CNM365. Chào ngày mới 20 tháng 12. Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày 20 tháng 12 năm 1946, Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là lời phát động cuộc kháng chiến chống Pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, vào đêm hôm trước – ngày 19 tháng 12, khi chiến sự bùng nổ – là ngày Toàn quốc kháng chiến. Trước khi Chiến tranh Đông Dương nổ ra, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tìm mọi cách cứu vãn hòa bình, chí ít cũng làm chậm lại chiến tranh để chuẩn bị đối phó, đồng thời khéo léo tìm được thế bắt đầu chiến tranh tốt nhất có thể (hay là ít xấu nhất). Hiệp định sơ bộ Việt-Pháp 6/3/1946 rồi Tạm ước Việt–Pháp 14/9/1946 lần lượt được ký kết, chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán. Quân Tưởng Giới Thạch phải theo các điều ước rút về nước. Pháp quyết gây chiến tranh, liên tiếp gây ra các cuộc thảm sát ở Hải Phòng và Hà Nội. Sau đó Pháp đòi tước vũ khí của Việt Minh. Ngày 3 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về làng Vạn Phúc, Hà Đông, sống trong nhà ông Nguyễn Văn Dương. Tại đây, vào ngày 19 tháng 12, trên căn gác xép nhỏ ông đã viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, dùng để phát động cuộc kháng chiến chống Pháp vào cuối năm, sau khi những nỗ lực đàm phán hòa bình giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với Pháp, vào giữa năm 1946, để công nhận một nước Việt Nam độc lập, không thành công. Văn bản này đã được Trường Chinh chỉnh sửa một số chi tiết trước khi được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc. Chiến tranh xảy ra trên toàn quốc đêm 19/12/1946 bởi trận đánh Hà Nội 1946. Ngày 20 tháng 12 tại Hang Trầm (huyện Chương Mỹ, Hà Tây), Đài Tiếng Nói Việt Nam đã phát đi “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Câu nói Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh trong một bức thư của Hồ Chí Minh gửi những người lính của Việt Minh ở Hà Nội những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã được nhắc đến như một biểu tượng cho sự hy sinh vì nền độc lập của đất nước Việt Nam. Nội dung toàn văn của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” đã được in trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, trang 480, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995 như sau: Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian khổ kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta! Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 1946. Hồ Chí Minh (Bút tích lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam)
Ngày 20 tháng 12 năm 1977, Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc là một tổ chức quốc tế có mục đích duy trì hòa bình và an ninh trên thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc. Liên Hiệp Quốc hiện có 193 thành viên, bao gồm hầu hết các quốc gia có chủ quyền trên Trái Đất. Liên Hiệp Quốc sử dụng 6 ngôn ngữ chính thức: tiếng Ả Rập, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Trung. Liên Hiệp Quốc có trụ sở tại lãnh phận quốc tế ở thành phố New York, Theo hiến chương LHQ thì tổ chức này gồm 6 cơ quan chính, chủ yếu gồm: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo An, Hội đồng kinh tế và xã hội, Ban thư kí, Tòa án Quốc tế vì Công lý, Hội đồng Ủy trị Liên Hiệp Quốc. Ngoài ra, một số tổ chức tiến hành quản lý các cơ quan của Hệ thống Liên Hiệp Quốc, ví dụ như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF). Các cơ quan chuyên môn của nó quyết định các vấn đề về luật lệ và điều hành. Nhân vật đại diện tiêu biểu nhất của Liên Hiệp Quốc là Tổng thư kí, đương nhiệm là Ban Ki-moon, người Hàn Quốc. Kinh phí hoạt động của Liên Hiệp Quốc được hình thành bằng tài trợ đóng góp tự nguyện và nguồn niên liễm có kiểm soát từ các nước thành viên.
Ngày 20 tháng 12 năm 1994, khánh thành Nhà máy thủy điện Hòa Bình tại Việt Nam. Nhà máy Thủy điện Hoà Bình được xây dựng tại hồ Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, trên dòng sông Đà thuộc miền bắc Việt Nam. Trước khi nhà máy thủy điện Sơn La khánh thành đây là nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á. Nhà máy do Liên Xô giúp đỡ xây dựng và vận hành. Công trình khởi công xây dựng ngày 6 tháng 11 năm 1979, khánh thành ngày 20 tháng 12 năm 1994. Công suất sản sinh điện năng theo thiết kế là 1.920 megawatt, gồm 8 tổ máy, mỗi tổ máy có công suất 245.000 kilowatt. Sản lượng điện hàng năm là 8,16 tỷ kilowatt giờ (KWh). Bài thơ Tiếng đàn Balalaika trên sông Đà do nhà thơ Quang Huy sáng tác có chủ đề nói về sự giúp đỡ của nhân dân Liên Xô và Việt Nam trong việc xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình.
20 tháng 12
Ngày 20 tháng 12 là ngày thứ 354 (355 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 11 ngày trong năm.
« Tháng 12 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | ||
6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 |
13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 |
20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 |
27 | 28 | 29 | 30 | 31 | ||
Mục lục
Sự kiện
- 403 – Tấn An Đế sai người dâng tỉ thiện vị cho Sở vương Hoàn Huyền, kết thúc triều Đông Tấn, tức ngày Canh Thìn (20) tháng 11 năm Quý Mão.
- 933 – Tống vương Lý Tòng Hậu trở thành hoàng đế của Hậu Đường, ngày Tân Sửu (29) tháng 11 năm Quý Tị.
- 1803 – Thương vụ mua vùng đất Louisiana hoàn thành trong một buổi lễ tại New Orleans.
- 1860 – Nam Carolina trở thành bang đầu tiên trong số 11 bang duy trì chế độ nô lệ ly khai khỏi Hoa Kỳ.
- 1917 – Ủy ban Đặc biệt toàn Nga (Cheka), cơ quan mật vụ của nước Nga Xô Viết, được thành lập.
- 1946 – Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- 1955 – Cardiff được tuyên bố là thủ đô của Wales, Anh Quốc.
- 1960 – Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.
- 1963 – Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập tỉnh Gò Công.
- 1971 – Zulfikar Ali Bhutto trở thành tổng thống thứ 4 của Pakistan.
- 1977 – Djibouti và Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc.
- 1987 – Phà chở khách MV Doña Paz (hình) bị đắm sau khi va chạm với một tàu chở dầu tại eo biển Tablas, Philippines, khiến khoảng 4.000 người thiệt mạng.
- 1989 – Hoa Kỳ đưa quân vào Panama nhằm lập đổ chính phủ của Tổng thống Manuel Noriega.
- 1991 – Paul Keating tuyên thệ nhậm chức thủ tướng thứ 24 của Úc sau khi đánh bại Bob Hawke trong cuộc bỏ phiếu bầu lãnh đạo Đảng Lao động Úc.
- 1994 – Khánh thành Nhà máy thủy điện Hòa Bình tại Việt Nam.
- 1995 – NATO bắt đầu sứ mạnh gìn giữ hòa bình tại Bosna và Hercegovina.
- 1999 – Bồ Đào Nha chuyển giao chủ quyền Ma Cao cho Trung Quốc.
Sinh
- 1820 – Julius Heinrich von Boehn, tướng lĩnh người Đức (s. 1893)
- 1890 – Jaroslav Heyrovský, nhà hóa học người Séc, đoạt giải Nobel (m. 1967)
- 1894 – Robert Menzies, chính trị gia người Úc, thủ tướng thứ 12 của Úc (m. 1978)
- 1915 – Aziz Nesin, tác gia người Thổ Nhĩ Kỳ (m. 1995)
- 1924 – Nguyễn Đình Thi, nhà thơ người Việt Nam (m. 2003)
- 1927 – Kim Young-sam, chính trị gia người Hàn Quốc tổng thống thứ 7 của Hàn Quốc
- 1940 – Đa Minh Mai Thanh Lương, linh mục người Việt-Mỹ
- 1956 – Mohamed Ould Abdel Aziz, tướng lĩnh và chính trị gia người Mauritania, Tổng thống Mauritania
- 1958 – Nguyễn Thị Quyết Tâm, chính trị gia người Việt Nam
- 1960 – Kim Ki Duk, đạo diễn người Hàn Quốc
- 1963 – Elena, Công chúa Tây Ban Nha
- 1976 – Lý Ngọc, diễn viên người Trung Quốc
- 1978 – Geremi Njitap, cầu thủ bóng đá người Cameroon
- 1980 – Ashley Cole, cầu thủ bóng đá người Anh
- 1980 – Martín Demichelis, cầu thủ bóng đá người Argentina
- 1982 – David Cook, ca sĩ-người viết ca khúc, tay chơi guitar người Mỹ
- 1983 – Lara Stone, người mẫu người Hà Lan
- 1988 – Aso Nozomi, diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản
- 1990 – Joanna Noëlle Blagden Levesque, nghệ danh JoJo, ca sĩ-người viết ca khúc và diễn viên người Mỹ
- 1995 – Feliks Zemdegs, vận động viên rubic người Úc
Mất
- 217 – Giáo hoàng Đêphyrinô
- 1355 – Stefan Dushan, “quốc vương của người Serbia và người Hy Lạp” (m. 1308)
- 1590 – Ambroise Paré, thầy thuốc người Pháp (s. 1510)
- 1722 – Ái Tân Giác La Huyền Diệp, tức Khang Hy Đế, hoàng đế của triều Thanh, tức 13 tháng 11 năm Nhâm Dần (s. 1654)
- 1873 – Nguyễn Tri Phương, danh tướng nhà Nguyễn Việt Nam, tức 1 tháng 11 năm Quý Dậu (s. 1800)
- 1921 – Hans Hartwig von Beseler, tướng người Đức (s. 1850)
- 1921 – Julius Richard Petri, nhà vi khuẩn học người Đức (s. 1852)
- 1929 – Émile Loubet, chính trị gia người Pháp, tổng thống thứ 8 của Pháp (s. 1838)
- 1937 – Erich Ludendorff, tướng người Đức (s. 1865)
- 1941 – Igor Severyanin, nhà thơ người Nga (s. 1887)
- 1954 – James Hilton, tác gia người Anh (s. 1900)
- 1954 – Phạm Viết Muôn, chính trị gia người Việt Nam
- 1961 – Earle Page, chính trị gia người Úc, thủ tướng thứ 11 của Úc (s. 1880)
- 1968 – John Steinbeck, nhà văn, giải thưởng Nobel người Mỹ (s. 1902)
- 1968 – Max Brod, tác gia, nhà soạn nhạc, nhà báo người Do Thái sinh tại Áo-Hung, sau trở thành người Israel (s. 1884)
- 1971 – Suzuki Shigeyoshi, cầu thủ bóng đá người Nhật Bản (s. 1902)
- 1982 – Arthur Rubinstein, nghệ sĩ dương cầm người Ba Lan (s. 1887)
- 1990 – Trần Văn Đỗ, chính trị gia người Việt Nam (s. 1903)
- 1996 – Carl Sagan, nhà thiên văn, nhà văn người Mỹ (s. 1934)
- 2009 – Brittany Murphy, diễn viên người Mỹ (s. 1977)
- 2012 – Duy Quang, ca sĩ và nhạc sĩ người Việt Nam-Mỹ (s. 1950)
- 2013 – Việt Dzũng, ca sĩ và nhạc sĩ người Việt Nam-Mỹ (s. 1958)
Ngày lễ và kỷ niệm
- Ngày Quốc tế Đoàn kết Nhân loại (International Human Solidarity Day)
Tham khảo
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về 20 tháng 12 |
Lich Vạn Niên ngày 20 tháng 12 năm 2015
Đời người được đo bằng tư tưởng và hành động chứ không phải bằng thời gian.Châm Ngôn Anh
Lịch vạn niên 2015, ngày 10 tháng 11, năm 2015 – Âm lịchXem ngày giờ tốt và hướng xuất hànhTrong một tháng có 2 loại ngày tốt, ngày xấu; trong một ngày lại có 6 giờ tốt, 6 giờ xấu gọi chung là Ngày/giờ Hoàng đạo (tốt) và Ngày/giờ Hắc đạo (xấu). Người Việt Nam từ xưa đều có phong tục chọn ngày tốt và giờ tốt để làm những việc lớn như cưới hỏi, khởi công làm nhà, nhập trạch, ký kết, kinh doanh v.v.v. Ngày 10 tháng 11, năm 2015 là ngày Hắc đạo , các giờ tốt trong ngày này là: Bính Tí, đinh Sửu, Kỷ Mão, Nhâm Ngọ, Giáp Thân, ất Dậu Trong ngày này, các tuổi xung khắc nên cẩn thận trong chuyện đi lại, xuất hành, nói chuyện và làm các việc đại sự là: Nhâm Tý, Bính Tý, Giáp Thân, Giáp Dần Xuất hành hướng Đông Bắc gặp Hỷ thần: niềm vui, may mắn, thuận lợi. Xuất hành hướng Nam gặp Tài thần: tài lộc, tiền của, giao dịch thuận lợi. Xem sao tốt và việc nên làm và nên kiêngTrong Lịch vạn niên, có 12 trực được sắp xếp theo tuần hoàn phân bổ vào từng ngày. Mỗi trực có tính chất riêng, tốt/xấu tùy từng công việc. Ngày 10 tháng 11, năm 2015 là Trực Phá: Tốt cho các việc dỡ nhà, phá vách, ra đi. Xấu cho các việc mở cửa hàng, may mặc, sửa kho, hội họp. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiếnBách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, do Hồ Chí Minh soạn thảo, là lời phát động cuộc kháng chiến chống Pháp vào cuối năm 1946, sau khi những nỗ lực đàm phán hòa bình giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với Pháp, vào giữa năm 1946, để công nhận một nước Việt Nam độc lập, không thành công. Lời kêu gọi này được phát ra vào sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946. Đêm hôm trước – ngày 19 tháng 12, khi chiến sự bùng nổ – là ngày Toàn quốc kháng chiến. Câu nói Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh trong một bức thư của Hồ Chí Minh gửi những người lính của Việt Minh ở Hà Nội những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã được nhắc đến như một biểu tượng cho sự hy sinh vì nền độc lập của đất nước Việt Nam.[1] Mục lụcHoàn cảnhTrước khi Chiến tranh Đông Dương nổ ra, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tìm mọi cách cứu vãn hòa bình, chí ít cũng làm chậm lại chiến tranh để chuẩn bị đối phó, đồng thời khéo léo tìm được thế bắt đầu chiến tranh tốt nhất có thể (hay là ít xấu nhất). Hiệp định sơ bộ Việt-Pháp 6/3/1946 rồi Tạm ước Việt–Pháp 14/9/1946 lần lượt được ký kết, chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán. Quân Tưởng Giới Thạch phải theo các điều ước rút về nước. Pháp quyết gây chiến tranh, liên tiếp gây ra các cuộc thảm sát ở Hải Phòng và Hà Nội. Sau đó Pháp đòi tước vũ khí của Việt Minh. Chiến tranh xảy ra trên toàn quốc đêm 19/12/1946 bởi trận đánh Hà Nội 1946. Ngày này được gọi là Toàn Quốc Kháng Chiến. Ngày 3 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về làng Vạn Phúc, Hà Đông, sống trong nhà ông Nguyễn Văn Dương. Tại đây, vào ngày 19 tháng 12, trên căn gác xép nhỏ ông đã viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, dùng để phát động cuộc kháng chiến chống Pháp vào cuối năm, sau khi những nỗ lực đàm phán hòa bình giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với Pháp, vào giữa năm 1946, để công nhận một nước Việt Nam độc lập, không thành công. Văn bản này đã được Trường Chinh chỉnh sửa một số chi tiết trước khi được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc. Ngày 20 tháng 12 tại Hang Trầm (huyện Chương Mỹ, Hà Tây), Đài Tiếng Nói Việt Nam đã phát đi “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Nội dungNội dung toàn văn của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” đã được in trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, trang 480, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995 như sau:
Chú thíchLiên kết ngoài
Thể loại:
Liên Hiệp QuốcBách khoa toàn thư mở Wikipedia
Liên Hiệp Quốc hay Liên Hợp Quốc (thường được viết tắt là LHQ) là một tổ chức quốc tế có mục đích duy trì hòa bình và an ninh trên thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc. Hiện nay, Liên Hiệp Quốc có 193 thành viên, bao gồm hầu hết các quốc gia có chủ quyền trên Trái Đất. Liên Hiệp Quốc sử dụng 6 ngôn ngữ chính thức: tiếng Ả Rập, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Trung. Từ trụ sở trong lãnh phận quốc tế tại thành phố New York, Liên Hiệp Quốc và các cơ quan chuyên môn của nó quyết định các vấn đề về điều hành và luật lệ. Theo hiến chương LHQ thì tổ chức này gồm 6 cơ quan chính, chủ yếu gồm: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo An, Hội đồng kinh tế và xã hội, Ban thư kí, Tòa án Quốc tế vì Công lý, Hội đồng Ủy trị Liên Hiệp Quốc. Ngoài ra, một số tổ chức tiến hành quản lý các cơ quan của Hệ thống Liên Hiệp Quốc, ví dụ như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF). Nhân vật đại diện tiêu biểu nhất của Liên Hiệp Quốc là Tổng thư kí, đương nhiệm là Ban Ki-moon, người Hàn Quốc. Kinh phí hoạt động của Liên Hiệp Quốc được hình thành bằng tài trợ đóng góp tự nguyện và nguồn niên liễm có kiểm soát từ các nước thành viên Mục lục
Các tổ chức trong Liên Hợp QuốcNgân hàng Thế giới (World Bank Group – WBG) Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund – IMF) Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (World Intellectual Property Organization – WIPO) Lực lượng gìn giữ hoà bình Liên Hợp Quốc (Department Of Peacekeeping Operations – DPKO) Lịch sử hình thànhNgày 1/1/1942, đại biểu 26 nước Đồng Minh gặp nhau tại Washington ký Tuyên bố Liên Hiệp Quốc cam kết ủng hộ Hiến chương Đại Tây Dương[1]
Trụ sở Liên Hiệp Quốc được đặt trong lãnh phận quốc tế tại Manhattan, Thành phố New York, Hoa Kỳ. Tiền thân của Liên Hiệp Quốc là Hội Quốc Liên (League of Nations), vốn là một sáng kiến của Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Hoa Kỳ tuy sáng lập nhưng lại không chính thức làm hội viên, hơn thế quy chế hoạt động của hội lại lỏng lẻo, các cường quốc như Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Pháp, Nga, Đức, Ý, Nhật Bản tham gia vốn chỉ để tranh giành ảnh hưởng cho mình. Dù hội đạt được một số thành tựu đáng kể trong công cuộc giải phóng phụ nữ cũng như những hoạt động nhân đạo nhưng chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và buộc Hội quốc liên phải giải tán. Sau Thế chiến thứ hai, các nước Khối Đồng Minh và nhân dân thế giới có nguyện vọng giữ gìn hòa bình và ngăn chặn các cuộc chiến tranh thế giới mới. Tại Hội nghị Yalta, nguyên thủ ba nước Liên Xô, Mỹ, Anh đã thống nhất thành lập tổ chức quốc tế để giữ gìn hòa bình và an ninh thế giới. Trên cơ sở Hội nghị Durbarton Oaks ở Washington, D.C., từ 25 tháng 4 đến 26 tháng 6 năm 1945, đại diện của 50 quốc gia đã họp tại San Francisco, California, Hoa Kỳ để thông qua Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Ngày 24 tháng 10 năm 1945, Liên Hiệp Quốc chính thức được thành lập. Tuy vậy, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (General Assembly) đầu tiên, tham dự bởi 51 nước, không được tổ chức cho mãi đến ngày 10 tháng 1 năm 1946 (tại Nhà họp chính Westminster ở Luân Đôn). “Một sự nghiệp vĩ đại để tạ ơn Đức Chúa toàn năng…” Tổng thống Mỹ Harry S. Truman đã nói như vậy về thành tựu của hội nghị tại San Francisco, một hội nghị đã góp phần vào việc soạn thảo bản Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945. Câu nói của tổng thống Truman đã đại diện cho hàng triệu người, những người tin rằng tổ chức mới này sẽ làm cho những cuộc chiến tranh thế giới lùi sâu vào dĩ vãng. Lời tựa của bản Hiến chương đã nêu rõ mục đích của tổ chức này: “Chúng tôi, những dân tộc của Liên Hợp Quốc, quyết tâm cứu những thế hệ mai sau khỏi thảm họa chiến tranh…”. Thành viênTới năm 2011 có 193 quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc, gồm tất cả các quốc gia độc lập được thế giới công nhận. Trong số những nước không phải thành viên, đáng chú ý nhất là Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), ghế của họ tại Liên Hiệp Quốc đã được chuyển giao cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1971; Tòa Thánh (thực thể quản lý Thành Vatican), vốn đã từ bỏ quy chế thành viên nhưng vẫn là một quốc gia quan sát viên; Nhà nước Palestine (là một quan sát viên cùng với Chính quyền Quốc gia Palestine). Hơn nữa, những dân tộc dưới chủ quyền nước ngoài và các quốc gia không được công nhận cũng không hiện diện tại Liên Hiệp Quốc, như Transnistria. Thành viên mới nhất của Liên Hiệp Quốc là Nam Sudan, chính thức gia nhập ngày 14 tháng 7 năm 2011. Liên Hiệp Quốc đã vạch ra các nguyên tắc cơ bản cho tư cách thành viên:
Trụ sởTrụ sở Liên Hiệp Quốc tại Thành phố New York
Toà nhà trụ sở Liên Hiệp Quốc hiện nay được xây dựng trên một khu đất rộng 16 acre tại Thành phố New York trong giai đoạn từ năm 1949 tới 1950, bên cạnh Khu phía Đông của thành phố. Khu đất này được John D. Rockefeller, Jr. mua với giá 8.5 triệu dollar, con trai ông Nelson là nhà thương thuyết chủ yếu với chuyên viên thiết kế William Zeckendorf, vào tháng 12 năm 1946. Sau đó John D. Rockefeller, Jr. tặng khu đất này cho Liên Hiệp Quốc. Trụ sở được một đội các kiến trúc sư quốc tế gồm cả Le Corbusier (Thuỵ Sĩ), Oscar Niemeyer (Brasil) và đại diện từ nhiều nước khác thiết kế. Wallace K. Harrison, một cố vấn của Nelson Rockefeller, lãnh đạo đội. Đã xảy ra một vụ rắc rối giữa những người tham gia về thẩm quyền của từng người. Trụ sở Liên Hiệp Quốc chính thức mở cửa ngày 9 tháng 1 năm 1951. Trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc nằm tại New York, trụ sở một số cơ quan khác của tổ chức này nằm tại Geneva, La Hay, Wien, Montréal, Copenhagen, Bonn và nhiều nơi khác. Địa chỉ trụ sở Liên Hiệp Quốc là 760 United Nations Plaza, New York, NY 10017, USA. Vì những lý do an ninh, tất cả thư từ gửi tới địa chỉ trên đều được tiệt trùng.[3] Các tòa nhà Liên Hiệp Quốc đều không được coi là các khu vực tài phán chính trị riêng biệt,[cần dẫn nguồn] nhưng thực sự có một số quyền chủ quyền. Ví dụ, theo những thỏa thuận với các nước chủ nhà Cơ quan quản lý thư tín Liên Hiệp Quốc được phép in tem thư để gửi thư tín trong nước đó. Từ năm 1951 văn phòng tại New York, từ năm 1969 văn phòng tại Geneva, và từ năm 1979 văn phòng tại Wien đã in ấn tem riêng của mình. Các tổ chức của Liên Hiệp Quốc cũng sử dụng tiền tố viễn thông riêng, 4U, và về mặt không chính thức, các trụ sở tại New York, Geneva và Wien được coi là các thực thể riêng biệt đối với các mục đích radio không chuyên. Bởi trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc đã trải qua một quá trình sử dụng khá dài, Liên Hiệp Quốc hiện đang trong quá trình xây dựng một trụ sở tạm do Fumihiko Maki thiết kế trên Đại lộ thứ nhất giữa Phố 41 và Phố 42 để dùng tạm khi công trình hiện nay đang được tu sửa.[4] Trước năm 1949, Liên Hiệp Quốc sử dụng nhiều địa điểm tại Luân Đôn và tiểu bang New York.[5] Tài chính
Liên Hiệp Quốc hoạt động nhờ tiền đóng góp và tiền quyên tự nguyện từ các quốc gia thành viên. Những ngân sách chính thức 2 năm của Liên Hiệp Quốc và các tổ chức chuyên biệt của họ lấy từ những khoản đóng góp. Đại hội đồng thông qua ngân sách chính thức và quyết định khoản đóng góp của mỗi quốc gia thành viên. Điều này dựa chủ yếu trên năng lực chi trả của mỗi nước, tính theo những số liệu thống kê thu nhập cùng với những yếu tố khác. Đại hội đồng đã đưa ra nguyên tắc rằng Liên Hiệp Quốc sẽ không quá phụ thuộc vào bất kỳ 1 quốc gia thành viên nào trong lĩnh vực tài chính cần thiết cho những hoạt động của mình. Vì thế, có một mức “trần”, quy định khoản tiền tối đa một nước có thể đóng góp cho ngân sách. Tháng 12 năm 2000, Đại hội đồng đã sửa đổi tỷ lệ đóng góp để phản ánh chính xác hơn cục diện thế giới hiện tại. Như một phần của sự sửa đổi này, trần đóng góp được giảm từ 25% xuống 22%. Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất đóng góp ở mức trần, nhưng những khoản tiền họ còn thiếu lên tới hàng trăm triệu dollar (xem Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc). Theo mức đóng góp mới được thông qua năm 2000, các nước đóng góp lớn khác vào ngân sách Liên Hiệp Quốc năm 2001 là Nhật Bản (19.63%), Đức (9.82%), Pháp (6.50%), Anh (5.57%), Ý (5.09%), Canada (2.57%), Tây Ban Nha (2.53%) và Brasil (2.39%).[7] Các chương trình đặc biệt của Liên Hiệp Quốc không được tính vào ngân sách chính thức của tổ chức này (ví dụ như UNICEF và Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc – UNDP), chúng hoạt động nhờ những khoản quyên góp tự nguyện từ các chính phủ thành viên. Một số các khoản đóng góp dưới hình thức các loại thực phẩm nông nghiệp viện trợ cho những người bị ảnh hưởng, nhưng chủ yếu vẫn là tiền mặt. Ngôn ngữLiên Hiệp Quốc sử dụng 6 ngôn ngữ chính thức: tiếng Ả Rập, tiếng Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha. Ban thư ký sử dụng 2 ngôn ngữ làm việc: (tiếng Anh và tiếng Pháp). Khi Liên Hiệp Quốc được thành lập, năm ngôn ngữ chính thức được lựa chọn là: tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Nga. Tiếng Ả Rập được đưa vào thêm năm 1973. Hiện có những tranh cãi trái chiều về việc liệu có nên giảm bớt số lượng ngôn ngữ chính thức (ví dụ chỉ giữ lại tiếng Anh) hay nên tăng thêm con số này.[cần dẫn nguồn] Áp lực đòi đưa thêm tiếng Hindi thành ngôn ngữ chính thức đang ngày càng gia tăng.[cần dẫn nguồn] Năm 2001, các nước nói tiếng Tây Ban Nha phàn nàn rằng tiếng Tây Ban Nha không có tư cách ngang bằng so với tiếng Anh.[8] Những nỗ lực chống lại sự tụt giảm vị thế của tiếng Pháp trong tổ chức này cũng rất to lớn;[9] vì thế tất cả các Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đều phải biết dùng tiếng Pháp và rõ ràng việc Tổng thư ký mới Ban Ki-Moon gặp khó khăn để có thể nói trôi chảy ngôn ngữ này trong buổi họp báo đầu tiên của ông [10] bị một số người coi là một sự mất điểm [11]. Tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc đối với các tài liệu bằng tiếng Anh (Hướng dẫn xuất bản Liên Hiệp Quốc) tuân theo quy tắc của tiếng Anh. Liên Hiệp Quốc và tất cả các tổ chức khác là một phần của hệ thống Liên Hiệp Quốc sử dụng phương pháp đánh vần Oxford. Tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc về tiếng Hoa (Quan thoại) đã thay đổi khi Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) phải nhường ghế cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1971. Từ năm 1945 đến 1971 kiểu chữ phồn thể được sử dụng, và từ năm 1971 kiểu chữ giản thể đã thay thế. Trong số các ngôn ngữ chính thức của Liên Hiệp Quốc, tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của 52 quốc gia thành viên, tiếng Pháp của 29 thành viên, tiếng Ả Rập là 24, tiếng Tây Ban Nha là 20, tiếng Nga tại 4 và tiếng Trung Quốc tại 2 nước. Tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Đức là những ngôn ngữ được sử dụng ở khá nhiều nước thành viên Liên Hiệp Quốc (8 và 6) nhưng lại không phải là ngôn ngữ chính thức của tổ chức này. Các mục đích và hoạt độngCác mục đích của Liên Hiệp QuốcNhững mục đích được nêu ra của Liên Hiệp Quốc là ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ nhân quyền, cung cấp một cơ cấu cho luật pháp quốc tế, và để tăng cường tiến bộ kinh tế, xã hội, cải thiện các điều kiện sống và chống lại bệnh tật.[12] Liên Hiệp Quốc tạo cơ hội cho các quốc gia nhằm đạt tới sự cân bằng trong sự phụ thuộc lẫn nhau trên bình diện thế giới và giải quyết các vấn đề quốc tế. Nhằm mục đích đó, Liên Hiệp Quốc đã phê chuẩn một Tuyên ngôn Chung về Nhân quyền năm 1948.[13] Các hội nghị quốc tếCác quốc gia Liên Hiệp Quốc và các cơ quan đặc biệt của nó — “những stakeholder” của hệ thống — đưa ra hướng dẫn và quyết định về những vấn đề lớn và vấn đề hành chính trong những cuộc gặp thông lệ được tổ chức suốt năm. Các cơ cấu quản lý được hình thành từ các quốc gia thành viên, không chỉ gồm Đại hội đồng, Hội đồng Kinh tế Xã hội và Hội đồng Bảo an, mà còn cả các cơ cấu tương đương chịu trách nhiệm quản lý tất cả các cơ quan khác của Hệ thống Liên Hiệp Quốc. Ví dụ Đại hội đồng Y tế và Ban Chấp hành quản lý công việc của Tổ chức Y tế Thế giới. Khi một vấn đề được coi là có tầm quan trọng đặc biệt, Đại hội đồng có thể triệu tập một phiên họp đặc biệt để tập trung sự chú ý toàn cầu và xây dựng một phương hướng hành động chung. Những ví dụ gần đây gồm: Trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Châu Âu tại Geneva, Thuỵ Sĩ
Những năm quốc tế và những vấn đề liên quanLiên Hiệp Quốc tuyên bố và điều phối “Năm quốc tế…” nhằm tập trung sự chú ý của thế giới vào các vấn đề quan trọng. Sử dụng hình tượng Liên Hiệp Quốc, một logo được thiết kế đặc biệt cho năm đó, và cơ sở hạ tầng của Hệ thống Liên Hiệp Quốc nhằm phối hợp các sự kiện trên khắp thế giới, nhiều năm đã trở thành điểm xúc tác cho những vấn đề quan trọng trên phạm vi thế giới.
Mục tiêu kiểm soát và giải giáp vũ khíHiến chương năm 1945 của Liên Hiệp Quốc dự định đưa ra một hệ thống quy định sẽ đảm bảo “sự chi tiêu nhỏ nhất các nguồn tài nguyên con người và kinh tế thế giới cho vũ khí”. Phát minh ra các loại vũ khí hạt nhân xảy ra chỉ vài tuần sau khi Hiến chương được ký kết và ngay lập tức thúc đẩy ý tưởng hạn chế và giải giáp vũ khí. Trên thực tế, nghị quyết đầu tiên của phiên họp đầu tiên của Đại hội đồng (ngày 24 tháng 1 năm 1946) có tiêu đề “Sự thành lập một Ủy ban giải quyết các Vấn đề Phát sinh do sự Phát minh ra Năng lượng Nguyên tử” và kêu gọi đưa ra những đề xuất khoa học cho “sự hạn chế trang bị các loại vũ khí nguyên tử và tất cả các loại vũ khí chính khác với mục đích hủy diệt hàng loạt”. Liên Hiệp Quốc đã lập ra nhiều diễn đàn nhằm giải quyết các vấn đề giải giáp vũ khí đa biên. Các diễn đàn chính là Ủy ban Thứ nhất của Đại hội đồng và Cao ủy về Giải giáp vũ khí Liên Hiệp Quốc. Những vấn đề được đưa vào chương trình nghị sự gồm việc ước tính những giá trị có được sau những hiệp ước cấm thử hạt nhân, kiểm soát vũ khí không gian, những nỗ lực nhằm ngăn chặn các loại vũ khí hóa học, giải giáp vũ khí hạt nhân và vũ khí thông thường, những khu vực không vũ khí hạt nhân, giảm bớt ngân sách quân sự, và các biện pháp nhằm tăng cường an ninh quốc tế. Hội nghị Giải giáp là một diễn đàn được cộng đồng thế giới lập ra để đảm phán về các thỏa thuận kiểm soát vũ khí đa bên và giải giáp vũ khí. Diễn đàn có 66 thành viên đại diện cho mọi khu vực trên thế giới, gồm cả năm quốc gia hạt nhân chính (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Pháp, Nga, Anh Quốc và Hoa Kỳ). Tuy hội nghị không phải là một tổ chức chính thức của Liên Hiệp Quốc, nó kết nối với tổ chức này thông qua sự hiện diện cá nhân của Tổng thư ký; người đồng thời cũng là tổng thư ký của hội nghị. Những nghị quyết được Đại hội đồng thông qua thường yêu cầu hội nghị xem xét các vấn đề giải giáp riêng biệt. Đổi lại, hàng năm hội nghị thông báo các hoạt động của mình cho Đại hội đồng. Giữ gìn hòa bìnhSứ mệnh Gìn giữ hòa bình Liên hiệp Quốc hiện nay
Lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc được gửi tới nhiều vùng nơi các cuộc xung đột quân sự mới chấm dứt, nhằm buộc các bên tôn trọng các thỏa thuận hòa bình và ngăn chặn tình trạng thù địch tái diễn, ví dụ tại Đông Timor cho tới khi nước này giành độc lập năm 2001. Các lực lượng đó do các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc đóng góp, và việc tham dự vào các chiến dịch gìn giữ hòa bình là không bắt buộc; tới nay chỉ có hai quốc gia là Canada và Bồ Đào Nha, đã tham gia vào tất cả các chiến dịch gìn giữ hòa bình.[cần dẫn nguồn] Liên Hiệp Quốc không duy trì bất kỳ một lực lượng quân sự độc lập nào. Tất cả các chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc phải được Hội đồng bảo an thông qua. Những người sáng lập Liên Hiệp Quốc đã thực sự hy vọng rằng tổ chức này sẽ hoạt động để ngăn chặn những cuộc xung đột giữa các quốc gia và các cuộc chiến tranh trong tương lai. Những hy vọng đó không hoàn toàn trở thành hiện thực. Trong thời Chiến tranh Lạnh (từ khoảng năm 1945 tới năm 1991), sự phân chia thế giới thành những phe thù địch khiến thỏa thuận gìn giữ hòa bình rất khó được thông qua. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, lại tái xuất hiện những lời kêu gọi biến Liên Hiệp Quốc trở thành một cơ quan đảm bảo hòa bình quốc tế, bởi hàng chục những cuộc xung đột quân sự vẫn tiếp tục diễn ra trên khắp thế giới. Nhưng sự tan vỡ của Liên bang Xô viết cũng khiến Hoa Kỳ có được vị thế thống trị toàn cầu duy nhất, tạo ra nhiều thách thức mới cho Liên Hiệp Quốc. Các chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc sử dụng nguồn tài chính từ các khoản đóng góp, tính theo công thức đóng góp tỷ lệ thông thường, nhưng gồm cả những chi phí cộng thêm đối với năm thành viên thường trực của Hội đồng bảo an, những nước có quyền thông qua việc tiến hành những chiến dịch gìn giữ hòa bình đó. Khoản thu thêm này sẽ bù đắp cho những khoản phí gìn giữ hòa bình của các quốc gia kém phát triển. Tháng 12 năm 2000, Liên Hiệp Quốc đã sửa đổi tỷ lệ đóng góp vào ngân sách hoạt động và ngân sách gìn giữ hòa bình. Tỷ lệ đóng góp cho việc gìn giữ hòa bình sẽ được thay đổi sáu tháng một lần và dự kiến là gần 27% cho năm 2003. Hoa Kỳ dự định đóng góp chi phí gìn giữ hòa bình ở mức thấp này và đang tìm kiếm sự ủng hộ pháp lý từ phía Nghị viện nhằm cho phép giải ngân các khoản góp họ còn nợ Liên Hiệp Quốc. Các lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc (được gọi là Quân mũ nồi xanh) đã nhân được Giải Nobel năm 1998 cho công lao giữ gìn Hòa bình của họ. Năm 2001, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đã đoạt giải Nobel Hòa bình “vì nỗ lực cho một thế giới hòa bình và được tổ chức tốt hơn.” Liên Hiệp Quốc có nhiều loại Huy chương Liên Hiệp Quốc để trao cho những thành viên quân sự tham gia vào việc gìn giữ các thỏa thuận hòa bình của tổ chức này. Huy chương đầu tiên ra đời là Huy chương Phục vụ Liên Hiệp Quốc, được trao cho các lực lượng Liên Hiệp Quốc tham gia vào cuộc Chiến tranh Triều Tiên. Huy chương NATO cũng ra đời với mục tiêu như trên và cả hai loại này đều được coi là huy chương quốc tế chứ không phải huy chương quân sự.[cần dẫn nguồn] Nhân quyền
Việc theo đuổi mục tiêu nhân quyền là một lý do chính của việc thành lập Liên Hiệp Quốc. Sự tàn bạo của Thế chiến thứ hai và nạn diệt chủng dẫn tới một kết luận chung rằng tổ chức mới này phải hoạt động để ngăn chặn bất kỳ một thảm kịch nào như vậy trong tương lai. Một mục tiêu ban đầu là tạo ra một khung pháp lý để xem xét và hành động trước những vấn đề về vi phạm nhân quyền. Hiến chương Liên Hiệp Quốc bắt buộc tất cả các quốc gia thành viên phải khuyến khích “sự tôn trọng toàn diện, và sự tuân thủ, nhân quyền” và tiến hành “các hành động chung hay riêng rẽ” cho mục tiêu đó. Tuyên bố Chung về Nhân quyền, dù không chính thức ràng buộc, đã được Đại hội đồng thông qua năm 1948 như là một tiêu chuẩn chung để hướng tới đối với mọi nước thành viên. Đại hội đồng thường đề cập tới các vấn đề nhân quyền. Ngày 15 tháng 3 năm 2006 Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu với kết quả áp đảo để thay thế Uỷ ban nhân quyền (Human rights Commission) bằng Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc(Human Rights Council).[19] Mục tiêu của nó là giải quyết các vụ vi phạm nhân quyền. Uỷ ban nhân quyền đã nhiều lần bị chỉ trích vì thành phần thành viên của nó.[cần dẫn nguồn] Đặc biệt, chính nhiều nước thành viên của cơ quan này cũng có thành tích nhân quyền kém cỏi, gồm cả những nước có đại diện được bầu làm chủ tịch ủy ban.[cần dẫn nguồn] Hiện có bảy Cơ cấu hiệp ước nhân quyền liên quan tới Liên Hiệp Quốc, gồm Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc và Ủy ban về Sự hạn chế và Ngăn chặn bạo hành chống Phụ nữ. Ban thư ký của sáu (trừ Ủy ban Hạn chế và ngăn chặn bạo hành chống phụ nữ) đều do văn phòng Cao Ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc điều hành. Liên Hiệp Quốc và các cơ quan của mình là nhân tố chủ chốt thúc đẩy và áp dụng các nguyên tắc thiêng liêng trong Tuyên bố Chung về Nhân quyền. Một trường hợp như thế là việc Liên Hiệp Quốc hỗ trợ các nước đang trong quá trình chuyển tiếp sang chế độ dân chủ. Hỗ trợ kỹ thuật trong việc tổ chức các cuộc bầu cử tự do và công bằng, cải thiện các cơ cấu pháp lý, khởi thảo hiến pháp, huấn luyện các nhân viên nhân quyền, và chuyển các phong trào vũ trang thành các đảng chính trị đã đóng góp rất lớn vào quá trình dân chủ hóa trên khắp thế giới. Liên Hiệp Quốc đã giúp tổ chức các cuộc bầu cử tại những quốc gia vốn có thành tích dân chủ yếu kém, gồm cả hai quốc gia gần đây là Afghanistan và Đông Timor. Liên Hiệp Quốc cũng là một diễn đàn hỗ trợ quyền phụ nữ tham gia đầy đủ vào đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước họ. Liên Hiệp Quốc góp phần vào việc hướng sự chú ý của dư luận vào khái niệm nhân quyền thông qua các hiệp ước của nó và sự chú ý của tổ chức này vào những vụ lạm dụng đặc biệt thông qua các nghị quyết của Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an hay thông qua những quyết định của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ). Đầu năm 2006, một nhóm hội thảo chống tra tấn tại Liên Hiệp Quốc đã đề xuất việc đóng cửa Nhà tù Vịnh Guantanamo và chỉ trích cái gọi là sự sử dụng những nhà tù bí mật và sự nghi ngờ việc vận chuyển tù nhân tới nước ngoài cho mục đích hỏi cung của Hoa Kỳ.[cần dẫn nguồn] Một số thành viên Đảng Dân chủ Hoa Kỳ và các nhóm nhân quyền cho rằng hệ thống nhà tù bí mật của CIA không cho phép giám sát được các vụ vi phạm nhân quyền và hy vọng chúng sẽ sớm bị đóng cửa. Hỗ trợ nhân đạo và Phát triển quốc tếPhối hợp với các tổ chức khác như Chữ thập đỏ, Liên Hiệp Quốc cung cấp thực phẩm, nước uống, nơi cư ngụ và các dịch vụ nhân đạo khác cho những người dân đang phải chịu nạn đói, phải rời bỏ nhà cửa vì chiến tranh, hay bị ảnh hưởng bởi các thảm họa khác. Các cơ quan nhân đạo chính của Liên Hiệp Quốc là Chương trình Lương thực Thế giới (đã giúp cung cấp thực phẩm cho hơn 100 triệu người mỗi năm ở hơn 80 quốc gia), Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn hiện điều hành các dự án ở hơn 116 nước, cũng như các chiến dịch gìn giữ hòa bình tại hơn 24 quốc gia. Nhiều lần, các nhân viên cứu trợ của Liên Hiệp Quốc đã trở thành mục tiêu của các vụ tấn công (xem Các vụ tấn công vào nhân viên cứu trợ nhân đạo). Liên Hiệp Quốc cũng tham gia vào việc hỗ trợ phát triển, ví dụ thông qua việc đưa ra Các mục tiêu Thiên niên kỷ. Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) là tổ chức đa bên lớn nhất tiến hành hỗ trợ kỹ thuật trên thế giới. Các tổ chức khác như WHO, UNAIDS, và Quỹ thế giới Phòng chống AIDS, Lao và Sốt rét — là các định chế hàng đầu trong cuộc chiến chống lại bệnh tật trên thế giới, đặc biệt tại các nước nghèo. Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc là nhà cung cấp chính các dịch vụ sinh sản. Quỹ này đã giúp giảm tỷ lệ tử vong ở bà mẹ và trẻ em tại 100 quốc gia. Hàng năm Liên Hiệp Quốc đưa ra Chỉ số Phát triển Con người (HDI), một biện pháp so sánh xếp hạng quốc gia theo sự nghèo khổ, học vấn, giáo dục, tuổi thọ, và các yếu tố khác. Liên Hiệp Quốc khuyến khích phát triển con người thông qua nhiều cơ quan và văn phòng của mình:
Ngày 9 tháng 3 năm 2006, Tổng thư ký Kofi Annan đã lập ra Quỹ Cứu trợ Khẩn cấp Trung ương (CERF) dành cho những người dân Châu Phi đang bị nạn đói đe doạ. Liên Hiệp Quốc cũng có một cơ quan gọi là Hội đồng Lương thực Thế giới với mục đích phối hợp các bộ nông nghiệp các nước nhằm giảm nhẹ nạn đói và suy dinh dưỡng. Tổ chức này tạm ngừng hoạt động năm 1993. Các hiệp ước và luật pháp quốc tếLiên Hiệp Quốc đàm phán các hiệp ước như Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển nhằm tránh những nguy cơ xung đột quốc tế tiềm tàng. Những tranh cãi về việc sử dụng các đại dương có thể được phân xử tại một tòa án đặc biệt. Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) là tòa án chính của Liên Hiệp Quốc. Mục tiêu của tòa án này là để phán xử những tranh cãi giữa các quốc gia thành viên. ICJ bắt đầu hoạt động năm 1946 và vẫn đang xem xét nhiều vụ việc. Các trường hợp đáng chú ý gồm:
Cũng có một SCIU (Đơn vị Điều tra những Tội ác Nghiêm trọng) cho Đông Timor. Những gương mặt nổi tiếng của Liên Hiệp QuốcNhiều cá nhân theo chủ nghĩa nhân đạo và người nổi tiếng đã cùng hoạt động với Liên Hiệp Quốc, gồm Amitabh Bachchan, Audrey Hepburn, Eleanor Roosevelt, Danny Kaye, Roger Moore, Peter Ustinov, Bono, Jeffrey Sachs, Angelina Jolie, Mẹ Teresa, Shakira, Jay Z và Nicole Kidman. Cải cáchNhững năm gần đây đã có nhiều lời kêu gọi cải cách Liên Hiệp Quốc. Nhưng vẫn chưa có nhiều triển vọng sáng sủa, chỉ riêng việc các nước chịu đồng thuận với nhau, về cách cải tổ như thế nào. Một số nước muốn Liên Hiệp Quốc đóng một vai trò lớn và hiệu quả hơn trong các công việc chung của thế giới, những nước khác muốn giảm xuống chỉ còn vai trò nhân đạo. Cũng có nhiều lời kêu gọi cải cách quy chế thành viên trong Hội đồng Bảo an nhằm phản ánh chính xác hơn tình thế địa chính trị quốc tế ngày nay (ví dụ tăng số thành viên Châu Phi, Nam Mỹ và Châu Á).[cần dẫn nguồn] Năm 2004 và 2005, những chứng cớ như quản lý kém và tham nhũng liên quan tới Chương trình đổi dầu lấy lương thực cho Iraq dưới thời Saddam Hussein khiến một lần nữa những lời kêu gọi cải cách lại dấy lên.[cần dẫn nguồn] Một chương trình cải cách chính thức đã được Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đưa ra một thời gian ngắn sau khi ông nhậm chức trong nhiệm kỳ đầu tiên ngày 1 tháng 1 năm 1997. Những hành động cải cách liên quan tới việc thay đổi số lượng thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (hiện chỉ phản ánh quan hệ quyền lực năm 1945); biến quá trình hoạt động của bộ máy trở nên công khai hơn, nhấn mạnh trên hiệu quả; biến Liên Hiệp Quốc trở nên dân chủ hơn; và áp đặt một biểu thuế quốc tế trên các công ty sản xuất vũ khí toàn cầu.[cần dẫn nguồn] Tháng 9 năm 2005, Liên Hiệp Quốc đã triệu tập một Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới với sự tham gia của hầu hết nguyên thủ quốc gia các nước thành viên, trong một khóa họp toàn thể của phiên họp toàn thể Đại hội đồng lần thứ 60. Liên Hiệp Quốc gọi cuộc họp thượng đỉnh là “một cơ hội hàng thế hệ mới có một lần nhằm đưa ra những quyết định quan trọng về phát triển, an ninh, nhân quyền và cải cách liên hiệp quốc”.[22] Tổng thư ký Kofi Annan đã đề xuất hội nghị đồng ý về một “thỏa thuận cả gói” để cải cách Liên Hiệp Quốc sửa chữa lại các hệ thống quốc tế vì hòa bình và an ninh, nhân quyền và phát triển, để khiến chúng có khả năng giải quyết những thách thức rất lớn mà Liên Hiệp Quốc sẽ phải đối mặt trong thế kỷ 21. Các nhà lãnh đạo thế giới đã đồng thuận trên một văn bản về những vấn đề đáng chú ý đó như:
Dù các nước thành viên Liên Hiệp Quốc chưa đạt được nhiều thành quả trên con đường cải cách sự quan liêu của tổ chức này, Annan vẫn tiếp tục tiến hành những cải cách trong phạm vi quyền hạn của mình. Ông đã lập ra các văn phòng đạo đức, chịu trách nhiệm trừng phạt những hành vi gian lận tài chính mới bị phanh phui và đề xuất những chính sách ngăn ngừa mới. Tới cuối tháng 12 năm 2005, ban thư ký đã hoàn thành việc xem xét lại toàn bộ ủy nhiệm của Đại hội đồng từ hơn năm năm trước. Việc điều tra này là cơ sở căn bản để các quốc gia thành viên quyết định tăng hay giảm các chương trình hoạt động theo hiệu quả của chúng.[cần dẫn nguồn] Những mục tiêu phát triển thiên niên kỷCác mục tiêu phát triển thiên niên kỷ là tám mục tiêu mà toàn bộ 192 nước thành viên Liên Hiệp Quốc đã đồng ý sẽ hoàn thành vào năm 2015. Borgen Project ước tính rằng cần chi khoảng 40-60 tỷ dollar mỗi năm để đạt tám mục tiêu trên. Tuyên bố thiên niên kỷ Liên Hiệp Quốc, được ký kết tháng 9 năm 2001, hứa hẹn:
Những thành công và thất bại trong các vấn đề an ninhMột phần lớn trong chi tiêu của Liên Hiệp Quốc là để giải quyết các vấn đề cốt lõi về hòa bình và an ninh của Liên Hiệp Quốc. Ngân sách gìn giữ hòa bình năm tài chính 2005-2006 gần 5 tỷ dollar (so với mức gần 1.5 tỷ dollar ngân sách chính của Liên Hiệp Quốc trong cùng giai đoạn)[cần dẫn nguồn], với khoảng 70.000 quân được triển khai cho 17 chiến dịch khắp thế giới. Báo cáo An ninh Con người 2005 [24], do Trung tâm An ninh Con người thuộc Đại học British Columbia đưa ra với sự hộ trợ từ nhiều chính phủ và quỹ khác cho thấy một sự sụt giảm lớn, nhưng phần lớn không được công nhận, trong số lượng các cuộc chiến, những vụ diệt chủng và những vụ vi phạm nhân quyền từ cuối giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Những con số thống kê gồm:
Báo cáo, do Oxford University Press[cần dẫn nguồn], cho rằng sự tuyên truyền cho một học thuyết quốc tế – chủ yếu do Liên Hiệp Quốc đề xướng – là nguyên nhân chính mang lại sự sụt giảm những cuộc xung đột quân sự, dù bản báo cáo cho thấy bằng chứng về sự tranh cãi này đa phần chỉ mang tính hoàn cảnh. Bản báo cáo chỉ ra nhiều khoản đầu tư riêng biệt đã chi:[25]
Tính trung bình, những nỗ lực trên vừa nhiều vừa quá lớn lại phức tạp hơn những chiến dịch thời Chiến tranh Lạnh. Trong lĩnh vực gìn giữ hòa bình, các thắng lợi gồm:
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc bất đắc dĩ phải thực hiện các nghị quyết của Hội đồng Bảo an. Iraq được cho là đã vi phạm 17 nghị quyết của Hội đồng bảo an từ ngày 28 tháng 6 năm 1991 cũng như đã tìm cách né tránh những lệnh trừng phạt kinh tế của Liên Hiệp Quốc. Trong gần một thập kỷ, Israel bất chấp các nghị quyết kêu gọi tháo dỡ các khu định cư của họ tại Bờ Tây và Dải Gaza. Những thất bại đó xuất phát từ tình trạng phụ thuộc đa chính phủ của Liên Hiệp Quốc – ở nhiều khía cạnh đây là một tổ chức gồm 192 quốc gia thành viên và luôn cần phải có sự nhất trí, chứ không phải là một tổ chức độc lập. Thậm chí khi các hành động được 15 nước thành viên Hội đồng bảo an thông qua, Ban thư ký hiếm khi cung cấp đủ các nguồn tài nguyên cần thiết để thực hiện các sứ mệnh đó. Những thất bại khác trong vấn đề an ninh gồm:
Chỉ trích và mâu thuẫnHội đồng bảo an
Liên Hiệp Quốc đã bị chỉ trích vì không thể hoạt động một cách rõ ràng và kiên quyết khi đối đầu trước một vụ khủng hoảng. Những ví dụ gần đây gồm chương trình hạt nhân của Iran và sự diệt chủng trong cuộc xung đột Darfur, Sudan. Vì mỗi nước trong số năm thành viên thường trực của Hội đồng bảo an đều có quyền phủ quyết, và bởi vì họ thường bất đồng với nhau, đã rất nhiều lần không có bất kỳ một hành động nào được thông qua. Thông thường, nhưng không phải là luôn luôn, sự chia rẽ này xuất hiện giữa Hoa Kỳ ở một phía và Trung Quốc, Nga hay cả hai ở phía kia. Một số lần Hội đồng bảo an đồng thuận với nhau nhưng lại thiếu sự quyết tâm hay phương tiện để thực thi các nghị quyết của họ. Một ví dụ gần đây là Cuộc khủng hoảng Israel-Liban 2006, không hành động nào được thực hiện theo Nghị quyết 1559 và Nghị quyết 1701 để giải giáp các lực lượng du kích phi chính phủ như Hezbollah. Những lời chỉ trích đặt nghi vấn về hiệu năng và sự thích hợp của Hội đồng bảo an bởi vì khi vi phạm vào một nghị quyết do Hội đồng này đưa ra, thường cũng không xảy ra hậu quả nào cả. (Xem Cải cách Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.) Giám sát nhân quyềnCác quốc gia như Sudan và Libya, với những nhà lãnh đạo rõ ràng có bảng thành tích nhân quyền kém cỏi vẫn(theo quan điểm của Mỹ và một số nước được là thành viên của Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Nhân quyền (HRC) cũ,[32][32] và việc Libya được bầu làm chủ tịch của Ủy ban này, đã từng là một vấn đề bàn cãi. Những nước đó cho rằng, các quốc gia phương tây, mà họ cho là có thái độ thù địch thực dân và tàn bạo, không có quyền đặt vấn đề về tư cách thành viên của họ trong Ủy ban này. Tuy nhiên vào ngày 15 tháng 3 năm 2006 Đại hội đồng đã thông qua nghị quyết thành lập một cơ chế mới – Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc – để thay thế Ủy ban trên. Cơ quan này có các quy định chặt chẽ hơn về quy chế thành viên gìn giữ hòa bình gồm cả một bản thành tích chung về nhân quyền và tăng số lượng phiếu cần bầu cần thiết để một quốc gia có đủ tư cách tham gia, từ hình mẫu bầu theo danh sách vùng với Hội đồng kinh tế xã hội 53 thành viên chuyển sang tất cả một nửa trong số 192 thành viên của Đại hội đồng. Ngày 9 tháng 5 năm 2006 47 thành viên mới được bầu vào hội đồng. Trong khi một số nước như Cuba, Pakistan, Nga, Ả Rập Saudi và Azerbaijan được bầu[33][34][35], thì một số nước khác không có mặt trong Hội đồng mới như:
Vì những thay đổi trong cơ chế thành viên giữa Ủy ban và Hội đồng, số lượng quốc gia bị Hội đồng Tự do coi là “Không tự do” chiếm hơn một nửa. Thiếu hiệu năng do tính quan liêuLiên Hiệp Quốc đã bị cáo buộc thiếu tính hiệu năng và lãng phí vì cơ cấu cồng kềnh và quan liêu quá mức của nó. Trong thập niên 1990, Hoa Kỳ, nước hiện đóng góp nhiều nhất cho ngân sách tổ chức này, đã coi sự thiếu hiệu quả là một nguyên nhân khiến họ trì hoãn các khoản đóng góp. Việc chi trả những khoản thiếu này chỉ được thực hiện với điều kiện về sáng kiến cho một cuộc cải cách lớn. Năm 1994 Văn phòng Dịch vụ Giám sát Nội bộ (OIOS) được thành lập theo quyết định của Đại hội đồng nhằm đóng vai trò giám sát tính hiệu năng của tổ chức.[36] Một chương trình cải cách đã được đề xuất, nhưng vẫn chưa được Đại hội đồng thông qua.[37][38] Sự phân biệt đối xử chống IsraelLiên Hiệp Quốc cũng đã bị cáo buộc thực hiện tiếp cận một chiều đối với các vấn đề Trung Đông và cuộc xung đột Israel-Palestine.[39][40] Những lời cáo buộc cho rằng Israel đã bị phân biệt đối xử trong tổ chức quốc tế này với cách đối xử chỉ trích một chiều độc nhất từ trước tới nay. Không giống như tất cả các nhóm người tị nạn khác, người Palestine có cơ quan riêng của họ bên trong Liên Hiệp Quốc (Cơ quan Cứu trợ và Việc làm Liên Hiệp Quốc cho người tị nạn Palestine) tách biệt với Văn phòng Cao Ủy Liên Hiệp Quốc về Người tị nạn, vốn chịu trách nhiệm về tất cả các vấn đề người tị nạn trên thế giới.[41] Cho tới tận năm 2000, Israel không có tư cách thành viên bên trong bất kỳ một nhóm cấp vùng nào của Liên Hiệp Quốc. Trên thực tế, điều này có nghĩa là Israel bị cấm hoạt động trong các cơ quan Liên Hiệp Quốc như Hội đồng Bảo an. Việc cho phép Israel tham gia đầy đủ hơn bên trong Liên Hiệp Quốc với tư cách là một quốc gia thành viên Tây Âu và các nhóm cấp vùng khác gần đây chỉ mang tính tạm thời và bắt buộc phải được gia hạn định kỳ. Israel chỉ được phép tham gia vào các hoạt động tại Thành phố New York của Liên Hiệp Quốc và bị loại trừ khỏi các văn phòng Liên Hiệp Quốc tại Geneva, Nairobi, Roma và Wien là những văn phòng quản lý các vấn đề như nhân quyền và kiểm soát vũ khí. Việc chỉ trích Israel đã trở thành một công việc thường ngày đối với nhiều cơ quan Liên Hiệp Quốc như Hội đồng Nhân quyền. Bất lực trước vấn đề diệt chủng và nhân quyềnLiên Hiệp Quốc cũng bị cáo buộc đã cố tình làm ngơ trước hoàn cảnh khó khăn của nhiều người trên khắp thế giới, đặc biệt tại nhiều vùng ở Châu Á, Trung Đông và Châu Phi. Những ví dụ hiện tại gồm việc Liên Hiệp Quốc không hành động gì trước chính phủ Sudan tại Darfur,[42] việc thanh lọc sắc tộc của chính phủ Trung Quốc tại Tây Tạng và Israel tại các vùng lãnh thổ Palestine. Bê bối trong chương trình đổi dầu lấy lương thựcChương trình đổi dầu lấy lương thực được Liên Hiệp Quốc đưa ra năm 1995. Mục tiêu của nó là cho phép Iraq bán dầu ra thị trường thế giới để đổi lấy lương thực, thuốc men, và các đồ nhu yếu phẩm khác cho người dân Iraq bị ảnh hưởng bởi lệnh cấm vận kinh tế quốc tế, mà không cho phép Chính phủ Iraq tái xây dựng lại lực lượng quân đội của mình sau cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất. Chương trình đã bị ngắt quãng vào cuối năm 2003 trước những lời cáo buộc ngày càng lan rộng về sự lạm dụng và tham nhũng. Cựu giám đốc, Benon Sevan người Síp, là người đầu tiên bị đình chỉ chức vụ và sau đó phải từ chức khỏi Liên Hiệp Quốc, khi một bản báo cáo tạm thời của ban điều tra do Liên Hiệp Quốc hỗ trợ dưới sự lãnh đạo của Paul Volcker kết luận rằng Sevan đã nhận đút lót từ phía chính quyền Iraq và đề xuất việc bãi bỏ quyền bất khả xâm phạm thuộc Liên Hiệp Quốc của ông ta nhằm mở đường cho một cuộc điều tra tội phạm.[43] Dưới sự bảo hộ của Liên Hiệp Quốc, số lượng dầu mỏ trị giá hơn 65 tỷ đôla của Iraq đã được bán ra thị trường thế giới. Về mặt chính thức, khoảng 46 tỷ đã được chi cho các mục đích nhân đạo. Số còn lại được dành trả cho những khoản bồi thường cho cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh thông qua một Quỹ Chi trả, số tiền quản lý và hoạt động của Liên Hiệp Quốc cho chương trình này chiếm 2,2%, và chương trình thanh sát vũ khí chiếm 0,8%. Con trai của Kofi Annan là Kojo Annan cũng dính líu tới vụ này, với lời buộc tội đã kiếm được một cách bất hợp pháp nhiều hợp đồng trong chương trình đổi dầu lấy lương thực của Liên Hiệp Quốc cho công ty Cotecna Thụy Sĩ. Ngoại trưởng Ấn Độ, Natwar Singh, đã phải từ chức vì vai trò của ông trong vụ này.[cần dẫn nguồn] Chính phủ Úc đã lập ra Cole Inquiry vào tháng 11 năm 2005 nhằm điều tra xem liệu Ủy ban Bột mì Úc (Australian Wheat Board – AWB) có vi phạm điều luật nào khi thực hiện những hợp đồng của họ với Iraq trong Chương trình đổi dầu lấy lương thực. AWB đã trả chính quyền của Saddam Hussein khoảng 300 triệu đôla, thông qua một công ty bình phong là Alia, để có được những hợp đồng cung cấp bột mì cho Iraq. Thủ tướng Úc (John Howard), Phó thủ tướng (Mark Vaile) và Bộ trưởng ngoại giao (Alexander Downer) bác bỏ việc họ có biết về việc đó khi bị gọi ra điều trần trước ủy ban. Đã có thông tin cho rằng dù chính phủ Úc không điều hành AWB một cách đủ hiệu quả để ngăn chặn sự việc đó, Liên Hiệp Quốc đúng ra phải tích cực hơn trong việc yêu cầu chính phủ nước này tiến hành điều tra. Cole Inquiry dự định sẽ báo cáo vào ngày 24 tháng 11 năm 2006.[44] Những cáo buộc về lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp QuốcTháng 12 năm 2004, trong chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tại Congo, ít nhất 68 vụ bị cho là cưỡng hiếp, mại dâm và hơn 150 cáo buộc khác đã bị các nhà điều tra Liên Hiệp Quốc phát giác, tất cả đều có liên quan tới binh lính gìn giữ hòa bình, đặc biệt là các binh lính từ Pakistan, Uruguay, Maroc, Tunisia, Nam Phi và Nepal. Những binh lính gìn giữ hòa bình từ 3 trong số các quốc gia này cũng bị cáo buộc cố tình cản trở quá trình điều tra.[45] Tương tự, một chuyên gia hậu cần Liên Hiệp Quốc người Pháp tại Congo cũng bị cáo buộc hãm hiếp và khiêu dâm trẻ em trong cùng tháng. BBC đã thông báo rằng các cô gái trẻ đã bị binh lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc lạm dụng và hãm hiếp tại Port-au-Prince.[46] Những lời cáo buộc tương tự cũng đã được nêu ra tại Liberia [30] và Sudan.[47] Chính sách nhân sựLiên Hiệp Quốc và các cơ quan của mình được hưởng quy chế miễn trừ đối với pháp luật tại các quốc gia nơi họ hoạt động, gìn giữ không thiên vị với sự tôn trọng nước chủ nhà, và quốc gia thành viên.[cần dẫn nguồn] Việc thuê mướn và sa thải, giờ làm việc và môi trường làm việc, thời gian nghỉ, hưu trí, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tuổi thọ, lương bổng, tiền trợ cấp xa gia đình và các điều kiện sử dụng lao động chung thực hiện theo các quy định của Liên Hiệp Quốc. Sự độc lập này cơ phép các cơ quan thực hiện các chính sách nguồn nhân lực thậm chí trái ngược với luật lệ của nước chủ nhà hay quốc gia thành viên. Ví dụ, một người không đủ tư cách làm việc tại Thụy Sĩ, nơi Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) đóng trụ sở, không thể được làm việc cho ILO trừ khi anh/cô ta là người của quốc gia thành viên ILO. Người hút thuốcTổ chức Y tế Thế giới, một cơ quan của Liên Hiệp Quốc, đã cấm tuyển những người hút thuốc từ ngày 1 tháng 12 năm 2005, nhằm khuyến khích một môi trường làm việc không thuốc lá.[48] Cũng có một lệnh cấm hút thuốc bên trong trụ sở Liên Hiệp Quốc, nhưng một số quốc gia thành viên cho phép hút thuốc bên trong đại sứ quán của mình tại Liên Hiệp Quốc. Hơn nữa, những người sử dụng ma tuý không được phép làm việc cho Liên Hiệp Quốc. Hôn nhân đồng giớiDù có sự độc lập trong những vấn đề chính sách nguồn nhân lực, các cơ quan Liên Hiệp Quốc tự nguyện áp dụng các điều luật của các quốc gia thành viên về vấn đề hôn nhân đồng giới, cho phép các quyết định về tình trạng sử dụng nhân công có hôn nhân đồng giới được đưa ra dựa theo từng quốc gia. Họ công nhân các cuộc hôn nhân đồng giới chỉ khi người đó là công dân của các quốc gia công nhận sự hôn nhân đó. Một số cơ quan cung cấp khoản trợ cấp hạn chế cho những vợ/chồng người địa phương của nhân viên của mình. Liên Hiệp Quốc trong văn hóa đại chúngMột hoạt động giáo dục được gọi là Mô hình Liên Hiệp Quốc đã trở nên quen thuộc trong các trường học trên khắp thế giới. Mô hình Liên Hiệp Quốc có các sinh viên đóng vai (thông thường) một cơ cấu trong Hệ thống Liên Hiệp Quốc để giúp họ phát triển khả năng trong tranh luận và trong ngoại giao. Những cuộc hội thảo được cả các trường đại học và cao đẳng tổ chức. Các ủy ban thường được đưa ra làm mô hình gồm các Ủy ban Đại hội đồng, các ủy ban ECOFIN, Hội đồng bảo an và một số lớn các ủy ban chuyên trách như một Hội đồng Lịch sử An Ninh hay Nhóm Quản lý Cấp cao. Các sinh viên tranh luận về các chủ đề Liên Hiệp Quốc đang tham gia tháo gỡ và tìm cách thể hiện quan điểm của quốc gia mình nhằm tiến tới một giải pháp chung. Nhận thức Liên Hiệp Quốc với tư cách một tổ chức lớn, bao hàm chính phủ các nước trên thế giới khiến nhiều ý tưởng về chính phủ thế giới và dân chủ toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều. Liên Hiệp Quốc cũng là mục tiêu của các học thuyết âm mưu.[49] Xem thêm
Tham khảo
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Bản đồ
Thể loại:
Nhà máy thủy điện Hòa BìnhBách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nhà máy Thủy điện Hoà Bình được xây dựng tại hồ Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, trên dòng sông Đà thuộc miền bắc Việt Nam. Trước khi nhà máy thủy điện Sơn La khánh thành đây là nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á. Nhà máy do Liên Xô giúp đỡ xây dựng và vận hành. Công trình khởi công xây dựng ngày 6 tháng 11 năm 1979, khánh thành ngày 20 tháng 12 năm 1994. Công suất sản sinh điện năng theo thiết kế là 1.920 megawatt, gồm 8 tổ máy, mỗi tổ máy có công suất 245.000 kilowatt. Sản lượng điện hàng năm là 8,16 tỷ kilowatt giờ (KWh). Bài thơ Tiếng đàn Balalaika trên sông Đà do nhà thơ Quang Huy sáng tác có chủ đề nói về sự giúp đỡ của nhân dân Liên Xô và Việt Nam trong việc xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình. Mục lụcQuá trình xây dựngCổng trước Thủy Điện Hòa Bình
Ngày 6 tháng 11 năm 1979 khởi công xây dựng tại đây Ngày 12 tháng 01 năm 1983: Ngăn sông Đà đợt 1 Ngày 09 tháng 01 năm 1986: Ngăn sông Đà đợt 2 Ngày 30 tháng 12 năm 1988: Tổ máy số 1 hòa lưới điện quốc gia. Ngày 04 tháng 04 năm 1994: Tổ máy số 8 hòa lưới điện quốc gia. Ngày 20 tháng 12 năm 1994, sau 15 năm xây dựng công trình, trong đó có 9 năm vừa quản lý vận hành vừa giám sát thi công các tổ máy, Nhà máy thủy điện Hoà Bình đã được khánh thành. Ngày 19/10/2007, Ông Đào Văn Hưng, Chủ tịch Hội đồng quản trị EVN đã ký Quyết định số 845/QĐ-EVN-HĐQT về việc phê duyệt Quyết toán vốn đầu tư công trình Nhà máy Thủy điện Hoà Bình với giá trị là: 1.904.783.458.926 đồng. Nhiệm vụNhà máy Thủy điện Hòa Bình
Sông Đà là một trong ba phụ lưu chính của hệ thống sông Hồng chiếm 55%lượng nước. Công trình thủy điện Hòa Bình góp phần quan trọng vào việc phòng chống lũ lụt cho vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, trong đó có thủ đô Hà Nội.
Nhà máy thủy điện Hòa Bình là nguồn cung cấp điện chủ lực của toàn bộ hệ thống điện Việt Nam. Năm 1994, cùng với việc khánh thành nhà máy và tiến hành xây dựng đường dây 500KV Bắc – Nam từ Hòa Bình tới trạm Phú Lâm (Thành phố Hồ Chí Minh) hình thành một mạng lưới điện quốc gia. Công trình này góp phần đắc lực trong việc cung cấp nguồn điện cho miền nam và miền trung Việt Nam.
Đập thủy điện Hòa Bình quan trọng vào việc cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp ỏ vùng hạ lưu trong đó có đồng bằng sông Hồng, nhất là trong mùa khô. Điều tiết mực nước sông đồng thời đẩy nước mặn ra xa các cửa sông.
Cải thiện việc đi lại bằng đường thủy ở cả thượng lưu và hạ lưu. Năm 2004 công trình tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ được vận chuyển chủ yếu bằng con đường này. Tặng thưởngMột cửa xả nước
Mất mátTrong quá trình xây dựng thủy điện Hòa Bình,168 người đã hy sinh,trong đó có 11 công dân Liên Xô.Bia tưởng niệm những người đã hy sinh vẫn còn ở đây. Thư gửi thế hệ năm 2100Tại sân Nhà truyền thống Thủy điện Hòa Bình có một khối bê tông hình thang, trên đó có tấm biển thép khắc chìm dòng chữ: “Nơi lưu giữ bức thư của những người xây dựng Thủy điện Hòa Bình gửi thế hệ mai sau. Thư được mở vào ngày 1-1-2100”. “Kho lưu trữ” lá thư thực chất chỉ là một khối bê tông hình thang có cạnh đáy 2 mét, chiều cao 1,8 mét, cạnh trên 0,8 mét, nặng gần 10 tấn. Sau khi được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng và đồng chí Đỗ Mười đồng ý, lãnh đạo Tổng Công ty Xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình mời một số nhà văn, nhà báo, nhà trí thức tham gia viết thư. Tuy nhiên, đồng chí Đỗ Mười cũng khuyên là vì Việt Nam chưa có tục lệ này, cho nên không được “chôn” vào lòng đập mà nên đặt ở chỗ nào trang trọng. Và thế là sau khi bàn bạc với chuyên gia Liên Xô, lãnh đạo tổng công ty quyết định đặt lá thư đó vào lòng khối bê tông. Lá thư hiện nay để trong khối bê tông là một công trình tập thể. Sau khi lá thư được hoàn chỉnh về nội dung, một cán bộ viết chữ đẹp được giao nhiệm vụ chép hai bản đó với tiếng Việt và tiếng Nga bằng mực Tàu.[1] Thơ ca và nghệ thuậtNhà thơ Quang Huy đã sáng tác bài thơ Tiếng đàn Balalaika trên sông Đà vào tháng 11 năm 1979, khi nhà máy mới được khởi công. Bài thơ lấy hình ảnh một cô gái Nga đang chơi một bản nhạc bằng chiếc đàn balalaika bên sông Đà để nói lên tình bằng hữu Việt-Xô và sự giúp đỡ của nhân dân Liên Xô trong việc xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình. Bài thơ đạt giải nhất trong cuộc thi thơ năm 1983 của Hội hữu nghị Việt-Xô. Có 14 nhạc sĩ đã phổ nhạc cho bài thơ này, trong đó phiên bản của nhạc sĩ An Thuyên đạt giải nhất của Hội Âm nhạc năm 1984.[2] Một đoạn trích của bài thơ đã được đưa vào sách giáo khoa ngữ văn tập một của Việt Nam[3] (…) Lúc ấy Ngày mai ẢnhChú thíchLiên kết ngoàiThể loại:
Bài viết mới trên Tình yêu cuộc sống
Trở về trang chính |
Pingback: Chào ngày mới 21 tháng 12 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Bên lề chính sự: Nhìn xa hơn 2016 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Mùa đông của anh | Khát khao xanh
Pingback: Bên lề chính sự: Sự kiện chính cuối năm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: CNM365 Chào ngày mới 365 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Những bài ca bình minh | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chào ngày mới 24 tháng 12 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đêm Thánh vô cùng | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ông già Noel thật | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Đi tìm lịch sử bị quên lãng | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chào ngày mới 25 tháng 12 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Mùa xuân quê hương | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Trời nhân loại mênh mông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Dạo chơi cùng Goethe | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Helen Keller người mù điếc huyền thoại | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ngày mới yêu thương | Khát khao xanh
Pingback: Hoàng Kim về với rằm xuân | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Chào ngày mới 28 tháng 12 | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ông bà Của cổ tích giữa đời thường | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Thầy bạn và học trò Lương Định Của | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lương Định Của nhà bác học nông dân | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lương Định Của chính khách giữa lòng dân | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lương Định Của luồng gió từ Hà Nội | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lương Định Của những năm tháng tuổi trẻ | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lương Định Của quê hương và dòng họ | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Lương Định Của cuộc đời và sự nghiệp | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Con đường lúa gạo Việt Nam | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Ung Khâm Liêm xưa và nay | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Nhớ Đặng Dung đêm thanh mài kiếm | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Giáo sư Mai Văn Quyền người Thầy nghề nông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Khatkhaoxanh 2015 in blogging | Khát khao xanh
Pingback: Bên lề chính sự | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Thầy Mai Văn Quyền nghề nông | Tình yêu cuộc sống
Pingback: Thầy Quyền thâm canh lúa | Tình yêu cuộc sống