Cám ơn những người bạn quý Ấn Độ cùng với Mark Zuckerberg và Facebook là suối nguồn hạnh phúc đã luôn giúp tôi bảo tồn kỷ niệm và bổ sung hoàn thiện chùm bài viết với nhiều ảnh đẹp về “Địa chỉ xanh Ấn Độ” “Ấn Độ nôi Phật Giáo” “Di sản thế giới ở Ấn Độ”, “Tagor đại thi hào Ấn Độ”, “Học để làm ở Ấn Độ“, “Đậu phộng HL25 Ấn Độ Việt Nam”, “Nông nghiệp Ấn Độ ngày nay” . Ghi chép này tôn vinh tình bạn quý chúng ta với câu chuyện tuyệt vời. https://hoangkimlong.wordpress.com/cate…/dia-chi-xanh-an-do/.
Qua Waterloo nhớ Walter Scott
Bút thần của hiền tài
Lưu non sông muôn thuở
Bền mạnh sắc hơn gươm.
Walter Scott là nhà thơ văn trữ tình lỗi lạc nhất của Scotland với nhiều tác phẩm của ông được coi là đại diện cho nền văn học cổ điển Anh. Ông sinh ngày 14 tháng 8 năm 1771 tại Edinburgh, mất ngày 21 tháng 9 năm 1832 tại Abbotsford House, Di sản của Walter Scott lưu dấu sâu đậm nhất ở Scotland tại Thư viện Trường Đại học Edinburgh (Edinburgh University Library) với Abbotsford House, Edinburgh. Đó là ba nơi mà bạn có thể đắm mình vào các tác phẩm nổi tiếng của Walter Scott.
Walter Scott rất nổi tiếng ở châu Âu, Bắc Mỹ, châu Á và Úc nhưng ở Việt Nam, bạn đọc chưa có nhiều chuyên khảo hoặc dịch thuật thơ văn ông. Tác phẩm đặc biệt nổi tiếng Cánh đồng Waterloo (The Field of Waterloo) là một trong những bài thơ đặc biệt nổi tiếng của Walter Scott trong kiệt tác Sir Walter Scott Poems. Bài thơ này được viết và xuất bản vào năm 1815, ngay sau khi quân liên minh chiến thắng quân đội Napoléon Bonaparte tại trận Waterloo vào ngày 18 tháng 6 năm 1815, Scott đã đến Bỉ vào tháng Tám, và ông là một trong các thường dân nước Anh đầu tiên đến thăm chiến trường.
Trận Waterloo đặc biệt nổi tiếng trên thế giới và toàn châu Âu. Trận Waterloo diễn ra vào ngày chủ nhật 18 tháng 6 năm 1815 tại một địa điểm gần Waterloo, thuộc Bỉ ngày nay. Đây là một trong những trận đánh nổi tiểng nhất và cũng là dấu chấm hết cho cuộc chiến tranh Napoléon. Quân đội Đế chế Pháp (La Grande Armée) dưới sự chỉ huy của Napoléon Bonaparte đã bị đánh bại bởi liên quân của Liên minh thứ bảy, bao gồm quân Anh và đồng minh do Arthur Wellesley, Công tước thứ nhất của Wellington chỉ huy và quân Phổ do Thống chế Gebhard von Blücher chỉ huy. Đây là trận đánh kết thúc chiến dịch Waterloo và cũng là trận đánh cuối cùng của Napoléon. Thất bại ở trận đánh này đã đặt dấu chấm hết cho ngôi vị Hoàng đế Pháp của Napoléon và Vương triều Một trăm ngày của ông.
Trận Waterloo thay đổi cục diện toàn châu Âu thời Napoléon Bonaparte cũng tương tự như Trận Xích Bích làm thay đổi cục diện Trung Quốc dưới thời thời Tam Quốc (Trận Xích Bích diễn ra vào mùa Đông năm 208 giữa liên quân Tôn Quyền–Lưu Bị với quân đội của Tào Tháo lấy danh nghĩa triều đình. Trận Xích Bích kết thúc với chiến thắng quyết định của phe Tôn-Lưu, tạo cơ sở hình thành thế chân vạc thời Tam Quốc của ba nước Tào Ngụy – Thục Hán – Đông Ngô.
Bài thơ ‘Cánh đồng Waterloo’(The Field of Waterloo) của Walter Scott bi tráng và nổi tiếng khắp thế giới trong mọi thời đại, tương tự như bài Tiền Xích Bích phú và Hậu Xích Bích phú của đại thi hào Tô Đông Pha. Nó thể hiện tính nhân văn của kiếm bút tài tình có sức mạnh hơn cả lưỡi gươm chinh phạt của những danh tướng lừng danh nhất thế giới. Theo cách nói của Ban zắc, đại văn hào Pháp, tính nhân văn của kiếm bút chạm thấu những phần mà kiếm sắc của Napoleon không bao giờ và không thể với tới được. Bài thơ ‘Cánh đồng Waterloo’(The Field of Waterloo) của Walter Scott hướng tới những người nghèo, những số phận kém may mắn trong chiến tranh. Lợi nhuận từ bài thơ của Walter Scott về cuộc chiến được đi vào quỹ cho góa phụ và trẻ mồ côi của người lính. Những câu thơ đặc biệt xúc động, đơn giản nhưng rất khó dịch:
“On Waterloo’s ensanguined plain /
Lie tens of thousands of the slain; /
But none, by sabre or by shot, /
Fell half so flat as Walter Scott.” [3]
(Trên cánh đồng của Waterloo vấy đầy máu /
Nói dối là (chỉ) chục ngàn người bị giết;. /
Nhưng không (phải thế đâu), bởi (số người) bị đâm hay bị bắn, /
Đã giảm bằng nửa mức như vậy theo Walter Scott”
(Vì những người góa bụa và trẻ mồ côi còn lớn hơn nhiều!)
Bài thơ ‘Cánh đồng Waterloo’ (The Field of Waterloo) truyền tải tình yêu cuộc sống và góc nhìn thánh thiện cho biết bao thế hệ người châu Âu, đã lan tỏa nhanh và rộng khắp toàn cầu bởi giá trị nhân văn, lời thơ giản dị xúc động ám ảnh đi thẳng vào lòng người. Giá trị của bài thơ này tương tự như bài Tiền Xích Bích phú và Hậu Xích Bích phú của đại thi hào Tô Đông Pha, cũng tương tự như bài thơ ‘Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi đã làm lay động biết bao nhiêu khối óc, con tim của người Trung Quốc, Việt Nam và người dân các nước châu Á ở nhiều thế hệ. Đó là những dòng sông thi ca rộng lớn chảy không ngưng nghỉ giữa mạch chính của kiến thức văn hóa nhân loại.
Đại sứ UNESCO, ông José António Amorim Dias (phải) và Hoàng Kim đi qua cánh đồng Waterloo trên chuyến tàu tốc hành từ Brussels đến Paris
Tôi may mắn được đồng hành cùng ông José António Amorim Dias , Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa Dân chủ Timor-Leste tại UNESCO và Liên minh châu Âu đi qua cánh đồng Waterloo trên chuyến tàu tốc hành từ Brussels (Bỉ) đến Paris (Pháp). Chúng tôi chung khoang tàu và đã trò chuyện và chia sẻ rất nhiều điều về “The Field of Waterloo” của Nam tước Walter Scott cùng với những triết lý nhân sinh và văn hóa giáo dục. Tôi đã kể chuyện này trong bài “Đêm trắng và bình minh“.
Tôi chép nguyên văn bài thơ tiếng Anh “The Field of Waterloo” dưới đây để ước mong các bậc thức giả yêu thích thi ca và thạo tiếng Anh giúp chuyển ngữ bài thơ nổi tiếng này thành tiếng Việt, ngõ hầu góp phần vào việc giao lưu thi ca và văn hóa, góp phần trong công cuộc dạy và học, chấn hưng giáo dục và nâng cao dân trí Việt bằng sự đóng góp tận tụy, chuyển tải thông tin về danh nhân văn hóa Walter Scott đến bạn đọc Việt.
Thật mong lắm thay. Trân trọng cám ơn sự quan tâm của quý bạn.
Hoàng Kim
Nguyên tác bài thơ: Cánh đồng Waterloo
THE FIELD OF WATERLOO Poem by Sir Walter Scott
I.
Fair Brussels, thou art far behind,
Though, lingering on the morning wind,
We yet may hear the hour
Pealed over orchard and canal,
With voice prolonged and measured fall,
From proud St. Michael’s tower;
Thy wood, dark Soignies, holds us now,
Where the tall beeches’ glossy bough
For many a league around,
With birch and darksome oak between,
Spreads deep and far a pathless screen,
Of tangled forest ground.
Stems planted close by stems defy
The adventurous foot-the curious eye
For access seeks in vain;
And the brown tapestry of leaves,
Strewed on the blighted ground, receives
Nor sun, nor air, nor rain.
No opening glade dawns on our way,
No streamlet, glancing to the ray,
Our woodland path has crossed;
And the straight causeway which we tread
Prolongs a line of dull arcade,
Unvarying through the unvaried shade
Until in distance lost.
II.
A brighter, livelier scene succeeds;
In groups the scattering wood recedes,
Hedge-rows, and huts, and sunny meads,
And corn-fields glance between;
The peasant, at his labour blithe,
Plies the hooked staff and shortened scythe:-
But when these ears were green,
Placed close within destruction’s scope,
Full little was that rustic’s hope
Their ripening to have seen!
And, lo, a hamlet and its fane:-
Let not the gazer with disdain
Their architecture view;
For yonder rude ungraceful shrine,
And disproportioned spire, are thine,
Immortal WATERLOO!
III.
Fear not the heat, though full and high
The sun has scorched the autumn sky,
And scarce a forest straggler now
To shade us spreads a greenwood bough;
These fields have seen a hotter day
Than e’er was fired by sunny ray,
Yet one mile on-yon shattered hedge
Crests the soft hill whose long smooth ridge
Looks on the field below,
And sinks so gently on the dale
That not the folds of Beauty’s veil
In easier curves can flow.
Brief space from thence, the ground again
Ascending slowly from the plain
Forms an opposing screen,
Which, with its crest of upland ground,
Shuts the horizon all around.
The softened vale between
Slopes smooth and fair for courser’s tread;
Not the most timid maid need dread
To give her snow-white palfrey head
On that wide stubble-ground;
Nor wood, nor tree, nor bush are there,
Her course to intercept or scare,
Nor fosse nor fence are found,
Save where, from out her shattered bowers,
Rise Hougomont’s dismantled towers.
IV.
Now, see’st thou aught in this lone scene
Can tell of that which late hath been? –
A stranger might reply,
‘The bare extent of stubble-plain
Seems lately lightened of its grain;
And yonder sable tracks remain
Marks of the peasant’s ponderous wain,
When harvest-home was nigh.
On these broad spots of trampled ground,
Perchance the rustics danced such round
As Teniers loved to draw;
And where the earth seems scorched by flame,
To dress the homely feast they came,
And toiled the kerchiefed village dame
Around her fire of straw.’
V.
So deem’st thou-so each mortal deems,
Of that which is from that which seems:-
But other harvest here
Than that which peasant’s scythe demands,
Was gathered in by sterner hands,
With bayonet, blade, and spear.
No vulgar crop was theirs to reap,
No stinted harvest thin and cheap!
Heroes before each fatal sweep
Fell thick as ripened grain;
And ere the darkening of the day,
Piled high as autumn shocks, there lay
The ghastly harvest of the fray,
The corpses of the slain.
VI.
Ay, look again-that line, so black
And trampled, marks the bivouac,
Yon deep-graved ruts the artillery’s track,
So often lost and won;
And close beside, the hardened mud
Still shows where, fetlock-deep in blood,
The fierce dragoon, through battle’s flood,
Dashed the hot war-horse on.
These spots of excavation tell
The ravage of the bursting shell –
And feel’st thou not the tainted steam,
That reeks against the sultry beam,
From yonder trenched mound?
The pestilential fumes declare
That Carnage has replenished there
Her garner-house profound.
VII.
Far other harvest-home and feast,
Than claims the boor from scythe released,
On these scorched fields were known!
Death hovered o’er the maddening rout,
And, in the thrilling battle-shout,
Sent for the bloody banquet out
A summons of his own.
Through rolling smoke the Demon’s eye
Could well each destined guest espy,
Well could his ear in ecstasy
Distinguish every tone
That filled the chorus of the fray –
From cannon-roar and trumpet-bray,
From charging squadrons’ wild hurra,
From the wild clang that marked their way, –
Down to the dying groan,
And the last sob of life’s decay,
When breath was all but flown.
VIII.
Feast on, stern foe of mortal life,
Feast on!-but think not that a strife,
With such promiscuous carnage rife,
Protracted space may last;
The deadly tug of war at length
Must limits find in human strength,
And cease when these are past.
Vain hope!-that morn’s o’erclouded sun
Heard the wild shout of fight begun
Ere he attained his height,
And through the war-smoke, volumed high,
Still peals that unremitted cry,
Though now he stoops to night.
For ten long hours of doubt and dread,
Fresh succours from the extended head
Of either hill the contest fed;
Still down the slope they drew,
The charge of columns paused not,
Nor ceased the storm of shell and shot;
For all that war could do
Of skill and force was proved that day,
And turned not yet the doubtful fray
On bloody Waterloo.
IX.
Pale Brussels! then what thoughts were thine,
When ceaseless from the distant line
Continued thunders came!
Each burgher held his breath, to hear
These forerunners of havoc near,
Of rapine and of flame.
What ghastly sights were thine to meet,
When rolling through thy stately street,
The wounded showed their mangled plight
In token of the unfinished fight,
And from each anguish-laden wain
The blood-drops laid thy dust like rain!
How often in the distant drum
Heard’st thou the fell Invader come,
While Ruin, shouting to his band,
Shook high her torch and gory brand! –
Cheer thee, fair City! From yon stand,
Impatient, still his outstretched hand
Points to his prey in vain,
While maddening in his eager mood,
And all unwont to be withstood,
He fires the fight again.
X.
‘On! On!’ was still his stern exclaim;
‘Confront the battery’s jaws of flame!
Rush on the levelled gun!
My steel-clad cuirassiers, advance!
Each Hulan forward with his lance,
My Guard-my Chosen-charge for France,
France and Napoleon!’
Loud answered their acclaiming shout,
Greeting the mandate which sent out
Their bravest and their best to dare
The fate their leader shunned to share.
But HE, his country’s sword and shield,
Still in the battle-front revealed,
Where danger fiercest swept the field,
Came like a beam of light,
In action prompt, in sentence brief –
‘Soldiers, stand firm!’ exclaimed the Chief,
‘England shall tell the fight!’
XI.
On came the whirlwind-like the last
But fiercest sweep of tempest-blast –
On came the whirlwind-steel-gleams broke
Like lightning through the rolling smoke;
The war was waked anew,
Three hundred cannon-mouths roared loud,
And from their throats, with flash and cloud,
Their showers of iron threw.
Beneath their fire, in full career,
Rushed on the ponderous cuirassier,
The lancer couched his ruthless spear,
And hurrying as to havoc near,
The cohorts’ eagles flew.
In one dark torrent, broad and strong,
The advancing onset rolled along,
Forth harbingered by fierce acclaim,
That, from the shroud of smoke and flame,
Pealed wildly the imperial name.
XII.
But on the British heart were lost
The terrors of the charging host;
For not an eye the storm that viewed
Changed its proud glance of fortitude,
Nor was one forward footstep stayed,
As dropped the dying and the dead.
Fast as their ranks the thunders tear,
Fast they renewed each serried square;
And on the wounded and the slain
Closed their diminished files again,
Till from their line scarce spears’-lengths three,
Emerging from the smoke they see
Helmet, and plume, and panoply, –
Then waked their fire at once!
Each musketeer’s revolving knell,
As fast, as regularly fell,
As when they practise to display
Their discipline on festal day.
Then down went helm and lance,
Down were the eagle banners sent,
Down reeling steeds and riders went,
Corslets were pierced, and pennons rent;
And, to augment the fray,
Wheeled full against their staggering flanks,
The English horsemen’s foaming ranks
Forced their resistless way.
Then to the musket-knell succeeds
The clash of swords-the neigh of steeds –
As plies the smith his clanging trade,
Against the cuirass rang the blade;
And while amid their close array
The well-served cannon rent their way,
And while amid their scattered band
Raged the fierce rider’s bloody brand,
Recoiled in common rout and fear,
Lancer and guard and cuirassier,
Horsemen and foot,-a mingled host
Their leaders fall’n, their standards lost.
XIII.
Then, WELLINGTON! thy piercing eye
This crisis caught of destiny –
The British host had stood
That morn ‘gainst charge of sword and lance
As their own ocean-rocks hold stance,
But when thy voice had said, ‘Advance!’
They were their ocean’s flood. –
O Thou, whose inauspicious aim
Hath wrought thy host this hour of shame,
Think’st thou thy broken bands will bide
The terrors of yon rushing tide?
Or will thy chosen brook to feel
The British shock of levelled steel,
Or dost thou turn thine eye
Where coming squadrons gleam afar,
And fresher thunders wake the war,
And other standards fly? –
Think not that in yon columns, file
Thy conquering troops from distant Dyle –
Is Blucher yet unknown?
Or dwells not in thy memory still
(Heard frequent in thine hour of ill),
What notes of hate and vengeance thrill
In Prussia’s trumpet-tone? –
What yet remains?-shall it be thine
To head the relics of thy line
In one dread effort more? –
The Roman lore thy leisure loved,
And than canst tell what fortune proved
That Chieftain, who, of yore,
Ambition’s dizzy paths essayed
And with the gladiators’ aid
For empire enterprised –
He stood the cast his rashness played,
Left not the victims he had made,
Dug his red grave with his own blade,
And on the field he lost was laid,
Abhorred-but not despised.
XIV.
But if revolves thy fainter thought
On safety-howsoever bought, –
Then turn thy fearful rein and ride,
Though twice ten thousand men have died
On this eventful day
To gild the military fame
Which thou, for life, in traffic tame
Wilt barter thus away.
Shall future ages tell this tale
Of inconsistence faint and frail?
And art thou He of Lodi’s bridge,
Marengo’s field, and Wagram’s ridge!
Or is thy soul like mountain-tide,
That, swelled by winter storm and shower,
Rolls down in turbulence of power,
A torrent fierce and wide;
Reft of these aids, a rill obscure,
Shrinking unnoticed, mean and poor,
Whose channel shows displayed
The wrecks of its impetuous course,
But not one symptom of the force
By which these wrecks were made!
XV.
Spur on thy way!-since now thine ear
Has brooked thy veterans’ wish to hear,
Who, as thy flight they eyed
Exclaimed,-while tears of anguish came,
Wrung forth by pride, and rage, and shame,
‘O that he had but died!’
But yet, to sum this hour of ill,
Look, ere thou leav’st the fatal hill,
Back on yon broken ranks –
Upon whose wild confusion gleams
The moon, as on the troubled streams
When rivers break their banks,
And, to the ruined peasant’s eye,
Objects half seen roll swiftly by,
Down the dread current hurled –
So mingle banner, wain, and gun,
Where the tumultuous flight rolls on
Of warriors, who, when morn begun,
Defied a banded world.
XVI.
List-frequent to the hurrying rout,
The stern pursuers’ vengeful shout
Tells, that upon their broken rear
Rages the Prussian’s bloody spear.
So fell a shriek was none,
When Beresina’s icy flood
Reddened and thawed with flame and blood,
And, pressing on thy desperate way,
Raised oft and long their wild hurra,
The children of the Don.
Thine ear no yell of horror cleft
So ominous, when, all bereft
Of aid, the valiant Polack left –
Ay, left by thee-found soldiers grave
In Leipsic’s corpse-encumbered wave.
Fate, in those various perils past,
Reserved thee still some future cast;
On the dread die thou now hast thrown
Hangs not a single field alone,
Nor one campaign-thy martial fame,
Thy empire, dynasty, and name
Have felt the final stroke;
And now, o’er thy devoted head
The last stern vial’s wrath is shed,
The last dread seal is broke.
XVII.
Since live thou wilt-refuse not now
Before these demagogues to bow,
Late objects of thy scorn and hate,
Who shall thy once imperial fate
Make wordy theme of vain debate. –
Or shall we say, thou stoop’st less low
In seeking refuge from the foe,
Against whose heart, in prosperous life,
Thine hand hath ever held the knife?
Such homage hath been paid
By Roman and by Grecian voice,
And there were honour in the choice,
If it were freely made.
Then safely come-in one so low, –
So lost,-we cannot own a foe;
Though dear experience bid us end,
In thee we ne’er can hail a friend. –
Come, howsoe’er-but do not hide
Close in thy heart that germ of pride,
Erewhile, by gifted bard espied,
That ‘yet imperial hope;’
Think not that for a fresh rebound,
To raise ambition from the ground,
We yield thee means or scope.
In safety come-but ne’er again
Hold type of independent reign;
No islet calls thee lord,
We leave thee no confederate band,
No symbol of thy lost command,
To be a dagger in the hand
From which we wrenched the sword.
XVIII.
Yet, even in yon sequestered spot,
May worthier conquest be thy lot
Than yet thy life has known;
Conquest, unbought by blood or harm,
That needs nor foreign aid nor arm,
A triumph all thine own.
Such waits thee when thou shalt control
Those passions wild, that stubborn soul,
That marred thy prosperous scene:-
Hear this-from no unmoved heart,
Which sighs, comparing what THOU ART
With what thou MIGHT’ST HAVE BEEN!
XIX.
Thou, too, whose deeds of fame renewed
Bankrupt a nation’s gratitude,
To thine own noble heart must owe
More than the meed she can bestow.
For not a people’s just acclaim,
Not the full hail of Europe’s fame,
Thy Prince’s smiles, the State’s decree,
The ducal rank, the gartered knee,
Not these such pure delight afford
As that, when hanging up thy sword,
Well may’st thou think, ‘This honest steel
Was ever drawn for public weal;
And, such was rightful Heaven’s decree,
Ne’er sheathed unless with victory!’
XX.
Look forth, once more, with softened heart,
Ere from the field of fame we part;
Triumph and Sorrow border near,
And joy oft melts into a tear.
Alas! what links of love that morn
Has War’s rude hand asunder torn!
For ne’er was field so sternly fought,
And ne’er was conquest dearer bought,
Here piled in common slaughter sleep
Those whom affection long shall weep
Here rests the sire, that ne’er shall strain
His orphans to his heart again;
The son, whom, on his native shore,
The parent’s voice shall bless no more;
The bridegroom, who has hardly pressed
His blushing consort to his breast;
The husband, whom through many a year
Long love and mutual faith endear.
Thou canst not name one tender tie,
But here dissolved its relics lie!
Oh! when thou see’st some mourner’s veil
Shroud her thin form and visage pale,
Or mark’st the Matron’s bursting tears
Stream when the stricken drum she hears;
Or see’st how manlier grief, suppressed,
Is labouring in a father’s breast, –
With no inquiry vain pursue
The cause, but think on Waterloo!
XXI.
Period of honour as of woes,
What bright careers ’twas thine to close! –
Marked on thy roll of blood what names
To Britain’s memory, and to Fame’s,
Laid there their last immortal claims!
Thou saw’st in seas of gore expire
Redoubted PICTON’S soul of fire –
Saw’st in the mingled carnage lie
All that of PONSONBY could die –
DE LANCEY change Love’s bridal-wreath
For laurels from the hand of Death –
Saw’st gallant MILLER’S failing eye
Still bent where Albion’s banners fly,
And CAMERON, in the shock of steel,
Die like the offspring of Lochiel;
And generous GORDON, ‘mid the strife,
Fall while he watched his leader’s life. –
Ah! though her guardian angel’s shield
Fenced Britain’s hero through the field.
Fate not the less her power made known,
Through his friends’ hearts to pierce his own!
XXII.
Forgive, brave Dead, the imperfect lay!
Who may your names, your numbers, say?
What high-strung harp, what lofty line,
To each the dear-earned praise assign,
From high-born chiefs of martial fame
To the poor soldier’s lowlier name?
Lightly ye rose that dawning day,
From your cold couch of swamp and clay,
To fill, before the sun was low,
The bed that morning cannot know. –
Oft may the tear the green sod steep,
And sacred be the heroes’ sleep,
Till time shall cease to run;
And ne’er beside their noble grave,
May Briton pass and fail to crave
A blessing on the fallen brave
Who fought with Wellington!
XXIII.
Farewell, sad Field! whose blighted face
Wears desolation’s withering trace;
Long shall my memory retain
Thy shattered huts and trampled grain,
With every mark of martial wrong,
That scathe thy towers, fair Hougomont!
Yet though thy garden’s green arcade
The marksman’s fatal post was made,
Though on thy shattered beeches fell
The blended rage of shot and shell,
Though from thy blackened portals torn,
Their fall thy blighted fruit-trees mourn,
Has not such havoc bought a name
Immortal in the rolls of fame?
Yes-Agincourt may be forgot,
And Cressy be an unknown spot,
And Blenheim’s name be new;
But still in story and in song,
For many an age remembered long,
Shall live the towers of Hougomont
And Field of Waterloo!
Conclusion
Stern tide of human Time! that know’st not rest,
But, sweeping from the cradle to the tomb,
Bear’st ever downward on thy dusky breast
Successive generations to their doom;
While thy capacious stream has equal room
For the gay bark where Pleasure’s steamers sport,
And for the prison-ship of guilt and gloom,
The fisher-skiff, and barge that bears a court,
Still wafting onward all to one dark silent port;-
Stern tide of Time! through what mysterious change
Of hope and fear have our frail barks been driven!
For ne’er, before, vicissitude so strange
Was to one race of Adam’s offspring given.
And sure such varied change of sea and heaven,
Such unexpected bursts of joy and woe,
Such fearful strife as that where we have striven,
Succeeding ages ne’er again shall know,
Until the awful term when Thou shalt cease to flow.
Well hast thou stood, my Country!-the brave fight
Hast well maintained through good report and ill;
In thy just cause and in thy native might,
And in Heaven’s grace and justice constant still;
Whether the banded prowess, strength, and skill
Of half the world against thee stood arrayed,
Or when, with better views and freer will,
Beside thee Europe’s noblest drew the blade,
Each emulous in arms the Ocean Queen to aid.
Well art thou now repaid-though slowly rose,
And struggled long with mists thy blaze of fame,
While like the dawn that in the orient glows
On the broad wave its earlier lustre came;
Then eastern Egypt saw the growing flame,
And Maida’s myrtles gleamed beneath its ray,
Where first the soldier, stung with generous shame,
Rivalled the heroes of the watery way,
And washed in foemen’s gore unjust reproach away.
Now, Island Empress, wave thy crest on high,
And bid the banner of thy Patron flow,
Gallant Saint George, the flower of Chivalry,
For thou halt faced, like him, a dragon foe,
And rescued innocence from overthrow,
And trampled down, like him, tyrannic might,
And to the gazing world may’st proudly show
The chosen emblem of thy sainted Knight,
Who quelled devouring pride and vindicated right.
Yet ‘mid the confidence of just renown,
Renown dear-bought, but dearest thus acquired,
Write, Britain, write the moral lesson down:
‘Tis not alone the heart with valour fired,
The discipline so dreaded and admired,
In many a field of bloody conquest known,
-Such may by fame be lured, by gold be hired:
‘Tis constancy in the good cause alone
Best justifies the meed thy valiant sons have won.
The Walter Scott Digital Archive is an Edinburgh University Library online resource created in the Centre for Research Collections. It is designed around our extensive Corson Collection of Walter Scott material. We hope that in time this website will become the main source of information on the life and work of Sir Walter Scott on the web.
A page on the life and work of James C. Corson, librarian, scholar, and Scott enthusiast and a description of the immense collection of Scott material that he left to Edinburgh University Library.
Pages devoted to each of Scott’s novels, narrative poems, and major prose works, providing a synopsis, compositional and publishing history, and account of its original reception by public and critics.
A database illustrating the visual materials and realia contained in the Corson Collection, including portraits, art inspired by Scott’s novels and poems, pictures of places associated with Scott, and a wide range of memorabilia.
A list of forthcoming conferences, papers, lectures, talks, and other events relating to all aspects of Scott’s life and work, together with an archive of recent events.
An annotated bibliography of Scott-related books published since January 2000, covering significant new editions of Scott’s work, criticism, biography, translations, and musical scores.
Illustrated pages on the major portraits of Sir Walter Scott, on the original artists, and on the engravers and copyists who did so much to stamp the image of Scott on the nineteenth-century mind.
The Field of Waterloo; A Poem. By Walter Scott, Esq. Edinburgh; Printed by James Ballantyne and Co. For Archibald Constable and Co. Edinburgh; And Longman, Hurst, Rees, Orme, and Brown, and John Murray, London, 1815.
On hearing the news of the Allied victory at Waterloo (June 18, 1815), Scott burned to see the scene of Napoleon’s final defeat and to visit newly conquered Paris. Continental Europe had been closed to British visitors for more than a decade, and Scott had never before travelled abroad. In August, he set sail for Belgium, hoping to recuperate his expenses by writing a series of imaginary letters describing his travels. These were to be published as Paul’s Letters to His Kinsfolk(1816). Scott was amongst the first British civilians to view the battlefield at Waterloo, accompanied by General Adam’s aide-de-camp, Captain Campbell, and Major Pryse Gordon. Mixing personal observation with information gained from his escorts and from other participants in the battle, he began work on a poem, profits from which would go to a fund set up for widows and orphans of soldiers. Proceeding to Paris, Scott obtained further details from Allied officers and spoke with the Duke of Wellington himself, whose lack of conceit and pretension greatly impressed him.
The poem was sent to James Ballantyne before the end of August and went to press in October. Pre-empting the cool reaction of many subsequent readers, Ballantyne made numerous objections and queries, taking a particular dislike to the opening line (‘Fair Brussels, thou art far behind’). For the most part, Scott stood by his original text but reluctantly followed Ballantyne’s advice in toning down reminiscences of his own The Lord of the Isles and The Lady of the Lake
Reception
An initial run of 6,000 copies appeared on October 23, 1815. The poem sold well and went into a third edition by the end of year. The critics, however, were unimpressed. For the Critical Review, it was ‘absolutely the poorest, dullest, least interesting composition that has hitherto issued from the author of Rokeby‘. The poem’s worthy purpose prevented other journals from being quite so harsh, but there was widespread censure of clumsy phrasing and other signs of authorial haste. Although The Field of Waterloo counted Byron amongst its few admirers, it is now best remembered through an anonymous squib:
On Waterloo’s ensanguined plain
Full many a gallant man was slain,
But none, by sabre or by shot,
Fell half so flat as Walter Scott.
Cụ Sơn Nam lưu lại trong tôi nhiều câu văn thật cảm động: “Cố gắng viết ngắn, câu nào cũng có thông tin”. “Khuyến nông tức là cách giữ đạo làm nông, thì dân mới giàu mạnh được”. “Người tứ xứ về tứ giác sinh cơ lập nghiệp, thì cần giữ cái đạo làm người, thì kinh tế thị trường ở đây mới nên bộ mặt nông thôn mới”.“Đến với văn chương để mong nổi danh thì đừng có hòng. Nền văn học của ta hơn nửa thế kỷ qua, nhìn lại ở một góc độ nào đó, coi như lấy rổ múc nước”. “Vì vậy mà phải viết cho đàng hoàng, phải có lương tâm nghề nghiệp thì các báo, các nhà xuất bản họ mới mua của mình, độc giả họ mới đọc của mình”. “Cái cốt cách người Việt Nam mình là nhân nghĩa” “”Với tôi, Tổ quốc là một nơi kiếm sống được bằng một việc lương thiện nào đó, không bị ai làm khó dễ, có vài người bạn chơi được, không ba trợn” “Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê. Cụ Sơn Nam là nhà văn, nhà báo, nhà khảo cứu Nam Bộ, “ông già Nam Bộ”, “ông già Ba Tri”, “ông già đi bộ’, “pho từ điển sống về miền Nam”, “nhà Nam Bộ học”.
Cụ Sơn Nam đã giã từ cõi nhân sinh ngày 13 tháng 8 năm 2008 và kịp để lại cho đời một sự nghiệp trước tác đồ sộ trên 8000 trang sách của hơn 44 đầu sách đã in và trên 10.000 trang sách chưa in. Bài thơ “Thay lời tựa” của Cụ Sơn Nam trong “Hương rừng Cà Mau” hay ám ảnh: “Trong khói sóng mênh mông/ Có bóng người vô danh/ Từ bên này sông Tiền/ Qua bên kia sông Hậu/ Mang theo chiếc độc huyền/ Điệu thơ Lục Vân Tiên/ Với câu chữ:/ Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả/ Tới Cà Mau – Rạch Giá/ Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng/ Muỗi vắt nhiều hơn cỏ/ Chướng khí mù như sương/ Thân không là lính thú/ Sao chưa về cố hương?…”. Lời điếu của cụ Sơn Nam khóc cụ Bùi Giáng sao mà chân tình, văn hóa, tri âm, tri kỹ đến vậy: “Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài,…nhưng văn thơ của anh ngay ngắn đường hoàng. Anh có nề gì cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh xài sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang khi chùa khi chợ có cố định đâu đâu, mà bữa nay đưa anh đi có quân canh lính gác, có vòng hoa của Thành ủy – Ủy Ban, có Hội Nhà văn, dậy là anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh Giáng!.” Cụ Sơn Nam cũng chân thành ngợi ca cụ Trương Vĩnh Ký đã dành thời gian cuối đời để viết chuyện hay cho con nít đọc.“Viết chuyện hay con nít tìm đọc là khó lắm đó nghe” chứ không chỉ là những công trình bác học đồ sộ. Nhớ Sơn Nam ông già Nam Bộ, chúng ta nhớ những trang văn, những chuyện đời thấm đẫm tính nhân văn của ông.
Viết về Sơn Nam, tôi thích hơn cả là của Đoàn Nam Sinh, Huỳnh Kim, Võ Đắc Danh, Trần Thị Hồng Hạnh, Lê Văn Thảo, Lam Điền, Trần Mạnh Hảo và chùm Sơn Nam video nhạc tuyển. Hãy học thái độ của nước mà đi như dòng sông! Tôi từ trước đã tâm đắc điều này, và ngộ ra những người hiền thường thung dung, an nhiên với đời thường. Những người hiền phương Nam như Sơn Nam, Bùi Giáng, Võ Hồng, Trang Thế Hy… đều thật là hiền hòa, chất phác.
NHỚ SƠN NAM
Đoàn Nam Sinh
Hồi còn nhỏ, thập kỷ sáu mươi về trước, trong làng ấp xa xăm, tôi đã được đọc những bài viết của chú trên tờ Hương Quê, giấy báo trắng láng với màu mè, hình vẽ minh họa rất đẹp. Mẫu chuyện mà tôi nhớ đời là bà con xứ Nam kỳ đã lập thế nhử vịt câu sấu như thế nào, với giọng văn giản dị, tưng tửng. Ba tôi, người cũng từng dầu dãi sông nước giải thích chuyện trẻ nhỏ nghịch ý với cha mẹ thì thường bị quở là “đem câu sấu cho rồi”, tụi nhỏ tôi sợ lắm.
Ông cậu vợ tôi sau này, ngày còn nhỏ nhà ngoại khá giả cho đi học trên Nam Vang, chắc có Pri-me rồi về Rạch Giá đi dạy học. Đổi vùng khắp chốn đến sau khởi nghĩa mới biết là đi theo cộng sản từ thời ông Giàu gây dựng đâu bên Xiêm bên Lèo. Cậu làm chủ tịch một xã ở Gò Quao, mà cái bằng “đẹp trai” không giấu được. Ở đâu chị em cũng bu theo. Cậu có lần kể “tao đi công tác với hai cô, mùa nước nổi chun nóp ngủ trên chòi gò, lần quần rồi tao quất cả hai”. Không biết có phải vì đào hoa, lăng nhăng hay sao đó cậu ở lại, không tập kết. Rồi tù tội liên miên. Có lần cậu nói “thằng cha này là Minh Tài, nó viết văn hay lắm, ham đi xuống thực tế, rồi ham viết, chẳng kể gì giờ giấc, chưng dọn. Người hổng biết nói chả ở dơ, lúc 9 năm chả hay về đây, tiếng Tây chỉ có mấy người biết, đủ để nói thầm, chả thân cậu lắm!”. Sau này tôi kể lại với chú cậu Trần Kỳ Ứng dưới Gò Quao hỏi thăm, chú nói chuyện “hồi đó ai cũng yêu nước, đánh Tây đặng giành độc lập. Có mấy người biết chữ đâu. Lớp đó là người theo đạo Thiên chúa cũng vào Đảng, làm lãnh đạo Việt Minh. Khi định biên lại khoảng năm 53, làm theo kiểu mấy anh Tàu nên nhiều người chán nãn…”.
Lớn lên trong thời chiến, lại lo chuyện học hành, chuyện kiếm hiệp/võ hiệp kỳ tình tràn lan rồi phong trào hip-pi, phản chiến đến triết lý hiện sinh hiện tồn,…Mỹ đã đổ quân vào Đà Nẵng, đảo chính, tăng quân, leo thang đánh phá,…Làng quê ứng phó bằng tích trữ khô muối, dầu đèn, trảng-sê hầm hào trước bom sai đạn lạc; phố chợ lung lay trước bao cuộc biểu tình, đình công bãi thị, học sinh bãi khóa, chống đàn áp Phật giáo rồi chống hiến chương Vũng Tàu, đả đảo Nguyễn Khánh bán nước, đả đảo Thiệu-Kỳ-Có,…khiến tụi nhỏ tôi chẳng còn thời gian và lòng dạ nào dòm đến văn học miền Nam nữa.
Sau 68, anh em tan tác người một ngã. Ngọn lửa tàn độc tràn qua thôn ấp ngày một hung tợn, ác liệt. Làn sóng tỵ nạn chiến tranh lan ra, người dân tản cư chạy vào khu dồn, lớp trẻ chúng tôi về Sài Gòn. Mấy năm sau tôi thấy chú trong phong trào chống chế độ kiểm duyệt báo chí của Sở Phối hợp Nghệ thuật, tổ chức biểu tình với khẩu hiệu “Ký giả đi ăn mày”, nhưng mỗi người một việc.
Bẵng đi có chục năm liền, cũng vì mưu sinh chen chúc, tuy không xa nhưng khó dịp hàn huyên. Có lần gặp nhau tôi hỏi nghe chuyện vợ con chú sao đó, chú Sơn Nam buồn buồn ̶ “mình viết văn mà không hay thì ai đọc, làm sao sống? Mà lo chuyện viết lách thì bỏ bê, vợ con mấy người thông cảm”…Tới 97, đợt 300 năm Sài Gòn chú nhờ tôi tiếp mấy chuyện vặt. Lúc này chú thuê nhà ở Phan Văn Trị, một cái buồng dài và hẹp, bốn bề nước đái khai um. Cũng chỉ cái máy Olivetti gõ cọc cạch và bộn bề sách vở xếp chung quanh lan cả lên chiếc giường tám tấc. Gần đến ngày trả tiền nhà chú lúng túng, xốn xang cùng nổi lo trễ nãi bà chủ phiền.
Chú Sơn Nam lúc này đã thấy già, nói chuyện vẫn bông lơn nhưng có phần cam chịu. Có bữa được ít tiền nhuận bút, “chú em chở dùm qua đi gửi cho thằng con, nó khổ lắm”. Lần khác thì “thằng con dưới Mỹ Tho hẹn lên xin mấy trăm về lo chuyện nhà”.
Mấy lần chú xuất hiện trên phim, và khi đi ra quê Bắc tế cụ Nguyễn Hữu Cảnh, với bộ nam phục lụa màu xanh thấy ngồ ngộ, khác xa với “ông già đi bộ” thường ngày, lưng chú đã hơi còng rồi.
Vài năm sau nữa, tôi nhớ bữa đưa tang Bùi Giáng ở Gò Dưa, sau bài ai điếu của Cung Văn là điếu văn của Hội Nhà Văn thành phố. Chú moi ra bài viết sẵn trên túi áo vét xanh nhầu nhỉ, sửa lại đôi kính cũng rầu rĩ như ông chủ và chú run run nói: “Anh Giáng ơi! Sáng nay anh NQS nói với tui anh là lớp trước, lại ở trong này, cũng ít dịp gần gũi. Anh đại diện cho Hội đọc dùm điếu văn này. Dậy đây là phần của Hội nghe anh Giáng…Tui đọc dậy là xong rồi, còn đây là của tui. Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài,…nhưng văn thơ của anh ngay ngắn đường hoàng. Anh có nề gì cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh xài sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang khi chùa khi chợ có cố định đâu đâu, mà bữa nay đưa anh đi có quân canh lính gác, có vòng hoa của Thành ủy – Ủy Ban, có Hội Nhà văn, dậy là anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh Giáng!…”.
Có lần hội thảo khoa học về cụ Trương Vĩnh Ký, như những lần hội thảo danh nhân Nam bộ khác, chú đã đọc tham luận. Không phải về những công trình bác học, đồ sộ hoặc luận về công/tội, chú nói đến chuyện sau cùng cụ TVK đã dành thời gian viết chuyện cho con nít đọc, “mà viết chuyện hay con nít tìm đọc là khó lắm đó nghe”.
Lúc Bé Tư mới ra cuốn Cánh đồng bất tận, một ông lão nghe chuyện hỏi tôi NQS ủng hộ lắm hả, cháu có không? Tui nghe chú Sơn Nam có bản photo. Mà lúc này ổng về ở dưới Lăng Ông rồi. Chở chú lại thăm giả chút. Hai người lớn nói chuyện văn chương, tôi mãi mê đọc báo. Chỉ nghe thoáng khúc cuối chú Sơn Nam nói “nó muốn đặt tên cho đứa nhỏ là Hiền, Lành gì đó chứ không Thù, Hận,…nghĩ lại không biết tụi mình là con hoang của vụ hiếp dâm nào?” Tôi xin phép hai ông chú ra về trước.
Tự nhiên mấy năm gần cuối đời hai dái tai của chú dày ra, rộng hơn phát đỏ hồng, anh em mừng. Thì cũng có chuyện hợp đồng bán được tác quyền, sách được in lại đẹp đẽ, chú cũng mừng. Nhưng thường bữa, trừ đợt bịnh nặng, chú vẫn đến thư viện Gò Vấp cạnh cầu Hang tìm sách đọc, viết và nhờ mấy cháu đánh máy lại. Rủng rỉnh thì mời mấy cô bé đi ăn trưa, cơm dĩa. Sáng sáng lại ngồi cà phê đen xéo phía kia đường.
Khúc cuối cùng cuộc đời, do có chuyện bình chọn để lãnh giải thưởng gì đó ngoài trung ương mới có chuyện “…Sơn Nam không được, vì nhờ biết tiếng Tây, đọc các bài viết cũ rồi viết lại chứ không có công trình gì…”. Từ hồi chữ quốc ngữ thịnh lên tới giờ, có biết bao nhà văn đọc rồi phóng tác; có bao người đọc để biết mà tránh viết giống người trước? Tôi thì biết rõ là chú Sơn Nam không đạo văn như cái án oan kiểu gây dư luận đó.
Lại rủi cho chú khi đi đường bị xe của bọn trẻ chạy vong mạng làm gãy chân, chú chỉ nói buồn “tụi nhỏ chúc thọ ông già kiểu này ngặt quá!”.
Mới đó mà chú đã đi xa một năm rồi, ngày đưa tang chú tôi từ Gia Lai về, mệt quá ngủ quên, khi anh em nhắc thì đã xong mọi việc. Tiếc và buồn! Thôi, đêm nay tôi nhớ chú, ngồi viết gọn mấy dòng dâu bể.
Bài “Thay lời tựa” tập truyện ngắn nổi tiếng “Hương Rừng Cà Mau” của nhà văn Sơn Nam là một bài thơ hay. Bài thơ dài 28 câu viết về cái thuở tiền nhân xưa từ miền Trung tha hương vào khai hoang mở cõi phương Nam. Đó là một bài thơ độc đáo hiếm thấy của nhà văn Sơn Nam mà nhiều người đã thuộc lòng vì cái điệu buồn chất chứa trong từng âm điệu, câu chữ.
Nhưng có lẽ ít ai biết bài thơ đó nhà văn viết khi nào và ở đâu. Một hôm, cuối năm 2000, gần Tết, tôi nhớ vào ngày 15-1-2001, ông ghé thăm báo Cần Thơ và nhắn tôi qua chơi. Tôi chở ông về nhà mình, giở cuốn “Hương rừng Cà Mau” do nhà xuất bản Trẻ tái bản năm 1986, có chữ ký tặng bằng mực đỏ của ông ngày nào, rồi hỏi:
– Bài thơ này chú Tám làm hồi nào vậy?
Ông nheo nheo mắt, nói:
– Viết từ năm 1961, trong nhà tù Phú Lợi. Hồi đó chánh quyền Sài Gòn bỏ tù cái tội mình vẫn theo kháng chiến.
Rồi ông ngồi chép lại cả bài thơ trên mặt sau một tờ lịch lớn. Nét chữ của một ông già 75 tuổi mà bay bướm quá chừng. Cuối bài thơ, ông ghi: “Viết thơ này từ năm 1961, nay chép lại tặng Huỳnh Kim, bờ sông Hậu”. Tôi đã nhờ thợ phủ la-mi-na và ép tờ lịch ấy lên một tấm gỗ để lưu giữ được lâu dài bút tích của nhà văn Sơn Nam.
Tôi treo kỉ vật này trên tường kế bên kệ sách và gắn kề bên nét chữ của ông, một chiếc lá cây khô hoang dã đã lìa cành tự khi nào. Chiếc lá ấy, nét chữ ấy, mỗi lần nhìn lên, như nghe có tiếng người xưa vọng lại:
Trong khói sóng mênh mông
Có bóng người vô danh
Từ bên này sông Tiền
Qua bên kia sông Hậu
Mang theo chiếc độc huyền
Điệu thơ Lục Vân Tiên
Với câu chữ:
Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả
Tới Cà Mau – Rạch Giá
Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng
Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
Chướng khí mù như sương
Thân không là lính thú
Sao chưa về cố hương?
Chiều chiều nghe vượn hú
Hoa lá rụng buồn buồn
Tiễn đưa về cửa biển
Những giọt nước lìa nguồn
Đôi tâm hồn cô tịch
Nghe lắng sầu cô thôn
Dưới trời mây heo hút
Hơi vọng cổ nương bờ tre bay vút
Điệu hò… ơ theo nước chảy chan hòa
Năm tháng đã trôi qua
Ray rứt mãi đời ta
Nắng mưa miền cố thổ
Phong sương mấy độ qua đường phố
Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê…
Nhà văn Sơn Nam đã về với đất, nhẹ như câu thơ của ông “Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê”. Sáng nay, lục tìm trong ký ức và trong Thời báo Kinh tế Sài Gòn (TBKTSG), như gặp lại ông…
1.
Năm bảy năm trước, khi còn khỏe, nhà văn Sơn Nam có viết lai rai cho TBKTSG, thường là vào dịp Tết. Có một bài mà bây giờ đọc lại, thấy như ông nói chuyện đang xảy ra. Đó là bài “Làm tiền và xài tiền”. Mở đầu bài báo, ông viết: “Tuy không rành về kinh tế tài chính nhưng tôi dám phát biểu rằng không phải có nhiều vàng trong tay là mặc nhiên được đứng vào hàng ngũ tư sản Việt Nam trong giai đoạn mở cửa này”. Rồi ông nhận xét: “Mấy năm gần đây, phát sinh một hiện tượng ăn xài hoang phí trong một bộ phận dân cư ở Sài Gòn và các tỉnh, đến mức mà chính những nhà kinh doanh nước ngoài phải ngạc nhiên, thậm chí coi khinh. Trúng mối vài dịch vụ sang nhượng nhà đất, buôn lậu, tráo trở chứng từ, dành dụm được năm, mười cây vàng, hoặc hơn, làm tiền không đổ mồ hôi thì dĩ nhiên cần tiêu xài vô lý, dịp may hiếm có. Tiền sẽ vào túi, dễ dàng, cóc nằm há mồm là sung rụng ngay vào miệng, muốn khạc ra cũng không được. Đó là chưa kể một số cán bộ tiêu cực có bài bản, ăn chơi một buổi bằng một năm lương bổng của người làm công. Xài ô-tô hạng sang, quần áo thứ tốt, nhà cửa trang trí toàn đồ ngoại”.
Một chỗ khác, ông mô tả rành rọt: “Rượu mạnh với nhãn hiệu đắt tiền, nốc vài chai đã là tốn bạc triệu. Gọi thức ăn đủ món, nhưng món nào cũng gắp thử một vài đũa, hoặc không gắp rồi chờ đem món khác! Ăn để phá của, vì của cải ấy làm ra không đổ mồ hôi, lắm khi không tiêu xài thì không phải lẽ, vì đó là tiền thù lao tập thể cho phép cả nhóm kết nghĩa! Tiêu xài để cho người đồng lõa thấy mình là người hào hiệp, thừa tiềm năng và thừa bản lãnh. Đến mức những người phục vụ cửa hàng tuy cười tươi ra mặt nhưng khi vào nhà bếp, họ cũng lắc đầu, khinh bỉ cái phong cách điên khùng của “thời đại”. Chưa hết! Ăn uống bừa bãi, nửa ăn nửa bỏ, nôn mửa, lắm khi để xóa mặc cảm tội lỗi, họ lại cởi áo, dùng những lời lẽ phàm tục, nhờ điện thoại cầm tay để nói láo với bạn bè, với vợ con hoặc trêu chọc cô gái nào đó để ra vẻ mình… có máu văn nghệ. Chưa kể trường hợp say quá mức, họ lại đùa giỡn bằng cách chế diễu các cơ quan nhà nước và tự chế diễu mình”.
Ông quan sát thấu đáo cả những kiểu sống như thế này: “Có tiền nhiều, nhưng không tin nơi ngày mai, hoặc quá tin vào tử vi, tuổi con rồng, gặp tháng con chuột. Họ cầu mong làm giàu thêm, không bỏ những dịp may có thể thoáng qua rồi mất. Con cái của họ cần được nổi danh trong khu phố, với bạn bè cùng trang lứa. Nào khiêu vũ, nào ăn điểm tâm ở khách sạn sang trọng nhất, xài đô-la chớ không xài tiền Việt, trong khăn mù-soa nhung nhúc những khoen lớn khoen nhỏ. Mất chiếc xe gắn máy đắt tiền này, lập tức cho con số tiền to để sắm trở lại chiếc khác, lắm khi còn đắt tiền và hợp thời trang hơn”.Gần cuối bài đó, nhà văn nhắc nhẹ: “Ở Việt Nam, xưa kia đã từng có xuất hiện vài nhà tư sản xứng đáng cho đời sau ghi nhớ. Thí dụ như ông Trương Văn Bền. Khi rảnh rang, ông tranh thủ đọc sách, nghiên cứu cách tiếp thị, phân phối sản phẩm theo đường dây hợp lý. Mỗi sáng, ông không quên tập thể dục”.
2.
Nhà văn Sơn Nam viết báo kinh tế như vậy đó. Còn các nhà báo kinh tế và doanh nhân thì lại hay trích văn của ông. Trong mấy chục bài của họ đã đăng trên TBKTSG, dễ gặp lại hình ảnh “ông già Nam bộ” Sơn Nam.
Tỉ như trong bài “Như ngày xưa tiền nhân đi mở cõi”, ông Trần Kim Chung – Tổng giám đốc Công ty cổ phần Quốc tế C&T – đại diện Tập đoàn Mỹ phẩm Amore – Pacific Hàn Quốc, tâm sự: “Có một bài thơ của nhà văn Sơn Nam luôn làm tôi liên tưởng rằng, chuyện khởi nghiệp kinh doanh ngày nay cũng tựa như chuyện tiền nhân ta ngày xưa đi mở cõi. Đó là đoạn đầu trong bài thay lời tựa tập truyện ngắn “Hương rừng Cà Mau” của nhà văn: Trong khói sóng mênh mông / Có bóng người vô danh / Từ bên này sông Tiền / Qua bên kia sông Hậu / Mang theo chiếc độc huyền / Điệu thơ Lục Vân Tiên / Với câu chữ: “Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả” / Tới Cà Mau, Rạch Giá / Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng…”.
Hoặc trong bài “Quán Sơn Nam”, nhà báo Võ Đắc Danh kể: “Sáng thứ bảy, tôi tìm đến địa chỉ liên lạc thường nhật của ông, tức cái quán cà phê trong khuôn viên nhà truyền thống quận Gò Vấp. Khác với lệ thường, hôm nay sau khi uống xong ly sữa tươi và ly cà phê đen, nhà văn Sơn Nam ăn thêm một gói bắp nấu, rắc lên một ít đường cát và dừa nạo. Bắp nấu là món ăn sáng của người nghèo, hồi trước bắp nấu được gói bằng lá chuối, múc ăn bằng một miếng sóng lá dừa. Bây giờ là cây muỗng nhựa, bắp nấu gói trong bọc ny lông, bên ngoài gói thêm lớp giấy báo.
Thấy ông ăn một cách ngon lành, tôi hỏi: “Tía tìm đâu ra món này, đã lâu rồi tôi không thấy?”. Ông nói ở gần nhà ông còn một người bán, nhưng phải dậy sớm mua mới có.
Ông vừa ăn xong thì một thanh niên tìm tới, nói là ở tạp chí Điện ảnh đến nhận bài báo Tết theo đơn đặt hàng. Ông vừa lấy bản thảo trong túi ra, vừa cười nói: “Lấy tiền trước của họ, xài hết rồi mới viết”. Ông cho tôi xem trước khi giao nó cho khách hàng. Năm Giáp Thân, ông viết về khỉ. Thì ra, ông là một trong những cư dân Sài Gòn trực tiếp chứng kiến các chuyên gia người Pháp mang hai con khỉ đầu tiên đến Thảo cầm viên. Ông nói ông rất khoái câu nói của Gamzatov, đại ý: con khỉ muốn thành người phải trải qua quá trình tiến hóa hàng triệu năm, nhưng con người muốn trở lại thành khỉ thì chỉ cần một chai rượu”.
Hay trong bài “Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản”, nhà báo Hưng Văn viết: “Nhà văn Sơn Nam đề nghị: Trong chương trình sử học cho học sinh, nên có một bài nói về ông Phan Thanh Giản; đủ tình đủ lý; gọi là tình huống đặc biệt của Nam bộ khi phải hội nhập với vùng Đông Nam Á và phương Tây quá sớm so với các vùng khác trong cả nước. Ông để lại cho đời sau chút gì khó quên, khó xóa nhòa, gọi là tâm linh, phóng khoáng, mơ mộng”.
Tấm ảnh đăng kèm bài này là hình nhà văn Sơn Nam lật xem cuốn “Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư” trên giường bệnh vào chiều ngày 19-6-2005. Một giọt nước mắt ứa ra nơi khóe mắt ông già 80 tuổi. Dạo đó, ông phải nằm viện cả tháng trời sau một tai nạn giao thông. Cùng nhiều bạn đọc khác, tôi từ Cần Thơ về Sài Gòn thăm ông, gởi biếu ông quà của công nhân Công ty In Vườn Lài ở Quận 10 và của giáo sư Trần Hữu Dũng ở Mỹ nhờ chuyển. Tôi cũng tặng ông cuốn sách của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư ở Cà Mau, do Nhà xuất bản Trẻ và TBKTSG mới ấn hành. Ông lặng lẽ giở vài trang sách, không nói một lời. Nhưng nhìn ánh mắt ông, tôi hiểu tình cảm của ông dành cho nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, năm đó Tư 29 tuổi. Trước đó mấy tháng, tôi gặp ông chỗ cái quán cà phê mà anh Võ Đắc Danh kể ở trên. Nhắc tới cô Tư, ông nói: “Viết hay hơn Sơn Nam à nghen!”. Sau đó tôi gọi điện thoại cho Tư rồi đưa máy cho hai chú cháu nói chuyện. Nhớ giọng ông hào hứng: “Chịu khó viết mỗi ngày. Báo hổng đăng thì để đó, rồi sẽ có ngày báo đăng”. Bữa đó, truyện “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư chưa đăng báo.
Blog Huỳnh Kim, bài này đăng Thời báo Kinh tế Sài Gòn 21-8-2008
VÀI KỈ NIỆM VỚI NHÀ VĂN SƠN NAM Huỳng Kim (Vũ Châu ghi)
Ấn tượng nhứt của anh với nhà văn Sơn Nam là gì?
– Lần nào gặp, tôi cũng thấy ổng giản dị, lạc quan và hầu như nói chuyện gì với ổng tôi cũng học được nhiều thông tin bổ ích. Sơn Nam là một nhà văn nổi tiếng nhưng rất dễ tiếp xúc và chuyện trò. Ở nhà, trong quán cà phê, giữa cuộc họp… hay bất cứ đâu, hễ rảnh rang là ổng sẵn sàng la cà với mọi người, nhất là với giới bình dân. Có lần tôi về Sài Gòn ghé thăm khi ổng đang nằm trên giường bệnh. Ổng gầy lắm, da bọc xương, nhưng nói chuyện thì tỉnh táo, ánh mắt vui. Ổng khuyên tôi nên coi bộ phim “Mê-kông ký sự” mà theo ổng thì còn gặp được những hình ảnh văn hóa gốc của nhiều dân tộc thiểu số chưa bị “con người hiện đại” can thiệp. Ổng nói rất lạc quan: “Nếu còn sống được tới 85 tuổi, tôi sẽ viết tiếp câu chuyện này, ở hai bên bờ sông Tiền, sông Hậu của đồng bằng sông Cửu Long”.
Nghe nói nhà văn Sơn Nam có dạy anh viết báo?
– Không dạy trên giảng đường, ổng chỉ dạy tôi trong cuộc sống. Từ năm 1975, nhà tôi ở chung con hẻm nhỏ với nhà văn trên đường Lạc Long Quân, quận Tân Bình, TPHCM. Tôi vào bộ đội rồi chuyển sang nghề báo. Phóng sự đầu tiên tôi nhờ ổng đọc, viết về đảo Phú Quốc gởi báo Quân đội nhân dân. Cho tới giờ, tôi vẫn thực hành lời dạy viết báo của nhà văn Sơn Nam từ dạo đó: “Cố gắng viết ngắn, câu nào cũng có thông tin”.
Một lần khác, vào năm 1993, tôi theo nhà văn vào xã Tây Phú thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Trong khi chúng tôi cứ loay hoay với mấy cái báo cáo tổng kết về chuyện đi khai hoang vùng tứ giác, thì nhà văn Sơn Nam đã lội lòng vòng quanh chợ xã. Quay về, ông chỉ hỏi anh bí thơ xã mấy câu mà nghe xong thấy… quá nể: “Có gái giang hồ vào tứ giác tìm tình yêu hay không?”; “Có người nông dân bất mãn? Có anh cán bộ cường hào?”; “Điện thoại bàn đã gọi ra quốc tế nhưng sách báo về xã sao thấy còn ít quá?”… Khi nghe anh bí thơ xã kể chuyện bà con nông dân lập miếu Thần Nông, 17 tháng 3 âm lịch hằng năm họ cúng tạ ơn trời đất, tổ tiên và cây lúa, nhà văn Sơn Nam nói: “Đó là đạo. Làm ruộng là đạo, giữ đất là đạo. Khuyến nông tức là cách giữ đạo làm nông, thì dân mới giàu mạnh được. Tôi lội chợ Tây Phú, thấy có đánh bi-da, có tiệm vàng, có cái kéo rèn từ Phú Tân đưa qua, có bộ xa-lông tre lấy mẫu từ Mộc Hóa, có cô bán quán quê Đồng Tháp, có thầy giáo quê Thanh Hóa… Người tứ xứ về tứ giác sinh cơ lập nghiệp, thì cần giữ cái đạo làm người, thì kinh tế thị trường ở đây mới nên bộ mặt nông thôn mới”. Khi ghé thăm chùa, thăm khu di chỉ văn hóa Óc-Eo, cánh nhà báo chúng tôi lăng xăng hỏi nhà chùa đủ chuyện thì nhà văn Sơn Nam lặng lẽ thắp nhang trước bàn thờ Phật, cúng dường nhà chùa và bố thí cho người nghèo chung quanh chùa.
Đó là những bài học làm báo và làm người nhớ đời của tôi.
Anh có giữ kỷ vật gì của nhà văn Sơn Nam không?
– Tôi đang giữ tập truyện “Hương Rừng Cà Mau” do Nhà xuất bản Trẻ tái bản lần đầu tiên sau ngày giải phóng, tháng 11-1986, in giấy vàng khè, giá 25 đồng, có chữ ký tặng bằng bút bi màu đỏ của nhà văn Sơn Nam. Tôi cũng đang treo bên kệ sách, bút tích của nhà văn Sơn Nam chép bài thơ thay lời tựa tập truyện “Hương Rừng Cà Mau”. Lần đó, tôi nhớ vào ngày 15-1-2001, sau khi ghé thăm báo Cần Thơ, nhà văn về nhà tôi chơi. Sau đó, ổng chép lại bài thơ vào mặt sau một tờ lịch lớn và ký tặng vì biết tôi rất thích bài thơ đó. Tôi tò mò hỏi chú viết bài thơ trong hoàn cảnh nào, ổng nói: “Viết từ năm 1961, trong nhà tù Phú Lợi; hồi đó chính quyền Sài Gòn bỏ tù cái tội mình vẫn theo kháng chiến”.
“CỐT CÁCH NGƯỜI VIỆT NAM MÌNH LÀ NHÂN NGHĨA” Huỳnh Kim
Trung tuần tháng 3-1990, nhà văn Sơn Nam về Cần Thơ để chuẩn bị cho một công trình nghiên cứu về chùa Nam Nhã. Lúc này ông đã 64 tuổi, thường xuyên đi về miền Tây. Biết tôi đã chuyển qua làm ở báo Quân khu 9 và cộng tác với mấy tờ báo ở Sài Gòn, Hà Nội, ông nhắn tôi đi uống cà phê đêm rồi về nhà tôi chơi. Lâu ngày gặp nhau, không hiểu sao tôi vẫn muốn nghe ông nói chuyện về miền Tây, về đồng bằng sông nước mà khi đó dù đã cưới vợ quê gốc Cần Thơ, lúc nào tôi cũng thấy mình thiếu cái… cốt cách miền Tây. Tôi còn nhớ đã hỏi ông như thế này:
– Cái cốt cách người đồng bằng mình, theo chú Tám, là sao?
Ông trả lời:
– Cái cốt cách người Việt Nam mình là nhân nghĩa. Ông vua mà không nhân nghĩa thì sẽ bị cái nhân nghĩa của nhân dân “cách cái mạng”. Hàng xóm có đám ma, mình góp tiền lo đám, dù người đó lúc còn sống mình không ưa. Không phải chỉ ông vua chết, mình mới cúng. Người ăn mày chết, mình cũng cúng. Đứa trẻ chết, mình cúng. Người ăn cắp, người đói chết, mình cúng. Xưa, công chúa Thuận Thiên than lạnh với cha, vua Lý Thánh Tông họp quần thần bảo: Trẫm thương dân như thương công chúa. Công chúa mặc hai lớp áo cung đình còn than lạnh, huống hồ là muôn dân của trẫm bị cầm tù vì nghèo vì dốt. Nay trẫm lệnh phải phát đủ quần áo để muôn dân được ấm. Đó không phải là mị dân, cái gốc của nó là nhân nghĩa Việt Nam.
Ông còn nói thêm về cái hiện trạng sống thiếu nhân nghĩa xung quanh ta. Tôi giật mình nghĩ lại mình. Lúc đó là đã mười bốn năm kể từ ngày ba tôi mất. Lúc đó, đời lính đã tạm yên, không còn ra mặt trận 979 nữa, nhưng vợ chồng tôi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện thờ phượng ba tôi, tất cả để một mình mẹ già của tôi ở Sài Gòn lo nhang khói. Mà hai vợ chồng tôi lúc đó là đảng viên, lúc nào cũng nghĩ mình sống có ích, có nghĩa với dân với nước! Có ngờ đâu, có những lúc thấy tâm hồn trống vắng cô đơn kì lạ mà không làm sao hiểu nổi. Như là đêm hôm đó, tôi lập cập tiễn ông già 64 tuổi ra khỏi căn nhà “gia binh” già nua của mình, gió đêm lạnh ngắt.
HK
Blog Huỳnh Kim, hai bài này đăng báo Cần Thơ (tháng 8-2008)
HẠT BỤI NGHIÊNG MÌNH NHỚ ĐẤT QUÊ Võ Đắc Danh
Biết thế nào rồi cũng có cuộc chia ly, hôm ấy, cách nay hơn ba năm, khi ông còn tá túc ở thư viện Gò Vấp, tôi mua một tờ giấy cứng với cây bút lông mang lên, nói: “Tía chép giùm con bài thơ để con giữ bút tích của tía làm kỷ niệm”. Ông nói: “Ừ, để đó đi, vài hôm nữa đã, tôi có chết sớm đâu mà lo, giờ có rảnh hôn, chở tôi đi vòng vòng Sài Gòn chơi”. Không ngờ đó là lần cuối cùng tôi chở ông đi dạo, và rồi bài thơ ông cũng không kịp chép cho tôi. Hôm ấy được tin ông bị tai nạn giao thông, tôi chạy sang thì ông đã nằm liệt giường, thậm chí không còn nhận ra tôi là ai nữa. Bây giờ thì ông đã ra đi!
Nhớ hôm ấy, ngồi sau lưng tôi, ông kể chuyện huyên thuyên, rồi bất chợt khi ngồi ở một quán cà phê vỉa hè, ông nói: “Tôi còn mấy chuyện hay lắm, nhưng về già tôi mới viết”. Tôi giật mình nhìn ông và tự hỏi, về già là bao lâu nữa, hơn 80 rồi, ông lẩm cẩm rồi chăng? Rồi ông lại nói: “Có gặp thằng Nguyễn Trọng Tín, nói tôi nhắn với nó chuyển sang viết văn xuôi đi, thời buổi này mà làm thơ là húp nước mắm”. Tôi nói ông Tín bây giờ viết báo rồi, ông cười: “Vậy là càng tốt, viết báo dễ kiếm tiền hơn”. Trầm ngâm một chút, ông nói: “Nè, tôi dặn ông cái này nghen, ông viết báo thì cứ lo viết báo, đừng bày đặt góp ý với thằng chủ báo phải làm thế này thế nọ, trào máu có ngày! Ngoài mặt nó giả bộ gật đầu nhưng trong bụng nó ghét cay ghét đắng”.
Từ chiến khu về thành ông được phân công ở lại sau tập kết, một phòng trọ, một bộ bà ba vải ú trắng, một đôi guốc vông, lang thang đi bộ khắp Sài Gòn. Ông nói sự nghiệp của ông có ảnh hưởng khá nhiều từ lời khuyên của Bình Nguyên Lộc.
Những ngày đầu tiên ở Sài Gòn, ông lang thang đi tìm Bình Nguyên Lộc, hôm ấy gặp nhau trong một căn gác xép, hai người trao đổi với nhau xem nên viết cái gì để vừa kiếm tiền nuôi sống, vừa có lợi cho dân. Bình Nguyên Lộc trầm ngâm khá lâu rồi nói: “Tôi thấy Sài Gòn bây giờ khá đông dân nhập cư từ miền Tây, hay là ông viết những chuyện xứ ông, chắc sẽ có nhiều người đọc”. Quả nhiên, những câu chuyện của Sơn Nam về rừng U Minh đã thu hút đông đảo độc giả Sài Gòn, không chỉ dân miền Tây mà cả những người đến từ mọi miền đất nước.
Ông nói: “Đến với văn chương để mong nổi danh thì đừng có hòng. Nền văn học của ta hơn nửa thế kỷ qua, nhìn lại ở một góc độ nào đó, coi như lấy rổ múc nước”. Tôi cũng không hỏi vì sao, bởi biết tánh ông thỉnh thoảng hay “phán” ra một câu rồi bỏ ngỏ, không giải thích, ai muốn hiểu sao thì tự hiểu. Với riêng ông, ông tự xem viết văn là một cái nghề, cái nghiệp để mưu sinh, “vì vậy mà phải viết cho đàng hoàng, phải có lương tâm nghề nghiệp thì các báo, các nhà xuất bản họ mới mua của mình, độc giả họ mới đọc của mình”.
Dường như với Sơn Nam, mọi thứ đều rất thực tế và rất đơn giản. Trong câu chuyện Âm dương cách trở của ông cách nay gần 20 năm, tôi vẫn bị ám ảnh một chi tiết: “Ông già hớt tóc vỉa hè bị công an khu vực xét hộ khẩu, ông nói: “Tôi sống ở đây gần trọn một đời người, chỉ biết mình là công dân của Tổ quốc Việt Nam thôi”. Anh công an hỏi: “Vậy theo ông thế nào là Tổ quốc?”. Ông già nói: “Với tôi, Tổ quốc là một nơi kiếm sống được bằng một việc lương thiện nào đó, không bị ai làm khó dễ, có vài người bạn chơi được, không ba trợn”. Ông già hớt tóc sau đó qua đời, được một người bạn thầy tu cho hỏa táng và mang hũ hài cốt về quê ở U Minh”.
Cho đến bây giờ, khát vọng đơn giản của ông già kia vẫn đang là khát vọng của hàng triệu con người. Càng nghĩ càng thấy “đáng sợ” một Sơn Nam.
SƠN NAM CÂY TRÀM CỔ THỤ RỪNG U MINH Trần Thị Hồng Hạnh (* giải nhất Văn học tuổi 20 lần 3-2005)
Con bé rụt rè, tự ti ngày ấy chỉ có sách vở làm bạn. Con bé chưa từng ra khỏi thị xã bé như lòng bàn tay đã bay bổng với một không gian đặc biệt, với những con người khác thường độc đáo trong Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam. Vụt chốc, những dị nhân buổi giao thời như ông già Năm xay lúa, ông mù Vân Tiên cùng vô số những nhân vật khác trong sáng tác của Sơn Nam đã đưa con bé – tôi – đến khung trời của sự hào sảng Nam bộ, của những chí khí chọc trời khuấy nước dưới vẻ bề ngoài bình thường.
Trong một lần trả lời phỏng vấn, ông nói mình viết những Mùa len trâu, Hương rừng Cà Mau từ “ký ức quê nhà mãi mãi không bao giờ phai nhạt”. Quê nhà của ông, nơi có cây tràm. “Trời sinh ra cây tràm thật là kỳ diệu, nó bám chặt rễ trong sình, chìm ngập trong nước mà vẫn mạnh khỏe, vẫn sinh sôi nảy nở để giữ vững mảnh đất bồi cho quê hương và giữ người cho đất”.
Tôi cũng nghĩ như vậy về ông. Ông đã góp nhặt tất cả những điều bình thường nhất, đã viết lại để giữ lại những nét đẹp đẽ của quê hương mình. Ông như cây tràm cần mẫn ra hoa, kéo ong bướm đến làm mật. Ông như hương tràm dìu dịu mà làm say mê bao kẻ trót một lần đến với rừng. Bây giờ, khi rừng đã bị phá rất nhiều, khi những con sông không chở nặng phù sa mà héo úa vì ô nhiễm, khi cá tôm không còn là của trời ưu đãi vùng đất phương Nam; những trang văn của ông bỗng trở thành vùng cổ tích, thành bảo tàng tâm tưởng cho những người con đồng bằng tự hào trong hoài vọng, nuối tiếc về những gì mà thiên nhiên đã ban tặng cho xứ sở của mình.
Lần cuối cùng được gặp ông cách đây hơn sáu tháng, vẫn thấy ông miệt mài với những con chữ, vẫn đau đáu với những trang văn. Cuộc trò chuyện ngắn ngủi thường bị ngắt quãng vì ai đó cần ông chỉ cho một điều gì đó về vùng đất Nam bộ. Vì đơn giản là họ biết, cứ hỏi “từ điển Nam bộ sống” này thì sẽ có câu trả lời.
Từ hôm nay, và nhiều năm sau nữa, nhiều độc giả sẽ tìm đến với những trang văn đẫm vị phù sa sông nước Nam bộ để hầu mong thấu được cái hồn cốt của đất và người nơi này. Rồi từ những con chữ lung linh ký ức đẹp về đất, về người; người đọc sẽ thấy thấp thoáng một dáng gầy, nhỏ, đang cắm cúi trên từng trang sách. Một trang đời đã khép lại. Vĩnh biệt một cây tràm cổ thụ của rừng U Minh!
SƠN NAM NHỮNG TRANG VĂN SẼ SỐNG MÃI Lê Văn Thảo * Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM
Đối với tôi, Sơn Nam là nhà văn số một của vùng đồng bằng Nam bộ. Tôi đọc ông từ tuổi ấu thơ, thời gian nghiệt ngã giờ đây biến tôi và ông thành hai người già như nhau, nhưng với nhà văn tôi vẫn là người em nhỏ, rất nhỏ. Tôi yêu sông nước Cà Mau, viết nhiều về Cà Mau, con người vùng đất đó đã cuốn hút tôi, đôi khi nghĩ lại hay chính là do những tác phẩm của Sơn Nam tôi đọc được từ hồi nhỏ, chính con người vùng đất trong tác phẩm đó đã đi vào cuộc sống của tôi? Nhà văn đã mất đúng giữa trưa, trời miền Nam mây mù dông bão.
Tôi đau xót, và cũng thấy tự hào là người cầm bút của vùng miền có nhà văn Sơn Nam, nơi con sông cánh đồng rừng đước rừng mắm lấp lánh trang văn của ông. Đó là những trang văn sẽ sống mãi, như viên ngọc quý càng lâu càng sáng.
SƠN NAM TRÊN 10.000 TRANG SÁCH CHƯA IN Lam Điền
Niềm an ủi cuối đời – như có lần ông tâm sự – là các sách của ông đã xuất bản tập trung, nhờ hợp đồng tác quyền ký kết với NXB Trẻ từ tháng 12-2002. Đến nay đã có 19 tựa sách của nhà văn Sơn Nam ra mắt bạn đọc trong chương trình sách này, đó là các tác phẩm:
– Bốn truyện vừa; Bà Chúa Hòn; Biển cỏ miền Tây – Hình bóng cũ; Dạo chơi tuổi già; Đất Gia Định; Bến Nghé xưa & người Sài Gòn; ĐBSCL: nét sinh hoạt xưa – Văn minh miệt vườn; Đình miếu & lễ hội dân gian miền Nam; Hương rừng Cà Mau; Lịch sử khẩn hoang miền Nam; Nói về miền Nam – Cá tính miền Nam; Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Nam; Theo chân người tình – Một mảnh tình riêng; Tìm hiểu đất Hậu Giang – Lịch sử đất An Giang; Hồi ký Sơn Nam; Vạch một chân trời – Chim quyên xuống đất; Xóm Bàu Láng; Gốc cây, cục đá, ngôi sao – Danh thắng miền Nam; Chuyện xưa tích cũ; Hương quê – Tây đầu đỏ và một số truyện ngắn khác.
Đây là tổng cộng 8.000 trang in, tập hợp từ 44 đầu sách của nhà văn Sơn Nam đã xuất bản từ trước đến nay. Thế nhưng, đến khi nhắm mắt xuôi tay, nhà văn Sơn Nam vẫn còn hơn 10.000 trang sách chưa in, đang được NXB Trẻ tập hợp, trong đó phần lớn là các bài báo và những bài khảo cứu của ông.
SƠN NAM VẠT LỤC BÌNH NAM BỘ
Trần Mạnh Hảo
… “Không hiểu sao, mỗi lần nhớ đến nhà văn Sơn Nam, tôi lại hình dung đến những vạt hoa lục bình trên các kênh rạch, sông ngòi của miền Nam. Lục bình, loài hoa “vừa đi vừa nở”, như một bài thơ tôi viết thuở nào, là một thứ hoa quá bình thường, thậm chí quá tầm thường, do trời trồng, cứ phiêu dạt, cứ lang bạt kỳ hồ như mây bay gió thổi, như số phận và tâm hồn của người nghệ sĩ. Lục bình vừa đi vừa sống, vừa đi vừa nở hoa, vừa đi vừa sinh sôi và tan rã. Nương trên sông nước, có lúc loài hoa xê dịch này chạy như bay về phía chân trời, chạy như đang bị nghìn thượng nguồn lũ lụt đuổi bắt, chạy như đang trôi tuột về phía hư vô, về phía không còn gì, để bấu víu và tồn tại…
Quả thực, Sơn Nam là loài lục bình chuyên đi bộ, trôi bộ trên những vỉa hè của Sài thành. Ông cứ tưng tửng như thế mà đi vào lòng người, mà đi vào văn học. Học theo phép trôi nổi, vô bờ bến của hoa lục bình, chừng như Sơn Nam cứ tưng tửng suốt hơn bảy mươi năm mà đi bộ trên những vỉa hè bụi bậm quanh co của con người. Đốm lục bình trên cạn này có cảm giác như trôi không nghỉ, vừa đi vừa ngậm cái sâu kèn bốc khói, thảng hoặc cười ruồi một cái rất bí hiểm, hoặc gật đầu chào một bóng mây, quờ tay lên khoảng không như tính vịn vào sự hụt hẫng của bước chân phận số. Trên dòng đời trôi dạt, cuộn xoáy về vô định ấy, trong hoang sơ im lặng chợt trổ ra bông lục bình, đột ngột như tiếng khóc oa oa sơ sinh của mang mang thiên cổ, có lúc lại đầy đặn, ấm áp tươi vui như tiếng cười của trời đất. Nhìn lên trời, đám mây tưng tửng kia chợt như một dề lục bình của cao xanh, trôi đi muôn đời bí hiểm mà sao chưa học được phép nở hoa của bông lục bình hoang dã.
(…) Dòng sông đuổi bắt chân trời, chẳng có gì trên đời có gan bám theo dòng sông về vô tận ngoài chấm lục bình kia. Lục bình như một biểu tượng sâu xa của kiếp người, vẫn trổ hoa trong mưa gió. Như một đóa lục bình văn học, tâm hồn Sơn Nam đang trôi trên những trang văn về phía chân trời của cuộc sống.”
SƠN NAM
(nhà văn) Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sơn Nam (1926 – 2008) là một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam nổi tiếng. Tiểu sử Ông tên thật là Phạm Minh Tài sinh ngày 11 tháng 12 năm 1926, tại làng Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá (nay thuộc xã Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang). Do sự nhầm lẫn của nhân viên hộ tịch, tên khai sinh của ông bị viết sai thành Phạm Minh Tày.
Thuở nhỏ ông học tiểu học tại quê nhà, rồi học trung học tại Cần Thơ. Năm 1945, ông tham gia Thanh niên Tiền phong, giành chính quyền tại địa phương, rồi lần lượt tham gia công tác ở Hội Văn hóa Cứu quốc tỉnh, phòng Chính trị Quân khu, phòng Văn nghệ Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ. Bút danh Sơn Nam ra đời trong thời gian này, để tưởng nhớ người phụ nữ Khmer đã cho ông bú mớm thời thơ ấu (Sơn là một họ lớn của người Khmer, Nam là để nhắc nhớ mình là người phương Nam)[1]. Sau Hiệp định Genève 1954, ông về lại Rạch Giá.
Năm 1955, ông lên Sài Gòn cộng tác với các báo: Nhân loại, Công Lý, Ánh sáng, Tiếng chuông, Lẽ sống…
Năm 1960-1961, bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa bắt giam ở nhà lao Phú Lợi (Thủ Dầu Một, Bình Dương)[2]. Ra tù, ông tiếp tục làm báo, viết văn và khảo cứu về Nam Bộ. Sau 1975, ông tiếp tục hoạt động trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Nhà văn Sơn Nam đã viết nên nhiều tác phẩm dấu ấn, ông được nhiều người gọi yêu là “ông già Nam Bộ”, “ông già Ba Tri”, “ông già đi bộ’, “pho từ điển sống về miền Nam” hay là “nhà Nam Bộ học”. Toàn bộ các sáng tác của ông được Nhà xuất bản Trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh mua bản quyền. Ông qua đời ngày 13 tháng 08 năm 2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm
Chuyện xưa tình cũ (1958)
Tìm hiểu đất Hậu Giang (1959)
Hương rừng Cà Mau (1962)
Chim quyên xuống đất (1963)
Hình bóng cũ (1964)
Truyện ngắn của truyện ngắn (1967)
Vạch một chân trời (1968)
Người Việt có dân tộc tính không? (1969)
Gốc cây – Cục đá & Ngôi sao (1969)
Thiên địa hội và cuộc Minh Tân (1971)
Phong trào duy tân ở Bắc Trung Nam (1975)
Đồng bằng Sông Cữu Long, nét sinh hoạt xưa (1985)
Vạch một chân trời (1988)
Bà chúa Hòn (1989)
Lịch sử An Giang (1989)
Chuyện tình một người thường dân (1990)
Theo chân người tình (1991)
Văn minh miệt vườn (1992)
Ngôi nhà mặt tiền (1992)
Âm dương cách trở (1993)
Đình miếu & lễ hội dân gian miền Nam (1994)
Lăng ông bà Chiểu và lễ hội văn hóa dân gian (1994)
Dạo chơi (1994)
Giới thiệu Sà Gòn xưa (1995)
Hương rừng Cà Mau tập 1 (1997)
Người Sài Gòn (1997)
Bến Nghé xưa (1997)
Lịch sử khẩn hoang miền Nam (1997)
Đất Gia Định xưa (1997)
Nghi thức lễ bái của người Việt Nam (1997)
Tuổi già (1997)
Danh thắng miền Nam (1998)
Ấn tượng 300 năm (1998)
Biển cỏ miền Tây ( 2000)
Một mảnh tình riêng (2000)
Tiếp cận Đồng bằng Sông Cửu Long (2000)
Cá tính miền Nam (2000)
Chim quyên xuống đất (2001)
Hồi ký Sơn Nam tập 1 (2001)
Hương rừng Cà Mau tập 2 (2001)
Hương rừng Cà Mau tập 3 (2001)
Dạo chơi tuổi già (2002)
Chuyện xưa tích cũ (2002)
Hồi ký Sơn Nam tập 2 (2002) Từ U Minh đến Cần Thơ –
Ở chiến khu 9 –
20 năm giữa lòng đô thị –
Bình An
Tìm hiểu đất Hậu Giang & lịch sử đất An Giang X
óm Bàu Láng …
Ghi nhận công lao
“ Sơn Nam là một tâm hồn lạc lõng trong thế giới buyn-đinh và Mercedes, trong thế giới triết hiện sinh, tranh trừu tượng và nhạc tuýt. Nhưng đó là một tâm hồn đẹp không biết bao nhiêu, đẹp cái vẻ đẹp của lọ sứ Cảnh Đức Trấn ở Giang Tây (có khác lọ hoa Ý Đại Lợi ngày nay), và ít được người đời thưởng thức hơn là họ đã thưởng thức một tiểu thuyết gia chuyên viết về chuyện tình chẳng hạn. Nhưng phải nhìn nhận rằng, cái đẹp Sơn Nam bất hủ… ”
“ Không chỉ cống hiến trong văn chương, ông (Sơn Nam) còn được xem là người có công khai phá, khảo cứu và sưu tầm văn hóa mảnh đất Nam Bộ. Vì vậy, không phải hiển nhiên mà người ta trân trọng gọi ông là “nhà Nam Bộ học” hay ông già Ba Tri… ” “ Sơn Nam là một trong số những nhà văn từng sống ở đô thị miền Nam nhưng tác phẩm vẫn được in liền mạch sau giải phóng, điều đó không phải dễ. Trước hết, tác phẩm của Sơn Nam không thuộc dạng a dua. Sống dưới chế độ ấy mà tránh được lối viết ấy quả là rất cao tay. Có lần người viết bài này hỏi vậy, Sơn Nam cười nhẹ, cũng chẳng giỏi giang gì đâu mà tôi chủ yếu viết về phong tục, về lịch sử khai khẩn đất đai Nam Bộ, và nếu là truyện thì đi vào tầng lớp nông dân, dân nghèo thành thị.
“Hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghiệp sáng tác, những trang viết của ông không đơn thuần là sự giải trí cho độc giả mà còn là những khảo cứu, khám phá về mảnh đất phương Nam. Là người Nam Bộ chính gốc nên nhà văn Sơn Nam là người am hiểu quá trình hình thành dải đất này. Những sáng tác của ông mang hơi thở của thiên nhiên, của văn hóa và con người Nam Bộ được thể hiện qua giọng văn giản dị, mộc mạc…”
Thương nước biết ơn bao người ngọc (*)
Vì dân qua bến nhẹ tênh lòng
Nhớ bao tài đức đời phiêu dạt
Ân tình lưu mãi những dòng sông.
(*) An Tư, Huyền Trân, Ngọc Hoa, Ngọc Vạn, …
(**) Chút Huế cho em (thơ Hoàng Kim)
NHỚ SƠN NAM THƯƠNG TRẦN MẠNH HẢO Hoàng Kim nhớ cụ Sơn Nam giỗ ngày 13 tháng 8. Tôi yêu mến Cụ nên đưa các bài Cụ viết và những bài tuyển chọn viết về Cụ ra đọc lại. Viết về cụ Sơn Nam tôi THÍCH NHẤT là các bài viết của Nam Sinh Đoàn, Huỳnh Kim, Võ Đắc Danh và Trần Mạnh Hảo. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nho-son-nam-ong-gia-nam-bo/.
Cụ Sơn Nam có lẽ cũng bằng lòng với sự chọn lựa và đánh giá này bởi sinh thời cụ không nệ và từng viết về cụ Bùi Giáng: “Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài,…nhưng văn thơ của anh ngay ngắn đường hoàng. Anh có nề gì cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh xài sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang khi chùa khi chợ có cố định đâu đâu, mà bữa nay đưa anh đi có quân canh lính gác, có vòng hoa của Thành ủy – Ủy Ban, có Hội Nhà văn, dậy là anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh Giáng!…”. Nửa đêm 12 tháng 8 của ba năm trước, tôi thắp đèn để chép bài “Sơn Nam vạt lục bình Nam Bộ”. Năm trước, tối này tôi sang thăm anh Trần Mạnh Hảo để cảm ơn anh. Năm nay, ngày 13 tháng 8 tôi lại đưa những trang văn, trang đời thấm thía của cụ Sơn Nam và người soi viết về cụ Sơn Nam ra đọc lại. Tôi tự nghĩ chạm thấu điều sâu sắc mà cụ Sơn Nam tâm huyết và tâm đắc gửi lại là một tấm lòng và xứng là người bạn tôi yêu. Nhớ Sơn Nam thương Trần Mạnh Hảo thích “Sơn Nam vạt lục bình Nam Bộ” Tôi nhớ nhất ba bài thơ của Trần Mạnh Hảo đều viết ngày 12 tháng 8 chạm thấu những điều sâu sắc mà thơ có thể nói hộ lòng người.
Tôi biết ơn tứ thơ Huyền Trân của anh để tôi viết ‘ ÂN TÌNH Thương nước biết ơn bao người ngọc. Vì dân qua bến nhẹ tênh lòng Biết bao tài đức đời phiêu dạt Ân tình lưu mãi những dòng sông ‘. Xin phép anh Hảo cho tôi được đưa chùm ba bài thơ này của anh ‘Chạm thấu điều sâu sắc Trang thơ soi trang đời’ vào CNM365 Chào ngày mới 12 tháng 8. https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-12-thang-8/
TÔI LÀ KẺ KHÁC
Thơ Trần Mạnh Hảo
Sao tôi cứ mãi phải là tôi
Cứ mãi là sương mỏng cuối đồi
Cứ mãi thì thầm đêm tiếng dế
Cứ mãi là chớp giật thiên lôi ?
Sao không là khói pha lời dế
Là mây mang sét ở trong hồn
Chao ôi làm mãi mình chán thế
Tôi là thu nhỏ cả càn khôn.
Tôi là trộn lẫn bao người khác
Ông bà cha mẹ hóa thân tôi ?
Hồn này em bắt lìa thân xác
Tôi biến thành ra kẻ khác rồi…
Sài Gòn 12-8-2018
VĨNH BIỆT TÌNH ANH – YÊU MỘT LẦN RỒI CHẾT !
Thơ Trần Mạnh Hảo.
(Lời Huyền Trân Công chúa ( 1287-1340) vĩnh biệt người tình Trần Khắc Chung (…- 1330) đi Chiêm Thành lấy vua Chế Mân theo hôn ước Chiêm – Việt để đổi vật sính lễ là dải đất từ Bắc Quảng Nam đến Nam Quảng Bình. Trần Khắc Chung vốn họ Đỗ, vì có công, được vua ban đổi quốc tính sang họ Trần.)
Đêm mở hàm cá sấu
Nuốt dần em vào chỗ không anh
Châu Ô ơi châu Lý
Hơi thở là gió bấc chạy vòng quanh
Chẳng lẽ em không còn thấy
Gương mặt anh chạm khắc nét Hồ Tây
Cái dáng vóc như Sông Hồng vụt chảy
Đôi mắt Việt to hơn mọi thứ trên đời
Em đi
Những giận hờn ở lại tắm sương đêm tháng mười
Những hẹn hò bơ vơ ngoài đường vắng
Rạ rơm còn có mắt
Thương người yêu mất đôi
Đất đâu nỡ ăn lời thề thốt
Xứ Hời xa
Xứ Hời xa hơn chết
Làm sao về lại người ơi ?
Những con đường ngày nào ta gặp
Giờ cuốn vào ruột em
Cái nhện nào đêm nay giăng tơ
Đừng bắt người yêu mắc lưới
Đêm quê hương
Trái tim em như quả sấu non rụng bên đường
Xin anh đừng nhặt
Cứ để tim em vật vờ ngoài gió ngoài sương
Phải em đã đi qua thời con gái
Qua thời đàn bà
Qua thời xanh cỏ
Người ơi người chớ xót xa
Em yêu anh như yêu nước Việt
Chưa bao giờ người đẹp như đêm nay
Người là Sông Hồng đứng dậy
Cầm gươm tiễn kẻ lưu đầy
Gà ơi sao vội gáy
Em xin đêm dài thêm một gang tay
Thuyền vua Chiêm tù và đã rúc
Đêm hãy dài thêm bằng sợi tóc
Cho em được nối với anh lần cuối cùng
Nhưng sợi tóc buộc đôi ta đã đứt
Nước Việt ơi
Em yêu người đến sợ hãi
Nước Việt đứng như bờ tre vẫy
Em đi rồi, tre phủ lá vào anh
Kìa bóng anh ngoài cổng thành như xoáy lốc
Đừng nhìn, đừng vĩnh biệt em
Sợ em rơi xuống vực
Tia mắt người dài hơn dây cột chân
Phải nước Việt là anh cầm đuốc
Đứng muôn đời thương nhớ đợi Huyền Trân ?
Sài Gòn 1984
MÙA THU TÔI ĐI HỌC.
Thơ Trần Mạnh Hảo.
Tuổi thơ tôi chớm heo may như tóc
Phất phơ trời trên vầng trán mùa thu
Con vạc gọi vì sao mai đi học
Hoa bìm ơi viên mực tím sương mù
Mùa hè trốn đi đâu tôi chẳng thấy
Mẹ vội may áo mới sợ tôi hờn
Gánh mùng tơi mẹ đổi thành thếp giấy
Hoa cúc vàng từ độ ấy vàng hơn
Mẹ khổ sở vì tôi mơ bút máy
Đêm nhìn lên trời cũng đổ mồ hôi
Một cặp sách mười năm không sắm nổi
Tuổi thơ tôi chân đất đến trường đời
Ôi bè bạn toàn cào cào châu chấu
Qủa bưởi nào rơi xuống nhảy choi choi
Miếng áo vá của một thời yêu dấu
Tôi học cùng trường với củ sắn củ khoai
Mùa thu đánh kẻng trời ngân tiếng vạc
Tâm hồn tôi đi học với mọi người
Hỡi ngòi bút lá tre bay trên bàn xào xạc
Có nghe lòng mực tím quả mùng tơi?
Sài Gòn 12-8-1991
NHỚ CHÂU PHI Hoàng Kim
Ở Ai Cập, tôi có hai người bạn tại Viện Nghiên cứu Cây trồng (Field Crops Research Institute FCRI) là Mahfouz Nenr Abd- Nour và Yousef El Sayed Ahmed Ars làm giám đốc của hai trạm nghiên cứu là Sids Agricultural Research Station, Beba Beni – SUEF EGYPT và Sakha Agricultural Research Station, Sakha, KAFR, EL SHEAKLI EGYPT. Câu chuyện tôi kể sẽ tóm tắt Ai Cập một thoáng nhìn, Cairo thủ đô Ai Cập thánh địa Hồi giáo, Nông nghiệp Ai Cập và bạn tôi, Ngọc lục bảo Paulo Coelho. Chuyện này tiếp nối trong chùm bài NHỚ CHÂU PHI https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nho-chau-phi/
Ai Cập một thoáng nhìn
Ai Cập có tên chính thức là nước Cộng hòa Ả Rập Ai Cập, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với bán đảo Sinai thuộc Tây Á. Ai Cập phía đông bắc giáp Địa Trung Hải, có biên giới với Dải Gaza và Israel, phía đông giáp vịnh Aqaba, phía đông nam giáp biển Đỏ, phía nam giáp Sudan, phía tây giáp Libya. Ai Cập có biên giới hàng hải với Jordan và Ả Rập Xê Út qua vịnh Aqaba và biển Đỏ. Ai Cập là một trong số ít nước trên thế giới có lịch sử lâu đời nhất vào khoảng thế kỷ 10 trước công nguyên. Ai Cập cổ đại được nhận định là một trong những nôi văn minh đầu tiên của nhân loại phát triển sớm nhất về chữ viết, nông nghiệp, đô thị hoá, tôn giáo có tổ chức và chính phủ trung ương. Ai Cập có một di sản văn hoá đặc biệt phong phú, giao thoa nhiều nền văn hóa cổ Hy Lạp, Ba Tư, La Mã, Ả Rập, Ottoman, châu Âu. Ai Cập từng là . một trong các trung tâm ban đầu của Cơ Đốc giáo, trải qua Hồi giáo hoá trong thế kỷ thứ 7 và ngày nay là nước trung tâm Hồi giáo với gần 90% dân số. Ai Cập có diện tích 1.010.407,87 km² (gấp trên ba lần diện tích Việt Nam) dân số 95, 73 triệu dân (năm 2017, tương đương dân số Việt Nam), là quốc gia đông dân nhất Bắc Phi, đông dân thứ ba tại châu Phi và thứ 15 trên thế giới. Đại đa số cư dân sống gần bờ sông Nin, tại các trung tâm dân cư đông đúc là Đại Cairo, Alexandria và các thành phố lớn khác của đồng bằng châu thổ sông Nin, là nơi duy nhất có đất canh tác. Ai Cập, phần lớn diện tích đất của khu vực rộng lớn thuộc sa mạc Sahara có cư dân thưa thớt. Ai Cập có nền kinh tế, văn hoá, chính trị và quân sự vào hạng lớn nhất, đa dạng nhất, có thực lực và ảnh hưởng đáng kể tại Bắc Phi, Trung Đông và Thế giới Hồi giáo. Ai Cập là một thành viên của Liên Hiệp Quốc, Phong trào không liên kết, Liên đoàn Ả Rập, Liên minh châu Phi, và Tổ chức Hợp tác Hồi giáo.
Cairo thủ đô Ai Cập thánh địa Hồi giáo.
Cairo là vùng đô thị đông dân nhất châu Phi, ở bên sông Nile, với dân số trên 15,2 triệu người. Quảng trường Tahrir và Bảo tàng Ai Cập rộng lớn, tọa lạc tại trung tâm thành phố Cairo, nơi có các bộ sưu tập cổ xác ướp hoàng gia và đồ tạo tác mạ vàng của vua Tutankhamun. Điểm nổi bật của khu vực trung tâm Cairo là Pháo đài Babylon thời kỳ La Mã, Nhà thờ Treo và Bảo tàng Coptic, trưng bày các cổ vật của Ai Cập Cơ đốc giáo.Trên đỉnh đồi giữa thành phố là pháo đài Citadel thời trung cổ, nơi có nhà thờ Hồi giáo Muhammad Ali, một địa danh mang phong cách Ottoman. Tháp Cairo cao 187m tại quận Zamalek đảo Gezira,cung cấp tầm nhìn toàn cảnh thành phố. Bảo tàng Cổ vật Ai Cập, thường được biết đến như Bảo tàng Ai Cập hay bảo tàng Cairo, tại Cairo, Ai Cập, là quê hương của một bộ sưu tập rộng của cổ vật Ai Cập cổ đại.
Cao nguyên Giza gần Cairo là địa điểm của các kim tự tháp mang tính biểu tượng đất nước Ai Cập và châu Phi từ thời cổ xưa thuở bình minh nhân loại. Khu lăng mộ Giza là một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại có niên đại sớm nhất và kỳ quan duy nhất còn tồn tại, ở cao nguyên Giza gần sông Nin, cách trung tâm thành phố Cairo thủ đô Ai Cập khoảng 20 km về phía tây nam. Ngày 23 tháng 7 là ngày Quốc khánh Ai Cập ngày cách mạng năm 1952, thường có nhiều người hành hương về nơi này. Khu phức hợp kim tự tháp Gizalà nơi có ba kim tự tháp vĩ đại (Khufu, Khafre and Menkaure), và ít nhất sáu kim tự tháp khác với một số cấu trúc nổi bật khác như Nhân sư vĩ đại và Đền Valley chứa đựng bao điều bí ẩn kho báu lạ lùng của lịch sử chưa thể thấu hiểu đầy đủ. ancient-wisdom.com
Nông nghiệp Ai Cập và bạn tôi
Theo tiến sĩ Dr. Amr Shams, trưởng phòng thông tin và hợp tác quốc tế Viện Nghiên cứu Cây trồng (FCRI). Ai Cập được công nhận là một đất nước nông nghiệp lớn. Các cây trồng chính gồm ngũ cốc (lúa mì, lúa mạch, lúa miến và ngô), các loại đậu (đậu faba, cỏ cà ri, đậu lupin, đậu chickpea và đậu cowpea), cây có dầu (cây rum và mè), lanh, cỏ ba lá và hành tây đã được trồng từ hàng ngàn năm. Vào đầu thế kỷ 20, sự gia tăng dân số theo cấp số nhân và nhu cầu lương thực leo thang đã thu hút sự chú ý của các nhà hoạch định chính sách, nơi những nỗ lực đã được thực hiện để cải thiện hệ thống sản xuất và canh tác cây trồng.
Hoạt động nghiên cứu nông học ban đầu từ Giống cây trồng (1903- 1910), Bộ Nông nghiệp (1910-1958), đến Viện nghiên cứu các cây trồng (1958-1972) Viện Nghiên cứu Cây trồng (FCRI) và sau đó là Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp (ARC) từ năm 1973 cho đến ngày nay. Trong thập niên 1980, Viện Nghiên cứu Cây trồng (FCRI) nỗ lực hướng về tăng cường nghiên cứu khuyến nông, dần chuyển dịch theo hướng tư nhân hóa, hợp tác chặt chẽ với các cộng đồng nông nghiệp quốc tế, và một số cơ quan phát triển nói riêng. USAID (Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ United States Agency for International Development) đồng tài trợ hai dự án lớn là EMCIP NARP.
Trong lịch sử của Viện, hơn năm trăm giống cây trồng khác nhau đã được giới thiệu đưa vào nông nghiệp Ai Cập. Các mục tiêu chính của Viện là: Tăng năng suất các loại cây trồng lĩnh vực chủ yếu thông qua phát triển giống cây trồng cho năng suất cao; Sản xuất giống gốc của các loại giống đã được cải thiện; Khắc phục những hạn chế của các yếu tố kỹ thuật canh tác trong sản xuất lớn; Cung cấp khuyến nghị sản xuất phù hợp, thực hiện các hoạt động khuyến nông kết nối trong nước và tăng cường hợp tác với các trung tâm nghiên cứu, phát triển quốc gia và quốc tế khác nhau.
Hiện nay, FCRI có 15 phòng nghiên cứu. Viện tuyển dụng hơn 1.500 nhân viên trong các hoạt động nghiên cứu, khuyến nông, quản lý và đào tạo. Trụ sở của FCRI được đặt tại Giza, cùng với một số cơ sở thí nghiệm hiện trường, các hoạt động chọn giống liên hợp và nông học. Các cơ sở bổ sung được cung cấp tại hơn 23 trạm nghiên cứu nông nghiệp quốc gia. Các thí nghiệm đồng ruộng và sản xuất thử nghiệm được tiến hành trên các cánh đồng của nông dân trên toàn quốc.
Ngọc lục bảo Paulo Coelho
Ngày xưa có một người thợ đá thử 999.999 viên đá, đến viên đá cuối cùng đã tìm được một viên ngọc lục bảo quý giá vô ngần. Paulo Coelho là một nhà thơ trữ tình và tiểu thuyết gia người Brazil, là ngọc lục bảo của đất nước Brazil. Ông được biết đến với cuốn tiểu thuyết của ông “O Alquimista” tiếng Bồ Đào Nha kể về bí mật ngôi mộ cổ gần kim tự tháp Ai Cập mà một chàng trai Brazil đã đi tìm kho báu chính mình tại đó và đã thành công. “O Alquimista” là kiệt tác của tâm hồn. Cuốn sách này tựa đề tiếng Anh là “The Alchemist” do Alan R. Clarke chuyển ngữ, và bản tiếng Việt có tựa đề là “Nhà giả kim” do Lê Chu Cầu dịch, Công ty Văn hóa Truyền thông Nhã Nam và Nhà Xuất bản Văn hóa in và phát hành.Tiểu thuyết này đã được dịch ra 56 thứ tiếng, bán chạy chỉ sau kinh Thánh, đến năm 2008 đã bán được hơn 65 triệu bản trên toàn thế giới. Ông Paulo Coelho sinh ngày gày 24 tháng 8 năm 1947 (70 tuổi), tại Rio de Janeiro, Braxin là một người sử dụng phương tiện truyền thông điện tử, vào năm 2014, ông đã tải lên các giấy tờ cá nhân của mình trực tuyến để tạo một Quỹ Paulo Coelho ảo. Paulo Coelho nhà văn Brazil này đã tìm thấy ngọc trong đá của chính mình.
Paulo Coelho thật khéo kể chuyện. Lối dẫn truyện của ông hay ám ảnh. Paulo Coelho thấu hiểu và hoạt dụng những bí nhiệm của cuộc Đại Hóa. Đề từ“Nhà giả kim”, Paulo Coelho viết: Kính tặng J, người đã thấu hiểu và hoạt dụng những bí nhiệm của cuộc Đại Hóa. “Chúa Jesu và các môn đệ tiếp tục đi, đến một làng nọ. Một cô gái tên Marta rước người vào nhà. Em gái cô là Maria ngồi dưới chân Người nghe giảng dạy, còn Marta thì bận rộn lo tiếp đãi Người. Rồi cô phàn nàn rằng: “Chúa không thấy em con để một mình con làm hết mọi việc sao? Xin Chúa hãy bảo nó phụ con với!”. Chúa mới bảo cô: “Marta ơi, Marta. Con bận rộn, lo lắng nhiều việc quá. Nhưng chỉ có một việc thật cần thiết thôi và Maria đã chọn phần việc ấy thì không ai truất phần của em con được. Thánh Kinh Tân Ước, Lukas 10:38-42
Vào truyện Sự tích hoa Thủy tiên ở đầu sách và Chuyện Thánh nữ và Chúa Hài Đồng ở cuối sách cũng là sự huyền diệu của kiệt tác. Các bạn sinh viên đừng bao giờ coi thường PHẦN ĐẦU và PHỤ LỤC cuối luận văn. Những phần này dễ lơ đểnh bỏ qua nhưng thường là phần tinh tế của một kiệt tác. Một số nhà khoa học và nhà văn không thành công là khi sản phẩm khoa học và tác phẩm chưa đến được tận tay đông đảo người tiêu dùng.
Tôi đang tìm về kho báu chính mình phúc hậu an nhiên.
Thật vui thích biết bao với những chuyến đi xa tới Trường Giang, Hoàng Hà Lên Thái Sơn hướng Phật.
“Núi cao ta trông Đường rộng ta đi Tuy đích chưa tới Nhưng lòng hướng về” … Thơ xưa Nhan Hồi Câu thơ lồng lộng.
Xa ngắm đường mây rộng Gần nhớ cụ Nguyễn Du Thênh thênh thăm chốn cũ Thương nhớ cố nhân xưa
Ai viết cho ai những câu thơ thăm thẳm Đường trần ai đằng đẳng tháng năm dài “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”. Mười năm xuôi ngược tìm gươm báu Một đời chỉ cúi trước hoa mai. “Nghêu ngao vui thú yên hà Mai là bạn cũ, hạc là người quen”.
Thái Sơn nhớ bạn thương lời nhắn
NÚI THÁI MỪNG AI BIẾT TRỞ VỀ Hoàng Kim
Thái Sơn nhớ bạn thương lời nhắn ‘Lúa siêu xanh và khoai Hoàng Long’ Ngắm ảnh yêu thương ngày tháng cũ Núi Thái mừng ai biết trở về.
Mời bạn ghé thăm hình ảnh mới Bắc Trung Nam xuân suốt bốn mùa Phúc hậu hiền lành là khắc thịnh Mười năm kiếm cổ nhớ người xưa.
Ngược gió suốt đời đi không nản Rừng thông mai núi tuyết phủ dày Ngọa Long cương Đào Công đâu nhỉ Đầy trời TrungViệt gió mưa bay.
THÁI AN NÚI THÁI SƠN Hoàng Kim
Thái An là nơi trung tâm quần thể du lịch Thái Sơn. Tôi xách rượu Thái Sơn và khoai lang Hoàng Long (hình) định mang về Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh để làm quà cho thầy bạn quý. Trong ảnh phía sau lưng tôi là gốc gốc tùng nơi Hoàng Long và tôi đã nằm ngủ suốt đêm qua ngoài trời vì không thể thuê được nhà trọ. Trung Quốc luật lệ hiện thời yêu cầu khách ngoại quốc phải ngủ ở những khách sạn được phép tiếp nhận người nước ngoài nên người lái xe taxi tuy đã cố gắng chạy lòng vòng tìm kiếm suốt hơn 90 phút nhưng vẫn không thể giúp được. Tôi sau khi lên ga Thái An của đường sắt cao tốc Sơn Đông Bắc Kinh về cửa khẩu sân bay thì món đặc sản quý giá rượu Thái Sơn lại không được mang về. Mặc dầu chúng tôi có đầy đủ phiếu hàng giấy tờ cần thiết nhất để minh chứng rượu được mang đi chứ không phạm lỗi ‘mang chất lỏng lên máy bay’. Tôi đã cố gắng hết sức giải thích tôi là thầy giáo nông học Việt Nam từng tới Sơn Đông từ thuở xưa và nay thăm lại chốn cũ, nhưng vẫn không thể mang rượu về. Tôi đã tặng lại số quà này cho các bạn hải quan ở cửa khẩu bên đó.
Tấm hình này là Giáo sư viện sĩ Zhikang Li nhà di truyền chọn giống cây trồng hàng đầu Trung Quốc, IRRI và Thế giới, nhà khoa học chính của Dự án IRRI Green Super Rice GSR với Phó Giáo sư Tiến sĩ Tian Qing Zheng là Trưởng nhóm nghiên cứu GSR vùng Châu Á và Châu Phi, quản lý nguồn gen lúa gạo GSR của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, Bắc Kinh, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tôi đã tâm đắc nói với thầy Li và thầy Zheng: “Khoai Hoang Long, Lúa Siêu Xanh, Núi Thái Sơn là ba điểm đến yêu thích nhất của tôi tại đất nước Trung Hoa“. “Tôi bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu của mình bằng giống khoai Hoàng Long và lấy tên khoai Hoàng Long đặt tên cho con trai Hoang Long của mình. Con trai tôi bắt đầu sự nghiệp của cuộc đời con bằng lúa siêu xanh, học và sau 8 năm làm việc cùng hai Thầy nay đã thành tựu. Hai cha con tôi trước khi về nước sẽ lên núi Thái Sơn hướng Phật đêm trăng rằm Phật Đản 2018 ở đất nước Trung Hoa”.
Thái An núi Thái Sơn, tôi lưu lại hình ảnh và câu chuyện suy ngẫm về chuyến đi lên Thái Sơn hướng Phật, một sự lắng đọng tiếp nối Giống khoai lang Hoàng Long
Giống khoai lang Hoàng Long là Giống khoai lang Việt Nam
phổ biến có nguồn gốc ở Thái An, Sơn Đông, Trung Quốc đã được nhập
nội vào Việt Nam năm 1968 do đoàn chuyên gia nông nghiệp Trung Quốc và
các chuyên gia nông nghiệp Việt Nam có ông Quách Ngọc Ân đưa về trồng
đầu tiên tại Cẩm Lương, Cẩm Thủy, Thanh Hóa. Giống khoai lang Hoàng
Long đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống
năm 1981, do Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh với Viện
Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng
Kim, Nguyễn Thị Thủy, 1981, Hoàng Kim, Trần Ngọc Quyền, Nguyễn Thị
Thủy 1990; Hoàng Kim, Trần Ngọc Quyền, Nguyễn Thị Thủy, Võ Văn Tuấn,
Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm, Trương Văn Hộ, Nguyễn Thanh Bình,
Nguyễn Đăng Mãi, Lương Thị Quyết, Hoàng Thị Hiền, Kazuo Kawano,
Reinhardt Howeler, Peter Vander Zaag, Enrique Chujoy, Il Gin Mok, Zhang
Dapheng, Yen Fang Ten 2015). Giống có đặc điểm: Thời gian sinh trưởng
85-95 ngày. Năng suất củ tươi 15 – 27 tấn/ ha, tỷ lệ chất khô 27-30%,
chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu hồng sẫm, thịt củ màu vàng cam, dạng
củ đều đẹp, dây xanh tím phủ luống gọn, mức độ nhiễm sùng và sâu đục
dây trung bình.
“Kỷ yếu Khoa học giai đoạn 1975- 2015 Viện Khoa học Kỹ thuật Nông
nghiệp Miền Nam” thông tin thành tựu “Chọn tạo giống sắn, khoai lang
thích hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp miền Nam (1981-2006)” được
tóm tắt như sau:
Trước năm 1975, giống sắn và khoai lang ở Việt Nam chủ yếu được tiêu
thụ tươi và làm thức ăn gia súc. Giống khoai lang phổ biến ở miền Nam là
Trùi Sa, Trà Đõa, Dương Ngọc lá tròn, Dương Ngọc lá tím, Tàu Nghẹn, Bí
Đế, Đạc Lý, Bí mật Đà Lạt và Okinawa 100. Giống sắn phổ biến là Gòn, H34
và Xanh Vĩnh Phú thích nghi tốt với địa phương nhưng năng suất thấp.
Đề tài “Chọn tạo giống sắn, khoai lang thích hợp với các vùng sinh
thái nông nghiệp miền Nam ” là đề tài thuộc chương trình cấp Bộ
1981-1990, sau đó tiếp tục 1991-2006, và kết nối hợp tác Quốc tế với
CIAT, VEDAN (sắn), CIP (khoai lang), Việt Tiệp (sắn xen đậu rồng), IRRI
(hệ thống cây trồng cây có củ trên nền lúa) … với nhiều tổ chức Quốc tế
khác. Mục tiêu: nhập nội, thu thập, lai tạo, bảo tồn, tuyển chọn và phát
triển các giống sắn và khoai lang có năng suất cao, chất lượng tốt,
thịch hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp miền Nam.
Kết quả “Tiến bộ mới trong chọn tạo giống khoai lang sắn ở các tỉnh phía Nam” (1981- 2006) đã tuyển chọn được bảy giống khoai lang và mười giống sắn:
Bảy giống khoai lang gồm: Hoàng Long, Chiêm Dâu, Khoai Gạo, Bí Đà Lạt
(Bộ Nông nghiệp Công nghiệp Thực phẩm công nhận giống năm 1981), HL4
(Bộ Nông nghiệp Công nghiệp Thực phẩm công nhận giống năm 1987), HL518,
HL491 (Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997).
Đây là những giống khoai lang chủ lực trong sản xuất tại thời điểm,
HL518 (Nhật đỏ) và HL491 ( nhật tím) đột phá về chất lượng khoai ngon.
Những tỉnh trồng hai giống khoai lang này nhiều là Vĩnh Long, Kiên
Giang, Đà Lạt, Đăk Nông, Gia Lai, Đồng Nai và Sóc Trăng. Điển hình tỉnh
Vĩnh Long sản lượng khoai lang năm 2000 là 46,2 ngàn tấn, diện tích
khoai lang 2,5 ngàn ha, năng suất bình quân 18,4 tấn / ha, năm 2011 sản
lượng khoai lang là 248,7 ngàn tấn, diện tích khoai lang 8,5 ngàn ha,
năng suất khoai lang 29,2 tấn / ha (Tổng cục Thống kê 2014) do trồng
thâm canh Nhật tím HL491 và Nhật đỏ HL518.
Mười giống sắn HL20, HL23 và HL24 (Bộ Nông nghiệp Công nghiệp Thực
phẩm công nhận giống năm 1990) và phát triển trên diện tích 70.000 –
80.000 ha mỗi năm, chủ yếu ở các tỉnh phía Nam; KM60 (Bộ NN & PTNT
công nhận giống tạm thời năm 1992, công nhận giống chính thức 1995);
KM94 (Bộ NN & PTNT công nhận giống chính thức đặc cách năm 1995),
SM937-26, KM95-3 (Bộ NN & PTNT công nhận giống tạm thời năm 1995),
KM98-1 (Bộ NN & PTNT công nhận giống tạm thời năm 1998), KM 98-5
(UBND tỉnh Đồng Nai và Tây Ninh quyết định cho phép sản xuất nhân
giống đại trà năm 2005, Bộ NN & PTNT công nhận giống tạm thời năm
2007, công nhận giống chính thức năm 2008), KM 140 (UBND tỉnh Đồng Nai
và Tây Ninh quyết định cho phép sản xuất nhân giống đại trà năm 2005, Bộ
NN & PTNT công nhận giống tạm thời năm 2007, công nhận giống chính
thức năm 2009; giải pháp chọn tạo và phát triển giống sắn KM140 đoạt
giải Nhất VIFOTEC hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật toàn quốc năm 2010,
Chính phủ Việt Nam trao giải tại thủ đô Hà Nội ngày 17 tháng 1 năm
2010) (trích “Kỷ yếu Khoa học giai đoạn 1975- 2015 Viện Khoa học Kỹ
thuật Nông nghiệp Miền Nam” trang 51-51.
Giống khoai lang Hoàng Long sau hơn nửa thế kỷ nhập nộị hiện vẫn
trồng rất phổ biến ở các tỉnh phía Bắc với diện tích trồng trong sản
xuất đạt tỷ trọng cao nhất, kế đến là K51 và KB1. Ở các tỉnh phía Nam
giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím) Kokey 14 (Nhật
vàng), Bí Đà Lạt, Đạc Lý là những giống được trồng phổ biến.
Trong 44 năm qua (1975-2019) Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn đã
công nhận 15 giống khoai lang tốt. Những giống này được tuyển chọn theo
ba hướng chính: 1) Nhóm giống khoai lang năng suất củ tươi cao, ngắn
ngày, chịu lạnh, thích hợp vụ đông (K1, K2, K3, K4, K7, K8, VX37-1, Cực
nhanh). 2) Nhóm giống khoai lang năng suất củ cao, nhiều dây lá thích
hợp chăn nuôi (K51, KL1, KL5). 3) Nhóm giống khoai lang năng suất củ
cao, phẩm chất ngon Hoàng Long, HL518 (Nhật đỏ), HL491 (Nhật tím),
KB1, Kokey 14 (Nhật vàng), Bí Đà Lạt, Gạo , HL4.
Nhu cầu thị trường và thực tiễn sản xuất ngày nay đang dịch chuyển
theo hướng khoai lang ngon nên khoai Hoàng Long và nhóm giống khoai lang
năng suất củ cao, phẩm chất ngon nên bảo tồn phục tráng và phá triển.
Con!
Thân thương một tiếng gọi
Hạnh phúc bật nên lời
Lòng Cha bồi hồi
Sung sướng gọi:
Con!
Cha đi công tác xa
Mong đợi Con, từng ngày chờ thư Mẹ
Thư đến!
Con ra đời!
Cha run lên vì mừng
Thao thức suốt đêm
Không ngủ
Bạn bè vây quanh Cha
Trân trọng niềm vui thiêng liêng
Nâng cốc chúc Cha
Hạnh phúc!
Tiếng Con ngọt ngào môi Cha
Dào dạt lòng Cha vỗ mãi
Có Con
Nối cuộc đời Cha
Gấp đôi
Có Con
Đan giữa cuộc đời
Hạnh phúc
Con là sợi dây máu thịt
Yêu thương gắn Mẹ và Cha
Có Con
Cha thấy cuộc đời ý nghĩa hơn
Cuộc sống – Tình yêu – Sự nghiệp
Hai Con là hai con mắt
Cửa sổ tâm hồn Cha
Dẫu đời Cha nhiều chông gai
Trái chín cuộc đời vẫn ngọt
Con là giấc mơ trong trẻo
Là ban mai tươi vui
Là viên ngọc trao đời
Là hương hoa hạnh phúc
Ước vọng cuộc đời Cha
Có Con đi nối con đường sự nghiệp
Con đứng trên vai Cha
Vươn tới những chân trời mơ ước
Hai Con
Hai viên ngọc
Chị con và Con
Mẹ con dịu hiền hơn
Mẹ con đảm đang hơn
Cha bớt vụng về mỗi việc làm nho nhỏ
Con trở thành ngọn lửa
Sưởi ấm lòng Mẹ Cha
Khi mỗi ngày khó khăn
Trong trẻo tiếng Con
Mẹ Cha hết mệt
Con là niềm vui lớn nhất
“Con hơn Cha nhà có phúc”
Cha mong dồn cho Con.
Lớn lên
Con sẽ hỏi Cha
Sao Cha đặt tên Con là Hoàng Long?
Con ơi!
Tên Con là khúc hát yêu thương
Của lòng Cha Mẹ
Cha Mẹ thương nhau
Vì qúy trọng những điều ân nghĩa
Sự nghiệp và tình yêu
Những ngày gian khổ
Cùng nghiên cứu củ sắn, củ khoai
Con là giống khoai Hoàng Long
Tỏa rộng nhiều vùng đất nước
Dẫu không là trái thơm qủa ngọt
Nhưng là niềm vui người nghèo
Để Cha nhớ về quê hương
Khoai sắn bốn mùa vất vã
Để Cha nhớ những ngày gian khổ
Năm năm
Cơm ngày một bữa
Khoai sắn không phụ lòng
Để Cha nhớ về
Lon khoai nghĩa tình
Nắm khoai bè bạn
Gom góp giúp Cha ăn học
Khi vào đời
Cha gặp Mẹ con
Cho nên:
Cha muốn Con
Trước khi làm những điều lớn lao
Hãy biết làm củ khoai, củ sắn
Hãy hướng tới những người lao động
Nhớ quê nghèo cắt rốn, chôn rau
Lớn lên
Con sẽ hỏi cha
Sao Cha đặt tên con Hoàng Long?
Long là rồng
Con là đậu rồng
Là công trình thứ hai Mẹ Cha nghiên cứu
Mẹ con chọn hạt
Cha gieo nên con
Vất vả gian nan
Hứa hẹn một mùa gặt hái
Con là tháng ngày mong đợi
Là niềm vui đóng góp cho đời
Từ hạt đậu củ khoai
Cha Mẹ trao Con sự nghiệp
Cha nhớ câu đối trăm năm
Về một gia đình hạnh phúc
“Sáng khoai, trưa khoai, tối khoai
ngày khoai ba bữa
Cha đỗ, mẹ đỗ, con đỗ
đều đỗ cả nhà”
Chị con và Con
Là mong ước
Của Mẹ và Cha
Lớn lên
Con sẽ hỏi Cha
Sao Cha đặt tên con Hoàng Long?
Long là rồng
Nghĩa mẹ tạo nền
Công cha xây móng
Trước mắt con là sông dài, biển rộng
Ước mong con bay lên
Con hãy đi đến cùng
Mục đích của con
Làm được những điều cao cả
Hãy cố gắng không ngừng
Kiên gan
Bền chí
Ước mơ và hiện thực
Hôm nay và mai sau
Nghị lực là thước đo cuộc đời
Hai chữ đầu tiên Con học làm người
Phải học hai điều NHÂN NGHĨA
Cha mong Con lớn lên
Ít nếm trãi khó khăn, vất vả
Nhưng đừng bao giờ quên
Những ngày đói khổ
Thời thơ ấu của Cha
Mồng Ba tháng Giêng ngày mất của Bà
Hai mươi tháng Mười ngày ông Mỹ giết
Ngày mà cửa nhà tan nát
Đói nghèo Bác dắt dìu Cha
Tuổi thơ thì bắt ốc, mò cua
Lớn một chút trồng khoai, dạy học
Qua danh lợi hiểu vinh, hiểu nhục
Trãi đói nghèo biết nghĩa, biết ân
Phan Thiết là nơi Mẹ đã sinh Con
Ông Bà ngoại nuôi cho Con khôn lớn
Tuổi thơ của Con lớn trong yên ấm
Tao nôi êm ả, thanh bình
Ru cho Con “uống nước nhớ nguồn”
Khi con lớn đừng quên điều HIẾU THẢO
Cha say viết về Con
Kể về Con
Thơ cho Con
Cô bác vây quanh Cha
Gật gù
Thông cảm
Thơ chắp mối
Từng vần,
Từng mảng
Câu thơ chưa chỉnh lời
Nhưng tứ thơ
Dồn dập
Bối hồi
Hạnh phúc lớn
Trong lòng Cha
Ngân mãi
Praha, 17.2.1986
(Hoàng Long sinh đêm Giáng sinh 24 tháng 12 năm 1985 nhưng Thư đến Praha ngày 17.2.1986)
Đến Thái Sơn nhớ Đào Duy Từ NHỚ NGƯỜI Hoàng Kim
Ngược gió đi không nản Rừng thông tuyết phủ dày Ngọa Long Cương đâu nhỉ Đầy trời hoa tuyết bay.
So với giống khoai lang Hoàng Long Trung Quốc, giống khoai lang Hoàng
Long Việt Nam sau hơn nửa thế kỷ nhập nội (1968-2019) đã tuyển chọn
với những đặc điểm khác xưa, kế thừa và phát triển thích hợp điều kiện
Việt Nam Giống khoai lang Hoàng Long tuyển chọn có đặc điểm năng suất
cao, phẩm chất ngon, vỏ hồng đỏ, ruột củ vàng ươm hoặc vàng cam, được
nông dân ưa chuộng và trồng phổ biến tại các tỉnh Thanh Hóa, Hải Dương,
Nghệ An, Ninh Bình… khoai Hoàng Long được phục tráng.
“Khoai Hoang Long, Lúa Siêu Xanh, Núi Thái Sơn là ba điểm đến yêu thích nhất của tôi tại đất nước Trung Hoa“. Tôi đã tâm đắc nói với thầy Li và thầy Zheng như vậy. “Tôi bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu của mình bằng giống khoai Hoàng Long và lấy tên khoai Hoàng Long đặt tên cho con trai Hoang Long
của mình. Con trai tôi bắt đầu sự nghiệp của cuộc đời con bằng lúa
siêu xanh, học và làm 8 năm cùng hai Thầy. Hai cha con tôi đã leo núi
Thái Sơn đêm trăng rằm Phật Đản 2018 ở đất nước Trung Hoa”.
Giáo sư viện sĩ Zhikang Li là nhà di truyền chọn giống cây trồng
hàng đầu Trung Quốc, IRRI và Thế giới, nhà khoa học chính của Dự án
IRRI Green Super Rice GSR. Phó Giáo sư Tiến sĩ Tian Qing Zheng là
Trưởng nhóm nghiên cứu GSR vùng Châu Á và Châu Phi, quản lý nguồn gen
lúa gạo GSR của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, Bắc Kinh,
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Đêm Thái Sơn cha con tôi đã có một chuyến leo núi thật tuyệt vời,
một trãi nghiệm không bao giờ quên và một giấc ngủ thật ngon dưới gốc
tùng ở Thái An, Sơn Đông. Nhớ về kỷ niệm khoai lang Hoàng Long, tôi gom
ba bài viết cũ ‘Giống khoai lang ở Việt Nam‘, ‘Thơ cho con‘, ‘Đến Thái Sơn nhớ Đào Duy Từ”
và một số hình ảnh đẹp thuở xưa chụp ảnh thu hoạch khoai lang Hoàng
Long tại Sơn Đông cùng với nông dân và các chuyên gia khoai lang Trung
Quốc, CIP năm 1996, ảnh đẹp chụp ở ‘Khổng miếu’ với giáo sư khoai
lang Ấn Độ, ảnh đẹp chụp ‘Khổng Lâm’ với giáo sư khoai lang nổi tiếng
Rasco người Philippine cùng với một số kỷ niệm không quên khác.
Giống khoai lang ở Việt Nam có nhiều loại với năng suất, chất lượng,
thời gian sinh trưởng và hiệu quả kinh tế khác nhau. Khoai lang HL518
Nhật đỏ, (hình trên) với khoai lang HL491 Nhật tím và khoai lang Hoàng
Long là ba giống khoai lang được trồng phổ biến nhất ở Việt Nam.và ấn
tượng trong tôi thật lắng đọng.
Ông Đỗ Quý Hạo với doanh nghiệp trồng khoai lang tạo dựng thương hiệu khoai lang Ba Hạo (Hạo Đỗ Quý ) vang bóng một thời Kỳ tích từ cây lúa, củ khoai ở Hòn Ðất tỉnh Kiên Giang . Anh Đỗ Quý Hạo đã được Nhà nước Việt Nam vinh danh trong Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc năm 2010 và nay anh đang thành chuyên gia khoai lang giúp nhiều tỉnh “xây dựng mô hình khoai lang Nhật”.
Khó khăn chính trong sản xuất khoai lang hiện nay là: Giống khoai lang lẫn tạp và thoái hóa; Kỹ thuật canh tác khoai lang chưa thật phù hợp (từ thời vụ trồng, chọn đất, chọn hom giống tốt, kỹ thuật làm đất, bón phân NPK và hữu cơ vi sinh, kỹ thuật trồng, mật độ trồng, phòng trừ sùng khoai lang, sâu đục dây và bệnh hại, đến các biện pháp làm cỏ, nhấc dây, tổ chức sản xuất kinh doanh và tiêu thụ khép kín…); Chưa kiểm soát tốt sùng hà gây hại; Ít đầu tư thâm canh; Chưa tổ chức sản xuất kinh doanh tiêu thụ khép kín. Khoai lang Việt từ giống tốt đến thương hiệu vẫn còn là một câu chuyện dài….
Hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997 (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim và ctv. 1997) hiện đã được trồng khá phổ biến và mang lại sự thay đổi căn bản về năng suất cao và chất lượng ngon cho sự canh tác khoai lang tại nhiều tỉnh của Việt Nam.
Bảy giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu, Khoai Gạo, Bí Đà Lạt , HL4, HL518 Nhật đỏ, HL491 Nhật tím là những ấn tượng kỷ niệm không quên. Việt Nam con đường xanh, câu chuyện vui tiếp nối .
TRÒ CHUYỆN TRUNG QUỐC VỚI LÃO KHOA Hoàng Kim và Hoang Long
trên đường lên Thái Sơn hướng Phật, cha con tôi bàn mọi chuyện về Trung Quốc và chuyện các học giả, nhà văn khả kính Việt Nam đã nói gì về Trung Quốc ngày nay. Đầu tiên là việc bàn luận ‘tào lao với Lão Khoa‘ về Trung Quốc và những chuyện nóng hổi mới đây. “Tào lao với Lão Khoa” tuy là nhàn đàm nhưng sự thực là những việc quốc kế dân sinh. Văn của Khoa hay không kém thơ. Trần Đăng Khoa vừa hiệu đính và đăng lại bài viết này nói về Trung Hoa, tiếng là ‘tào lao’ mà thật sự nóng, hay và nghiêm cẩn.
Khoa viết đúng sự thật của Trung Quốc ngày nay: “Trung Quốc là một nước phát triển rất hùng mạnh về tất cả mọi lĩnh vực, trong đó có truyền thông, thông tin. Thế kỷ XXI này là Thế kỷ Trung Quốc. Ở đâu cũng truy cập được internet, nhưng tiếc ở đó không dùng được Email, Google, Blog và cả Facebook. Vì thế, tôi như kẻ lạc rừng. Trung Quốc có gần trăm kênh truyền hình. Kênh nào cũng rất đẹp. Nhưng toàn truyền hình nội bộ của các tỉnh thành Trung Quốc, tuyệt không có một kênh nào của nước ngoài.” “Đúng là chúng tôi cũng còn nhiều hạn chế. Chúng tôi đang mở cửa. Nhưng mở cửa theo quy trình. Mở cửa từng bước…”.
Sự đánh giá này của Khoa về Trung Quốc trong sự quản lý xây dựng, giao thông, du lịch văn hóa cũng là chí lý: “Cái chúng ta còn phải phấn đấu để vươn tới thì Trung Quốc lại có cả một kho kinh nghiệm. Nói như một đồng chí ở Đại sứ quán ta, Trung Quốc có một đội ngũ cán bộ lãnh đạo rất giỏi. Ngay một cán bộ ở địa phương cũng có tầm nhìn của trung ương. Lấy tư duy của trung ương để xử lý cả những việc cỏn con ở cơ sở. Vì thế họ có được sự đồng bộ và nhất quán xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương. Chúng tôi qua Lệ Giang rồi Đại Lý, một thành phố cổ của Trung Quốc ở tỉnh Vân Nam. Thành phố này đã bị phá hủy vào năm 1996 trong trận động đất 7,5 độ richte. Vậy mà họ vẫn khôi phục lại được. Một thành phố rất đẹp, cổ kính. Nhiều ngôi nhà dựng lại mà trông cổ kính như có tuổi thọ hàng ngàn năm tuổi. Phải nói là rất tài. Trung Quốc là thế đấy. Họ kỹ lưỡng đến từng chi tiết nhỏ. Bởi thế, Trung Quốc là đất nước của du lịch. Thành phố nào cũng có những vẻ đẹp bí ẩn khiến người ta muốn chiêm ngưỡng, khám phá. Đó là những vẻ đẹp không chỉ chinh phục du khách nước ngoài mà còn có thể mê hoặc được cả chính người dân Trung Quốc. Chỉ riêng khách du lịch Trung Quốc cũng đã đủ “nuôi” ngành du lịch Trung Quốc rồi.”
Tôi thích văn phong của Khoa “giản dị, xúc động, ám ảnh” và lối viết tưng tửng nhưng rất sát sự thật. Dẫu vậy, tôi thấy có điều đánh giá này là chưa thật ổn: “Trung Quốc to mà vẫn không lớn. Vì rất không đàng hoàng. Ông bạn này cứ như một anh hàng xóm rất giàu có nhưng lại có cái tính rất khó chịu là cứ thích ăn cắp vặt. Nhà có hàng núi vàng, nhưng vẫn thích thó của những anh hàng xóm trái cam hay quả trứng gà. Nếu không lấy được thì khó chịu. Cái việc họ lấn đất, lấn biển lấn đảo cũng thế. Giả thiết nếu không có mấy hòn đảo ăn cắp, hay cả Biển Đông nữa, họ vẫn cứ lớn, vẫn giầu có, ở không ít mặt họ còn vượt cả Nga, cả Mỹ. Thế mà vẫn cứ càm cắp những thứ bé hin hin chẳng phải của mình. Khó chịu là thế!“. “Mấy hòn đảo ăn cắp, hay cả Biển Đông nữa” sao có thể coi là nhỏ khi so sánh 2,5 triệu kilomet vuông kinh tế biển với 9,3 triệu kilomet vuông đất liền? Trung Quốc ngày nay có luận thuyết Trung Nam Hải, “nắm vững Trung, hướng về Nam, tranh chấp Hải” đó là luận thuyết biển lịch sử, là cửa “sinh đạo” trong Dịch lý, ngược hướng với “Tử Cấm Thành”. Thuyết này là khâu trọng yếu của ‘giấc mộng Trung Hoa vành đai và con đường’ để Trung Hoa trỗi dây, đâu có thể lấy lý lẽ ‘trộm vặt’ ‘ăn cắp vặt’ để lý giải, mà cần là một hệ thống lý luận sâu hơn. Tôi thích minh triết Hồ Chí Minh, ‘Bình Ngô’ của cụ Nguyễn Trãi, ý thơ của các cụ Trạng Trình, Nguyễn Du, Giáp Hải và triết lý của Engels hơn. Minh triết Hồ Chí Minh khác sự diễn đạt trên, và triết gia Engels cũng nói: “Tự do là cái nhìn sâu sắc vào sự cần thiết.” (Engels 1878. freedom is the insight into necessity. Anti-Dühring, pt. 1, ch. 11). “Nền kinh tế hay khoa học làm giàu sinh ra ghen tị lẫn nhau và sự tham lam của các thương gia chính trị này, mang trên trán của nó là dấu hiệu của sự ích kỷ đáng ghét nhất.”. (This political economy or science of enrichment born of the merchants’ mutual envy and greed, bears on its brow the mark of the most detestable selfishness. Outlines of a Critique of Political Economy (1844). Nhiều người dân Trung Quốc lương thiện trung hậu khác với một cộng đồng ‘diều hâu’ toan tính trỗi dậy bá quyền. Trung Quốc mộng tạo dựng một đế quốc Á Châu với cam kết ‘Trung Quốc sẽ không áp đặt QUÁ KHỨ BI THẢM CỦA CHÍNH HỌ lên các quốc gia khác’ ‘ Nhân dân Trung Quốc kiên trì theo đuổi các mối giao thiệp hữu hảo với toàn bộ các quốc gia khác”. “Giấc mộng Trung Hoa vành đai và con đường” là một thế lực phi chính thức và phần lớn dựa vào kinh tế để cố kết cơ sở hạ tầng cứng thuộc vòng ảnh hưởng của Trung Quốc mà Mỹ , Nga, cộng đồng châu Âu EU , cộng đồng Hồi giáo buộc phải tôn trọng. Họ mở cửa từng phần cũng vì dân trí có tốt có xấu.
Việt Nam tự cũng cố, trầm tĩnh theo dõi, ‘dĩ bất biến ứng vạn biến’.
Nguyễn Trần Bạt có bài viết “Donald Trump, Tập Cận Bình và Putin đang tháo ra để lắp lại nền chính trị thế giới”, Tom Miller có chuyên khảo công phu “Giấc mộng châu Á của Trung Quốc” nói về Donald Trump, Tập Cận Bình và Putin hiện là tiêu điểm tầm nhìn đầy lo âu, hi vọng của nền chính trị lớn thế giới và tất cả cộng đồng nhân loại.Chúng ta nhớ lại thông điệp sau cùng của cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama cuối năm 2016 về bức tranh tối tương lai thế giới đầy lo âu hơn: “Tôi muốn kết luận lại bài diễn văn của mình bằng cách nói rằng tôi thừa nhận lịch sử đang kể một câu chuyện rất khác câu chuyện tôi nói ngày hôm nay. Chúng ta đã chọn một cái nhìn lịch sử đen tối hơn và đầy hoài nghi hơn. (Let me conclude by saying that I recognize history tells a different story than the one that I’ve talked about here today. There’s a much darker and more cynical view of history that we can adopt).
Nhân chuyện ‘Tào lao với Lão Khoa’ về Trung Hoa, tôi muốn bàn chuyện có nên hợp tác với Trung Quốc về lúa siêu xanh, đào tạo nguồn lực nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp du lịch sinh thái, giao lưu ngôn ngữ văn hóa giáo dục dưỡng sinh đông tây y kết hợp … có hay không? Câu trả lời thực tiễn là cụ thể, có tâm thế có lý có lợi đúng lúc, điều này có nhưng điều kia không.
Trong bài “Ba đặc khu liệu có đột phá?” tôi đã nêu chính kiến là “không” đối với ba đặc khu cụ thể này, mà nên chọn người hiền tài và tự mình ở những điểm nhậy cảm an ninh quốc phòng kinh tế văn hóa đời sống dân sinh, Việc hợp tác cần thấu hiểu ‘dĩ bất biến ứng vạn biến’ và quyền biến. Ba đặc khu đang dự định thành lập chỉ thích hợp cho phát triển du lịch, cơ sở nghỉ dưỡng, dịch vụ vui chơi, giải trí… Và do đó, không cần đưa ra các ưu đãi vượt trội về thuế, về quyền thuê đất lâu dài. Đó là một câu chuyện khác. Luật đầu tư và hợp tác bền vững thành thực phải là vùng đặc khu hợp tác nghiên cứu phát triển trọng điểm hướng tới chén cợm ngon của người dân, lao động, việc làm, an sinh xã hội và giáo dục đào tạo nguồn lực con người hiền tài để phát huy sự tương đồng văn hóa. Một dân tộc truyền kiếp bị đối xử không bình đẳng thì độc lập, tự do, hạnh phúc là điểm tương đồng sâu sắc nhất ‘.
Tôi đã đến Trung quốc thật nhiều lần, có mấy lần ăn cơm chung với nông dân trên núi cao và ngoài ruộng. Năm 1996, có dịp khảo sát vùng khoai lang ở Sơn Đồng và Giang Tô và năm 2018 quay lại tự mình khảo sát so sánh nông nghiệp của chính vùng này, tận mắt và chính kiến nhìn nhận đánh giá. Năm 2014, tôi dạo chơi Thiên An Môn, Cố Cung, Di Hòa Viên, Thiên Đàn trong ngày Quốc tế Lao động, ngắm những nơi lưu dấu các di sản của những triều đại hiển hách nhất Trung Hoa, lắng nghe đất trời và các cổ vật kể chuyện. Tôi ngắm nhìn người nghệ sĩ nhân gian, vui cùng ông và đùa cùng trẻ thơ. Ngày trước đó, tôi vinh hạnh được làm việc với giáo sư Zhikang Li, trưởng dự án Siêu Lúa Xanh (Green Super Rice) chương trình nghiên cứu lúa nổi tiếng của CAAS & IRRI và có cơ hội tiếp cận với các nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc. Năm 2018 này, tôi lại có cơ hội tự mình đi du lịch bằng tàu cao tốc từ Bắc Kinh qua Thiên Tân đến Sơn Đông khảo sát nhanh nông nghiệp Trung Quốc, chuyến đi hơn 600 km chỉ hai tiếng. Những điều tôi được trực tiếp chứng kiến là tích cực và ấn tượng. Suốt dọc đường tới Thiên Tân và ba thành phố khác đến thành phố Thái An của Sơn Đông, tôi đã lưu được 5 video hình ảnh nông nghiệp Trung Quốc ngày nay để so sánh thấy được sự đổi thay cực kỳ ấn tượng của sản xuất nông nghiệp nước bạn.
Suy ngẫm từ núi Xanh (景山, Jǐngshān, Cảnh Sơn, Green Mount), ngọn núi địa linh của đế đô Bắc Kinh, suy ngẫm từ đỉnh núi Thái Sơn ở Sơn Đông, tôi tâm đắc lời nhắn gửi sâu xa của bậc hiền minh lỗi lạc Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Muốn bình sao chẳng lấy nhân / Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình” “Biển Đông vạn dặm giang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững thái bình) (Vạn lý Đông minh quy bá ác/ Ức niên Nam cực điện long bình). Suy ngẫm về cuộc cách mạng Xanh và đỉnh cao Hòa Bình. Chủ tịch Tập Cận Bình đang tiếp nối Tổng thống Tôn Trung Sơn để phát triển chủ thuyết liên Nga thân Việt trừ tà tứ toàn, một vành đai một con đường, ông cam kết những điều tốt đẹp với Việt Nam. Thế nhưng tại sao động thái tình hình thực tế của hai nước nhiều việc chưa tạo đủ niềm tin bạn hữu. Việt Nam tự cũng cố và trầm tĩnh theo dõi. Tôi sẽ còn viết tiếp câu chuyện Từ Mao Trạch Đông tới Tập Cận Bình.
Lời giáo sư Norman Borlaug văng vẳng bên tai tôi: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó.” Sự hiền minh lỗi lạc của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, và di sản vô giá của giáo sư Norman Borlaug cùng với các bậc Thầy về cách mạng xanh mãi mãi là niềm tin và nổ lực của chúng ta !
Trò chuyện Trung Quốc với Lão Khoa, tôi thích nói về một món ngon ở Bắc Kinh (hình). Đặc sản và biểu tượng của một vùng đất luôn thi vị trong lòng của người hành hương. Suốt mấy ngày ở Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, tôi thường chén món ngon này, như khi leo núi Thái Sơn thì ưa dùng món xúp ‘bát bửu’, ‘khoai Hoàng Long” và “rượu Thái Sơn”. “Thịt lợn kho Tàu Tô Đông Pha” là món ăn ngon nổi tiếng Hàng Châu, được đặt tên để vinh danh ông.Tô Đông Pha là một nhân vật quan trọng trong chính trị thời Tống, ông cùng Tư Mã Quang cựu tể tướng và sử gia danh tiếng thuộc phái “coi trọng đạo đức, lẽ phải, kỷ cương”, đối lập với chính sách mới “cường thịnh và phát triển lớn mạnh quốc gia bất chấp đạo lý” do Vương An Thạch chủ trương. Tô Đông Phađã nổi tiếng là một nhà viết chính luận, các tác phẩm văn của ông đều đặc biệt sâu sắc, góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí và hiểu biết bách khoa thư, văn học du lịch Trung Quốc thế kỷ thứ 11. Thơ Tô Đông Pha nổi tiếng suốt lịch sử lâu dài, có tầm ảnh hưởng rộng lớn tại Trung Quốc, Nhật Bản và các vùng lân cận, cũng được biết đến trong phần nói tiếng Anh trên thế giới thông qua các bản dịch của Arthur Waley và các người khác. Về biểu tượng nghệ thuật, Tô Đông Pha được coi là nhân cách ưu việt của thế kỷ XI. Tôi đã từng chén “Thịt lợn kho Tàu Tô Đông Pha” ở Hàng Châu mà thương về hạt gạo làng ta còn chưa có thương hiệu Việt mạnh trên thị trường thế giới.
Tỉnh thức ban mai đã sớm thu Sương đêm giữ ngọc ướt cành tơ Ai ơi gieo đậu vừa rồi đấy Lộc biếc me xanh chín đợi chờ.
TAGORE ĐẠI THI HÀO ẤN ĐỘ Hoàng Kim
tỉnh thức với Jana Gaṇa Mana
thích tranh Tagor bút chì tự họa
bài ca thời gian trăng rằm cổ tích
tôi yêu mây và sóng Tagor.
Rabindranath Tagore, sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861, mất ngày 7 tháng 8 năm 1941, tại Konkata, Ấn Độ, là người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học năm 1913. Tagore không chỉ là nhà thơ và văn hóa lớn Bengal, một triết gia lỗi lạc có đạo đức phẩm hạnh cao quý được Gandhi và mọi người Ấn Độ gọi là Thánh sư, mà còn là nhà hoạt động xã hội nổi tiếng vì phong trào giải phóng Ấn Độ, vì con người, vì nhân đạo và hòa bình. Tagore là niềm tự hào của trên 1,2 tỷ người Ấn Độ, là nguồn cảm hứng của hơn 200 triệu người Bengal sống ở Tây Bengal của Ấn Độ và Bangladesh cũng như nhiều người trên khắp thế giới. Tagore đã đến Việt Nam. Thơ Tagore đến với bạn đọc người Việt qua các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan, Đào Xuân Quý và các dịch giả khác.
Tagore cuộc đời và sự nghiệp
Rabindranath Tagore (1861-1941) là một họa sĩ Vương quốc Anh, nhà thơ, nhà văn, nhà văn hóa, triết gia, nhà viết kịch, nhà viết tiểu luận, nhà soạn nhạc và ca sĩ Ấn Độ, giải Nobel Văn học năm 1913. Tagore sinh ngày 7 tháng 1 năm 1861 tại Kolkata, Tây Bengal, Ấn Độ trong một gia đình trí thức truyền thống. Cha ông là Debendranath Tagore, một nhà triết học và hoạt động xã hội nổi tiếng. Kolkata thuở ấy là thủ đô của Ấn Độ trong thời kỳ thuộc địa Anh (British Raj) cho đến năm 1911, từng là trung tâm của giáo dục hiện đại, khoa học, văn hóa và chính trị ở Ấn Độ. Kolkata nay là thủ phủ của bang Tây Bengal, Ấn Độ, thành phố tọa lạc ở phía Đông Ấn Độ bên bờ sông Hooghly, có dân số khoảng 11 triệu người với một dân số vùng đô thị mở rộng lên đến 14 triệu người, khiến nó trở thành vùng kết tụ đô thị và là thành phố lớn thứ 3 ở Ấn Độ . Tagore được hun đúc trong một môi trường văn hóa ưu việt vì Calcutta lúc bấy giờ đã là trung tâm của giới trí thức của Ấn Độ, và có rất nhiều nhà văn, học giả, kịch tác gia… thường xuyên lui tới nhà Tagore để đàm luận vấn đề, tổ chức hòa nhạc, diễn kịch..,
Tagore là con thứ mười bốn trong gia đình, lúc đi học đã nổi tiếng thần đồng, giỏi đều các môn nhưng thích nhất thơ ca, tiểu thuyết, kịch họa và triết học. Ông học ở trường một thời gian ngắn; sau về học ở nhà với cha. Tagore lúc 8 tuổi đã nổi tiếng giỏi văn nhất vùng Bengal; 13 tuổi có thể sáng tác nhạc, họạ, đọc sách cổ bằng tiếng Phạn và dịch kịch Shakespeare; 17 tuổi sang Anh du học hoa sĩ; năm 19 tuổi (1880), trở về Ấn Độ, viết vở nhạc kịch đầu tiên. Ông kết hôn với Mrinalini Devi năm 1883. Ông từng học tại Đại học Calcutta, Đại học London, và Trường cao đẳng St. Xavier. Năm 39 tuổi (1910) ông ra đời tiểu thuyết sáng giá nhất Gora ủng hộ tính nhẫn nại tôn giáo và chính trị. Năm Tagore 49 tuổi ông đã xuất bản thơ Lời dâng (tiếng Bengal là Gitanjali). Kiệt tác thơ này được thế giới công nhận là kì công thứ hai của văn học Ấn Độ (sau Sakuntala của Kalidasa, nhà thơ lớn Ấn Độ thế kỉ thứ V) và Tagore được trao tặng giải văn chương Nobel năm 1913. Ông là người châu Á nhận giải Nobel duy nhất ngoài châu Âu thời đó. Văn chương Tagore giàu tinh thần nhân loại, là gạch nối giữa văn hoá truyền thống Ấn Độ và văn hoá hiện đại Phương Tây, mang lại cho người đọc những cảm nhận sâu sắc, độc đáo, thể hiện một tài năng văn chương kiệt xuất, sau thơ có lẽ là truyện ngắn, triết luận, kịch, nhạc và họa. Tagore sau thơ Lời dâng và giải Nobel đã được tôn vinh ở Ấn Độ và Bangladesh như một vị thánh. Năm 68 tuổi Tagore bắt đầu vẽ tranh và triển lãm ở Munich, New York, Paris, Moxcva và nhiều nơi khác. 80 tuổi R. Tagore qua đời sau hai năm bị mù, để lại 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 cuốn tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, bút kí, tiểu luận, diễn văn, hồi ức, thư tín, trên 2000 tranh vẽ vô giá và hơn 2.000 bài hát, ngày nay được gọi là Rabindra Sangeet, được xem là kho tàng văn hoá Bengal, ở cả Tây Bengal thuộc Ấn Độ lẫn Bangladesh, liên quan sâu sắc tới mọi lĩnh vực.
Văn chương Tagore có giá trị cao trong giáo dục nhân điều chỉnh các mối quan hệ tốt đẹp phổ quát của con người. Thi ca của ông xuất phát từ tính nhân bản sâu sắc, sự hi sinh hiến dâng, ca ngợi thiên nhiên và cuộc sống. Thơ ông là nguồn yêu thương và vui bất tận trong trẻo. Chủ đề tình yêu sâu lắng trong khắp các tác phẩm văn chương của ông. Tagore cũng viết một số tác phẩm để phục vụ cho phong trào giải phóng Ấn Độ. Ông từ chối tước Hiệp sĩ (knight) của Hoàng gia Anh để phản đối cuộc Thảm sát Jallianwala Bagh tại Amritsar năm 1919 mà lính Anh đã nã súng vào thường dân tụ tập không vũ trang, giết hơn 500 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em vô tội. Tagore rất nhạy cảm với các sự kiện thế giới xảy ra trong thời đại của mình và biểu hiện niềm đau cũng như nỗi thất vọng đối với chiến tranh. Ông luôn khao khát nền hoà bình cho thế giới. Các chuyến đi vòng quanh thế giới của Tagore đã mài dũa sự am hiểu các đặc trưng đa dạng của ông về các nền văn minh và dân tộc. Ông được xem là thí dụ điển hình cho sự kết hợp tinh tế của phương Đông và phương Tây trong văn chương.
Bài hát Jana Gaṇa Mana của ông được chọn làm quốc ca Ấn Độ và bài hát khác cho Bangladesh. Kiệt tác Gitanjali (Thơ dâng) Balaca, Người làm vườn, Mùa hái quả, Ngày sinh, Thơ ngắn…và nhiều tác phẩm của ông đã được dịch sang tiếng Việt Quan điểm giáo dục phẩm hạnh của ông đã đưa ông tới việc thành lập trường Santiniketan ở Tây Bengal năm 1901, nơi cha ông để lại mảnh đất cho ông làm tài sản. Trường này từ sau năm 1921, rở thành Đại học Vishwa-Bharti và từ năm 1951 đặt dưới quyền quản lý của chính phủ Ấn Độ .
Ngày nay Tagore vẫn là nguồn cảm hứng cho hơn 200 triệu người Bengal sống ở Tây Bengal của Ấn Độ và Bangladesh cũng như nhiều người trên khắp thế giới.Tagore gọi Gandhi là linh hồn vĩ đại (Mahatma), và Gandhi (cùng mọi người Ấn Độ) gọi Tagore là thánh sư (Gurudev) . Thơ Tagore đến với độc giả người Việt qua các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan, Đào Xuân Quý và một số dịch giả khác.
Tác phẩm Tagore trên trang Thi Viện, được chép lại ở phụ lục để tiện theo dõi (*)
Tôi yêu mây và sóng Tagore
Hoàng Kim
tỉnh thức với Jana Gaṇa Mana
tôi yêu mây và sóng Tagor.
thích tranh Tagor bút chì tự họa
bài ca thời gian trăng rằm cổ tích
Ngày 27 tháng 12 năm 1911, bài ca “Jana Gana Mana” được hát lần đầu tiên tại Hội nghị Calcutta của Đảng Quốc Đại Ấn Độ. Bài ca này ngày nay là Quốc ca của Ấn Độ, Tôi tỉnh thức với Jana Gana Mana vào ngày 27 tháng 12 năm 1953 và cảm thấy thú vị. Tôi yêu ‘mây và sóng’ Tagore. Tôi chép lại nơi đây bản tiếng Anh thơ ‘mây và sóng’ Tagore, cùng với bản dịch tiếng Việt ưa thích của dịch giả Nguyễn Đình Thi và lời bình cùng với một số bản dịch khác để tham khảo.
Mây và sóng Thơ Rabindranath Tagore (Ấn Độ)
bản dịch thơ của Nguyễn Đình Thi
Mẹ ơi, kìa ai đang gọi con trên mây cao.
Họ bảo: “Chúng ta vui chơi từ tinh mơ đến hết ngày
Chúng ta giỡn với sớm vàng rồi lại đùa cùng trăng bạc”
Con hỏi: “Nhưng mà làm thế nào tôi lên trên ấy được?”
Họ trả lời: “Con hãy đi đến hết cõi đất, rồi giơ tay lên trời con sẽ bay bổng lên mây”
Nhưng con nói: “Mẹ tôi đợi tôi ở nhà, tôi có lòng nào bỏ được mẹ tôi”
Họ bèn mỉm cười, và lơ lửng họ bay đi mất
Nhưng con biết trò chơi còn hay hơn của họ
Con làm mây nhé, mẹ làm mặt trăng,
Hai tay con ôm mặt mẹ, còn mái nhà ta là trời xanh
Mẹ ơi, kìa những ai đang gọi con dưới sóng rì rào
“Chúng ta ca hát sớm chiều, chúng ta đi mãi mãi, không biết là đi qua những đâu”
Con hỏi: “Nhưng làm thế nào tôi đuổi được theo bây giờ?”
Họ bảo: “Cứ đi, con cứ đi đến bờ biển, đứng im, con nhắm mắt lại, sóng sẽ cuốn con đi”
Con trả lời: “Nhưng đến tối mẹ tôi nhớ thì sao? Tôi làm thế nào mà rời mẹ tôi được?”
Họ bèn mỉm cười, và nhảy nhót, họ dần đi xa
Nhưng con biết trò chơi còn hay hơn của họ
Con làm sóng nhé, mẹ làm mặt biển,
Con lăn, lăn như làn sóng vỗ, tiếng con cười giòn tan vào gối mẹ
Và không ai trên đời này biết được là mẹ con ta đang ở đâu!
Clouds and waves
MOTHER, the folk who live up in the clouds call out to me
We play from the time we wake till the day ends.
We play with the golden dawn, we play with the silver moon.
I ask, “But, how am I to get up to you?” They answer, “Come to the edge of the earth, lift up your hands to the sky, and you will be taken up into the clouds.”
“My mother is waiting for me at home,” I say. “How can I leave her and come?”
Then they smile and float away.
But I know a nicer game than that, mother.
I shall be the cloud and you the moon.
I shall cover you with both my hands, and our house-top will be the blue sky.
The folk who live in the waves call out to me–
“We sing from morning till night; on and on we travel and know not where we pass.”
I ask, “But, how am I to join you?” They tell me, “Come to the edge of the shore and stand with your eyes tight shut, and you will be carried out upon the waves.”
I say, “My mother always wants me at home in the evening-
– how can I leave her and go?”
Then they smile, dance and pass by.
But I know a better game than that.
I will be the waves and you will be a strange shore.
I shall roll on and on and on, and break upon your lap with laughter.
And no one in the world will know where we both are.
Tôi đồng tình với nhận định của Hoa Xuyên Tuyết: Bản dịch của Nguyễn Đình Thi thật tuyệt vời! “Đọc bài thơ này mà nao hết cả lòng. Tôi nhớ khi chúng tôi học lớp 6, lần đầu tiên được đọc bài này trong giờ Văn thực nghiệm, nghĩa là một bài thơ không có trong chương trình. Và chính là bản dịch của Nguyễn Đình Thi đây. Bao nhiêu năm qua đi, khi lớn lên, rồi làm mẹ, những lời thỏ thẻ đáng yêu mà du dương như tiếng nhạc của em bé này vẫn vang lên trong tôi, tuy tôi không thuộc hết vì hồi ấy còn bé quá. Nhưng đọc lại là nhớ ngay. Cảm động quá! Nhưng hình như từ “lơ lửng” trong câu “Họ bèn mỉm cười và lơ lửng họ bay đi mất” thì không hợp lắm. Tôi nghĩ nếu đọc là “Họ bèn mỉm cười và lửng lơ họ bay đi mất” thì đúng hơn, so về âm điệu ấy!”
Một bài bình thơ khác của Nguyễn Thị Thanh Huyềngiáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương, Việt Trì, Phú Thọ do Tôn Tiền Tử đưa lên mạng cũng là một bài bình hay: “Ta-go là nhà thơ hiện đại lớn nhất của Ấn Độ. Ông đã để lại một gia tài văn hoá nghệ thuật đồ sộ. Thơ Ta-go thể hiện tinh thần dân tộc và dân chủ sâu sắc, tính nhân văn và tính trữ tình triết lí nồng đượm. Bài thơ Mây và sóng in trong tập thơ Trăng non là một tuyệt tác, nó là bài ca về tình nhân ái, là ước mơ và khát vọng về tự do, hạnh phúc của con người. Bài thơ là lời của em bé nói với mẹ, là vẻ đẹp mộng mơ của trẻ thơ, là vẻ đẹp thiêng liêng của tình mẫu tử.
Mở đầu bài thơ là cụm từ mẹ con ngọt ngào, sâu lắng, nó mở ra một không gian tràn ngập tình yêu thương giữa con và mẹ. Hình ảnh người mẹ không xuất hiện trực tiếp trong thơ nhưng lại có mặt khắp không gian câu chuyện, có mặt trong lời gọi ngọt ngào và trong lời kể của con. Mẹ đang trân trọng lắng nghe lời con kể: trên my có người gọi con, đây là hình ảnh mộng mơ của con. Có lẽ em bé đang ngước mắt nhìn bầu trời xanh trong, nhìn mây trắng nhởn nhơ bay trong vũ trụ bao la. Bé tưởng tượng mình sẽ lên được tân mây xành để cùng mây chơi với bình minh vàng, chơi với vầng trăng bạc và để khám phá những điều kì diệu trên vũ trụ bao la. Cuộc sống trên mây thật hấp dẫn tuổi thơ nhưng em bé vẫn luôn nghĩ đến mẹ. Cuộc đối thoại tưởng tượng giữa những người trên mây và em bé đã khẳng định tình mẫu tử thắm nồng. “Hãy đến nơi tận cùng Trái đất, đưa tay lên trời, cậu sẽ được nhấc bổng lên tận tầng mây. Mẹ mình đang đợi ở nhà” . Làm sao có thể rời mẹ mà đến được? Con yêu mẹ hiền nên không thể bỏ mẹ để lên đến tầng mây. Có hạnh phúc nào hơn sống bên mẹ của mình. Mặc dù trên mây thật lí tưởng.
Tình yêu mẹ và ước mơ diệu kì vẫn song hành trong con: Con là mây, mẹ sẽ là trăng. Hai bàn tay con ôm lấy mẹ và mái nhà ta sẽ là bầu trời xanh thắm.
Sự lựa chọn của con thật cảm động. Con sẽ luôn gần mẹ. Con và mẹ gần nhau như mây với trăng, mây với bầu trời xanh thẳm. Trong suy nghĩ của con, mẹ là vầng trăng toả sáng, con là áng mây quanh quẩn bên trăng, gắn bó với tràng. Tình mẫu tử thiêng liêng ấy càng biểu hiện sâu đậm hơn qua cuộc trò chuyện của em bé với những người trong sóng. “Bọn tớ ca hát từ sáng sớm cho đến hoàng hôn. Bọn tớ ngao du nơi này nơi nọ mà không biết từng đến nơi nao./ Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được? Hãy đến rìa biển cả, nhắm nghiền mắt lại, cậu sẽ được sóng mang đi./ Buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà, làm sao có thể rời mẹ mà đi được?“
Cuộc đối thoại tưởng tượng của những người trong sóng và em bé đã khẳng định được tình mẹ con sâu đậm. Mặc cho những người trong sóng thủ thỉ cùng em về một cuộc viễn du, mặc cho sóng vẫy gọi chào mời, sóng vỗ rì rầm trên mặt biển thật là thích thú. Tuổi thơ nào mà không thích rong chơi đây đó? Mơ ước được đi xa, nhưng, bé lại băn khoăn vì mẹ muốn mình ở nhà. Em không thể đi du ngoạn cùng mây và cũng không muốn đi chơi xa với sóng. Em mơ ước đến tận chân trời góc bể, mơ ước được khám phá những điều kì diệu trong chuyến đi chơi, nhưng em không thể nào rời mẹ. Với em, mẹ là nguồn vui nhất, nụ cười của mẹ là niềm vui của con.
Tình mẹ con thiêng liêng đã làm cho bé ước mơ nhiều điều, liên tưởng đến những trò chơi kì diệu. “Con là sóng và mẹ là bến bờ kì lạ / Con lăn, Lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ./ Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta ở chốn nào“. Không có biển thì làm sao có sóng, cũng như không có mẹ thì làm sao có con.. Không có bến bờ thì sóng vỗ vào đâu, cũng khư không có mẹ thì cuộc đời con có ý nghĩa gì. Lòng mẹ bao dung như bến bờ, luôn rộng mở. Hình ảnh bến bờ kì lạ để sóng lăn, lăn mãi rồi sẽ cười vỡ tan được ví như hình ảnh người mẹ luôn vỗ về, ôm ấp con thơ. Mẹ mang đến hạnh phúc cho con, là chỗ dựa của cuộc đời con.
Hình ảnh thiên nhiên giữa sóng và bến bờ, giữa mây và trăng là những hình ảnh tượng trưng, nó thể hiện tấm lòng bao dung của mẹ, nó diễn tả tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt. Tình mẫu tử ấy không gì chia cắt được, đúng như câu khẳng định của con: “Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta ở chốn nào“. Tình mẹ con trong câu thơ thật sâu đậm, đây là vẻ đẹp vĩnh hằng của tình mẫu tử. Dù thế gian có như thế nào chăng nữa nhưng tình mẹ con vẫn mãi mãi muôn đời, vẫn tồn tại theo thời gian, vẫn ẩn hiện trong không gian rộng lớn.
Với hình thức đối thoại lồng độc thoại và cách sử dụng, những hình ảnh thiên nhiên giàu ý nghĩa tượng trưng, bài thơ Mây và sóng của Ta-go đã ngợi ca tình mẹ con thắm thiết, thiêng liêng và bất diệt. Nó là điểm tựa để con hướng tới tương lai tươi sáng, hướng tới những điều tốt đẹp trong” cuộc đời”.
(Theo Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương – Việt Trì – Phú Thọ)
Một số bản dịch khác cũng thật khéo
Mây và sóng
Bản dịch thơ của Đào Xuân Quý
Mẹ ơi, những người sống trên mây đang gọi con:
“Chúng ta chơi đùa từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà,
Chúng ta chơi với buổi sớm mai vàng,
Chúng ta chơi với vầng trăng bạc.”
Con hỏi: “Nhưng tôi làm sao mà lên được với các người?”
Họ trả lời: “Hãy đến bên bờ trái đất,
và đưa tay lên trời,
em sẽ được nhấc bổng lên mây.”
Con nói: “Mẹ tôi đang đợi ở nhà
Làm sao tôi có thể bỏ mẹ tôi mà đi được?”
Thế là họ cười rồi bay đi mất.
Nhưng con biết một trò chơi thích hơn trò ấy, mẹ ơi.
Con sẽ là mây và mẹ sẽ là trăng.
Con sẽ lấy hai tay trùm lên người mẹ,
Và mái nhà sẽ là bầu trời xanh thẳm.
Những người sống trong sóng nước gọi con:
“Chúng ta hát từ sớm mai đến tối,
Chúng ta ngao du khắp nơi này nơi nọ
mà không biết mình đã từng qua những nơi nào”.
Con hỏi: “Nhưng tôi làm sao gặp được các người?”
Họ bảo con: “Hãy đến chỗ gần sát biển
và đứng đó, nhắm nghiền mắt lại,
là em sẽ được đưa lên trên làn sóng”
Con bảo: “Buổi chiều, mẹ tôi luôn luôn muốn tôi ở nhà với mẹ –
Làm sao tôi có thể bỏ mẹ tôi mà đi được?”
Thế là họ cười, múa nhảy rồi đi qua.
Nhưng con biết một trò chơi hay hơn trò ấy
Con sẽ là sóng, mẹ sẽ là một bờ biển lạ lùng.
Con sẽ lăn, lăn, lăn mãi
và vỗ vào gối mẹ, cười vang.
Và không một ai trên cõi đời này biết nơi đâu mẹ con ta đang ở.
Mây và sóng
Bản dịch thơ của Nguyễn Khắc Phi
Mẹ ơi, trên mây có người gọi con:
“Bọn tớ chơi từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà. Bọn tớ chơi với bình minh vàng, bọn tớ chơi với vầng trăng bạc”.
Con hỏi: “Nhưng làm thế nào mình lên đó được?”
Họ đáp: “Hãy đến nơi tận cùng trái đất, đưa tay lên trời, cậu sẽ được nhấc bổng lên tận tầng mây”.
“Mẹ mình đang đợi ở nhà” – con bảo – “Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?”
Thế là họ mỉm cười bay đi.
Nhưng con biết có trò chơi thú vị hơn, mẹ ạ.
Con là mây và mẹ sẽ là trăng.
Hai bàn tay con ôm lấy mẹ, và mái nhà ta sẽ là bầu trời xanh thẳm.
Trong sóng có người gọi con:
“Bọn tớ ca hát từ sáng sớm cho đến hoàng hôn. Bọn tớ ngao du nơi này nơi nọ mà không biết từng đến nơi nao”.
Con hỏi: “Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được?”
Họ nói: “Hãy đến rìa biển cả, nhắm nghiền mắt lại, cậu sẽ được làn sóng nâng đi”.
Thế là họ nhảy múa lướt qua.
Nhưng con biết trò chơi khác hay hơn.
Con là sóng và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ,
Con lăn, lăn, lăn mãi rồi cười vang vỡ tan vào lòng mẹ.
Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta ở chốn nào.
Mây và sóng
Bản dịch thơ của Phụng Vũ Cửu Thiên
Mẹ ơi, những người sống trên mây gọi con:
“Chúng ta chơi từ khi thức dậy đến lúc ngày tàn
Chúng ta chơi với bình minh vàng, với ánh trăng bạc”
Con hỏi: “Thế làm sao tôi lên ấy được?”
Họ đáp: “Hãy đến nơi tận cùng thế giới, đưa hai tay lên, con sẽ được nâng đến tận trời cao”.
“Nhưng mẹ tôi đang đợi ở nhà”, con nói, “Tôi đâu thể nào xa mẹ mà bay đến trăng sao!”
Họ chỉ cười, rồi, dần dần trôi vào đâu đó.
Nhưng con biết có trò hay hơn của họ
Con là mây và mẹ sẽ là trăng
Con ôm lấy mẹ, mái nhà sẽ là bầu trời xanh…
Trên sóng nước lại có người gọi con:
“Chúng ta ca hát từ tinh mơ đến đêm khuya
Chúng ta ngao du khắp chốn mà chẳng biết đến đâu”
Con hỏi: “Thế làm sao tôi đến đấy được?”
Họ đáp: “Hãy đến nơi tận cùng bờ biển, nhắm chặt mắt lại, con sẽ được bồng bềnh trên sóng nước”.
“Mẹ tôi đợi tôi về nhà lúc chiều tối”, con nói, “tôi đâu thể rời mẹ mà đi hát ca”.
Họ chỉ cười, nhảy múa và đi xa.
Nhưng con biết có trò còn hay hơn cả
Con là sóng, mẹ là bờ cát lạ
Con sẽ lăn, lăn mãi vào lòng mẹ cười vang
Và sẽ chẳng ai biết sẽ mẹ con mình ở đâu trên thế gian…
Ta chẳng muốn làm một mặt trời đỏ
Ôm hết mộng ngày
Ta chẳng muốn làm một ánh trăng bạc
Thâu hết đêm say
Cảm nhận thơ hay là một cách nhưng dịch và họa được thơ hay là chuyện khó. Ví như ‘Bài thơ cây táo’ chuyển ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt . Quả táo là loài quả phổ biến nhất hành tinh. William Cullen Bryant (1794-1878) nhà thơ và nhà báo nổi tiếng Mỹ đã viết “Bài ca cây táo” tiếng Anh, tôi tạm chuyển ngữ tiếng Việt: “Cây táo này của chúng ta/ Ngọt ngào cho trăm suối hoa xuân/ Tải cánh bồn chồn của gió tháng năm/ Khi các hàng táo đưa hương thơm qua những cánh cửa mở/ Một thế giới của hoa cho ong,/ hoa cho phòng tĩnh lặng của cô gái mòn mỏi đợi chờ,/ nhánh hoa mừng cho trẻ sơ sinh, / Chúng ta trồng cây táo”. (Nguyên văn: “What plant we in this apple tree?/ Sweets for a hundred flowery springs/ To load the May-wind’s restless wings,/ When, from the orchard-row,/ he pours Its fragrance through our open doors;/ A world of blossoms for the bee,/ Flowers for the sick girl’s silent room, / For the glad infant sprigs of bloom,/We plant with the apple tree” Nguồn: Classic Quotes by William Cullen Bryant (1794-1878) US poet and newspaper editor).
Bài thơ “Mây và sóng” Tagore thật tuyệt vời, bốn bài chuyển ngữ đều thể hiện đúng nội dung tư tưởng, sự nhân hậu trong thơ Tagore nhưng để biểu đạt trở thành tâm hồn Việt giản dị xúc động ám ảnh thì những bài thơ diễn xuất hay quả là những viên ngọc quý.
Tagore di sản bảo tồn và phát triển.
——-
Tác phẩm Tagore
– Câu chuyện nhà thơ (Kabikahine, 1878), trường ca.
– Tiếng hát buổi chiều (Sandhya sangeet, 1882), thơ.
– Tiếng hát buổi sáng (Prabhat sangeet, 1883), thơ.
– Lễ hiến sinh (Visarjan, 1890), kịch.
– Một lí tưởng (Manasi, 1890), thơ.
– Con thuyền vàng (Sonar tari, 1894), thơ
– Khoảnh khắc (Khanika, 1900), thơ.
– Tặng vật (Naivedya, 1901), thơ.
– Kí ức (Sharan, 1902), thơ.
– Hạt cát nhỏ (Cokher bọli, 1903), tiểu thuyết.
– Đắm thuyền (Naukọdubi, 1906), tiểu thuyết.
– Trẻ thơ (Sisu, 1909; năm 1915 đổi tên thành Trăng non), thơ.
– Gora (1910), tiểu thuyết.
– Vượt biển (Kheya, 1906), thơ.
– Hi sinh (Naibedya, 1910), thơ.
– Lời dâng (Gitanjali, 1910), thơ
– Thân chủ của gia đình (Raja, 1910), kịch
– Vô cảm (Achalayatan, 1912), kịch
– Sở bưu điện (Dakghar, 1912), kịch.
– Hồi ức (Jibansmriti, 1912), thơ.
– Đá khát và những chuyện khác (Hungry stones and other stories, 1913), tập truyện.
– Bài hát tưởng niệm (Gitimalya, 1914), thơ
– Người làm vườn (The gardener, 1914), thơ.
– Vòng hoa thơ (Gitali, 1914), thơ.
– Ngôi nhà và thế giới (Ghare – baire, 1916), tiểu thuyết
– Thầy tu khổ hạnh (Xaniaxi, 1916), kịch.
– Mùa xuân trở lại (Phalguni, 1916), kịch.
– Đường bay của chiếc cần cẩu (Balaka, 1916), thơ
– Mùa hái quả (Fruit – gathering, 1916), thơ.
– Tặng vật (Lover’s gift, 1918), thơ.
– Kẻ lánh nạn (The fugitive, 1921), thơ.
– Thác nước (Muktadhara, 1922), kịch
– Cây trúc đào đỏ (Rakta – karabi, 1926), kịch
– Dòng chảy (Yogayog, 1929), tiểu thuyết
– Cuộc khủng hoảng của nền văn minh (Sabhyatar sankat, 1941), tiểu luận.
1783 – Núi Asama tại Nhật Bản phun trào mạnh, là một nguyên nhân dẫn đến Nạn đói lớn thời Tenmei.
1962 – Nelson Mandela bị cảnh sát bắt giữ với lời buộc tội kích động đình công và ra nước ngoài khi chưa được phép, ông phải ở trong tù cho đến năm 1990.
Quân chủng Hải quân, Quân đội Nhân dân Việt Nam còn gọi là Hải quân Nhân dân Việt Nam, là một quân chủng thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam có nhiệm vụ tổ chức, chỉ huy, quản lý, xây dựng quân đội bảo vệ vùng biển và thềm lục địa Việt Nam. Cơ quan chỉ huy là Bộ Tư lệnh Hải quân.
Hải quân Nhân dân Việt Nam có các binh chủng tàu mặt nước, Hải quân đánh bộ, Tên lửa-Pháo bờ biển, Không quân Hải quân, tàu ngầm… nhưng không tổ chức bộ tư lệnh riêng. Bao gồm các cấp đơn vị: hải đoàn, hải đội, binh đoàn Hải quân đánh bộ, các binh đoàn bộ đội chuyên môn, các đơn vị bảo đảm phục vụ ra đa, thông tin, kỹ thuật, hậu cần….
Ngày 19 tháng 7 năm 1946, Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Huỳnh Thúc Kháng đã ký Quyết định thành lập Hải quân Việt Nam. Tiếp đó, ngày 10 tháng 9 năm đó, Chủ tịch Quân sự Ủy viên Hội Võ Nguyên Giáp ký nghị định đặt cơ quan chỉ huy hải quân là hải đoàn do một hải đoàn trưởng phụ trách. Tuy nhiên đến đầu năm 1947, xét thấy không thể duy trì lực lượng hải quân, Việt Minh đã tháo gỡ máy móc, vũ khí, thiết bị và đánh đắm tàu để không lọt vào tay quân Pháp.
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, thành lập Ban nghiên cứu thủy quân thuộc Bộ tổng Tham mưu. Ban này vừa làm nhiệm vụ nghiên cứu vừa làm nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu. Khoảng 100 người tổ chức thành đội 71 được cử sang đảo Hải Nam (Trung Quốc) huấn luyện về thủy quân trong thời gian 6 tháng. Tuy nhiên ban bị giải thể năm 1951.
Ngày 24 tháng 8 năm 1954, thành lập hai thủy đội Sông Lô và Bạch Đằng.
Tháng 4 năm 1955, Bộ Quốc phòng thành lập Trường huấn luyện bờ biển và ngay tháng sau thành lập Cục Phòng thủ bờ biển, đánh dấu sự ra đời của Hải quân Nhân dân Việt Nam.
Ngày 24 tháng 1 năm 1959, Cục Phòng thủ bờ biển chuyển đổi thành Cục Hải quân trực thuộc Bộ Quốc phòng[4].Tổ chức biên chế của Cục Hải quân gồm 5 phòng (Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, công trình và Đo đạc biển); 5 đơn vị trực thuộc: Trường Huấn luyện bờ biển (đổi thành Trường Huấn luyện hải quân), Đoàn 130, Đoàn 135, tiểu đoàn công binh 145 và Xưởng 46. Đây cũng là ngày truyền thống của Cục Chính trị, Bộ Tham mưu và Cục Hậu cần Quân chủng Hải quân ngày nay.
Ngày 20 tháng 4 năm 1959, thành lập Đảng bộ Cục Hải quân[5] trực thuộc và đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng Quân ủy.
Ngày 18 tháng 5 năm 1959, thành lập Đoàn 135 (sau này đổi thành 140), đơn vị tàu tuần tiễu.
Ngày 3 tháng 8 năm 1961, thành lập căn cứ Hải quân I và căn cứ Hải quân II[6]
Tổ chức Hải quân Nhân dân Việt Nam từ cao đến thấp như sau:
Bộ Tư lệnh Hải quân trực thuộc Bộ Quốc phòng
Bộ Tư lệnh Vùng Hải quân (1, 2, 3, 4, 5)
Lữ đoàn Hải quân
Hải đoàn (tương đương với Tiểu đoàn Hải quân)
Hải đội
Quân hàm Hải quân Việt Nam
Hải quân Nhân dân Việt Nam diễu binh tại Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN năm 2010
Trước năm 1981, quân hàm cấp tướng của quân chủng hải quân chưa có tên gọi riêng. Từ năm 1981, quân hàm các cấp tướng trong hải quân mới có tên gọi riêng, theo cách gọi của Liên Xô: Đô đốc (tương đương Thượng tướng), Phó Đô đốc (tương đương Trung tướng), Chuẩn Đô đốc (tương đương Thiếu tướng), được quy định lần đầu tiên trong Luật sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam ban hành ngày 31 tháng 12 năm 1981. Về phù hiệu và cấp hiệu quân hàm xem bài Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Trong lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam chỉ mới có 2 sĩ quan Hải quân lên tới cấp Đô đốc là Giáp Văn Cương (phong năm 1988) và Nguyễn Văn Hiến (phong năm 2011). Theo Luật sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam (2014) [48] thì Phó Đô đốc tương đương Trung tướng là bậc quân hàm cao nhất của quân nhân giữ chức vụ Tư lệnh và chính ủy Quân chủng Hải quân Việt Nam. Chỉ phong Đô đốc hải quân khi là Thứ trưởng quốc phòng, Phó tổng tham mưu trưởng,Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị kiêm nhiệm.
Danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Lệnh số 316/KT-HĐNN8, ngày 13 tháng 12 năm 1989.
1 huân chương Sao vàng (thành tích 30 năm xây dựng Quân chủng, Lệnh số 721/KT-HĐNN7 ngày 18 tháng 7 năm 1985).
1 huân chương Hồ Chí Minh (thành tích 20 năm xây dựng trưởng thành và làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, ngày 18 tháng 3 năm 1979).
1 huân chương Độc lập hạng nhất (nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam và thời kỳ đổi mới), Lệnh số 166/KT-CTN ngày 4 tháng 5 năm 2000.
1 huân chương Độc lập hạng nhì (thành tích 10 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân chủng, Lệnh số 9/LCT ngày 29 tháng 8 năm 1965).
1 huân chương Quân công hạng nhất (thành tích 40 năm xây dựng và chiến đấu của Quân chủng, Lệnh số 580/KT-CTN ngày 10 tháng 12 năm 1984).
1 huân chương Quân công hạng nhì (về thành tích xuất sắc trong chiến đấu đánh thắng trận đầu, Lệnh số 31/LCT ngày 7 tháng 8 năm 1964).
1 huân chương Quân công hạng nhì thành tích làm nhiệm vụ chiến đấu ở Tây Nam và nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia, Lệnh số 286/HĐNN7 ngày 20 tháng 3 năm 1983).
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ là sự kiện được cho là hai cuộc tấn công của Hải quân Nhân dân Việt Nam chống lại hai tàu khu trụcUSS Maddox và USS Turner Joy của Hải quân Mỹ. Hai cuộc tấn công được cho là đã xảy ra vào các ngày 2 tháng 8 và 4 tháng 8 năm 1964 ở vịnh Bắc Bộ. Cuộc tấn công đầu được cả 2 bên xác nhận, nhưng cuộc tấn công sau đã được khẳng định chỉ là sự nhầm lẫn của Hoa Kỳ, nhưng lại trở thành cái cớ để Hoa Kỳ mở màn chiến dịch dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam.
Sơ đồ của Hải quân Mỹ giải thích các biến cố của phần đầu sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Ngày 2 tháng 8, năm 1964, tàu khu trụcUSS Maddox, trong khi thực hiện một cuộc tuần tra thông tin tình báo tín hiệu như là một phần của chiến dịch DeSoto, đã đụng độ với ba tàu phóng ngư lôi của hải quân miền Bắc Việt Nam thuộc Đoàn tàu phóng ngư lôi 135 [1]. Một trận hải chiến xảy ra, trong đó Maddox sử dụng hơn 280 đạn pháo 3-inch và 5-inch, cùng bốn máy bay tiêm kích USN F-8 Crusader oanh tạc các tàu phóng ngư lôi. Một máy bay Mỹ đã bị hư hỏng, tàu khu trục bị một vết đạn 14,5 mm. Ba tàu ngư lôi Bắc Việt Nam bị hư hỏng, bốn thủy thủ Bắc Việt Nam thiệt mạng và sáu người bị thương, phía Mỹ không có thương vong[5]
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ lần thứ hai
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ lần thứ hai đã được tuyên bố bởi Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, xảy ra vào ngày 4 tháng 8 năm 1964, như là một trận hải chiến. Nhưng thực sự không có tàu ngư lôi Bắc Việt tấn công, thay vào đó chúng có thể là “Tonkin Ghosts” (“Những bóng ma vịnh Bắc Bộ”, tức là các tín hiệu radar lỗi)[6].
Các nghiên cứu sau này, trong đó có một báo cáo năm 2005 của Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ khẳng định cuộc tấn công thứ hai đã không xảy ra. Báo cáo này cũng đã cố gắng xua đi giả thuyết từ lâu rằng các thành viên của nội các tổng thốngLyndon B. Johnson đã cố tình nói dối về bản chất của sự kiện này[9].
Ngày 7 tháng 8 năm 1964, 3 ngày sau sự kiện thứ 2, Quốc hội Mỹ thông qua Nghị quyết Đông Nam Á (được biết nhiều hơn với cái tên Nghị quyết vịnh Bắc Bộ) cho Johnson quyền hỗ trợ bất kỳ quốc gia Đông Nam Á nào mà chính phủ nước đó được xem là bị đe dọa bởi “sự hiếu chiến của cộng sản”. Nghị quyết này đã trở thành sự biện minh hợp pháp cho việc Mỹ leo thang chiến tranh tại Việt Nam.
Nghị quyết do Quốc hội Hoa Kỳ thông qua vào ngày 7/8/1964 dựa trên lý do sự kiện vịnh Bắc Bộ. Cho phép tổng thống Hoa Kỳ Johnson lúc bấy giờ “được áp dụng mọi biện pháp cần thiết, đẩy lùi bất cứ một cuộc tiến công vũ trang nào chống lại lực lượng Hoa Kỳ và sẵn sàng tiến hành mọi bước cần thiết, kể cả dùng lực lượng vũ trang để giúp đỡ bất kì một nước đồng minh nào cần đến sự giúp đỡ để bảo vệ nền tự do của mình”. Đây là cơ sở để Johnson mở đầu chiến tranh phá hoại ở Miền Bắc Việt Nam một cách hợp pháp, tiến hành chiến tranh hạn chế ở Miền Nam Việt Nam.
Ngày 12/1/1971, do sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Hoa Kỳ, dư luận quốc tế và cả Quốc hội Hoa Kỳ, tổng thống Nixon đã phải kí văn bản chính thức bãi bỏ Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ.
Tham khảo
Ellsberg, Daniel (2002). Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers. New York: Viking.
Analysis Casts Doubt on Vietnam War Claims — Calvin Woodward, Associated Press, Dec. 1, 2005. “A spy-agency analysis released Thursday contends a second attack on U.S. ships in the Gulf of Tonkin never happened, casting further doubt on the leading rationale for escalation of the Vietnam War.”
Nelson Rolihlahla Mandela (IPA: [xoˈliɬaɬa manˈdeːla]), 18 tháng 7, 1918 – 5 tháng 12, 2013)[1] là Tổng thống Nam Phi từ năm 1994 đến 1999, và là tổng thống Nam Phi đầu tiên được bầu cử dân chủ theo phương thức phổ thông đầu phiếu. Trước khi trở thành tổng thống, Mandela là nhà hoạt động chống chủ nghĩa apartheid (chủ nghĩa phân biệt chủng tộc), và là người đứng đầu Umkhonto we Sizwe, phái vũ trang của Đảng Đại hội Dân tộc Phi (ANC). Vào năm 1962 ông bị bắt giữ và bị buộc tội phá hoại chính trị cùng các tội danh khác, và bị tuyên án tù chung thân. Mandela đã trải qua 27 năm trong lao tù, phần lớn thời gian là ở tại Đảo Robben. Sau khi được trả tự do vào ngày 11 tháng 2 năm 1990, Mandela đã lãnh đạo đảng của ông trong cuộc thương nghị để tiến tới một nền dân chủ đa sắc tộc vào năm 1994. Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình từ năm 1994 đến 1999, Mandela thường ưu tiên cho vấn đề hòa giải dân tộc.
Tại Nam Phi, Mandela còn được biết tới với tên gọi Madiba, một tước hiệu danh dự mà bộ lạc của ông thường trao cho những già làng.
Nelson Mandela thuộc chi nhỏ nhất của dòng họ phong kiếnThembu, trị vì các lãnh thổ Transkei thuộc tỉnh Cape của Nam Phi.[3] Ông sinh ra tại Mvezo, một ngôi làng nhỏ thuộc huyện Umtata, thủ phủ của Transkei.[3] Ông cố ruột Ngubengcuka của ông (mất năm 1832) đã trị vì với danh hiệu Inkosi Enkhulu, tức là vua của người Thembu.[4] Một trong những con trai của nhà vua, có tên là Mandela, chính là ông nội của Nelson và đây chính là nguồn gốc họ Mandela của ông. Tuy nhiên, vì ông là con trai của Inkosi với một người vợ thuộc bộ tộc Ixhiba (gọi là “Tả gia”[5]), các con cháu thuộc chi này tuy vẫn thuộc Hoàng gia nhưng không bao giờ được thừa kế ngai vàng Thembu.
Cha của Nelson Mandela, Gadla Henry Mphakanyiswa, là người đứng đầu bộ lạc ở thị trấn Mvezo.[6] Tuy vậy, do không được chính quyền thuộc địa vừa lòng, Mphakanyiswa bị tước chức và cả gia đình bị chuyển đến Qunu. Dù vậy, Mphakanyiswa vẫn là thành viên Hội đồng Cơ mật của Inkosi, và đóng vai trò là người hỗ trợ cho Jongintaba Dalindyebo lên ngôi quốc vương Thembu. Dalindyebo sau này đã trả ơn ông bằng cách nhận nuôi Mandela sau khi Mphakanyiswa chết.[7] Cha của Mandela có bốn bà vợ, sinh tổng cộng 13 người con (bốn trai, chín gái).[7] Mandela là con của bà vợ thứ ba, Nosekeni Fanny. Fanny là con của Nkedama thuộc bộ tộc Mpemvu Xhosa, thuộc về nhà Hữu gia, là vùng đất nơi Mandela đã trải qua phần lớn thời thơ ấu.[8] Tên của ông Rolihlahla có nghĩa là “kéo cành cây”, hay một cách thông tục, có nghĩa là “kẻ gây rối”.[9][10]
Rolihlahla Mandela là người đầu tiên trong gia đình được đi học, tại đó cô giáo Mdingane đã đặt cho ông một cái tên tiếng Anh là “Nelson”.[11]
Lúc Mandela lên chín, cha ông qua đời vì bệnh lao phổi, quan nhiếp chính Jongintaba trở thành người giám hộ hợp pháp của ông.[7] Mandela đi học trường truyền giáo thuộc Hội Giám lý nằm kế bên lâu đài của quan nhiếp chính. Theo phong tục của người Thembu, ông được thụ giáo lúc 16 tuổi, rồi đi học Học viện Clarkebury Boarding.[12] Mandela đã hoàn tất Bằng sơ trung học chỉ trong vòng hai năm, thay vì ba năm như thông thường.[12] Để chuẩn bị thừa kế vị trí thành viên Hội đồng Cơ mật của cha mình, năm 1937, Mandela chuyển đến trường Healdtown, ngôi trường tại Fort Beaufort, nơi hầu hết con cháu hoàng tộc Thembu đều đi học.[13] Vào lúc 19 tuổi, ông bắt đầu quan tâm đến bộ môn quyền anh và chạy bộ tại trường.[8]
Sau đó, ông đậu vào học bằng Cử nhân tại Trường Đại học Fort Hare, nơi ông đã gặp Oliver Tambo. Tambo và Mandela sau này là những người bạn và đồng nghiệp thân thiết. Mandela cũng kết bạn với người bà con Kaiser (“K.D.”) Matanzima, người thuộc dòng trực hệ của Hữu gia của người Thembu, là người thừa kế ngai vàng Transkei[5], vì vai trò mà sau đó đã đưa ông đến với chính sách Bantustan. Chính sự ủng hộ chính sách này của ông và Mandela đã khiến hai người trở thành phe chính trị đối lập.[8] Cuối năm thứ nhất, Mandela tham gia vào vụ tẩy chay của Hội sinh viên nhằm chống lại quy định của trường đại học, và bị buộc phải rời trường Fort Hare không được trở lại chừng nào ông chưa chấp nhận cuộc bầu cử của vào Hội.[14] Sau này, lúc ở trong tù, Mandela đã học bằng Cử nhân luật của Chương trình đào tạo từ xa của Đại học Luân Đôn.
Một thời gian ngắn sau khi rời Fort Hare, Jongintaba đã thông báo với Mandela và Justice (con của quan nhiếp chính và là người thừa kế ngai vàng) rằng ông đã sắp xếp đám cưới cho cả hai người. Những thanh niên trẻ không vừa lòng với sự sắp đặt này, và quyết định chuyển đến sống ở Johannesburg.[15] Khi đến Johannesburg, Mandela xin một chân canh gác tại một khu mỏ.[16] Tuy nhiên, ông chủ lập tức đuổi việc Mandela khi hay rằng ông là con nuôi đang chạy trốn của Quan nhiếp chính. Mandela chuyển sang làm tập sự ở một công ty luật ở Johannesburg, Witkin, Sidelsky và Edelman, nhờ quen biết với một người bạn và người hướng dẫn, nhân viên địa ốc Walter Sisulu.[16] Khi làm việc tại hãng Witkin, Sidelsky và Edelman, Mandela đã hoàn tất tấm bằng Cử nhân hàm thụ của Trường Đại học Nam Phi, sau đó ông học luật tại Trường Đại học Witwatersrand, tại đó ông kết bạn tới bạn học và sau này là đồng chí chống chủ nghĩa apartheid của ông Joe Slovo, Harry Schwarz và Ruth First. Slovo sau này là Bộ trưởng Bộ cư trú, còn Schwarz là Đại sứ Nam Phi tại Hoa Kỳ. Trong thời gian này, ông sống tại thành phố ngoại ô Alexandra, phía bắc Johannesburg.[17]
Hoạt động chính trị
Sau chiến thắng của Đảng Quốc gia, ủng hộ chính sách phân biệt chủng tộcapartheid[18] của những người Afrikaner, Mandela bắt đầu tham gia tích cực vào hoạt động chính trị. Ông đã lãnh đạo rất thành công trong Chiến dịch Phản đối của ANC năm 1952 và Đại hội Nhân dân năm 1955, từ đó thông qua Hiến chương Tự do là nền tảng cơ bản cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa apartheid.[19][20] Trong thời gian này, Mandela và luật sư đồng nghiệp Oliver Tambo điều hành một công ty luật có tên là Mandela và Tambo, nhận bào chữa miễn phí hoặc giá rẻ cho nhiều người da đen thiếu luật sư đại diện.[21]
Mahatma Gandhi có ảnh hưởng lớn đến cách thức đấu tranh của Mandela, và cả phương pháp dành thắng lợi của các nhà hoạt động chống chủ nghĩa apartheid các thế hệ sau.[22][23] Mandela đã từng tham dự một hội nghị diễn ra tại New Delhi từ ngày 29-30 tháng 1 năm 2007 đánh dấu 100 năm ngày Gandhi đưa ra thuyết satyagraha (phản kháng bất bạo động) tại Nam Phi.[24]
Ban đầu, khi kiên trì đường lối đấu tranh bất bạo động, Mandela và 150 người khác bị bắt giam vào ngày 5 tháng 12 năm 1956 và bị buộc tội phản quốc. Sau quá trình xét xử kéo dài từ năm 1956-1961, tất cả các bị cáo đều được tuyên trắng án.[25] Từ năm 1952–1959, xuất hiện một lực lượng các nhà hoạt động da đen mới được gọi là những người Toàn Phi đã cản trở các hoạt động của ANC ở khu vực thành phố của người da đen, lực lượng này đòi hỏi phải có các biện pháp quyết liệt hơn nhằm chống lại chế độ của Đảng Quốc gia.[26] Những nhà lãnh đạo ANC lúc bấy giờ là Albert Luthuli, Oliver Tambo và Walter Sisulu không những cho rằng những người Toàn Phi đang đi quá đà mà còn cảm thấy quyền lãnh đạo của họ đang bị đe dọa.[26] Vì thế cánh lãnh đạo của ANC đã củng cố vị thế của mình bằng cách liên minh với các đảng phái chính trị nhỏ của những người Da trắng, Da màu, lẫn Da đỏ nhằm tranh thủ lôi kéo rộng rãi số người ủng hộ hơn phái Toàn Phi.[26] Những người Toàn Phi nhạo báng Hiến chương Tự do trong Hội nghị tại Kliptown năm 1955 vì đảng ANC với số lượng thành viên áp đảo 100.000 người mà chỉ có được một phiếu trong liên minh Đại hội. Bốn trong năm tổng thư ký của các đảng phái tham gia đại hội đều đã ngầm tham gia Đảng Cộng sản Nam Phi (SACP) tái cơ cấu, gắn liền với chính sách của Moskva.[27][28] Đến năm 2003 Blade Nzimande, Tổng thư ký SACP, tiết lộ rằng Walter Sisulu, Tổng thư ký của đảng ANC, cũng đã bí mật gia nhập SACP vào năm 1955[29] có nghĩa là cả năm Tổng thư ký đều là người của SACP và do đó giải thích lý do tại sao Sisulu quyết định đưa vai trò của ANC từ vai trò chi phối xuống thành một trong năm bên ngang vai nhau.
Vào năm 1961, Mandela trở thành người đồng sáng lập và là lãnh đạo cánh vũ trang của ANC, Umkhonto we Sizwe (tạm dịch Cây giáo của Quốc gia, cũng viết tắt là MK).[31] Ông điều hành các chiến dịch phá hoại chống lại các mục tiêu quân sự và của chính quyền, lên kế hoạch cho một cuộc chiến tranh du kích nếu phương cách phá hoại vẫn không chấm dứt được chế độ apartheid.[32] Mandela cũng quyên tiền cho MK ở nước ngoài và sắp xếp các buổi huấn luyện bán quân sự cho nhóm.[32]
Người đồng chí trong đảng ANC Wolfie Kadesh giải thích chiến dịch đánh bom do Mandela dẫn dắt như sau: “Khi chúng tôi biết rằng chúng tôi sẽ bắt đầu vào ngày 16 tháng 12 năm 1961, nhằm làm nổ tung những vị trí là biểu tượng của chủ nghĩa apartheid, như văn phòng giấy thông hành, tòa án địa phương, và những nơi tương tự… bưu điện và… các văn phòng chính phủ. Nhưng chúng tôi dự định thực hiện điều đó sao cho không có ai bị thương vong.”[33] Mandela đã nói về Wolfie: “Kiến thức về chiến tranh và kinh nghiệm trận mạc của ông là cực kỳ hữu ích đối với tôi.”[10]
Mandela đã xem bước chuyển sang đấu tranh vũ trang là phương kế cuối cùng; nhiều năm trời với chính sách đàn áp và bạo lực ngày càng tăng của chính quyền đã cho ông thấy sự phản kháng bất bạo động chống chủ nghĩa apartheid nhiều năm qua đã không và cũng không thể thu được tiến triển nào.[10][34]
Sau này, chủ yếu vào thập niên 1980, MK đã tiến hành chiến tranh du kích chống lại chế độ apartheid với nhiều thương vong là dân thường.[32] Mandela sau này thừa nhận rằng ANC, trong cuộc chiến đấu chống lại apartheid, cũng vi phạm quyền con người, chỉ trích thẳng thừng những đảng viên trong đảng ông cố gắng đưa những câu chữ phản ánh sự thật ra khỏi báo cáo của Ủy ban Sự thật và Hòa giải.[35]
Cho đến tận tháng 7 năm 2008, Mandela và các đảng viên ANC vẫn bị hạn chế đi đến Hoa Kỳ – ngoại trừ trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Manhattan — nếu không có giấy phép cho phép đặc biệt của Ngoại trưởng Hoa Kỳ, vì họ bị quy là khủng bố trong thời kỳ chế độ apartheid ở Nam Phi.[36][37]
Bị bắt giữ và phiên tòa Rivonia
Ngày 5 tháng 8 năm 1962 Mandela bị bắt sau khi ẩn náu được 17 tháng, và giam giữ tại Pháo đài Johannesburg.[38] Vụ bắt giữ này xảy ra do Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) đã tiết lộ nơi ẩn náu và nhân dạng giả của Mandela cho an ninh.[39][40][41] Ba ngày sau đó, người ta đã đọc lời buộc tội ông chủ mưu kêu gọi công nhân đình công vào năm 1961 và vượt biên bất hợp pháp tại tòa. Ngày 25 tháng 10 năm 1962, Mandela bị tuyên án 5 năm tù giam. Hai năm sau vào ngày 11 tháng 6 năm 1964, ông lại phải ra tòa một lần nữa vì những hoạt động trong Hội đồng Quốc gia châu Phi (ANC).[42]
Trong lúc Mandela đang trong tù, cảnh sát đã bắt giữ nhiều lãnh đạo cốt cán của ANC vào ngày 11 tháng 7 năm 1963, tại Liliesleaf Farm, Rivonia, phía bắc Johannesburg. Mandela được ghép vào xét xử chung, và tại Phiên tòa Rivonia, họ bị chánh án, Tiến sĩ Percy Yutar, cáo buộc nhiều tội danh trong đó chủ yếu là phá hoại (Mandela thừa nhận tội này) và các tội tương đương với phản quốc, nhưng chính quyền dễ chứng minh hơn.[43] Lời buộc tội thứ hai cáo buộc các bị cáo âm mưu một cuộc xâm lược của ngoại quốc vào Nam Phi, Mandela phủ nhận tội danh này.[43]
Trong lời phát biểu tại ghế bị cáo mở đầu phiên biện hộ trong phiên tòa ngày 20 tháng 4 năm 1964 tại Tòa án Tối cao Pretoria, Mandela đã nói rằng việc ANC lựa chọn sử dụng vũ lực chỉ là một sách lược mà thôi.[44] Lời phát biểu của ông đã mô tả ANC đã sử dụng các biện pháp hòa bình như thế nào để chống lại chủ nghĩa apartheid trong nhiều năm trời cho đến khi xảy ra vụ Thảm sát Sharpeville.[45] Sự kiện đó đi kèm với cuộc trưng cầu dân ý để thành lập Cộng hòa Nam Phi và sự tuyên bố tình trạng khẩn cấp cùng với việc cấm chỉ hoạt động của ANC đã khiến cho Mandela và các đồng chí của ông thấy rằng lựa chọn duy nhất của họ chỉ có thể thông qua các hành động phá hoại, nếu không chẳng khác nào một sự đầu hàng vô điều kiện.[45] Mandela tiếp tục giải thích cách họ hình thành Tuyên ngôn Umkhonto we Sizwe vào ngày 16 tháng 12 năm 1961 dự kiến sẽ phô bày sự thất bại của các chính sách của Đảng Quốc gia sau khi nền kinh tế bị đe dọa cho những người ngoại quốc không còn sẵn lòng đầu tư vào đất nước nữa.[46] Ông kết thúc bài phát biểu bằng những lời sau đây: “Tôi cống hiến cả đời tôi cho sự nghiệp đấu tranh của người dân châu Phi. Tôi đã chiến đấu chống lại sự thống trị của người da trắng, và tôi cũng chiến đấu chống lại sự thống trị của người da đen. Tôi yêu mến lý tưởng về một xã hội dân chủ và tự do trong đó mọi người dân sống với nhau hòa thuận và bình đẳng. Đó là lý tưởng mà tôi hy vọng sẽ sống vì nó và đạt được nó. Nhưng nếu cần, tôi cũng sẵn sàng chết vì lý tưởng đó.”[34]
Bram Fischer, Vernon Berrange, Harry Schwarz, Joel Joffe, Arthur Chaskalson và George Bizos là các luật sự bảo vệ cho bên bị.[47]Harold Hanson cũng được bổ sung vào cuối phiên tòa để giúp giảm nhẹ tội danh.[48] Tất cả mọi người trừ Rusty Bernstein đều bị tuyên là có tội, nhưng họ thoát khỏi án treo cổ mà bị tuyên tù chung thân vào ngày 12 tháng 6 năm 1964.[48] Lời buộc tội gồm có tham gia lên kế hoạch hành động vũ trang, cụ thể là bốn cáo buộc phá hoại, mà Mandela thừa nhận, và một âm mưu chính trị trợ giúp nước ngoài xâm lược Nam Phi, tội này bị Mandela phủ nhận.[48]
Nelson Mandela bị giam giữ tại Đảo Robben và đã ở đấy 18 năm trong tổng số 27 năm trong tù của ông.[49] Khi ở trong tù, ông dần dần trở nên nổi tiếng với vai trò là nhà lãnh đạo da đen đáng chú ý nhất tại Nam Phi.[1] Ở trên đảo, ông và các tù nhân khác phải lao động khổ sai ở một mỏ đá vôi.[50] Điều kiện sống trong tù rất cơ bản. Tù nhân cũng bị phân chia theo sắc tộc và tù nhân da đen là những người nhận được lượng thực phẩm ít nhất.[51]Tù chính trị được giam giữ riêng biệt với thường phạm và được hưởng ít quyền lợi hơn.[52] Mandela đã mô tả rằng, do bị xếp vào tù nhân nhóm D (hạng thấp nhất) ông chỉ được phép có một người khách viếng thăm và nhận một lá thư mỗi sáu tháng.[53] Những lá thư thường bị trễ khá lâu và rất khó đọc do chế độ kiểm duyệt trong nhà tù.[10]
Lúc ở trong tù Mandela đã tham gia khóa học từ xa của Đại học Luân Đôn và nhận bằng Cử nhân Luật.[54] Ông sau đó được đề cử làm Hiệu trưởng danh dự của Đại học Luân Đôn trong cuộc bình chọn năm 1981, nhưng vị trí này đã thuộc về Công chúa Anne.[54]
Trong cuốn hồi ký Inside BOSS xuất bản năm 1981[55] điệp viên Gordon Winter đã kể về việc ông này tham gia kế hoạch giải cứu Mandela vào năm 1969: kế hoạch này bị Winter tiết lộ thay mặt cho cơ quan tình báo Nam Phi, họ muốn Mandela trốn thoát để họ có thể xử bắn ông khi tìm bắt lại. Kế hoạch này đã bị Cơ quan Tình báo Anh chặn đứng.[55]
Vào tháng 3 năm 1982 Mandela được chuyển từ Đảo Robben sang Nhà tù Pollsmoor, cùng với các nhà lãnh đạo ANC khác như Walter Sisulu, Andrew Mlangeni, Ahmed Kathrada và Raymond Mhlaba.[53] Đã có suy đoán rằng đây là cách để xóa bỏ sức ảnh hưởng của các nhà lãnh đạo cấp cao này đối với thế hệ những nhà hoạt động da đen trẻ đang bị giam tại Đảo Robben, cái gọi là “Trường Đại học Mandela”.[56] Tuy nhiên, Thủ tướng Kobie Coetsee thuộc Đảng Quốc gia nói rằng việc chuyển trại này giúp cho việc liên hệ giữa họ và chính quyền Nam Phi được thuận tiện hơn.[57]
Tháng 2 năm 1985 Tổng thống P.W. Botha đề nghị trả tự do cho Mandela với điều kiện ông phải ‘từ bỏ phương cách đấu tranh chính trị bằng bạo lực một cách vô điều kiện’.[58] Coetsee và các bộ trưởng khác phản đối đề xuất của Botha, cho rằng Mandela sẽ không bao giờ yêu cầu tổ chức của ông từ bỏ đấu tranh vũ trang để đổi lấy sự tự do cho cá nhân mình.[59] Đúng là Mandela đã bác bỏ đề xuất và đưa ra lời tuyên bố thông qua cô con gái Zindzi trong đó nói rằng “Thứ tự do đang được đề nghị cho tôi là cái gì trong khi tổ chức của nhân dân vẫn bị cấm đoán? Chỉ có những người tự do mới có thể thương lượng mà thôi. Một tù nhân không thể tham gia vào một thỏa hiệp nào hết.”[57]
Cuộc gặp đầu tiên giữa Mandela và chính quyền Đảng Quốc gia diễn ra vào tháng 11 năm 1985, khi Kobie Coetsee gặp gỡ Mandela tại Bệnh viện Volks Hospital ở Cape Town nơi Mandela đang tịnh dưỡng sau cuộc phẫu thuật tuyến tiền liệt.[60] Trong bốn năm sau đó, một loạt các cuộc gặp mang tính thăm dò đã diễn ra, làm nền tảng cho các cuộc tiếp xúc và thương lượng về sau, nhưng tiến bộ thực sự thì không nhiều.[57]
Vào năm 1988 Mandela được chuyển đến Nhà tù Victor Verster và ở đó cho đến khi ông được phóng thích. Người ta đã dỡ bỏ nhiều hạn chế đối với ông và những người như Harry Schwarz đã có thể tự do thăm viếng ông. Schwarz, một người bạn của Mandela, biết ông từ khi họ học chung lớp luật ở trường đại học. Ông này cũng là luật sư biện hộ cho Mandela tại Phiên tòa Rivonia và sau này là đại sứ tại Washington khi Mandela làm tổng thống.
Trong suốt thời kỳ Mandela bị giam giữ, đã có nhiều áp lực ở trong cũng như ngoài nước đòi chính quyền Nam Phi phải trả tự do cho ông, với khẩu hiệu nổi tiếng Free Nelson Mandela! (Hãy thả Nelson Mandela)[61] Đến năm 1989, Nam Phi có sự chuyển biến khi Botha bị đột quỵ và Frederik Willem de Klerk thay thế vào vị trí tổng thống.[62] De Klerk tuyên bố thả tự do cho Mandela vào tháng 2 năm 1990.[63]
Mandela đã được Ủy hội Chữ thập đỏ Quốc tế viếng thăm vài lần khi ông còn ở Đảo Robben và sau này ở nhà tù Pollsmoor. Mandela đã nói về những chuyến thăm viếng như sau: “với cá nhân tôi, và với những ai đã từng trải qua thời gian là tù chính trị, Hội chữ thập đỏ là một tia sáng nhân đạo trong thế giới tăm tối thiếu nhân tính của nhà tù chính trị.”[64][65]
Trả tự do
Mandela và Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton năm 1993
Ngày 2 tháng 2 năm 1990, Tổng thống Quốc gia F.W. de Klerk đã hủy lệnh cấm hoạt động đối với Đảng ANC và các tổ chức chống chủ nghĩa apartheid khác, đồng thời thông báo Mandela sẽ sớm được trả tự do.[66] Mandela được trả tự do từ Nhà tù Victor Verster ở Paarl vào ngày 11 tháng 2 năm 1990. Sự kiện này được phát hình trực tiếp trên khắp thế giới.[67]
Vào ngày được phóng thích, Mandela đã có một bài diễn văn gửi đến toàn quốc.[68] Ông tuyên bố cam kết hòa bình và hòa giải với những người da trắng thiểu số trong nước, nhưng nói rõ rằng cuộc đấu tranh vũ trang của ANC vẫn chưa chấm dứt khi ông nói “phương sách đấu tranh vũ trang vào năm 1960 khi chúng tôi hình thành phái quân sự trong ANC (Umkhonto we Sizwe) đơn thuần là hành động tự vệ chống lại sự tàn bạo của chủ nghĩa apartheid. Các yếu tố đưa đến cuộc đấu tranh vũ trang đến nay vẫn hiển diện. Chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải tiếp tục. Chúng tôi bày tỏ hy vọng một không khí có lợi cho một cuộc thương lượng sẽ sớm được tạo ra, để nhu cầu đấu tranh vũ trang không còn nữa.”
Ông cũng nói rằng tập trung chính của ông là mang lại hòa bình cho những người da đen đa số và cho họ quyền bỏ phiếu trong những cuộc bầu cử cấp quốc gia lẫn địa phương.[68]
Thương thuyết
Tổng thống de Klerk và Mandela trong Đại hội Kinh tế Thế giới tại Davos năm 1992
Sau khi được trả tự do, Mandela trở lại làm lãnh đạo ANC, rồi từ năm 1990 đến 1994, ông lãnh đạo đảng này trong cuộc thương lượng đa đảng dẫn tới cuộc bầu cử đa sắc tộc đầu tiên trong nước.[69]
Năm 1991, ANC tổ chức hội nghị toàn quốc đầu tiên của mình ở Nam Phi sau khi được dỡ bỏ lệnh cấm, hội nghị đã bầu Mandela làm Chủ tịch (President) của tổ chức. Người bạn và người đồng nghiệp lâu năm của ông, Oliver Tambo, người lãnh đạo tổ chức lưu vong khi Mandela còn ở trong tù, trở thành Chủ tịch Quốc gia (National Chairperson).[70]
Vai trò lãnh đạo của Mandela trong cuộc thương thuyết, cũng như mối quan hệ của ông với Tổng thống F.W. de Klerk, đã được thừa nhận khi họ cùng được trao Giải Nobel Hòa bình năm 1993. Tuy nhiên, mối quan hệ này thỉnh thoảng trở nên căng thẳng, cụ thể như trong một phát biểu nảy lửa vào năm 1991 khi ông nói De Klerk là người cầm đầu một “chế độ không hợp pháp, mất uy tín, gồm toàn những người thiểu số”. Cuộc thương thuyết có lần đã đổ vỡ do vụ thảm sát Boipatong tháng 6 năm 1992, khi đó Mandela cùng đoàn đại biểu của ANC bước ra khỏi cuộc thương thuyết, cáo buộc chính quyền De Klerk đồng lõa với các vụ giết chóc.[71] Tuy nhiên, những cuộc hội đàm đã được tiếp diễn sau vụ thảm sát Bisho tháng 9 năm 1992, khi bóng ma bạo lực khiến cho người ta nhận thấy hội đàm là cách duy nhất để tiến tới một giải pháp.[10]
Sau vụ ám sát nhà lãnh đạo ANC Chris Hani tháng 4 năm 1993, lại dấy lên sự sợ hãi đất nước sẽ lại tan vỡ trong bạo lực.[72] Mandela đã gửi thông điệp toàn quốc yêu cầu mọi người bình tĩnh, trong bài phát biểu với vai trò ‘tổng thống’ dù khi đó ông chưa phải là tổng thống thực sự. Mandela nói rằng “tối nay tôi đang nói với từng người Nam Phi, cả đen lẫn trắng, những lời nói xuất phát từ sâu thẳm lòng mình. Một người da trắng đầy thành kiến và căm giận đã đến đất nước chúng ta và thực hiện một hành vi sai lầm đến mức khiến cả nước phải đối mặt với vực thẳm khủng hoảng. Một người phụ nữ da trắng, gốc Afrikan, đã liều mạng sống của bà để chúng ta có thể biết đến, và mang lại sự công bằng cho vụ ám sát này. Vụ giết người máu lạnh nhằm vào Chris Hani đã tạo một làn sóng rung chuyển đất nước và thế giới… Giờ đây đã đến lúc mọi người dân Nam Phi sát cánh cùng nhau để chống lại bất cứ hành vi nào nhằm phá hủy những gì Chris Hani đã cống hiến cả đời ông cho nó – sự tự do cho tất cả chúng ta”.[73] Dù đã có một số vụ bạo loạn xảy ra sau vụ ám sát, các bên thương lượng vẫn tích cực hành động, và sớm thỏa thuận một cuộc bầu cử dân chủ diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1994, chỉ hơn một năm sau vụ ám sát Hani.[57]
Thời kỳ làm Tổng thống Nam Phi
Cuộc bầu cử đa sắc tộc đầu tiên ở Nam Phi với quyền bỏ phiếu được trao cho tất cả mọi người đã diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1994. ANC giành được 62% số phiếu bầu, và Mandela, với vai trò là lãnh đạo ANC, đã nhậm chức làm Tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi vào ngày 10 tháng 5 năm 1994, de Klerk của Đảng Quốc gia là phó tổng thống thứ nhất và Thabo Mbeki là phó tổng thống thứ hai trong Chính phủ Thống nhất Quốc gia.[74] Với vị trí là Tổng thống từ tháng 5 năm 1994 cho đến tháng 6 năm 1999, Mandela đã chủ trì sự chuyển giao từ quyền lực của thiểu số và chủ nghĩa apartheid, giành được sự tôn trọng của quốc tế đối với những nỗ lực hòa giải quốc gia và thế giới của ông.[75] Mandela đã khích lệ những người Nam Phi da đen ủng hộ cho đội Springbok (đội tuyển rugby quốc gia Nam Phi) trước đây bị dân chúng ghét bỏ khi Nam Phi tổ chức Cúp Rugby Thế giới 1995.[76] Sau khi Springbok giành chiến thắng trong trận chung kết trước New Zealand, Mandela đã trao cúp vô địch cho đội trưởng Francois Pienaar, một người Afrikan, trên người mặc chiếc áo đấu Springbok với con số 6 của Pienaar sau lưng. Hành động này được xem là bước tiến lớn của sự hòa giải giữa người Nam Phi da trắng và da đen.[77]
Sau khi nhậm chức tổng thống, một trong những dấu hiệu đặc trưng của Mandela là chiếc áo Batik của ông, còn được biết đến với cái tên “Áo Madiba“, kể cả trong những sự kiện long trọng.[78] Trong hành động quân sự đầu tiên sau thời kỳ apartheid của Nam Phi, Mandela đã ra lệnh cho quân đội xâm nhập lãnh thổ Lesotho vào tháng 9 năm 1998 để bảo vệ chính quyền của Thủ tướng Pakalitha Mosisili. Vụ việc này diễn ra sau một cuộc bỏ phiếu gây tranh cãi trong đó lực lượng phản đối đã đe dọa đến chính quyền thiếu ổn định này.[79] Những nhà bình luận và phê bình trong đó có cả các nhà hoạt động vì AIDS như Edwin Cameron đã chỉ trích Mandela vì sự thiếu hiệu quả của chính quyền ông trong việc ngăn chặn cuộc khủng hoảng AIDS.[80][81] Sau khi nghỉ hưu, Mandela thừa nhận rằng ông đã thất bại vì đã không chú ý nhiều hơn đến bệnh dịch HIV/AIDS.[82][83] Mandela từ đó đã có một số bài phát biểu chống lại bệnh dịch AIDS.[84][85]
Vụ xử Lockerbie
Tổng thống Mandela có sự quan tâm đặc biệt trong việc giúp đỡ giải quyết tranh cãi kéo dài giữa một bên là quốc gia Lybia dưới thời Gaddafi, còn bên kia là Hoa Kỳ và Anh, đối với việc mang ra xét xử hai người Lybia bị truy tố vào tháng 11 năm 1991 và bị buộc tội phá hoại Chuyến bay 103 của Pan Am, khiến nó rơi tại thị trấn Lockerbie của Scotland ngày 21 tháng 12 năm 1988, làm cho 270 người thiệt mạng.[86] Từ đầu năm 1992, Mandela đã có lời đề nghị không chính thức gửi tới Tổng thống George H.W. Bush yêu cầu xét xử hai nghi phạm Lybia tại quốc gia thứ ba. Bush tỏ ra tán thành đề nghị này, cả Tổng thống François Mitterrand của Pháp và Vua Juan Carlos I của Tây Ban Nha cũng vậy.[87] Vào tháng 11 năm 1994 – sáu tháng sau khi ông đắc cử tổng thống – Mandela chính thức đề nghị Nam Phi nên là nơi diễn ra phiên toàn xét xử vụ đánh bom Chuyến bay 103 của Pan Am.[88]
Tuy nhiên, Thủ tướng Anh John Major thẳng thừng từ chối ý tưởng này nói rằng chính phủ Anh không tin tưởng vào tòa án nước ngoài.[89] Đến ba năm sau, Mandela một lần nữa lại gửi lời đề nghị đến người kế nhiệm Major, Tony Blair, khi ông có chuyến viếng thăm Luân Đôn vào tháng 7 năm 1997. Cuối năm đó, tại Cuộc họp những người đứng đầu chính phủ của khối Thịnh vượng chung năm 1997 tại Edinburgh tháng 10 năm 1997, Mandela đã cảnh báo:
“Không thể có một quốc gia vừa là nguyên cáo, vừa là bên nguyên lẫn quan tòa.”
Cuối cùng đã có một thỏa hiệp để tổ chức phiên tòa ở Trại quân sự Zeist ở Hà Lan, xét xử theo Luật Scotland, và Tổng thống Mandela bắt đầu thương thuyết với Đại tá Gaddafi để dẫn độ hai bị cáo (Megrahi và Fhimah) vào tháng 4 năm 1999.[90] Sau phiên tòa kéo dài 9 tháng, phán quyết đã được công bố vào ngày 31 tháng 1 năm 2001. Fhimah được tuyên trắng án, nhưng Megrahi bị buộc tội và phải lãnh 27 năm tù trong một nhà tù ở Scotland. Kháng cáo lần đầu của Megrahi đã bị bác vào tháng 3 năm 2002, và cựu tổng thống Mandela đã đến thăm người này tại nhà tù Barlinnie vào ngày 10 tháng 6 năm 2002.
‘Megrahi hoàn toàn cô độc’, Mandela nói trong cuộc họp báo nhỏ trong phòng thăm viếng của nhà tù. ‘Anh ta không có ai để nói chuyện cả. Đây là sự hành hạ về tâm lý mà một người đàn ông phải chịu đựng trong suốt thời gian dài chịu án hoàn toàn một mình. Sẽ công bằng hơn nếu anh ta được chuyển đến một quốc gia Hồi giáo — và có nhiều quốc gia Hồi giáo mà phương Tây tin tưởng. Nó sẽ giúp gia đình anh dễ viếng thăm anh hơn nếu anh ở một nơi như vương quốc Maroc, Tunisia hay Ai Cập.’[91]
Megrahi sau đó được chuyển đến nhà tù Greenock và không còn bị biệt giam nữa.[92] Tháng 8 năm 2009, Megrahi, sau khi được chẩn đoán bị ung thư và chỉ còn sống được 3 tháng, đã được trả tự do trong một đợt ân xá và được phép trở về Libya. Quỹ Nelson Mandela đã ủng hộ quyết định ân xá cho Megrahi trong một bức thư gửi tới Chính quyền Scotland thay mặt cho Mandela.[93]
Hôn nhân và gia đình
Mandela đã kết hôn ba lần, và có 6 con, 20 đứa cháu và số chắt thì ngày càng tăng. Ông là ông nội của Tù trưởngMandla Mandela.[94]
Cuộc hôn nhân đầu tiên
Cuộc hôn nhân đầu tiên của Mandela là kết hôn với Evelyn Ntoko Mase người cũng như Mandela, xuất thân từ nơi về sau gọi là vùng Transkei của Nam Phi, mặc dù thực ra họ gặp nhau tại Johannesburg.[95] Hai người chia tay vào năm 1957 sau 13 năm chung sống, ly dị vì sự căng thẳng do ông thường xuyên vắng nhà, dành quá nhiều thời gian cho công cuộc cách mạng, và một phần do bà là tín đồ Chứng nhân Jehovah, một tôn giáo đòi hỏi một sự trung lập về chính trị.[96] Evelyn Mase chết năm 2004.[97] Hai người có với nhau hai con trai, Madiba Thembekile (Thembi) (1946–1969) và Makgatho Mandela (1950–2005), và hai con gái, cả hai đều có tên Makaziwe Mandela (được biết đến với tên Maki; sinh 1947 và 1953). Đứa con gái đầu chết lúc 9 tháng tuổi, và họ đặt tên đứa con gái thứ hai theo tên cô con gái đầu lòng.[98] Các con của họ đều đi học Trường Thế giới Thống nhất ở Waterford Kamhlaba.[99] Thembi chết trong tai nạn xe hơi năm 1969 ở tuổi 25, khi Mandela đang bị giam giữ tại Đảo Robben, và Mandela không được phép tham dự lễ tang.[100] Makgatho chết vì bệnh AIDS năm 2005, khi 54 tuổi.[101]
Cuộc hôn nhân thứ hai
Người vợ thứ hai của Mandela, Winnie Madikizela-Mandela, cũng xuất thân từ vùng Transkei, mặc dù hai người cũng gặp nhau tại Johannesburg, nơi bà là công chức da đen đầu tiên của thành phố.[102] Họ có hai con gái, Zenani (Zeni), sinh ngày 4 tháng 2 năm 1958 và Zindziswa (Zindzi) Mandela-Hlongwane, sinh năm 1960.[102] Zindzi chỉ mới 18 tháng tuổi khi cha cô bị giam tại nhà tù Đảo Robben. Sau này, Winnie phải chịu mối bất hòa trong gia đình, phản ảnh cuộc xung đột chính trị của đất nước; khi chồng bà đang chịu án chung thân ở Đảo Robben, còn cha bà lại làm bộ trưởng nông nghiệp ở Transkei.[102] Cuộc hôn nhân kết thúc bằng một cuộc ly thân rồi ly dị, được kích thêm từ mối bất hòa về chính trị.[103]
Mandela vẫn mòn mỏi trong tù khi con gái ông Zenani kết hôn với Hoàng thân Thumbumuzi Dlamini năm 1973, anh trai của Vua Mswati III của Swaziland.[104] Mặc dù bà có ấn tượng sâu sắc về cha mình, nhà chức trách Nam Phi không cho phép bà thăm ông từ khi bà 4 tuổi cho đến lúc bà 16 tuổi.[105] Hai vợ chồng Dlamini sinh sống và kinh doanh tại Boston.[106] Một trong hai đứa con trai của họ, Hoàng tử Cedza Dlamini (sinh năm 1976), được giáo dục tại Hoa Kỳ, đã đi theo bước chân của ông ngoại làm một người ủng hộ cho quyền con người và trợ giúp nhân đạo.[106]
Zindzi Mandela-Hlongwane đã làm nên lịch sử trên toàn thế giới khi bà đọc bài diễn văn của Mandela từ chối lời đề nghị tha bổng có điều kiện vào năm 1985. Bà là nữ doanh nhân tại Nam Phi với ba con, đứa đầu lòng là con trai, Zondwa Gadaffi Mandela.[107]
Cuộc hôn nhân thứ ba
Mandela đã tái giá vào sinh nhật lần thứ 80 của ông năm 1998, với Graça Machel nhũ danh Simbine, góa phụ của Samora Machel, cựu tổng thống Mozambique và là đồng minh của ANC bị chết trong vụ rơi máy bay 12 năm trước đó.[108] Cuộc hôn nhân là kết quả của hàng tháng trời thương thảo ở cấp quốc tế để đặt ra đồ sính lễ chưa từng có trong lịch sử để được rút khỏi bộ tộc của Machel. Một thỏa thuận miệng đã được thực hiện bởi nhà vua truyền thống đại diện cho Mandela, Vua Buyelekhaya Zwelibanzi Dalindyebo.[109] Ông nội của thủ lĩnh tối cao là quan nhiếp chính Jongintaba Dalindyebo, người đã sắp xếp cuộc hôn nhân cho Mandela, đã lảng tránh bằng cách trốn sang Johannesburg vào năm 1940.[15]
Mandela hiện vẫn còn ngôi nhà tại Qunu do đứa cháu trai nối dõi của ông quản lý, hiện ông vẫn trả tiền học phí và giữ quyền ủy viên hội đồng.[110]
Nghỉ hưu
Mandela là Tổng thống đắc cử lớn tuổi nhất của Nam Phi khi ông nhậm chức ở tuổi 75 vào năm 1994. Ông đã quyết định không cầm quyền nhiệm kỳ thứ hai và nghỉ hưu vào năm 1999, người kế nhiệm ông là Thabo Mbeki.
Sau khi rời ghế Tổng thống, Mandela tiếp tục đóng vai trò tích cực trong nhiều tổ chức xã hội và vì quyền con người. Ông biểu lộ sự ủng hộ phong trào Make Poverty History (Biến đói nghèo thành dĩ vãng) mà trong đó Chiến dịch ONE là một bộ phận.[111] Giải golf gây quỹ Khách mời Nelson Mandela, do Gary Player chủ trì, đã thu được hơn 20 triệu rand cho các quỹ vì trẻ em từ lúc bắt đầu năm 2000.[112]
Mandela cũng là người ủng hộ cho Làng trẻ em SOS, tổ chức chuyên quyên tiền giúp đỡ trẻ em mồ côi và bị bỏ rơi lớn nhất thế giới.[113] Mandela cũng xuất hiện trong một đoạn quảng cáo cho Thế vận hội mùa đông 2006, và đã được trích dẫn trong chiến dịch Chúc mừng nhân loại của Ủy ban Olympic Quốc tế:[114]
For seventeen days, they are roommates. For seventeen days, they are soulmates. And for twenty-two seconds, they are competitors. Seventeen days as equals. Twenty-two seconds as adversaries. What a wonderful world that would be. That’s the hope I see in the Olympic Games.
Tạm dịch:
Trong mười bảy ngày, chúng ta là bạn hữu. Trong mười bảy ngày, chúng ta là tâm giao. Và trong mười hai giây, chúng ta là đối thủ. Mười bảy ngày bình đẳng. Mười hai giây đối địch. Thế giới như thế mới tuyệt vời làm sao. Đó là niềm hy vọng mà tôi thấy được trong Thế vận hội.
Sức khỏe
Tháng 7 năm 2001 Mandela được chẩn đoán bệnh ung thư tuyến tiền liệt và tiến hành chữa trị. Ông được xạ trị trong 7 tuần.[115] Năm 2003, Mandela bị CNN thông báo nhầm là đã chết khi bản cáo phó viết sẵn của ông (cùng với vài yếu nhân khác) do sơ suất đã hiển thị trên website của CNN vì lỗi bảo vệ mật khẩu.[116] Vào năm 2007, một nhóm cánh tả không chính thống đã phổ biến email và tin nhắn SMS giả mạo nói rằng nhà chức trách đang giấu giếm cái chết của Mandela và những người Nam Phi da trắng sẽ bị tàn sát sau tang lễ của ông. Mandela lúc đó đang đi nghỉ tại Mozambique.[117]
Tháng 6 năm 2004, ở tuổi 85, Mandela thông báo rằng ông sẽ không tham gia các hoạt động công cộng nữa. Sức khỏe của ông dần giảm sút, và ông muốn có nhiều thời gian hơn với gia đình. Mandela nói rằng không định cách ly hoàn toàn khỏi công chúng, nhưng muốn mình ở vị thế “sẽ gọi cho các bạn để hỏi xem tôi có được chào đón hay không, chứ không phải được mời làm các thứ và tham dự các sự kiện nữa. Lời thỉnh cầu của tôi là: Đừng gọi cho tôi, tôi sẽ gọi cho các bạn.”[118] Từ năm 2003, ông ít xuất hiện trước công chúng hơn và ít phát ngôn trước các vấn đề.[119] Tóc ông bạc trắng và ông di chuyển chậm chạp với sự hỗ trợ của gậy. Cũng có báo cáo là ông đang bị chứng mất trí nhớ của người già.[120]
Sinh nhật lần thứ 90 của Mandela đã được tổ chức ở nhiều nơi khắp đất nước ngày 18 tháng 7 năm 2008, lễ mừng chính được tổ chức tại quê nhà Qunu của ông.[121] Một buổi hòa nhạc vinh danh ông cũng được tổ chức tại Hyde Park, Luân Đôn.[122] Trong buổi diễn văn kỷ niệm sinh nhật của mình, Mandela kêu gọi những người giàu hãy giúp đỡ người nghèo trên khắp thế giới.[121] Mặc dù vẫn ít xuất hiện trong suốt kỳ World Cup 2010 tại Nam Phi, Mandela cũng xuất hiện tại buổi bế mạc, tại đó ông đã được “chào đón nhiệt liệt”.[123]
The Elders
Ngày 18 tháng 7 năm 2007, Nelson Mandela, Graça Machel, và Desmond Tutu tụ họp một nhóm các nhà lãnh đạo thế giới tại Johannesburg để đóng góp sự hiểu biết và khả năng lãnh đạo độc lập để giải quyết các vấn đề khó khăn nhất trên thế giới. Nelson Mandela thông báo lập nên một nhóm mới, The Elders, trong một bài diễn văn nhân sinh nhật lần thứ 89 của mình.[124]
“Nhóm này có tiếng nói tự do và khẳng khái, hoạt động công khai lẫn hậu trường về bất cứ hành động nào cần thực hiện”, Mandela nói. “Cùng với nhau chúng tôi sẽ hoạt động để ủng hộ lòng can đảm tại nơi có sợ hãi, nuôi dưỡng thỏa thuận tại nơi có tranh chấp, và truyền hy vọng tại nơi tuyệt vọng.”[126]
Chống AIDS
Sau khi về hưu, một trong những sự quan tâm chính của Mandela là đấu tranh chống lại bệnh dịch AIDS. Ông đã có bài phát biểu bế mạc Hội nghị về AIDS Quốc tế lần thứ XIII năm 2000, tại Durban, Nam Phi.[127] Vào năm 2003, ông hỗ trợ bằng cách cho phép chiến dịch gây quỹ chống AIDS 46664 sử dụng số hiệu tù nhân của ông.[128] Tháng 7 năm 2004, ông bay tới Bangkok để phát biểu tại Hội nghị về AIDS Quốc tế lần thứ XV.[129] Con trai ông, Makgatho Mandela, chết vì bệnh AIDS vào ngày 6 tháng 1 năm 2005.[130]
Phê phán chính sách ngoại giao của Mỹ và Anh
Nelson Mandela phản đối mạnh mẽ vụ can thiệp của NATO tại Kosovo năm 1999 và gọi đó là nỗ lực của các cường quốc nhằm kiểm soát thế giới.[131] Năm 2002 và 2003, Mandela chỉ trích chính sách ngoại giao của chính quyền Tổng thống Mỹ George W. Bush trong nhiều bài phát biểu.[132][133] Phê phán về việc thiếu sự tham gia của Liên Hiệp Quốc trong quyết định bắt đầu Chiến tranh Iraq, ông nói, “Đó là một bi kịch, những gì đang xảy ra, những gì Bush đang làm. Nhưng Bush giờ đây đang làm xói mòn Liên Hiệp Quốc.” Mandela cho rằng ông chỉ ủng hộ hành động chống lại Iraq nếu đó là do Liên Hiệp Quốc ra lệnh. Mandela cũng nói bóng gió đến việc Liên Hiệp Quốc có lẽ đã bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt chủng tộc vì đã không tuân theo ý kiến của Liên Hiệp Quốc và tổng thư ký Kofi Annan về vấn đề chiến tranh. “Có phải vì tổng thư ký Liên Hiệp Quốc hiện tại là một người da đen hay không? Họ không bao giờ làm vậy khi tổng thư ký là người da trắng”.[134]
Ông kêu gọi nhân dân Mỹ tham gia vào các cuộc biểu tình lớn chống lại Bush và kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới, đặc biệt là những nước có quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, phản đối Bush.[135] “Điều tôi lên án ở đây là chỉ một cường quốc, với một vị tổng thống không có óc chiến lược, người không thể nghĩ cho đúng đắn, giờ đang muốn đẩy thế giới vào một cuộc tàn sát.” Ông tấn công Hoa Kỳ vì các thành tích xấu về nhân quyền và đã thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới II. “Nếu có một quốc gia có hành động tàn ác đến mức không thể diễn tả được bằng lời, đó là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Họ bất cần.”[134] Nelson Mandela cũng chê trách nặng nề Thủ tướng Anh Tony Blair và gọi ông là “ngoại trưởng của Mỹ.”[136]
Tranh chấp với Ismail Ayob
Ismail Ayob từng là một người bạn tin cậy và là luật sư riêng của Mandela trong hơn 30 năm. Vào tháng 5 năm 2005, Ayob được Mandela yêu cầu dừng bán các ấn phẩm có chữ ký của Mandela và tính toán lại lợi nhuận thu được từ việc bán chúng. Tranh chấp này đã khiến Mandela đệ đơn lên Tòa án Tối cao Nam Phi vào năm đó.[137] Ayob cho rằng mình không làm điều gì sai trái,[138] và nói rằng ông là nạn nhân của một chiến dịch bôi nhọ do các cố vấn của Mandela, mà cụ thể là luật sư George Bizos, dựng lên.[139]
Vào năm 2005 và 2006, Ayob và vợ con của ông trở thành đối tượng chỉ trích của các cố vấn của Mandela. Vụ tranh chấp này được truyền thông rộng rãi, với Ayob được mô tả ở vị thế phản diện, cao điểm là khi Mandela đệ đơn lên Tòa án Tối cao. Đã có những cuộc họp công khai trong đó những người thân cận của Mandela chỉ trích Ayob và công chúng còn kêu gọi tẩy chay Ayob và gia đình ông.[140] Lời biện hộ của Ismail và Zamila Ayob (vợ ông, và cũng là bị cáo liên quan) đưa ra các văn bản do Mandela ký và được các thư ký của ông làm chứng, từ đó bác bỏ nhiều lý lẽ của Nelson Mandela và các cố vấn.[141]
Tranh chấp này một lần nữa lại xuất hiện trên mặt báo vào tháng 2 năm 2007 khi trong một phiên tòa tại Tòa án Tối cao Johannesburg, Ayob hứa sẽ trả 700.000 rand cho Mandela, chuyển qua các quỹ vì trẻ em của Mandela, và gửi lời xin lỗi,[142][143] mặc dù sau đó ông cho rằng ông là nạn nhân của “Sự trả thù” từ Mandela.[144] Một số nhà bình luận bày tỏ sự cảm thông cho vị thế của Ayob, nói rằng vị trí biểu tượng của Mandela khiến cho Ayob khó mà được đối xử một cách công bằng.[139]
Lý lẽ
Ayob, George Bizos và Wim Trengove là những người được ủy thác của Quỹ Ủy thác Nelson Mandela, được thành lập để cất giữ hàng triệu rand do các nhân vật kinh doanh nổi tiếng, trong đó có gia đình Oppenheimer, tặng cho Nelson Mandela vì lợi ích của con và cháu của ông.[145] Ayob sau này rút lui của Quỹ ủy thác. Vào năm 2006, hai người được ủy thác còn lại của Nelson Mandela Trust đã tố cáo Ayob đã chi tiêu tiền từ quỹ ủy thác mà không báo cho họ biết.[146] Ayob tuyên bố rằng số tiền này là để trả cho Dịch vụ Doanh thu Nam Phi, cho con và cháu của Mandela, cho chính Mandela, và trả cho bốn năm làm việc của công ty kế toán.[143]
Bizos và Trengrove từ chối thông qua việc chi trả cho con cháu của Nelson Mandela và tiền trả cho công ty kế toán. Phiên tòa đã thỏa thuận rằng Ismail Ayob phải trả số tiền này, tổng cộng hơn 700.000 rand, cho quỹ ủy thác vì lẽ Ayob đã chưa được sự đồng ý của hai ủy thác viên khác trước khi dùng tiền.[147] Người ta cũng khẳng định là Ayob đã có những nhận xét phỉ báng Mandela trong bản khai, vì thế tòa cũng yêu cầu Ayob xin lỗi.[148] Người ta đã cho thấy các nhận xét này, tập trung vào các tài khoản ở nước ngoài của Nelson Mandela và việc không trả thuế cho các tài khoản này, không xuất phát từ lời khai của Ayob mà là từ chính lời khai của Nelson Mandela và George Bizos.[149]
Tranh cãi về Kim cương máu
Trong một bài viết trong báo The New Republic tháng 12 năm 2006, Nelson Mandela bị chỉ trích vì một số lời nhận xét tốt đẹp về ngành công nghiệp kim cương. Người ta lo ngại là điều này sẽ làm lợi cho những nhà cung cấp kim cương máu.[150] Trong bức thư gửi tới Edward Zwick, đạo diễn của bộ phim Kim cương máu, Mandela nói rằng:
…sẽ cực kỳ đáng tiếc nếu bộ phim này vô tình sai sự thật, và kết quả là, khiến cho thế giới tin rằng cần phải có hành động thích hợp để ngưng việc mua kim cương được khai thác từ châu Phi…. Chúng tôi hy vọng rằng khát khao được kể một câu chuyện lịch sử về câu chuyện có thật hấp dẫn và quan trọng sẽ không dẫn đến sự mất ổn định tại các quốc gia sản xuất kim cương ở châu Phi, và cuối cùng là nhân dân các nước đó.[151]
Bài báo trên New Republic nói rằng lời bình luận này, cũng như các sáng kiến và phát biểu trong cuộc đời ông và trong thời gian làm tổng thống Nam Phi, bị ảnh hưởng từ cả tình bạn với Harry Oppenheimer, cựu chủ tịch De Beers, lẫn từ quan điểm ‘quyền lợi quốc gia hẹp hòi’ của Nam Phi (là nhà sản xuất kim cương chính).[152]
Zimbabwe và Robert Mugabe
Robert Mugabe, tổng thống Zimbabwe, người đã lãnh đạo đất nước này từ khi độc lập năm 1980, đã nhận được nhiều lời chỉ trích trên thế giới vì trận đánh giết chết khoảng 3000 người vào thập niên 1980 cũng như tham nhũng, quản lý yếu kém, đàn áp chính trị và theo gia đình trị dẫn đến nền kinh tế nước này sụp đổ.[153][154]
Mặc dù cùng xuất thân là những nhà hoạt động vì tự do quốc gia, Mandela và Mugabe ít khi được xem là gần gũi. Mandela chỉ trích Mugabe vào năm 2000, nhắc tới những nhà lãnh đạo châu Phi đã giải phóng đất nước họ nhưng khư khư giữ ghế quá lâu.[155][156] Khi về hưu, Mandela ít nhắc đến Zimbabwe và các vấn đề đối nội đối ngoại hơn,[119] đôi khi đưa đến chỉ trích là không biết sử dụng ảnh hưởng của mình để khuyến khích giảm bớt chính sách của mình.[157] Luật sư của ông George Bizos tiết lộ rằng Mandela đã được khuyên để giữ gìn sức khỏe ông phải tránh tham gia vào các hoạt động nhiều áp lực như các tranh cãi về chính trị.[158] Tuy nhiên, vào năm 2007, Mandela đã nỗ lực thuyết phục Mugabe rời chức “sớm hơn”, với “chút ít chân giá trị còn lại”, trước khi ông bị săn đuổi như Augusto Pinochet. Mugabe không phản ứng gì trước lời phát biểu này.[159] Vào tháng 6 năm 2008, ở cao trào khủng hoảng trong cuộc bầu cử tổng thống Zimbabwe, Mandela lên án “sự thất bại thảm hại của quyền lãnh đạo” tại Zimbabwe.[160]
Tôn vinh
Chiến sĩ giải phóng Nam Phi Nelson Mandela trên con tem kỷ niệm của Liên Xô năm 1988
Theo một bài viết trên tạp chí Newsweek, “Mandela đã có được một vị trí bất khả xâm phạm khi nhắc đến Nam Phi. Ông là nhà giải phóng dân tộc, vị cứu tinh, là Washington và Lincoln hòa lại làm một”.[161]
Tháng 11 năm 2009, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông báo ngày sinh của Mandela, 18 tháng 7, sẽ được gọi là “Ngày Mandela” để ghi nhớ sự đóng góp của ông vào nền tự do của thế giới.[162]
Ông cũng thường nhận được sự tán dương khi đi ra nước ngoài. Trong chuyến thăm Canada năm 1998, 45.000 học sinh đã chào đón ông khi ông có bài phát biểu tại SkyDome, Toronto.[167] Vào năm 2001, ông là người còn sống đầu tiên trở thành Công dân danh dự của Canada (người nhận danh hiệu duy nhất trước đó là Raoul Wallenberg sau khi đã mất).[168] Khi còn ở Canada, ông cũng nhận Huân chương Canada, là một trong số ít người nước ngoài nhận được huân chương này.[169]
Năm 1988, một buổi hòa nhạc Kỷ niệm ngày sinh lần thứ 70 của Mandela đã diễn ra tại Sân vận động Wembley ở Luân Đôn là trung tâm của phong trào chống chủ nghĩa apartheid, tại đó nhiều ca sĩ đã góp tiếng nói ủng hộ Mandela.[175]Jerry Dammers, tác giả của bài hát Nelson Mandela, là một thành viên trong ban tổ chức.[175]Simple Minds đã thu âm bài hát “Mandela Day” dành cho buổi hòa nhạc,[175]Santana đã thu âm bản giao hưởng “Mandela”,[175]Tracy Chapman trình diễn bài “Freedom Now”, dành tặng cho Mandela và phát hành album Crossroads,[175]Salif Keita đến từ Mali, có chơi ở buổi hòa nhạc, sau này có đến thăm Nam Phi và năm 1995 thu âm bài hát “Mandela” trong album Folon.[175]
Tại Nam Phi, “Asimbonanga (Mandela)” (“Chúng tôi chưa thấy ông”) trở thành một trong những bài hát nổi tiếng nhất của Johnny Clegg, xuất hiện trong album Third World Child năm 1987.[176]Hugh Masekela, khi đó đang lưu vong ở Anh, đã hát bài “Bring Him Back Home (Nelson Mandela)” vào năm 1987.[177] Bài hát “Black President” vào năm 1989 của Brenda Fassie, cũng dành tặng Mandela, trở nên cực kỳ nổi tiếng dù nó bị cấm tại Nam Phi.[178] Nhạc sĩ nhạc reggae người Nigeria Majek Fashek đã phát hành đĩa đơn, “Free Mandela” vào năm 1992, đưa ông thành một trong nhiều nghệ sĩ Nigeria phát hành bài hát liên quan đến phong trào chống chủ nghĩa apartheid và đến Mandela.
Vào năm 1990, ban nhạc rock ở Hồng Kông Beyond đã ra mắt bài hát tiếng Quảng Đông nổi tiếng, “Days of Glory”. Bài hát với chủ đề chống chủ nghĩa apartheid đã nhắc đến cuộc đấu tranh anh hùng của Mandela vì sự công bằng sắc tộc.[179] Nhóm Ladysmith Black Mambazo đã đi cùng với Mandela tới buổi trao Giải Nobel Hòa bình tại Oslo, Na Uy vào năm 1993, và trình diễn trong buổi nhậm chức năm 1994. Vào năm 2003, Mandela đồng ý đưa tên tuổi của ông vào chiến dịch 46664 chống lại căn bệnh AIDS, đặt theo số tù của ông. Nhiều nhạc sĩ nổi tiếng đã trình diễn trong các buổi hòa nhạc.[180]
Sơ lược tiểu sử của Mandela đã được chiếu trong bản video nhạc “If Everyone Cared” của Nickelback vào năm 2006.[181] Bài hát “Turn This World Around” của Raffi dựa trên bài diễn văn của Mandela khi ông giải thích thế giới cần phải “xoay vòng, vì những đứa trẻ”.[182] Một buổi hòa nhạc kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Mandela đã diễn ra tại Hyde Park, Luân Đôn ngày 27 tháng 6 năm 2008.[183]
Sách tiểu sử đã xuất bản
Tự truyện của Mandela, Long Walk to Freedom, được xuất bản vào năm 1994. Mandela đã bắt đầu viết cuốn sách này một cách bí mật khi ở trong tù.[184] Trong quyển sách này Mandela không tiết lộ điều gì về sự đồng lõa của F. W. de Klerk trong những vụ bạo lực xảy ra vào thập niên 80 và 90, hay vai trò của bà vợ cũ Winnie Mandela trong những vụ tắm máu đó. Tuy nhiên, ông sau này có cộng tác cùng với bạn ông, nhà báo Anthony Sampson bàn luận về các vấn đề này trong Mandela: The Authorised Biography.[185] Một chi tiết khác mà Mandela đã bỏ qua là cuốn sách có phần giả mạo Goodbye Bafana.[186] Tác giả của nó, cai ngục James Gregory trên đảo Robben, nhận mình là bạn tâm tình của Mandela trong tù và đã xuất bản những chi tiết về những vụ yêu đương trong gia đình của người tù.[186] Sampson luôn nói rằng Mandela không biết rõ Gregory lắm, nhưng có thể Gregory đã kiểm duyệt những bức thư gửi cho Mandela nên khám phá ra những chi tiết về đời tư của Mandela. Sampson cũng quả quyết rằng các cai ngục khác nghi ngờ Gregory là mật thám của chính phủ và Mandela đang xem xét việc kiện Gregory.[187]
Điện ảnh và truyền hình
Bộ phim Mandela and De Klerk kể lại câu chuyện phóng thích Mandela.[188] Mandela do Sidney Poitier đóng vai. Goodbye Bafana, một bộ phim phóng sự nói về cuộc đời của Mandela, ra mắt tại liên hoan phim Berlin ngày 11 tháng 2 năm 2007. Bộ phim có diễn viên Dennis Haysbert đóng vai Mandela và diễn tả tình bạn trong tù giữa Mandela và James Gregory.[189]
Trong loạt chương trình truyền hình Mỹ The Cosby Show cháu nội của Cliff và Claire Huxtable được đặt theo tên của Nelson và Winnie để tôn vinh Mandela và bà vợ khi đó của ông Winnie.
Trong cảnh cuối năm 1992 bộ phim Malcolm X, Mandela – vừa được phóng thích sau 27 năm ở tù – đóng vai thầy giáo trong một lớp học Soweto.[190] Ông nhắc lại một phần bài diễn văn nổi tiếng nhất của Malcolm X, trong đó có câu: “Chúng ta sinh ra trên Trái Đất với quyền làm người, phải được tôn trọng như một con người, được trao những quyền của một con người trong xã hội này, trên Trái Đất này, vào ngày này, điều chúng ta muốn đưa thành hiện thực…” Đoạn cuối nổi tiếng của câu đó là “bằng bất cứ giá nào.”[191] Mandela đã thông báo với đạo diễn Spike Lee rằng ông không thể đọc câu này trước máy quay vì sợ chính quyền apartheid sẽ dùng nó chống lại ông. Lee đã rất biết ơn, và những giây cuối cùng của bộ phim là đoạn phim trắng đen của chính Malcolm X đọc câu này.[191]
Vào ngày 30 tháng 4 năm 2001, Khu vườn Nelson Mandela ở Quảng trường Thiên niên kỷ, Leeds đã chính thức khai trương và Nelson Mandela được tặng giải sự tự do của thành phố và được tặng một ‘con cú vàng’ (biểu tượng của Leeds) làm kỷ niệm. Trong bài phát biểu bên ngoài Đại sảnh Leeds trước 5000 người, Mandela đã cảm ơn nhầm ‘nhân dân Liverpool vì sự hào phóng của các bạn’.[195]
Vào ngày 31 tháng 3 năm 2004, Quảng trường Sandton ở Johannesburg được đổi tên thành Quảng trường Nelson Mandela, sau khi người ta dựng bức tượng Nelson Mandela cao 6 mét ở quảng trường để vinh danh nguyên thủ Nam Phi của mình.[196]
Vào ngày 29 tháng 8 năm 2007, một bức tượng Nelson Mandela được khánh thành tại Quảng trường Nghị viện ở Luân Đôn bởi Richard Attenborough, Ken Livingstone, Wendy Woods, và Gordon Brown.[197] Chiến dịch dựng tượng bắt đầu vào năm 2000 bởi Donald Woods, một nhà báo Nam Phi lưu vong vì tham gia phong trào chống chủ nghĩa apartheid. Mandela nói rằng nó đại diện cho không chỉ ông, mà còn cho những ai đang chống lại áp bức, đặc biệt tại Nam Phi.[198] Ông nói thêm: “Lịch sử đấu tranh tại Nam Phi đầy những câu chuyện về các nam nữ anh hùng, một số họ là nhà lãnh đạo, một số là người ủng hộ. Tất cả họ đều xứng đáng được ghi nhớ.”[199]
Vào ngày 27 tháng 8 năm 2008, một bức tượng của Nelson Mandela được khánh thành tại Trại cải tạo Drakenstein Groot giữa Paarl và Franshhoek trên đường R301, gần Cape Town. Trước đây có tên Victor Verster, đây là nơi Mandela trải qua những năm cuối cùng trong thời gian 27 năm ở tù, khi ông và các đồng chí ở ANC đã thương thảo với chính quyền apartheid về những điều khoản để ông được tự do và bản chất của nước Nam Phi mới. Bức tượng được đặt ngay nơi Mandela bước bước đi đầu tiên với tư thế một người tự do. Ngay bên ngoài cổng tù – đỉnh điểm của Long Walk to Freedom – tên tự truyện của Mandela.[200][201]
“Thể thao là phương tiện hữu hiệu có khả năng làm thay đổi cục diện thế giới, là công cụ hữu ích cho tương quan thân hữu và nền hòa bình của thế giới…” [3]
^Mandela 1996, p. 9. “Không ai trong gia đình tôi đi học cả […] Trong ngày nhập học, cô giáo của tôi, cô Mdingane, đặt cho mỗi đứa một cái tên tiếng Anh. Hồi đó đây là thông lệ của người châu Phi và rõ ràng nó thể hiện xu hướng thiên về tiếng Anh trong nền giáo dục mà chúng tôi thụ hưởng. Hôm đó, cô Mdingane bảo với tôi tên mới của tôi sẽ là Nelson. Tại sao cô lại đặt cho tôi tên này, tôi cũng không biết nữa.”
^Leeman, Bernard (1996). Trong Alexander, Peter; Hutchison, Ruth; Schreuder, Deryck. The PAC of Azania in Africa Today. The Humanities Research Centre, The Australian National University Canberra: The Australian National University Canberra. ISBN07315 24918.
^“Umkhonto is Born”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
^ aăâWhittaker, David J. (2003). The Terrorism Reader . Routledge. tr. 244. ISBN0415301017.
^Hallengren, Anders (ngày 11 tháng 9 năm 2001). “Nelson Mandela and the Rainbow of Culture”. Nobelprize.org. The Nobel Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
^Bingham, John (ngày 6 tháng 5 năm 2008). “Hyde Park concert to mark Mandela’s 90th”. The Independent. London: Independent Print Limited. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
[[David Aikman|Aikman, David]] (2003). Great Souls: Six Who Changed a Century. Lexington Books. ISBN0739104381.
Mandela, Nelson (1996). The Illustrated Long Walk to Freedom. Paul Duncan (abridgement and picture editing). Boston: Little, Brown and Company. ISBN0316880205.
Friedrich Engels (thường được phiên âm tiếng Việt là Phriđrich Ăngghen,[1] sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 mất ngày 5 tháng 8 năm 1895) nhà lí luận chính trị, là một triết gia và nhà khoa học người Đứcthế kỷ 19, người cùng với Karl Marx đã sáng lập và phát triển chủ nghĩa cộng sản và là lãnh tụ của phong trào công nhân thế giới và Quốc tế I.[2] Ông cùng với Karl Marx và là đồng tác giả của bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848). Engels cũng biên tập và xuất bản quyển II và quyển III của bộ Tư bản sau khi Karl Marx mất.
Ngoài những công trình chung với Marx, ông còn viết nhiều tác phẩm khoa học có giá trị như: “Nguồn gốc của gia đình, sở hữu tư nhân và nhà nước”, “Về lịch sử người German cổ đại”, “Chống Duhring”, “Biện chứng của tự nhiên”, v.v… Ngoài ra, cuốn “Tác dụng của lao động chuyển hoá vượn thành người” cũng là một công trình khoa học tuyệt vời góp phần giải thích nguồn gốc hình thành và phát triển của loài người.
Friedrich Engels sinh ở Barmen, tỉnh Rhine của Vương quốc Phổ (hiện nay là một phần của Wuppertal, nước Đức). Ông là con trai trưởng của một nhà sản xuất sợi dệt giàu có người Đức.[3] Cha ông là một chủ tư bảnlớn, rất sùng đạo, tháo vát về kinh doanh, giao du rộng, nhưng về chính kiến thì rất bảo thủ. Mẹ ông là một trí thức kinh tế, nhạy cảm, đôn hậu, hoạt bát, thích hài hước và yêu văn học nghệ thuật. Ông ngoại của Engels là một giáo sư đại học về ngôn ngữ học, thường kể cho cháu ngoại mình nghe chuyện về các anh hùng trong các thần thoại Hy Lạp cổ đại và trong các truyền thuyết dân gian Đức.
Lúc Friedrich Engels vừa chào đời, mẹ không hứng thú gì với việc cha ông đã đặt tên cho ông là Friedrich, theo tên của vua Friedrich II Đại đế nước Phổ. Khác với cha ông, mẹ của Engels muốn lấy tên Johann Wolfgang Von Goethe – một đại thi hào và nhà thông thái người Đức để đặt cho con trai.[1] Ngay từ khi còn bé, Engels đã bộc lộ tính cách độc lập, sống trong một gia đình tư bản giàu có, những lời dạy bảo nghiêm khắc của cha và những sự đe doạ trừng phạt không thể làm cho ông đi đến chỗ phải phục tùng mù quáng. Đến năm 14 tuổi, Engels học ở trường tại thành phố Barmen. Học ở bậc trung học, ông luôn suy nghĩ, nêu nghi vấn rồi tự tìm đọc thêm để tự giải đáp cho mình. Ông có một châm ngôn là “Tôi nghi ngờ những gì mà tôi chưa rõ”.
Vào tháng 10 năm 1834, Engels được cho đi học ở trường trung họcElberfelder, một trường tốt nhất ở Phổ thời bấy giờ.[5] Khi còn là học sinh trung học, Engels đã căm ghét sự chuyên chế và độc đoán của giới quan lại, ông kiên trì tự học, nuôi ý chí làm khoa học và hoạt động cải biến xã hội bằng cách mạng.[6]
Vào năm 1838, theo yêu cầu của bố, ông phải dời trường trung học khi chưa tốt nghiệp và được gửi đến làm việc với vai trò một thư ký không công ở văn phòng thương mại tại thành phố cảng Bremen năm 1838.[7][8] Trong thời gian này ông tự học các ngành sử học, triết học, văn học, ngôn ngữ và thơ ca, cũng trong thời gian này, Engels bắt đầu tiếp cận các tác phẩm triết học của Georg Wilhelm Friedrich Hegel, một triết gia đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền triết học Đức thời gian đó. Ông say mê nghiêm cứu về bộ môn này.
Tháng 9 năm 1838, ông đã xuất bản tác phẩm đầu tiên có tựa đề The Bedouin, trong Bremisches Conversationsblatt Số 40. Ông cũng bận rộn với lĩnh vực văn chương khác và các tác phẩm báo chí.[9][10] Cũng trong thời gian này, Engels cũng đã có tác phẩm về báo chí đầu tiên của mình trong bài báo có tựa đề “Những bức thư từ Vesphalia” công bố vào tháng 3 năm 1839.[11] Trong tác phẩm này, ông đã phê phán những chủ xưởng sùng đạo, đồng thời thể hiện rõ thiện cảm đối với công nhân. Bài báo đầu tiên này đã thể hiện tinh thần dân chủ cách mạng và vô thần của ông.[6]
Tháng 9 năm 1841, Engels đến Berlin gia nhập Quân độiPhổ theo diện nghĩa vụ quân sự, được biên chế vào binh đoàn Pháo binh Ngự lâm, ở đây ông được huấn luyện quân sự mà trong những năm sau, ông rất cần đến nó. Nhờ địa vị này ông đã có điều kiện để lui tới Berlin nơi ông tham gia theo dõi các bài giảng trong trường đại học, tham gia hội thảo về lịch sử tôn giáo. Vào thời điểm này, ông bắt đầu tham gia vào nhóm Hegel trẻ[12] Cuối năm này, Engels đã được tiếp cận tác phẩm Bản chất đạo Cơ Đốc của Fuerbac, tác phẩm nổi tiếng này đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến thế giới quan của ông.[6]
Mùa xuân 1842, Engels bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh) và xuất bản một vài bài trên Nhật báo sông Rhein.[8] Trong những bài báo in năm 1842, trên tờ báo Engels đã lên tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ Vương quốc Phổ, trật tự phong kiến ở Đức.
Ngày 8 tháng 10 năm 1842, Engels mãn hạn phục vụ trong quân đội, từ Berlin ông trở về Barmen. Một tháng sau vào tháng 11 năm 1842, ở tuổi 22, Engels đã được gửi đến Manchester, Anh để làm việc cho một công ty dệt Ermen and Engels, nơi cha của ông là một cổ đông để thực tập buôn bán.[13][14] Trên đường sang Anh, Engels đã ghé thăm trụ sở tờ báo Rheinische Zeitung ở Kioln và tại đây, ông đã lần đầu tiên gặp Marx, Tổng biên tập tờ báo này.[5] Từ đó họ trao đổi thư từ với nhau,[15] tình bạn giữa hai người được bắt đầu và ngày càng thắm thiết. Sợi dây thắt chặt tình bạn của họ là cùng chung mục đích, lý tưởng vì sự nghiệp giải phóng con người. Họ đã sát cánh bên nhau viết nên những công trình khoa học và lãnh đạo phong trào công nhân đấu tranh nhằm xoá bỏ Chủ nghĩa tư bản, xây dựng Chủ nghĩa cộng sản.[16]
Nhìn chung, trong thời gian này, những tác phẩm của Engels chủ yếu tập trung vào phê phán quan điểm của Sherling, một giáo sư và là triết học Đức trong thời kỳ này. Ông vẫn đứng trên lập trường duy tâm của triết họcGeorg Wilhelm Friedrich Hegel. Ví dụ: Ông cho rằng, cái gọi là lợi ích vật chất không bao giờ có thể xuất hiện trong lịch sử với tính cách là những mục đích độc lập, chủ đạo, những bao giờ cũng phục vụ một cách tự giác hoặc không tự giác cho cái nguyên tắc đang dẫn đường cho tiến bộ của lịch sử. Nhưng ông bắt đầu cảm thấy sự mâu thuẫn giữa tính cách mạng và bảo thủ trong triết học của Hegel, đồng thời cũng thấy tính triệt để hơn của triết học theo trường phái của Ludwig Andreas Feuerbach so với trường phái triết học của Hegel.[6]
Trong thời gian hai năm sống ở Manchester từ mùa thu năm 1842, việc nghiên cứu đời sống kinh tế và sự phát triển của chính trị nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia phong trào công nhân mới dẫn đến việc chuyển biến căn bản trong thế giới quan và lập trường quan điểm chính trị của ông từ một người duy tâm về triết học và là những nhà dân chủ cách mạng về quan điểm chính trị để dần trở thành một người theo chủ nghĩa duy vật biện chứng và là một người cộng sản. Ông đã đi thăm những nơi công nhân sống chen chúc trong cảnh nghèo nàn, bẩn thỉu. Ông đã tìm đọc tất cả những gì người trước đã viết về cuộc sống của công nhân. Cuốn Tình cảnh giai cấp công nhân Anh của ông đã miêu tả một cách chân thực và sâu sắc nhất cuộc sống khốn cùng của giai cấp công nhân. Chính Engels, lần đầu tiên đã phát hiện ra rằng, giai cấp công nhân không chỉ là giai cấp đau khổ trong xã hội tư bản, mà còn là giai cấp có sứ mệnh đấu tranh cho sự giải phóng cuối cùng của mình, đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội.[17]
Cũng trong thời gian ở Anh, dù phải tất bật với việc buôn bán nhưng ông vẫn không ngừng nghiên cứu viết bài cho tạp chí sông Rhinne từ nước Anh như: Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị là tác phẩm Những phác thảo phê phán môn kinh tế chính trị học, trong đó ông đã chỉ rõ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là cơ sở của toàn bộ sinh hoạt vật chất và tinh thần của xã hội tư sản, Tình cảnh nước Anh, Thomas Carley, Quá khứ và hiện tại, “Alexhsander Iung: Những bài giảng về văn học hiện đại của người Đức”[18]… Đặc biệt là bài báo “Tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh năm 1844” (1844) đã phân tích rõ sự phân chia xã hội thành ba giai cấp cơ bản: giai cấp quý tộc chiếm hữu ruộng đất, giai cấp tư sản công nghiệp và giai cấp vô sản. Ông còn tham gia viết bài cho tờ tạp chí Niên giám Pháp – Đức (tháng 2 năm 1844) của A. Ruge. Các bài báo này đề cập đến việc áp dụng phương pháp biện chứng vào việc phân tích các quan hệ kinh tế của xã hội tư sản.
Các tác phẩm này đã cho thấy Engels đã hoàn tất quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật và từ dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Khi đánh giá về cuộc cách mạng xảy ra ở nước Anh, ông viết: “Cuộc cách mạng ấy là tất yếu đối với nước Anh, nhưng cũng như tất cả mọi việc xảy ra ở Anh, cuộc cách mạng đó sẽ’ được khởi đầu và tiến hành vì những lợi ích, chứ không phải vì những nguyên tắc, các nguyên tắc chỉ có thể phát triển từ lợi ích, tức là cách mạng sẽ không phải là cách mạng chính trị, mà là cách mạng xã hội”. Ông cũng đã đứng trên lập trường duy vật và cộng sản để phê phán kinh tế chính trị học của nhà kinh tế học Adam Smith và David Ricardo đồng thời cũng vạch trần quan điểm chính trị của Thomas Carley, một người phê phán chủ nghĩa tư bản trên lập trường của giai cấp phong kiến.[19]
Trong thời gian sống ở Paris, Engels quan tâm nhiều đến hoạt động của Ban chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản và trở thành Uỷ viên của Ban lãnh đạo và là một trong những lãnh đạo Câu lạc bộ công nhân Đức (Tháng 3 năm 1848) do Ban chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản lập ra.
Tháng 3 năm 1848, cùng với Marx, Engels thảo ra Những yêu sách của Đảng cộng sản Đức được Ban chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản thông qua như là văn kiện có tính chất cương lĩnh cho hành động của giai cấp vô sản Đức. Tháng 4 năm 1848 ông cùng với Marx trở về Đức tham gia cuộc cách mạng Đức.
Ngày 20 tháng 5 năm 1848 Engels đến cùng với Marx chuẩn bị xuất bản tờ Neue Rheinische Zeitung. Engels tham gia viết các bài xã luận, bài điểm tình hình chính trị. Tháng 10 năm 1848 ông đi Bỉ để tránh lệnh truy nã của chính quyền Phổ nhưng ông không được phép cư trú chính trị. Engels lại đến Paris sau đó sang Thụy Sĩ tham gia Đại hội các liên đoàn công nhân Đức, ông được bầu vào Uỷ ban trung ương của tổ chức này.
Tháng giêng năm 1849 ông trở về Đức tiếp tục hoạt động cách mạng. Khi cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (vào tháng 5 năm 1849) Engels đã vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân đội cách mạng tiến hành cuộc khởi nghĩa.
Ngày 10 tháng 5 năm 1849, Engels đến Elberfeld và được sung vào Ban quân sự. Engels đưa ra một kế hoạch để triển khai cuộc đấu tranh cách mạng dấy lên thành phong trào toàn nước Đức. Trong thời kỳ này, ông tham gia trực tiếp bốn trận đánh lớn, trong đó có trận Rastatt. Sau này Engels đã viết một luận văn quân sự nổi tiếng có tên là: Tiểu luận về chiến tranh.
Trong cuộc Cách mạng 1848 – 1849 ở Đức, Engels đã trực tiếp chiến đấu trong quân đội cách mạng. Cách mạng thất bại, tháng 11 năm 1850, Engels buộc phải chuyển dến Manchester và lại bắt đầu làm việc ở Văn phòng thương mại phụ trách doanh nghiệp ngành sợi bông của gia đình, sau chung cổ phần với một hãng buôn. Điều này tạo điều kiện cho Engels có thể giúp đỡ về vật chất cho Marx hoạt động cách mạng.[2][21] Vì giành hết tâm lực cho sự nghiệp cách mạng, nên gia đình Marx gặp rất nhiều khó khăn túng thiếu trong cuộc sống. Engels luôn là người tận tình giúp đỡ bạn của mình bằng số tài sản có được từ gia đình. Ngày 3 tháng 2 năm 1845, Marx bị trục xuất khỏi Paris giữa lúc nguồn tài chính của gia đình cạn kiệt. Engels đã tìm cách quyên tiền từ các bạn bè, đồng chí để giúp gia đình Marx vượt qua khó khăn. Những năm tiếp theo, Marx vẫn luôn ở vào cảnh túng thiếu, thậm chí có lúc không mua đủ bánh mì ăn hàng ngày. Để bạn hoàn thành sự nghiệp, Engels đã chấp nhận làm thư ký trong hãng buôn của cha mình suốt 20 năm để lấy tiền giúp Marx.
Engels đặc biệt chú ý nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên, môn quân sự, chính sách quốc tế. Cùng với Maex, Engels tham gia lãnh đạo Quốc tế cộng sản I. Tháng 9 năm 1870, Engels đến Luân Đôn và được đưa vào tổng hội đồng của quốc tế cộng sản I. Ông luôn kiên trì đấu tranh chống lại quan điểm cơ hội của phái Bakunin, Proudhon, Lassalle.
Năm 1871, Engels tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ Công xã Paris. Trong thời gian này, Engels đã viết một số tác phẩm có giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn Chống Duhring (1818) góp phần to lớn cho việc hoàn thiện lý luận cho chủ nghĩa Marx.
Vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 5 tháng 8 năm 1895 Engels qua đời. Trước lúc mất, ông yêu cầu sau này để tang ông chỉ nên tiến hành trong một số ít người, thi hài được hỏa táng và tro được ném xuống biển. Vào hồi 14 giờ Thứ bảy ngày 10 tháng 8 năm 1895, chiếc quan tài để thi hài Engels đã đặt tại nhà thiêu ở Yoking cách Luân Đôn gần 30 dặm, phủ đầy hoa tang từ các nước Đức, Áo, Pháp, Anh, Ý, Bỉ, Hà Lan, Nga, Ba Lan, Bulgaria… Những người đại diện cho tất cả các dân tộc lớn đã tập hợp bên cạnh linh cữu ông để tiễn biệt.[17]
Các tác phẩm chính
Trong suốc cuộc đời của mình, Engels đã viết nhiều tác phẩm kinh điển. Trong hoàn cảnh lịch sử mới hiện nay, những tác phẩm của Engels không hề mất đi tính thời sự. Người đọc vẫn tìm thấy chân giá trị vĩnh hằng trong những tư tưởng của ông đối với khoa học hiện đại ở nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc sống: về bản chất con người, về quan hệ giữa người và người, giữa con người và thiên nhiên, về tự do của con người, về ý nghĩa của cuộc sống[22] Những tác phẩm của ông có thể kể đến là:
Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị (1843)
Kiệt tác thời trẻ này của Engels không chỉ phê phán đúng đắn Adam Smith, Ricardo và Malthus mà còn tạo tiền đề để chúng ta tiếp tục phê phán Samuelsson và Mankiw.
Một năm sau khi đến nước Anh, tức là khoảng cuối năm 1843, Engels đã viết cuốn tác phẩm này, trong đó ông phê phán kinh tế chính trị học tư sản rằng: “kinh tế chính trị học cũng không nghĩ đến việc đặt vấn đề về tính chất chính đáng của chế độ tư hữu” và nhấn mạnh “chỉ có chứng giải và thực hiện chế độ tự do thương mại thì mới làm cho chúng ta có thể vượt ra khỏi những giới hạn của khoa kinh tế chính trị của chế độ tư hữu”.
Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị thể hiện những kinh nghiệm đầu tiên khi Engels tiếp nhận và vận dụng phép biện chứng để nghiên cứu kinh tế chính trị học. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, các phạm trù mặt đối lập và mâu thuẫn được Engels sử dụng để phân tích các phạm trù kinh tế. Đối lập với các nhà kinh tế học tư sản xem xét các phạm trù kinh tế như những gì vĩnh viễn, ông coi các phạm trù đó là những phạm trù lịch sử được chế định bởi sở hữu tư nhân và như vậy, sự xuất hiện của chúng mang tính lịch sử nhất thời.
Tác phẩm này thể hiện khá rõ những ảnh hưởng của Fuerbach đối với Engels. Tuy nhiên, về phương diện triết học, ông đã đi xa hơn Feuerbach. Chẳng hạn, khi xem xét tính tất yếu của cách mạng xã hội, Engels đã không coi nguyên nhân của cách mạng xã hội bắt nguồn từ những cơ sở đạo đức như Feuerbach quan niệm, mà từ sự phát triển của các mâu thuẫn khách quan do sở hữu tư nhân tạo nên. Như vậy, về phương diện này, quan điểm của Engels đã khác hẳn so với quan điểm của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng cũng như các nhà duy vật tiền bối. Để làm rõ cơ sở duy vật trong Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị, cần phải xem xét nội dung của tác phẩm trong bối cảnh bao quát hơn, phải chú ý đến tổng thể các công trình của Engels trong thời kỳ ông sống ở Manchester, từ đó mới có thể thấy được mối liên hệ nhân quả giữa các sự kiện kinh tế, sự đối lập giai cấp, đấu tranh chính trị.
Trước Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị, trong các bài báo đầu tiên của Engels ở Anh, mới chỉ thấy những dự đoán của ông về vai trò của lợi ích kinh tế trong đời sống xã hội. Đến Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị, Engels đã nhận thấy giai cấp vô sản và giai cấp tư sản như những giai cấp xã hội xét về phương diện kinh tế. Thật ra, điều này đã được các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh chỉ rõ và Engels lấy đó làm điểm xuất phát cho nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, khác với các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh, Engels cho rằng, sở hữu tư nhân chính là cơ sở lịch sử của sự tồn tại giai cấp trong xã hội tư sản.
Gia đình Thần thánh (1844)
Bìa cuốn gia đình thần thánh
“Gia đình thần thánh” là tác phẩm lý luận viết chung đầu tiên của Engels và Marx, đây là tác phẩm có vị trí quan trọng trong toàn bộ quá trình hình thành các quan điểm triết học và chính trị xã hội của học thuyết Marx.
Tên đầy đủ của tác phẩm này là “Gia đình thần thánh hay phê phán sự phê phán có tính phê phán. Chống Bruno Bauer và đồng bọn” được viết vào năm 1884. “Gia đình thần thánh” là tên gọi hài hước đặt cho anh em Bauer và bọn theo đuôi họ tụ tập quanh tờ “Allgemeine Literatur – Zeitung” (“Báo văn học phổ thông”). Trong cuốn sách này, Marx và Engels đã bác bỏ anh em Bauer và những người khác thuộc phái Hegel trẻ (hoặc phái Hegel tả) đồng thời cũng phê phán cả triết học duy tâm của chính Hegel. Tác phẩm này được viết vào khoảng tháng Chín đến tháng Mười một 1844 và xuất bản vào tháng Hai 1845 ở Frankfurt trên sông Main. Tác phẩm này gồm tất cả 9 chương, trong đó có gi chú rõ ràng những chương, mục do hai người viết.[23]
Trong tác phẩm này, hai ông đã đề ra những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, như vai trò quyết định của sản xuất vật chất đối với tiến trình phát triển của xã hội loài người, vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần chúng nhân dân lao động. Cũng trong tác phẩm này, Enggel đã cùng với Marx một lần nữa khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản và chỉ ra rằng, chính địa vị của giai cấp vô sản trong xã hội tư sản hiện đại đã quy định vai trò, sứ mệnh đó. Cũng trong tác phẩm này, hai ông đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và phương pháp của nó, nêu luận điểm về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Tình cảnh của giai cấp công nhân Anh năm 1844 (1844)
Đây là bài báo của Engels gửi cho Nhật báo sông Rhine từ nước Anh. Đây được xem là tư tưởng về vai trò xác định của cách mạng công nghiệp trong lịch sử nước Anh. Trong bài báo đó, ông khẳng định: “Tác dụng cách mạng hoá ấy của nền công nghiệp Anh là cơ sở của tất cả mọi quan hệ ở nước Anh ngày nay, là động lực của toàn bộ sự phát triển xã hội. Hậu quả đầu tiên của nó là việc đề cao lợi ích… lên thành sự thống trị đối với con người… Nói một cách khác, ở hữu, vật đã trở thành kẻ thống trị thế giới. Kết quả quan trọng nhất của thế kỷ XVIII đối với nước Anh là sự hình thành giai cấp vô sản do có cuộc cách mạng công nghiệp… Kết quả của toàn bộ sự phát triển là giờ đây, nước Anh chia thành ba phái: phái quý tộc ruộng đất, phái quý tộc kim tiền và phái dân chủ công nhân”.
Cũng thông qua tác phẩm này, Engels đã phân tích các quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp trong xã hội lúc đó và chỉ ra mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Trên cơ sở phân tích này, Ph. Ăng-ghen lần đầu tiên đã đưa ra tư tưởng về tính tất yếu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; tính quốc tế của cuộc cách mạng này.
Tình cảnh nước Anh
Dự định của Enggels quay trở lại phân tích tình cảnh nước Anh đã phải thực hiện theo hình thức khác một chút so với mong muốn, vì tờ Niên giám Pháp – Đức bị ngừng xuất bản do bị kiểm duyệt. Từ cuối tháng 8 đến tháng 10 năm 1844, trên các trang tiếng Đức của tờ báo Tiên lên xuất bản ở Phổ đã có sự tham gia của Marx vào Ban biên tập. Do vậy, Enggels có điều kiện đăng tiếp tục hai bài báo có nhan đề Tình cảnh nước Anh thế kỷ 18 và Tình cảnh nước Anh.
Trong tác phẩm Tình cảnh nước Anh, Enggels đã thể hiện thái độ phê phán quan điểm của Hegel về lịch sử và khẳng định: “Lịch sử được chúng ta đánh giá cao hơn là bất kỳ một học thuyết triết học nào khác trước đây, thậm chí còn cao hơn cả Hegel, mà lịch sử chung quy chỉ được ông ta dùng để kiểm nghiệm cái kết cấu logic của ông ta thôi”.
Theo ông, “tình cảnh nước Anh có ý nghĩa to lớn đối với lịch sử và đối với tất cả các nước khác, bởi vì về mặt xã hội, rõ ràng là nước Anh đã vượt xa tất cả những nước khác”. Đây là kết luận vô cùng quan trọng mà Engels đã rút ra từ sự phân tích lịch sử xã hội Anh. ở đây, ông phát hiện ra rằng, thực trạng xã hội Anh dưới chế độ tư bản chủ nghĩa biểu hiện không chỉ đặc điểm xã hội của bản thân nước Anh tư bản chủ nghĩa mà trong chừng mực nào đó, còn có ý nghĩa to lớn, toàn diện cho các quốc gia khác.
Đó cũng chính là điều mà Marx đã kết luận trong lời tựa của tập I, bộ Tư bản trong lần xuất bản thứ nhất: “Nước phát triển hơn về công nghiệp chỉ nêu lên cho nước kém phát triển cái hình ảnh tương lai của bản thân nước này mà thôi”.
Đây là tác phẩm viết chung của Marx và Engels, đây được xem là tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Marx. Lê-nin đã cho rằng “Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng bộ sách”.
Tiểu luận về chiến tranh (1870 – 1871)
“Tiểu luận về chiến tranh” là một trong những tác phẩm quân sự lớn của F. Engels, trong đó ông đứng trên lập trường của chù nghĩa duy vật lịch sử để phân lích các sự kiện của cuộc chiến tranh Pháp- Phổ năm 1870-1871. Tác phẩm gồm một loạt 59 bài gắn liền với nhau viết dưới hình thức điểm tình hình chiến sự. Trong số này có 40 bài nhan đề “Tiểu luận về chiến tranh” kèm theo số thứ tự tương ứng, còn những bài kia thì lấy đầu đề khác nhau.[24]
Lý do trực tiếp để viết những bài về cuộc chiến tranh Pháp – Phổ là Ti-blin (Ta- ran). Một trong những phóng viên quân sự của tờ “Pall Mall Gazetle”. Đã nghị với Marx gửi những bản tin quân sự cho tờ báo này. Mác chuyển đề nghị ấy cho Ăng-ghen. Ba bài đầu Engels gửi cho Marx, xem xong Marx chuyển cho ban biên tập. Những bài sau Engels gửi thẳng cho ban biên tập tờ “Pall Mall Gazette”để đăng được nhanh hơn.
Những bài của Engels về cuộc chiến tranh Pháp – Phổ được viết cập nhật liên tục theo các sự kiện xảy ra. Engels nghiên cứu tỉ mỉ tất cả những tài liệu mà ông có được về tình hình chiến sự: những bản tin của các tờ báo Anh, Đức, Pháp, những bức điên mới nhất từ Pháp và Đức gửi đi. Mặc dầu những bản tin đó không đầy đủ và mâu thuẫn nhau, nhưng với tất cả những thiếu sót trong một số chi tiết không sao tránh khỏi trong điều kiện ấy, Engels đã dựng lại được tiến trình thực sự của chiến cuộc trong những bài báo của mình.
Khi bắt tay vào viết “tiểu luận về chiến tranh”. Engels dự định viết một tuần 2 bài; sau khi đăng 3 bài đầu gây được sự quan tâm sâu sắc của độc giả và thu hut sự chú ý của toàn bộ báo chí, biên tập viên của tờ “Pall Mall Gazette” là Grin-vút đề nghị Engels gửi bài cho báo với sổ lượng không hạn chế, vào thời kỳ chiến sự diễn ra sôi nổi nhất, Engels viết môi tuần 3 thậm chí 4 bài.
Grin-vút đã nhiều lần sửa chữa hài viết của Engels mà không có sự đồng ý của tác giả. Như Engels đã nhận xét trong thư của mình trong bài “‘Tiểu luận về chiến lranh.- lIl” người ta đã tùy tiện sửa đổi những thuật ngữ quân sự, hơn nữa nhứng sửa đổi đó chứng tỏ Grin-vút không hiểu hiết những thuậl ngữ quân sự ấy. Trong bài “Tiểu luận về chiến tranh.- XIII”, người ta đã thêm vào đoạn cuối một số nội dung.[25]
Những bài “Tiểu luận về chiến tranh” được đãng trên tờ “Pall Mall Gazette” từ ngày 29 tháng Bảy 1870 đến 18 tháng Hai 1871, trừ ba bài đầu ký tên “Z.”, những bài khác đều đăng không ký lên, hơn nữa chỉ có một số ít người biết tác giả của những bài ấy là Engels. Những bài viết của Engels về cuộc chiến tranh Pháp- Phổ dã thành công lớn. Hàng loạt tờ báo đã lặp lại nội dung của những bài ấy trong các bài điểm tình hình. Bạn bè của Engels đặt cho ông biệt hiệu “Tướng quân”.
Khi Engels còn sống. Những bài viết của ông về cuộc chiến tranh Pháp- Phổ đã không được tái bản. Những bài báo cắt từ tờ “Pall Mall Gazette” có mang chữ ký của chính tay Engels ở góc phải hoặc trái mỗi bài do V.Át-le, một trong những nhà lãnh đạo Đảng dân chủ xã hội Áo, gửi trong nhiều năm đã không được đông đảo độc giả biết đến. Chỉ mấy năm sau khi Át-le chết, vào năm 1923, những bài viết của Engels mới được xuất bản thành tập sách riêng bằng tiếng Anh in li-tô dưới nhan đề chung “Tiểu luận về chiến tranh”. “Tiểu luận về chiến tranh” được xuất bản lần đầu bằng tiếng Nga vào năm 1924.
Chống Duhring (1878)
Tên nguyên bản của tác phẩm này là “Ông Duhring đảo lộn khoa học”[26] là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của chủ nghĩa Marx. Tác phẩm này gồm có ba phần: phần thứ nhất có tựa đề: Triết học, phần thứ hai có tựa đề là kinh tế chính trị học và phần thứ ba là xã hội chủ nghĩa.[27]
Trong tác phẩm này, lần đầu tiên Engels trình bày một cách hoàn chỉnh thế giới quan Marxist: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, khoa kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học. Ông chỉ ra mối liên hệ không thể tách rời và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Marx.
Ông cũng chỉ rõ chúng gắn bó với nhau và tác động lẫn nhau như thế nào và chúng tạo nên toàn bộ một hệ thống lý luận mà các bộ phận cấu thành riêng rẽ thì tương đối độc lập nhưng đồng thời lại chỉ có thể hiểu được một cách đúng đắn trong mối liên hệ bên trong giữa chúng với tổng thể. Đồng thời Engels cũng tiếp tục phát triển triết học Marxist trong những vấn đề cơ bản, ở đây ông đã sử dụng những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên cũng như những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh giai cấp.
Với tác phẩm của mình, Engels trực tiếp tham gia vào các cuộc tranh luận trong phong trào công nhân Đức xung quanh các vấn đề cơ bản về thế giới quan và chính trị. Với việc đó, ông ủng hộ cuộc đấu tranh chống hệ tư tưởng tư sản và tiểu tư sản mà đại biểu trước hết là Eugen Duhring. Tác phẩm “Chống Duhring” góp phần quyết định vào thắng lợi của chủ nghĩa Marx trong phong trào công nhân.
Engels viết tác phẩm này từ mùa thu năm 1876 đến giữa năm 1878. Chương X của phần thứ hai là do Marx biên soạn. Tác phẩm này được đăng lần đầu tiên dưới hình thức một loạt bài trên tờ “Vorwarts” từ ngày 3 tháng giêng năm 1877 đến tháng bảy năm 1878. Tháng bảy 1877, phần thứ nhất của tác phẩm được xuất bản ở Leizig thành một tập riêng, tiếp theo đó vào tháng bảy 1878 là phần thứ hai và phần thứ ba, cũng được in dưới hình thức một tập riêng. Đồng thời, tháng bảy 1878 ở Leipzig cũng ra đời bản in đầu tiên toàn bộ tác phẩm với lời nói đầu của Engels. Lần xuất bản cuối cùng (thứ ba) được Engels xem lại và bổ sung, đã ra đời vào năm 1894.
Trong “Chống Duhring”, Engels đấu tranh chống những tác phẩm sau đây của Duhring: “Giáo trình triết học với tư cách là một thế giới quan khoa học chặt chẽ và sự hình thành cuộc sống”, Leipzig 1875, “Giáo trình kinh tế chính trị và kinh tế xã hội gồm các điểm chủ yếu của chính sách tài chính”, lần xuất bản thứ hai có biên soạn lại một phần, Leipzig 1876, “Lịch sử phê phán của khoa kinh tế chính trị và của chủ nghĩa xã hội”, lần xuất bản thứ hai có biên soạn lại một phần, Berling,1875.[26]
Biện chứng của tự nhiên (1873 – 1882)
Đây là tác phẩm chưa hoàn thành của Engels, lần đầu tiên được xuất bản bằng tiếng Nga và tiếng Đức tại Liên Xô năm 1925. Tác phẩm này bao gồm những bài bút kí viết từ 1873 đến 1886, chủ yếu là từ 1873 đến 1882.[28]
Tư tưởng trung tâm của tác phẩm là tư tưởng về các hình thái vận động của vật chất. Chính dựa trên tư tưởng này, Engels dự định xây dựng một tác phẩm – về con đường phát triển biện chứng khách quan của tự nhiên tiến đến sự phát triển kinh tế của xã hội loài người – tiếp nối bộ “Tư bản” của K. Marx để cùng với “Tư bản” tạo nên một công trình hoàn chỉnh về học thuyết Marxist, chứ không có ý định viết một cuốn sách phổ thông về phép biện chứng và cũng không chỉ dừng lại ở sự khái quát lịch sử phát triển của khoa học tự nhiên.
Xuất phát từ các hình thái vận động của vật chất, Engels xác định đối tượng của các khoa học, lấy sự phụ thuộc lẫn nhau của các khoa học làm nguyên tắc chung để phân loại chúng. Theo Engels, vật chất vận động từ thấp lên cao, từ vận động cơ học đến vận động hoá học, sinh học và cao hơn cả là sự vận động của xã hội loài người. Tương ứng với các hình thức vận động đó của vật chất – trong quá trình lịch sử – là các khoa học: cơ học, vật lí học, hoá học, sinh học, khoa học xã hội. Nhận thức phải đi từ các hình thái vận động thấp đến các hình thái vận động cao hơn. Sự chuyển hoá từ một hình thái vận động này sang một hình thái vận động khác cao hơn bao giờ cũng là một bước nhảy vọt, một quá trình biện chứng. Vì vậy các khoa học nghiên cứu về chúng cũng phải phản ánh được phép biện chứng đó.
Engels chỉ rõ rằng quan điểm máy móc, siêu hình về giới tự nhiên đang sụp đổ do sự phát triển của khoa học tự nhiên và buộc phải nhường chỗ cho quan điểm biện chứng. Điều đó đặt ra yêu cầu đối với các nhà khoa học tự nhiên là cần chuyển từ tư duy siêu hình sang tư duy biện chứng, phải tự giác nắm lấy phép biện chứng. Engels còn đề cập đến hàng loạt các vấn đề triết học khác như các quy luật cơ bản và các phạm trù của phép biện chứng được rút ra từ trong tự nhiên, vấn đề lí thuyết tiến hoá C. Darwin, vấn đề vai trò của lao động trong sự hình thành con người.
Do sự phát triển của khoa học hơn một trăm năm qua, dĩ nhiên, không ít những vấn đề chuyên sâu được Engels đề cập trong Biện chứng của tự nhiên cần được bổ sung, phát triển. Mặc dù vậy, nhiều tư tưởng của Engels vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa phương pháp luận rất lớn trong việc tiếp cận với sự phát triển mới trên mọi lĩnh vực triết học, khoa học và đời sống xã hội của thời đại ngày nay.
Nguồn gốc của Gia đình, Sở hữu tư nhân, và Nhà nước (1884)
Tên đầu đủ của tác phẩm là “Nguồn gốc của Gia đình, Sở hữu tư nhân, và Nhà nước. Nhân có những công trình nghiên cứu của Lewis H. Morgan”. Tác phẩm gồm có tất cả chín chương, được viết vào năm 1884.[29] Đây là một tác phẩm cơ bản của chủ nghĩa Marx.
Dựa trên các kết quả và phát hiện của Lewis H. Morgan, Friedrich Engels đã phân tích lịch sử nhân loại trong những giai đoạn sớm nhất của nó, luận chứng quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và quá trình hình thành của xã hội có giai cấp, dựa trên chế độ tư hữu. Ông cũng vạch rõ những đặc trưng của xã hội đó, giải thích sự phát triển của các quan hệ gia đình trong các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau, chỉ ra nguồn gốc và bản chất của Nhà nước, chứng minh sự tất yếu diệt vong của Nhà nước và xã hội có giai cấp nói chung.
Engels bắt đầu viết cuốn này từ cuối tháng Ba năm 1884, và tới hết tháng Năm năm đó thì hoàn tất. Khi đọc các bản thảo viết tay của Marx, Engels đã tìm thấy một bản tóm tắt cuốn “Xã hội Cổ đại” của L.H. Morgan, nhà khoa học tiến bộ người Mỹ, được Marx ghi trong các năm 1880-1881, có nhiều nhận xét phê phán và luận điểm của chính Marx.
Sau khi đọc bản tóm tắt, Engels nhận thấy cuốn sách của Morgan đã xác minh quan điểm duy vật lịch sử và các quan điểm về xã hội nguyên thủy của Marx và mình đề xuất, và thấy cần viết một tác phẩm riêng, sử dụng các tài liệu và kết luận của Morgan và Marx. Khi viết cuốn này, Engels đã đưa vào nhiều tài liệu bổ sung, lấy từ các nghiên cứu của bản thân mình về lịch sử Hi Lạp – La Mã, lịch sử Ireland thời cổ, lịch sử người Germania thời cổ, v.v.
Năm 1890, với việc những tài liệu về lịch sử xã hội nguyên thủy đã phong phú hơn, Engels bắt đầu chuẩn bị cho bản in mới, cũng là bản in thứ 4 của cuốn này. Người đã nghiên cứu các sách báo mới nhất, đặc biệt là các tác phẩm của M.M. Kovalevsky, nhà khoa học người Nga và đã thêm vào nhiều điểm sửa chữa, bổ sung. Bản in này được xuất bản năm 1891, và sau đó không còn sửa đổi gì nữa.
Đây là một kiệt tác về lịch sử của Engels mà nhiều nhà nghiên cứu đã cố tình bỏ qua hay bóp méo nó.
Trong tác phẩm này, ông trình bày cặn kẽ sự phát sinh các nhà nước ở Hy lạp, La mã, Celt và German. Đồng thời ông cũng vạch trần sự lẫn lộn của nhiều nhà sử học hiện nay khi lẫn lộn thời đại dã man với thời kỳ hình thành các quốc gia cổ đại. Do đó, biến các thủ lĩnh quân sự của bộ lạc thành vua, lẫn các Pharaoh, vua Thương, Hùng Vương thành người cai trị tối cao. Do đó, cũng lẫn lộn rằng các thể chế thời Thương, vương quốc của các Pharaoh, Văn Lang…là các nhà nước(thực ra đây chỉ là các tổ chức thị tộc phát triển ở mức độ cao).[cần dẫn nguồn]
Một số câu nói
Ta không nên quá ảo tưởng vào những chiến thắng của mình đối với thiên nhiên. Thiên nhiên sẽ trả thù ta cho mỗi một “chiến thắng” ấy.
Một dân tộc không thể được tự do nếu dân tộc ấy uy hiếp các dân tộc khác. Sức mạnh mà dân tộc này cần có để đè nén dân tộc khác cuối cùng sẽ luôn chống lại chính dân tộc ấy.
Khi con người thôi không là nô lệ của con người nữa thì con người lại trở thành nô lệ của đồ vật.
Nếu cuộc hôn nhân vì tình yêu được coi là chuẩn mực đạo đức thì cuộc hôn nhân ấy chỉ được coi là đạo đức nếu như sau đó, tình yêu vẫn còn tiếp tục tồn tại.
Không thể chạy trốn khỏi số phận – hay nói cách khác, không thể trốn chạy khỏi những hậu quả tất yếu từ các hành động của mình.
Nếu ta muốn cống hiến cho một sự nghiệp, một công việc nào đó thì trước tiên công việc ấy, sự nghiệp ấy phải trở thành sự nghiệp ích kỷ của riêng ta.
Những ý tưởng nhen nhóm, nuôi dưỡng lẫn nhau, giống như những tia lửa điện vậy.
Đứa trẻ ít bị xúc phạm thì lớn lên sẽ trở thành người biết tự trọng nhiều hơn.
Những quyết định nông nổi thường rất cao thượng, hào hiệp, và anh hùng nữa, nhưng thông thường chúng dẫn đến những điều ngu ngốc.
Một cá nhân được khắc họa tính cách không chỉ bằng những việc anh ta làm mà còn bằng cách anh ta làm việc ấy nữa.
Sự hèn nhát làm mất đi trí tuệ.
“
Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, – đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại
Sau bạn ông là Karl Marx, Engels là nhà bác học và là người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh. Từ ngày mà vận mệnh đã gắn liền với Karl Marx và Engels thì sự nghiệp suốt đời của hai người bạn ấy trở thành sự nghiệp chung của họ. Cho nên, muốn hiểu Friedrich Engels đã làm gì cho giai cấp vô sản thì phải nhận rõ ý nghĩa của học thuyết và hoạt động của Marx đối với sự phát triển của phong trào công nhân hiện đại.
Với công trình này (Chỉnh lý, biên tập và cho xuất bản Quyển II và Quyển III bộ Tư bản luận sau khi Marx mất mà chưa kịp hoàn thành), F. Engels đã dựng cho người bạn thiên tài của ông một đài kỷ niệm trang nghiêm, trên đó F. Engels cũng không ngờ đã khắc luôn cả tên mình bằng những chữ không bao giờ phai mờ được.
Sinh thời, Friedrich Engels thường không hề đề cao bản thân, đánh giá ông như “cây vĩ cầm thứ hai” bên cạnh Karl Marx, và cho rằng Karl Marx mới chính là người cha của chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, Friedrich Engels có những cống hiến không nhỏ và khó quên đối với chủ nghĩa Marx trong những năm đầu. Do đó, Friedrich Engels xứng đáng là một trong những gương mặt vĩ đại nhất trong suốt chiều dài lịch sử của Chủ nghĩa xã hội hiện đại.[34]
Friedrich Engels là lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của giai cấp vô sản, người đã cùng C. Mác xây dựng nên lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học và đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động.[16]
Tạp chí Cộng sản của Đảng cộng sản Việt Nam cũng có nhận đĩnh về ông là “Nhà lý luận lỗi lạc và chiến sỹ cách mạng vĩ đại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế”.[35]
^Hegel trẻ là một môn phái triết học gồm những người có tư tưởng cấp tiến vô sản, sử dụng phương pháp biện chứng của triết học Hegel để phê phán chế độ phong kiến Đức, nhóm này đóng vai trò tích cực trong việc chuẩn bị tư tưởng cho cuộc cách mạng tư sản Đức năm 1848
^Trong thời gian từ năm 1844 lúc Engels 24 tuổi cho đến năm 1883 lúc Marx mất, hai người đã viết cho nhau tổng cộng 1.386 bức thư. Nghiên cứu các bức thư đó, Lê-nin cho là “có giá trị khoa học và chính trị rất lớn”.
^Ở cuối bài này biên tập viên Grin-vút của tờ “Pall Mall Gazette” đã thêm đoạn sau đây bị xóa đi trong lần xuất bản này: “Rất có thể là cuộc vây đánh Xtơ-ra-xbua săp sửa kết thúc bằng sự đầu hàng của cứ điểm. Xem ra người Đức đã hành động hết sức nghiêm chỉnh. Cho đến sáng sớm hôm qua, cuộc pháo kích từ phía Ken đã tiến hành liên lục 3 ngày đêm. Đồng thời quân Phổ đưa những vọng gác lên cách cứ điểm từ 500 đến 800 i-ác-đơ. Kho vũ khí bị cháy và mấy khẩu trọng pháo vừa đặt vào trận đia đã lập tức bắn vào đoạn ấy”.