh xã hội Trung Quốc đời Đường Huyền Tông.
Những năm đầu tiên
Đỗ Phủ sinh năm 712: không biết rõ nơi sinh, chỉ biết đại khái là ở gần Lạc Dương, tỉnh Hà Nam (huyện Củng cũng có thể là nơi sinh của ông). Sau này ông tự coi mình là người kinh đô Trường An.Đỗ Phủ xuất thân trong một gia đình quý tộc (tự cho là dòng dõi vua Nghiêu) đã sa sút. Mẹ Đỗ Phủ mất sớm sau khi sinh ông, và được người thím nuôi một thời gian. Anh trai cũng mất sớm. Riêng có ba em trai và một em gái khác mẹ: thường được nhắc đến trong thơ (dù thơ ông không hề đề cập tới mẹ kế).
Vì là con trai của một học giả-quan lại bậc thấp, thời trẻ ông được tiếp thu nền giáo dục của Trung Quốc truyền thống để lúc trưởng thành có thể ra làm quan: học thuộc lòng các tác phẩm triết học kinh điển Khổng giáo, lịch sử và thi ca. Sau này ông cho rằng mình đã sáng tác một số bài thơ hay ngay từ khi tuổi còn trẻ, nhưng không lưu giữ lại.
Đầu những năm 730 ông đi tới vùng Giang Tô/Triết Giang; những bài thơ đầu tiên của ông, miêu tả một cuộc thi thơ, được cho là đã sáng tác ở cuối thời kỳ này, khoảng năm 735.
Cùng năm ấy ông đi tới Trường An để dự thi nhưng bất ngờ bị đánh hỏng, việc này đã gây ra chỉ trích trong nhiều thế kỷ tiếp sau. Có lẽ ông đã trượt bởi vì cách hành văn thời ấy quá rắc rối và tối nghĩa, nhưng có ý kiến khác lại cho rằng ông trượt vì đã không tìm kiếm được các mối quan hệ ở kinh đô. Sau kì thi này ông tiếp tục đi du lịch quanh vùng Sơn Đông và Hà Bắc.
Cha ông mất khoảng năm 740. Theo cấp bậc của cha, Đỗ Phủ có thể được phép nhận một chức quan dân sự, nhưng ông đã dành ưu đãi này cho một người em khác mẹ. Bốn năm sau đó ông sống ở vùng Lạc Dương, thực hiện các bổn phận gia đình.
Mùa thu năm 744 ông gặp Lý Bạch lần đầu tiên, và giữa hai nhà thơ đã nảy sinh một tình bạn vong niên: Đỗ Phủ còn trẻ tuổi, trong khi Lý Bạch đã nổi tiếng trên văn đàn. Hai ông đã viết nhiều bài thơ về nhau. Họ chỉ gặp lại nhau một lần nữa năm 745.
Năm 746 Đỗ Phủ tới kinh đô để tìm kiếm một chức quan. Ông tham gia vào cuộc thi năm sau đó, nhưng tất cả thí sinh đều bị vị tể tướng đánh trượt (để chứng tỏ mình đã sáng suốt sử dụng hết người tài và ngăn chặn sự trỗi dậy của bất kỳ đối thủ tiềm tàng nào). Từ đó ông không bao giờ đi thi nữa, chỉ thỉnh cầu trực tiếp hoàng đế năm 751, 754 và có lẽ cả năm 755.
Cuối cùng, vào năm 755 ông được chỉ định làm quan coi kho vũ khí. Dù đây chỉ là một chức nhỏ, ít nhất trong thời bình nó cũng là một buớc khởi đầu cho hoạn lộ của ông. Tuy nhiên, trước khi ông có thể nhậm chức, một loạt các sự kiện xảy ra đã khiến nó không bao giờ còn được thực hiện.
Chiến tranh
Sự Biến An Lộc Sơn xảy ra vào tháng 12, 755 và chỉ tan rã hoàn toàn sau tám năm. Nó tàn phá xã hội Trung Quốc: năm 754 nước này có 52.9 triệu người, nhưng tới năm 764 chỉ còn lại 16.9 triệu, số còn lại đã bị giết hoặc bị dời đi. Trong thời gian này, Đỗ Phủ trải qua một cuộc sống trôi nổi, không thể định cư lâu dài ở đâu vì chiến tranh, cũng như nạn đói và sự bạc đãi của triều đình. Tuy nhiên, thời gian không hạnh phúc này khiến Đỗ Phủ trở thành một nhà thơ đồng cảm với những đau khổ, bất hạnh của người dân thường. Thực tế xung quanh, cuộc sống của gia đình ông, những người hàng xóm, những người qua đường– những điều ông nghe thấy và những gì ông hy vọng hay sợ hãi về tương lai– đã trở thành chủ đề chính trong những sáng tác của ông.
Năm 756 Huyền Tông buộc phải thoái vị, bỏ kinh đô tháo chạy. Đỗ Phủ, khi ấy đã rời kinh đô, đưa gia đình tới nơi lánh nạn và tìm đường đi theo triều đình mới của Túc Tông, nhưng trên đường đi ông bị quân nổi loạn bắt đưa về Trường An. Vào mùa thu, con trai út của ông ra đời. Mọi người cho rằng trong khoảng thời gian này Đỗ Phủ đã bị bệnh sốt rét.
Năm sau ông bỏ trốn khỏi Trường An, và được cho giữ chức Tả thập di trong triều đình mới tháng 5 năm 757. Chức vụ này khiến ông có cơ hội gặp gỡ Hoàng đế, nhưng chỉ mang tính nghi lễ. Đỗ Phủ nhanh chóng gặp rắc rối khi ông lợi dụng cơ hội này để dâng thư can gián việc loại bỏ Phòng Quán người bạn và là người bảo trợ của ông chỉ vì một lỗi nhỏ: sau đó tới lượt chính ông bị giam nhưng tới tháng 6 được thả ra. Tháng 9 năm ấy ông được cho phép về gặp gia đình, nhưng nhanh chóng quay lại triều ngày 8 tháng 12, 757. Ông cùng triều đình quay lại Trường An sau khi quân triều đình tái chiếm nó. Tuy nhiên, những lời can gián của ông không hợp với hoàng đế và vào mùa hè năm 758 ông bị giáng cấp làm Tư công tham quân ở Hoa Châu. Chức vụ này làm ông chán ngán: trong một bài thơ, ông đã viết:
- Thúc đới phát cuồng dục đại khiếu,
- Bạ thư hà cấp lai tương nhưng.
- Xốc đai, điên những muốn gào:
- Giấy tờ đâu cứ ào ào chạy vô?
Mùa hè năm 759 ông lại ra đi; lý do của lần này thường được cho là vì nạn đói nhưng cũng có ý cho rằng ông ra đi vì vỡ mộng. Năm sau đó ông sống sáu tuần tại Tần Châu (hiện nay là Thiên Thuỷ, tỉnh Cam Túc), ở đây ông đã sáng tác sáu mươi bài thơ.
Thành Đô
Năm 760 ông tới Thành Đô (tỉnh Tứ Xuyên), nơi ông sẽ sống trong năm năm tiếp theo. Tới mùa thu năm đó ông rơi vào cảnh túng quẫn phải gửi thơ tới những người quen biết để cầu xin giúp đỡ. Ông được Nghiêm Vũ, một người bạn và là đồng môn đang làm tổng trấn ở Thành Đô giúp đỡ. Dù vậy đây vẫn là một trong những giai đoạn thanh bình và hạnh phúc nhất của ông, và nhiều bài thơ sáng tác trong thời kỳ này miêu tả lại cuộc sống thanh bình trong “thảo đường” ở đó. Năm 762 ông rời thành phố này để tránh một cuộc bạo loạn, chỉ quay lại vào mùa hè năm 764 và được chỉ định làm Kiểm hiệu công bộ viên ngoại lang, tham gia vào chiến dịch chống lại người Tạng.
Những năm sau này
Quân đội triều đình tái chiếm Lạc Dương, nơi sinh Đỗ Phủ, vào mùa đông năm 762, và vào mùa xuân năm 765 Đỗ Phủ cùng gia đình đi thuyền xuôi sông Dương Tử, với ý định quay về Lạc Dương. Chuyến đi rất chậm, vì tình trạng sức khỏe kém của ông (lúc ấy ông mắc thêm bệnh mắt, điếc và nói chung đã ở tuổi già lại thêm những lo lắng phiền não). Họ dừng lại ở Quỳ Châu (hiện nay là Bạch Đế, Trùng Khánh) trong hai năm cho tới tận cuối mùa đông năm 766. Đây là giai đoạn phát triển rực rỡ cuối cùng của thơ Đỗ Phủ, và cũng chính ở đây ông đã sáng tác 437 bài thơ đa phần là thơ luật. Mùa thu năm 766 Bo Maolin trở thành tổng trấn trong vùng: ông giúp đỡ tài chính và trao cho Đỗ Phủ một chức quan thư ký không chính thức.
Ông lập gia đình từ khoảng năm 752, và tới năm 757 họ đã có năm con (ba trai hai gái) nhưng một cậu con trai ông đã chết khi còn thơ ấu năm 755.
Từ năm 754 ông bắt đầu bị bệnh phổi (có lẽ là hen suyễn). Tháng 3 năm 768 ông lại bắt đầu chuyến hành trình tới tỉnh Hồ Nam. Ông mất tại Đàm Châu 潭州 (nay là Trường Sa) vào tháng 11 hay tháng 12 năm 770, ở tuổi 59, trên một chiếc thuyền rách nát… Vợ và hai con trai ông vẫn ở tại đó thêm ít nhất hai năm nữa. Cuối cùng dòng dõi còn được biết của ông là một cháu trai, người đã đề nghị Nguyên Chẩn viết bài minh trên mộ ông vào năm 813.
Tư tưởng và tác phẩm
Giới phê bình văn học chú trọng tới tính sử, đạo đức và kỹ thuật sáng tác điêu luyện của ông.
Lịch sử
Từ thời nhà Tống thơ Đỗ Phủ đã được gọi là “thi sử” (詩史). Vấn đề lịch sử được đề cập trực tiếp trong thơ ông là sự bình luận các sách lược quân sự, các thắng bại của triều đình hay những ý kiến ông muốn đề đạt trực tiếp tới hoàng đế. Một cách gián tiếp, ông viết về ảnh hưởng của thời đại đối với đời sống chính mình cũng như người dân thường Trung Quốc.
Những phản ánh chính trị của Đỗ Phủ dựa trên cảm xúc chứ không dựa trên tính toán. Ông ước ao mọi người bớt ích kỷ và làm tròn bổn phận của mình. Tuy nhiên, do người ta không thể không đồng ý với các quan điểm của ông nên các sự thật được biểu đạt đầy sức thuyết phục trong thơ ông đã khiến ông trở thành một nhân vật trung tâm trong thi sử Trung Quốc.
Đạo đức
Một danh hiệu thứ hai mà các nhà phê bình Trung Quốc đặt cho Đỗ Phủ là “thi thánh” (詩聖), ngang hàng với Khổng Tử, vị thánh về triết học. Trong một bài thơ ở thời kỳ đầu tiên của ông, Binh xa hành(兵 車行) (khoảng năm 750), đã nói lên nỗi thống khổ của một người bị bắt đi lính trong quân đội triều đình, thậm chí trước khi xảy ra loạn An Lộc Sơn; bài thơ này nói lên sự xung đột giữa việc chấp nhận và hoàn thành nghĩa vụ, và sự ý thức rõ ràng về những đau khổ có thể nảy sinh. Chủ đề này liên tiếp được nhấn mạnh trong những bài thơ về cuộc đời của dân chúng và binh sĩ mà Đỗ Phủ sáng tác trong cả cuộc đời mình.
Tuy việc Đỗ Phủ hay nhắc đến sự thống khổ của riêng mình có thể đem lại một ấn tượng về chủ nghĩa duy ngã. Nhưng thực tế hình ảnh ông trong đó luôn được quan sát dưới góc độ khách quan và hầu như chỉ được đưa ra sau chót để tự cảm thán. Vì thế, ông khiến bức tranh xã hội trong thơ mang tính khái quát cao hơn khi so sánh nó với một cá nhân tầm thường là chính mình.
Tình thương của Đỗ Phủ đối với chính mình và với người khác chỉ là một phần trong các chủ đề của thơ ông: ông còn sáng tác nhiều bài về những chủ đề mà trước đó bị coi là không thích hợp để thể hiện trong thơ. Zhang Jie đã viết rằng đối với Đỗ Phủ, “mọi thứ trên thế giới này đều là thơ” (Chou p. 67), các chủ đề trong thơ ông rất bao quát, như cuộc sống hàng ngày, thư họa, hội họa, thú vật và các chủ đề khác.
Kỹ thuật
Trước tác của Đỗ Phủ đặc biệt nổi tiếng nhất vì tầm vóc của nó. Các nhà phê bình Trung Quốc thường dùng từ Tập đại thành 集大成, theo lời ca ngợi của Mạnh Tử dành cho Khổng Tử. Yuan Zhen là người đầu tiên lưu ý tới mức độ to lớn của các tác phẩm của Đỗ Phủ, năm 813 ông đã viết, (Đỗ Phủ) “đã thống nhất trong tác phẩm của mình những nét tiêu biểu mà người trước mới chỉ đề cập riêng lẻ”. Ông là nhà thơ tài nghệ trong mọi phong cách thơ Trung Quốc. Ở bất cứ hình thức nào ông đều mang lại những tiến bộ vượt bậc hay đóng góp những ví dụ mẫu mực. Hơn nữa, thơ ông có phạm vi sử dụng từ vựng rộng lớn, từ cách nói trực tiếp và thông tục cho đến cách nói bóng và ngôn ngữ văn chương. Nội dung chính trong thơ đã thay đổi khi ông phát triển phong cách của mình để thích hợp với hoàn cảnh xung quanh. Những bài thơ đầu tiên theo phong cách trang nhã nhưng về sau này khi trải qua những cơ cực của chiến tranh thơ ông đã trở lại với phong cách đích thực của mình. Những bài thơ sáng tác trong giai đoạn ở Tần Châu đơn giản đến tàn nhẫn, phản ánh quang cảnh hoang tàn. Những bài thơ giai đoạn ở Thành Đô nhẹ nhàng và đẹp đẽ, trong khi ở cuối giai đoạn Quỳ Châu đậm chi tiết và có tính dự báo.
Dù sáng tác ở mọi thể loại thơ, Đỗ Phủ nổi tiếng nhất ở cận thể thi, một kiểu thơ có nhiều ràng buộc về hình thức và số lượng từ trong câu. Khoảng hai phần ba trong 1.500 tác phẩm hiện còn của ông là ở thể này, và nói chung ông được coi là nhà thơ tiêu biểu cho thể loại này. Những bài thơ đạt nhất của ông trong thể loại dùng phép đối song song để thêm nội dung biểu đạt thay vì chỉ là một quy định kỹ thuật thông thường.
Ảnh hưởng
Sinh thời và ngay sau khi mất, Đỗ Phủ đã không được đánh giá cao, phần vì những đổi mới trong phong cách và hình thức thơ ông. Một số bị coi là quá táo bạo và kỳ cục đối với giới phê bình văn học Trung Quốc. Chỉ một số ít tác giả đương thời có nhắc tới ông và miêu tả ông với tính chất tình cảm cá nhân, chứ không phải như một nhà thơ xuất chúng hay lý tưởng đạo đức. Thơ Đỗ Phủ cũng ít xuất hiện trong những hợp tuyển văn học thời kỳ đó.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của ông đối với thi ca Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ, và tới thế kỷ thứ 9 ông đã trở nên rất nổi tiếng. Những lời ngợi ca đầu tiên dành cho Đỗ Phủ là của Bạch Cư Dị, người đã ca ngợi những tình cảm đạo đức trong một số tác phẩm của Đỗ Phủ. Hàn Vũ đã viết bài bênh vực mỹ học trong thơ Đỗ Phủ và Lý Bạch trước những lời chỉ trích nhằm vào họ. Tới đầu thế kỷ thứ 10, Wei Zhuang đã cho dựng lại bản sao đầu tiên ngôi nhà tranh của ông ở Tứ Xuyên.
Tới thế kỷ 11, trong giai đoạn Bắc Tống, danh tiếng Đỗ Phủ lên tới cực điểm. Trong thời gian này các nhà thơ trước đó đã được đánh giá lại một cách toàn diện, theo đó Vương Duy, Lý Bạch và Đỗ Phủ lần lượt được coi là đại diện cho xu hướng Phật giáo, Đạo giáo và Khổng giáo trong văn hóa Trung Quốc. Cùng lúc ấy, sự phát triển của Tân Khổng giáo đã đặt Đỗ Phủ lên vị trí cao nhất, vì trong cả cuộc đời, ông đã không vì đói nghèo cùng khổ mà quên đi quân vương của mình. Ảnh hưởng của ông càng tăng do khả năng hòa hợp những mặt đối lập: phe bảo thủ chính trị bị thu hút bởi sự trung thành của ông với hệ thống tôn ti trật tự sẵn có, còn phe cải cách nắm lấy mối quan tâm của ông đối với đời sống dân nghèo. Từ khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập, sự trung thành với quốc gia và những quan tâm của ông tới người nghèo đã được giải thích sự phôi thai của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa xã hội, và ông được tán dương vì ông đã sử dụng ngôn ngữ giản dị “của nhân dân”.
Sự nổi tiếng của Đỗ Phủ lớn tới mức có thể đo được, như trường hợp của Shakespeare ở Anh. Mỗi nhà thơ Trung Quốc đều khó có thể không bị ảnh hưởng từ ông. Không bao giờ có một Đỗ Phủ thứ hai, các nhà thơ sau này tiếp nối truyền thống trong từng khía cạnh cụ thể của thơ ông. Mối quan tâm của Bạch Cư Dị tới dân nghèo, lòng yêu nước của Lục Du, các phản ánh cuộc sống hàng ngày của Mai Nghiêu Thần là một vài ví dụ.
Trích dẫn tiêu biểu
- “Gia thư vạn kim” (Thư quê, muôn vàng) – Từ bài Xuân vọng (春望) của Đỗ Phủ: “Phong hoả liên tam nguyệt, gia thư để vạn kim = Khói lửa liền ba tháng, thư quê đáng muôn đồng (烽火連三月、家書抵萬金)”.
- Cá chếit củ nhàa thơ Đỗ
“ | Nhân sinh Thất thập cổ lai hy. (Nghĩa là Người ngoài 70 xưa nay hiếm) | ” |
—Đỗ Phủ |
Xem thêm
- Nghệ thuật nhà Đường
- Thơ Đường
- Lý Bạch
- Bạch Cư Dị
- Các thi phẩm: Xuân vọng, Thạch Hào lại
Tham khảo
- Ch’en Wen-hua. T’ang Sung tzu-liao k’ao.
- Chou, Eva Shan; (1995). Reconsidering Tu Fu: Literary Greatness and Cultural Context. Cambridge University Press. ISBN 0-521-44039-4.
- Cooper, Arthur (translator); (1986). Li Po and Tu Fu: Poems. Viking Press. ISBN 0-14-044272-3.
- Hawkes, David; (1967). A Little Primer of Tu Fu. Oxford University Press. ISBN 962-7255-02-5.
- Hung, William; (1952). Tu Fu: China’s Greatest Poet. Harvard University Press. ISBN 0-7581-4322-2.
- Owen, Stephen (editor); (1997). An Anthology of Chinese Literature: Beginnings to 1911. W.W. Norton & Company. ISBN 0-393-97106-6.
- Rexroth, Kenneth (translator); (1971). One Hundred Poems From the Chinese. New Directions Press. ISBN 0811201815.
- Watson, Burton (editor); (1984). The Columbia Book of Chinese Poetry. Columbia University Press. ISBN 0-231-05683-4.
- Watson, Burton (translator); (2002). The Selected Poems of Du Fu. Columbia University Press. ISBN 0-231-12829-0.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc của: |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đỗ Phủ |
Tiếng Anh:
- Tu Fu’s poems included in 300 Selected Tang poems, translated by Witter Bynner
- Du Fu’s poems organized roughly by date written; shows both simplified and traditional characters
- Open Directory Project category
- Du Fu (Chinese poet) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
(tiếng Việt)
John Lennon
John Lennon MBE |
|
---|---|
![]() Lennon trình diễn ca khúc “Give Peace a Chance” tại Montréal trong thời kỳ Bed-in năm 1969
|
|
Thông tin nghệ sĩ | |
Tên khai sinh | John Winston Lennon |
Sinh | 9 tháng 10, 1940 Liverpool, Anh |
Mất | 8 tháng 12, 1980 (40 tuổi) thành phố New York, New York, Hoa Kỳ |
Nghề nghiệp | Ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất thu âm, nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhà hoạt động hòa bình |
Thể loại | Rock, pop, experimental |
Nhạc cụ | Guitar, harmonica, piano, hát |
Năm hoạt động | 1957 – 1975 1980 |
Hãng đĩa | Parlophone, Capitol, Apple, EMI, Geffen |
Hợp tác với | The Beatles Plastic Ono Band The Dirty Mac |
Website | www.johnlennon.com |
Nhạc cụ nổi bật | |
Rickenbacker 325 Epiphone Casino Gibson J-160E Les Paul Junior |
John Winston Ono Lennon, MBE (tên khai sinh là John Winston Lennon, sinh ngày 9 tháng 10 năm 1940, mất ngày 8 tháng 12 năm 1980) là nhạc sĩ, ca sĩ người Anh, là người sáng lập và thủ lĩnh của ban nhạc huyền thoại The Beatles – một trong những ban nhạc thành công và được ngưỡng mộ nhất lịch sử âm nhạc thế giới. Cùng với Paul McCartney, anh đã tạo nên bộ đôi sáng tác vĩ đại nhất của thế kỷ 20.
Sinh ra ở Liverpool, cậu bé Lennon được lớn lên giữa làn sóng skiffle của những năm 50-60. Ở tuổi thiếu niên, cậu thành lập nên The Quarrymen, tiền thân của The Beatles sau này. Sau khi ban nhạc tan rã vào cuối thập niên 60, Lennon tiếp tục sự nghiệp solo thành công với những album ấn tượng như John Lennon/Plastic Ono Band và Imagine, đặc biệt với những ca khúc bất diệt như “Give Peace a Chance” và “Imagine“. Sau khi cưới Yoko Ono vào năm 1969, anh đổi tên mình thành John Ono Lennon. Kể từ năm 1975, Lennon tự tách mình khỏi đời sống âm nhạc để chăm sóc con trai Sean trước khi trở lại hợp tác với Ono trong album Double Fantasy vào năm 1980. Chỉ đúng 3 tuần sau khi album được phát hành, anh bị ám sát trước cửa nhà riêng ở New York bởi một kẻ cuồng tín.
Lennon luôn thể hiện tính nổi loạn cũng như tính châm biếm chua cay qua âm nhạc, các bài viết, tranh vẽ, phim cũng như các bài phỏng vấn. Để tiếp tục các hoạt động chính trị và hòa bình, anh chuyển tới sống ở Mỹ kể từ năm 1971, và những lời chỉ trích của anh về chiến tranh Việt Nam đã trở thành lý do chính trong yêu cầu trục xuất bởi chính phủ tổng thống Richard Nixon. Rất nhiều bài hát của anh đã trở thành thánh ca của phong trào phản chiến.
Cho tới năm 2012, các album solo của Lennon tại Mỹ đã bán được khoảng 14 triệu bản. Trong vai trò là người sáng tác, đồng sáng tác hay ca sĩ, anh đã sở hữu tổng cộng 25 đĩa đơn quán quân tại Billboard Hot 100. Năm 2002, Lennon được khán giả đài BBC bầu chọn ở vị trí số 8 trong danh sách “100 người Anh vĩ đại nhất“, và tới năm 2008, anh được tạp chí danh tiếng Rolling Stone bình chọn là ca sĩ vĩ đại thứ 5 của mọi thời đại. Anh có tên trong Đại sảnh Danh vọng nhạc sĩ vào năm 1987 và Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll vào năm 1994.
Mục lục
- 1 Tiểu sử
- 2 Các mối quan hệ cá nhân
- 3 Hoạt động chính trị
- 4 Văn học và nghệ thuật
- 5 Âm nhạc
- 6 Di sản và tôn vinh
- 7 Danh sách đĩa nhạc
- 8 Tự truyện/ hồi ký
- 9 Chú thích
- 10 Tham khảo
- 11 Thư mục
- 12 Liên kết ngoài
Tiểu sử
1940–57: Những năm đầu tiên
John Lennon được sinh ra giữa thời chiến vào ngày 9 tháng 10 năm 1940 ở Bệnh viện phụ sản thành phố Liverpool. Anh là con trai của bà Julia (nhũ danh Stanley) và ông Alfred Lennon – một lính hải quân đã không có mặt ở nhà khi con trai ra đời[1]. Cái tên John Winston Lennon được lấy theo tên ông nội, John Jack Lennon, song sửa theo tên người hùng của nước Anh, Winston Churchill[2]. Dù không thường xuyên ở nhà, Alfred vẫn thường xuyên gửi séc về địa chỉ 9 Newcastle Road, nơi 2 mẹ con sống[3], song dừng lại sau khi ông đột ngột biến mất vào tháng 2 năm 1944[4][5]. Sau khi trốn được về nhà 6 tháng sau, ông đề nghị được gia đình cưu mang, song Julia – lúc đó đang có bầu với người đàn ông khác – đã thẳng thừng từ chối[6]. Sau khi chị gái Mimi Smith 2 lần gửi đơn kiến nghị tới Trung tâm hỗ trợ xã hội thành phố, Julia buộc phải chuyển quyền chăm sóc John cho cô. Tháng 7 năm 1946, Alfred tới thăm con trai và mang cậu tới Blackpool nhằm bí mật đưa cậu nhập cư New Zealand cùng mình[7]. Julia cùng tình nhân của mình lúc đó là “Bobby” Dickins đã theo dõi 2 bố con và sau khi phải thừa nhận, Alfred quyết tâm buộc cậu con trai 5 tuổi phải đi theo mình. John 2 lần chọn bố, song khi thấy mẹ đi khỏi, cậu đã òa khóc và chạy theo[8]. Phải mất tận 20 năm sau, 2 cha con Lennon mới có thể liên lạc lại với nhau[9].
Hầu hết tuổi thơ và thiếu niên John sống cùng gia đình Mimi và George Smith – những người không thể có con – ở địa chỉ Mendips, 251 Menlove Avenue, Woolton[10]. Người dì đã cung cấp rất nhiều mẩu chuyện cho cậu, còn người bác trai đã tặng cậu một chiếc harmonica và thường xuyên hướng dẫn cậu chơi trò giải ô chữ[11]. Julia vẫn thường tới Mendips, song tới khi cậu 11 tuổi, họ thường gặp nhau ở số 1 Blomfield Road, Liverpool – nơi cậu được nghe mẹ chơi những ca khúc của Elvis Presley, được mẹ tặng cho chiếc banjo và được hướng dẫn chơi “Ain’t That a Shame” của Fats Domino[12].
Tới tháng 9 năm 1980, Lennon mới nói về gia đình và bản chất nổi loạn của mình:
- “Một phần trong tôi muốn được chấp nhận bởi mọi thành phần của xã hội chứ không phải trở thành một nhà thơ/nhạc sĩ mất trí to mồm. Tôi không thể trở thành một gã không đúng với con người tôi… Tôi là một đứa nhóc mà mọi cha mẹ nào khác – kể cả bố của Paul – sẽ phải nói “Tránh xa nó ra…” Họ đều biết rằng tôi chỉ là một đứa gây phiền phức, một đứa không lành tính và có thể gây ảnh hưởng xấu tới lũ trẻ như tôi vốn vậy. Tôi vốn làm mọi thứ để đập phá nhà của lũ bạn… Một phần vì ghen tị mà tôi không có cái gọi là nhà… nhưng tôi đã từng có… Có năm phụ nữ là gia đình của tôi. Năm người phụ nữ mạnh mẽ, thông minh và xinh đẹp. Năm chị em. Một người trong số đó là mẹ tôi… [Bà] không thể chấp nhận cuộc sống. Bà là người trẻ nhất và có một người chồng phải đi biển, và cuộc chiến bắt đầu và bà không thể một mình chăm sóc tôi được. Và tôi đã phải sống với người chị của bà. Tất cả những người phụ nữ đó thật tuyệt vời… Họ chính là những bài học về phụ nữ đầu tiên của tôi… Vậy nên tôi muốn tiêm nhiễm vài điều vào đầu óc mấy cậu nhóc khác. Tôi nói với chúng “Cha mẹ không phải là các vị thánh bởi vì tôi vốn đâu được sống với họ!”“[13]
John vẫn thường qua thăm anh họ của mình Stanley Parkes ở Fleetwood. Hơn John 7 tuổi, Stanley thường dẫn cậu đi chơi và xem phim[14]. Trong những dịp nghỉ lễ, Parkes thường tới gặp Lennon cùng Leila Harvey, một người anh họ nữa, để dẫn tất cả tới Blackpool xem ca nhạc. Họ có lẽ đã tới Blackpool Tower Circus và xem những nghệ sĩ như Dickie Valentine, Arthur Askey, Max Bygraves và Joe Loss mà trong số đó, Parkes nhớ rằng Lennon đặc biệt thích George Formby[15]. Sau khi gia đình Parkes chuyển tới Scotland, 3 anh em thường xuyên gặp nhau hơn. Parkes nhớ lại “John, cậu em họ Leila và tôi chơi với nhau rất thân. Từ Edinburgh chúng tôi thường lái xe tới tận Durness, suốt quãng thời gian từ khi John 9 tới tận lúc cậu ấy 16 tuổi.”[16] Ngày 5 tháng 6 năm 1955, George Smith qua đời ở tuổi 52, lúc đó John 14 tuổi[17].
Lennon được vào đạo Anh giáo và theo học ở trường tiểu học Dovedale[18]. Từ tháng 9 năm 1952 tới năm 1957, cậu vượt qua kỳ thi 11-plus và được nhận vào học tại trường trung học Quarry Bank ở Liverpool, Cây viết Harvey miêu tả John lúc đó như “Một chàng trai yêu đời, hài hước, dễ dãi và đầy sức sống”[19]. Cậu thường vẽ truyện tranh và thỉnh thoảng được đăng trên tờ báo của trường The Daily Howl[20], nhưng kể cả khi Lennon đã thể hiện rõ thiên hướng nghệ thuật, nhà trường vẫn tỏ thái độ không hài lòng “Học trò này chắc chắn theo con đường sa ngã… vô vọng… chỉ giỏi làm gã hề trong lớp… làm mất thời gian của các trò khác.”[21]
Mẹ của John tặng cậu chiếc guitar đầu tiên vào năm 1956, một chiếc Gallotone Champion acoustic mà bà cho con trai “vay” với 5 bảng và 10 shilling với điều kiện là chiếc guitar này sẽ ở nhà bà, chứ không phải nhà Mimi, vì bà biết chị gái mình không có hứng thú với âm nhạc[22]. Vì Mimi không bao giờ tin rằng John có thể nổi tiếng bằng con đường âm nhạc, bà muốn cậu bé Lennon sẽ phát chán với nó khi nói rằng “Cây guitar thì rất tốt, nhưng mà John, cháu không bao giờ có thể kiếm tiền được với nó.”[23] Ngày 15 tháng 7 năm 1958, khi Lennon 17 tuổi, mẹ cậu sau khi tới thăm gia đình Smith đã bị một chiếc xe tải đâm và qua đời[24].
John không qua được kỳ thi GCE O-level, song vẫn được nhận vào Trường Nghệ thuật thành phố Liverpool khi bác và người đỡ đầu của cậu có đứng ra nhờ vả[25]. Ở đây, cậu bắt đầu mặc những trang phục Teddy Boy và nhận những lời phàn nàn đầu tiên về gây rối và pha trò trong lớp. Hậu quả là cậu bị đuổi khỏi lớp hội họa, rồi sau đó là lớp về nghệ thuật họa hình và cuối cùng bị yêu cầu đuổi học về hành vi của mình khi cậu ngồi lên đùi người mẫu khỏa thân trong giờ ký họa[26]. Cậu trượt trong kỳ thi cuối năm dù có được sự giúp đỡ rất tận tình của người bạn cùng lớp và người vợ tương lai của mình, Cynthia Powell, và bị “tống ra khỏi trường trước khi năm học kết thúc”[27].
1957–70: Từ The Quarrymen tới The Beatles
1957–66: Thành lập, những năm lưu diễn và nổi tiếng toàn cầu
The Beatles được phát triển từ ban nhạc của Lennon, The Quarrymen. Được đặt tên theo trường Quarry Bank, ban nhạc được thành lập vào tháng 9 năm 1956, khi cậu mới 15 tuổi và là một nhóm chơi nhạc skiffle[28]. Tới mùa hè năm 1957, The Quarrymen đã chơi một “số lớn bài hát” pha trộn nửa skiffle nửa rock and roll[29]. Lennon lần đầu gặp Paul McCartney trong buổi trình diễn thứ 2 của nhóm, ngày 6 tháng 7 tại Nhà thờ St. Peter ở Woolton. Sau đó, McCartney xin gia nhập nhóm[30].
McCartney nói rằng Mimi “rất ngỡ ngàng vì John lại có cậu bạn lớp dưới”, và thường nhiệt tình mỗi khi cậu qua chơi với Lennon[31]. Theo người anh Mike, bố của McCartney thì không hài lòng, cho rằng John chỉ khiến cho con trai ông “gặp rắc rối”[32], cho dù sau đó ông cũng tạo điều kiện cho nhóm tập luyện tại phòng của McCartney ở địa chỉ 20 Forthlin Road[33][34]. Trong khoảng thời gian đó, cậu nhóc 18 tuổi Lennon đã viết ca khúc “Hello Little Girl” – ca khúc 9 năm sau trở thành bản hit top 10 tại Anh được hát bởi The Fourmost[35].
George Harrison muốn vào nhóm trong vai trò tay guitar chính chơi lead[36]. Vì Lennon cho rằng Harrison (lúc đó mới 14 tuổi) còn quá trẻ để chơi với ban nhạc, vậy nên McCartney bố trí để Lennon lần thứ 2 xem trực tiếp Harrison chơi bài “Raunchy” trên tầng nóc của chiếc xe bus của thành phố[37]. Stuart Sutcliffe, bạn cùng trường nghệ thuật với John, gia nhập nhóm sau đó trong vai trò bass[38]. Đầu những năm 60, 4 người đổi tên nhóm thành “The Beatles”. Tới tháng 8, họ được mời lưu diễn 48 đêm ở Hamburg, Đức. Họ cần một tay trống, và Pete Best được mời vào nhóm[39]. Lennon lúc đó đã 19, và người bác gái Mimi – vốn đang phát hoảng khi nghe cậu nói về chuyến đi – đã yêu cầu cậu tiếp tục chương trình học nghệ thuật ở trường[40]. Sau tour diễn đầu tiên đó, The Beatles tiếp tục quay lại đó lần thứ 2 vào tháng 4 năm 1961, rồi lần thứ 3 vào tháng 4 năm 1962. Cũng như các thành viên khác, Lennon được tiếp xúc với preludin[gc 1][41] cùng nhiều loại chất kích thích khác, trong đó có cả amphetamin, xuyên suốt những buổi diễn dài thâu đêm[42].
Brian Epstein, quản lý của The Beatles từ năm 1962, là một doanh nhân không có ảnh hưởng gì về mặt chuyên môn của nhóm, song lại là một người chú trọng tới trang phục và thái độ của họ trên sân khấu[43]. Lennon ban đầu không thích những yêu cầu của Epstein về việc bắt buộc nhóm phải thể hiện một thái độ chuyên nghiệp, song về sau cũng nhượng bộ: “Tôi có thể đeo cả chiếc mũi hề nếu được trả tiền.”[44] McCartney được chuyển sang chơi bass sau khi Sutcliffe quyết định ở lại Hamburg, còn Ringo Starr thay thế Best chơi trống, hoàn thiện đội hình bộ tứ huyền thoại cho tận tới khi ban nhạc tan rã vào năm 1970. Đĩa đơn đầu tay của nhóm, “Love Me Do“, được phát hành vào tháng 10 năm 1962 và đạt vị trí số 17 tại UK Singles Chart. Họ tiến hành thu âm album đầu tay ngay sau đó, Please Please Me, trong vòng 10 giờ liên tục của ngày 11 tháng 2 năm 1963[45] khi mà Lennon bị cảm lạnh, gây ảnh hưởng nặng nề tới phần hát trong ca khúc “Twist and Shout“[46]. Lennon-McCartney đã cùng viết 8 trong tổng số 14 ca khúc trong album đó. Ngoài vài ngoại lệ, trong đó có ca khúc tiêu đề, Lennon luôn đem tình yêu tuổi trẻ vào trong phần lời của album: “Chúng tôi đơn giản chỉ viết… mấy ca khúc pop mà không nghĩ tới bất kể điều gì khác ngoài tạo nên giai điệu. Và phần lời hầu hết chẳng liên quan.”[45] Trong bài phỏng vấn vào năm 1987, McCartney tiết lộ rằng các Beatle khác đều thần tượng John: “Anh ấy với chúng tôi như Elvis vậy… Chúng tôi đều nghe theo John. Anh ấy lớn tuổi nhất và anh ấy có tư chất thủ lĩnh, anh ấy dí dỏm nhất và cũng là người thông minh nhất.”[47]
![]() |
![]() Lennon đã gần như mất giọng sau khi thu âm ca khúc “Twist anh Shout” trong album đầu tay của The Beatles, Please Please Me
![]() Những trăn trở đầu tiên về âm nhạc đã được Lennon bộc lộ trực tiếp qua ca khúc “Help!“, mở đầu cho album và bộ phim cùng tên vô cùng thành công sau đó của The Beatles
![]() Lennon viết nên “Nowhere Man” là ca khúc đầu tiên của The Beatles không đề cập tới chủ đề tình yêu nam-nữ, đánh dấu bước ngoặt rõ ràng trong sự nghiệp của ban nhạc
|
Trục trặc khi nghe các tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn. |
The Beatles có được những thành công ở Anh ngay đầu năm 1963. Lennon vẫn đi tour khi con trai đầu lòng, Julian, ra đời vào tháng 4. Trong buổi trình diễn tại Royal Variety Show trong đó có sự có mặt của Nữ hoàng và các thành viên hoàng gia khác, Lennon đã nói: “Với những ca khúc tiếp theo, chúng tôi có một thỉnh cầu. Với những người mua vé rẻ, mong quý vị cứ vỗ tay… còn những người còn lại hãy lắc đồ trang sức của mình.”[48] Đúng 1 năm sau hiện tượng Beatlemania ở Anh, chuyến đi tới Mỹ lịch sử của ban nhạc vào tháng 2 năm 1964 cùng với sự xuất hiện trong chương trình trực tiếp The Ed Sullivan Show đã đưa họ nổi tiếng toàn cầu. Trong suốt 2 năm đi tour, đóng phim và viết nhạc, Lennon đã tranh thủ viết 2 cuốn tự truyện, In His Own Write và A Spaniard in the Works[49]. The Beatles nhận được sự thừa nhận từ nước Anh khi họ được trao tước hiệu Thành viên của Hoàng gia Anh (MBE)[gc 2] trong ngày kỷ niệm sinh nhật Nữ hoàng vào năm 1965[52].
John sớm nhận ra rằng người hâm mộ tới xem hòa nhạc của The Beatles thực tế gần như không nghe được gì giữa những tiếng la hét, và vì thế tính âm nhạc của buổi diễn bị ảnh hưởng nhiều[53]. Anh sớm viết ra điều đó vào năm 1965 qua ca khúc “Help!“: “I meant it… It was me singing ‘help'”. Anh tăng cân (sau này anh gọi đó là thời kỳ Elvis mập)[54] và cho rằng cũng không cần thiết phải thay đổi[55]. Tháng 1 năm sau, ban nhạc phát hiện ra chất LSD[gc 3] khi một vị nha sĩ – chủ trì bữa tối có gia đình Lennon và Harrison – mời họ dùng cafe pha chất kích thích này[56]. Khi họ ra về, vị nha sĩ nói rằng họ có lẽ đã bị ngấm thuốc và không nên đi vì những tác dụng phụ của nó. Sau đó, trong thang máy của 1 hộp đêm, họ đã tưởng rằng đang có cháy “Chúng tôi đã hét rú lên… quá nóng và quá kích động.”[56] Tới tháng 3, trong buổi phỏng vấn tại Evening Standard cùng nhà báo Maureen Cleave, Lennon nhấn mạnh “Thiên Chúa giáo rồi sẽ biến mất. Nó sẽ bị phá hủy hoặc lu mờ… Giờ chúng tôi còn nổi tiếng hơn cả Chúa Jesus – tôi còn không rõ rằng cái gì sẽ biến mất trước, giữa rock ‘n’ roll và Thiên Chúa giáo.”[57] Câu nói này không gây nhiều chú ý ở Anh song lại tạo ra 1 làn sóng phản đối dữ dội ở Mỹ khi một tạp chí đăng lại nó khoảng 5 tháng sau. Những hành động phản đối – bao gồm việc đốt các sản phẩm của The Beatles, những cuộc tuyên truyền của Ku Klux Klan và cả những lời hăm dọa nhằm vào Lennon – đã một phần dẫn tới quyết định dừng lưu diễn của ban nhạc[58].
1967-70: Thời kỳ phòng thu và tan rã
Không còn thấy hài lòng sau buổi trình diễn trực tiếp cuối cùng vào ngày 29 tháng 8 năm 1966, Lennon cảm thấy lạc lối và bắt đầu bộc lộ những biểu hiện muốn rời khỏi ban nhạc[59]. Kể từ lần đầu tiếp xúc với LSD vào tháng 1, anh ngày một lạm dụng ma túy và thường xuyên chịu những tác dụng phụ của nó suốt cả năm[60]. Theo cây viết sử Ian MacDonald, Lennon dùng chất kích thích nhằm giúp anh “thấy mình không tồn tại”[61]. Năm 1967 cũng là năm phát hành bài hát “Strawberry Fields Forever” mà theo tạp chí Time là một “sáng tạo đáng kinh ngạc”, cùng với đó là album huyền thoại Sgt. Pepper’s Lonely Hearts Club Band, đánh dấu bước ngoặt trong phần ca từ của Lennon khi nó đối lập hoàn toàn với thời kỳ Lennon-McCartney trước đó.
Tới tháng 8 cùng năm, sau khi được nghe giới thiệu về thiền sư Maharishi Mahesh Yogi, ban nhạc dành cả cuối tuần để lắng nghe những lời giảng đầu tiên của ông về Thiền siêu việt tại Bangor, xứ Wales[62]. Cùng lúc đó, họ nghe tin dữ về cái chết của quản lý Brian Epstein. “Chúng tôi biết mọi khó khăn sắp bắt đầu“, sau này Lennon nói, “Tôi chẳng hề có một chút khả năng gì khác ngoài việc chơi nhạc, và tôi đã rất sợ.”[63] Họ cùng nhau sau đó tới khu ashram[gc 4] của Maharishi để tiếp tục luyện thiền, nơi mà họ đã viết phần lớn những ca khúc sau này nằm trong 2 album The Beatles và Abbey Road[64].
Bộ phim phản chiến và châm biếm How I Won the War – bộ phim duy nhất không của The Beatles mà Lennon thủ vai từ đầu tới cuối – được trình chiếu vào tháng 10 năm 1967[65]. McCartney trở thành người phụ trách dự án đầu tiên của ban nhạc thời hậu-Epstein[66] khi tự viết, đạo diễn và sản xuất bộ phim Magical Mystery Tour, được phát hành vào tháng 12 cùng năm. Trong khi bộ phim này bị coi là thất bại thực sự đầu tiên của họ, thì bản soundtrack của nó với phần đóng góp của Lennon trong ca khúc lấy cảm hứng từ Lewis Carroll – “I Am the Walrus” – lại có được thành công vang dội[67][68]. Với sự ra đi của Epstein, các thành viên của ban nhạc buộc phải tự xoay xở các dự án kinh doanh; tới tháng 2 năm 1968, họ thành lập nên Apple Corps, một công ty hoạt động đa phương tiện bao gồm Apple Records và nhiều công ty con khác. Lennon đã miêu tả công ty như một nỗ lực vượt bậc “một thứ tự do nghệ thuật trong cấu trúc kinh doanh”[69], song việc anh lạm dụng ma túy cùng với mối quan hệ thân thiết với Yoko Ono, kèm với đó là kế hoạch kết hôn của McCartney, đã khiến công ty rơi vào cảnh thiếu người quản lý chuyên nghiệp. Lennon có gửi lời tới Richard Beeching, song ông từ chối và đề nghị anh nên chú tâm vào việc thu âm. Lennon sau đó chuyển sang Allen Klein, người từng làm quản lý cho The Stones và nhiều nghệ sĩ khác trong thời kỳ British Invasion. Klein được Lennon, Harrison và Starr ủng hộ trở thành quản lý của Apple[70], song McCartney thì chưa bao giờ ký vào bản hợp đồng đó[71].
![]() |
![]() Được Lennon sáng tác sau câu nói của con trai Julian, ca khúc “Lucy in the Sky with Diamonds” cuối cùng bị cấm phát sóng vì ký tự viết tắt của nó làm liên tưởng tới chất LSD
![]() Sáng tác “Revolution” được thu âm trong thời kỳ Album trắng của The Beatles minh chứng mối quan tâm đặc biệt của Lennon tới các vấn đề chính trị
![]() Đĩa đơn đầu tay của Plastic Ono Band “Give Peace a Chance” nhanh chóng trở thành thánh ca của phong trào phản chiến thập niên 1970, đặc biệt cho cuộc chiến tranh Việt Nam
|
Trục trặc khi nghe các tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn. |
Cuối năm 1968, Lennon tham gia vào dự án phim The Rolling Stones Rock and Roll Circus (không được phát hành cho tới tận năm 1996) trong vai một thành viên của The Dirty Mac. Siêu ban nhạc đó bao gồm Lennon, Eric Clapton, Keith Richards, Mitch Mitchell và cả Ono hát nền trong bộ phim[72]. Ngày 20 tháng 3 năm 1969, Lennon và Ono tổ chức đám cưới, và ngay sau đó cho trưng bày 14 bản in đá ghi lại tuần trăng mật của họ dưới tên “Bag One”[73], trong đó có 8 bản được coi là không đứng đắn và hầu hết trong số đó đã bị cấm và bị tịch thu[74]. Công việc của Lennon còn tiếp tục với The Beatles suốt những năm 1968-1969, song anh và Ono cũng kịp cho phát hành chuỗi 3 album mang phong cách thể nghiệm: Unfinished Music No.1: Two Virgins[75] (được nhớ tới chủ yếu vì phần bìa chứ không phải vì phần âm nhạc), Unfinished Music No.2: Life with the Lions và Wedding Album. Năm 1969, họ thành lập nên Plastic Ono Band và phát hành Live Peace in Toronto 1969. Phản đối sự can thiệp của nước Anh vào cuộc nội chiến Nigeria[76], Lennon gửi trả lại huy hiệu MBE cho Nữ hoàng Anh cho dù nó không có ý nghĩa gì với tước hiệu MBE của anh. Khoảng giữa năm 1969-1970, Lennon cho phát hành đĩa đơn “Give Peace a Chance” (ca khúc trở thành giai điệu chính của phong trào chống chiến tranh Việt Nam), “Cold Turkey” (ca khúc ghi lại những trải nghiệm của anh với những cơn say heroin) và “Instant Karma!“.
John chính thức rời ban nhạc vào tháng 9 năm 1969[77] và thỏa thuận sẽ không đăng tải lên phương tiện thông tin đại chúng nhằm giúp ban nhạc có thêm thuận lợi trong việc ký vài hợp đồng. Song anh thực sự tức giận khi thấy McCartney ngay sau đó cho phát hành album solo đầu tay vào tháng 4 năm 1970. Anh phản ứng “Lạy Chúa! Gã ta định vơ hết tất cả vào mình!”[78] Sau này anh viết “Tôi lập ra ban nhạc. Tôi giải tán nó. Đâu có gì lạ?”[79] Khi được phỏng vấn trên tạp chí Rolling Stone, Lennon thể hiện rõ sự căm hận tới McCartney: “Tôi sẽ là một gã tồi nếu làm những điều như Paul đã làm: tất cả cũng chỉ để bán đĩa.”[80] Anh cũng nói rằng đã nhận thấy nhiều sự thù hằn nhắm vào Ono cũng như anh, và cái cách mà anh, Harrison và Starr “phát chán vì bị coi là những kẻ làm nền cho Paul… Sau khi Brian Epstein qua đời, chúng tôi sụp đổ. Paul đã nắm lấy lúc đó và tự cho mình quyền lãnh đạo chúng tôi. Nhưng tại sao chúng tôi lại cần kẻ lãnh đạo khi thực tế vẫn luẩn quẩn trong một vòng tròn?”[81]
1970-80: Sự nghiệp solo
1970–72: Những thành công đầu tiên và hoạt động xã hội
Năm 1970, Lennon và Ono bắt đầu điều trị tâm lý tại phòng khám của bác sĩ Arthur Janov ở Los Angeles, California. Với mục đích giải tỏa những nỗi đau mà Lennon phải trải qua khi còn nhỏ, Janov tiến hành điều trị 2 ngày rưỡi mỗi tuần và kéo dài suốt 4 tháng; ông muốn điều trị cho cả 2 lâu hơn, song đôi vợ chồng sau đó phải quay trở lại London[82]. Album solo đầu tay của John, John Lennon/Plastic Ono Band (1970), nhận được nhiều phản hồi tích cực. Cây viết Greil Marcus đánh giá “Lennon hát với giọng của “Chúa” và có lẽ là album mượt mà nhất của nhạc rock.”[83] Album bao gồm ca khúc “Mother” mà Lennon viết về cảm giác bị hắt hủi khi còn nhỏ[84], và bài hát mang phong cách Dylan “Working Class Hero” – một bài hát mang chút đả kích vào tầng lớp tư sản, trong đó phần lời có câu “you’re still fucking peasants” gây sốc cho khá nhiều thính giả[85][86]. Cùng năm, những nhận xét giàu tính chính trị của Tariq Ali khi ông phỏng vấn Lennon đã gây cảm hứng cho anh viết nên “Power to the People“. Sau này, Lennon cũng đồng tình với Ali trong việc bảo vệ tạp chí Oz trước những cáo buộc khiêu dâm. Anh phê phán hành động đó như “thứ phát-xít ghê tởm”, rồi cùng Ono (dưới tên Elastic Oz Band) cho phát hành đĩa đơn “God Save Us/Do the Oz” trước khi tham gia ủng hộ tờ báo[87].
Album tiếp theo của Lennon, Imagine (1971), lại nhận được khá nhiều sự thận trọng. Rolling Stone nhận xét “nó mang những thứ chính yếu nhất của thứ âm nhạc hay” song cũng cảnh báo rằng “thái độ của nó nếu không phải là thiểu năng thì cũng là vô hồn”[88]. Ca khúc nhan đề của album sau này trở thành thánh ca của mọi phong trào phản chiến[89], trong khi “How Do You Sleep?” là câu trả lời trực tiếp tới McCartney và album Ram mà Lennon cảm thấy (và sau này McCartney cũng đã khẳng định[90]) đó là lời công kích tới mình và Ono. Tuy nhiên Lennon cũng làm dịu đi những căng thẳng vào giữa những năm 70 khi nói rằng anh viết “How Do You Sleep?” cho bản thân mình[91]. Song tới năm 1980, anh bộc bạch: “Tôi đã dành hết những tức giận vào Paul… không xấu xa thì cũng đầy thù hằn. Tôi nhét đầy tức giận với Paul và The Beatles vào ca khúc “How Do You Sleep?”. Những ý nghĩ đó vẫn luôn luẩn quẩn trong đầu tôi…”[92]
![]() |
![]() Với “Working Class Hero“, Lennon đã trực tiếp đứng lên đả kích tầng lớp tư sản
![]() Ca khúc “Imagine” trong album cùng tên là thánh ca của mọi phong trào hòa bình và là một trong những giai điệu nổi tiếng nhất lịch sử âm nhạc
|
Trục trặc khi nghe các tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn. |
Lennon và Ono chuyển tới New York vào tháng 8 năm 1971, và tới tháng 12 họ phát hành ca khúc “Happy Xmas (War Is Over)“[93]. Năm tiếp theo chứng kiến việc chính phủ Nixon bắt đầu thứ mà được gọi là “động thái chiến lược” nhằm chống lại phong trào phản chiến và phong trào phản đối Nixon của Lennon, dẫn tới quãng thời gian dài 4 năm yêu cầu trục xuất đối với anh. Năm 1972, vợ chồng Lennon buộc phải nhờ tới ảnh hưởng hậu bầu cử ở tiểu bang New York của nhà hoạt động hòa bình Jerry Rubin sau khi ứng cử viên tổng thống McGovern thất cử trước Nixon[94][95]. Bị vướng vào một cuộc chiến pháp lý lâu dài với cơ quan lưu trú, Lennon liên tục bị từ chối quyền được cấp thẻ cư trú (sau này tới tận năm 1976 mới được giải quyết)[96]. Thất vọng, Lennon lại sử dụng ma túy và quan hệ tình dục với một người hâm mộ nữ, khiến Ono gặp nhiều vấn đề mới. Bài hát “Death of Samantha” của cô được bắt nguồn từ sự kiện trên[97].
Some Time in New York City được thu cùng Ono với phần chơi lót của ban nhạc Elephant’s Memory và được phát hành vào tháng 6 năm 1972. Bao gồm những ca khúc nói về quyền lợi của phụ nữ, quan hệ sắc tộc, vai trò của nước Anh ở Bắc Ireland và các vấn đề về việc cấp thẻ xanh của Lennon[98], album bị đánh giá rất thấp về chuyên môn và bị giới chuyên môn coi là “không thể nghe nổi”[99]. “Woman Is the Nigger of the World” được chọn làm đĩa đơn cho album, sau đó được chiếu trên truyền hình vào ngày 11 tháng 5 trong chương trình The Dick Cavett Show. Rất nhiều đài phát thanh từ chối phát ca khúc này vì sử dụng từ “nigger”[gc 5][100]. Lennon và Ono sau đó tổ chức 2 buổi hòa nhạc từ thiện cùng ban nhạc Elephant’s Memory ở New York nhằm quyên góp tiền cho các bệnh nhân ở Trường tâm thần giáo dưỡng Willowbrook[101]. Buổi diễn được tổ chức tại Madison Square Garden vào ngày 30 tháng 8 năm 1972 chính là buổi trình diễn trực tiếp chính thức cuối cùng của họ[102].
1973-75: “Lost weekend”
Trong khi Lennon tiến hành thu âm album Mind Games (1973), anh và Ono quyết định chia tay. 18 tuần lễ đó được anh gọi là “lost weekend”[gc 6][105] mà anh dành thời gian của mình ở Los Angeles và New York bên cạnh May Pang. Mind Games, được ghi cho “Plastic U.F.Ono Band”, được phát hành vào tháng 11 năm 1973. Lennon cũng tham gia đóng góp ca khúc “I’m the Greatest” cho album Ringo (1973) của Starr (với bản nháp được thu trong quá trình thực hiện Ringo, Lennon đã định để dành ca khúc này cho tuyển tập John Lennon Anthology sau này của mình).
Đầu năm 1974, Lennon bắt đầu nghiện rượu và những trò lố khi say của anh cùng Harry Nilsson đã trở thành chủ đề đàm tiếu trên các đầu báo. Đã có 2 vụ đình đám diễn ra ở hộp đêm The Troubadour ở Los Angeles vào tháng 3: một vụ là khi Lennon giữ trong tay một chiếc “khăn kinh nguyệt“[gc 7] và hành hung một nữ nhân viên; một vụ khác diễn ra vào 3 tháng sau khi anh và Nilsson cũng bị tống cổ khỏi đây sau khi gây hấn với ban nhạc Smothers Brothers[106]. Lennon sau đó quyết định tham gia sản xuất album Pussy Cats của Nilsson, còn Pang thì thuê một căn nhà bên bờ biển gần Los Angeles cho cả 2 nghệ sĩ[107], nhưng chỉ sau một tháng kể từ ngày bắt đầu, quá trình thu âm rơi vào đình trệ và Lennon cùng Pang quay lại New York để hoàn thiện album. Tới tháng 4, anh sản xuất ca khúc “Too Many Cooks (Spoil the Soup)” của Mick Jagger mà chỉ được phát hành 30 năm sau theo những điều khoản của hợp đồng. Sau này Pang cũng đã mang bản thu đó bổ sung vào trong tuyển tập The Very Best of Mick Jagger (2007)[108].
Quay trở lại New York, Lennon tiến hành thực hiện album Walls and Bridges. Đĩa đơn “Whatever Gets You Thru the Night” với sự tham gia của Elton John chơi piano và hát nền trở thành đĩa đơn quán quân duy nhất trong sự nghiệp solo của anh[109]. Đĩa đơn thứ 2, “#9 Dream“, cũng được phát hành cùng năm. Album Goodnight Vienna (1974) của Starr tiếp tục nhận được sự hỗ trợ từ Lennon khi anh sáng tác ca khúc nhan đề và chơi piano[110]. Ngày 28 tháng 10, anh gây bất ngờ khi xuất hiện trong buổi diễn nhân dịp Lễ Tạ ơn của Elton John tại Madison Square Garden nhằm thực hiện lời hứa tham gia buổi diễn một khi “Whatever Gets You Thru the Night” – ca khúc thương mại mà Lennon luôn nghi ngờ – đạt vị trí quán quân. Lennon trình diễn thêm 2 ca khúc “Lucy in the Sky with Diamonds” và “I Saw Her Standing There” mà anh giới thiệu là “ca khúc viết bởi người vợ chưa cưới trước kia của tôi, Paul”[111].
Lennon đồng sáng tác ca khúc “Fame” – đĩa đơn quán quân tại Mỹ đầu tiên của David Bowie – và đóng góp phần chơi guitar và hát nền trong buổi thu tháng 1 năm 1975[112]. Cùng tháng đó, Elton John cũng đứng đầu bảng xếp hạng với bản hát lại của “Lucy in the Sky with Diamonds”, với Lennon guitar và hát nền (tên của Lennon ở bìa đĩa đơn được ghi “Dr. Winston O’Boogie”). Sau đó, Lennon và Ono tái hợp, và anh phát hành album Rock ‘n’ Roll (1975) – một album toàn các bản hát lại – vào tháng 2. “Stand by Me“, một bản hit ở Anh và Mỹ, trở thành đĩa đơn cuối cùng của anh cho tới tận 5 năm sau[113]. Anh xuất hiện trên sân khấu lần cuối trong chương trình đặc biệt của đài ATV, A Salute to Lew Grade, quay ngày 18 tháng 4 và được chiếu vào tháng 6[114]. Chơi guitar acoustic với dàn nhạc nhỏ 8 người, Lennon đã trình bày 2 ca khúc từ Rock ‘n’ Roll (“Stand By Me” – không được quay lại – và “Slippin’ and Slidin'”) cùng với “Imagine”[114]. Ban nhạc đó có tên Etc. và được Lennon yêu cầu đeo mặt nạ vì anh cho rằng Grade là một kẻ giả dối[115].
1975-80: Những năm ẩn dật
Sau khi con trai Sean ra đời vào ngày 9 tháng 10 năm 1975, John tự nhận mình là người đàn ông của gia đình, bắt đầu 5 năm rời xa đời sống âm nhạc để dành sự quan tâm cho gia đình[116]. Chỉ 1 tháng sau, anh hoàn thành ràng buộc trong hợp đồng với EMI/Capitol khi cho phát hành thêm album Shaved Fish – bản tuyển tập từ các album trước đó[116]. Anh dành hết công sức cho Sean, thức dậy vào lúc 6 giờ sáng để chuẩn bị đồ ăn và chơi với con[117]. Lennon sáng tác ca khúc “Cookin’ (In the Kitchen of Love)” cho album Ringo’s Rotogravure (1976) của Starr, thu âm vào tháng 6 và đây cũng là buổi thu cuối cùng của anh cho tới tận năm 1980[118]. Tại Tokyo năm 1977, anh tuyên bố về việc tạm ngừng chơi nhạc của mình “chúng tôi đã quyết định, cũng không hẳn là một quyết định tốt, ở bên cậu nhóc chừng nào có thể cho tới khi chúng tôi có thời gian để hài lòng chính mình với những sự việc khác ngoài gia đình.”[119] Trong quãng thời gian này, Lennon sáng tác vô số tranh vẽ, viết bản nháp một cuốn sách trộn lẫn những yếu tố của tự truyện và thứ mà anh gọi là “những điều nhảm nhí”[120]. Tất cả những sáng tác này đều được công bố sau cái chết của anh.
Lennon chấm dứt thời kỳ ẩn dật vào tháng 10 năm 1980 với đĩa đơn “(Just Like) Starting Over“, và ngay tháng sau phát hành album Double Fantasy bao gồm những ca khúc sáng tác trong kỳ nghỉ ở Bermuda trên chiếc du thuyền cá nhân vào tháng 6 cùng năm[121] khi anh cảm nhận thấy sự ổn định trong cuộc sống gia đình[122]. Nhiều sản phẩm nhỏ khác bắt đầu được chuẩn bị cho album tiếp theo Milk and Honey (sau này được phát hành vào năm 1984)[123]. Được phát hành dưới tên “John Lennon và Yoko Ono”, Double Fantasy không có được nhiều phản hồi tích cực, như tờ Melody Maker nhận xét “một sự nghèo nàn cố hữu… một cơn ngáp dài đáng kinh ngạc.”[124]
Vụ ám sát
Khoảng 10:50 tối ngày 8 tháng 12 năm 1980, Lennon cùng Ono trở về căn hộ của mình ở New York, The Dakota. Mark David Chapman đứng ngay tại cửa vào và bắn Lennon 4 phát từ đằng sau. Lennon được chuyển ngay đến phòng cấp cứu của bệnh viện Roosevelt nhưng đã tử vong trước khi tới nơi vào lúc 11:07[125]. Chiều ngày hôm đó, Lennon còn ký tặng cho Chapman ở phần bìa album Double Fantasy[126].
Ono tuyên bố vào sớm ngày hôm sau “John sẽ không được chôn cất” và kết thúc bằng “John luôn yêu và cầu nguyện cho nhân loại. Xin hãy cầu nguyện cho anh ấy.”[127] Lennon được hỏa táng tại nghĩa trang Ferncliff ở Hartsdale, New York. Ono rải tro của anh ở Central Park, nơi sau này lập nên khu tưởng niệm Strawberry Fields. Chapman bị kết tội giết người cấp độ 2 và bị tuyên án tù từ 20 năm tới chung thân[128]. Tới năm 2014, hắn vẫn ở trong tù sau 8 lần bị từ chối ân xá[129].
Các mối quan hệ cá nhân
Cynthia Lennon
Lennon và Cynthia Powell gặp nhau vào năm 1957 tại Trường Nghệ thuật thành phố Liverpool[130]. Cho dù khá sợ hãi về tính khí và vẻ ngoài của John, cô lại nghe nhiều về việc anh thần tượng diễn viên Brigitte Bardot, vậy nên cô nhuộm tóc mình sang màu vàng. Khi Lennon mời Cynthia đi chơi, cô nói cô đã đính hôn và khiến anh hét ầm lên “Tôi đâu có hỏi cầu hôn cô đâu?”[131] Cô thường đi cùng anh và The Quarrymen, cũng như đi chơi cùng bạn gái McCartney mỗi dịp ghé thăm Paul[132]. Lennon, vốn là một người dễ ghen tị, đã nhiều lần khiến Powell khiếp sợ vì tính nóng giận và những hành động bạo lực của mình[133]. Sau này, anh có nói rằng cho tới trước khi gặp Ono, anh chưa bao giờ tự hỏi tình thương của mình với phụ nữ. Ca khúc của The Beatles, “Getting Better“, là câu chuyện của chính anh “Tôi vẫn áp đặt tính hoang dã của mình lên người phụ nữ của tôi, và rộng ra, với mọi phụ nữ. Tôi là kẻ gây sự. Khi tôi không thể giải bày, tôi liền đánh mọi người. Tôi đã từng đánh nhau với đàn ông và đánh đập cả phụ nữ. Đó là lý do vì sao tôi muốn luôn hướng về hòa bình.”[116]
Sau khi nghe tin Cynthia mang bầu vào tháng 7 năm 1962, John nói “Chỉ có một điều có thể làm với Cynthia. Tôi phải cưới cô ấy.”[134] 2 người cùng đăng ký kết hôn tại Phòng đăng ký Mount Pleasant ở Liverpool. Đám cưới của họ diễn ra khi Beatlemania bắt đầu vươn ra khắp nước Anh. Lennon vẫn đi diễn cả buổi tối hôm đó, và gần như vẫn đi diễn mỗi ngày kể từ ngày cưới[135]. Epstein lo sợ rằng nhiều người hâm mộ sẽ cảm thấy tiếc nuối khi biết rằng một Beatle đã kết hôn nên yêu cầu Lennon giữ bí mật sự kiện này. Julian chào đời ngày 8 tháng 4 năm 1963; ngày hôm đó Lennon vẫn đang đi diễn và chỉ được nhìn thấy mặt con trai 3 ngày sau[136].
Cynthia sớm nhận thấy cuộc sống gia đình ngày một bị ảnh hưởng bởi LSD, dẫn tới việc John cũng dần ít quan tâm tới cô hơn[137]. Khi ban nhạc đi tàu tới thành phố Bangor, xứ Wales vào năm 1967 để nghe giới thiệu về thiền siêu việt bởi Maharishi Yogi, một cảnh sát đã không nhận ra cô và không cho cô đi cùng nhóm. Sau này, Cynthia nói sự việc trên là đỉnh điểm cho quyết định ly hôn của mình[138]. Sau một lần trở về nhà ở Kenwood, St. George’s Hill và bắt gặp John với Yoko Ono, cô rời đi và tới ở với bạn. Alexis Mardas tuyên bố rằng hôm đó đã qua đêm với cô, và chỉ vài tuần sau anh thông báo rằng Lennon đang chuẩn bị thủ tục ly hôn và nuôi Julian với lý do Cynthia ngoại tình. Sau vài buổi thảo luận, cuộc ly dị được diễn ra đồng thuận với lý do ngược lại khi Lennon nhận mình ngoại tình. Thủ tục ly hôn diễn ra tại tòa, Lennon phải bồi thường Cynthia 100.000£ và mất quyền nuôi Julian[139].
Brian Epstein
The Beatles trình diễn tại Cavern Club ở Liverpool vào năm 1962 và họ được giới thiệu với Brian Epstein sau buổi diễn. Epstein là một người đồng tính. Theo cây viết sử Philip Norman, một trong những lý do chính khiến anh muốn quản lý ban nhạc là vì anh bị Lennon cuốn hút. Ngay sau khi Julian ra đời, Lennon có một kỳ nghỉ với Epstein ở Tây Ban Nha, và điều này làm dấy lên những nghi ngờ về mối quan hệ giữa 2 người. Sau này được hỏi, Lennon trả lời: “À chuyến đi đó gần giống như kiểu chuyện tình vậy, nhưng không hoàn toàn vậy. Nó chưa bao giờ như thế. Nhưng nó là một mối quan hệ khá khăng khít. Đó là những kinh nghiệm đầu tiên của tôi với một người mà tôi biết rõ là đồng tính. Anh ta ngồi trong quán cà phê ở Torremolinos, ngắm nhìn tất cả các cậu trai rồi chốc lại thốt lên: “Cậu có thích gã kia không? Cậu có thích gã này không?” Tôi thấy rất thoải mái với những kinh nghiệm đó và tự coi mình như một người ghi chép vậy. Tôi thực sự đã trải nghiệm nó.”[140] Sau khi trở về từ Tây Ban Nha, tại bữa tiệc sinh nhật 21 tuổi của McCartney vào tháng 6 năm 1973, Lennon đã tấn công MC của Cavern Club, Bob Wooler, vì anh ta đã hỏi “Tuần trăng mật của cậu thế nào, John?” Vị MC, vốn nổi tiếng với sở thích chơi chữ và nhận xét thâm thúy của mình, thật ra chỉ muốn đùa[141]. Thực tế vào lúc đó, đám cưới của Lennon đã qua được 10 tháng, còn tuần trăng mật của họ đã bị hoãn lại và sẽ diễn ra vào hai tháng sau[142]. Lennon, khi đó đang có chút hơi men, giải thích khá ngắn gọn: “Gã ta dám coi tôi là một tên queer, vậy nên tôi phải đánh hắn cho gãy hết xương sườn.”[143]
Lennon thường hay chế giễu Epstein về giới tính cũng như nguồn gốc Do Thái của anh ta.[144] Khi Epstein tham khảo ý kiến Lennon về nhan đề cuốn tự truyện, anh đã đề xuất Queer Jew[gc 8]. Khi biết rằng cuốn sách được mang tên A Cellarful of Noise, Lennon châm biếm “Cái tên A Cellarful of Boys hay hơn.”[gc 9][145] Anh từng hỏi một người đã qua đêm với Epstein “Anh có làm tiền anh ta không? Nếu không thì chứng tỏ anh là kẻ nói dối duy nhất ở London này.”[144] Trong quá trình thu âm ca khúc “Baby, You’re a Rich Man“, anh từng hát chế phần lời thành “Baby, you’re a rich fag Jew”[gc 10][146][147].
Julian Lennon
Con trai đầu lòng của John với Cynthia, Julian, ra đời đúng lúc cơn sốt The Beatles đang lên đỉnh điểm với Beatlemania ở Anh. Lennon vẫn đang đi diễn khi con trai mình chào đời vào ngày 8 tháng 4 năm 1963. Sự ra đời của Julian, cũng như đám cưới với Cynthia, đều được yêu cầu giữ bí mật bởi vì Epstein cho rằng The Beatles sẽ mất đi sự quan tâm từ công chúng. Julian nhớ lại quãng thời gian 4 năm sau đó khi còn là một đứa trẻ ở Weybridge “Tôi trở về nhà từ trường và mang về một trong những bức tranh mà tôi vẽ. Đó là một bầu trời đầy sao với một cô bé tóc vàng mà tôi chơi ở trường. Và bố tôi hỏi “Cái gì vậy?” Tôi trả lời “Đó là Lucy giữa bầu trời đầy kim cương!”“[148] Lennon đã lấy câu đó mà sáng tác nên ca khúc “Lucy in the Sky with Diamonds” cho The Beatles, và cho dù sau này ca khúc bị quy kết cho việc ám chỉ chất LSD, John vẫn nhấn mạnh “Đây không phải là ma túy.”[149] McCartney cũng bảo vệ ý kiến của Lennon khi nói rằng Julian chỉ vô tình tạo ra nhan đề đó[149]. Thực tế, Julian không thật sự gần gũi với cha trong khi lại khá thân thiết với McCartney. Trong một lần tới thăm Cynthia và Julian khi Lennon chuẩn bị thủ tục ly hôn, McCartney đã sáng tác nên ca khúc “Hey Jules” tặng cậu bé. Đó chính là nền tảng của ca khúc nổi tiếng sau đó của ban nhạc, “Hey Jude“. Lennon nói “Đó là bài hát hay nhất của cậu ấy. Nó được viết để dành tặng con trai Julian của tôi… và anh ấy đã đổi tên thành “Hey Jude”. Tôi vốn tưởng anh ấy viết về tôi và Ono song anh ấy đã phủ nhận điều đó.”[150]
Mối quan hệ với cha của Julian càng trở nên ít thân thiết kể từ khi John chuyển tới sống ở New York cùng Yoko Ono vào năm 1971. 2 cha con chỉ gặp lại nhau vào năm 1973. Nhờ sự giúp đỡ của Pang, anh (cùng mẹ) được thu xếp gặp gỡ John tại Los Angeles, rồi sau đó họ cùng đi chơi Disneyland[151]. Julian kể từ đó thăm cha thường xuyên hơn, còn John cũng cho anh chơi trống trong một ca khúc của album Walls and Bridges[152]. John cũng mua cho con trai cây guitar Gibson Les Paul và nhiều nhạc cụ khác, cùng với đó là ủng hộ anh quan tâm tới âm nhạc bằng việc hướng dẫn những hợp âm và kỹ thuật guitar cơ bản[152]. Julian sau này nhớ lại anh và cha “đã có những khoảnh khắc tốt đẹp hơn” khi anh ở New York: “Chúng tôi đã có nhiều lúc vui, cười rất nhiều và nhìn chung là đã chia sẻ với nhau nhiều giây phút vui vẻ.”
Trong bài phỏng vấn ngắn với David Sheff trên tạp chí Playboy ngay trước khi qua đời, Lennon nói: “Sean là một cậu bé có tham vọng, và đó chính là điểm khác biệt. Tôi vẫn luôn yêu Julian không khác gì lúc nhỏ. Nó vẫn là con trai tôi, cho dù nó được sinh ra từ chai rượu whiskey hay là vì người ta quên không mang theo cần sa vào ngày đó. Nó ở đây, nó thuộc về tôi, và luôn luôn là thế.” Anh cũng khẳng định rằng mình luôn muốn gây dựng lại mối quan hệ tốt đẹp với cậu con trai 17 tuổi và tự tin dự đoán “Mối quan hệ giữa tôi và Julian là của tương lai.”[116] Tuy nhiên, Julian chỉ nhận được một phần rất nhỏ từ di chúc của John sau cái chết của anh[153].
Yoko Ono
Có 2 câu chuyện khác nhau về việc Lennon gặp Ono. Theo câu chuyện thứ nhất kể bởi những người nhà Lennon, Lennon tới xem Indica Gallery ở London, nơi mà Ono đang chuẩn bị cho buổi triển lãm nghệ thuật của mình, và cả hai đều được chủ phòng triển lãm, John Dunbar, giới thiệu[154]. Lennon bị tác phẩm “Hammer a Nail” của Ono gây ấn tượng: người xem sẽ đóng hàng trăm chiếc đinh lên một tấm bảng gỗ và đó trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Khi triển lãm còn chưa bắt đầu, Lennon đã yêu cầu một chiếc búa nhằm đóng đinh lên chiếc bảng trống trơn và Ono đã chạy đến ngăn anh lại. Dubar ngạc nhiên hỏi cô: “Cô không biết đó là ai sao? Đó là một triệu phú. Có thể anh ta sẽ mua nó!” Ono coi như mình chưa từng nghe tới The Beatles và yêu cầu Lennon trả cô 5 shilling, Lennon trả lời: “Tôi sẽ trả cô 5 shilling tưởng tượng cho một chiếc búa tưởng tượng!”[116] Câu chuyện thứ hai là của McCartney, rằng vào cuối năm 1965, Ono tới London để sưu tầm phần viết nhạc cho cuốn sách Notations mà John Cage đang thực hiện, nhưng McCartney lại không muốn đưa cho cô bất cứ phần chép tay nào của anh về cuốn sách đó, vậy nên Lennon buộc phải làm. Khi được đề nghị, Lennon đã đưa cho Ono phần lời gốc viết tay của bài hát “The Word“[155].
Ono bắt đầu thường xuyên gọi điện tới nhà Lennon, và mỗi khi Cynthia hỏi, anh chỉ trả lời rằng thực ra Ono đang cần tiền “cho mấy thứ avant-garde bỏ đi”[156]. Tháng 5 năm 1968, khi Cynthia đi nghỉ mát ở Hy Lạp, Lennon đã mời Ono tới nhà chơi. Họ đã dành cả tối để thu âm album Two Virgins mà Lennon sau này nói cả hai “đã làm tình tới tận sáng”[157]. Khi Cynthia về nhà và thấy Ono đang mặc chiếc váy ngủ của mình và ngồi uống trà với Lennon, anh chỉ nói “Oh, chào!”[158] Ono có bầu vào năm 1968 và bị sẩy thai đứa con trai, dự định đặt tên là John Ono Lennon II, vào ngày 21 tháng 10 cùng năm[159], chỉ vài tuần sau những tuyên bố chính thức về vụ ly dị của Lennon[160].
Trong khoảng thời gian 2 năm cuối cùng với The Beatles, Lennon và Ono bắt đầu tham gia vào phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam. Họ làm đám cưới tại khách sạn The Rock Hotel ở Gibraltar ngày 20 tháng 3 năm 1969, trải qua tuần trăng mật tại Amsterdam Hilton Hotel ở Amsterdam, và bắt đầu cuộc vận động Bed-In nổi tiếng. Họ đã định tổ chức một cuộc vận động Bed-In nữa ở Mỹ, song vì bị từ chối nhập cảnh[161], nên 2 người đành ở lại Queen Elizabeth Hotel tại Montreal, nơi họ thu âm ca khúc nổi tiếng “Give Peace a Chance“[162].
![]() |
![]() Mối quan hệ căng thẳng giữa Lennon và McCartney kéo dài cho tới tận khi Lennon bị ám sát mà ca khúc “How Do You Sleep?” là một trong những lời công kích trực tiếp gửi tới McCartney
![]() Khác với Cynthia Lennon, Yoko Ono là chủ đề trong rất nhiều sáng tác của Lennon, mà điển hình là ca khúc “Woman” nằm trong album cuối cùng của họ, Double Fantasy
![]() Ca khúc “Free as a Bird” được 3 thành viên còn lại của The Beatles thu âm hoàn thiện một đoạn băng thâu nháp từ năm 1977 của Lennon
|
Trục trặc khi nghe các tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn. |
Lennon và Ono cũng thường hợp tác với nhau trong nghệ thuật, chẳng hạn như với khái niệm “bagism” được họ lần đầu nhắc tới trong buổi họp báo ở thành phố Viên, Áo. Lennon từng miêu tả thời kỳ này qua ca khúc của The Beatles, “The Ballad of John and Yoko“[163]. Lennon làm thủ tục đổi tên khai sinh vào ngày 22 tháng 4 năm 1969 với việc thêm từ Ono làm tên đệm của mình[164]. Một lễ ăn mừng nhỏ được tổ chức ở tầng áp mái của tòa nhà Apple Corps, nơi chỉ 3 tháng sau The Beatles trình diễn lần cuối trên tầng gác mái. Đôi vợ chồng dọn tới ở Tittenhurst Park, Sunninghill ở Berkshire[165]. Sau khi Ono bị thương vì tai nạn giao thông, Lennon đã thiết kế một chiếc giường lớn đặt giữa phòng thu trong quá trình anh thực hiện album cuối cùng của The Beatles, Abbey Road[166]. Nhằm tránh những thị phi về việc ban nhạc tan rã, Ono đề xuất cả 2 chuyển tới sống vĩnh viễn ở New York, và ngày 31 tháng 8 năm 1971 là lần cuối cùng Lennon đặt chân lên nước Anh.
Tại Mỹ, ban đầu 2 người sống tại St. Regis Hotel ở 5th Avenue, East 55th Street. Sau đó John và Ono dọn tới ở 105 Bank Street, Greenwich Village vào ngày 16 tháng 10 năm 1971. Sau một lần bị trộm viếng thăm, họ quyết định chọn một chung cư an toàn hơn là tòa nhà The Dakota ở địa chỉ 1 West 72nd Street vào tháng 5 năm 1973[167].
May Pang
ABKCO Industries, được thành lập vào năm 1968 bởi Allen Klein dưới vai trò là công ty mẹ của ABKCO Records, đã tuyển May Pang làm lễ tân vào năm 1969. Cùng với những kế hoạch với ABKCO, Lennon và Ono lần đầu gặp Pang vào năm 1970 và cô trở thành trợ lý riêng của đôi vợ chồng. 3 năm sau, quan hệ giữa Lennon và Ono có trục trặc, và Ono đề nghị Pang thiết lập mối quan hệ với Lennon “Anh ấy thích cô nhiều lắm.” Pang, 22 tuổi, kinh ngạc trước đề nghị của Ono, đồng ý trở thành bạn gái của Lennon. 2 người sau đó dọn tới California, bắt đầu 18 tháng mà sau này Lennon gọi là “lost weekend”[105]. Khi ở Los Angeles, Pang đã thúc giục John xây dựng lại mối quan hệ với con trai Julian mà anh đã không gặp lại từ 2 năm trước. Lennon cũng bắt đầu hòa giải với Starr, McCartney, Mal Evans, và Harry Nilsson. Trong một lần uống với Nilsson, vì hiểu nhầm vài lời Pang nói, Lennon đã xông tới định bóp cổ cô, song Nilsson đã kịp thời can ngăn[168].
Sau khi chuyển tới New York, họ đã thiết kế một căn hộ có phòng riêng cho Julian tới ở[168]. Lennon, vốn cho tới lúc đó vẫn bị ức chế vì Ono trong vấn đề này, bắt đầu thiết lập lại liên lạc với người thân và bạn bè khác. Tới tháng 12, anh và Pang đã quyết định mua một căn hộ và từ chối các cuộc gọi từ Ono. Tháng 1 năm 1975, anh đồng ý gặp Ono khi cô nói cô tìm ra phương pháp cai nghiện. Tuy nhiên sau đó, anh lại không về nhà cũng như không gọi cho Pang. Khi Pang gọi điện vào sáng hôm sau, Ono nói Lennon của cô không thể nghe điện do quá mệt sau buổi điều trị bằng phương pháp gây mê. 2 ngày sau, Lennon xuất hiện trở lại ở phòng khám răng với bộ dạng ngớ ngẩn và bối rối tới mức Pang thậm chí cho rằng anh đã bị tẩy não. Anh tuyên bố thời kỳ ly thân của anh với Ono đã chấm dứt, và Ono đã cho phép anh tiếp tục gặp cô dưới danh nghĩa tình nhân[gc 11][169].
Sean Lennon
Khi Lennon và Ono tái hợp, cô lại có bầu 1 lần nữa, nhưng vì đã chịu nhiều đau đớn sau 3 lần sẩy thai trước đó, cô yêu cầu được phá thai. Cô chấp nhận giữ thai lại với điều kiện Lennon sẽ phải trở thành người đàn ông của gia đình, và anh đã đồng ý[170]. Sean ra đời ngày 9 tháng 10 năm 1975, đúng ngày sinh nhật thứ 35 của John, sau một ca mổ lấy thai. Lennon liền tuyên bố tạm ngưng sự nghiệp của mình trong vòng 5 năm. Anh thuê một nhiếp ảnh chụp lại Sean mỗi ngày cho tới khi cậu bé 1 tuổi, và vẽ rất nhiều bức tranh về cậu, sau này được giới thiệu trong cuốn sách tuyển tập Real Love: The Drawings for Sean. Lennon tự hào nói “Nó không được sinh ra từ bụng tôi, nhưng ơn Chúa, tôi đã tạo nên nó, và vì tôi luôn bên nó mỗi lúc ăn, mỗi lúc ngủ và cả những lúc nó bơi như cá vậy.”[171]
Mối quan hệ với các Beatle khác
Trong khi mối quan hệ với Starr thực tế vẫn luôn mang nhiều tính hữu hảo kể từ sau khi ban nhạc tan rã, mối quan hệ của Lennon với McCartney và Harrison lại rất biến động. Ban đầu, anh khá thân thiết với Harrison, nhưng có 2 bước ngoặt xảy ra khi anh chuyển tới Mỹ sống. Khi Harrison tới New York tham gia vào tour quảng bá album Dark Horse vào năm 1974, Lennon đã đồng ý lên sân khấu, song cuối cùng lại không thể xuất hiện vì Lennon từ chối ký thỏa thuận xóa bỏ hoàn toàn khả năng cộng tác hợp pháp giữa các Beatle (thực tế Lennon ký các giấy tờ khi đang đi nghỉ cùng Pang và Julian ở Florida)[172]. Harrison đã khiến Lennon nổi giận vào năm 1980 khi anh công bố cuốn hồi ký mà Lennon chỉ góp mặt một phần rất nhỏ trong đó. Lennon nói với Playboy: “Điều đó làm tổn thương tôi. Với sự thiếu sót rõ ràng này… ảnh hưởng của tôi tới cuộc đời cậu ấy là vô cùng chắc chắn. Cậu ta nhớ tới từng gã chơi saxophone và guitar mà mình đã gặp suốt ngần ấy năm. Vậy mà tôi không xuất hiện trong cuốn sách đó.”[173]
Nhưng những đối đầu căng thẳng nhất của Lennon là với McCartney. Ngoài việc tấn công trực tiếp bằng ca khúc “How Do You Sleep?“, Lennon cũng lên tiếng đả kích qua các trang báo trong suốt ba năm kể từ khi ban nhạc tan rã. Sau đó cả 2 dần tái lập lại mối quan hệ như trước, và tới năm 1974, họ trở lại phần nào với nhau để phát triển các dự án âm nhạc. Lennon nói rằng trong lần cuối cùng McCartney tới thăm anh vào tháng 4 năm 1976, họ cùng ngồi xem chương trình Saturday Night Live mà nhà sản xuất Lorne Michaels đã đặt cược tới 3.000$ cho việc mời được The Beatles tái hợp trong chương trình[174]. Cả hai đã cùng thỏa thuận tới trường quay để gây chút hài hước và chia đôi số tiền trên, song cuối cùng hai người phải bỏ cuộc vì quá mệt. Lennon đã gói gọn tình cảm của mình dành cho McCartney qua buổi phỏng vấn ba ngày trước khi anh bị ám sát: “Trong suốt sự nghiệp của tôi, tôi chỉ muốn chọn… 2 người để làm việc cùng: Paul McCartney và Yoko Ono. Đó là một lựa chọn không hề tồi chút nào!”[175]
Cùng với ý thức tách biệt với McCartney, Lennon còn luôn giữ cho mình thái độ cạnh tranh và luôn để ý tới âm nhạc của McCartney. Trong quãng thời giạn 5 năm tạm chia tay với âm nhạc, anh cảm thấy khá hài lòng khi thấy McCartney chỉ sản xuất ra những sản phẩm rất tầm thường[176]. Khi McCartney cho phát hành ca khúc “Coming Up” vào năm 1980, năm mà Lennon quay trở lại phòng thu, anh liền lộ rõ vẻ chú ý. “Nó sẽ khiến tôi trở thành kẻ nói dối!”, Lennon buộc phải than vãn khi giai điệu của bài hát vẫn luôn luẩn quẩn trong đầu anh[176]. Khi được hỏi rằng liệu ban nhạc thực tế lúc đó là những kẻ thù không đội trời chung hay là những người bạn tốt, anh trả lời rằng không là gì cả vì anh đã không gặp lại họ từ lâu rồi. Tuy nhiên, anh cũng nói: “Tôi vẫn yêu tất cả bọn họ. The Beatles đã kết thúc, song John, Paul, George và Ringo thì vẫn còn đó.”[116]
Hoạt động chính trị
Lennon và Ono dành hết kỳ trăng mật của mình cho chiến dịch “Bed-In for Peace” ở Amsterdam Hilton Hotel; tới tháng 3 năm 1969, sự kiện bắt đầu gây được sự chú ý từ các phương tiện truyền thông[177][178]. 3 tháng sau, chiến dịch Bed-In lần thứ 2 được tổ chức tại Queen Elizabeth Hotel ở Montreal[179] và tại đây, Lennon viết nên ca khúc “Give Peace a Chance”. Được phát hành dưới dạng đĩa đơn, ca khúc này nhanh chóng trở thành thánh ca cho phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam của những người tuần hành tại Washington D.C ngày 15 tháng 11[180][181]. Tới tháng 12, họ cùng trả tiền để dán khẩu hiệu “War Is Over! If You Want It” trên các bảng hiệu ở 10 thành phố lớn trên thế giới (bằng tiếng địa phương)[182].
Cuối năm, đôi vợ chồng ủng hộ những nỗ lực của gia đình James Hanratty, bị kết tội giết người vào năm 1962, nhằm chứng minh mình vô tội[183]. Những người kết tội Hanratty bị Lennon lên án “như những kẻ mang súng tới Nam Phi để giết những người da màu trên phố… Những kẻ như vậy thì họ có quyền, và họ có thể làm mọi thứ, đó quả là những thứ rác rưởi của xã hội tư bản.”[184] Tại Anh, Lennon và Ono đã đi cổ động khẩu hiệu “Britain Murdered Hanratty”[gc 12], cùng với đó là đề xuất “Silent Protest For James Hanratty”[gc 13][76], rồi sản xuất một bộ phim tài liệu dài 40 phút cho chiến dịch. Sau khi bị gọi lên tòa phúc thẩm một năm sau đó, bản án dành cho Hanratty vẫn được giữ nguyên[185] sau khi những xét nghiệm ADN cho kết quả tương đồng[186]. Gia đình Hanratty vẫn tiếp tục làm đơn phúc thẩm vào năm 2010[187].
Lennon và Ono cũng ủng hộ các công nhân của hãng UCS[gc 14] ở vùng đô thị Glasgow – Clydeside – vào năm 1971 với việc gửi cho họ một bó hoa hồng lớn cùng tờ séc trị giá 5.000£[188]. Sau khi chuyển tới New York vào tháng 8 cùng năm, họ kết bạn với 2 trong số các thành viên của nhóm Chicago Seven và 2 nhà hoạt động hòa bình từ Youth International Party là Abbie Hoffman và Jerry Rubin[189]. Một nhà hoạt động hòa bình trẻ tuổi khác, John Sinclair, nhà thơ và đồng sáng lập White Panther Party, thì bị kết tội tù 10 năm do bán 2 tép cần sa trước khi có luật cho phép tàng trữ ma túy[190]. Tháng 12 năm 1971 tại Ann Arbor, Michigan, 15.000 người đã xuống đường biểu tình ủng hộ anh trong phong trào “John Sinclair Freedom Rally”, trong đó có buổi hòa nhạc có sự tham gia của Lennon, Stevie Wonder, Bob Seger, Bobby Seale của Black Panther Party và nhiều nghệ sĩ khác nữa[191]. Lennon và Ono, hát cùng với David Peel và Rubin, đã trình diễn 4 ca khúc acoustic trích từ album Some Time in New York City trong đó có cả bài “John Sinclair” mà phần lời của nó được viết nhằm kêu gọi trả tự do cho Sinclair. Sau đợt biểu tình, Thượng viện bang Michigan thông qua việc giảm chế tài với hành vi tàng trữ cần sa, và 4 ngày sau đó, Sinclair được thả sau buổi chất vấn tại tòa phúc thẩm[192]. Buổi trình diễn đó cũng được thu lại và 2 trong số 4 ca khúc sau này được nằm trong album John Lennon Anthology (1998)[193].
Vì sự kiện Bloody Sunday ở Bắc Ireland vào năm 1972 mà trong đó 14 dân thường đã bị sát hại bởi lực lượng quân đội Anh, Lennon đã dứt khoát lựa chọn giữa quân đội và lực lượng IRA (vốn không liên đới tới sự kiện trên) để anh ủng hộ. Lennon cùng Ono sau đó đã viết 2 ca khúc trong album Some Time in New York City là “Luck of the Irish” và “Sunday Bloody Sunday” nhằm phản đối sự can thiệp của quân đội Anh vào các vấn đề ở Ireland. Năm 2000, David Shayler, một cựu nhân viên từng phục vụ cho MI5 đã tiết lộ rằng Lennon đã lén lút cấp tiền cho IRA cho dù Ono từng từ chối điều đó đôi lần[194]. Cây viết sử Bill Harry cho rằng sau sự kiện Bloody Sunday, Lennon và Ono đã tài trợ tài chính cho việc sản xuất bộ phim The Irish Tapes – bộ phim tài liệu viết về những người Cộng hòa ở Ireland[195].
FBI từng tố cáo (và sau này được Tariq Ali khẳng định vào năm 2006) rằng Lennon có liên quan tới tổ chức Cộng sản IMG[gc 15], một nhóm hoạt động theo chủ nghĩa Trotsky ở Anh từ năm 1968[198]. Tuy nhiên, FBI cho rằng Lennon cũng tự kiềm chế mình trước những mong muốn khởi nghĩa kể từ khi anh “thường xuyên chìm đắm trong các cơn mê”[gc 16][199].
Năm 1973, Lennon có viết một bài thơ 5 câu có nhan đề “Why Make it Sad to be Gay?” cho cuốn The Gay Liberation Book của Len Richmond[200].
Hoạt động chính trị cuối cùng mà Lennon muốn tham gia chính là việc ủng hộ nhóm tiểu số công nhân vệ sinh ở San Francisco vào ngày 5 tháng 12 năm 1980. Anh và Ono đã dự định tham gia cuộc biểu tình của họ vào ngày 14 tháng 12[201].
Yêu cầu trục xuất
Với việc sáng tác 2 bài hát “Give Peace a Chance” và “Happy Xmas (War Is Over)” đều gắn liền với phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam, chính quyền của tổng thống Richard Nixon, nhân lúc hay tin Lennon tổ chức hòa nhạc tại San Diego cùng lúc với Đại hội toàn quốc của Đảng Cộng hòa[202], đã yêu cầu trục xuất anh. Nixon cho rằng ảnh hưởng của Lennon tới các vấn đề phản chiến có thể khiến ông thất cử[203], và Thượng nghị sĩ Strom Thurmond đã gợi ý vào tháng 2 năm 1972 rằng “việc trục xuất sẽ là một động thái phản công chiến lược”[204] nhằm vào Lennon. Chỉ một tháng sau, Cục Quản lý Nhập cư của Mỹ (INS) bắt đầu thực hiện yêu cầu này, cho rằng việc Lennon bị buộc tội tàng trữ cần sa ở London vào năm 1968 là hành vi không thể chấp nhận cho việc nhập cư tại Mỹ. Lennon phải mất tới 3 năm rưỡi nhằm biện hộ chống lại yêu cầu trục xuất này, và tới ngày 8 tháng 10 năm 1975, tòa phúc thẩm tuyên bố: “… tòa án không thể chấp nhận việc trục xuất có chọn lọc mà chỉ dựa vào vài lý do chính trị”[205][98]. Trong lúc cuộc chiến pháp lý vẫn tiếp tục, Lennon buộc phải đi tìm sự ủng hộ và xuất hiện trên truyền hình. Anh và Ono cùng tổ chức chương trình Mike Douglas Show vào tháng 2 năm 1972, trong đó có sự tham gia của các khách mời như Jerry Rubin hay Bobby Seale[206]. Vào năm 1972, Bob Dylan đã viết một bức thư gửi tới INS nhằm bảo vệ Lennon:
- “John và Ono đã mang tới tiếng hát và định hình tính nghệ thuật của quốc gia. Họ truyền cảm hứng, thúc đẩy, kích thích và cũng chính vì thế, giúp mọi người nhìn thấy thứ ánh sáng tinh khiết và cũng nhờ đó, chấm dứt thứ hương vị nghèo nàn của việc thương mại hóa tầm thường vốn được truyền tải bởi các Nghệ Sĩ qua sự tán tụng của truyền thông. Hãy ủng hộ John và Yoko. Hãy để họ sống tại đây và hít thở bầu không khí chung. Đất nước này đủ chỗ cho hai người và cả những căn phòng đẹp. Hãy cho John và Yoko ở lại đây!”[207][208]
Vào ngày 23 tháng 3 năm 1973, Lennon được nhận giấy yêu cầu rời khỏi nước Mỹ trong vòng 60 ngày[209]. Ono thì vẫn được đảm bảo quyền cư trú. Để phản ứng, Lennon và Ono tổ chức buổi họp báo vào ngày 1 tháng 4 tại văn phòng của New York City Bar Association và tuyên bố thành lập quốc gia có tên Nutopia với quốc thiều “không lãnh thổ, không biên giới, không hộ chiếu, chỉ có người dân”[210]. Cùng tung cờ của Nutopia (với hình 2 chiếc khăn tay), họ yêu cầu quyền tị nạn chính trị tại Mỹ. Buổi họp báo đó được quay lại và sau này được cho vào trong cuốn phim tài liệu The U.S. vs. John Lennon (2006)[211]. Ca khúc “Nutopian International Anthem” trong album Mind Games (1973) của Lennon đã dành hẳn 3 giây mặc niệm cho vấn đề này[212]. Không lâu sau buổi họp báo, scandal chính trị của Nixon bị đưa ra ánh sáng với vụ nghe lén đình đám Watergate ở Washington D.C. Chỉ 14 tháng sau, vị Tổng thống Mỹ này buộc phải tuyên bố từ chức. Người kế nhiệm ông, phó Tổng thống Gerald Ford, không quan tâm nhiều tới việc chống lại Lennon, và cuối cùng lệnh trục xuất được dỡ bỏ vào năm 1975. Một năm sau, tất cả những vấn đề cuối cùng về nhập cư của Lennon đã được giải quyết và anh sau đó được nhận “thẻ xanh” chứng nhận việc cư trú hợp pháp tại đây. Khi Jimmy Carter nhậm chức Tổng thống vào tháng 1 năm 1977, thậm chí đôi vợ chồng còn được ông mời tới gặp gỡ[213].
Kiểm soát từ FBI và những tài liệu mật
Sau cái chết của Lennon, cây viết sử Jon Wiener thu thập được nhiều tài liệu thông qua FOIA[gc 17], xem xét lại các giấy tờ của FBI từ thời kỳ yêu cầu trục xuất[214]. FBI thừa nhận họ giữ 281 trang hồ sơ về Lennon, song từ chối công bố chi tiết vì cho rằng đó là bí mật quốc gia. Năm 1983, Wiener tiến hành kiện FBI với sự giúp đỡ từ cơ quan ACLU[gc 18] ở miền Nam California. Quá trình tố tụng kéo dài suốt 14 năm cho tới khi FBI buộc phải công bố những trang hồ sơ mật[215]. ACLU, với Wiener làm đại diện, đã thắng kiện tại tòa Sơ thẩm liên bang vào năm 1991[216]. Bộ Tư pháp sau đó liền đệ đơn phúc thẩm lên Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 1992, song tòa án từ chối xem xét vụ việc[217]. Năm 1997, đạo luật mới của Tổng thống Bill Clinton đã quy định rằng các tài liệu này chỉ có thể bị từ chối công bố nếu việc công bố chúng dẫn tới những “thiệt hại có thể nhìn thấy trước được”, và cũng vin theo lý do này mà Bộ Tư pháp chỉ cho công bố 10 trong số các tài liệu tranh cãi đó. Wiener cuối cùng cũng cho phát hành khối công việc suốt 14 năm của mình vào tháng 1 năm 2000[217]. Gimme Some Truth: The John Lennon FBI Files bao gồm các tài liệu sao chép và “các bản báo cáo từ những nguồn tin cậy ghi lại chi tiết hoạt động từng ngày của nhà hoạt động phản chiến, các bản cáo trạng từ Nhà Trắng, những ghi chép từ các buổi lên sóng truyền hình của Lennon và cả giấy triệu tập việc Lennon từng bị cảnh sát địa phương bắt vì tàng trữ ma túy”[218]. Câu chuyện này sau đó cũng được đưa vào cuốn tài liệu The U.S. vs. John Lennon. Mười tập tài liệu liên quan tới Lennon mà FBI cho công bố bao gồm những đối đầu giữa cơ quan này và nhà hoạt động hòa bình vào năm 1971 được xếp vào danh mục “bí mật thông tin quốc gia từ một chính phủ nước ngoài với sự tin cậy đảm bảo”, cuối cùng được đưa ra công chúng vào tháng 12 năm 2006; và các tài liệu đó không có một dòng nào được chính phủ Anh ghi lại, rằng Lennon là một tội phạm đặc biệt. Một bản sao của các tài liệu đó chỉ là một bức thư được viết bởi một vài nhân vật cánh tả ở Anh mong muốn Lennon có thể đầu tư tài chính cho một thư viện và phòng đọc sách cánh tả[219].
Văn học và nghệ thuật
Cây viết sử Bill Harry từng viết rằng Lennon bắt đầu việc viết và vẽ tranh ngay từ khi còn nhỏ qua lời động viên của người bác. Cậu nhóc Lennon khi đó sưu tầm những mẩu chuyện, thơ, truyện tranh và cả tranh châm biếm rồi lưu lại trong một cuốn mà sau này cậu gọi là Daily Howl khi còn ở trường Quarry Bank High School. Các bản vẽ thường là về người tàn tật, cùng với lối viết châm biếm, và xuyên suốt cuốn sách là một cách chơi chữ vô cùng phong phú. Theo người bạn cùng lớp, Bill Turner, Lennon viết Daily Howl để chơi cùng với người bạn thân và thành viên sau này của The Quarrymen, Pete Shotton – người mà anh luôn giới thiệu những tác phẩm của mình trước tiên. Turner nói Lennon “bị ám ảnh bởi Wigan Pier và điều đó luôn lớn dần”. Trong cuốn truyện A Carrot in a Potato Mine của Lennon có câu “the mine was at the end of Wigan Pier.”[gc 19] Turner cũng chỉ ra sự liên kết giữa bến xe bus với câu hỏi thường trực “tại sao?” ở một trong những bức vẽ của Lennon mà ở phía trên là một chiếc pancake đang bay, còn ở dưới là “một người đàn ông mù đeo kính đen được dắt đi bởi một con chó mù cũng đeo kính đen”[220].
Mối quan tâm về chơi chữ và những câu chuyện vô nghĩa của Lennon đã thu hút được nhiều công chúng hơn khi anh bước sang tuổi 24. Harry nói rằng cuốn In His Own Write (1964) được Lennon cho phát hành sau khi “Có vài nhà báo chặn đường The Beatles, tiến lại và tôi quyết định nói chuyện với họ. Họ nói “Hãy thử viết thứ gì đó!” và thế là cuốn đầu tiên ra đời.” Cũng giống với Daily Howl, cuốn sách này là một tuyển tập các mẩu truyện ngắn, thơ, trò chơi và tranh vẽ. Một câu chuyện trong đó có tên “Good Dog Nigel” kể về “một chú chó vui vẻ, đi tiểu vào chân cột đèn điện, sủa vang và ngoe nguẩy đuôi cho tới khi nó chợt nghe rằng mình sẽ bị giết vào đúng lúc 3 giờ”. Tờ The Times Literary Supplement đánh giá những bài thơ và truyện “rất đáng chú ý… và hài hước… tính vô nghĩa trong đó, từ ngữ và hình ảnh làm nổi bật lẫn nhau thành một chuỗi tưởng tượng thuần khiết”. Book Week cho rằng “Đó đơn thuần là kiểu viết truyện vô nghĩa, song nó lại buộc ta phải xem xét lại thể loại văn chương này để hiểu cách làm thế nào Lennon đã thành công với nó. Trong khi một vài kiểu chơi chữ đồng âm mà anh sử dụng rất rẻ tiền thì số lớn khác lại hầu hết đa nghĩa và thậm chí cả đa chiều.” Lennon không chỉ ngạc nhiên với những phản ứng tích cực mình nhận được mà còn yêu cầu người đọc “cần nghiêm túc đọc cuốn sách này hơn chính bản thân tôi. Nó chỉ khiến tôi cảm thấy buồn cười mà thôi.”[221]
Cùng với A Spaniard in the Works (1965), In His Own Write trở thành nội dung chính cho vở kịch có tên The John Lennon Play: In His Own Write của 2 tác giả Victor Spinetti và Adrienne Kennedy. Theo thỏa thuận giữa Lennon, Spinetti và giám đốc Nhà hát kịch Hoàng gia – Laurence Olivier, vở kịch sẽ được trình diễn tại The Old Vic vào năm 1968. Cả Lennon lẫn Ono đều tới xem buổi diễn mở màn, và đó là lần thứ 2 họ cùng nhau xuất hiện trước công chúng kể từ khi công khai hẹn hò. Sau cái chết của Lennon, nhiều tác phẩm khác đã được phát hành, như Skywriting by Word of Mouth (1986), Ai: Japan Through John Lennon’s Eyes: A Personal Sketchbook (1992) với những minh họa của Lennon về cách định nghĩa các ký tự Nhật Bản, và Real Love: The Drawings for Sean (1999). Tuyển tập The Beatles Anthology (2000) cũng giới thiệu một số bản viết tay và vẽ của anh[222].
Âm nhạc
Nhạc cụ
Cách Lennon chơi chiếc organ-hơi trong chuyến đi thăm người họ hàng ở Scotland đã gây ấn tượng mạnh với người lái xe bus. Người tài xế này liền giới thiệu cho cậu về chiếc harmonica, vốn được bày bán trong một cửa hàng nằm ngay bên bến xe bus, nếu cậu có thể qua Edinburgh vào ngày hôm sau[223]. Nhạc cụ chuyên nghiệp đầu tiên này đã nhanh chóng thay thế chiếc “đồ chơi” cũ của cậu. Lennon tiếp tục chơi harmonica, đặc biệt trong thời kỳ lưu diễn ở Hamburg của The Beatles, rồi sau này trở thành thương hiệu đặc trưng của nhóm qua mỗi bản thu. Mẹ của Lennon là người chỉ dẫn cậu chơi đàn banjo, rồi sau đó tặng cậu một chiếc guitar acoustic. Tới năm 16 tuổi, cậu đã có thể chơi guitar nền cho The Quarrymen[224]. Khi sự nghiệp tiến triển, Lennon bắt đầu chơi nhiều guitar điện, có thể kể tới Rickenbacker 325, Epiphone Casino hay Gibson J-160E, và khi bắt đầu sự nghiệp solo là chiếc Gibson Les Paul Junior[225][226]. Đôi lúc anh cũng chơi chiếc bass 6-dây Fender Bass VI (như trong “Back in the U.S.S.R.“), cùng với đó là chơi bass trong một vài ca khúc của Beatles như “The Long and Winding Road” hay “Helter Skelter” khi mà McCartney đang phải chơi nhạc cụ khác[227]. Một nhạc cụ quan trọng khác của Lennon là piano, như cách anh thể hiện trong “Imagine” – bài hát được coi là sản phẩm solo xuất sắc nhất của anh[228]. Song chính việc anh cùng McCartney từ chối sử dụng piano vào năm 1963 đã giúp The Beatles có được đĩa đơn quán quân đầu tiên tại Mỹ, “I Want to Hold Your Hand“[229]. Năm 1964, Lennon là một trong những người Anh đầu tiên được tiếp xúc với cây đại dương cầm Mellotron, cho dù nó chỉ thực sự được thu âm lần đầu tiên qua ca khúc “Strawberry Fields Forever” của nhóm vào năm 1967[230].
Giọng hát
Khi The Beatles tiến hành thu âm ca khúc “Twist and Shout” – bài hát cuối cùng trong buổi thu ròng rã 10 tiếng liên tục cho album đầu tay của nhóm vào năm 1963, Please Please Me – giọng của Lennon, vốn trước đó đã bị ảnh hưởng bởi việc cảm lạnh, bắt đầu bị biến chất. Anh nói: “Tôi không nói ra nổi một từ nào. Tôi chỉ cố gào lên.”[231] Theo cây viết sử Barry Miles, “Lennon đơn giản đã phá hỏng giọng mình vì tình yêu rock ‘n’ roll.”[232] Nhà sản xuất của nhóm, George Martin, nhớ lại việc Lennon “bẩm sinh ghét chất giọng của mình tới mức tôi không thể nào hiểu nổi. Cậu ta luôn hét lên với tôi: “Ông hãy làm gì đó với nó đi!… hãy thêm thứ gì vào nó. Hãy làm cho nó khác biệt!”“[233] Vì vậy Martin luôn bị bắt buộc sử dụng kỹ thuật ghi đè cùng nhiều kỹ thuật khác nữa. Nhà phê bình Robert Christgau cho rằng giọng của Lennon là “thứ giọng trình diễn tuyệt vời nhất… kể cả khi gào thét lẫn than thở, đều hòa hợp với các thiết bị điện… bằng cách tạo tiếng vang, lọc âm hay ghi đè.”[234]
Khi bắt đầu sự nghiệp solo, chất giọng của Lennon đã mang tính biểu cảm rõ ràng hơn hẳn. Cây viết sử Chris Gregory nói rằng Lennon “e dè bộc lộ sự bất cẩn của mình trong nhiều bản ballad mộc mạc mang tính “thú tội” để dần dần thực hiện quá trình “điều trị cộng đồng” mà sau này đã giúp anh lên đỉnh với bài hát “Cold Turkey” và quân bài tẩy John Lennon/Plastic Ono Band.”[235] David Stuart Ryan nhận xét rằng giọng của Lennon tỏ ra vô cùng đa dạng, từ “rất dễ vỡ, giàu cảm xúc thậm chí cả ngây thơ” cho tới kiểu cách và “trau chuốt”[236]. Wiener thì nói điều ngược lại, cho rằng chất giọng của anh “ban đầu rất cuốn hút, song về sau lại khiến người ta đau lòng vì thất vọng”[237]. Nhà nghiên cứu âm nhạc Ben Urish viết rằng ca khúc “This Boy” của The Beatles được trình diễn trong The Ed Sullivan Show trên sóng phát thanh chỉ vài ngày sau vụ ám sát Lennon “Có lẽ rằng giọng ca của Lennon đã lên tới đỉnh cao… Nó khiến ta đau lòng biết mấy mỗi khi anh ấy gào lên những tiếng khổ đau và cảm xúc. Nhưng đó chỉ là những cảm nhận của riêng tôi khi nghe giọng ca này. Và tôi luôn luôn có những cảm giác ấy.”[238]
Di sản và tôn vinh
Theo 2 nhà nghiên cứu âm nhạc Schinder và Schwartz – những người viết về những chuyển biến của âm nhạc quần chúng trong những năm 50 và 60 của thế kỷ 20, những ảnh hưởng của The Beatles là không thể kể xiết: họ đã làm “sống lại âm thanh, phong cách và cả thái độ về thể loại âm nhạc quần chúng và hơn hết mở tung cánh cửa rock ‘n’ roll của làn sóng âm nhạc từ nước Anh”, và ban nhạc “đã dành toàn bộ nửa sau của thập kỷ 60 để đưa nhạc rock tới tận cùng giới hạn của nó”[239]. Liam Gallagher – thủ lĩnh của Oasis, một trong những nhóm nhạc thừa nhận ảnh hưởng sâu sắc từ The Beatles – đã từng gọi Lennon là một người hùng; và để tưởng nhớ, anh đã đặt tên con trai đầu lòng của mình là Lennon Gallagher[240]. Trong tháng Thơ quốc gia tại Anh vào năm 1999, qua buổi thăm dò phần ca từ được yêu thích nhất, đài BBC đã chọn “Imagine” là ca khúc thắng cuộc[241].
Trong bài báo năm 2006 trên tờ The Guardian, Jon Wiener viết: “Với những người trẻ tuổi, việc Lennon dám thách thức [Tổng thống Mỹ] Nixon vào năm 1972 thật sự quá kinh hãi. Thái độ đó đã đe dọa trực tiếp tới cuộc đời, sự nghiệp của anh ấy, và đó cũng là điều khiến người ta vẫn ngưỡng mộ anh cho tới tận ngày nay.”[242] Theo 2 nhà nghiên cứ Urish và Bielen, ảnh hưởng lớn nhất của Lennon là “tính tự họa… trong các ca khúc của anh ấy [khi mà chúng] luôn nói tới và hướng đến thân phận con người.”[243]
Lennon vẫn luôn được tôn vinh ở khắp nơi trên thế giới và là chủ đề của rất nhiều buổi tưởng niệm. Năm 2002, sân bay quốc tế thành phố Liverpool được đổi tên thành Sân bay John Lennon Liverpool[244]. Năm 2010, nhân kỷ niệm 70 ngày sinh của anh, Đài kỷ niệm hòa bình John Lennon đã được Cynthia và Julian Lennon khánh thành ở Chavasse Park, Liverpool[245]. Bức tượng điêu khắc này có tên “Peace & Harmony”[gc 20] phỏng theo biểu tượng hòa bình cùng với đó là lời tựa “Peace on Earth for the Conservation of Life · In Honour of John Lennon 1940–1980”[gc 21][246].
Danh hiệu
Bộ đôi Lennon-McCartney được thừa nhận là bộ đôi sáng tác thành công và có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Trong vai trò sáng tác và đồng sáng tác, Lennon sở hữu tổng cộng 25 đĩa đơn quán quân tại Mỹ . Các album solo của anh bán được khoảng 14 triệu bản[247]. Double Fantasy, album được phát hành chỉ 3 tuần trước cái chết của anh, là album solo của riêng anh, và là album hậu-Beatles thành công nhất[248] với 3 triệu đĩa được bán tại Mỹ[249], cùng với đó là giành Giải Grammy cho Album của năm vào năm 1981[250]. Ngay năm sau, giải thưởng Cống hiến của Brit Awards cũng được dành cho Lennon[251].
Lennon có tên ở vị trí số 8 trong danh sách “100 người Anh vĩ đại nhất” do đài BBC tổ chức bình chọn vào năm 2002[252]. Trong khoảng những năm 2003-2008, tạp chí Rolling Stone thực hiện rất nhiều bài đánh giá về âm nhạc và đóng góp của Lennon, và cuối cùng xếp anh ở vị trí số 5 trong danh sách “100 ca sĩ vĩ đại nhất”[253] và vị trí số 38 trong danh sách “100 nghệ sĩ vĩ đại nhất”[254]. Các album solo của anh là John Lennon/Plastic Ono Band và Imagine lần lượt có được các vị trí số 22 và 76 trong danh sách “500 album vĩ đại nhất” cùng của tạp chí này[254][255]. Anh cũng từng được phong tước hiệu Hoàng gia Anh (MBE) cùng với The Beatles vào năm 1965[52]. Lennon được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng nhạc sĩ vào năm 1987[256] và tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll vào năm 1994[102].
Danh sách đĩa nhạc
- Solo
- John Lennon/Plastic Ono Band (1970)
- Imagine (1971)
- Mind Games (1973)
- Walls and Bridges (1974)
- Rock ‘n’ Roll (1975)
- Cùng Yoko Ono
- Some Time in New York City (1972)
- Double Fantasy (1980)
- Milk and Honey (1984)
Tự truyện/ hồi ký
- In His Own Write (1964)
- A Spaniard in the Works (1965)
- Skywriting by Word of Mouth (1986)
Chú thích
^ Chú thích a: Danh sách 25 đĩa đơn quán quân của Lennon tại Billboard Hot 100 trong vai trò ca sĩ, sáng tác hoặc đồng sáng tác.
- Solo (2): “Whatever Gets You Thru the Night“, “(Just Like) Starting Over“[257]
- The Beatles (20): “Can’t Buy Me Love“, “I Feel Fine“, “I Want to Hold Your Hand“, “Love Me Do“, “She Loves You“, “A Hard Day’s Night“, “Eight Days a Week“, “Help!“, “Ticket to Ride“, “Yesterday“, “Paperback Writer“, “We Can Work It Out“, “All You Need Is Love“, “Hello, Goodbye“, “Penny Lane“, “Hey Jude“, “Something“/”Come Together“, “Get Back“, “Let It Be“, “The Long and Winding Road“/”For You Blue“[258]
- Đồng sáng tác và sáng tác được thể hiện bởi nghệ sĩ khác (2): “Fame” (David Bowie), “Lucy in the Sky with Diamonds” (Elton John)[259]
- Đồng sáng tác và sáng tác được phát hành bởi nghệ sĩ khác (1): “A World Without Love” (Peter and Gordon)[260]
Tham khảo
- ^ Harry 2000b, tr. 504
- ^ Spitz 2005, tr. 24: “Julia offered the name in honour of… Winston Churchill”
- ^ Spitz 2005, tr. 24: “The entire Stanley clan gathered nightly at Newcastle Road”
- ^ Lennon 2005, tr. 54: “Until then he had sent her money each month from his wages, but now it stopped”
- ^ Spitz 2005, tr. 26: “In February 1944… he was arrested and imprisoned. Freddie subsequently disappeared for six months”
- ^ Spitz 2005, tr. 27
- ^ Lennon 2005, tr. 56: “Alf admitted to her that he had planned to take John to live in New Zealand”
- ^ Spitz 2005, tr. 30: “Julia went out of the door… John ran after her”
- ^ Spitz 2005, tr. 497
- ^ Lennon 2005, tr. 56: “Hard to see why Mimi wanted John, as she had always said she didn’t want children”
- ^ Spitz 2005, tr. 32: “When he was old enough, taught John how to solve crossword puzzles”
- ^ Spitz 2005, tr. 48: “To get them started, she applied the triad to ‘Ain’t That a Shame'”
- ^ Sheff 1981, tr. 134–136
- ^ Spitz 2005, tr. 32: “Parkes recalled… Leila and John to the cinema as often as three times a day”
- ^ Harry 2009
- ^ Harry 2000b, tr. 702
- ^ Harry 2000b, tr. 819
- ^ Harry 2000b, tr. 411
- ^ Spitz 2005, tr. 32–33
- ^ Spitz 2005, tr. 40
- ^ ClassReports 2008
- ^ Spitz 2005, tr. 45
- ^ Norman 2008, tr. 89
- ^ Miles 1997, tr. 48
- ^ Spitz 2005, tr. 100
- ^ Harry 2000b, tr. 553–555
- ^ Lennon 2005, tr. 50
- ^ Harry 2000b, tr. 738
- ^ Spitz 2005, tr. 95
- ^ Spitz 2005, tr. 93–99
- ^ Miles 1997, tr. 44
- ^ Miles 1997, tr. 32
- ^ Miles 1997, tr. 38–39
- ^ Lennon 2005, tr. 47
- ^ Harry 2000b, tr. 337–338
- ^ Miles 1997, tr. 47, 50
- ^ Miles 1997, tr. 47
- ^ Lennon 2005, tr. 64
- ^ Miles 1997, tr. 57
- ^ Lennon 2005, tr. 53
- ^ Miles 1997, tr. 66–67
- ^ Lennon 2005, tr. 57
- ^ The Beatles 2000, tr. 67
- ^ Frankel 2007
- ^ a ă Harry 2000b, tr. 721
- ^ Spitz 2005, tr. 376: “He had been struggling all day to reach notes, but this was different, this hurt”
- ^ Doggett 2010, tr. 33
- ^ Shennan 2007
- ^ Coleman 1984a, tr. 239–240
- ^ Spitz 2005, tr. 557
- ^ Harry 2002, tr. 226–227
- ^ a ă London Gazette 1965, tr. 5488
- ^ Coleman 1984a, tr. 288
- ^ Lawrence 2005, tr. 62
- ^ The Beatles 2000, tr. 171
- ^ a ă Harry 2000b, tr. 570
- ^ Cleave 2007
- ^ Gould 2008, tr. 5–6, 249, 281, 347
- ^ Brown 1983, tr. 222
- ^ Gould 2008, tr. 319
- ^ MacDonald 2005, tr. 281
- ^ BBC News 2007b
- ^ Brown 1983, tr. 276
- ^ Miles 1997, tr. 397
- ^ Hoppa 2010
- ^ Miles 1997, tr. 349-373
- ^ Logan 1967
- ^ Lewisohn 1988, tr. 131
- ^ Harry 2000b, tr. 31
- ^ TelegraphKlein 2010
- ^ Miles 1997, tr. 549: “Paul never did sign the management contract”
- ^ Harry 2000b, tr. 774–775
- ^ Fawcett 1976, tr. 185
- ^ Coleman 1984a, tr. 279
- ^ Coleman 1984a, tr. 48–49
- ^ a ă Miles and Badman 2003
- ^ Edmondson 2010, tr. 129–130
- ^ Spitz 2005, tr. 853–54
- ^ Loker 2009, tr. 348
- ^ Wenner 2000, tr. 32
- ^ Wenner 2000, tr. 24
- ^ Harry 2000b, tr. 408–410
- ^ Blaney 2005, tr. 56
- ^ Harry 2000b, tr. 640–641
- ^ Riley 2002, tr. 375
- ^ Schechter 1997, tr. 106
- ^ Wiener 1990, tr. 157
- ^ Gerson 1971
- ^ Vigilla 2005
- ^ Goodman 1984
- ^ Harry 2000b, tr. 354–356
- ^ Peebles 1981, tr. 44
- ^ Allmusic 2010f
- ^ Bill DeMain. “John Lennon and the FBI”. Dangerous Liaisons: The FBI Files of Musicians. Performing Songwriter. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2013.
- ^ Alan Glenn (ngày 27 tháng 12 năm 2009). “The Day a Beatle Came to Town”. The Ann Arbor Chronicle. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2013.
- ^ Wiener 1990, tr. 204
- ^ LennoNYC, PBS Television 2010
- ^ a ă BBC News 2006a
- ^ Landau 1974
- ^ Harry 2000b, tr. 979–980
- ^ Deming 2008
- ^ a ă The Rock and Roll Hall of Fame and Museum 1994
- ^ Slide, tr. 101
- ^ “The Lost Weekend (1945)”. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2013., trên Internet Movie Database.
- ^ a ă Harry 2000b, tr. 698–699
- ^ Harry 2000b, tr. 927–929
- ^ Harry 2000b, tr. 735
- ^ Phụ chú của The Very Best of Mick Jagger
- ^ Badman 2001, 1974
- ^ Harry 2000b, tr. 284
- ^ Harry 2000b, tr. 970
- ^ The Rock and Roll Hall of Fame and Museum 1996
- ^ Harry 2000b, tr. 240, 563
- ^ a ă Harry 2000b, tr. 758
- ^ Madinger, Eight Arms To Hold You, 44.1 Publishing, 2000, ISBN 0-615-11724-4
- ^ a ă â b c d Sheff 1981
- ^ Harry 2000b, tr. 553
- ^ Harry 2000b, tr. 166
- ^ Bennahum 1991, tr. 87
- ^ Harry 2000b, tr. 814
- ^ BBC News 2006b
- ^ Schinder & Schwartz 2007, tr. 178
- ^ Ginell 2009
- ^ Badman 2001, 1980
- ^ Ingham 2006, tr. 82
- ^ Harry 2000b, tr. 145
- ^ Harry 2000b, tr. 692
- ^ “Inmate Population Information Search”. Nysdoccslookup.doccs.ny.gov. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2014.
- ^ Chris Dolmetsch (ngày 23 tháng 8 năm 2014). 22 tháng 8 năm 2014/john-lennon-killer-mark-david-chapman-denied-parole-eighth-time.html “John Lennon Killer Chapman Denied Parole for Eighth Time”. NY. Bloomberg News. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2014.
- ^ Lennon 2005, tr. 17–23
- ^ Lennon 2005, tr. 21
- ^ Lennon 2005, tr. 89–95
- ^ Harry 2000b, tr. 492–493
- ^ Lennon 2005, tr. 91
- ^ Harry 2000b, tr. 493–495
- ^ Lennon 2005, tr. 113
- ^ Harry 2000b, tr. 496–497
- ^ Warner Brothers 1988
- ^ Lennon 2005, tr. 305–306: “He had agreed that I should have custody of Julian”, “He raised his offer to £100,000”
- ^ Harry 2000a, tr. 232
- ^ Harry 2000a, tr. 1165, 1169
- ^ Lennon 2005, tr. 94, 119–120
- ^ Harry 2000a, tr. 1169
- ^ a ă Harry 2000b, tr. 232
- ^ Coleman 1992, tr. 298–299
- ^ Norman 2008, tr. 503
- ^ MacDonald 2005, tr. 206
- ^ Harry 2000b, tr. 517
- ^ a ă Harry 2000b, tr. 574
- ^ Harry 2000b, tr. 341
- ^ Lennon 2005, tr. 252–255
- ^ a ă Lennon 2005, tr. 258
- ^ Badman 2003, tr. 393
- ^ Harry 2000b, tr. 682
- ^ Miles 1997, tr. 272
- ^ Harry 2000b, tr. 683
- ^ Theo dòng phụ chú của Two Virgins.
- ^ Lennon 1978, tr. 183
- ^ Harry 2000b, tr. 510
- ^ Spitz 2005, tr. 800
- ^ Kruse 2009, tr. 16
- ^ Harry 2000b, tr. 276
- ^ Coleman 1992, tr. 550
- ^ Coleman 1984b, tr. 64
- ^ Norman 2008, tr. 615 et seq
- ^ Emerick & Massey 2006, tr. 279–280
- ^ “John & Yoko’s New York”. StopOver Magazine. Ngày 16 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2011.
- ^ a ă Harry 2000b, tr. 700
- ^ Harry 2000b, tr. 700–701
- ^ Harry 2000b, tr. 535, 690
- ^ Harry 2000b, tr. 535
- ^ Harry 2000b, tr. 195
- ^ Harry 2000b, tr. 327
- ^ Harry 2000b, tr. 934–935
- ^ Cohn 2010–2011, tr. 95
- ^ a ă Seaman 1991, tr. 122
- ^ Miles and Badman 2003, 1969: “They were ridiculed by the world’s media”
- ^ Anderson 2010, tr. 83: “The Bed-In stunt was ridiculed by the press”
- ^ Harry 2000b, tr. 745–748
- ^ Perone 2001, tr. 57–58
- ^ Holsinger 1999, tr. 389
- ^ “John Lennons Convey Greetings via Billboards” The New York Times ngày 16 tháng 12 năm 1969: 54
- ^ Wenner 2000, tr. 43
- ^ Clark 2002
- ^ Milmo 2002
- ^ Hanratty: The damning DNA. ngày 10 tháng 5 năm 2002, BBC. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2012
- ^ New appeal sought 48 years after Hanratty hanging By Tim Castle ngày 30 tháng 12 năm 2010, Reuters. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2012
- ^ McGinty 2010
- ^ Harry 2000b, tr. 344
- ^ Buchanan 2009
- ^ Harry 2000b, tr. 789–790, 812–813
- ^ Glenn 2009
- ^ Calkin 2002
- ^ Bright 2000
- ^ Harry 2000b, tr. 403
- ^ Description for the papers of the International Marxist Group, Warwick University Library.
- ^ International Information Bulletin 1983 #1
- ^ Ali 2006
- ^ Brooks 2005
- ^ Richmond, Len. “The gay liberation book by Len Richmond – Reviews, Discussion, Bookclubs, Lists”. Goodreads.com. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2013.
- ^ “John Lennon’s last public political statement. – Dynamic Tension”. Crowdog89.tumblr.com. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2013.
- ^ Wiener 1999, tr. 2
- ^ BBC News 2000
- ^ Wiener 1990, tr. 225
- ^ Coleman 1992, tr. 576–583
- ^ BBC News 2006c
- ^ Wiener, Jon. “Bob Dylan’s defense of John Lennon”. The Nation, 8 tháng 10 năm 2010
- ^ “Photo Copy of Bob Dylan’s 1972 Letter to the INS in Defense of John Lennon”. Lennonfbifiles.com. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2010.
- ^ Wiener 1999, tr. 326
- ^ Harry 2000b, tr. 663
- ^ Urish & Bielen 2007, tr. 143
- ^ Harry 2000b, tr. 664
- ^ Coleman 1984a, tr. 289
- ^ Wiener 1999, tr. 13
- ^ Friedman 2005, tr. 252
- ^ Wiener 1999, tr. 315
- ^ a ă Wiener 1999, tr. 52–54, 76
- ^ Wiener 1999, tr. 27
- ^ The Associated Press 2006
- ^ Harry 2000b, tr. 179–181
- ^ Harry 2000b, tr. 393–394
- ^ Harry 2000b, tr. 396–397
- ^ Harry 2000b, tr. 313
- ^ Harry 2000b, tr. 738–740
- ^ Prown and Newquist 2003, tr. 213
- ^ Lawrence 2009, tr. 27
- ^ Everett 1999, tr. 297
- ^ Blaney 2005, tr. 83
- ^ Everett 2001, tr. 200
- ^ Babiuk 2002, tr. 164–165
- ^ Wenner 2000, tr. 14
- ^ Miles and Badman 2003, tr. 90
- ^ Coleman 1992, tr. 369–370
- ^ Wiener 1990, tr. 143
- ^ Gregory 2007, tr. 75
- ^ Ryan 1982, tr. 118, 241
- ^ Wiener 1990, tr. 35
- ^ Urish & Bielen 2007, tr. 123
- ^ Schinder & Schwartz 2007, tr. 160
- ^ Harry 2000b, tr. 265
- ^ Harry 2000b, tr. 382–383
- ^ Wiener 2006
- ^ Urish & Bielen 2007, tr. 121–122
- ^ “Recent History and Current Developments”. Friends of Liverpool Airport. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2013.
- ^ “Monument to John Lennon unveiled in Liverpool on his ’70th birthday’”. The Daily Telegraph (London). Ngày 9 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Unveiling of ‘Peace & Harmony’, European Peace Monument – Dedicated to John Lennon”. Youtube.com. Ngày 8 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2013.
- ^ RIAA 2010b
- ^ Greenberg 2010, tr. 202
- ^ RIAA 2010a
- ^ grammy.com
- ^ Brit Awards 2010
- ^ BBC News 2002
- ^ Browne 2008
- ^ a ă Rolling Stone 2008
- ^ Rolling Stone 2003
- ^ Songwriters Hall of Fame 2009
- ^ Allmusic 2010a
- ^ “Most No. 1s By Artist (All-Time)”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2012.
- ^ Allmusic 2010c
- ^ Allmusic 2010d
- Ghi chú
- ^ Phenmetrazine, còn có tên khác là Preludin hay PAL-592 là một chất hữu cơ có cấu trúc vòng a-min. Đây là một loại ma túy nhẹ, lần đầu được bày bán vào năm 1959 song nhanh chóng bị thu hồi và bị coi là bất hợp pháp kể từ năm 1965 ở Thụy Điển. Lần lượt các nước châu Âu sau đó cũng tuyên bố cấm với hợp chất kích thích này.
- ^ The Beatles được phong tước hiệu “Member of the Most Excellent Order of the British Empire” (MBE). Là một danh hiệu trang trọng, song MBE thực tế không danh giá bằng các danh hiệu Hiệp sĩ (GBE, KBE và DBE), Tư lệnh (CBE) và Sĩ quan (OBE) của Hoàng gia Anh. Tuy nhiên, việc trao tước hiệu này cho The Beatles (dẫn tới việc phải gọi kèm theo tên từ “sir” – “ngài”) thì luôn gây nhiều tranh cãi vì ban nhạc có xuất thân từ tầng lớp bình dân thấp kém, và bản thân họ cũng không phải là những người được hưởng một nền giáo dục tốt[50]. Trước làn sóng chỉ trích, ban nhạc đã tự trả lại tước hiệu vào cuối năm. Sau này chỉ có duy nhất McCartney được phong tước hiệu Hoàng gia Anh 1 lần nữa, vẫn là MBE, vào năm 1997[51].
- ^ Lysergic acid diethylamide (C20H25N30) gọi tắt là LSD là một loại thuốc thuộc nhóm gây ảo giác. LSD được khám phá vào năm 1938 và là một trong những loại hóa chất làm thay đổi tâm thần. Nó được chế tạo từ acid lysergic tìm thấy trong ergot, một thứ nấm mọc trên lúa mạch và nhiều loại gạo nếp khác.
- ^ Khu thiền đặc biệt của đạo Hindu. Thông thường ashram là nơi để lĩnh hội tôn giáo, tĩnh tâm và tập luyện yoga. The Beatles tới khu ashram của Maharashi ở Rishikesh, Ấn Độ vào mùa xuân năm 1968 và lưu lại đó với những quãng thời gian dài ngắn khác nhau. Trong chuyến đi đó, bạn gái và vợ của các thành viên ban nhạc cũng tới thiền tại đây. Tuy nhiên, Yoko Ono chưa chính thức xuất hiện vào khoảng thời gian này.
- ^ “Nigger” hay “nigga” là một từ cổ trong tiếng Mỹ ám chỉ những người lao động da màu trong các nông trại ở đây từ thời chế độ nô lệ. Sau khi cuộc nội chiến Mỹ kết thúc vào năm 1865 dẫn đến việc tổng thống Abraham Lincoln tuyên bố bãi bỏ chế độ nô lệ, từ này trở nên ít phổ biến song vẫn được dùng trong tầng lớp lao động, đặc biệt giữa những cộng đồng người da màu tại Mỹ. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh người da trắng sử dụng từ “nigger”, nghĩa của nó gần giống với từ “mọi đen” và mang nhiều tính phân biệt chủng tộc – vấn đề vẫn luôn nhạy cảm với xã hội phương Tây.
- ^ Lost weekend – tạm dịch Tuần lễ lạc lối – là cuốn tiểu thuyết đầu tay đình đám của nhà văn Charles R. Jackson được phát hành vào năm 1944. Tiểu thuyết kể về câu chuyện xung quanh một kẻ bợm rượu, Don Birnam. Thành công đặc biệt của cuốn sách trong việc miêu tả tâm lý của các nhân vật đã gây ảnh hưởng sâu rộng với nền văn hóa Mỹ suốt những năm sau đó. Bộ phim cùng tên được chuyển thể và công chiếu ngay năm 1945[103] với sự tham gia của tài tử Ray Milland trong vai Birnam là một bộ phim xuất sắc, giành được 4 trong số 7 đề cử của giải Oscar bao gồm Giải Đạo diễn xuất sắc nhất, Giải Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất, Giải Phim xuất sắc nhất và Giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất. Bộ phim sau này cũng được đưa vào trong Viện lưu trữ phim quốc gia của Thư viện Quốc hội Mỹ vào năm 2011[104].
- ^ Từ gốc mà Lennon sử dụng khi xô xát.
- ^ Tạm dịch “Gã queer Do Thái”.
- ^ “A Cellarful of Noise” có nghĩa là “Căn phòng đầy tiếng ồn”. Cum từ “A Cellarful of Boys” thì có nghĩa “Căn phòng đầy những gã trai”.
- ^ “Fag” là từ lóng tiếng Mỹ, viết tắt của từ “faggot”. Câu hát này có thể được tạm dịch “Cưng chỉ là một gã Do Thái đồng tính giàu có”.
- ^ Từ gốc mà John nói là “mistress”, vốn có nghĩa chỉ tình trạng cặp đôi không hôn thú nói chung. Song dần dần từ này thu hẹp nghĩa lại nhằm nói về người đi cặp đôi với một người đã kết hôn, hay còn gọi là ngoại tình. Thông thường những cặp đôi này không sống chung với nhau.
- ^ Tạm dịch “Nước Anh đã giết chết Hanratty”.
- ^ Tạm dịch “Sự phản đối im lặng cho James Hanratty”.
- ^ Upper Clyde Shipbuilders là hãng đóng tàu biển của Scotland, thành lập vào năm 1968 sau khi hợp nhất 5 công ty đóng tàu lớn nhất bên bờ sông Clyde. Vào năm 1971, công ty này dần đi tới giải tán, dẫn tới các phong trào biểu tình “work-in” ngay tại các bến tàu. UCS chính thức giải thể và tái cơ cấu thành 2 công ty nhỏ là Govan Shipbuilders và Scotstoun Marine Ltd vào tháng 2 năm 1972.
- ^ International Marxist Group được thành lập ở Anh và hoạt động trong những năm 1968-1982. Đây chính là tổ chức đại diện của Anh cho Quốc tế thứ tư. Vào cuối những năm 1970, tổ chức đạt cực đỉnh với khoảng 1.000 thành viên[196], song tới tháng 12 năm 1982, con số đó giảm xuống còn hơn 500 và tổ chức tuyên bố tan rã rồi đổi tên thành Nhóm chủ nghĩa Xã hội[197].
- ^ Nguyên văn từ “cơn mê” do FBI sử dụng là “narcotic(s)”. Từ này là một từ hiếm gặp, và việc dùng nó cần được hiểu qua dụng ý của người viết – ở đây là FBI. “Cơn mê” ở đây ngoài ý ám chỉ Lennon lạm dụng ma túy (dẫn tới mê sảng) còn có ý ám chỉ sự mê muội.
- ^ FOIA là tổ chức bảo vệ quyền tự do thông tin của Mỹ, được bảo trợ bởi chính phủ và có hoạt động gần như trực tiếp với Hiến pháp và các quyền con người của đất nước này.
- ^ ACLU là một tổ chức trung lập và phi lợi nhuận nhằm bảo vệ mọi quyền con người và quyền công dân của mọi cá thể trên đất nước Mỹ. Đây là một tổ chức quan trọng góp phần định nghĩa khái niệm “lobby” ở Mỹ kể từ sau Thế chiến thứ hai.
- ^ Tạm dịch “phần con người trong tôi là điểm kết thúc của Wigan Pier.”
- ^ Tạm dịch “Hòa bình và Hòa hợp”.
- ^ Tạm dịch “Hòa bình trên Trái đất để bảo vệ cuộc sống · Tưởng nhớ John Lennon 1940-1980”.
Thư mục
- Ali, Tariq (ngày 20 tháng 12 năm 2006). “John Lennon, the FBI and me”. The Guardian (UK). Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2010.
- “David Bowie – Billboard Singles”. Allmusic. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
- “Elton John – Billboard Singles”. Allmusic. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
- “John Lennon – Billboard Singles”. Allmusic. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
- “John Lennon Discography, Singles & EPs, Happy Xmas (War is Over)”. Allmusic. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
- “Peter and Gordon – Billboard Singles”. Allmusic. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
- “The Beatles – Billboard Singles”. Allmusic. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
- Anderson, Jennifer Joline (2010). John Lennon: Legendary Musician & Beatle. Abdo Publishing Company. ISBN 978-1-60453-790-1. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2011.
- Babiuk, Andy (2002). Beatles Gear. Backbeat. ISBN 978-0-87930-731-8.
- Badman, Keith (2001). The Beatles Diary, Volume 2: After the Break-Up, 1970–2001. Omnibus Press. ISBN 978-0-7119-8307-6.
- Badman, Keith (2003). The Beatles Off The Record: The Dream Is Over. Omnibus Press. ISBN 978-0-7119-9199-6.
- “100 great British heroes”. BBC News. Ngày 21 tháng 8 năm 2002. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2010.
- “1969: Millions march in US Vietnam Moratorium”. BBC News. Ngày 15 tháng 10 năm 1969. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2010. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|year= / |date= mismatch
(trợ giúp) - “Beatles in Bangor”. BBC News. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2010.
- “Judge releases Lennon letters”. BBC News. Ngày 19 tháng 2 năm 2000. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2010.
- “Lennon filmmakers credit campaign”. BBC News. Ngày 12 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2010.
- “Lennon ship log book up for sale”. BBC News. Ngày 27 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2010.
- “The Lennon–McCartney Songwriting Partnership”. BBC News. Ngày 4 tháng 11 năm 2005.
- “US chat show veteran Douglas dies”. BBC News. Ngày 12 tháng 8 năm 2006. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2010.
- “Lennon killer is denied parole for the sixth time”. BBC News. Ngày 7 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2010.
- Bennahum, David (1991). The Beatles After the Break-Up: In Their Own Words. Omnibus Press. ISBN 978-0-7119-2558-8.
- Blaney, John (2005). John Lennon: Listen to this Book. Paper Jukebox. ISBN 978-0-9544528-1-0.
- Bright, Martin (ngày 20 tháng 2 năm 2000). “Lennon aided IRA, claims MI5 renegade”. The Guardian (UK). Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2010.
- Brooks, Richard (ngày 13 tháng 6 năm 2009). “Julian Lennon gives family peace a chance”. The Times (UK). Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2010.
- Brooks, Xan (ngày 23 tháng 9 năm 2005). “Lennon too stoned to be a revolutionary”. The Guardian (UK). Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2010.
- Brown, Peter (1983). The Love You Make: An Insider’s Story of The Beatles. McGraw Hill. ISBN 0-07-008159-X.
- Browne, Jackson (ngày 12 tháng 11 năm 2008). “100 Greatest Singers of All Time”. Rolling Stone. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2010.
- Buchanan, Jason (2009). “Overview of Twenty to Life: The Life and Times of John Sinclair”. Allmovie. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2010.
- Calkin, Graham (2002). “Anthology”. Graham Calkin. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2010.
- Cohen, Claire (ngày 10 tháng 1 năm 2008). “Churchill? A troublemaker. Lennon? A useless clown. And as for that girl Thatcher…”. Daily Mail (UK). Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2010.
- Cohn, Jonathan (ngày 23 tháng 12 năm 2010 – ngày 6 tháng 1 năm 2011, Issue 1120/1121). “The Lost Lennon Tapes”. Rolling Stone. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp) - Cleave, Maureen (ngày 10 tháng 5 năm 2010). “The John Lennon I Knew”. The Daily Telegraph (London). Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|year= / |date= mismatch
(trợ giúp) - Coleman, Ray (1984). John Winston Lennon. Sidjwick & Jackson. ISBN 978-0-283-98942-1.
- Coleman, Ray (1984). John Ono Lennon: Volume 2 1967–1980. Sidgwick & Jackson. ISBN 978-0-283-99082-3.
- Coleman, Ray (1992). Lennon: The Definitive Biography. Harper. ISBN 0-06-098608-5.
- Deming, Mark (2008). “Overview of John Lennon: Live in New York City”. Allmovie. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2010.
- Doggett, Peter (2010). You Never Give Me Your Money: The Beatles After the Breakup. HarperCollins. ISBN 978-0-06-177446-1.
- Edmondson, Jacqueline (2010). John Lennon: A Biography. Greenwood Publishing Group. ISBN 978-0-313-37938-3.
- Emerick, Geoff; Massey, Howard (2006). Here, There and Everywhere: My Life Recording the Music of the Beatles. Penguin Books. ISBN 1-59240-179-1.
- Everett, Walter (1999). The Beatles as Musicians: Revolver through the Anthology. Oxford University Press. ISBN 978-0-19-512941-0.
- Everett, Walter (2001). The Beatles as Musicians: The Quarry Men through Rubber Soul. Oxford University Press. ISBN 0-19-514104-0.
- Fawcett, Anthony (1976). John Lennon: One Day at a Time. Evergreen. ISBN 978-0-394-17754-0.
- Frankel, Glenn (ngày 26 tháng 8 năm 2007). “Nowhere Man (p4)”. The Washington Post. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2010.
- Friedman, John S. (2005). The Secret Histories: Hidden Truths that Challenged the Past and Changed the World. Macmillan. ISBN 978-0-312-42517-3.
- Gerson, Ben (ngày 28 tháng 10 năm 1971). “Imagine”. Rolling Stone. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2010.
- Ginell, Richard S. (2009). “Milk and Honey Review”. Allmusic. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2010.
- Glenn, Alan (2009). “The Day a Beatle Came to Town”. The Ann Arbor Chronicle. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2010.
- Goldman, Albert Harry (2001). The Lives of John Lennon. Chicago Review Press. ISBN 978-1-55652-399-1.
- Goodman, Joan (tháng 12 năm 1984). “Playboy Interview with Paul and Linda McCartney”. Playboy.
- Gould, Jonathan (2008). Can’t Buy Me Love: The Beatles, Britain and America. Piatkus. ISBN 978-0-7499-2988-6.
- “Grammy Award Winners”. Grammy.com. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2010.
- Gregory, Chris (2007). Who Could Ask For More: Reclaiming The Beatles. The Plotted Plain Press. ISBN 978-0-9557512-0-2.
- Greenberg, Keith Elliot (2010). ngày 8 tháng 12 năm 1980: The Day John Lennon Died. Backbeat Books. ISBN 978-0-87930-963-3.
- Harry, Bill (8 tháng 12 năm 2015). The Beatles Encyclopedia: Revised and Updated. Virgin Publishing. ISBN 0-7535-0481-2.
- Harry, Bill (8 tháng 12 năm 2015). The John Lennon Encyclopedia. Virgin. ISBN 0-7535-0404-9.
- Harry, Bill (2009). “John Lennon and Blackpool”. Mersey Beat. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2010.
- Holsinger, M. Paul (1999). War and American popular culture: a historical encyclopedia, Volume 1998. Greenwood Publishing Group. ISBN 978-0-313-29908-7.
- Hoppa, Jocelyn (ngày 10 tháng 11 năm 2010). “Celluloid Heroes: John Lennon and How I Won the War”. Crawdaddy!. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
- Ingham, Chris (2006). The Rough Guide to The Beatles. Rough Guides. ISBN 978-1-84353-720-5.
- Kruse, Robert J. II (2009). “Geographies of John and Yoko’s 1969 Campaign for Peace: An Intersection of Celebrity, Space, Art,and Activism”. Trong Johansson, Ola, Bell, Thomas L., editors. Sound, Society and the Geography of Popular Music. Ashgate. tr. 11–32. ISBN 978-0-7546-7577-8.
- Landau, Jon (ngày 3 tháng 1 năm 1974). “Mind games”. Rolling Stone. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2010.
- Lawrence, Ken (2005). John Lennon: In His Own Words. Andrews McMeel Publishing. ISBN 978-0-7407-5477-7.
- Lawrence, Robb (2009). The Modern Era of the Les Paul Legacy: 1968–2008. Hal Leonard. ISBN 978-1-4234-5531-8.
- Lennon, Cynthia (1978). A Twist of Lennon. Avon. ISBN 978-0-380-45450-1.
- Lennon, Cynthia (2005). John. Crown Publishers. ISBN 978-0-307-33855-6.
- Lewisohn, Mark (1988). The Beatles Recording Sessions. Harmony Books. ISBN 0-517-57066-1.
- Logan, Nick (ngày 25 tháng 11 năm 1967). “Magical Mystery Tour”. NME (UK).
- Loker, Bradford E. (2009). History with the Beatles. Dog Ear Publishing. ISBN 978-1-60844-039-9.
- “Most Excellent Order of the British Empire”. London Gazette (supplement). Ngày 4 tháng 6 năm 1965. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2010.
- MacDonald, Ian (2005). Revolution in the Head: The Beatles’ Records and the Sixties. Pimlico. ISBN 1-84413-828-3.
- McGinty, Stephen (ngày 12 tháng 8 năm 2010). “Jimmy Reid: A working-class hero and the saviour of Clyde yards”. The Scotsman (UK). Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2010.
- Miles, Barry (1997). Paul McCartney: Many Years From Now. Henry Holt & Company. ISBN 0-8050-5248-8.
- Miles, Barry; Badman, Keith (2001). The Beatles Diary: The Beatles Years. Omnibus Press. ISBN 978-0-7119-8308-3.
- Norman, Philip (ngày 25 tháng 5 năm 1981). “A Talk with Yoko”. New York Magazine.
- Norman, Philip (2008). John Lennon: The Life. Ecco. ISBN 978-0-06-075401-3.
- Pang, May (2008). Instamatic Karma: Photographs of John Lennon. St. Martin’s Press. ISBN 978-0-312-37741-0.
- Peebles, Andy; Lennon, John; Ono, Yoko (1981). The Lennon tapes: John Lennon and Yoko Ono in conversation with Andy Peebles, ngày 6 tháng 12 năm 1980. British Broadcasting Corporation. ISBN 978-0-563-17944-3.
- Perone, James E. (2001). Songs of the Vietnam Conflict. Greenwood Publishing Group. ISBN 978-0-313-31528-2.
- Prown, Pete; Newquist, Harvey P. (1997). Legends of Rock Guitar: The Essential Reference of Rock’s Greatest Guitarists. Hal Leonard. ISBN 978-0-7935-4042-6.
- “RIAA: Searchable database”. RIAA. 2010. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2010.
- “RIAA Gold & Platinum Top Selling Artists”. RIAA. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2010.
- Roberts, David (2001). Guinness World Records: British Hit Singles (14th Edition). Guinness World Records Limited. ISBN 0-85156-156-X.
- Riley, Tim (2001). Tell me why: a Beatles commentary. Da Capo Press. ISBN 978-0-306-81120-3.
- “David Bowie”. Rock and Roll Hall of Fame. 1996. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2010.
- “The RS 500 Greatest Albums of All Time”. Rolling Stone. Ngày 18 tháng 11 năm 2003. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2010.
- “100 Greatest Artists of All Time”. Rolling Stone. Ngày 12 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2010.
- Seaman, Frederic (1991). The Last Days of John Lennon. Birch Lane Press. ISBN 1-55972-084-0.
- Ryan, David Stuart (1982). John Lennon’s Secret. Kozmik Press Centre. ISBN 978-0-905116-08-2.
- Schechter, Danny (1997). The More You Watch, the Less You Know: News Wars/Submerged Hopes/Media Adventures. Seven Stories Press. ISBN 1-888363-80-0.
- Schinder, Scott; Schwartz, Andy (2007). Icons of Rock: An Encyclopedia of the Legends Who Changed Music Forever. Greenwood Press. ISBN 978-0-313-33845-8.
- Sheff, David (tháng 1 năm 1981). “Interview with John Lennon and Yoko Ono”. Playboy. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2010.
- Sheff, David; Golson, G. Barry (editor) (1981). The Playboy Interviews with John Lennon and Yoko Ono. Playboy. ISBN 978-0-87223-705-6.
- Shennan, Paddy (ngày 26 tháng 11 năm 2007). “What will Liz think of these?”. The Liverpool Echo. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2010.
- Spitz, Bob (2005). The Beatles: The Biography. Little, Brown. ISBN 0-316-80352-9.
- “Other noises, Other notes”. TIME. Ngày 3 tháng 3 năm 1967. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2010.
- The Beatles (2000). The Beatles Anthology. Chronicle Books. ISBN 0-8118-2684-8.
- “Wins and Nominations by Artist: John Lennon”. The Brit Awards. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2010.
- “John Lennon”. The Rock and Roll Hall of Fame. 1994. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2010.
- “Celebrity Obituaries – Allen Klein”. The Telegraph. Ngày 5 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2010.
- “FBI Releases Last Pages From Lennon File”. The Washington Post. Ngày 20 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2010.
- Urish, Ben; Bielen, Kenneth G (2007). The Words and Music of John Lennon. Praeger. ISBN 978-0-275-99180-7.
- Vigilla, Hubert (ngày 29 tháng 8 năm 2005). “Album Review: John Lennon – Imagine”. Treble. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2010.
- Wald, Jonathan (ngày 6 tháng 10 năm 2004). “Lennon killer denied parole”. CNN. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2010.
- Warner Brothers. John Lennon: Imagine, Cynthia Lennon Interview (DVD). Warner Brothers. 1988.
- Wenner, Jann S (2000). Lennon Remembers. Verso. ISBN 1-85984-600-9.
- Wiener, Jon (1990). Come Together: John Lennon in His Time. University of Illinois Press. ISBN 978-0-252-06131-8.
- Wiener, Jon (1999). Gimme Some Truth: The John Lennon FBI Files. University of California Press. ISBN 0-520-22246-6.
- Wiener, Jon (ngày 19 tháng 12 năm 2006). “He didn’t have to do it. That’s one reason he’s still admired”. The Guardian (UK). Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2010.
- Tài liệu khác
- Kane, Larry (2007). Lennon Revealed. Running Press. ISBN 978-0-7624-2966-0
- Pang, May; Edwards, Henry (1983). Loving John: The Untold Story. Warner Books. ISBN 0-446-37916-6.
- Wiener, Jon. The John Lennon FBI Files
- Yorke, Richard (1969). “John Lennon: Ringo’s Right, We Can’t Tour Again”, New Musical Express, ngày 7 tháng 6 năm 1969, reproduced by Crawdaddy!, 2007.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về John Lennon |
- John Lennon tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll
- John Lennon trên MusicBrainz
- John Lennon trên Internet Movie Database
- John Lennon, tài liệu của BBC
- John Lennon, tài liệu của NPR
- John Lennon của EMI Group Limited
- Unveiling of ‘Peace & Harmony’, European Peace Monument – Dedicated to John Lennon
|
|
- John Lennon
- The Beatles
- Nhạc sĩ Anh
- Ca sĩ Vương quốc Liên hiệp Anh
- Người đoạt giải Grammy
- Người đoạt giải Grammy Thành tựu trọn đời
- Người bị ám sát
- Người được ghi danh tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll
- Sinh 1940
- Mất 1980
- Người Liverpool
- Phim và người giành Giải Oscar cho nhạc phim hay nhất
- Người được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng nhạc sĩ
- Ca sĩ nhạc rock
- Người đoạt giải BRIT
- Ca sĩ tự sáng tác người Anh
- Người đoạt giải Ivor Novello
- Nghệ sĩ của Polydor Records
- Nam diễn viên điện ảnh Anh
- Nghệ sĩ của Geffen Records
- Nghệ sĩ của Apple Records
- Nghệ sĩ của Capitol Records
Golda Meir
Golda Meir גולדה מאיר |
|
---|---|
![]() |
|
Chức vụ
|
|
Thủ tướng Israel thứ 4
|
|
Nhiệm kỳ | 17 tháng 3, 1969 – 3 tháng 6, 1974 |
Tiền nhiệm | Levi Eshkol |
Kế nhiệm | Yitzhak Rabin |
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Israel
|
|
Nhiệm kỳ | 18 tháng 6, 1956 – 12 tháng 1, 1966 |
Tiền nhiệm | Moshe Sharett |
Kế nhiệm | Abba Eban |
Thông tin chung
|
|
Đảng phái | Mapai, Alignment, Labor |
Sinh | 3 tháng 5, 1898 Kiev, Đế quốc Nga |
Mất | 8 tháng 12, 1978 (80 tuổi) Jerusalem, Israel |
Tôn giáo | đạo Do Thái |
Golda Meir[nb 1] (tên trước kia là Golda Meyerson, tên khi sinh Golda Mabovich, Голда Мабович; 3 tháng 5 năm 1898 –8 tháng 12 năm 1978) là một giáo viên, kibbutznik và chính trị gia người Israel, bà là Thủ tướng thứ tư của Israel.
Meir được bầu giữ chức Thủ tướng Israel ngày 17 tháng 3 năm 1969,[2] sau khi giữ chức Bộ trưởng Lao động và Bộ trưởng Ngoại giao. Bà là người phụ nữ đầu tiên của Israrel và người phụ nữ thứ ba trên thế giới giữ chức vụ này, bà được miêu tả là “Người đàn bà thép” trên chính trường Israel từ lâu trước khi tên hiệu này được gán cho Thủ tướng Anh Margaret Thatcher.[3] Cựu Thủ tướng David Ben-Gurion thường gọi Meir là “người giỏi nhất trong chính phủ “; bà thường được miêu tả là người có “ý chí mạnh mẽ, nói chuyện thẳng thắn, bà của người dân Do Thái”.
Năm 1974, sau cuộc chiến tranh Yom Kippur, Meir từ chức Thủ tướng. Bà mất năm 1978 vì bệnh bạch cầu.
Mục lục
- 1 Tuổi trẻ
- 2 Quay trở lại Milwaukee, làm người tuyên truyền chủ nghĩa phục quốc Do thái và giáo viên
- 3 Aliyah
- 4 Các hoạt động Histadrut
- 5 Vai trò chính trị trước khi thành lập nhà nước (Israel)
- 6 Vị trí bộ trưởng
- 7 Chức vụ Thủ tướng
- 8 Giải thưởng
- 9 Di sản
- 10 Các tác phẩm đã xuất bản
- 11 Xem thêm
- 12 Tham khảo
- 13 Ghi chú
- 14 Nguồn
- 15 Đọc thêm
- 16 Liên kết ngoài
Tuổi trẻ
Golda Mabovitch (tiếng Ukraina: Ґольда Мабович) sinh ngày 3 tháng 5 năm 1898, tại Kiev, Đế chế Nga, Ukraina ngày nay, là con của Blume Neiditch (mất năm 1951) và Moshe Mabovitch (mất năm 1944), một người thợ mộc. Meir viết trong tự truyện của mình rằng những ký ức đầu tiên của bà là việc cha mình đóng ván vào cửa trước khi có những tin đồn về một vụ pogrom (tàn sát người Do Thái) sắp xảy a. Bà có hai chị em gái, Sheyna và Tzipke, cùng năm người anh em khác mất khi còn nhỏ. Bà đặc biệt gần gũi với Sheyna.
Moshe Mabovitch đi tới thành phố New York tìm việc năm 1903.[4] Khi ông vắng nhà, cả nhà rời tới Pinsk sống cùng gia đình bên ngoại. Năm 1905, Moshe đi tới Milwaukee, Wisconsin, tìm kiếm việc làm lương cao hơn và có được việc làm tại một xưởng thuộc nhà máy xe lửa địa phương. Năm sau đó, ông đã để dành đủ tiền để đưa gia đình sang Mỹ.
Blume điều hành một cửa hàng tạp phẩm ở phía bắc Milwaukee, nơi năm lên tám tuổi Golda đã được giao trách nhiệm trông nom cửa hàng khi mẹ đi chợ mua đồ. Golda theo học Fourth Street Grade School (hiện là Golda Meir School) từ năm 1906 tới năm 1912. Ngay khi còn trẻ đã có tinh thần một người chỉ huy, bà đã tổ chức một cuộc gây quỹ để lấy tiền mua sách cho các bạn học. Sau khi thành lập American Young Sisters Society, bà đã thuê một ngôi nhà và tổ chức những cuộc gặp mặt thường xuyên cho hội. Bà tiếp tục được cử làm người đại diện đọc diễn văn trong buổi lễ tốt nghiệp của lớp, dù khi mới vào học bà chưa biết tiếng Anh.
Năm 14 tuổi, bà theo học tại North Division High School và làm việc bán thời gian. Mẹ bà muốn bà rời trường học và lập gia đình, nhưng bà phản đối. Bà mua một vé tàu tới Denver, Colorado, và tới sống với người chị/em đã lập gia đình của mình, Sheyna Korngold. Hai vợ chồng Korngold thường tổ chức những cuộc gặp mặt giữa những người trí thức tại gia đình mình, tại đây Meir đã tham gia tranh luận về chủ nghĩa phục quốc Do thái, văn học, quyền bầu cử của phụ nữ, hệ thống công đoàn, và các vấn đề khác. Trong tiểu sử của mình, bà viết: “Tới mức độ những niềm tin tương lai của tôi đã được định hình […] những cuộc nói chuyện cả đêm đó tại Denver đã đóng một vai trò to lớn.” Tại Denver, bà cũng gặp Morris Meyerson (17 tháng 12 năm 1893 –25 tháng 5 năm 1951), một người vẽ biển quảng cáo, người sẽ trở thành chồng bà ngày 24 tháng 12 năm 1917.[5]
Quay trở lại Milwaukee, làm người tuyên truyền chủ nghĩa phục quốc Do thái và giáo viên
Năm 1913, bà quay trở lại North Division High, tốt nghiệp năm 1915. Trong thời gian ở đó, bà trở thành một thành viên tích cực của Young Poale Zion, sau này trở thành Habonim, phong trào thanh niên Labor Zionist. Bà phát biểu trước những cuộc mít tinh, đi theo Socialist Zionism và tiếp đón những vị khách từ Palestine.
Bà theo học trường cao đẳng sư phạm Milwaukee State Normal School (hiện là University of Wisconsin–Milwaukee), năm 1916, và có lẽ hoàn thành năm 1917. Sau khi tốt nghiệp Milwaukee Normal, bà dạy học tại các trường công ở Milwaukee.
Năm 1917, bà nhận một vị trí tại một Yiddish-speaking Folks Schule ở Milwaukee. Khi ở Folks Schule, bà ngày càng tiếp xúc nhiều với các tư tưởng của Labor Zionism. Năm 1913, bà bắt đầu hẹn hò với Morris Meyerson. Bà là một thành viên nhiệt tình của Labor Zionist còn ông là người theo chủ nghĩa xã hội. Họ đã cùng bỏ việc và tham gia một kibbutz tại Palestine năm 1921.
Khi Golda và Morris cưới năm 1917, việc định cư tại Palestine là điều kiện tiên quyết của bà để đám cưới được diễn ra.[6] Golda đã có ý định lập tức thực hiện một cuộc aliyah (di cư người Do thái về Israel) nhưng các kế hoạch của bà không thành công bởi tất cả các dịch vụ vận chuyển hành khách xuyên Đại Tây Dương khi ấy đều bị hủy bỏ vì Chiến tranh thế giới thứ nhất. Thay vào đó bà đã tập trung sức lực vào những hoạt động Poale Zion.[7] Một thời gian ngắn sau đám cưới, bà tham gia vào một chiến dịch gây quỹ cho Poale Zion khiến bà phải đi khắp nước Mỹ.[6] hai người cùng Sheyna chuyển tới Palestine năm 1921.
Aliyah
Tại Palestin ủy trị Anh, Meir và Meyerson gia nhập một kibbutz. Việc xin gia nhập kibbutz Merhavia tại thung lũng Jezreel ban đầu bị từ chối, nhưng cuối cùng đã được chấp nhận. Những nhiệm vụ của bà gồm nhặt gom quả hạnh, trồng cây, chăm sóc chuồng gà và làm việc trong nhà bếp. Nhận thấy những khả năng lãnh đạo của bà, kibbutz đã chọn bà làm đại diện của mình tại Histadrut, Tổng liên hiệp Lao động.
Năm 1924, bà cùng chồng rời kibbutz và sống một thời gian ngắn tại Tel Aviv trước khi định cư tại Jerusalem. Họ có hai con, một con trai là Menachem (sinh năm 1924) và một con gái là Sarah (sinh năm 1926).
Năm 1928, bà được bầu làm thư ký Moetzet HaPoalot (Ủy ban Phụ nữ Lao động), khiến bà phải sống hai năm (1932–34) với tư cách phái viên tại Hoa Kỳ.[8] Các con đi theo bà, nhưng Morris ở lại Jerusalem. Morris và Golda dần xa nhau, nhưng không bao giờ ly hôn.[6] Morris mất năm 1951.
Các hoạt động Histadrut
Năm 1934, khi Meir từ Mỹ trở về, bà tham gia Hội đồng Hành pháp của Histadrut và dần lên chức trước khi trở thành lãnh đạo Phái chính trị của nó. Việc chỉ định này là sự huấn luyện quan trọng cho vai trò lãnh đạo Israel của bà trong tương lai.[9]
Tháng 7 năm 1938, Meir là quan sát viên người Do thái từ Palestine tại Hội nghị Évian, được Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt kêu gọi triệu tập để thảo luận vấn đề người tị nạn Do thái phải bỏ chạy do sự khủng bố của Phát xít. Các đại biểu từ 32 nước được mời đã nhiều lần thể hiện sự thương cảm của họ với hoàn cảnh của người Do thái ở châu Âu, nhưng cũng xin lỗi về việc nước mình không thể giúp đỡ bằng cách chấp nhận những người đó. Ngoại lệ duy nhất là Cộng hòa Dominica, nước hứa chấp nhận 100,000 người tị nạn với những điều khoản rộng rãi.[10] Meir cảm thấy thất vọng vì kết quả và đã nói với báo chí, “Điều duy nhất tôi hy vọng được thấy trước khi chết và đó là việc dân tộc tôi sẽ không còn phải khẩn cầu sự thông cảm một lần nào nữa.”[5]
Vai trò chính trị trước khi thành lập nhà nước (Israel)
Tháng 6 năm 1946, trừng trị phong trào phục quốc Do thái tại Palestine, bắt giữ nhiều lãnh đạo của Yishuv. Meir nắm chức vụ quyền lãnh đạo Phái chính trị của Cơ quan Do thái khi Moshe Sharett bị bắt giam. Vì thế bà dần trở thành người đàm phán chính giữa người Do thái tại Palestine và chính quyền ủy trị Anh. Sau khi được thả, Sharett sang Hoa Kỳ để tham gia các cuộc đàm phán về Kế hoạch phân chia của Liên hiệp quốc, để Meir lãnh đạo Phái chính trị cho tới khi nhà nước được thành lập năm 1948.[9]
Tháng 1 năm 1948, người nắm ngân quỹ của Cơ quan Do thái tin rằng Israel không có khả năng gây quỹ nhiều hơn 7-8 triệu dollar từ cộng đồng Do thái Mỹ.[6] Meir đi sang Mỹ và tìm cách gây quỹ $50 dùng vào việc mua vũ khí tại châu Âu cho nhà nước non trẻ.[6] Ben-Gurion đã viết rằng vai trò của Meir là “người phụ nữ Do thái kiếm được tiền khiến việc thành lập nhà nước trở thành hiện thực ” sau này sẽ được ghi vào sử sách.[6]
Ngày 10 tháng 5 năm 1948, bốn ngày sau khi nhà nước (Israel) chính thức được thành lập, Meir tới Amman cải trang là một phụ nữ Ả rập cho một cuộc gặp bí mật với Vua Abdullah của Transjordan tại đây bà đã hối thúc nhà vua không tham gia cùng các quốc gia Ả rập tấn công người Do thái. Abdullah yêu cầu bà đừng vội vàng tuyên bố việc thành lập nhà nước. Meir trả lời: “Chúng tôi đã chờ đợi trong 2,000 năm. Thế có vội không?”[11]
Với tư cách lãnh đạo Phái chính trị của Cơ quan Do thái, Meir đã gọi cuộc di cư hàng loạt của người Ả rập trước cuộc Chiến tranh độc lập năm 1948 là “kinh sợ” và coi nó giống với điều đã xảy ra với người Do thái châu Âu tại những vùng bị Phát xít chiếm đóng.[12]
Vị trí bộ trưởng
Meir là một trong 24 người (hai trong số đó là phụ nữ) ký vào Tuyên ngôn độc lập của Israel ngày 14 tháng 5 năm 1948. Sau này bà nhớ lại, “Sau khi ký, tôi đã khóc. Khi còn đi học tôi học lịch sử Mỹ và tôi đã đọc về những người đã ký vào Tuyên ngôn độc lập, tôi không thể tưởng tượng rằng đó là những con người thực sự và họ đã làm một việc thực sự. Và tôi đã ngồi đó và ký vào một bản tuyên ngôn thành lập (nhà nước).” Ngày hôm sau Israel bị liên quân Ai Cập, Syria, Liban, Transjordan, và Iraq, cùng các lực lượng viễn chinh từ các quốc gia Ả rập khác và các phong trào du kích Ả rập tấn công trong cuộc chiến tranh Ả rập – Israel năm 1948. Trong cuộc chiến này, Israel đã chặn được đà tiến của liên quân Ả rập, sau đó tung ra một loạt cuộc tấn công quân sự và mở rộng khu vực lãnh thổ chiếm đóng.
Đại sứ toàn quyền tại Moscow
Mang theo hộ chiếu đầu tiên do Israel phát hành,[13][14] Meir được chỉ định làm đại sứ toàn quyền tại Liên bang Xô viết, với nhiệm kỳ bắt đầu ngày 2 tháng 9 năm 1948 và kết thúc vào tháng 3 năm 1949.[15] Ở thời điểm đó, mối quan hệ tốt với Liên bang Xô viết là điều quan trọng để Israel có thể mua vũ khí từ các quốc gia Đông Âu cho cuộc chiến tranh diễn ra ngay sau khi tuyên bố độc lập, trong khi Joseph Stalin và Bộ trưởng ngoại giao Liên xô Vyacheslav Molotov tìm cách xây dựng một mối quan hệ vững chắc với Israel để gia tăng vị thế của Liên xô tại Trung Đông.[16] Quan hệ Liên xô–Israel khá phức tạp vì các chính sách của nước này chống lại các định chế tôn giáo và các phong trào quốc gia, thể hiện ở những hành động đóng cửa các cơ sở Do thái giáo cũng như cấm việc dạy ngôn ngữ Hebrew và việc cấm di cư tới Israel.[17]
Trong thời gian ngắn ngủi làm việc ở Liên xô, Meir đã tham gia các hoạt động Rosh Hashanah và Yom Kippur tại Moscow Choral Synagogue,[15] nơi bà được đám đông hàng nghìn người Do thái Nga thét vang tên. Tờ tiền giấy 10,000 shekel được phát hành tháng 11 năm 1984 có chân dung Meir ở một mặt và hình đám đông đang reo hò cổ vũ bà tại Moscow ở mặt kia.[18]
Bộ trưởng Lao động
Năm 1949, Meir được bầu vào Knesset với tư cách thành viên của Mapai và phục vụ liên tục cho tới năm 1974. Từ năm 1949 đến năm 1956, bà giữ chức Bộ trưởng Lao động. Trong khi giữ chức vụ này, Meir đã tiến hành nhiều chính sách an sinh quốc gia, tổ chức hội nhập cho những người nhập cư tham giao vào lực lượng lao động Israel,[19] và đưa ra những chính sách xây dựng nhà ở và đường xá lớn.[20] Năm 1955, theo sự chỉ đạo của Ben-Gurion, bà tham gia tranh cử chức thị trưởng Tel Aviv. Bà thua với hai phiếu của khối tôn giáo, những người từ chối ủng hộ vì bà là một phụ nữ.[21]
Bộ trưởng ngoại giao
Năm 1956, bà trở thành Bộ trưởng Ngoại giao dưới quyền Thủ tướng David Ben-Gurion. Người tiền nhiệm bà, Moshe Sharett, đã yêu cầu mọi thành viên trong cơ quan ngoại giao Hebre hóa họ của mình. Ngay khi được chỉ định giữ chức Bộ trưởng ngoại giao, bà đã rút gọn tên “Meyerson” thành “Meir”, có nghĩa là “chiếu sáng”. Với cương vị bộ trưởng ngoại giao, Meir đã thúc đẩy các quan hệ với các quốc gia mới thành lập tại châu Phi trong nỗ lực tìm kiếm đồng minh trong cộng đồng quốc tế.[20] Nhưng bà cũng tin rằng Israel đã có kinh nghiệm trong việc xây dựng quốc gia để trở thành một hình mẫu cho châu Phi. Trong cuốn tự truyện của mình, bà viết: “Giống như họ, chúng ta đã giũ sạch sự cai trị từ bên ngoài; giống như họ, chúng ta đã tự học cách đòi lại đất đai, cách gia tăng sản lượng mùa màng, cách làm thủy lợi, cách nuôi gia cầm, cách cùng chung sống, và cách tự bảo vệ mình.” Israel có thể là một hình mẫu bởi nó “đã bị buộc phải tìm các giải pháp cho những vấn đề mà các quốc gia giàu có, hùng mạnh chưa bao giờ gặp phải”.[22]
Ngày 29 tháng 10 năm 1957, bà bị thương nhẹ ở chân khi một quả bom Mills được ném vào phòng họp của Knesset. David Ben-Gurion và Moshe Carmel bị thương nặng. Vụ tấn công do Moshe Dwek 25 tuổi thực hiện. Sinh ra tại Aleppo, những động cơ của anh ta được cho là do một sự tranh chấp với Cơ quan Do thái, dù anh ta cũng bị miêu tả là một người ‘đầu óc không bình thường’.[23]
Năm 1958, bà được ghi lại là đã ca tụng tác phẩm của Giáo hoàng Pius XII thay mặt cho người Do thái chỉ một thời gian ngắn sau cái chết của Giáo hoàng. Di sản của Giáo hoàng Pius với tư cách một Giáo hoàng trong thời chiến vẫn còn gây tranh cãi tới tận ngày nay.[24]
Cùng năm đó, trong làn sóng di cư tới Israel của người Do thái Ba Lan, Meir đã tìm cách ngăn cản những người Do thái Ba Lan tàn tật và ốm yếu nhập cư vào Israel. Trong một bức thư gửi tới đại sứ Israel tại Warsaw, Katriel Katz, bà đã viết: “Một đề xuất đã được đưa ra tại ủy ban phối hợp để thông báo với chính phủ Ba Lan rằng chúng ta muốn có sự lựa chọn trong aliyah, bởi chúng ta không thể tiếp tục chấp nhận những người ốm yếu và người tàn tật. Xin hãy đưa ý kiến của ông về việc liệu điều này có thể được giải thích cho người Ba Lan mà không gây phương hại tới cuộc di cư.”[25]
Đầu thập niên 1960, Meir được chẩn đoán bệnh máu trắng. Tháng 1 năm 1966, bà rời chức Bộ trưởng ngoại giao, với lý do mệt mỏi và sức khỏe, nhưng nhanh chóng quay trở lại đời sống chính trị với chức tổng thư ký Mapai, ủng hộ Thủ tướng Levi Eshkol trong những cuộc xung đột nội bộ đảng.[20]
Chức vụ Thủ tướng
Sau cái chết bất ngờ của Levi Eshkol ngày 26 tháng 2 năm 1969, đảng bầu Meir làm người kế nhiệm ông.[26] Meir quay lại làm việc và nhậm chức ngày 17 tháng 3 năm 1969, giữ chức thủ tướng cho tới năm 1974. Meir duy trì chính phủ liên minh được thành lập năm 1967, sau cuộc chiến tranh sáu ngày, trong đó Mapai liên minh với hai đảng khác (Rafi và Ahdut HaAvoda) để hình thành đảng Lao động Israel.[20]
Năm 1969 và đầu thập niên 1970, Meir đã gặp gỡ với nhiều nhà lãnh đạo thế giới để quảng bá tầm nhìn của bà về một nền hòa bình ở Trung Đông, gồm cả Richard Nixon (1969), Nicolae Ceaușescu (1972) và Giáo hoàng Paul VI (1973). Năm 1973, bà đón tiếp thủ tướng Tây Đức, Willy Brandt, tại Israel.[20]
Tháng 8 năm 1970, Meir chấp nhận một sáng kiến hòa bình của Mỹ kêu gọi chấm dứt cuộc chiến tranh tiêu hao và một sự cam kết của Israeli rút quân đội nhằm “đảm bảo và công nhận các đường biên giới ” trong khuôn khổ một sự dàn xếp hòa bình tổng thể. Đảng Gahal rời khỏi chính phủ thống nhất để phản đối, nhưng Meir tiếp tục lãnh đạo liên minh còn lại.[27]
Olympics Munich
Sau vụ thảm sát Munich tại Olympics mùa hè năm 1972, Meir kêu gọi thế giới “cứu các công dân của chúng tôi và lên án những hành động tội ác không thể tả nổi “.[28] Cảm thấy bị tổn thương vì ít có những phản ứng của thế giới, bà đã ra lệnh cho Mossad săn đuổi và ám sát những lãnh đạo và thành viên của Tháng 9 Đen và PFLP.[29] Bộ phim truyền hình Sword of Gideon năm 1986, dựa trên cuốn sách Vengeance: The True Story of an Israeli Counter-Terrorist Team của George Jonas, và bộ phim Munich (2005) của Steven Spielberg cũng dựa trên sự kiện này.
Tranh cãi với Áo
Trong thập niên 1970khoảng 200,000 người Do Thái-Liên xô di cư đã được cho phép rời Liên bang Xô viết tới Israel qua nước Áo. Khi bảy người di cư trong số này bị bắt làm con tin tại biên giới Áo-Tiệp Khắc bởi các chiến binh Ả rập Palestine vào tháng 9 năm 1973, Thủ tướng Áo Bruno Kreisky đã đóng cửa cơ sở quá cảnh Do thái tại Schönau, Hạ Áo. Vài ngày sau tại Vienna, Meir đã tìm cách thuyết phục Kreisky mở cửa lại cơ sở đó bằng cách viện dẫn tới chính nguồn gốc Do thái của ông, và đã miêu tả lập trường của ông như là “chịu thua cuộc trước sự đe dọa của khủng bố”. Kreisky không thay đổi lập trường, vì thế Meir phải bực tức quay trở lại Israel.[30] Vài tháng sau Áo mở cửa một trại quá cảnh mới.[31]
Chiến tranh Yom Kippur
Trong những ngày trước cuộc chiến tranh Yom Kippur, tình báo Israel đã không xác định rõ được việc sắp xảy ra một cuộc tấn công. Tuy nhiên, ngày 5 tháng 10 năm 1973, Meir đã nhận được thông tin chính thức rằng các lực lượng Syria đang tràn vào Cao nguyên Golan. Bà thủ tướng đã được cảnh báo bởi các báo cáo, và cảm thấy rằng tình hình khiến bà nhớ lại những điều đã xảy ra trước cuộc chiến tranh sáu ngày. Tuy nhiên, các cố vấn của bà thuyết phục bà không nên lo ngại, nói rằng họ sẽ được thông báo đầy đủ trước khi cuộc chiến nổ ra. Điều này là bình thường khi ấy, bởi sau cuộc chiến tranh sáu ngày, hầu hết người Israel cảm thấy rằng người Ả rập sẽ không dám tấn công trước. Vì thế, dù đã có một nghị quyết được thông qua trao cho bà quyền yêu cầu ra lệnh tổng động viên quân đội (thay vì một nghị quyết của chính phủ như bình thường), Meir đã không sớm huy động các lực lượng Israel. Ngay sau đó, dù cuộc chiến đã trở nên rất rõ ràng. Sáu giờ trước khi những hành động thù địch diễn ra, Meir đã gặp Bộ trưởng quốc phòng Moshe Dayan và tướng David Elazar. Trong khi Dayan tiếp tục cho rằng cuộc chiến sẽ không diễn ra và vì thế chỉ cần động viên không quân và hai sư đoàn, Elazar ủng hộ tổng động viên quân đội và tung ra những cuộc tấn công tổng lực trước vào phía các lực lượng Syria.[32]
Meir đồng ý việc tổng động viên nhưng đứng về phía Dayan về lập trường với một cuộc tấn công phủ đầu, nêu lý do Israel cần viện trợ nước ngoài Bà tin rằng Isral không thể phụ thuộc vào các quốc gia châu Âu để có những thiết bị quân sự, và nước duy nhất có thể hỗ trợ Israel là Hoa Kỳ. Sợ rằng Mỹ có thể thận trọng trong việc can thiệp nếu Israel bị coi là bên gây ra những hành động thù địch, Meir quyết định phản đối cuộc tấn công phủ đầu. Bà đã lập tức thông báo tới Washington về quyết định của mình. Ngoại trưởng Mỹ khi ấy là Henry Kissinger sau này đã xác nhận đánh giá của Meir bằng cách phát biểu rằng nếu Israel đã tung ra một cuộc tấn công phủ đầu thì họ chẳng thể nhận được gì “nhiều hơn một cái móng tay”.[33]
Từ chức
Sau cuộc chiến tranh Yom Kippur, chính phủ của Meir bị đặt câu hỏi về sự thiếu chuẩn bị cho cuộc chiến. Ủy ban Agranat được chỉ định để điều tra cuộc chiến đã bác bỏ “trách nhiệm trực tiếp” của bà, và những hành động liên quan trong buổi sáng ngày diễn ra cuộc chiến tranh Yom Kippur;
“ | Bà đã hành động một cách khôn ngoan, với sự tỉnh táo và nhanh chóng, ủng hộ việc tổng động viên các nguồn lực, như được tổng tham mưu trưởng đề xuất, dù có những vấn đề chính trị khó khăn phải cân nhắc, vì thế đã thực hiện được phần công việc khó khăn nhất để bảo vệ đất nước.[33] | ” |
Đảng của bà giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tháng 12 năm 1973, nhưng bà từ chức ngày 11 tháng 4 năm 1974, với lý do bà cảm thấy đó là “nguyện vọng của nhân dân” và thời gian giữ chức thủ tướng đã đủ cũng như những áp lực sẽ đến khi phải thành lập một liên minh; “Năm năm là đủ rồi…. Nó đã vượt quá sức lực của tôi để tiếp tục mang gánh nặng này.”[33][34] Yitzhak Rabin succeeded her on ngày 3 tháng 6 năm 1974.
Năm 1975, bà xuất bản cuốn tự truyện của mình, My Life.[33][35]
Theo tác giả Victor John Ostrovsky bà đã có một mối quan hệ từ lâu với bộ trưởng không bộ Yisrael Galili.[36]
Cái chết
Ngày 8 tháng 12 năm 1978, Meir chết vì ung thư bạch cầu tại Jerusalem ở tuổi 80. Bốn ngày sau, ngày 12 tháng 12, Meir được chôn cất tại Núi Herzl ở Jerusalem.[37]
Giải thưởng
Năm 1975, Meir được trao Israel Prize vì sự cống hiến đặc biệt của bà cho xã hội và nhà nước Israel.[33][38] Năm 1974, Meir được vinh danh World Mother bởi tổ chức American Mothers.[39] Năm 1974 Meir được trao James Madison Award for Distinguished Public Service bởi American Whig–Cliosophic Society thuộc đại học Princeton.[40]
Di sản
Thể hiện trong phim ảnh và nghệ thuật
Câu chuyện về Meir đã trở thành chủ đề cho nhiều tác phẩm hư cấu. Năm 1977, Anne Bancroft đóng vai Meir trong vở kịch Golda của William Gibson trên sân khấu Broadway. Nữ diễn viên Australia Judy Davis đóng vai Meir thời trẻ trong bộ phim truyền hình A Woman Called Golda (1982), cùng với Leonard Nimoy. Ingrid Bergman đóng vai Golda khi đã có tuổi cùng trong bộ phim đó. Năm 2003, nữ diễn viên người Do thái Mỹ Tovah Feldshuh đóng vai bà trên sân khấu kịch Broadway trong vở Golda’s Balcony, vở kịch thứ hai của Gibson về cuộc đời của Meir. Vở kịch gây tranh cãi trong hàm ý của nó rằng Meir đã cân nhắc sử dụng vũ khí hạt nhân trong chiến tranh Yom Kippur.
Valerie Harper thể hiện bà trong phiên bản phim của Golda’s Balcony.[41] Nữ diễn viên phụ Colleen Dewhurst đóng vai bà trong bộ phim truyền hình năm 1986 Sword of Gideon.[42] Năm 2005, nữ diễn viên Lynn Cohen đóng vai Meir trong bộ phim của Steven Spielberg Munich. Sau đó, Tovah Feldshuh một lần nữa đóng vai bà trong bộ phim Pháp sử dụng tiếng Anh O Jerusalem năm 2003. Nữ diễn viên Ba Lan Beata Fudalej đóng vai bà trong bộ phim năm 2009 The Hope của Márta Mészáros.[43]
Tưởng niệm
- Trường Golda Meir, Milwaukee, Wisconsin[44]
- Thư viện Golda Meir, Đại học Wisconsin–Milwaukee, Wisconsin
- Đại lộ Golda Meir, Jerusalem, Israel (và nhiều phố khác cùng các khu vực và trường học tại Israel)
- Trung tâm Trình diễn Nghệ thuật Golda Meir, Tel Aviv
- Quảng trường Golda Meir, thành phố New York [45]
- Trung tâm Lãnh đạo Chính trị Golda Meir tại Metropolitan State University of Denver[46]
- Golda Meir House, Denver, Colorado[5][47]
- Golda Meir House, Newton, Massachusetts
-
Goldameyer.jpg
Tấm bảng tưởng niệm tại Kiev
-
Quảng trường Golda Meir tại New York City phía nam Quảng trường Thời đại
Trong văn hóa
Tại Israel, thuật ngữ “giày của Golda” (na’alei Golda), một sự ám chỉ tới kiểu giày chỉnh hình cứng cáp mà bà yêu thích, đã trở thành cách nói trại cho tất cả những thứ cổ lỗ và xấu xí.[48]
Thăm dò ý kiến
Năm 2005, bà được bầu là người Israel vĩ đại thứ 75 trong mọi thời đại, trong một cuộc thăm dò ý kiến bởi trang tin Ynet của Israel nhằm xác định ai là người được dân chúng coi là thuộc 200 người Israel vĩ đại nhất.[49]
Các tác phẩm đã xuất bản
- This is Our Strength (1962) – tuyển chọn các ghi chép của Golda Meir
- My Father’s House (1972)
- My Life (1975). Putnam, ISBN 0-399-11669-9.
Xem thêm
Tham khảo
- ^ “Golda Meir Center (Reference on name pronunciation)”. Mscd.edu. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2011.
- ^ Golda Meir becomes Israeli Prime Minister, History Today]
- ^ Golda Meir, a BBC News profile.
- ^ “Golda Meir’s American Roots”. Ajhs.org. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2011.
- ^ a ă â Golda Meir: An Outline Of A Life Metropolitan State College of Denver
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênHA
- ^ Elinor Burkett Golda Meir; The Iron Lady of the Middle East, Gibson Square, ISBN 978-1-906142-13-1 p. 37.
- ^ Golda Meir, Encyclopedia of Zionism and Israel, ed. Raphael Patai, New York, 1971, vol.II, pp. 776–77
- ^ a ă “Golda Meir”, Encyclopedia Judaica, Keter, 1972, Jerusalem, vol. 11, pp. 1242–45
- ^ “MJHnyc.org” (PDF). Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2011.
- ^ “Golda Meir: Peace and Arab Acceptance Were Goals of Her 5 Years as Premier”. The New York Times. Ngày 9 tháng 12 năm 1978.
- ^ Margolick, David. “Endless War” The New York Times, ngày 4 tháng 5 năm 2008
- ^ “Golda”. The Emery/Weiner School. Bản gốc lưu trữ tháng 7 năm 2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|archivedate=
(trợ giúp) - ^ Pine, Dan. “Golda Meir’s life was devoted to building Zionism”. San Francisco Jewish Community Publications. Bản gốc lưu trữ tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2005. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|archivedate=
(trợ giúp) - ^ a ă Yossi Goldstein, “Doomed to Fail: Golda Meir’s Mission to Moscow (Part 1)”, The Israel Journal of Foreign Affairs Vol. 5 No. 3 (September 2011), p. 131
- ^ Yossi Goldstein, “Doomed to Fail: Golda Meir’s Mission to Moscow (Part 1)”, The Israel Journal of Foreign Affairs Vol. 5 No. 3 (September 2011), p. 134 and 137
- ^ Yossi Goldstein, “Doomed to Fail: Golda Meir’s Mission to Moscow (Part 1)”, The Israel Journal of Foreign Affairs Vol. 5 No. 3 (September 2011), p. 138
- ^ Call Uncle Sam News Behind the News, ngày 10 tháng 6 năm 2001
- ^ http://www.morim-madrichim.org/en/GetFile/r/3703/biographiesrosamadpdf?firstreq=1
- ^ a ă â b c “Golda Meir”, Encyclopædia Britannica, Micropædia, 1974, 15th edition, p. 762
- ^ My Life. p. 232. She ‘wasn’t very pleased’ with B.G. and was ‘enraged’ by the religious bloc.
- ^ Golda Meir, My Life, (NY: Dell Publishing Co., 1975), pp. 308–09
- ^ Robert William St. John, Ben Gurion. Jarrods Publishers (Hutchinson Group), London. 1959. pp. 304–306.
- ^ “Jewish gratitude for the Help of Pope Pius XII who helped them against the perverse regime of the Nazis”. Catholicapologetics.info. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2011.
- ^ “Golda Meir wanted to keep sick Poles from making aliyah”. Jewish Telegraphic Agency. Ngày 9 tháng 12 năm 2009.
- ^ 1969: Israel elects first female leader BBC News
- ^ “Golda Meir” Encyclopedia Judaica, Keter, Jerusalem, 1972, pp. 1242–44.
- ^ Hostages killed in gun battle Daily Telegraph, ngày 5 tháng 9 năm 1972
- ^ Morris, B. (30 tháng 11 năm 1999). Righteous Victims: A History of the Zionist–Arab conflict, 1881–2000. New York: Vintage Books. ISBN 0-679-74475-4.
- ^ Avner, Yehuda (2010). The Prime Ministers: An Intimate Narrative of Israeli Leadership. The Toby Press. tr. 219. ISBN 978-1-59264-278-6.
- ^ “(German)”. Historisch.apa.at. Ngày 28 tháng 9 năm 1973. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2011.
- ^ Interview with Abraham Rabinovich: The Yom Kippur War as a Turning Point History News Network]
- ^ a ă â b c Meir, Golda (1975). My Life. G. P. Putnam’s Sons.
- ^ Biography of Golda Meir Zionism and Israel
- ^ Golda Meir Virtual Jerusalem
- ^ Ostrovsky, Victor and Hoy, Claire (1990) By Way of Deception – The making and unmaking of a Mossad Officer ISBN 0-312-05613-3. p. 190.
- ^ Golda Meir tại Find a Grave
- ^ “Israel Prize Official Site – Recipients in 1975 (in Hebrew)”.
- ^ “Past National Mothers of The Year”.
- ^ “UN Secretariat Item: Letter – The American Whig-Cliosophic Society: James Madison Award for Distinguished Public Service – 1974 – Golda Meir” (PDF). Archives-trim.un.org. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2012.
- ^ IMDb.com
- ^ IMDb.com
- ^ Mészáros wraps production on historical drama The Hope Screen Daily. ngày 26 tháng 2 năm 2009
- ^ Fourth Street School Wisconsin Historical Society
- ^ By wallyg Wally Gobetz+ Add Contact. “Golda Meir Square”. Flickr.com. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2011.
- ^ “Golda Meir Center”. Mscd.edu. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2011.
- ^ Golda Meir House U.S. Library of Congress
- ^ Haaretz.com[liên kết hỏng]
- ^ גיא בניוביץ’ (ngày 20 tháng 6 năm 1995). “הישראלי מספר 1: יצחק רבין – תרבות ובידור”. Ynet. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2011.
Ghi chú
- ^ tiếng Hebrew: גּוֹלְדָּה מֵאִיר [ɡolˈda] hay [ˈɡolda] [meˈʔiʁ];[1] tiếng Ả Rập: جولدا مائير Gulda Ma’air
Nguồn
- Avner, Yehuda (2010). The Prime Ministers: An Intimate Narrative of Israeli Leadership. The Toby Press. ISBN 978-1-59264-278-6.
- Burkett, Elinor (2008). Golda Meir: The Iron Lady of the Middle East. Gibson Square. ISBN 978-1-906142-13-1.
Đọc thêm
- Agres, Elijahu (1969). Golda Meir: Portrait of a Prime Minister. Sabra Books. ISBN 0-87631-020-X.
- Fallaci, Oriana (1976). Interview With History. Houghton Mifflin. ISBN 0-395-25223-7.
- Martin, Ralph G. (1988). Golda Meir: The Romantic Years. Ivy Books. ISBN 0-8041-0536-7.
- Meir, Menahem (1983). My Mother Golda Meir: A Son’s Evocation of Life With Golda Meir. Arbor House Publishing Company. ISBN 0-87795-415-1.
- Syrkin, Marie (1969). Golda Meir: Israel’s Leader. Putnam.
- Syrkin, Marie (1963). Golda Meir: Woman with a Cause.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Golda Meir |
- Prime Minister Golda Meir – Israeli Prime Minister’s Office.
- Knesset Member, Golda Meir – Knesset profile.
- Israeli Ministry of Foreign Affairs.
- Jewish Agency For Israel.
- Women’s International Center.
- Picturing Golda Meir – Photographs from the Collection at the UWM Libraries.
- Phim ngắn này Golda Meir Interview (Reel 1 of 2) (1973) có thể được tải về từ Internet Archive
- Phim ngắn này Golda Meir Interview (Reel 2 of 2) (1973) có thể được tải về từ Internet Archive
Chức vụ | ||
---|---|---|
Tiền vị: Yigal Allon Quyền |
Thủ tướng Israel | Kế vị Yitzhak Rabin |
Chức vụ Đảng | ||
Tiền vị: Yigal Allon Quyền |
Lãnh đạo Đảng Liên kết | Kế vị Yitzhak Rabin |
|
Bản mẫu:Ngoại trưởng Israel Bản mẫu:Bộ trưởng Nội vụ Israel Bản mẫu:Bộ trưởng Lao động Israel Bản mẫu:Colorado Women’s Hall of Fame
|
- Sinh 1898
- Mất 1978
- Chính trị gia đảng Liên kết
- Đại sứ Israel tại Liên xô
- Người Mỹ di cư tới Palestine ủy trị Anh
- Người Mỹ hậu duệ người Do thái Ukraina
- Giáo viên Mỹ
- Người Mỹ theo chủ nghĩa phục quốc Do thái
- Người được chôn tại Mount Herzl
- Lãnh đạo thời Chiến tranh Lạnh
- Người nhận giải cống hiến xã hộ và nhà nước Israel
- Người nhận giải phụ nữ Israel
- Người Do thái Israel
- Chính trị gia đảng Lao động Israel
- Lãnh đạo đảng Israel
- Chính trị gia Do thái
- Thành viên Viện đại biểu (Palestine ủy trị)
- Thành viên Knesset
- Thủ tướng Israel
- Nữ thủ tướng
- Người ký Tuyên ngôn Độc lập Israel
- Tín hữu Do Thái giáo
Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
- Chào ngày mới 7 tháng 12
- Đông Dương tìm tòi và cảm nhận
- Chào ngày mới 6 tháng 12
- Thăm ngôi nhà cũ của Darwin
- Chào ngày mới 5 tháng 12
- Chào ngày mới 4 tháng 12
- Bí mật cung Đan Dương tại Huế
- Ngày Người khuyết tật Quốc tế nhớ bạn
- Helen Keller người mù điếc huyền thoại
- Chào ngày mới 3 tháng 12
- Tháp vàng hoa trắng nắng Mekong
- Chuyện vỉa hè
- Chào ngày mới 2 tháng 12
- Chào ngày mới 1 tháng 12
- Mark Twain là Lincoln văn học Mỹ
- Chào ngày mới 30 tháng 11
- Chuyện vỉa hè
- Chào ngày mới 29 tháng 11
- Chào ngày mới 28 tháng 11
- Bàn cờ thế sự
- Chào ngày mới 27 tháng 11
- Chào ngày mới 26 tháng 11
- Chu Văn Tiếp ở Đồng Xuân
- Chào ngày mới 25 tháng 11
- Sao Kim kỳ thú
- Chào ngày mới 24 tháng 11
- 24 tiết khí lịch nhà nông
- Kênh ông Kiệt giữa lòng dân
- Công việc này trao lại cho em
- Chào ngày mới 23 tháng 11
- Lời của Thầy theo mãi bước em đi
- Chào ngày mới 22 tháng 11
- Ơn Thầy
- Đọc lại và suy ngẫm
- Chào ngày mới 21 tháng 11
- Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời
- Chào ngày mới 20 tháng 11
- Sáu mươi năm ĐHNL tp.HCM
- Trường tôi và tình yêu ở lại
- Gowda địa chỉ xanh ICRISAT Ấn Độ
- Ký ức CIMMYT ở Mexico
- Chào ngày mới 18 tháng 11
- Chào ngày mới 17 tháng 11
- Myanmar đọc lại và suy ngẫm
- Chào ngày mới 16 tháng 11
- Im lặng mà bão giông
- Chào ngày mới 15 tháng 11
- Chào ngày mới 14 tháng 11
- Chào ngày mới 13 tháng 11
- Chào ngày mới 12 tháng 11
- Chuyện vỉa hè
- Chào ngày mới 11 tháng 11
- Chào ngày mới 10 tháng 11
- Angkor nụ cười suy ngẫm
- Cây Lương thực tháng 11.2015
- Chào ngày mới 9 tháng 11
- Lên Yên Tử sưu tầm thơ đức Nhân Tông
- Chào ngày mới 8 tháng 11
- Chào ngày mới 7 tháng 11
- Đọc lại và suy ngẫm
- Chào ngày mới 6 tháng 11
- Chào ngày mới 5 tháng 11
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 4 tháng 11
- Đọc lại và suy ngẫm
- Chào ngày mới 3 tháng 11
- Giống khoai lang ở Việt Nam
- Chào ngày mới 2 tháng 11
- Đọc lại và suy ngẫm
- Chào ngày mới 1 tháng 11
- Cây Lương thực 10.2015
Video yêu thích
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng KimNgọc Phương NamThung dungDạy và họcCNM365Tình yêu cuộc sốngCây Lương thựcDạy và HọcKim on LinkedInKimYouTubeKim on Facebook
s
Pingback: Thầy Quyền thâm canh lúa | Tình yêu cuộc sống