CNM365. Chào ngày mới 28 tháng 2. Wikipedia Ngày này năm xưa. Năm 1077– Trận Như Nguyệt kết thúc, nhà Lý nước Đại Việt thắng lợi trong kháng chiến chống nhà Tống (Trung Hoa). Năm 1939 – ngày sinh của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Năm 202 TCN – Sau khi đánh bại Hạng Vũ, Hán vương Lưu Bang xưng đế, tức Hán Cao Tổ, sáng lập ra triều Tây Hán, xem tiếp…
Nhớ sông Thương, sông Cầu
SÔNG THƯƠNG
Hoàng Kim
Ta chưa về lại
sông Thương (*)
ghé thăm bến đợi
hoàng hôn
trời chiều
Sông Cầu
nước chảy
trong veo
Ngại chi chí thạnh
cách đèo
sông
ngăn.
Ước Trời chở gió
vào Nam
chở mây
ra Bắc
để làm
thành mưa.
Biển trời
cá nước duyên ưa
kể chi bến đợi
sông chờ
hỡi em.
- Bài thơ Qua sông Thương gửi về bến nhớ (Hoàng Kim)
Qua sông Thương gửi về bến nhớ
Hoàng Kim
Ta lại hành quân qua sông Thương
Một đêm vào trận tuyến
Nghe Tổ Quốc gọi lên đường!
Mà lòng ta xao xuyến
Và hồn ta căng gió reo vui
Như dòng sông Thương chảy mãi về xuôi
Hôm nay ta ra đi
Súng thép trên vai nóng bỏng
Không qua nhịp cầu ngày xưa soi bóng
Phà đưa ta sang sông
Rạo rực trời khuya, thao thức trong lòng
Rầm rập dòng sông sóng nhạc
Như tình thân yêu muôn vàn của Bác
Tiễn đàn con ra đi
Tầu cập bến rầm rì tiếng máy
Tiếng động cơ sục dưới khoang tàu
Hay sôi ở trong lòng đất cháy
Hay giữa tim ta thúc giục lên đường
Chào bờ Bắc thân yêu hẹn ngày trở lại!
Ôi những con thuyền đèn trôi suốt canh khuya
Có khua nhẹ mái chèo qua bến cũ
Nhắn cho ai ngày đêm không ngủ
Rằng ta đi chưa kịp báo tin vui
Đêm nay bên dòng nước nghiêng trôi
Sông vẫn thức canh trời Tổ Quốc
Rạo rực lòng ta bồi hồi tiếng hát
Đổ về bến lạ xa xôi
Với biển reo ca rộng mở chân trời
Hoàng Kim
(Rút trong tập THƠ VIỆT NAM 1945-2000
Nhà Xuất bản Lao động 2001, trang 646)
Nguồn: Qua sông Thương gửi về bến nhớ
(ảnh Sông Thương của Mưa xanh)
Những bài viết cùng chủ đề sông Thương, bến đợi (Sưu tầm)
QUA SÔNG THƯƠNG
Lưu Quang Vũ
*Sao tên sông lại là Thương
Để cho lòng anh nhớ?
Người xưa bảo đây đôi dòng lệ nhỏ
Những suối buồn gửi tới mênh mang
Đò về Nhã Nam
Đò qua Phủ Lạng
Mưa chiều nắng rạng
Đã bao năm?
Nỗi đau cũ thật không cùng
Sông cũng thành nước mắt
Hôm nay anh lại qua sông
Đò anh đi giữa những đóa sen hồng
Ong chấp chới bay, đây đương mùa dứa
Đò ngược xuôi chở trái chín vàng
Thơm ngát mật hương mùa hạ
Thôn xóm đôi bờ xanh biếc quá
Những đường xe chạy đỏ bụi bay
Những tiếng cười khúc khích sau vườn cây
Nước vỗ mạn thuyền dào dạt
Buồm trắng nắng căng phồng gió mát
Phủ Lạng thương sừng sững thân cầu
Giặc đánh hai lần ta lại sửa mau
Dòng nước đêm nay đựng trời sao
Hay ánh đèn điện sáng
Lấp lánh công trình phân đạm
Bóng ai kia trên giàn giáo tầng cao?
Thôi chẳng mất công tìm nhau
Hãy lắng nghe loa truyền tin vui quá nhỉ?
Sông Thương ơi, đang những ngày đánh Mỹ
Nên đôi bờ nòng pháo hướng trời mây
Những cô lái đò súng khoác trên vai
Đời đẹp vô cùng dòng lệ hóa dòng vui
Đò anh đi vẫn mùa sen thắm
Xuôi dòng về ngã ba sông
Bỗng ào ào nước mênh mông
Vui gì bằng những dòng sông gặp gỡ?
Mang vè bóng làng bóng người bóng lá
Những đò trái chín hẹn hò nhau …
Mùa đánh Mỹ qua sông xưa nước mắt
Mà vạt áo người nay chẳng ướt
Chỉ nghe lồng lộng tiếng ca vang
Nghe sông gọi người đi đánh giặc
Đất nước nặng tình phù sa bát ngát
Tâm hồn ta tắm với bóng mây trong
Yêu quá sông Thương nước chảy đôi dòng
BẾN ĐỢI
Nguyễn Tuyết Hạnh
Mình về Bến đợi
Nghe anh
Con sông xưa cũ
Bỗng
Xanh
Nhức lòng
Gió đùa vạt nắng
Đi rong
Câu ca ai hát
Uốn
Cong
Cả chiều
Thôi thì lấy ít làm nhiều
Giữa dòng chiếc bách
Chở chiều
Vào đêm…
Ánh trăng buông dải lụa mềm
Buộc mình hai đứa
Một đêm
Đá vàng…
Chẳng đành mọi sự nhỡ nhàng
” Dư âm tiếng hát…” *
Mênh mang đất trời
Ánh trăng xanh cõi xa vời
Buộc mình hai đứa
Một lời
Tri âm….
* Bài hát Dư âm ( NS Nguyễn Văn Tý )
NHỚ SÔNG THƯƠNG
Nhật Minh (Diễn đàn Bắc Giang Online)
Tôi là một trong những người may mắn, may mắn bởi tuổi thơ tôi được tắm mát bên hai dòng sông quê hương: sông Cầu thơ mộng và sông Thương đôi dòng trong đục. Nếu như bao kỉ niệm khi nhỏ đã gắn với dòng sông Cầu cùng những chiều chăn trâu, cắt cỏ, những buổi mò hến, bơi sông…, và còn nữa những trò trẻ dại: ném tàu qua lại, thi bơi xa mùa nước lên.., thì dòng sông Thương mang cho tôi cảm giác thân thương, gần gũi suốt một thời “ngày hai buổi đến trường”.
Sông Thương nước chảy đôi dòng.
Bên trong bên đục em trông bên nào?
Nếu không có những ngày sang sông học thêm, thì có lẽ hình ảnh con sông Thương cũng bình thường như bao con sông khác trong tiềm thức của tôi, như bao con sông tôi biết đến qua môn địa lý thầy dậy ở trường. Tuần ba buổi, sau khi tan lớp tôi lại lọc cọc con xe đạp cà tàng thẳng hướng Phà Bến Đám. Điểm dừng chân ăn trưa của tôi có khi là Neo, có khi là bất kỳ quán lá nào ven đường, hay cũng ngạy tại các quán chân dốc Phà. Chúng tôi lúc ba, lúc bốn…nhưng hễ xuống phà là lại trở thành những cậu nhóc lái phà thực thụ. Dần thành quen, có ngày khoái chí rủ nhau lái cho vài ba quệt phà ngang, mệt bở hơi tai. Mệt nhưng vui, cái vui mà chẳng bao giờ có lại được.
Nước dòng sông Thương đoạn Phà có khi trong khi đục. Mùa nước cạn, dòng sông hiền hòa, nước trong veo, mát lạnh. Mùa nước lên, tháng 6 tháng 7, nước đục như nước sông Hồng, chảy mạnh hơn, các phao cảnh báo cũng nhiều hơn. Nhiều lần cầm đòn kéo cáp, giữa dòng sông, cố tìm cho ra cái danh giới giữa hai dòng trong – đục mà sao chẳng thấy? Hỏi ra mới biết cái khúc có trong, có đục đó không phải ở đây, mà ở trên đoạn cao hơn nửa, trên tít Thị xã xa xa cơ. Một đoạn làm nên đặc tính, nét duyên dáng của cả 1 dòng sông, một dòng sông “nước chảy đôi dòng”.
Sông Hương xứ Huế mềm mại, thiết tha như chính dánh hình người thiếu nữ Huế, trong veo từ ngay cả giọng nói, lời chào. Sông Đuống trường kỳ, hình tượng qua những câu thơ đứt ruột: “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”…Mỗi con sông gắn với mỗi vùng đất, đều có nét riêng. Tên mỗi con sông cũng ngân lên chính cái hồn của nó vậy. Sông Thương…..nghe vừa mềm mại, trìu mến, mộng mơ, nhưng cũng rất cá tính.
Sao tên sông lại là Thương
Để cho lòng anh nhớ?
(Lưu Quang Vũ)
Sông Thương đã đi vào thơ ca cũng bằng chính những nét độc đáo:
…Một dòng sông dôi dòng thơ mộng:
Có ai đã từng nghe Chiều sông Thương mà không cảm thấy như được thương, được nhớ? Tiếng hát cứ ngân vang như dòng sông hiền hòa, êm dịu nâng niu hồn người nghe:
Đi suốt cả chiều quê
vẫn chưa về lối cũ
Dùng dằng câu quan họ
nở tím bờ sông Thương
Nước vẫn chảy đôi dòng,
chiều uốn cong lưỡi hái
Những gì sông muốn nói
cánh buồm giờ hát lên
(Chiều Sông Thương – An Thuyên, thơ Hữu Thỉnh)
Đạn bom chiến tranh không thể làm phai đi chất thơ mộng, mĩ miều của đôi dòng nặng trĩu phù sa:
Đất nước nặng tình phù sa bát ngát
Tâm hồn ta tắm với bóng mây trong
Yêu quá sông Thương nước chảy đôi dòng
(Lưu Quang Vũ)
Sông Thương một dải mờ xanh,
Yêu thương anh xẻ ngọt lành anh trao.
(Ngô Trọng Đình)
Sông Thương không cuồn cuộn, oai hùng như sông Đà, không “mặt im lìm, đáy vùi sâu xác giặc” như sông Cầu, sông Mã…, nó mềm mại, thiết tha như mái tóc dài thiếu nữ:
Mai đành xa sông Thương tóc dài
Vạn Kiếp tình yêu anh gửi lại
Xuân ơi xuân, lẽ nào im lặng mãi
Hạ chưa về… nhưng nắng đã Côn Sơn
(Hoàng Nhuận Cầm)
…Một dòng sông anh hùng:
Cùng con người, sông cũng thao thức cùng chiến tuyến chống quần thù. Sông vẫn thở và người vẫn hát, hát trong lửa đạn chiến tranh:
Sông Thương ơi, đang những ngày đánh Mỹ
Nên đôi bờ nòng pháo hướng trời mây
Những cô lái đò súng khoác trên vai
Đời đẹp vô cùng dòng lệ hóa dòng vui
………………………
Nghe sông gọi người đi đánh giặc
Đất nước nặng tình phù sa bát ngát
Tâm hồn ta tắm với bóng mây trong
Yêu quá sông Thương nước chảy đôi dòng
(Lưu Quang Vũ)
“Quê hương ai cũng có một dòng sông êm đềm…”: Lời bài hát như đưa chúng ta về với quá khứ, về với tuổi thơ, về với quê hương, nơi có dòng sông yêu dấu. Thời gian có thể làm thay đổi con sông đó, nhưng hình ảnh về một con sông tuổi thơ đã đi vào thi ca, đi vào tiềm thức thì mãi rõ nét như chính tên gọi của nó vậy. Có ai quên được quê hương? Nhớ về quê hương có ai không nhớ về những dòng sông êm đềm, thơ mộng? Sông Thương vẫn cứ mãi êm đềm, thơ mộng như chính tự nó, là cội nguồn cảm hứng sáng tác vô bờ bến.
…Nhớ con sông Thương đôi dòng trong đục,
Như dải lụa đào hai sắc thắm em mang,
Nhớ ngọn Non Voi, nhớ dòng Như Nguyệt,
Nhớ những buổi chiều cắt cỏ, chăn trâu…
Ước cho dòng sông Thương mãi cứ hiền hòa, thơ mộng.
Con Phà không còn nữa, một con cầu mới ôm hai bờ khoảng cách, nhưng những kỷ niệm với sông Thương thì không bao giờ hết.
Sông Thương
Sông Thương | |
Sông Nhật Đức | |
Sông | |
Quốc gia | ![]() |
---|---|
Tỉnh | Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương |
Các chi lưu | |
– tả ngạn | sông Hóa |
– hữu ngạn | sông Bắc Cầu, sông Trung, sông Sỏi |
Nguồn | |
– Vị trí | dãy núi Na Pa Phước, làng Man, Vân Thủy, Chi Lăng, Lạng Sơn |
– Cao độ | 600 m (1.969 ft) |
Cửa sông | Ngã ba Lác |
– vị trí | Lục Đầu Giang, Yên Dũng, Bắc Giang, Việt Nam |
– tọa độ | 21°7′26″B 106°17′52″Đ |
Chiều dài | 157 km (98 mi) |
Lưu vực | 6.640 Km² (2.564 mi²) |
Lưu lượng | |
– trung bình | 46,5 m³/s (1.642 ft³/s) |
Sông Thương hay sông Nhật Đức (xưa còn gọi là sông Nam Bình, sông Lạng Giang, sông Long Nhỡn) là một sông lớn ở địa phận các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương và là một chi lưu của sông Thái Bình
Sông Thương bắt nguồn từ dãy núi Na Pa Phước, làng Man, xã Vân Thuỷ, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, chảy trong máng trũng Mai Sao – Chi Lăng và chảy vào địa phận tỉnh Bắc Giang. Sông chảy qua thành phố Bắc Giang (tên cũ là Phủ Lạng Thương) và điểm cuối là thị trấn Phả Lại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Tại đây nó hợp lưu với sông Lục Nam (ngã ba Nhãn) và sông Cầu (ngã ba Lác), rồi tạo thành sông Thái Bình tại chính ngã ba Lác.
Trên địa phận tỉnh Bắc Giang, sông Thương chảy qua các huyện Lạng Giang, Yên Thế, Tân Yên, Thành phố Bắc Giang và huyện Yên Dũng.
Sông Thương có nhánh lưu vực sông lớn là sông Sỏi, sông Máng và Sông sim. Sông Sỏi chảy từ huyện Yên Thế (Bắc Giang), chúng hợp lưu tại nơi tiếp giáp của ba huyện: Yên Thế, Tân Yên và Lạng Giang.Sông Máng là một sông nhân tạo tại Việt Nam, sông được hình thành từ thời Pháp thuộc và có chiều dài 52 km, sông Máng nối với sông Cầu tại khu vực gần thác Huống (đập Huống) tại khu vực trung tâm tỉnh Thái Nguyên và nối với sông Thương tại Bến Thôn thuộc khu vực tây bắc tỉnh Bắc Giang, sông Máng là một hệ thống kênh dùng cho cả mục đích nông nghiệp và giao thông, phục vụ chủ yếu cho huyện Phú Bình (Thái Nguyên), huyện Tân Yên (Bắc Giang) và hai xã: Minh Đức và Nghĩa Trung (huyện Việt Yên), các kênh dẫn nhỏ của sông cũng phục vụ tưới tiêu cho nhiều khu vực khác trong tỉnh Bắc Giang, trên sông có một hệ thống âu thuyền được xây dựng từ những năm 20 của thế kỉ 20 để đưa thuyền bè từ Bắc Giang và các tỉnh đồng bằng tới Thái Nguyên. Sông Sim [ngòi sim] bắt nguồn từ Thái Nguyên chảy qua các huyện hiệp hòa và huyện Việt Yên đến xã Đa Mai thì hợp lưu với dòng sông Thương nước sông Thương vốn trong xanh nay có dòng nước đục thêm vào thành ra sông có hai dòng chảy song song, một bên trong, một bên đục. Do đó hiện tượng này có thể nhìn thấy được tới thành phố Bắc Giang.
Sông Thương có chiều dài 157 km, diện tích lưu vực: 6.640 km². Giá trị vận tải được trên 64 km, từ Phả Lại, tỉnh Hải Dương đến thị trấn Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
Các loại tàu thuyền có tải trọng 200-250 tấn, xà lan 250-300 tấn tham gia vận tải đường sông từ Phả Lại-Bến Tuần (huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang dài 49 km), từ Bến Tuần – Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang các loại thuyền nhỏ có tải trọng từ 50-70 tấn tham gia vận tải được trong 2 mùa (đoạn Bến Tuần – Bố Hạ dòng sông hẹp có nhiều bãi bồi).
Thời phong kiến khi quan, quân lên trấn ải biên thùy Lạng Sơn thì gia quyến của họ được phép tiễn đưa đến con sông này, người đi xa, kẻ ở lại chia tay nhau ở đây thật là thương cảm lên từ đó người con sông nay được gọi là Sông Thương.
Mục lục
Sông Thương trong văn học và âm nhạc
- Sông Thương được nhắc đến nhiều trong văn học và các ca khúc âm nhạc. Như trong ca khúc tiền chiến “Con thuyền không bến” của Đặng Thế Phong:
- …Lướt theo chiều gió, một con thuyền,
- Theo trăng trong, trôi trên sông Thương,
- nước chảy đôi dòng, biết đâu bờ bến
- Thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu
- Trên con sông Thương, nào ai biết nông sâu?
- Nhớ khi chiều sương, cùng ai trắc ẩn tấm lòng.
- Biết bao buồn thương, thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng…
- Hay trong “Trường ca Con đường cái quan” của Phạm Duy:
- Sông Thương ơi nước chẩy đôi ba dòng
- Anh về Hà Nội một lòng, lòng yêu em
- Sông Thương ơi nước đục người đen
- Anh về thành phố không quên cô mình…
- Lấy ý từ câu ca dao:
- Sông Thương nước chảy đôi dòng.
- Bên trong bên đục em trông bên nào?
- Theo sự nhận xét của nhà văn Toan Ánh thì chuyện “Sông Thương nước chảy đôi dòng” là có thật!
- Đó chẳng qua là hiện tượng nhập giang của con sông Sim (ngòi Sim) với dòng sông Thương (nước của cánh đồng chiêm thì đục đầy phù sa, gặp nước sông Thương trong xanh, hai dòng nước không hòa lẫn với nhau ở một đoạn khá dài (khoảng 100 thước). Hiện tượng này, ngày nay không còn nữa và sự phân ly của người xưa đã hết, nhưng con sông Thương đã chảy vào lòng người những tâm tình tràn ngập phù sa thương nhớ.
Các cây cầu bắc qua sông Thương
- Cầu Mỹ Độ trên quốc lộ 1A cũ, chạy qua địa phận thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
- Cầu Sông Thương trên quốc lộ 1A mới, chạy qua địa phận thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
Chú thích
Tham khảo
Sông Cầu
Sông Cầu | |
Sông Nguyệt Đức, sông Phú Lương | |
Sông | |
Sông Cầu đoạn chảy qua Xóm 1, làng Thổ Hà, Vân Hà, Việt Yên, Bắc Giang
|
|
Quốc gia | ![]() |
---|---|
Tỉnh | Bắc Kạn, Bắc Giang, Thái Nguyên, Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang |
Các chi lưu | |
– hữu ngạn | sông Đu, sông Công, sông Cà Lồ |
Nguồn | |
– Vị trí | Núi Phia Boóc, Văn Ôn, Phương Viên, Chợ Đồn, Bắc Kạn |
– Cao độ | 1.170 m (3.839 ft) |
Cửa sông | Ngã ba Lác |
– vị trí | Lục Đầu Giang, Yên Dũng, Bắc Giang, Việt Nam |
– tọa độ | 21°7′26″B 106°17′52″Đ |
Chiều dài | 290 km (180 mi) |
Lưu vực | 6.030 Km² (2.328 mi²) |
Lưu lượng | |
– trung bình | 153 m³/s (5.403 ft³/s) |
Sông Cầu, còn gọi là sông Như Nguyệt, sông Thị Cầu, sông Nguyệt Đức (xưa kia còn có tên là sông Vũ Bình[1]), là con sông quan trọng nhất trong hệ thống sông Thái Bình.
Lưu vực sông Cầu là một trong những lưu vực sông lớn ở Việt Nam, có vị trí địa lý đặc biệt, đa dạng và phong phú về tài nguyên cũng như về lịch sử phát triển kinh tế – xã hội của các tỉnh nằm trong lưu vực của nó.
Mục lục
Dòng chảy
Sông Cầu bắt nguồn từ phía Nam đỉnh Phia Bioóc (cao 1.578 m) của dãy Văn Ôn trong địa phận xã Phương Viên huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn, chảy ngoằn ngoèo giữa hai dãy núi Ngân Sơn và dãy núi Sông Gâm theo hướng bắc tây bắc-nam đông nam tới địa phận xã Dương Phong, huyện Bạch Thông rồi đổi hướng để chảy theo hướng tây tây nam-đông đông bắc qua thành phố Bắc Kạn tới xã Mỹ Thanh huyện Bạch Thông. Tại đây nó đổi hướng để chảy theo hướng đông bắc-tây nam. Tại xã Nông Hạ huyện Chợ Mới nó nhận một chi lưu phía hữu ngạn, chảy về từ xã Mai Lạp cùng huyện theo hướng tây bắc-đông nam. Tới địa phận thị trấn Chợ Mới, nó nhận một chi lưu nữa phía hữu ngạn rồi đổi hướng sang tây bắc-đông nam. Tới địa phận xã Vân Lăng, xã Cao Ngạn (huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên), nhận một chi lưu phía tả ngạn rồi đổi hướng sang bắc đông bắc-nam tây nam. Tới xã Sơn Cẩm huyện Phú Lương nhận tiếp một chi lưu phía hữu ngạn là sông Đu rồi chảy qua phía đông thành phố Thái Nguyên. Chảy tới xã Nga My huyện Phú Bình thì đổi sang hướng đông bắc-tây nam tới xã Thuận Thành, huyện Phổ Yên nhận tiếp một chi lưu là sông Công. Tới ranh giới xã Mai Đình huyện Hiệp Hòa và xã Việt Long huyện Sóc Sơn (Hà Nội) nó nhận một chi lưu nhỏ phía hữu ngạn là sông Cà Lồ rồi chảy tiếp về phía đông qua ranh giới của hai huyện Việt Yên–Bắc Giang và Yên Phong–Bắc Ninh rồi hợp lưu với sông Thương tại ngã ba Lác ở ranh giới của xã Đồng Phúc (huyện Yên Dũng) với thị trấn Phả Lại (huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) để tạo thành sông Thái Bình.
Thông số chính
Sông Cầu có diện tích lưu vực khoảng 6.030 km², với chiều dài khoảng 290 km, độ cao bình quân lưu vực: 190 m, độ dốc bình quân 16,1%, chiều rộng lưu vực trung bình: 31 km, mật độ lưới sông 0,95 km/km² và hệ số uốn khúc 2,02.
Chế độ thủy văn
Lưu vực sông Cầu có dòng chính là sông Cầu với chiều dài 290 km bắt nguồn từ núi Văn Ôn (Vạn On) ở độ cao 1.170 m và đổ vào sông Thái Bình ở Phả Lại. Trong lưu vực sông Cầu có tới 26 phụ lưu cấp một với tổng chiều dài 670 km và 41 phụ lưu cấp hai với tổng chiều dài 645 km và hàng trăm km sông cấp ba, bốn và các sông suối ngắn dưới 10 km. Lưu vực sông Cầu nằm trong vùng mưa lớn (1.500-2.700 mm/năm) của các tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên. Tổng lưu lượng nước hàng năm đạt đến 4,2 tỷ m³. Sông Cầu được điều tiết bằng hồ Núi Cốc trên sông Công (một chi lưu của nó) với dung tích hàng trăm triệu m³.
Chế độ thuỷ văn của các sông trong lưu vực sông Cầu được chia thành 2 mùa:
- Mùa lũ bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 9 và chiếm 70-80% tổng lưu lượng dòng chảy trong năm.
- Mùa khô từ tháng 10 đến tháng 5 năm sau, chỉ chiếm 20-30% tổng lưu lượng dòng chảy của năm.
Lưu lượng dòng chảy trung bình các tháng trong năm chênh lệch nhau tới 10 lần, mực nước cao và thấp nhất chênh nhau khá lớn, có thể tới 5–6 m.
Các vấn đề liên quan
Do việc khai thác và phát triển chưa hợp lý như phát triển công nghiệp và khai khoáng ồ ạt, chặt phá rừng phòng hộ đầu nguồn cũng như phát triển làng nghề chưa có quy hoạch cụ thể và việc xử lý nước thải còn bị coi nhẹ v.v nên nguồn nước, cảnh quan và hệ sinh thái của sông Cầu cũng như lưu vực đang bị suy thoái và có nguy cơ cạn kiệt, nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm nặng nề, giảm giá trị sử dụng, ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống, môi trường sinh thái, cảnh quan thiên nhiên.
Ngày 23 tháng 6 năm 2001, tại thị xã Bắc Giang đã diễn ra Hội nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân 6 tỉnh (thuộc đề án sông Cầu) lần thứ 4 nhằm tìm ra giải pháp toàn diện cho các vấn đề kể trên. Tại hội nghị đã ký “Thỏa ước về hợp tác bảo vệ và khai thác bền vững sông Cầu và lưu vực sông Cầu”.
Hiện trên sông Cầu có các cây cầu bắc qua:
- Cầu trên xã Đôn Phong, huyện Bạch Thông, Bắc Kạn, nối xã với tỉnh lộ 257
- Cầu trên xã Dương Phong, thành phố Bắc Cạn
- Cầu Dương Quang, thành phố Bắc Kạn
- Cầu Phà, thành phố Bắc Kạn
- Cầu Phà mới (Cầu Bắc Cạn 2), thành phố Bắc Kạn
- Cầu Bắc Kạn, thành phố Bắc Kạn
- Cầu tại xã Mỹ Thanh, Bạch Thông, Bắc Kạn
- Cầu Thác Giềng, trên quốc lộ 3B, Phường Xuất Hóa, thành phố Bắc Kạn
- Cầu trên xã Cao Kỳ, huyện Chợ Mới, Bắc Kạn
- Cầu Nà Nậm, xã Thanh Bình, Chợ Mới, Bắc Kạn
- Cầu Nà Khon, trên tỉnh lộ 256, Chợ Mới, Bắc Kạn
- Cầu Cao Ngạn, trên quốc lộ 1B, nối xã Sơn Cẩm với xã Cao Ngạn, tỉnh Thái Nguyên
- Cầu Gia Bảy, tỉnh Thái Nguyên, Thái Nguyên
- Cầu treo Huống, thành phố Thái Nguyên – Đồng Hỷ, Thái Nguyên
- Cầu đường sắt đi Trại Cau, Thái Nguyên
- Cầu Mây, trên quốc lộ 37, huyện Phú Bình, Thái Nguyên
- Cầu Vát, nối xã Trung Giã, Sóc Sơn, Hà Nội với xã Hiệp Thịnh, Hiệp Hòa, Bắc Giang
- Cầu Đông Xuyên, nối huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang và huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh
- Cầu đường bộ Thị Cầu, nối thành phố Bắc Ninh– huyện Việt Yên, Bắc Giang
- Cầu Như Nguyệt, Bắc Ninh – Bắc Giang
- Cầu Yên Dũng, nối huyện Quế Võ, Bắc Ninh với huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang (đã thi công)
Phụ lưu
- sông Cà Lồ, lấy nước từ sông Hồng, kết hợp với nguồn nước từ dãy núi Tam Đảo, để đổ vào sông Cầu tại địa phận xã Việt Long (huyện Sóc Sơn – Hà Nội), sông có chiều dài 89 km
- Sông Công dài 96 km, bắt nguồn từ huyện Định Hóa (Thái Nguyên chảy theo hướng đông nam hợp lưu với Sông Cầu tại địa phận xã Trung Giã (huyện Sóc Sơn).
- Sông Ràng
- Sông Đu
- Sông Chợ Chu
- Sông Nghinh Tường
Sự kiện lịch sử
Năm 1077 trên sông Như Nguyệt, quân đội nhà Lý do danh tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy đã đánh bại đội quân xâm lược của nhà Bắc Tống gồm 300.000 quân do Quách Quỳ chỉ huy.
Văn hóa
Truyền thuyết thần sông Bách Thổ
Trong truyền thuyết, vị thần cai quản sông Cầu là Đức thánh Tam Giang, do hai tướng Trương Hống, Trương Hát của Triệu Việt Vương sau khi chết được phong thần. Sau này hai ông đã hiển linh giúp Nam Tấn Vương đánh Lý Huy, các quân Việt Nam đánh quân phương Bắc (thời Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt…). Đồng thời hai ông cũng cai quản cả sông Long Nhỡn (sông Thương), sông Đuống.
Quan họ
Tình yêu có từ nơi đâu?
Êm êm một khúc sông Cầu
Sao trời lọt qua mắt lưới
Rơi đầy xuống dòng sông sâu
Xem thêm
Chú thích
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Sông Cầu |
Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày
- Đối thoại triết học
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 27 tháng 2
- Đọc lại và suy ngẫm
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 26 tháng 2
- Truyện George Washington
- Chào ngày mới 25 tháng 2
- Hà Văn Lâu thung dung đời thường
- Chào ngày mới 24 tháng 2
- Dinh Thống Nhất và Vườn Tao Đàn
- Chào ngày mới 23 tháng 2
- Những câu thơ lưu lạc
- Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ
- Chào ngày mới 22 tháng 2
- Nhành mai điểm nhấn tinh tế trong thơ Bác
- “Tầm hữu vị ngộ” Hồ Chí Minh
- Chào ngày mới 21 tháng 2
- Ta hẹn em uống rượu ngắm trăng
- Chào ngày mới 20 tháng 2
- Gốc mai vàng trước ngõ
- Chào ngày mới 19 tháng 2
- Người phát minh chữ viết tiếng Việt
- Chào ngày mới 18 tháng 2
- Bài học lịch sử
- Chào ngày mới 17 tháng 2
- Ngày xuân tập Kiều
- Ngày mới Mạnh Hạo Nhiên
- Chào ngày mới 16 tháng 2
- Cây Lương thực 2.2016
- Chào ngày mới 15 tháng 2
- Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương
- Chào ngày mới 14 tháng 2
- Chào ngày mới 13 tháng 2
- Chào ngày mới 12 tháng 2
- Ngày xuân đọc Trạng Trình
- Chào ngày mới 11 tháng 2
- Viếng mộ cha mẹ
- Chào ngày mới 10 tháng 2
- Thơ xuân
- Chào ngày mới 9 tháng 2
- Nguyễn Du đêm thiêng đọc lại
- Chào ngày mới 8 tháng 2
- Bữa cơm gia đình ngày cuối năm
- Cây Lương thực 2.2016
- Chào ngày mới 7 tháng 2
- Bên lề chính sử
- Một trời thương nhớ
- Chào ngày mới 6 tháng 2
- Chào ngày mới 5 tháng 2
- Huyền Trang và Tháp Đại Nhạn
- Mark Zuckerberg và Facebook
- Chào ngày mới 4 tháng 2
- Đỗ Tất Lợi danh y Việt Nam
- Chào ngày mới 3 tháng 2
- Đến với bài thơ hay
- Chào ngày mới 2 tháng 2
- Chào ngày mới 1 tháng 2
- Cây Lương thực 1.2016
Video yêu thích
Những bài hát hay nhất của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (25 bài)
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học Cây Lương thực Dạy và Học Tình yêu cuộc sống Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter
Pingback: Vườn Quốc gia Việt Nam | Tình yêu cuộc sống