CNM365. Chào ngày mới 5 tháng 8. Nhớ Viên Minh. Ngày 5 tháng 8, Ngày truyền thống của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam. Ngày 5 tháng 8 năm 1964, sau sự kiện vịnh Bắc Bộ trong Chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ tiến hành Chiến dịch Mũi Tên Xuyên, ném bom Miền Bắc Việt Nam. Ngày 5 tháng 8 năm 1962, Nelson Mandela, người sau này là Tổng thống “già làng” Nam Phi, bị cảnh sát bắt giữ với lời buộc tội kích động đình công và ra nước ngoài khi chưa được phép, ông phải ở trong tù cho đến năm 1990. Ngày 5 tháng 8 năm 1895, ngày mất Friedrich Engels, triết gia người Đức (sinh năm 1820) ; Xem tiếp … https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-5-thang-8; Bài chọn lọc: Nhớ Viên Minh; Chùa làng; Trần Đăng Khoa trong tôi; Du lịch sinh thái Nông nghiệp Việt Nam; Donald Trump hôm qua và ngày nay; Quả táo Apple Steve Jobs; Sắn Việt Nam kết nối châu Phi; Người Thầy với việc Dạy và Học, Khổng Tử dạy và học; Nhớ Người, Sớm thu; Đêm Yên Tử;
NHỚ VIÊN MINH
Hoàng Kim
Tay men bệ đá sân chùa
Tổ tiên cha mẹ đều xưa chốn này
Đình làng chùa cũ nơi đây
Nuôi đêm phúc ấm dưỡng ngày nhân sinh
Mình về với đức Viên Minh
Thơm hương Hoa Lúa nặng tình nước non
Đêm Yên Tử sáng trăng rằm
Ban mai ngày mới an nhiên cuộc đời
Thung dung bước tới thảnh thơi
Hiền lành phúc hậu lánh nơi bụi trần
Thiên nhiên là thú bình an
Người thân bạn quý thanh nhàn sống vui.
xem tiếp: Hoa Lúa
https://hoangkimvn.wordpress.com/2013/05/12/hoa-lua
Viên Minh còn gọi là chùa Giáng nằm ven đê thuộc xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, Hà Tây (cũ) nay thuộc Hà Nội, nơi Tổ Giáng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ trụ trì.
xem thêm:
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-lua/
CHÙA LÀNG
Nguyễn Chu Nhạc
Chùa làng ngày ta bé thơ
Sư già chùa nát lờ phờ khói nhang
Tuần rằm mồng một người làng
Vườn nhà hoa trái dâng sang lễ chùa,
Mẹ ta khuất đã bao mùa
Chùa làng cất lại tượng vừa tô son
Ta về thay mẹ tạ ơn
Gặp cô bạn cũ sư non giữ chùa…
Ảnh ( st ): Xem dấu tích chùa cổ Viên Giác tự được làm từ năm 1115 dưới triều Lý Nhân Tông, tại quê của Nguyễn Chu Nhạc
5 tháng 8
Ngày 5 tháng 8 là ngày thứ 217 (218 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 148 ngày trong năm.
« Tháng 8 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | ||||||
2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 |
16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 |
23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 |
30 | 31 | |||||
Mục lục
Sự kiện
- 25 – Lưu Tú xưng đế, tức Hán Quang Vũ Đế, mở đầu triều Đông Hán, sau đó tiếp tục đánh bại các thế lực khác và thống nhất Trung Quốc.
- 1000 – Henry I lên ngôi quốc vương Anh tại Tu viện Westminster.
- 1392 – Sau khi lật đổ Cung Nhượng Vương của Cao Ly, tướng Lý Thành Quế lên ngôi quốc vương, khởi đầu vương triều Triều Tiên.
- 1783 – Núi Asama tại Nhật Bản phun trào mạnh, là một nguyên nhân dẫn đến Nạn đói lớn thời Tenmei.
- 1962 – Nelson Mandela bị cảnh sát bắt giữ với lời buộc tội kích động đình công và ra nước ngoài khi chưa được phép, ông phải ở trong tù cho đến năm 1990.
- 1966 – The Beatles phát hành album nổi tiếng, Revolver.
- 1964 – Trong Chiến tranh Việt Nam, sau sự kiện vịnh Bắc Bộ, Hoa Kỳ tiến hành Chiến dịch Mũi Tên Xuyên, ném bom Miền Bắc Việt Nam.
- 2011 – Yingluck Shinawatra được Quốc hội Thái Lan bầu làm thủ tướng, bà là nữ thủ tướng đầu tiên trong lịch sử quốc gia này.
Sinh
- 1567 – Date Masamune là một samurai,daimyo Nhật Bản (m. 1636)
- 1802 – Niels Henrik Abel, nhà toán học Nauy (m. 1829)
- 1850 – Guy de Maupassant là nhà văn viết truyện ngắn người Pháp (m. 1893)
- 1862 – Joseph Merrick, được biết đến với cái tên “Người Voi” (m. 1890)
- 1866 – Carl Harries, nhà hóa học người Đức (m. 1923)
- 1872 – Oswaldo Cruz, bác sĩ người Brasil (m. 1917)
- 1908 – Harold Holt, Thủ tướng thứ 17 của nước Úc (m. 1967)
- 1911 – Robert Taylor, diễn viên người Mỹ (m. 1969)
- 1912 – Cha Pierre, linh mục Công giáo người Pháp (m. 2007)
- 1930 – Neil Armstrong, phi hành gia người Mỹ
- 1968 – Marine Le Pen, chính khách Pháp
- 1980 – Wayne Bridge, cầu thủ bóng đá người Anh
- 1982 – Ryu Seung Min, vận động viên bóng bàn người Hàn Quốc
- 1985 – Salomon Kalou, cầu thủ bóng đá người Bờ Biển Ngà
Mất
- 882 – Vua Louis III của Pháp (s. 863)
- 1778 – Charles Clémencet, nhà sử học Pháp (s. 1703)
- 1880 – Ferdinand Ritter von Hebra, bác sĩ người Áo (s. 1816)
- 1895 – Friedrich Engels, triết gia người Đức (s. 1820)
- 1957 – Heinrich Otto Wieland, nhà hóa học người Đức đoạt giải Nobel (s. 1877)
- 1992 – Honda Sōichirō, người sáng lập hãng xe Nhật Honda (s. 1906)
- 1962 – Marilyn Monroe, huyền thoại điện ảnh Mỹ (s. 1926)
Những ngày lễ và kỷ niệm
- 1964, Ngày truyền thống của Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 5 tháng 8 |
Tham khảo
Quân chủng Hải quân Việt Nam
Hải quân Nhân dân Việt Nam | |
---|---|
Hải kỳ. |
|
Hoạt động | 7/5/1955 (60 năm, 89 ngày) |
Quốc gia | ![]() |
Phân loại | Quân chủng (Nhóm 3) |
Quy mô | 45000 sĩ quan và binh lính
|
Khẩu hiệu | Đảo là nhà, Biển cả là quê hương |
Hành khúc | Lướt sóng ra khơi Sáng tác: Nhạc sỹ Thế Dương |
Lễ kỷ niệm | 07 tháng 5, 1955 |
Tham chiến | Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh biên giới Tây Nam Hải chiến Trường Sa 1988 |
Thành tích | khen thưởng: |
Các tư lệnh | |
Tư lệnh | Phạm Hoài Nam[1] |
Chính ủy | Đinh Gia Thật |
Tham mưu trưởng | Phạm Xuân Điệp |
Huy hiệu | |
Phù hiệu | ![]() ![]() |
Quân chủng Hải quân, Quân đội Nhân dân Việt Nam còn gọi là Hải quân Nhân dân Việt Nam, là một quân chủng thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam có nhiệm vụ tổ chức, chỉ huy, quản lý, xây dựng quân đội bảo vệ vùng biển và thềm lục địa Việt Nam. Cơ quan chỉ huy là Bộ Tư lệnh Hải quân.
Hải quân Nhân dân Việt Nam có các binh chủng tàu mặt nước, Hải quân đánh bộ, Tên lửa-Pháo bờ biển, Không quân Hải quân, tàu ngầm… nhưng không tổ chức bộ tư lệnh riêng. Bao gồm các cấp đơn vị: hải đoàn, hải đội, binh đoàn Hải quân đánh bộ, các binh đoàn bộ đội chuyên môn, các đơn vị bảo đảm phục vụ ra đa, thông tin, kỹ thuật, hậu cần….
Mục lục
- 1 Lịch sử hình thành
- 2 Lãnh đạo hiện nay
- 3 Tổ chức Đảng
- 4 Tổ chức chính quyền
- 5 Tổ chức chung
- 6 Quân hàm Hải quân Việt Nam
- 7 Tư lệnh qua các thời kỳ
- 8 Chính ủy qua các thời kỳ
- 9 Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng qua các thời kỳ
- 10 Phó Tư lệnh qua các thời kỳ
- 11 Phó Chính ủy qua các thời kỳ
- 12 Các tướng lĩnh khác
- 13 Trang bị
- 14 Phong tặng
- 15 Tài liệu tham khảo
- 16 Chú thích
- 17 Liên kết ngoài
Lịch sử hình thành
- Hải quân Nhân dân Việt Nam lấy ngày 7 tháng 5 năm 1955, ngày thành lập Cục Phòng thủ bờ biển thuộc Bộ Quốc phòng làm ngày thành lập hải quân. Còn ngày truyền thống là ngày 5 tháng 8 năm 1964, ngày đánh trả thành công chiến dịch Mũi Tên Xuyên – cuộc tập kích đầu tiên bằng không quân của Mỹ vào miền Bắc Việt Nam[2][3].
- Ngày 19 tháng 7 năm 1946, Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Huỳnh Thúc Kháng đã ký Quyết định thành lập Hải quân Việt Nam. Tiếp đó, ngày 10 tháng 9 năm đó, Chủ tịch Quân sự Ủy viên Hội Võ Nguyên Giáp ký nghị định đặt cơ quan chỉ huy hải quân là hải đoàn do một hải đoàn trưởng phụ trách. Tuy nhiên đến đầu năm 1947, xét thấy không thể duy trì lực lượng hải quân, Việt Minh đã tháo gỡ máy móc, vũ khí, thiết bị và đánh đắm tàu để không lọt vào tay quân Pháp.
- Ngày 8 tháng 3 năm 1949, thành lập Ban nghiên cứu thủy quân thuộc Bộ tổng Tham mưu. Ban này vừa làm nhiệm vụ nghiên cứu vừa làm nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu. Khoảng 100 người tổ chức thành đội 71 được cử sang đảo Hải Nam (Trung Quốc) huấn luyện về thủy quân trong thời gian 6 tháng. Tuy nhiên ban bị giải thể năm 1951.
- Ngày 24 tháng 8 năm 1954, thành lập hai thủy đội Sông Lô và Bạch Đằng.
- Tháng 4 năm 1955, Bộ Quốc phòng thành lập Trường huấn luyện bờ biển và ngay tháng sau thành lập Cục Phòng thủ bờ biển, đánh dấu sự ra đời của Hải quân Nhân dân Việt Nam.
- Ngày 24 tháng 1 năm 1959, Cục Phòng thủ bờ biển chuyển đổi thành Cục Hải quân trực thuộc Bộ Quốc phòng [4].Tổ chức biên chế của Cục Hải quân gồm 5 phòng (Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, công trình và Đo đạc biển); 5 đơn vị trực thuộc: Trường Huấn luyện bờ biển (đổi thành Trường Huấn luyện hải quân), Đoàn 130, Đoàn 135, tiểu đoàn công binh 145 và Xưởng 46. Đây cũng là ngày truyền thống của Cục Chính trị, Bộ Tham mưu và Cục Hậu cần Quân chủng Hải quân ngày nay.
- Ngày 20 tháng 4 năm 1959, thành lập Đảng bộ Cục Hải quân[5] trực thuộc và đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng Quân ủy.
- Ngày 18 tháng 5 năm 1959, thành lập Đoàn 135 (sau này đổi thành 140), đơn vị tàu tuần tiễu.
- Ngày 3 tháng 8 năm 1961, thành lập căn cứ Hải quân I và căn cứ Hải quân II[6]
- Ngày 23 tháng 10 năm 1961, thành lập Đoàn 759 (Đoàn Vận tải Quân sự đường biển nay là Lữ đoàn 125)[7]
- Ngày 3 tháng 1 năm 1964, Cục Hải quân đổi tên thành Bộ Tư lệnh Hải quân[8]
- Ngày 13 tháng 4 năm 1966, thành lập Đoàn 126 (Đoàn Đặc công Hải quân nay là Lữ đoàn 126)
- Ngày 6 tháng 5 năm 1970, tách Cục Hậu cần thành Cục Hậu cần và Cục Kỹ thuật [9]
- Ngày 5 tháng 9 năm 1975, sát nhập Trung đoàn 126, Trung đoàn 46 thành Lữ đoàn 126 Hải quân đánh bộ [10]
- Ngày 13 tháng 9 năm 1975, tổ chức các đơn vị phòng thủ đảo.
- Ngày 26 tháng 10 năm 1975, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 141/QĐ-QP thành lập 5 vùng duyên hải thuộc Bộ Tư lệnh hải quân.
- Năm 1978 giải thể vùng 2 và đổi tên vùng duyên hải thành vùng hải quân.
- Ngày 5 tháng 7 năm 1978, thành lập Trung đoàn 147 Hải quân đánh bộ nay là Lữ đoàn 147[11]
- Ngày 23 tháng 6 năm 1979, thành lập Tiểu đoàn Tên lửa 679 trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân (nay là Lữ đoàn 679)[12]
- Ngày 14 tháng 3 năm 1988, Hải quân Nhân dân Việt Nam đụng độ với Hải quân Trung Quốc tại đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao.
- Ngày 31 tháng 8 năm 1998, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam làm lễ ra mắt.
- Tháng 11 năm 2008, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam trở thành một lực lượng độc lập với Hải quân Nhân dân Việt Nam.
- Ngày 14 tháng 1 năm 2011, Bộ Quốc phòng ra Quyết định nâng cấp Bộ Chỉ huy Vùng Hải quân lên thành Bộ Tư lệnh Vùng Hải quân [13]
- Ngày 3 tháng 7 năm 2013, thành lập Lữ đoàn Không quân hải quân 954, hình thành lực lượng không lực hải quân đầu tiên.[14]
Lãnh đạo hiện nay
TT | Chức vụ | Họ tên | Đảm nhiệm | Chức vụ trước | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|
1 | Tư lệnh | ![]() |
Từ 2015 | Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng QCHQ | |
2 | Chính ủy | ![]() |
Từ 2012 | Phó Chính ủy Quân chủng Hải quân | |
3 | Tham mưu trưởng | ![]() |
Từ 2015 | Tư lệnh Vùng 2 Hải quân | |
4 | Phó Tư lệnh | ![]() |
Từ 2009 | Chỉ huy trưởng Vùng 4 Hải quân | |
5 | Phó Tư lệnh | ![]() |
Từ 2010 | Cục trưởng Cục Kỹ thuật Quân chủng Hải quân | |
6 | Phó Tư lệnh | ![]() |
Từ 2012 | Sư đoàn trưởng Sư đoàn 370, Quân chủng PK-KQ | |
7 | Phó Tư lệnh | ![]() |
Từ 2015 | Tư lệnh Vùng 3 Hải quân | |
8 | Phó Chính ủy | ![]() |
Từ 2013 | Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng Hải quân |
Tổ chức Đảng
Tổ chức chung
Năm 2006, thực hiện chế độ Chính ủy, Chính trị viên trong Quân đội. Theo đó Đảng bộ trong Quân chủng Hải quân bao gồm:
- Đảng bộ Quân chủng Hải quân là cao nhất.
- Đảng bộ các Cục chuyên ngành, Vùng Hải quân, Học viện Hải quân, các Lữ đoàn thuộc Quân chủng Hải quân (tương đường Trung đoàn)
- Đảng bộ các đơn vị cơ sở trực thuộc các Vũng Hải quân, Lữ đoàn (tương đương Tiểu đoàn, Trung đoàn)
- Chi bộ trực thuộc các đơn vị cơ sở gồm các Phòng, ban chức năng (tương đương Đại đội)
Đảng ủy Tổng cục Chính trị
- Bí thư: Chính ủy Quân chủng Hải quân
- Phó Bí thư: Tư lệnh Quân chủng Hải quân
Ban Thường vụ
- Ủy viên Thường vụ: Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân
- Ủy viên Thường vụ: Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân
- Ủy viên Thường vụ: Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân
Ban Chấp hành Đảng bộ
- Đảng ủy viên: Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân
- Đảng ủy viên: Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân
- Đảng ủy viên: Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân
- Đảng ủy viên: Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân
- Đảng ủy viên: Phó Chính ủy Quân chủng Hải quân
- Đảng ủy viên: Cục trưởng Cục Chính trị
- Đảng ủy viên: Tư lệnh Vùng 1 Hải quân
- Đảng ủy viên: Tư lệnh Vùng 2 Hải quân
- Đảng ủy viên: Tư lệnh Vùng 3 Hải quân
- Đảng ủy viên: Tư lệnh Vùng 4 Hải quân
- Đảng ủy viên: Tư lệnh Vùng 5 Hải quân
- Đảng ủy viên: Giám đốc Học viện Hải quân
- Đảng ủy viên: Tổng Giám đốc Tổng Công ty Tân cảng Sài Gòn
Tổ chức chính quyền
Cơ quan trực thuộc
- Văn phòng
- Thanh tra
- UBKT Đảng
- Phòng Tài chính
- Phòng Khoa học Quân sự
- Phòng Thông tin
- Phòng Đối ngoại
- Phòng Điều tra hình sự
- Phòng Cứu hộ cứu nạn
- Phòng Thi hành Án
- Phòng Đăng kiểm
- Phòng Kinh tế
- Bộ Tham mưu[15] Thành lập: Ngày 24/1/1959 (56 năm, 192 ngày)
- Cục Chính trị[16] Thành lập: Ngày 24/1/1959 (56 năm, 192 ngày)
- Cục Hậu cần[17] Thành lập: Ngày 24/1/1959 (56 năm, 192 ngày)
- Cục Kỹ thuật[18] Thành lập: Ngày 6/5/1970 (45 năm, 90 ngày
Đơn vị trực thuộc Quân chủng
- Bộ Tư lệnh Vùng 1
- Bộ Tư lệnh Vùng 2
- Bộ Tư lệnh Vùng 3
- Bộ Tư lệnh Vùng 4
- Bộ Tư lệnh Vùng 5
- Học viện Hải quân
- Lữ đoàn Không quân 954[19]
- Lữ đoàn Đánh bộ 147[20] Thành lập: 5/7/1978 (37 năm, 30 ngày)
- Lữ đoàn Đánh bộ 101[21]
- Lữ đoàn Vận tải 125[22] Thành lập: 23/10/1961 (53 năm, 285 ngày)
- Lữ đoàn Đặc công126 [23] Thành lập: 13/4/1966 (49 năm, 113 ngày)
- Lữ đoàn Tàu ngầm 189[24]
- Lữ đoàn Công binh 83[25]
- Lữ đoàn Công binh 131[26]
- Hải đoàn 128[27]
- Hải đoàn 129[28]
- Trường Trung cấp kỹ thuật[29]
- Viện Kỹ thuật Hải quân[30]
- Viện Y học Hải quân[31]
- Trung tâm Ra đa cảnh giới biển tầm xa (Thành lập 28/7/1997)
- Tổng Công ty Tân cảng Sài gòn[32]
- Đoàn Đo đạc biên vẽ hải đồ và Nghiên cứu biển (Đoàn 6)
Đơn vị cơ sở trực thuộc Cục
- Tiểu đoàn Phòng hóa 20, Bộ Tham mưu
- Tiểu đoàn Vệ binh, Bộ Tham mưu
- Tiểu đoàn Trinh sát, Bộ Tham mưu
- Báo Hải quân, Cục Chính trị[33]
- Bảo tàng Quân chủng, Cục Chính trị
- Xưởng In, Cục Chính trị
- Bệnh viện quân y 87, Cục Hậu cần[34]
- Kho K700, Cuc Hậu cần[35]
- Kho Xăng dầu, Cục Hậu cần[36]
- Kho K711, Cục Hậu cần[37]
- Kho K710, Cục Kỹ thuật[37]
- Kho K714, Cục Kỹ thuật[38]
- Kho K858, Cục Kỹ thuật[39]
- Nhà máy X46, Cục Kỹ thuật[40]
- Nhà máy X48, Cục Kỹ thuật[41]
- Nhà máy X50, Cục Kỹ thuật[42]
- Nhà máy X51, Cục Kỹ thuật[43]
- Nhà máy X52, Cục Kỹ thuật[44]
- Nhà máy X55, Cục Kỹ thuật[45]
- Nhà máy X56, Cục Kỹ thuật[46]
- Nhà máy X70, Cục Kỹ thuật[47]
Tổ chức chung
Tổ chức Hải quân Nhân dân Việt Nam từ cao đến thấp như sau:
- Bộ Tư lệnh Hải quân trực thuộc Bộ Quốc phòng
- Bộ Tư lệnh Vùng Hải quân (1, 2, 3, 4, 5)
- Lữ đoàn Hải quân
- Hải đoàn (tương đương với Tiểu đoàn Hải quân)
- Hải đội
Quân hàm Hải quân Việt Nam
- Trước năm 1981, quân hàm cấp tướng của quân chủng hải quân chưa có tên gọi riêng. Từ năm 1981, quân hàm các cấp tướng trong hải quân mới có tên gọi riêng, theo cách gọi của Liên Xô: Đô đốc (tương đương Thượng tướng), Phó Đô đốc (tương đương Trung tướng), Chuẩn Đô đốc (tương đương Thiếu tướng), được quy định lần đầu tiên trong Luật sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam ban hành ngày 31 tháng 12 năm 1981. Về phù hiệu và cấp hiệu quân hàm xem bài Quân đội Nhân dân Việt Nam.
- Trong lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam chỉ mới có 2 sĩ quan Hải quân lên tới cấp Đô đốc là Giáp Văn Cương (phong năm 1988) và Nguyễn Văn Hiến (phong năm 2011). Theo Luật sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam (2014) [48] thì Phó Đô đốc tương đương Trung tướng là bậc quân hàm cao nhất của quân nhân giữ chức vụ Tư lệnh và chính ủy Quân chủng Hải quân Việt Nam. Chỉ phong Đô đốc hải quân khi là Thứ trưởng quốc phòng, Phó tổng tham mưu trưởng,Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị kiêm nhiệm.
Tư lệnh qua các thời kỳ
STT | Họ tên Năm sinh-năm mất |
Thời gian đảm nhiệm | Cấp bậc tại nhiệm | Chức vụ cuối cùng | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|
1 | Tạ Xuân Thu | 1964-1964 | Thiếu tướng Hải quân (1961) | Chính ủy Học viện Quân sự | Tư lệnh kiêm Chính ủy đầu tiên của Quân chủng Hải quân |
2 | Nguyễn Bá Phát | 1964-1974 | Đại tá (1964) Thiếu tướng Hải quân (1974) |
Thứ trưởng Bộ Thủy sản | Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2010) |
3 | Đoàn Bá Khánh | 1974-1975 | Đại tá (1973) Thiếu tướng Hải quân (1975) |
||
4 | Nguyễn Bá Phát | 1976-1977 | Thiếu tướng Hải quân (1974) | Thứ trưởng Bộ Thủy sản | Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2010) |
5 | Giáp Văn Cương | 1977-1980 | Thiếu tướng (1974) Trung tướng Hải quân (1980) |
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2010) | |
6 | Đoàn Bá Khánh | 1981-1984 | Thiếu tướng Hải quân (1975) | ||
7 | Giáp Văn Cương | 1984-1990 | Phó Đô đốc (1980) Đô đốc (1988) |
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2010) | |
8 | Hoàng Hữu Thái | 1990-1994 | Phó Đô đốc (1990) | Tư lệnh Quân chủng | |
9 | Mai Xuân Vĩnh | 1994-1999 | Phó Đô đốc (1994) | ||
10 | Võ Nhân Huân (1946-1999) |
1999-1999 | Chuẩn Đô đốc (1999) | Quyền Tư lệnh, mất khi đang tại nhiệm | Ủy viên BCHTƯ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII |
11 | Đỗ Xuân Công | 2000-2004 | Chuẩn Đô đốc (1998) Phó Đô đốc (2002) |
Phó Chủ tịch Hội cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí Minh | |
12 | Nguyễn Văn Hiến | 2004-2015 | Phó Đô đốc (2004) Đô đốc (2011) |
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (2011-nay) | Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh |
13 | Phạm Hoài Nam | 2015-nay | Chuẩn Đô đốc (2014) | Uỷ viên BCHTW Đảng khoá XI |
Chính ủy qua các thời kỳ
STT | Họ tên Năm sinh-năm mất |
Thời gian đảm nhiệm | Cấp bậc tại nhiệm | Chức vụ cuối cùng | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|
1 | Tạ Xuân Thu | 1964-1966 | Thiếu tướng (1961) | Chính ủy Học viện Quân sự | Tư lệnh kiêm Chính ủy đầu tiên của Quân chủng Hải quân |
2 | Hoàng Trà | 1966-1967 | Đại tá | Thiếu tướng (1974) | Huân chương Độc lập hạng Nhất |
3 | Đoàn Phụng | 1967-1969 | Đại tá (1961) | ||
4 | Lương Tuấn Khang | 1969-1970 | Đại tá (1966) | Chính ủy Quân khu Tả ngạn | |
5 | Hoàng Trà | 1970-1974 | Thiếu tướng (1974) | Thiếu tướng (1974), Phó Chủ nhiệm Chính trị Tổng cục Hậu cần | Huân chương Độc lập hạng Nhất |
6 | Trần Văn Giang | 1974-1975 | Đại tá (1974) | Thiếu tướng Hải quân (1980), Phó Tư lệnh Chính trị Quân chủng | Huân chương Quân công hạng Nhất |
7 | Hoàng Trà | 1975-1979 | Thiếu tướng Hải quân (1974) | Phó Chủ nhiệm Chính trị Tổng cục Hậu cần | Huân chương Độc lập hạng Nhất |
8 | Trần Văn Giang | 1981-1986 | Chuẩn Đô đốc (1980) | Huân chương Quân công hạng Nhất | |
9 | Lê Văn Xuân | 1987-1995 | Chuẩn đô đốc (1984) Phó đô đốc (1992) |
Huân chương Quân công hạng Nhì | |
10 | Võ Nhân Huân (1946-1999) |
1995-1999 | Đại tá (1995) Chuẩn Đô đốc (1999) |
Quyền Tư lệnh Quân chủng Hải quân (1999-1999) | Mất khi đang làm nhiêm vụ |
11 | Nguyễn Văn Tình | 2000-2008 | Chuẩn đô đốc (2001) Phó Đô đốc (2004) |
Bí thư đảng ủy, Chính ủy Quân chủng Hải quân | Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1969) |
12 | Trần Thanh Huyền | 2008-2012 | Chuẩn Đô đốc (2006) Phó Đô đốc (2010) |
||
13 | Đinh Gia Thật | 2012-nay | Chuẩn Đô đốc (2011) | Bí thư đảng ủy, Chính ủy Quân chủng Hải quân |
Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng qua các thời kỳ
STT | Họ tên Năm sinh-năm mất |
Thời gian đảm nhiệm | Cấp bậc tại nhiệm | Chức vụ cuối cùng | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|
1 | Trần Thanh Từ | 1964-1967 | Thượng tá (1959) Đại tá (1966) |
Trung tướng (1986), Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật | Tham mưu trưởng đầu tiên của Quân chủng Hải quân |
2 | Nguyễn Xáng(Dũng Mã) | 1967-1970 | Thượng tá (1966) | Thiếu tướng (1984), Cục trưởng Cục Kế hoạch huấn luyện, Học viện Quân sự cao cấp | Huân chương Quân công hạng nhất |
3 | Đoàn Bá Khánh | 1970-1970 | Thượng tá (1970) | Thiếu tướng Hải quân (1975), Tư lệnh Quân chủng | |
4 | Nguyễn Dưỡng | 1970-1977 | Thượng tá (1970) Đại tá (1974) |
Thiếu tướng Hải quân (1980), Phó tư lệnh Quân chủng | |
5 | Hoàng Hữu Thái | 1977-1982 | Đại tá | Phó Đô đốc, Tư lệnh Quân chủng | |
6 | Mai Xuân Vĩnh | 1982-1991 | Chuẩn đô đốc (1984) | Phó Đô đốc, Tư lệnh Quân chủng | |
7 | Trương Tải | 1991-1995 | Đại tá | ||
8 | Trần Quang Khuê | 1996-2000 | Đại tá Chuẩn đô đốc |
Trung tướng (2008), Phó tổng tham mưu trưởng | |
9 | Nguyễn Văn Hiến | 2000-2004 | Chuẩn Đô đốc (2000) | Phó Đô đốc (2004), Đô đốc (2011), Tư lệnh Quân chủng | |
10 | Phạm Ngọc Minh | 2005-2013 | Chuẩn đô đốc (2007) Phó Đô đốc (2012) |
Phó Tổng Tham mưu trưởng (2013-) | |
11 | Phạm Hoài Nam | 2013–2015 | Chuẩn đô đốc (2014) | Tư lệnh Quân chủng Hải quân | |
12 | Phạm Xuân Điệp | 2015-nay | Chuẩn đô đốc (2012) | nguyên Tư lệnh Vùng 2 Hải quân |
Phó Tư lệnh qua các thời kỳ
- 1980-1990, Nguyễn Dưỡng (sinh 1928), Chuẩn Đô đốc (1980)
- 2004-2010, Phan Khuê Tảo, Thiếu tướng (2002), nguyên Tư lệnh Quân đoàn 1 (2002-2004)
- Lê Văn Đạo, Chuẩn Đô đốc (2006)
- 2008-2012, Trần Đình Xuyên, Chuẩn Đô đốc (2008)
- 2009-nay, Nguyễn Viết Nhiên, Chuẩn Đô đốc (2009)
- 2010-nay, Nguyễn Văn Ninh, Chuẩn Đô đốc (2010)[49], nguyên Cục trưởng Cục Kỹ thuật Quân chủng Hải quân
- 2012-nay, Lê Minh Thành, Chuẩn Đô đốc (2012)[50], nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 370, Quân chủng PK-KQ[51]
- 2014-7.2015, Phạm Xuân Điệp, Chuẩn Đô đốc (2012), nguyên Tư lệnh Vùng 2 Hải quân[52], nay là Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng QCHQ
- 5.2015-nay, Ngô Sĩ Quyết, Chuẩn Đô đốc (2012), nguyên Tư lệnh Vùng 3 Hải quân[53]
Phó Chính ủy qua các thời kỳ
- 2008-2011, Nguyễn Cộng Hòa, Chuẩn Đô đốc (1.2008), nguyên Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng Hải quân
- 2011-2013, Đinh Gia Thật, Chuẩn Đô đốc (2011), Chính ủy Quân chủng Hải quân
- 2013-7.2015, Nguyễn Ngọc Tương, Chuẩn Đô đốc (2013), nguyên Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng Hải quân, nay là Phó Chính ủy Học viện Quốc phòng
- 7.2015-nay, Đặng Minh Hải, Chuẩn đô đốc . nguyên Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng Hải quân[54]
Các tướng lĩnh khác
- Phạm Văn Sơn, Chuẩn Đô đốc, Phó Cục trưởng Cục Chính trị, Quân chủng Hải quân
- Đỗ Viết Cường, Chuẩn Đô đốc (1.2008), nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân
- Nguyễn Đức Nho, Chuẩn Đô đốc (2013), Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân[55]
- Nguyễn Thế Ân, Chuẩn Đô đốc, Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân
- Đỗ Minh Thái, Chuẩn Đô đốc, Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân
- Lê Bá Sổ, Chuẩn Đô đốc, Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân
- Nguyễn Văn Kiệm, Chuẩn Đô đốc, Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân
Trang bị
Tàu chiến
Hình ảnh | Nước SX | Tên | Số lượng | Trọng tải | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tàu ngầm | |||||||||||||
![]() |
![]() |
Kilo 636MV | 6 (đã bàn giao 4 chiếc) | 2,300-2,350 tấn (nổi), 3,000-4,000 tấn (lặn) | |||||||||
Gepard 3.9[56] | 6 (đã bàn giao 2 chiếc) | 2100 tấn | |||||||||||
chiếc đóng tại Vlissingen, 1 chiếc đóng tại Việt Nam) | 2150 tấn[58] | ||||||||||||
![]() |
![]() |
Petya II | 3 | 1077 tấn | |||||||||
1040 tấn | |||||||||||||
iệt Nam | BPS-500 | 1 | 517 tấn | ||||||||||
![]() |
![]() |
Tarantul | 4 | 455 tấn | |||||||||
![]() |
Molniya | 12 (đã bàn giao 6 chiếc) | 550 tấn | ||||||||||
![]() |
Mirage | 4 | 127,1 tấn | ||||||||||
![]() |
![]() |
Osa II | 8 | 209 tấn | |||||||||
ôi | |||||||||||||
![]() |
![]() |
Turya | 5 | 250 tấn | |||||||||
172 tấn | |||||||||||||
urka | 2 | 519 tấn | |||||||||||
4 | 450 tấn | ||||||||||||
Tàu pháo | |||||||||||||
![]() |
SO-1 | 4 | 213 tấn | ||||||||||
480 tấn (đầy tải) | |||||||||||||
42) | 1 | 1,651 tấn lúc rỗng, 4,145 tấn lúc đầy | |||||||||||
LSM Polnocny-B (kế hoạch 771) | 3 | 834 tấn lúc rỗng, khoảng 1500 tấn lúc đầy | |||||||||||
466 | Không rõ | 180 tấn lúc rỗng, 360 tấn lúc đầy | |||||||||||
![]() |
Tàu lớp ST-2300 | 03 | 80 tấn lúc rỗng, 153 tấn lúc đầy tải | ||||||||||
![]() |
Tàu lớp LCM-8 | 16 | 58,7 tấn lúc rỗng, 111,4 tấn lúc đầy tải | ||||||||||
![]() |
Tàu lớp Hùng Vương | 2 | 600 tấn lúc đầy tải | ||||||||||
![]() |
Tàu lớp ST-194 | 3 | 140 tấn | ||||||||||
Tàu vận tải | |||||||||||||
![]() |
Tàu lớp 996 | 1 | 2.050 tấn | ||||||||||
![]() |
Tàu vận tải lớp K 122 | 1 | 2.050 tấn | ||||||||||
![]() |
Tàu vận tải lớp Trường Sa | 5 | |||||||||||
Tàu tuần tiễu | |||||||||||||
![]() |
Tàu lớp ST-250 | 2 | 29.5 x 6.7 | ||||||||||
![]() |
Tàu lớp ST-176A | 2 | 19 x 5.1 | ||||||||||
![]() |
Tàu lớp PCF | Không rõ số lượng | 16 tấn | 15 x 4 | |||||||||
Tàu bệnh viện | |||||||||||||
![]() |
Tàu bệnh viện Khánh Hòa 561 | 1 | 2.068 tấn | 70,62 x 13,22 x 3,5 | |||||||||
Tàu hỗ trợ | |||||||||||||
![]() |
Tàu kéo hậu cần (Kế hoạch 745) ATA | 1 | |||||||||||
![]() |
Tàu Voda (MTV-6/Kế hoạch 561) AWT | 1 | |||||||||||
![]() |
Tàu lặn tiếp liệu Nyrat-2 (Kế hoạch 376U) (YDT) | 2 | |||||||||||
Floating drydocks (YFDL) | 2 | ||||||||||||
![]() |
PO-2 (Kế hoạch 376) YFL | 2 | |||||||||||
![]() |
Tàu chở dầu ex-US 53-meter (YO) | 2 | |||||||||||
![]() |
Tàu kéo Chaolocco (YTM) | 2+ | |||||||||||
Harbor tub (YTL) | 9 |
Tên lửa
Nước SX | Tên | Ghi chú |
---|---|---|
Tên lửa phòng thủ bờ biển | ||
![]() |
P-5 Pyatyorka/SS-N-3/SS-C-1 Shaddock | Tên lửa chống hạm |
![]() |
P-15 Termit Termit/SS-N-2/SS-C-3 Styx | Tên lửa chống hạm |
![]() ![]() |
P-270 Moskit Moskit/SS-N-22 Sunburn | Tên lửa chống hạm |
![]() |
P-800 Oniks/SS-N-26/SS-C-5 Yakhont | Tên lửa siêu âm chống hạm tầm thấp hay còn được biết dưới tên gọi hệ thống phòng thủ Bastion. |
Tên lửa sử dụng trên tàu chiến | ||
![]() |
P-15 Termit/SS-N-2A/B Styx | Tên lửa chống hạm. Trang bị trên các tàu PTG và tàu tuần tra. |
![]() |
Kh-35 Uran/SS-N-25 Switchblade 3M-24E | Tên lửa hạ âm chống hạm tầm thấp. Trang bị trên khu trục hạm Gepard. |
![]() |
Exocet MM40 Block 3+ Exocet | Tên lửa hạ âm chống hạm tầm thấp. Trang bị trên khu trục hạm Sigma. |
![]() |
3M-54E1 Klub-S Klub-S | Tên lửa siêu âm chống hạm tầm thấp. Trang bị trên ngầm Kilo. |
Tên lửa không đối đất | ||
![]() |
Kh-31 Krypton | Tên lửa chống hạm siêu âm |
![]() |
P-800 Oniks/Yakhont | Phiên bản không đối đất của tên lửa Yakhont-M |
Máy bay
Ảnh | Nước SX | Tên | Số lượng | Ghi chú |
---|---|---|---|---|
Trực thăng | ||||
![]() |
Ka-27 | 8 | Trực thăng săn ngầm | |
![]() |
Ka-32 | 1 | Trực thăng cứu hộ | |
![]() |
Mi-171 | 22 | Trực thăng vận tải, cứu hộ | |
![]() |
EC-225 | 2 | Trực thăng vận tải,trinh sát | |
![]() |
SA-365 N2 | 6 | Trực thăng săn ngầm-vận tải-cứu hộ | |
Máy bay cánh cố định | ||||
![]() |
DHC-6[59] | 6[60] | Máy bay tuần tra biển |
Phong tặng
- Huân chương Sao vàng (hai lần, lần 2 năm 2010) [61]
- Danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Lệnh số 316/KT-HĐNN8, ngày 13 tháng 12 năm 1989.
- 1 huân chương Sao vàng (thành tích 30 năm xây dựng Quân chủng, Lệnh số 721/KT-HĐNN7 ngày 18 tháng 7 năm 1985).
- 1 huân chương Hồ Chí Minh (thành tích 20 năm xây dựng trưởng thành và làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, ngày 18 tháng 3 năm 1979).
- 1 huân chương Độc lập hạng nhất (nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam và thời kỳ đổi mới), Lệnh số 166/KT-CTN ngày 4 tháng 5 năm 2000.
- 1 huân chương Độc lập hạng nhì (thành tích 10 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân chủng, Lệnh số 9/LCT ngày 29 tháng 8 năm 1965).
- 1 huân chương Quân công hạng nhất (thành tích 40 năm xây dựng và chiến đấu của Quân chủng, Lệnh số 580/KT-CTN ngày 10 tháng 12 năm 1984).
- 1 huân chương Quân công hạng nhì (về thành tích xuất sắc trong chiến đấu đánh thắng trận đầu, Lệnh số 31/LCT ngày 7 tháng 8 năm 1964).
- 1 huân chương Quân công hạng nhì thành tích làm nhiệm vụ chiến đấu ở Tây Nam và nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia, Lệnh số 286/HĐNN7 ngày 20 tháng 3 năm 1983).
- 1 huân chương Lao động hạng ba
Tài liệu tham khảo
- World Navies Today: Vietnam
- Hình ảnh chiến hạm HQNHVN
- Hình chiếc hải phòng hạm mới (kiểu Gepard) đang hoàn thành tại Sint Petersburg – 10/2010
Chú thích
- ^ “tu-lenh-quan-chung-hai-quan-tham-bo-tu-lenh-bdbp”.
- ^ VietNamNet, Ngày này năm xưa
- ^ Thanh Niên, Quân chủng Hải quân đánh thắng trận đầu: Cuộc giáng trả đanh thép 40 năm trước, 04/08/2004
- ^ Thành lập Cục Hải quân (theo Nghị định số 320/1959/NĐ của Bộ Quốc phòng)
- ^ Theo Quyết định số 35/QĐ của Tổng Quân ủy năm 1959
- ^ Theo Quyết định số 74/QP của Bộ Quốc phòng 3/8/1961
- ^ Theo Quyết định số 97/QP của Bộ Quốc phòng (ký ngày 23/10/1961)
- ^ Theo Quyết định số 01/QP của Bộ Quốc phòng (ngày 03/1/1964)
- ^ Thành lập Cục Kỹ thuật theo Quyết định số 87/QĐ của Bộ Quốc phòng ký ngày 6/5/1970
- ^ Theo Quyết định số 113/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng ngày 5/9/1975
- ^ Theo Quyết định số 503/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng ngày 5/7/1978
- ^ Theo Quyết định số 543/QĐ-TM của Bộ Tổng Tham mưu ngày 23/6/1979
- ^ “Nâng cấp Vùng Hải quân lên thành Bộ Tư lệnh Vùng Hải quân năm 2011”.
- ^ Việt Nam lập Lữ đoàn Không quân hải quân 954
- ^ “Kỷ niệm 55 năm thành lập Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Hậu cần Hải quân”.
- ^ “Chuẩn Đô đốc Đặng Minh Hải: Cục Chính trị phải là đơn vị mẫu”.
- ^ “Ngành Hậu cần Hải quân trước nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới”.
- ^ “Hải quân Việt Nam: Tin tưởng vào khả năng làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật”.
- ^ “Bàn giao Lữ đoàn Không quân 954 về Quân chủng Hải quân”.
- ^ “Lữ đoàn 147 – “quả đấm thép” của Hải quân Việt Nam”.
- ^ “Lữ đoàn 101, Quân chủng Hải quân: Phát huy nội lực, nỗ lực vượt khó”.
- ^ “Lữ đoàn 125 phát huy truyền thống “Đoàn tàu không số””.
- ^ “’Người nhái’ ở Đoàn M26 Đặc công Hải quân năm 2007”.
- ^ “Lần đầu xem Lữ đoàn tàu ngầm 189 huấn luyện”.
- ^ “Lữ đoàn Công binh 83 Hải quân đón nhận Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất”.
- ^ “Lữ đoàn 602 bảo đảm vững chắc thông tin liên lạc theo lời Bác Hồ dạy”.
- ^ “Hải đoàn 128 hải quân phát huy truyền thống vẻ vang”.
- ^ “Hải Đoàn 129 cứu hộ 7 ngư dân gặp nạn tại Trường Sa”.
- ^ “Hải quân Việt Nam ra quân huấn luyện”.
- ^ “Những nữ sinh tài năng của Học viện Kỹ thuật quân sự”.
- ^ “Những “cô Tấm” của Viện Y học Hải quân”.
- ^ “Trang chủ tân cảng”.
- ^ “Báo Hải quân đón nhận Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba”.
- ^ “Hải quân Việt Nam tăng cường hợp tác quốc tế về Y học dưới nước”.
- ^ “Bế mạc Hội thi Kỹ thuật Tăng – Thiết giáp Quân chủng Hải quân 2012”.
- ^ “Đổi mới phương thức bảo đảm xăng dầu phù hợp cho lực lượng hải quân”.
- ^ a ă “Thăm hỏi, động viên các đơn vị nhân kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Quân đội”.
- ^ “K 714 – Quân chủng Hải quân chúc mừng các cơ quan báo chí tại Thừa Thiên Huế”.
- ^ “Hơn 10% tổng số xe tham gia hội thi kỹ thuật tăng, thiết giáp”.
- ^ “Nhà máy X46 – Cục Phòng thủ bờ biển kỷ niệm 60 năm thành lập”.
- ^ “Nhà máy X48- Cục Kỹ thuật Hải quân: Đón nhận Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba”.
- ^ “Sức xuân ở nhà máy X50 Hải quân”.
- ^ “Nhà máy X51: Thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng và làm kinh tế giỏi”.
- ^ “Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm các đơn vị hải quân”.
- ^ “Nhà máy X55 – 35 năm vượt sóng”.
- ^ “Kiểm tra công tác bảo đảm kỹ thuật tại một số đơn vị thuộc Quân chủng Hải quân”.
- ^ “Nhà máy X70 Hải quân: Đặt lên hàng đầu công tác bảo đảm an toàn”.
- ^ Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1999
- ^ “Diện mạo mới của Hải quân Việt Nam”.
- ^ “Bộ Tư lệnh Hải quân bàn giao và ra mắt Phi đội thủy phi cơ DHC-6”.
- ^ “Bão có khả năng thành áp thấp nhiệt đới”.
- ^ “Vùng 2 Hải quân ra quân huấn luyện năm 2014”.
- ^ “Tưởng niệm, tri ân các anh hùng, liệt sỹ đã hy sinh vì biển đảo quê hương”.
- ^ “Báo Hải quân đón nhận Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba”.
- ^ “Không xa đâu, Trường Sa ơi”.
- ^ [1] Projet 1166.1 Gepard 3.9
- ^ Việt Nam mua 2 hộ vệ hạm Sigma
- ^ http://kienthuc.net.vn/quan-su-viet-nam/can-canh-tau-ho-ve-ten-lua-sigma-9814-viet-nam-314444.html?p=19
- ^ Thành lập Phi đội thủy phi cơ DHC-6 Không quân Hải quân Việt Nam
- ^ Việt Nam sắp có máy bay trinh sát, tuần tra biển
- ^ [2] Hải quân là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên biển, đảo – Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 21:41 | 07/05/2010.
Liên kết ngoài
- Hải quân Nhân dân Việt Nam
- Huân chương Sao Vàng
- Quân đội Nhân dân Việt Nam
- Bộ Quốc phòng Việt Nam
- Quân sự Việt Nam
- Danh hiệu Việt Nam
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ
|
|
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ là sự kiện được cho là hai cuộc tấn công của Hải quân Nhân dân Việt Nam chống lại hai tàu khu trục USS Maddox và USS Turner Joy của Hải quân Mỹ. Hai cuộc tấn công được cho là đã xảy ra vào các ngày 2 tháng 8 và 4 tháng 8 năm 1964 ở vịnh Bắc Bộ. Cuộc tấn công đầu được cả 2 bên xác nhận, nhưng cuộc tấn công sau đã được khẳng định chỉ là sự nhầm lẫn của Hoa Kỳ, nhưng lại trở thành cái cớ để Hoa Kỳ mở màn chiến dịch dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam.
Mục lục
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ lần thứ nhất
Ngày 2 tháng 8, năm 1964, tàu khu trục USS Maddox, trong khi thực hiện một cuộc tuần tra thông tin tình báo tín hiệu như là một phần của chiến dịch DeSoto, đã đụng độ với ba tàu phóng ngư lôi của hải quân miền Bắc Việt Nam thuộc Đoàn tàu phóng ngư lôi 135 [1]. Một trận hải chiến xảy ra, trong đó Maddox sử dụng hơn 280 đạn pháo 3-inch và 5-inch, cùng bốn máy bay tiêm kích USN F-8 Crusader oanh tạc các tàu phóng ngư lôi. Một máy bay Mỹ đã bị hư hỏng, tàu khu trục bị một vết đạn 14,5 mm. Ba tàu ngư lôi Bắc Việt Nam bị hư hỏng, bốn thủy thủ Bắc Việt Nam thiệt mạng và sáu người bị thương, phía Mỹ không có thương vong[5]
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ lần thứ hai
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ lần thứ hai đã được tuyên bố bởi Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, xảy ra vào ngày 4 tháng 8 năm 1964, như là một trận hải chiến. Nhưng thực sự không có tàu ngư lôi Bắc Việt tấn công, thay vào đó chúng có thể là “Tonkin Ghosts” (“Những bóng ma vịnh Bắc Bộ”, tức là các tín hiệu radar lỗi)[6].
Năm 1995 Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thừa nhận sự kiện ngày 2 tháng 8 là có thật, nhưng ông phủ nhận sự tồn tại của vụ tấn công ngày 4 tháng 8. Ông tin rằng hôm đó tàu chiến Mỹ cố khiêu khích một cuộc tấn công để tổng thống Johnson có cớ để leo thang chiến tranh[7].
Trong một cuốn băng thu âm được giải mật năm 2001, tổng thống Lyndon B. Johnson thừa nhận rằng vụ thứ hai trong sự kiện Vịnh Bắc Bộ chưa hề xảy ra[8].
Các nghiên cứu sau này, trong đó có một báo cáo năm 2005 của Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ khẳng định cuộc tấn công thứ hai đã không xảy ra. Báo cáo này cũng đã cố gắng xua đi giả thuyết từ lâu rằng các thành viên của nội các tổng thống Lyndon B. Johnson đã cố tình nói dối về bản chất của sự kiện này[9].
Đầu tháng 1 năm 2008, Hiệp hội các nhà khoa học Hoa Kỳ (FAS) cho biết Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ đã giải mật bản báo cáo Spartans in Darkness[10] trong đó khẳng định Hải quân Nhân dân Việt Nam không hề tấn công tàu chiến Hoa Kỳ trong đêm 4 tháng 8 năm 1964[11][12].
Hậu quả
Ngày 5 tháng 8 năm 1964, ngay sau sự kiện thứ 2, Hải quân Mỹ trả đũa bằng chiến dịch Mũi Tên Xuyên ném bom một số cửa biển quan trọng ở miền Bắc Việt Nam, chiến dịch này đã mở đầu cuộc chiến tranh tàn phá trong 9 năm bằng không quân và hải quân quy mô lớn đối với miền Bắc Việt Nam.
Ngày 7 tháng 8 năm 1964, 3 ngày sau sự kiện thứ 2, Quốc hội Mỹ thông qua Nghị quyết Đông Nam Á (được biết nhiều hơn với cái tên Nghị quyết vịnh Bắc Bộ) cho Johnson quyền hỗ trợ bất kỳ quốc gia Đông Nam Á nào mà chính phủ nước đó được xem là bị đe dọa bởi “sự hiếu chiến của cộng sản”. Nghị quyết này đã trở thành sự biện minh hợp pháp cho việc Mỹ leo thang chiến tranh tại Việt Nam.
Nghị quyết vịnh Bắc Bộ
Loạt bài Chiến tranh Việt Nam |
---|
Giai đoạn 1954–1959 |
Thuyết Domino |
Hoa Kỳ can thiệp |
Miền Bắc – Miền Nam |
Giai đoạn 1960–1965 |
Diễn biến Quốc tế – Miền Nam |
Kế hoạch Staley-Taylor |
Chiến tranh đặc biệt |
Đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm |
Giai đoạn 1965–1968 |
Miền Bắc Chiến dịch: Sự kiện Vịnh Bắc Bộ Mũi Tên Xuyên –Sấm Rền |
Miền Nam Chiến tranh cục bộ Chiến dịch: Các chiến dịch Tìm-Diệt Phượng Hoàng –Tết Mậu Thân, 1968 |
Diễn biến Quốc tế |
Giai đoạn 1968–1972 |
Diễn biến Quốc tế |
Việt Nam hóa chiến tranh |
Hội nghị Paris |
Hiệp định Paris |
Chiến dịch: Lam Sơn 719 – Chiến cục năm 1972 – Hè 1972 –Mặt trận phòng không 1972 –Phòng không Hà Nội 12 ngày đêm |
Giai đoạn 1973–1975 |
Chiến dịch: Xuân 1975 Phước Long |
Tây Nguyên –Huế – Đà Nẵng Phan Rang – Xuân Lộc |
Hồ Chí Minh |
Trường Sa và các đảo trên Biển Đông |
Sự kiện 30 tháng 4, 1975 |
Hậu quả chiến tranh |
Tổn thất nhân mạng |
Tội ác của Hoa Kỳ và đồng minh |
Chất độc da cam |
Thuyền nhân |
sửatiêu bản |
Nghị quyết do Quốc hội Hoa Kỳ thông qua vào ngày 7/8/1964 dựa trên lý do sự kiện vịnh Bắc Bộ. Cho phép tổng thống Hoa Kỳ Johnson lúc bấy giờ “được áp dụng mọi biện pháp cần thiết, đẩy lùi bất cứ một cuộc tiến công vũ trang nào chống lại lực lượng Hoa Kỳ và sẵn sàng tiến hành mọi bước cần thiết, kể cả dùng lực lượng vũ trang để giúp đỡ bất kì một nước đồng minh nào cần đến sự giúp đỡ để bảo vệ nền tự do của mình”. Đây là cơ sở để Johnson mở đầu chiến tranh phá hoại ở Miền Bắc Việt Nam một cách hợp pháp, tiến hành chiến tranh hạn chế ở Miền Nam Việt Nam.
Ngày 12/1/1971, do sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Hoa Kỳ, dư luận quốc tế và cả Quốc hội Hoa Kỳ, tổng thống Nixon đã phải kí văn bản chính thức bãi bỏ Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ.
Tham khảo
- Ellsberg, Daniel (2002). Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers. New York: Viking.
- ^ a ă Moïse 1996, tr. 78.
- ^ Moïse 1996, tr. 82.
- ^ Moïse 1996, tr. 82, 83.
- ^ Moïse 1996, tr. 92.
- ^ Moïse 1996, tr. 78, 82, 92.
- ^ Moïse 1996, tr. 106, 107.
- ^ McNamara asks Giap: What happened in Tonkin Gulf?, Associated Press, 1995
- ^ LBJ tape ‘confirms Vietnam war error’, Martin Fletcher, The Times, Nov 7th, 2001
- ^ John Prados, The Gulf of Tonkin Incident, 40 Years Later: Flawed Intelligence and the Decision for War in Vietnam, National_Security_Archive | National Security Archive at George Washington University, 2004, cập nhật năm 2005
- ^ Robert J. Hanyok, Spartans in Darkness: American SIGINT and the Indochina War, 1945-1975 (toàn văn tài liệu được giải mật), Center for Cryptologic History, National Security Agency, 2002. Đoạn nói đến sự kiện Vịnh Bắc Bộ tại Chương 5. trang 177.
- ^ [http://www.fas.org/sgp/news/secrecy/2008/01/010708.html Tin mật, Hiệp hội các nhà khoa học Hoa Kỳ (FAS), tập 2008, số 3, 7 tháng 1 năm 2008
- ^ Báo Tuổi Trẻ, “Sự kiện vịnh Bắc bộ” là bịa đặt, 10/01/2008
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Sự kiện Vịnh Bắc Bộ |
Tiếng Việt:
Tiếng Anh:
- The Gulf of Tonkin Incident, 40 Years Later; Flawed Intelligence and the Decision for War in Vietnam — National Security Archive at George Washington University
- NSA declassified documents released on 11/30/05
- Vietnam Study, Casting Doubts, Remains Secret
- From Vietnam to Iraq: Lessons from Tonkin Gulf Lies by Dr. Mohammad Omar Farooq
- Tonkin Gulf reports cooked? Historian’s research finds intelligence errors covered up
- LBJ’s address to the nation, ngày 5 tháng 8 năm 1964
- Pentagon Papers[1]
- Cronkite: Gulf of Tonkin’s Phantom Attack
- US Navy Historical Site showing charts and photos of the incident
- Analysis Casts Doubt on Vietnam War Claims — Calvin Woodward, Associated Press, Dec. 1, 2005. “A spy-agency analysis released Thursday contends a second attack on U.S. ships in the Gulf of Tonkin never happened, casting further doubt on the leading rationale for escalation of the Vietnam War.”
- Robert J. Hanyok, “Skunks, Bogies, Silent Hounds, and the Flying Fish: The Gulf of Tonkin Mystery, 2–ngày 4 tháng 8 năm 1964” Cryptologic Quarterly, Winter 2000/Spring 2001 Edition, Vol. 19, No. 4 / Vol. 20, No. 1.
- 30-year Anniversary: Tonkin Gulf Lie Launched Vietnam War — Fairness & Accuracy In Reporting (FAIR): Media Beat ngày 27 tháng 7 năm 1994
- Tonkin Gulf Intelligence “Skewed” According to Official History and Intercepts — National Security Archive at George Washington University
- Ronnie E. Ford “New Light on Gulf of Tonkin”
- Original Document: Tonkin Gulf Resolution
- Sơ khai Hoa Kỳ
- Trận đánh và chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam
- Mật mã học
- Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ
- Vịnh Bắc Bộ
- Sự kiện chính trị
- Sự kiện lịch sử Việt Nam
- Chiến tranh Việt Nam
- Xung đột năm 1964
- Việt Nam 1964
Nelson Mandela
Nelson Mandela | |
---|---|
![]() Mandela vào năm 2008
|
|
Chức vụ
|
|
Nhiệm kỳ | 10 tháng 5 năm 1994 – 14 tháng 6 năm 1999 |
Tiền nhiệm | Frederik Willem de Klerk Vai trò Tổng thống Nam Phi |
Kế nhiệm | Thabo Mbeki |
Nhiệm kỳ | 3 tháng 9 năm 1998 – 14 tháng 6 năm 1999 |
Tiền nhiệm | Andrés Pastrana Arango |
Kế nhiệm | Thabo Mbeki |
Thông tin chung
|
|
Đảng phái | Đại hội Quốc gia châu Phi |
Sinh | 18 tháng 7, 1918 Mvezo, Liên hiệp Nam Phi |
Mất | 5 tháng 12, 2013 (95 tuổi) Johannesburg, Nam Phi |
Nơi ở | Điền trang Houghton, Nam Phi |
Alma mater | Đại học Fort Hare Đại học London External System Đại học Nam Phi Đại học Witwatersrand |
Tôn giáo | Tin Lành |
Trang web | Quỹ Mandela |
Chữ ký | ![]() |
Nelson Rolihlahla Mandela (IPA: [xoˈliɬaɬa manˈdeːla]), 18 tháng 7, 1918 – 5 tháng 12, 2013)[1] là Tổng thống Nam Phi từ năm 1994 đến 1999, và là tổng thống Nam Phi đầu tiên được bầu cử dân chủ theo phương thức phổ thông đầu phiếu. Trước khi trở thành tổng thống, Mandela là nhà hoạt động chống chủ nghĩa apartheid (chủ nghĩa phân biệt chủng tộc), và là người đứng đầu Umkhonto we Sizwe, phái vũ trang của Đảng Đại hội Dân tộc Phi (ANC). Vào năm 1962 ông bị bắt giữ và bị buộc tội phá hoại chính trị cùng các tội danh khác, và bị tuyên án tù chung thân. Mandela đã trải qua 27 năm trong lao tù, phần lớn thời gian là ở tại Đảo Robben. Sau khi được trả tự do vào ngày 11 tháng 2 năm 1990, Mandela đã lãnh đạo đảng của ông trong cuộc thương nghị để tiến tới một nền dân chủ đa sắc tộc vào năm 1994. Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình từ năm 1994 đến 1999, Mandela thường ưu tiên cho vấn đề hòa giải dân tộc.
Tại Nam Phi, Mandela còn được biết tới với tên gọi Madiba, một tước hiệu danh dự mà bộ lạc của ông thường trao cho những già làng.
Mandela đã nhận hơn 250 giải thưởng trong hơn bốn thập niên, trong đó có Giải Nobel Hòa bình năm 1993.
Mục lục
Thơ ấu
Nelson Mandela thuộc chi nhỏ nhất của dòng họ phong kiến Thembu, trị vì các lãnh thổ Transkei thuộc tỉnh Cape của Nam Phi.[3] Ông sinh ra tại Mvezo, một ngôi làng nhỏ thuộc huyện Umtata, thủ phủ của Transkei.[3] Ông cố ruột Ngubengcuka của ông (mất năm 1832) đã trị vì với danh hiệu Inkosi Enkhulu, tức là vua của người Thembu.[4] Một trong những con trai của nhà vua, có tên là Mandela, chính là ông nội của Nelson và đây chính là nguồn gốc họ Mandela của ông. Tuy nhiên, vì ông là con trai của Inkosi với một người vợ thuộc bộ tộc Ixhiba (gọi là “Tả gia”[5]), các con cháu thuộc chi này tuy vẫn thuộc Hoàng gia nhưng không bao giờ được thừa kế ngai vàng Thembu.
Cha của Nelson Mandela, Gadla Henry Mphakanyiswa, là người đứng đầu bộ lạc ở thị trấn Mvezo.[6] Tuy vậy, do không được chính quyền thuộc địa vừa lòng, Mphakanyiswa bị tước chức và cả gia đình bị chuyển đến Qunu. Dù vậy, Mphakanyiswa vẫn là thành viên Hội đồng Cơ mật của Inkosi, và đóng vai trò là người hỗ trợ cho Jongintaba Dalindyebo lên ngôi quốc vương Thembu. Dalindyebo sau này đã trả ơn ông bằng cách nhận nuôi Mandela sau khi Mphakanyiswa chết.[7] Cha của Mandela có bốn bà vợ, sinh tổng cộng 13 người con (bốn trai, chín gái).[7] Mandela là con của bà vợ thứ ba, Nosekeni Fanny. Fanny là con của Nkedama thuộc bộ tộc Mpemvu Xhosa, thuộc về nhà Hữu gia, là vùng đất nơi Mandela đã trải qua phần lớn thời thơ ấu.[8] Tên của ông Rolihlahla có nghĩa là “kéo cành cây”, hay một cách thông tục, có nghĩa là “kẻ gây rối”.[9][10]
Rolihlahla Mandela là người đầu tiên trong gia đình được đi học, tại đó cô giáo Mdingane đã đặt cho ông một cái tên tiếng Anh là “Nelson”.[11]
Lúc Mandela lên chín, cha ông qua đời vì bệnh lao phổi, quan nhiếp chính Jongintaba trở thành người giám hộ hợp pháp của ông.[7] Mandela đi học trường truyền giáo thuộc Hội Giám lý nằm kế bên lâu đài của quan nhiếp chính. Theo phong tục của người Thembu, ông được thụ giáo lúc 16 tuổi, rồi đi học Học viện Clarkebury Boarding.[12] Mandela đã hoàn tất Bằng sơ trung học chỉ trong vòng hai năm, thay vì ba năm như thông thường.[12] Để chuẩn bị thừa kế vị trí thành viên Hội đồng Cơ mật của cha mình, năm 1937, Mandela chuyển đến trường Healdtown, ngôi trường tại Fort Beaufort, nơi hầu hết con cháu hoàng tộc Thembu đều đi học.[13] Vào lúc 19 tuổi, ông bắt đầu quan tâm đến bộ môn quyền anh và chạy bộ tại trường.[8]
Sau đó, ông đậu vào học bằng Cử nhân tại Trường Đại học Fort Hare, nơi ông đã gặp Oliver Tambo. Tambo và Mandela sau này là những người bạn và đồng nghiệp thân thiết. Mandela cũng kết bạn với người bà con Kaiser (“K.D.”) Matanzima, người thuộc dòng trực hệ của Hữu gia của người Thembu, là người thừa kế ngai vàng Transkei[5], vì vai trò mà sau đó đã đưa ông đến với chính sách Bantustan. Chính sự ủng hộ chính sách này của ông và Mandela đã khiến hai người trở thành phe chính trị đối lập.[8] Cuối năm thứ nhất, Mandela tham gia vào vụ tẩy chay của Hội sinh viên nhằm chống lại quy định của trường đại học, và bị buộc phải rời trường Fort Hare không được trở lại chừng nào ông chưa chấp nhận cuộc bầu cử của vào Hội.[14] Sau này, lúc ở trong tù, Mandela đã học bằng Cử nhân luật của Chương trình đào tạo từ xa của Đại học Luân Đôn.
Một thời gian ngắn sau khi rời Fort Hare, Jongintaba đã thông báo với Mandela và Justice (con của quan nhiếp chính và là người thừa kế ngai vàng) rằng ông đã sắp xếp đám cưới cho cả hai người. Những thanh niên trẻ không vừa lòng với sự sắp đặt này, và quyết định chuyển đến sống ở Johannesburg.[15] Khi đến Johannesburg, Mandela xin một chân canh gác tại một khu mỏ.[16] Tuy nhiên, ông chủ lập tức đuổi việc Mandela khi hay rằng ông là con nuôi đang chạy trốn của Quan nhiếp chính. Mandela chuyển sang làm tập sự ở một công ty luật ở Johannesburg, Witkin, Sidelsky và Edelman, nhờ quen biết với một người bạn và người hướng dẫn, nhân viên địa ốc Walter Sisulu.[16] Khi làm việc tại hãng Witkin, Sidelsky và Edelman, Mandela đã hoàn tất tấm bằng Cử nhân hàm thụ của Trường Đại học Nam Phi, sau đó ông học luật tại Trường Đại học Witwatersrand, tại đó ông kết bạn tới bạn học và sau này là đồng chí chống chủ nghĩa apartheid của ông Joe Slovo, Harry Schwarz và Ruth First. Slovo sau này là Bộ trưởng Bộ cư trú, còn Schwarz là Đại sứ Nam Phi tại Hoa Kỳ. Trong thời gian này, ông sống tại thành phố ngoại ô Alexandra, phía bắc Johannesburg.[17]
Hoạt động chính trị
Sau chiến thắng của Đảng Quốc gia, ủng hộ chính sách phân biệt chủng tộc apartheid[18] của những người Afrikaner, Mandela bắt đầu tham gia tích cực vào hoạt động chính trị. Ông đã lãnh đạo rất thành công trong Chiến dịch Phản đối của ANC năm 1952 và Đại hội Nhân dân năm 1955, từ đó thông qua Hiến chương Tự do là nền tảng cơ bản cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa apartheid.[19][20] Trong thời gian này, Mandela và luật sư đồng nghiệp Oliver Tambo điều hành một công ty luật có tên là Mandela và Tambo, nhận bào chữa miễn phí hoặc giá rẻ cho nhiều người da đen thiếu luật sư đại diện.[21]
Mahatma Gandhi có ảnh hưởng lớn đến cách thức đấu tranh của Mandela, và cả phương pháp dành thắng lợi của các nhà hoạt động chống chủ nghĩa apartheid các thế hệ sau.[22][23] Mandela đã từng tham dự một hội nghị diễn ra tại New Delhi từ ngày 29-30 tháng 1 năm 2007 đánh dấu 100 năm ngày Gandhi đưa ra thuyết satyagraha (phản kháng bất bạo động) tại Nam Phi.[24]
Ban đầu, khi kiên trì đường lối đấu tranh bất bạo động, Mandela và 150 người khác bị bắt giam vào ngày 5 tháng 12 năm 1956 và bị buộc tội phản quốc. Sau quá trình xét xử kéo dài từ năm 1956-1961, tất cả các bị cáo đều được tuyên trắng án.[25] Từ năm 1952–1959, xuất hiện một lực lượng các nhà hoạt động da đen mới được gọi là những người Toàn Phi đã cản trở các hoạt động của ANC ở khu vực thành phố của người da đen, lực lượng này đòi hỏi phải có các biện pháp quyết liệt hơn nhằm chống lại chế độ của Đảng Quốc gia.[26] Những nhà lãnh đạo ANC lúc bấy giờ là Albert Luthuli, Oliver Tambo và Walter Sisulu không những cho rằng những người Toàn Phi đang đi quá đà mà còn cảm thấy quyền lãnh đạo của họ đang bị đe dọa.[26] Vì thế cánh lãnh đạo của ANC đã củng cố vị thế của mình bằng cách liên minh với các đảng phái chính trị nhỏ của những người Da trắng, Da màu, lẫn Da đỏ nhằm tranh thủ lôi kéo rộng rãi số người ủng hộ hơn phái Toàn Phi.[26] Những người Toàn Phi nhạo báng Hiến chương Tự do trong Hội nghị tại Kliptown năm 1955 vì đảng ANC với số lượng thành viên áp đảo 100.000 người mà chỉ có được một phiếu trong liên minh Đại hội. Bốn trong năm tổng thư ký của các đảng phái tham gia đại hội đều đã ngầm tham gia Đảng Cộng sản Nam Phi (SACP) tái cơ cấu, gắn liền với chính sách của Moskva.[27][28] Đến năm 2003 Blade Nzimande, Tổng thư ký SACP, tiết lộ rằng Walter Sisulu, Tổng thư ký của đảng ANC, cũng đã bí mật gia nhập SACP vào năm 1955[29] có nghĩa là cả năm Tổng thư ký đều là người của SACP và do đó giải thích lý do tại sao Sisulu quyết định đưa vai trò của ANC từ vai trò chi phối xuống thành một trong năm bên ngang vai nhau.
Trong năm 1959, ANC mất phần lớn sự ủng hộ từ lực lượng chiến đấu khi phần lớn những người Toàn Phi, với sự hỗ trợ tài chính từ Ghana và chính trị từ những người Sotho tại tỉnh Transvaal, đã ly khai để thành lập Đại hội Toàn Phi (PAC) dưới sự lãnh đạo của Robert Sobukwe và Potlako Leballo.[30]
Hoạt động chống Chủ nghĩa Apartheid
Vào năm 1961, Mandela trở thành người đồng sáng lập và là lãnh đạo cánh vũ trang của ANC, Umkhonto we Sizwe (tạm dịch Cây giáo của Quốc gia, cũng viết tắt là MK).[31] Ông điều hành các chiến dịch phá hoại chống lại các mục tiêu quân sự và của chính quyền, lên kế hoạch cho một cuộc chiến tranh du kích nếu phương cách phá hoại vẫn không chấm dứt được chế độ apartheid.[32] Mandela cũng quyên tiền cho MK ở nước ngoài và sắp xếp các buổi huấn luyện bán quân sự cho nhóm.[32]
Người đồng chí trong đảng ANC Wolfie Kadesh giải thích chiến dịch đánh bom do Mandela dẫn dắt như sau: “Khi chúng tôi biết rằng chúng tôi sẽ bắt đầu vào ngày 16 tháng 12 năm 1961, nhằm làm nổ tung những vị trí là biểu tượng của chủ nghĩa apartheid, như văn phòng giấy thông hành, tòa án địa phương, và những nơi tương tự… bưu điện và… các văn phòng chính phủ. Nhưng chúng tôi dự định thực hiện điều đó sao cho không có ai bị thương vong.”[33] Mandela đã nói về Wolfie: “Kiến thức về chiến tranh và kinh nghiệm trận mạc của ông là cực kỳ hữu ích đối với tôi.”[10]
Mandela đã xem bước chuyển sang đấu tranh vũ trang là phương kế cuối cùng; nhiều năm trời với chính sách đàn áp và bạo lực ngày càng tăng của chính quyền đã cho ông thấy sự phản kháng bất bạo động chống chủ nghĩa apartheid nhiều năm qua đã không và cũng không thể thu được tiến triển nào.[10][34]
Sau này, chủ yếu vào thập niên 1980, MK đã tiến hành chiến tranh du kích chống lại chế độ apartheid với nhiều thương vong là dân thường.[32] Mandela sau này thừa nhận rằng ANC, trong cuộc chiến đấu chống lại apartheid, cũng vi phạm quyền con người, chỉ trích thẳng thừng những đảng viên trong đảng ông cố gắng đưa những câu chữ phản ánh sự thật ra khỏi báo cáo của Ủy ban Sự thật và Hòa giải.[35]
Cho đến tận tháng 7 năm 2008, Mandela và các đảng viên ANC vẫn bị hạn chế đi đến Hoa Kỳ – ngoại trừ trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Manhattan — nếu không có giấy phép cho phép đặc biệt của Ngoại trưởng Hoa Kỳ, vì họ bị quy là khủng bố trong thời kỳ chế độ apartheid ở Nam Phi.[36][37]
Bị bắt giữ và phiên tòa Rivonia
Ngày 5 tháng 8 năm 1962 Mandela bị bắt sau khi ẩn náu được 17 tháng, và giam giữ tại Pháo đài Johannesburg.[38] Vụ bắt giữ này xảy ra do Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) đã tiết lộ nơi ẩn náu và nhân dạng giả của Mandela cho an ninh.[39][40][41] Ba ngày sau đó, người ta đã đọc lời buộc tội ông chủ mưu kêu gọi công nhân đình công vào năm 1961 và vượt biên bất hợp pháp tại tòa. Ngày 25 tháng 10 năm 1962, Mandela bị tuyên án 5 năm tù giam. Hai năm sau vào ngày 11 tháng 6 năm 1964, ông lại phải ra tòa một lần nữa vì những hoạt động trong Hội đồng Quốc gia châu Phi (ANC).[42]
Trong lúc Mandela đang trong tù, cảnh sát đã bắt giữ nhiều lãnh đạo cốt cán của ANC vào ngày 11 tháng 7 năm 1963, tại Liliesleaf Farm, Rivonia, phía bắc Johannesburg. Mandela được ghép vào xét xử chung, và tại Phiên tòa Rivonia, họ bị chánh án, Tiến sĩ Percy Yutar, cáo buộc nhiều tội danh trong đó chủ yếu là phá hoại (Mandela thừa nhận tội này) và các tội tương đương với phản quốc, nhưng chính quyền dễ chứng minh hơn.[43] Lời buộc tội thứ hai cáo buộc các bị cáo âm mưu một cuộc xâm lược của ngoại quốc vào Nam Phi, Mandela phủ nhận tội danh này.[43]
Trong lời phát biểu tại ghế bị cáo mở đầu phiên biện hộ trong phiên tòa ngày 20 tháng 4 năm 1964 tại Tòa án Tối cao Pretoria, Mandela đã nói rằng việc ANC lựa chọn sử dụng vũ lực chỉ là một sách lược mà thôi.[44] Lời phát biểu của ông đã mô tả ANC đã sử dụng các biện pháp hòa bình như thế nào để chống lại chủ nghĩa apartheid trong nhiều năm trời cho đến khi xảy ra vụ Thảm sát Sharpeville.[45] Sự kiện đó đi kèm với cuộc trưng cầu dân ý để thành lập Cộng hòa Nam Phi và sự tuyên bố tình trạng khẩn cấp cùng với việc cấm chỉ hoạt động của ANC đã khiến cho Mandela và các đồng chí của ông thấy rằng lựa chọn duy nhất của họ chỉ có thể thông qua các hành động phá hoại, nếu không chẳng khác nào một sự đầu hàng vô điều kiện.[45] Mandela tiếp tục giải thích cách họ hình thành Tuyên ngôn Umkhonto we Sizwe vào ngày 16 tháng 12 năm 1961 dự kiến sẽ phô bày sự thất bại của các chính sách của Đảng Quốc gia sau khi nền kinh tế bị đe dọa cho những người ngoại quốc không còn sẵn lòng đầu tư vào đất nước nữa.[46] Ông kết thúc bài phát biểu bằng những lời sau đây: “Tôi cống hiến cả đời tôi cho sự nghiệp đấu tranh của người dân châu Phi. Tôi đã chiến đấu chống lại sự thống trị của người da trắng, và tôi cũng chiến đấu chống lại sự thống trị của người da đen. Tôi yêu mến lý tưởng về một xã hội dân chủ và tự do trong đó mọi người dân sống với nhau hòa thuận và bình đẳng. Đó là lý tưởng mà tôi hy vọng sẽ sống vì nó và đạt được nó. Nhưng nếu cần, tôi cũng sẵn sàng chết vì lý tưởng đó.”[34]
Bram Fischer, Vernon Berrange, Harry Schwarz, Joel Joffe, Arthur Chaskalson và George Bizos là các luật sự bảo vệ cho bên bị.[47] Harold Hanson cũng được bổ sung vào cuối phiên tòa để giúp giảm nhẹ tội danh.[48] Tất cả mọi người trừ Rusty Bernstein đều bị tuyên là có tội, nhưng họ thoát khỏi án treo cổ mà bị tuyên tù chung thân vào ngày 12 tháng 6 năm 1964.[48] Lời buộc tội gồm có tham gia lên kế hoạch hành động vũ trang, cụ thể là bốn cáo buộc phá hoại, mà Mandela thừa nhận, và một âm mưu chính trị trợ giúp nước ngoài xâm lược Nam Phi, tội này bị Mandela phủ nhận.[48]
Thời gian trong tù
Nelson Mandela bị giam giữ tại Đảo Robben và đã ở đấy 18 năm trong tổng số 27 năm trong tù của ông.[49] Khi ở trong tù, ông dần dần trở nên nổi tiếng với vai trò là nhà lãnh đạo da đen đáng chú ý nhất tại Nam Phi.[1] Ở trên đảo, ông và các tù nhân khác phải lao động khổ sai ở một mỏ đá vôi.[50] Điều kiện sống trong tù rất cơ bản. Tù nhân cũng bị phân chia theo sắc tộc và tù nhân da đen là những người nhận được lượng thực phẩm ít nhất.[51] Tù chính trị được giam giữ riêng biệt với thường phạm và được hưởng ít quyền lợi hơn.[52] Mandela đã mô tả rằng, do bị xếp vào tù nhân nhóm D (hạng thấp nhất) ông chỉ được phép có một người khách viếng thăm và nhận một lá thư mỗi sáu tháng.[53] Những lá thư thường bị trễ khá lâu và rất khó đọc do chế độ kiểm duyệt trong nhà tù.[10]
Lúc ở trong tù Mandela đã tham gia khóa học từ xa của Đại học Luân Đôn và nhận bằng Cử nhân Luật.[54] Ông sau đó được đề cử làm Hiệu trưởng danh dự của Đại học Luân Đôn trong cuộc bình chọn năm 1981, nhưng vị trí này đã thuộc về Công chúa Anne.[54]
Trong cuốn hồi ký Inside BOSS xuất bản năm 1981[55] điệp viên Gordon Winter đã kể về việc ông này tham gia kế hoạch giải cứu Mandela vào năm 1969: kế hoạch này bị Winter tiết lộ thay mặt cho cơ quan tình báo Nam Phi, họ muốn Mandela trốn thoát để họ có thể xử bắn ông khi tìm bắt lại. Kế hoạch này đã bị Cơ quan Tình báo Anh chặn đứng.[55]
Vào tháng 3 năm 1982 Mandela được chuyển từ Đảo Robben sang Nhà tù Pollsmoor, cùng với các nhà lãnh đạo ANC khác như Walter Sisulu, Andrew Mlangeni, Ahmed Kathrada và Raymond Mhlaba.[53] Đã có suy đoán rằng đây là cách để xóa bỏ sức ảnh hưởng của các nhà lãnh đạo cấp cao này đối với thế hệ những nhà hoạt động da đen trẻ đang bị giam tại Đảo Robben, cái gọi là “Trường Đại học Mandela”.[56] Tuy nhiên, Thủ tướng Kobie Coetsee thuộc Đảng Quốc gia nói rằng việc chuyển trại này giúp cho việc liên hệ giữa họ và chính quyền Nam Phi được thuận tiện hơn.[57]
Tháng 2 năm 1985 Tổng thống P.W. Botha đề nghị trả tự do cho Mandela với điều kiện ông phải ‘từ bỏ phương cách đấu tranh chính trị bằng bạo lực một cách vô điều kiện’.[58] Coetsee và các bộ trưởng khác phản đối đề xuất của Botha, cho rằng Mandela sẽ không bao giờ yêu cầu tổ chức của ông từ bỏ đấu tranh vũ trang để đổi lấy sự tự do cho cá nhân mình.[59] Đúng là Mandela đã bác bỏ đề xuất và đưa ra lời tuyên bố thông qua cô con gái Zindzi trong đó nói rằng “Thứ tự do đang được đề nghị cho tôi là cái gì trong khi tổ chức của nhân dân vẫn bị cấm đoán? Chỉ có những người tự do mới có thể thương lượng mà thôi. Một tù nhân không thể tham gia vào một thỏa hiệp nào hết.”[57]
Cuộc gặp đầu tiên giữa Mandela và chính quyền Đảng Quốc gia diễn ra vào tháng 11 năm 1985, khi Kobie Coetsee gặp gỡ Mandela tại Bệnh viện Volks Hospital ở Cape Town nơi Mandela đang tịnh dưỡng sau cuộc phẫu thuật tuyến tiền liệt.[60] Trong bốn năm sau đó, một loạt các cuộc gặp mang tính thăm dò đã diễn ra, làm nền tảng cho các cuộc tiếp xúc và thương lượng về sau, nhưng tiến bộ thực sự thì không nhiều.[57]
Vào năm 1988 Mandela được chuyển đến Nhà tù Victor Verster và ở đó cho đến khi ông được phóng thích. Người ta đã dỡ bỏ nhiều hạn chế đối với ông và những người như Harry Schwarz đã có thể tự do thăm viếng ông. Schwarz, một người bạn của Mandela, biết ông từ khi họ học chung lớp luật ở trường đại học. Ông này cũng là luật sư biện hộ cho Mandela tại Phiên tòa Rivonia và sau này là đại sứ tại Washington khi Mandela làm tổng thống.
Trong suốt thời kỳ Mandela bị giam giữ, đã có nhiều áp lực ở trong cũng như ngoài nước đòi chính quyền Nam Phi phải trả tự do cho ông, với khẩu hiệu nổi tiếng Free Nelson Mandela! (Hãy thả Nelson Mandela)[61] Đến năm 1989, Nam Phi có sự chuyển biến khi Botha bị đột quỵ và Frederik Willem de Klerk thay thế vào vị trí tổng thống.[62] De Klerk tuyên bố thả tự do cho Mandela vào tháng 2 năm 1990.[63]
Mandela đã được Ủy hội Chữ thập đỏ Quốc tế viếng thăm vài lần khi ông còn ở Đảo Robben và sau này ở nhà tù Pollsmoor. Mandela đã nói về những chuyến thăm viếng như sau: “với cá nhân tôi, và với những ai đã từng trải qua thời gian là tù chính trị, Hội chữ thập đỏ là một tia sáng nhân đạo trong thế giới tăm tối thiếu nhân tính của nhà tù chính trị.”[64][65]
Trả tự do
Ngày 2 tháng 2 năm 1990, Tổng thống Quốc gia F.W. de Klerk đã hủy lệnh cấm hoạt động đối với Đảng ANC và các tổ chức chống chủ nghĩa apartheid khác, đồng thời thông báo Mandela sẽ sớm được trả tự do.[66] Mandela được trả tự do từ Nhà tù Victor Verster ở Paarl vào ngày 11 tháng 2 năm 1990. Sự kiện này được phát hình trực tiếp trên khắp thế giới.[67]
Vào ngày được phóng thích, Mandela đã có một bài diễn văn gửi đến toàn quốc.[68] Ông tuyên bố cam kết hòa bình và hòa giải với những người da trắng thiểu số trong nước, nhưng nói rõ rằng cuộc đấu tranh vũ trang của ANC vẫn chưa chấm dứt khi ông nói “phương sách đấu tranh vũ trang vào năm 1960 khi chúng tôi hình thành phái quân sự trong ANC (Umkhonto we Sizwe) đơn thuần là hành động tự vệ chống lại sự tàn bạo của chủ nghĩa apartheid. Các yếu tố đưa đến cuộc đấu tranh vũ trang đến nay vẫn hiển diện. Chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải tiếp tục. Chúng tôi bày tỏ hy vọng một không khí có lợi cho một cuộc thương lượng sẽ sớm được tạo ra, để nhu cầu đấu tranh vũ trang không còn nữa.”
Ông cũng nói rằng tập trung chính của ông là mang lại hòa bình cho những người da đen đa số và cho họ quyền bỏ phiếu trong những cuộc bầu cử cấp quốc gia lẫn địa phương.[68]
Thương thuyết
Sau khi được trả tự do, Mandela trở lại làm lãnh đạo ANC, rồi từ năm 1990 đến 1994, ông lãnh đạo đảng này trong cuộc thương lượng đa đảng dẫn tới cuộc bầu cử đa sắc tộc đầu tiên trong nước.[69]
Năm 1991, ANC tổ chức hội nghị toàn quốc đầu tiên của mình ở Nam Phi sau khi được dỡ bỏ lệnh cấm, hội nghị đã bầu Mandela làm Chủ tịch (President) của tổ chức. Người bạn và người đồng nghiệp lâu năm của ông, Oliver Tambo, người lãnh đạo tổ chức lưu vong khi Mandela còn ở trong tù, trở thành Chủ tịch Quốc gia (National Chairperson).[70]
Vai trò lãnh đạo của Mandela trong cuộc thương thuyết, cũng như mối quan hệ của ông với Tổng thống F.W. de Klerk, đã được thừa nhận khi họ cùng được trao Giải Nobel Hòa bình năm 1993. Tuy nhiên, mối quan hệ này thỉnh thoảng trở nên căng thẳng, cụ thể như trong một phát biểu nảy lửa vào năm 1991 khi ông nói De Klerk là người cầm đầu một “chế độ không hợp pháp, mất uy tín, gồm toàn những người thiểu số”. Cuộc thương thuyết có lần đã đổ vỡ do vụ thảm sát Boipatong tháng 6 năm 1992, khi đó Mandela cùng đoàn đại biểu của ANC bước ra khỏi cuộc thương thuyết, cáo buộc chính quyền De Klerk đồng lõa với các vụ giết chóc.[71] Tuy nhiên, những cuộc hội đàm đã được tiếp diễn sau vụ thảm sát Bisho tháng 9 năm 1992, khi bóng ma bạo lực khiến cho người ta nhận thấy hội đàm là cách duy nhất để tiến tới một giải pháp.[10]
Sau vụ ám sát nhà lãnh đạo ANC Chris Hani tháng 4 năm 1993, lại dấy lên sự sợ hãi đất nước sẽ lại tan vỡ trong bạo lực.[72] Mandela đã gửi thông điệp toàn quốc yêu cầu mọi người bình tĩnh, trong bài phát biểu với vai trò ‘tổng thống’ dù khi đó ông chưa phải là tổng thống thực sự. Mandela nói rằng “tối nay tôi đang nói với từng người Nam Phi, cả đen lẫn trắng, những lời nói xuất phát từ sâu thẳm lòng mình. Một người da trắng đầy thành kiến và căm giận đã đến đất nước chúng ta và thực hiện một hành vi sai lầm đến mức khiến cả nước phải đối mặt với vực thẳm khủng hoảng. Một người phụ nữ da trắng, gốc Afrikan, đã liều mạng sống của bà để chúng ta có thể biết đến, và mang lại sự công bằng cho vụ ám sát này. Vụ giết người máu lạnh nhằm vào Chris Hani đã tạo một làn sóng rung chuyển đất nước và thế giới… Giờ đây đã đến lúc mọi người dân Nam Phi sát cánh cùng nhau để chống lại bất cứ hành vi nào nhằm phá hủy những gì Chris Hani đã cống hiến cả đời ông cho nó – sự tự do cho tất cả chúng ta”.[73] Dù đã có một số vụ bạo loạn xảy ra sau vụ ám sát, các bên thương lượng vẫn tích cực hành động, và sớm thỏa thuận một cuộc bầu cử dân chủ diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1994, chỉ hơn một năm sau vụ ám sát Hani.[57]
Thời kỳ làm Tổng thống Nam Phi
Cuộc bầu cử đa sắc tộc đầu tiên ở Nam Phi với quyền bỏ phiếu được trao cho tất cả mọi người đã diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1994. ANC giành được 62% số phiếu bầu, và Mandela, với vai trò là lãnh đạo ANC, đã nhậm chức làm Tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi vào ngày 10 tháng 5 năm 1994, de Klerk của Đảng Quốc gia là phó tổng thống thứ nhất và Thabo Mbeki là phó tổng thống thứ hai trong Chính phủ Thống nhất Quốc gia.[74] Với vị trí là Tổng thống từ tháng 5 năm 1994 cho đến tháng 6 năm 1999, Mandela đã chủ trì sự chuyển giao từ quyền lực của thiểu số và chủ nghĩa apartheid, giành được sự tôn trọng của quốc tế đối với những nỗ lực hòa giải quốc gia và thế giới của ông.[75] Mandela đã khích lệ những người Nam Phi da đen ủng hộ cho đội Springbok (đội tuyển rugby quốc gia Nam Phi) trước đây bị dân chúng ghét bỏ khi Nam Phi tổ chức Cúp Rugby Thế giới 1995.[76] Sau khi Springbok giành chiến thắng trong trận chung kết trước New Zealand, Mandela đã trao cúp vô địch cho đội trưởng Francois Pienaar, một người Afrikan, trên người mặc chiếc áo đấu Springbok với con số 6 của Pienaar sau lưng. Hành động này được xem là bước tiến lớn của sự hòa giải giữa người Nam Phi da trắng và da đen.[77]
Sau khi nhậm chức tổng thống, một trong những dấu hiệu đặc trưng của Mandela là chiếc áo Batik của ông, còn được biết đến với cái tên “Áo Madiba“, kể cả trong những sự kiện long trọng.[78] Trong hành động quân sự đầu tiên sau thời kỳ apartheid của Nam Phi, Mandela đã ra lệnh cho quân đội xâm nhập lãnh thổ Lesotho vào tháng 9 năm 1998 để bảo vệ chính quyền của Thủ tướng Pakalitha Mosisili. Vụ việc này diễn ra sau một cuộc bỏ phiếu gây tranh cãi trong đó lực lượng phản đối đã đe dọa đến chính quyền thiếu ổn định này.[79] Những nhà bình luận và phê bình trong đó có cả các nhà hoạt động vì AIDS như Edwin Cameron đã chỉ trích Mandela vì sự thiếu hiệu quả của chính quyền ông trong việc ngăn chặn cuộc khủng hoảng AIDS.[80][81] Sau khi nghỉ hưu, Mandela thừa nhận rằng ông đã thất bại vì đã không chú ý nhiều hơn đến bệnh dịch HIV/AIDS.[82][83] Mandela từ đó đã có một số bài phát biểu chống lại bệnh dịch AIDS.[84][85]
Vụ xử Lockerbie
Tổng thống Mandela có sự quan tâm đặc biệt trong việc giúp đỡ giải quyết tranh cãi kéo dài giữa một bên là quốc gia Lybia dưới thời Gaddafi, còn bên kia là Hoa Kỳ và Anh, đối với việc mang ra xét xử hai người Lybia bị truy tố vào tháng 11 năm 1991 và bị buộc tội phá hoại Chuyến bay 103 của Pan Am, khiến nó rơi tại thị trấn Lockerbie của Scotland ngày 21 tháng 12 năm 1988, làm cho 270 người thiệt mạng.[86] Từ đầu năm 1992, Mandela đã có lời đề nghị không chính thức gửi tới Tổng thống George H.W. Bush yêu cầu xét xử hai nghi phạm Lybia tại quốc gia thứ ba. Bush tỏ ra tán thành đề nghị này, cả Tổng thống François Mitterrand của Pháp và Vua Juan Carlos I của Tây Ban Nha cũng vậy.[87] Vào tháng 11 năm 1994 – sáu tháng sau khi ông đắc cử tổng thống – Mandela chính thức đề nghị Nam Phi nên là nơi diễn ra phiên toàn xét xử vụ đánh bom Chuyến bay 103 của Pan Am.[88]
Tuy nhiên, Thủ tướng Anh John Major thẳng thừng từ chối ý tưởng này nói rằng chính phủ Anh không tin tưởng vào tòa án nước ngoài.[89] Đến ba năm sau, Mandela một lần nữa lại gửi lời đề nghị đến người kế nhiệm Major, Tony Blair, khi ông có chuyến viếng thăm Luân Đôn vào tháng 7 năm 1997. Cuối năm đó, tại Cuộc họp những người đứng đầu chính phủ của khối Thịnh vượng chung năm 1997 tại Edinburgh tháng 10 năm 1997, Mandela đã cảnh báo:
“Không thể có một quốc gia vừa là nguyên cáo, vừa là bên nguyên lẫn quan tòa.”
Cuối cùng đã có một thỏa hiệp để tổ chức phiên tòa ở Trại quân sự Zeist ở Hà Lan, xét xử theo Luật Scotland, và Tổng thống Mandela bắt đầu thương thuyết với Đại tá Gaddafi để dẫn độ hai bị cáo (Megrahi và Fhimah) vào tháng 4 năm 1999.[90] Sau phiên tòa kéo dài 9 tháng, phán quyết đã được công bố vào ngày 31 tháng 1 năm 2001. Fhimah được tuyên trắng án, nhưng Megrahi bị buộc tội và phải lãnh 27 năm tù trong một nhà tù ở Scotland. Kháng cáo lần đầu của Megrahi đã bị bác vào tháng 3 năm 2002, và cựu tổng thống Mandela đã đến thăm người này tại nhà tù Barlinnie vào ngày 10 tháng 6 năm 2002.
‘Megrahi hoàn toàn cô độc’, Mandela nói trong cuộc họp báo nhỏ trong phòng thăm viếng của nhà tù. ‘Anh ta không có ai để nói chuyện cả. Đây là sự hành hạ về tâm lý mà một người đàn ông phải chịu đựng trong suốt thời gian dài chịu án hoàn toàn một mình. Sẽ công bằng hơn nếu anh ta được chuyển đến một quốc gia Hồi giáo — và có nhiều quốc gia Hồi giáo mà phương Tây tin tưởng. Nó sẽ giúp gia đình anh dễ viếng thăm anh hơn nếu anh ở một nơi như vương quốc Maroc, Tunisia hay Ai Cập.’[91]
Megrahi sau đó được chuyển đến nhà tù Greenock và không còn bị biệt giam nữa.[92] Tháng 8 năm 2009, Megrahi, sau khi được chẩn đoán bị ung thư và chỉ còn sống được 3 tháng, đã được trả tự do trong một đợt ân xá và được phép trở về Libya. Quỹ Nelson Mandela đã ủng hộ quyết định ân xá cho Megrahi trong một bức thư gửi tới Chính quyền Scotland thay mặt cho Mandela.[93]
Hôn nhân và gia đình
Mandela đã kết hôn ba lần, và có 6 con, 20 đứa cháu và số chắt thì ngày càng tăng. Ông là ông nội của Tù trưởng Mandla Mandela.[94]
Cuộc hôn nhân đầu tiên
Cuộc hôn nhân đầu tiên của Mandela là kết hôn với Evelyn Ntoko Mase người cũng như Mandela, xuất thân từ nơi về sau gọi là vùng Transkei của Nam Phi, mặc dù thực ra họ gặp nhau tại Johannesburg.[95] Hai người chia tay vào năm 1957 sau 13 năm chung sống, ly dị vì sự căng thẳng do ông thường xuyên vắng nhà, dành quá nhiều thời gian cho công cuộc cách mạng, và một phần do bà là tín đồ Chứng nhân Jehovah, một tôn giáo đòi hỏi một sự trung lập về chính trị.[96] Evelyn Mase chết năm 2004.[97] Hai người có với nhau hai con trai, Madiba Thembekile (Thembi) (1946–1969) và Makgatho Mandela (1950–2005), và hai con gái, cả hai đều có tên Makaziwe Mandela (được biết đến với tên Maki; sinh 1947 và 1953). Đứa con gái đầu chết lúc 9 tháng tuổi, và họ đặt tên đứa con gái thứ hai theo tên cô con gái đầu lòng.[98] Các con của họ đều đi học Trường Thế giới Thống nhất ở Waterford Kamhlaba.[99] Thembi chết trong tai nạn xe hơi năm 1969 ở tuổi 25, khi Mandela đang bị giam giữ tại Đảo Robben, và Mandela không được phép tham dự lễ tang.[100] Makgatho chết vì bệnh AIDS năm 2005, khi 54 tuổi.[101]
Cuộc hôn nhân thứ hai
Người vợ thứ hai của Mandela, Winnie Madikizela-Mandela, cũng xuất thân từ vùng Transkei, mặc dù hai người cũng gặp nhau tại Johannesburg, nơi bà là công chức da đen đầu tiên của thành phố.[102] Họ có hai con gái, Zenani (Zeni), sinh ngày 4 tháng 2 năm 1958 và Zindziswa (Zindzi) Mandela-Hlongwane, sinh năm 1960.[102] Zindzi chỉ mới 18 tháng tuổi khi cha cô bị giam tại nhà tù Đảo Robben. Sau này, Winnie phải chịu mối bất hòa trong gia đình, phản ảnh cuộc xung đột chính trị của đất nước; khi chồng bà đang chịu án chung thân ở Đảo Robben, còn cha bà lại làm bộ trưởng nông nghiệp ở Transkei.[102] Cuộc hôn nhân kết thúc bằng một cuộc ly thân rồi ly dị, được kích thêm từ mối bất hòa về chính trị.[103]
Mandela vẫn mòn mỏi trong tù khi con gái ông Zenani kết hôn với Hoàng thân Thumbumuzi Dlamini năm 1973, anh trai của Vua Mswati III của Swaziland.[104] Mặc dù bà có ấn tượng sâu sắc về cha mình, nhà chức trách Nam Phi không cho phép bà thăm ông từ khi bà 4 tuổi cho đến lúc bà 16 tuổi.[105] Hai vợ chồng Dlamini sinh sống và kinh doanh tại Boston.[106] Một trong hai đứa con trai của họ, Hoàng tử Cedza Dlamini (sinh năm 1976), được giáo dục tại Hoa Kỳ, đã đi theo bước chân của ông ngoại làm một người ủng hộ cho quyền con người và trợ giúp nhân đạo.[106]
Zindzi Mandela-Hlongwane đã làm nên lịch sử trên toàn thế giới khi bà đọc bài diễn văn của Mandela từ chối lời đề nghị tha bổng có điều kiện vào năm 1985. Bà là nữ doanh nhân tại Nam Phi với ba con, đứa đầu lòng là con trai, Zondwa Gadaffi Mandela.[107]
Cuộc hôn nhân thứ ba
Mandela đã tái giá vào sinh nhật lần thứ 80 của ông năm 1998, với Graça Machel nhũ danh Simbine, góa phụ của Samora Machel, cựu tổng thống Mozambique và là đồng minh của ANC bị chết trong vụ rơi máy bay 12 năm trước đó.[108] Cuộc hôn nhân là kết quả của hàng tháng trời thương thảo ở cấp quốc tế để đặt ra đồ sính lễ chưa từng có trong lịch sử để được rút khỏi bộ tộc của Machel. Một thỏa thuận miệng đã được thực hiện bởi nhà vua truyền thống đại diện cho Mandela, Vua Buyelekhaya Zwelibanzi Dalindyebo.[109] Ông nội của thủ lĩnh tối cao là quan nhiếp chính Jongintaba Dalindyebo, người đã sắp xếp cuộc hôn nhân cho Mandela, đã lảng tránh bằng cách trốn sang Johannesburg vào năm 1940.[15]
Mandela hiện vẫn còn ngôi nhà tại Qunu do đứa cháu trai nối dõi của ông quản lý, hiện ông vẫn trả tiền học phí và giữ quyền ủy viên hội đồng.[110]
Nghỉ hưu
Mandela là Tổng thống đắc cử lớn tuổi nhất của Nam Phi khi ông nhậm chức ở tuổi 75 vào năm 1994. Ông đã quyết định không cầm quyền nhiệm kỳ thứ hai và nghỉ hưu vào năm 1999, người kế nhiệm ông là Thabo Mbeki.
Sau khi rời ghế Tổng thống, Mandela tiếp tục đóng vai trò tích cực trong nhiều tổ chức xã hội và vì quyền con người. Ông biểu lộ sự ủng hộ phong trào Make Poverty History (Biến đói nghèo thành dĩ vãng) mà trong đó Chiến dịch ONE là một bộ phận.[111] Giải golf gây quỹ Khách mời Nelson Mandela, do Gary Player chủ trì, đã thu được hơn 20 triệu rand cho các quỹ vì trẻ em từ lúc bắt đầu năm 2000.[112]
Mandela cũng là người ủng hộ cho Làng trẻ em SOS, tổ chức chuyên quyên tiền giúp đỡ trẻ em mồ côi và bị bỏ rơi lớn nhất thế giới.[113] Mandela cũng xuất hiện trong một đoạn quảng cáo cho Thế vận hội mùa đông 2006, và đã được trích dẫn trong chiến dịch Chúc mừng nhân loại của Ủy ban Olympic Quốc tế:[114]
For seventeen days, they are roommates. For seventeen days, they are soulmates. And for twenty-two seconds, they are competitors. Seventeen days as equals. Twenty-two seconds as adversaries. What a wonderful world that would be. That’s the hope I see in the Olympic Games.
Tạm dịch:
Trong mười bảy ngày, chúng ta là bạn hữu. Trong mười bảy ngày, chúng ta là tâm giao. Và trong mười hai giây, chúng ta là đối thủ. Mười bảy ngày bình đẳng. Mười hai giây đối địch. Thế giới như thế mới tuyệt vời làm sao. Đó là niềm hy vọng mà tôi thấy được trong Thế vận hội.
Sức khỏe
Tháng 7 năm 2001 Mandela được chẩn đoán bệnh ung thư tuyến tiền liệt và tiến hành chữa trị. Ông được xạ trị trong 7 tuần.[115] Năm 2003, Mandela bị CNN thông báo nhầm là đã chết khi bản cáo phó viết sẵn của ông (cùng với vài yếu nhân khác) do sơ suất đã hiển thị trên website của CNN vì lỗi bảo vệ mật khẩu.[116] Vào năm 2007, một nhóm cánh tả không chính thống đã phổ biến email và tin nhắn SMS giả mạo nói rằng nhà chức trách đang giấu giếm cái chết của Mandela và những người Nam Phi da trắng sẽ bị tàn sát sau tang lễ của ông. Mandela lúc đó đang đi nghỉ tại Mozambique.[117]
Tháng 6 năm 2004, ở tuổi 85, Mandela thông báo rằng ông sẽ không tham gia các hoạt động công cộng nữa. Sức khỏe của ông dần giảm sút, và ông muốn có nhiều thời gian hơn với gia đình. Mandela nói rằng không định cách ly hoàn toàn khỏi công chúng, nhưng muốn mình ở vị thế “sẽ gọi cho các bạn để hỏi xem tôi có được chào đón hay không, chứ không phải được mời làm các thứ và tham dự các sự kiện nữa. Lời thỉnh cầu của tôi là: Đừng gọi cho tôi, tôi sẽ gọi cho các bạn.”[118] Từ năm 2003, ông ít xuất hiện trước công chúng hơn và ít phát ngôn trước các vấn đề.[119] Tóc ông bạc trắng và ông di chuyển chậm chạp với sự hỗ trợ của gậy. Cũng có báo cáo là ông đang bị chứng mất trí nhớ của người già.[120]
Sinh nhật lần thứ 90 của Mandela đã được tổ chức ở nhiều nơi khắp đất nước ngày 18 tháng 7 năm 2008, lễ mừng chính được tổ chức tại quê nhà Qunu của ông.[121] Một buổi hòa nhạc vinh danh ông cũng được tổ chức tại Hyde Park, Luân Đôn.[122] Trong buổi diễn văn kỷ niệm sinh nhật của mình, Mandela kêu gọi những người giàu hãy giúp đỡ người nghèo trên khắp thế giới.[121] Mặc dù vẫn ít xuất hiện trong suốt kỳ World Cup 2010 tại Nam Phi, Mandela cũng xuất hiện tại buổi bế mạc, tại đó ông đã được “chào đón nhiệt liệt”.[123]
The Elders
Ngày 18 tháng 7 năm 2007, Nelson Mandela, Graça Machel, và Desmond Tutu tụ họp một nhóm các nhà lãnh đạo thế giới tại Johannesburg để đóng góp sự hiểu biết và khả năng lãnh đạo độc lập để giải quyết các vấn đề khó khăn nhất trên thế giới. Nelson Mandela thông báo lập nên một nhóm mới, The Elders, trong một bài diễn văn nhân sinh nhật lần thứ 89 của mình.[124]
Tổng giám mục Tutu làm chủ tịch của The Elders. Các thành viên sáng lập nhóm bao gồm Graça Machel, Kofi Annan, Ela Bhatt, Gro Harlem Brundtland, Jimmy Carter, Lý Triệu Tinh, Mary Robinson và Muhammad Yunus.[125]
“Nhóm này có tiếng nói tự do và khẳng khái, hoạt động công khai lẫn hậu trường về bất cứ hành động nào cần thực hiện”, Mandela nói. “Cùng với nhau chúng tôi sẽ hoạt động để ủng hộ lòng can đảm tại nơi có sợ hãi, nuôi dưỡng thỏa thuận tại nơi có tranh chấp, và truyền hy vọng tại nơi tuyệt vọng.”[126]
Chống AIDS
Sau khi về hưu, một trong những sự quan tâm chính của Mandela là đấu tranh chống lại bệnh dịch AIDS. Ông đã có bài phát biểu bế mạc Hội nghị về AIDS Quốc tế lần thứ XIII năm 2000, tại Durban, Nam Phi.[127] Vào năm 2003, ông hỗ trợ bằng cách cho phép chiến dịch gây quỹ chống AIDS 46664 sử dụng số hiệu tù nhân của ông.[128] Tháng 7 năm 2004, ông bay tới Bangkok để phát biểu tại Hội nghị về AIDS Quốc tế lần thứ XV.[129] Con trai ông, Makgatho Mandela, chết vì bệnh AIDS vào ngày 6 tháng 1 năm 2005.[130]
Phê phán chính sách ngoại giao của Mỹ và Anh
Nelson Mandela phản đối mạnh mẽ vụ can thiệp của NATO tại Kosovo năm 1999 và gọi đó là nỗ lực của các cường quốc nhằm kiểm soát thế giới.[131] Năm 2002 và 2003, Mandela chỉ trích chính sách ngoại giao của chính quyền Tổng thống Mỹ George W. Bush trong nhiều bài phát biểu.[132][133] Phê phán về việc thiếu sự tham gia của Liên Hiệp Quốc trong quyết định bắt đầu Chiến tranh Iraq, ông nói, “Đó là một bi kịch, những gì đang xảy ra, những gì Bush đang làm. Nhưng Bush giờ đây đang làm xói mòn Liên Hiệp Quốc.” Mandela cho rằng ông chỉ ủng hộ hành động chống lại Iraq nếu đó là do Liên Hiệp Quốc ra lệnh. Mandela cũng nói bóng gió đến việc Liên Hiệp Quốc có lẽ đã bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt chủng tộc vì đã không tuân theo ý kiến của Liên Hiệp Quốc và tổng thư ký Kofi Annan về vấn đề chiến tranh. “Có phải vì tổng thư ký Liên Hiệp Quốc hiện tại là một người da đen hay không? Họ không bao giờ làm vậy khi tổng thư ký là người da trắng”.[134]
Ông kêu gọi nhân dân Mỹ tham gia vào các cuộc biểu tình lớn chống lại Bush và kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới, đặc biệt là những nước có quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, phản đối Bush.[135] “Điều tôi lên án ở đây là chỉ một cường quốc, với một vị tổng thống không có óc chiến lược, người không thể nghĩ cho đúng đắn, giờ đang muốn đẩy thế giới vào một cuộc tàn sát.” Ông tấn công Hoa Kỳ vì các thành tích xấu về nhân quyền và đã thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới II. “Nếu có một quốc gia có hành động tàn ác đến mức không thể diễn tả được bằng lời, đó là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Họ bất cần.”[134] Nelson Mandela cũng chê trách nặng nề Thủ tướng Anh Tony Blair và gọi ông là “ngoại trưởng của Mỹ.”[136]
Tranh chấp với Ismail Ayob
Ismail Ayob từng là một người bạn tin cậy và là luật sư riêng của Mandela trong hơn 30 năm. Vào tháng 5 năm 2005, Ayob được Mandela yêu cầu dừng bán các ấn phẩm có chữ ký của Mandela và tính toán lại lợi nhuận thu được từ việc bán chúng. Tranh chấp này đã khiến Mandela đệ đơn lên Tòa án Tối cao Nam Phi vào năm đó.[137] Ayob cho rằng mình không làm điều gì sai trái,[138] và nói rằng ông là nạn nhân của một chiến dịch bôi nhọ do các cố vấn của Mandela, mà cụ thể là luật sư George Bizos, dựng lên.[139]
Vào năm 2005 và 2006, Ayob và vợ con của ông trở thành đối tượng chỉ trích của các cố vấn của Mandela. Vụ tranh chấp này được truyền thông rộng rãi, với Ayob được mô tả ở vị thế phản diện, cao điểm là khi Mandela đệ đơn lên Tòa án Tối cao. Đã có những cuộc họp công khai trong đó những người thân cận của Mandela chỉ trích Ayob và công chúng còn kêu gọi tẩy chay Ayob và gia đình ông.[140] Lời biện hộ của Ismail và Zamila Ayob (vợ ông, và cũng là bị cáo liên quan) đưa ra các văn bản do Mandela ký và được các thư ký của ông làm chứng, từ đó bác bỏ nhiều lý lẽ của Nelson Mandela và các cố vấn.[141]
Tranh chấp này một lần nữa lại xuất hiện trên mặt báo vào tháng 2 năm 2007 khi trong một phiên tòa tại Tòa án Tối cao Johannesburg, Ayob hứa sẽ trả 700.000 rand cho Mandela, chuyển qua các quỹ vì trẻ em của Mandela, và gửi lời xin lỗi,[142] [143] mặc dù sau đó ông cho rằng ông là nạn nhân của “Sự trả thù” từ Mandela.[144] Một số nhà bình luận bày tỏ sự cảm thông cho vị thế của Ayob, nói rằng vị trí biểu tượng của Mandela khiến cho Ayob khó mà được đối xử một cách công bằng.[139]
Lý lẽ
Ayob, George Bizos và Wim Trengove là những người được ủy thác của Quỹ Ủy thác Nelson Mandela, được thành lập để cất giữ hàng triệu rand do các nhân vật kinh doanh nổi tiếng, trong đó có gia đình Oppenheimer, tặng cho Nelson Mandela vì lợi ích của con và cháu của ông.[145] Ayob sau này rút lui của Quỹ ủy thác. Vào năm 2006, hai người được ủy thác còn lại của Nelson Mandela Trust đã tố cáo Ayob đã chi tiêu tiền từ quỹ ủy thác mà không báo cho họ biết.[146] Ayob tuyên bố rằng số tiền này là để trả cho Dịch vụ Doanh thu Nam Phi, cho con và cháu của Mandela, cho chính Mandela, và trả cho bốn năm làm việc của công ty kế toán.[143]
Bizos và Trengrove từ chối thông qua việc chi trả cho con cháu của Nelson Mandela và tiền trả cho công ty kế toán. Phiên tòa đã thỏa thuận rằng Ismail Ayob phải trả số tiền này, tổng cộng hơn 700.000 rand, cho quỹ ủy thác vì lẽ Ayob đã chưa được sự đồng ý của hai ủy thác viên khác trước khi dùng tiền.[147] Người ta cũng khẳng định là Ayob đã có những nhận xét phỉ báng Mandela trong bản khai, vì thế tòa cũng yêu cầu Ayob xin lỗi.[148] Người ta đã cho thấy các nhận xét này, tập trung vào các tài khoản ở nước ngoài của Nelson Mandela và việc không trả thuế cho các tài khoản này, không xuất phát từ lời khai của Ayob mà là từ chính lời khai của Nelson Mandela và George Bizos.[149]
Tranh cãi về Kim cương máu
Trong một bài viết trong báo The New Republic tháng 12 năm 2006, Nelson Mandela bị chỉ trích vì một số lời nhận xét tốt đẹp về ngành công nghiệp kim cương. Người ta lo ngại là điều này sẽ làm lợi cho những nhà cung cấp kim cương máu.[150] Trong bức thư gửi tới Edward Zwick, đạo diễn của bộ phim Kim cương máu, Mandela nói rằng:
…sẽ cực kỳ đáng tiếc nếu bộ phim này vô tình sai sự thật, và kết quả là, khiến cho thế giới tin rằng cần phải có hành động thích hợp để ngưng việc mua kim cương được khai thác từ châu Phi…. Chúng tôi hy vọng rằng khát khao được kể một câu chuyện lịch sử về câu chuyện có thật hấp dẫn và quan trọng sẽ không dẫn đến sự mất ổn định tại các quốc gia sản xuất kim cương ở châu Phi, và cuối cùng là nhân dân các nước đó.[151]
Bài báo trên New Republic nói rằng lời bình luận này, cũng như các sáng kiến và phát biểu trong cuộc đời ông và trong thời gian làm tổng thống Nam Phi, bị ảnh hưởng từ cả tình bạn với Harry Oppenheimer, cựu chủ tịch De Beers, lẫn từ quan điểm ‘quyền lợi quốc gia hẹp hòi’ của Nam Phi (là nhà sản xuất kim cương chính).[152]
Zimbabwe và Robert Mugabe
Robert Mugabe, tổng thống Zimbabwe, người đã lãnh đạo đất nước này từ khi độc lập năm 1980, đã nhận được nhiều lời chỉ trích trên thế giới vì trận đánh giết chết khoảng 3000 người vào thập niên 1980 cũng như tham nhũng, quản lý yếu kém, đàn áp chính trị và theo gia đình trị dẫn đến nền kinh tế nước này sụp đổ.[153][154]
Mặc dù cùng xuất thân là những nhà hoạt động vì tự do quốc gia, Mandela và Mugabe ít khi được xem là gần gũi. Mandela chỉ trích Mugabe vào năm 2000, nhắc tới những nhà lãnh đạo châu Phi đã giải phóng đất nước họ nhưng khư khư giữ ghế quá lâu.[155][156] Khi về hưu, Mandela ít nhắc đến Zimbabwe và các vấn đề đối nội đối ngoại hơn,[119] đôi khi đưa đến chỉ trích là không biết sử dụng ảnh hưởng của mình để khuyến khích giảm bớt chính sách của mình.[157] Luật sư của ông George Bizos tiết lộ rằng Mandela đã được khuyên để giữ gìn sức khỏe ông phải tránh tham gia vào các hoạt động nhiều áp lực như các tranh cãi về chính trị.[158] Tuy nhiên, vào năm 2007, Mandela đã nỗ lực thuyết phục Mugabe rời chức “sớm hơn”, với “chút ít chân giá trị còn lại”, trước khi ông bị săn đuổi như Augusto Pinochet. Mugabe không phản ứng gì trước lời phát biểu này.[159] Vào tháng 6 năm 2008, ở cao trào khủng hoảng trong cuộc bầu cử tổng thống Zimbabwe, Mandela lên án “sự thất bại thảm hại của quyền lãnh đạo” tại Zimbabwe.[160]
Tôn vinh
Theo một bài viết trên tạp chí Newsweek, “Mandela đã có được một vị trí bất khả xâm phạm khi nhắc đến Nam Phi. Ông là nhà giải phóng dân tộc, vị cứu tinh, là Washington và Lincoln hòa lại làm một”.[161]
Tháng 11 năm 2009, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông báo ngày sinh của Mandela, 18 tháng 7, sẽ được gọi là “Ngày Mandela” để ghi nhớ sự đóng góp của ông vào nền tự do của thế giới.[162]
Huân huy chương
Mandela đã nhận được nhiều giải thưởng của Nam Phi, nước ngoài và quốc tế, trong đó có Giải Nobel Hòa bình năm 1993 (cùng với Frederik Willem de Klerk),[163] được Nữ hoàng Elizabeth II trao Huân chương Công lao và Baliff Grand Cross của Huân chương Thánh John, Huân chương Tự do Tổng thống của George W. Bush.[164]Bản mẫu:Failed verification[165] Tháng 7 năm 2004, thành phố Johannesburg trao tặng danh hiệu cao nhất cho Mandela sự tự do của thành phố tại buổi lễ ở Orlando, Soweto.[166]
Ông cũng thường nhận được sự tán dương khi đi ra nước ngoài. Trong chuyến thăm Canada năm 1998, 45.000 học sinh đã chào đón ông khi ông có bài phát biểu tại SkyDome, Toronto.[167] Vào năm 2001, ông là người còn sống đầu tiên trở thành Công dân danh dự của Canada (người nhận danh hiệu duy nhất trước đó là Raoul Wallenberg sau khi đã mất).[168] Khi còn ở Canada, ông cũng nhận Huân chương Canada, là một trong số ít người nước ngoài nhận được huân chương này.[169]
Năm 1981, ông đư5ơc trao Giải Bruno Kreisky. Năm 1988, ông đoạt Giải thưởng Sakharov của Nghị viện châu Âu và Giải Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Năm 1990 ông nhận được Giải thưởng Bharat Ratna của chính phủ Ấn Độ và là người cuối cùng nhận được Giải thưởng Hòa bình Lenin của Liên Xô.[170] Vào năm 1992 ông được nhận Giải thưởng Hòa bình Atatürk của Thổ Nhĩ Kỳ. Ông đã từ chối giải thưởng vì cho rằng Thổ Nhĩ Kỳ lúc đó đang vi phạm nhân quyền,[171] nhưng đến năm 1999 thì chấp nhận giải thưởng[172] Vào năm 1992 ông nhận được Nishan-e-Pakistan, giải thưởng phục vụ cộng đồng cao nhất của Pakistan.[173] Năm 2004, ông được trao Giải Ý thức toàn cầu của Câu lạc bộ Budapest.
Bài hát ca ngợi
Nhiều nghệ sĩ đã viết bài hát và nhạc về Mandela. Một trong những nhóm nổi tiếng nhất là The Specials đã thu âm bài hát “Free Nelson Mandela” vào năm 1983. Stevie Wonder viết bài hát đã đoạt giải Oscar “I Just Called to Say I Love You” cho Mandela, dẫn đến bài này bị Hãng thông tấn Nam Phi cấm lưu hành.[174] Vào năm 1985, album Nelson Mandela của Youssou N’Dour là bản phát hành đầu tiên tại Mỹ của ca sĩ người Senegal này.
Năm 1988, một buổi hòa nhạc Kỷ niệm ngày sinh lần thứ 70 của Mandela đã diễn ra tại Sân vận động Wembley ở Luân Đôn là trung tâm của phong trào chống chủ nghĩa apartheid, tại đó nhiều ca sĩ đã góp tiếng nói ủng hộ Mandela.[175] Jerry Dammers, tác giả của bài hát Nelson Mandela, là một thành viên trong ban tổ chức.[175] Simple Minds đã thu âm bài hát “Mandela Day” dành cho buổi hòa nhạc,[175] Santana đã thu âm bản giao hưởng “Mandela”,[175] Tracy Chapman trình diễn bài “Freedom Now”, dành tặng cho Mandela và phát hành album Crossroads,[175] Salif Keita đến từ Mali, có chơi ở buổi hòa nhạc, sau này có đến thăm Nam Phi và năm 1995 thu âm bài hát “Mandela” trong album Folon.[175]
Tại Nam Phi, “Asimbonanga (Mandela)” (“Chúng tôi chưa thấy ông”) trở thành một trong những bài hát nổi tiếng nhất của Johnny Clegg, xuất hiện trong album Third World Child năm 1987.[176] Hugh Masekela, khi đó đang lưu vong ở Anh, đã hát bài “Bring Him Back Home (Nelson Mandela)” vào năm 1987.[177] Bài hát “Black President” vào năm 1989 của Brenda Fassie, cũng dành tặng Mandela, trở nên cực kỳ nổi tiếng dù nó bị cấm tại Nam Phi.[178] Nhạc sĩ nhạc reggae người Nigeria Majek Fashek đã phát hành đĩa đơn, “Free Mandela” vào năm 1992, đưa ông thành một trong nhiều nghệ sĩ Nigeria phát hành bài hát liên quan đến phong trào chống chủ nghĩa apartheid và đến Mandela.
Vào năm 1990, ban nhạc rock ở Hồng Kông Beyond đã ra mắt bài hát tiếng Quảng Đông nổi tiếng, “Days of Glory”. Bài hát với chủ đề chống chủ nghĩa apartheid đã nhắc đến cuộc đấu tranh anh hùng của Mandela vì sự công bằng sắc tộc.[179] Nhóm Ladysmith Black Mambazo đã đi cùng với Mandela tới buổi trao Giải Nobel Hòa bình tại Oslo, Na Uy vào năm 1993, và trình diễn trong buổi nhậm chức năm 1994. Vào năm 2003, Mandela đồng ý đưa tên tuổi của ông vào chiến dịch 46664 chống lại căn bệnh AIDS, đặt theo số tù của ông. Nhiều nhạc sĩ nổi tiếng đã trình diễn trong các buổi hòa nhạc.[180]
Sơ lược tiểu sử của Mandela đã được chiếu trong bản video nhạc “If Everyone Cared” của Nickelback vào năm 2006.[181] Bài hát “Turn This World Around” của Raffi dựa trên bài diễn văn của Mandela khi ông giải thích thế giới cần phải “xoay vòng, vì những đứa trẻ”.[182] Một buổi hòa nhạc kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Mandela đã diễn ra tại Hyde Park, Luân Đôn ngày 27 tháng 6 năm 2008.[183]
Sách tiểu sử đã xuất bản
Tự truyện của Mandela, Long Walk to Freedom, được xuất bản vào năm 1994. Mandela đã bắt đầu viết cuốn sách này một cách bí mật khi ở trong tù.[184] Trong quyển sách này Mandela không tiết lộ điều gì về sự đồng lõa của F. W. de Klerk trong những vụ bạo lực xảy ra vào thập niên 80 và 90, hay vai trò của bà vợ cũ Winnie Mandela trong những vụ tắm máu đó. Tuy nhiên, ông sau này có cộng tác cùng với bạn ông, nhà báo Anthony Sampson bàn luận về các vấn đề này trong Mandela: The Authorised Biography.[185] Một chi tiết khác mà Mandela đã bỏ qua là cuốn sách có phần giả mạo Goodbye Bafana.[186] Tác giả của nó, cai ngục James Gregory trên đảo Robben, nhận mình là bạn tâm tình của Mandela trong tù và đã xuất bản những chi tiết về những vụ yêu đương trong gia đình của người tù.[186] Sampson luôn nói rằng Mandela không biết rõ Gregory lắm, nhưng có thể Gregory đã kiểm duyệt những bức thư gửi cho Mandela nên khám phá ra những chi tiết về đời tư của Mandela. Sampson cũng quả quyết rằng các cai ngục khác nghi ngờ Gregory là mật thám của chính phủ và Mandela đang xem xét việc kiện Gregory.[187]
Điện ảnh và truyền hình
Bộ phim Mandela and De Klerk kể lại câu chuyện phóng thích Mandela.[188] Mandela do Sidney Poitier đóng vai. Goodbye Bafana, một bộ phim phóng sự nói về cuộc đời của Mandela, ra mắt tại liên hoan phim Berlin ngày 11 tháng 2 năm 2007. Bộ phim có diễn viên Dennis Haysbert đóng vai Mandela và diễn tả tình bạn trong tù giữa Mandela và James Gregory.[189]
Trong loạt chương trình truyền hình Mỹ The Cosby Show cháu nội của Cliff và Claire Huxtable được đặt theo tên của Nelson và Winnie để tôn vinh Mandela và bà vợ khi đó của ông Winnie.
Trong cảnh cuối năm 1992 bộ phim Malcolm X, Mandela – vừa được phóng thích sau 27 năm ở tù – đóng vai thầy giáo trong một lớp học Soweto.[190] Ông nhắc lại một phần bài diễn văn nổi tiếng nhất của Malcolm X, trong đó có câu: “Chúng ta sinh ra trên Trái Đất với quyền làm người, phải được tôn trọng như một con người, được trao những quyền của một con người trong xã hội này, trên Trái Đất này, vào ngày này, điều chúng ta muốn đưa thành hiện thực…” Đoạn cuối nổi tiếng của câu đó là “bằng bất cứ giá nào.”[191] Mandela đã thông báo với đạo diễn Spike Lee rằng ông không thể đọc câu này trước máy quay vì sợ chính quyền apartheid sẽ dùng nó chống lại ông. Lee đã rất biết ơn, và những giây cuối cùng của bộ phim là đoạn phim trắng đen của chính Malcolm X đọc câu này.[191]
Mandela và đội trưởng Springboks, Francois Pienaar, là chủ đề của cuốn sách năm 2008 của John Carlin, Playing the Enemy: Nelson Mandela and the Game that Made a Nation,[192] trong đó nhấn mạnh vai trò của chiến thắng trong Giải rugby vô địch thế giới 1995 tại Nam Phi thời hậu apartheid. Carlin bán quyền làm phim cho Morgan Freeman.[193] Bộ phim này, có tên Invictus,[194] được đạo diễn bởi Clint Eastwood, trong đó Freeman đóng vai Nelson Mandela và Matt Damon vai Pienaar.[193]
Tượng đài
Vật tưởng niệm Nelson Mandela
Vào ngày 30 tháng 4 năm 2001, Khu vườn Nelson Mandela ở Quảng trường Thiên niên kỷ, Leeds đã chính thức khai trương và Nelson Mandela được tặng giải sự tự do của thành phố và được tặng một ‘con cú vàng’ (biểu tượng của Leeds) làm kỷ niệm. Trong bài phát biểu bên ngoài Đại sảnh Leeds trước 5000 người, Mandela đã cảm ơn nhầm ‘nhân dân Liverpool vì sự hào phóng của các bạn’.[195]
Vào ngày 31 tháng 3 năm 2004, Quảng trường Sandton ở Johannesburg được đổi tên thành Quảng trường Nelson Mandela, sau khi người ta dựng bức tượng Nelson Mandela cao 6 mét ở quảng trường để vinh danh nguyên thủ Nam Phi của mình.[196]
Vào ngày 29 tháng 8 năm 2007, một bức tượng Nelson Mandela được khánh thành tại Quảng trường Nghị viện ở Luân Đôn bởi Richard Attenborough, Ken Livingstone, Wendy Woods, và Gordon Brown.[197] Chiến dịch dựng tượng bắt đầu vào năm 2000 bởi Donald Woods, một nhà báo Nam Phi lưu vong vì tham gia phong trào chống chủ nghĩa apartheid. Mandela nói rằng nó đại diện cho không chỉ ông, mà còn cho những ai đang chống lại áp bức, đặc biệt tại Nam Phi.[198] Ông nói thêm: “Lịch sử đấu tranh tại Nam Phi đầy những câu chuyện về các nam nữ anh hùng, một số họ là nhà lãnh đạo, một số là người ủng hộ. Tất cả họ đều xứng đáng được ghi nhớ.”[199]
Vào ngày 27 tháng 8 năm 2008, một bức tượng của Nelson Mandela được khánh thành tại Trại cải tạo Drakenstein Groot giữa Paarl và Franshhoek trên đường R301, gần Cape Town. Trước đây có tên Victor Verster, đây là nơi Mandela trải qua những năm cuối cùng trong thời gian 27 năm ở tù, khi ông và các đồng chí ở ANC đã thương thảo với chính quyền apartheid về những điều khoản để ông được tự do và bản chất của nước Nam Phi mới. Bức tượng được đặt ngay nơi Mandela bước bước đi đầu tiên với tư thế một người tự do. Ngay bên ngoài cổng tù – đỉnh điểm của Long Walk to Freedom – tên tự truyện của Mandela.[200][201]
Sau Trận động đất Loma Prieta năm 1989 phá hủy phần Cầu cạn đường Cypress của Xa lộ Nimitz tại Oakland, California, thành phố đã đổi tên con đường này và đặt tên là Mandela Parkway.
Tại Leicester, nước Anh, có một Công viên Nelson Mandela với khẩu hiệu “Nam Phi thuộc về tất cả những ai sống tại đó, dù Trắng hay Đen”.
Các câu nói
Về Thể thao
- “Thể thao là phương tiện hữu hiệu có khả năng làm thay đổi cục diện thế giới, là công cụ hữu ích cho tương quan thân hữu và nền hòa bình của thế giới…” [3]
Chú thích
- ^ a ă “Nelson Mandela – Biography”. Nobelprize.org. The Nobel Foundation. 1993. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2009.
- ^ Mandela 1996, trang 16, 17
- ^ a ă “South Africa: Celebrating Mandela At 90”. AllAfrica.com. Ngày 17 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Kopkind, Andrew (ngày 16 tháng 3 năm 1990). “Book Review – Higher than Hope”. Entertainment Weekly. Time Inc. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Mafela, Munzhedzi James (tháng 10 năm 2008). “The revelation of African culture in Long Walk to Freedom”. Indigenous Biography and Autobiography. Australian National University. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2009.
- ^ “President of South Africa: Nelson Mandela”. Chalre Associates. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.[liên kết hỏng][liên kết hỏng]
- ^ a ă â Aikman (2003), pp 70–71
- ^ a ă â Mandela, Nelson (2006). Mandela: The Authorized Portrait. Kansas City, Mo.: Andrews McMeel Pub. tr. 13. ISBN 0-7407-5572-2. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Mandela 1996, p.7
- ^ a ă â b c Mandela, Nelson (1994). Long Walk to Freedom. Little, Brown and Company.
- ^ Mandela 1996, p. 9. “Không ai trong gia đình tôi đi học cả […] Trong ngày nhập học, cô giáo của tôi, cô Mdingane, đặt cho mỗi đứa một cái tên tiếng Anh. Hồi đó đây là thông lệ của người châu Phi và rõ ràng nó thể hiện xu hướng thiên về tiếng Anh trong nền giáo dục mà chúng tôi thụ hưởng. Hôm đó, cô Mdingane bảo với tôi tên mới của tôi sẽ là Nelson. Tại sao cô lại đặt cho tôi tên này, tôi cũng không biết nữa.”
- ^ a ă “Mandela celebrates 90th birthday”. BBC. Ngày 17 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Healdtown Comprehensive School”. Historic Schools Project: South Africa. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Mandela 1996, pp. 18-19.
- ^ a ă Mandela 1996, pp. 10, 20.
- ^ a ă “Nelson Mandela Biography – Early Years”. Nelson Mandela Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela Children’s Fund – Organise”. Nelson Mandela Children’s Fund. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “The 1948 election and the National Party Victory”. South African History Online. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “The Defiance Campaign”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Congress of the People, 1955”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Callinicos, Luli (2004). Oliver Tambo: Beyond the Engeli Mountains. New Africa Books. tr. 173. ISBN 0864866666.
- ^ Mandela, Nelson (ngày 3 tháng 1 năm 2000). “The Sacred Warrior”. Time 100: The Most Important People of the Century. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Bhana, Surendra; Vahed, Goolam (2005). The Making of a Political Reformer: Gandhi in South Africa, 1893–1914. tr. 149.
- ^ Bhalla, Nita (ngày 29 tháng 1 năm 2007). “Mandela calls for Gandhi’s non-violence approach”. Reuters. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela’s Testimony at the Treason Trial 1956-60”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă â “ANC – Statement to the Truth and Reconciliation Commission”. African National Congress. Tháng 8 năm 1996. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Shillington, Kevin (2005). Encyclopedia of African History. CRC Press. tr. 1449. ISBN 1579582451.
- ^ “The Freedom Charter”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ SACP Salutes Walter Sisulu
- ^ Leeman, Bernard (1996). Trong Alexander, Peter; Hutchison, Ruth; Schreuder, Deryck. The PAC of Azania in Africa Today. The Humanities Research Centre, The Australian National University Canberra: The Australian National University Canberra. ISBN 07315 24918.
- ^ “Umkhonto is Born”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă â Whittaker, David J. (2003). The Terrorism Reader . Routledge. tr. 244. ISBN 0415301017.
- ^ “Tell me about the bomb at the brickworks – Frontline The Long Walk of Nelson Mandela”. PBS.
- ^ a ă Mandela, Nelson (ngày 20 tháng 4 năm 1964). “”I am Prepared to Die” — Nelson Mandela’s statement from the dock at the opening of the defence case in the Rivonia Trial”. African National Congress. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela admits ANC violated rights, too”. Financial Times. Ngày 2 tháng 11 năm 1998.
- ^ “BBC News: US shamed by Mandela terror link”. Ngày 10 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Mandela taken off US terror list”. BBC News. Ngày 1 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2008.
- ^ “5 August – This day in history”. The History Channel. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Blum, William. “How the CIA sent Nelson Mandela to prison for 28 years”. Third World Traveller. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Stein, Jeff (ngày 14 tháng 11 năm 1996). “Our Man in South Africa”. Salon.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2000. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Weiner, Tim (2007). Legacy of Ashes. Penguin Group. tr. 362. ISBN 978-1-846-14046-4.
- ^ Katwala, Sunder (ngày 11 tháng 2 năm 2001). “The Rivonia Trial”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă “ANC Lilliesleaf Farm arrests”. South African History Online. Ngày 11 tháng 7 năm 1963. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Mandela, Nelson (ngày 20 tháng 4 năm 1964). “An ideal for which I am prepared to die”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă “The Sharpeville Massacre”. TIME. Ngày 4 tháng 4 năm 1960. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Manifesto of Umkhonto we Sizwe”. African National Congress. Ngày 16 tháng 12 năm 1961. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Rivonia Trial Papers”. Aluka. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă â “Toward Robben Island: The Rivonia Trial”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela’s jail overrun by rabbits”. BBC. Ngày 15 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “A monument to Mandela: the Robben Island years”. The Independent (London: Independent Print Limited). Ngày 2 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Political prisoner recalls time on Robben Island”. The Michigan Daily. Ngày 17 tháng 10 năm 2002. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2010.
- ^ Holmes, Steven A. (ngày 22 tháng 6 năm 1994). “Robben Island Journal; South Africa Ponders Fate of Apartheid’s Bastille”. NY Times. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Kathrada, Ahmed; Mandela, Nelson (2004). Memoirs. Zebra. tr. 246. ISBN 1868729184.
- ^ a ă “The Big Read: Nelson Mandela: a living legend”. Daily Observer. Ngày 25 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Winter, Gordon (1981). Inside BOSS. Penguin Books.
- ^ Hallengren, Anders (ngày 11 tháng 9 năm 2001). “Nelson Mandela and the Rainbow of Culture”. Nobelprize.org. The Nobel Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă â b Sparks, Allister (1994). Tomorrow is Another Country. Struik.
- ^ Cowell, Alan (ngày 1 tháng 2 năm 1985). “South Africa hints at conditional release for jailed black leaders”. NY Times. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela’s response to being offered freedom”. ANC. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Key Dates in South African History”. Nelson Mandela Children’s Fund. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Free Nelson Mandela”. ANC. Tháng 7 năm 1988. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “PW Botha, unrepentant defender of apartheid, dies aged 90”. The Independent (London: Independent Print Limited). Ngày 1 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Malam, John (2002). The Release of Nelson Mandela: ngày 11 tháng 2 năm 1990. Cherrytree Books. ISBN 1842341030.
- ^ http://icrc.org/web/eng/siteeng0.nsf/html/south-africa-feature-020709 South Africa: commemorating 150 years since the battle of Solferino
- ^ http://icrc.org/web/eng/siteeng0.nsf/htmlall/5pkj9a Nelson Mandela: Red Cross a “beacon of humanity” for political prisoners
- ^ “1990: Freedom for Nelson Mandela”. BBC. Ngày 11 tháng 2 năm 1990. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Ormond, Roger (ngày 12 tháng 2 năm 1990). “Mandela free after 27 years”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă “Nelson Mandela’s address to Rally in Cape Town on his Release from Prison”. ANC. Ngày 11 tháng 2 năm 1990. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “A Crime Against Humanity – Analysing the Repression of the Apartheid State”. South African History Online. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Profile of Nelson Rolihlahla Mandela”. African National Congress. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2007.
- ^ “Boipatong Massacre”. African National Congress. Ngày 18 tháng 6 năm 1992. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Chris Hani assassinated. (Obituary)”. Social Justice. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Statement of the President of the ANC, Nelson Mandela on the assassination of Martin Chris Hani”. Ngày 10 tháng 4 năm 1993. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Mandela becomes SA’s first black president”. BBC. Ngày 10 tháng 5 năm 1994. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “The Nobel Peace Prize 1993 – Presentation Speech”. Nobelprize.org. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela rallies Springboks”. BBC Sport. Ngày 6 tháng 10 năm 2003. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Carlin, John (ngày 19 tháng 10 năm 2007). “How Nelson Mandela won the rugby World Cup”. The Daily Telegraph (London). Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Khumalo, Fred (ngày 5 tháng 8 năm 2004). “How Mandela changed SA fashion”. BBC. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Thai, Bethuel (ngày 4 tháng 10 năm 1998). “Lesotho to hold re-elections within 15 to 18 months”. Lesotho News Online. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Sampson, Anthony (ngày 6 tháng 7 năm 2003). “Mandela at 85”. The Observer. London. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Robinson, Simon (ngày 11 tháng 4 năm 2007). “The Lion In Winter”. Time. Time Inc. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Can Mandela’s AIDS Message Pierce the Walls of Shame?”. Peninsula Peace and Justice Center. Ngày 9 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Quist-Arcton, Ofeibea (ngày 19 tháng 7 năm 2003). “South Africa: Mandela Deluged With Tributes as He Turns 85”. AllAfrica.com. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela’s stark Aids warning”. BBC News. Ngày 1 tháng 12 năm 2000. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ Wines, Michael (ngày 7 tháng 1 năm 2005). “Mandela, Anti-AIDS Crusader, Says Son Died of Disease”. NY Times. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ Brown, Derek (ngày 31 tháng 1 năm 2001). “Lockerbie trial: what happened when”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ McGreal, Chris (ngày 11 tháng 5 năm 1999). “Mandela shies away from global role in retirement”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Families say SA trial site acceptable”. Dispatch. Ngày 27 tháng 10 năm 1997. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela’s parting shot at Major over Lockerbie”. The Guardian. Ngày 11 tháng 5 năm 1999. tr. 13.
- ^ “Analysis: Lockerbie’s long road”. BBC. Ngày 31 tháng 1 năm 2001. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela appeals on behalf of Lockerbie bomber”. London: guardian.co.uk. Ngày 10 tháng 6 năm 2002. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Lockerbie bomber ‘leaves solitary confinement’”. The Daily Telegraph (London). Ngày 25 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela backs Lockerbie decision”. bbc online. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2009.
- ^ Soszynski, Henry. “Genealogical Gleanings”. University of Queensland. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2003. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela – Timeline”. Nelson Mandela Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela’s life and times”. BBC. Ngày 16 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Madiba bids final farewell to his first wife”. Independent Online. Independent News & Media. Ngày 8 tháng 5 năm 2004. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela Biography – Black History”. Biography.com. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “UWC – Presidents and Patrons”. United World Colleges. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Smith, Charlene; Tutu, Desmond (2004). Mandela: In Celebration of a Great Life. Struik. tr. 41. ISBN 1868728285.
- ^ Timberg, Craig (ngày 7 tháng 1 năm 2005). “Mandela Says AIDS Led to Death of Son”. The Washington Post (The Washington Post Company). Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ a ă â “Winnie Mandela”. ANC. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson and Winnie Mandela divorce; Winnie fails to win $5 million settlement.”. Jet. Ngày 8 tháng 4 năm 1996. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Swaziland prince and princess attend Boston University”. WGBH Boston. Ngày 13 tháng 5 năm 1987. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Daddy Stayed In Jail. That Was His Job’; Zenani Mandela’s Life Without Father”. The Washington Post. The Washington Post Company. Ngày 8 tháng 11 năm 1987. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă “AILA International Fellows Program”. Center for Strategic & International Studies. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Zondwa Gadaffi Mandela”. Aurora Empowerment Systems. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Mandela gets married on 80th birthday”. CNN. Ngày 18 tháng 7 năm 1998. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Ngcukana, Lubabalo. “andela, Kaunda honour king”. Daily Dispatch. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ de Bruyne, Marnix. “Zuidelijk Afrika”. Netherlands Institute for Southern Africa. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “2005: The year of Make Poverty History”. Make Poverty History. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2007.
- ^ “SA’s best to join international stars for charity”. Nelson Mandela Invitational. Ngày 5 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela”. SOS Children’s Villages. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2008.
- ^ “Celebrate Humanity 2004” (PDF). International Olympic Committee. 2004. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2007.
- ^ “Mandela ‘responding well to treatment’”. BBC. Ngày 15 tháng 8 năm 2001. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “The Smoking Gun: Archive”. The Smoking Gun. 2003. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2007.
- ^ Groenewald, Yolandi; Joubert, Pearlie (ngày 2 tháng 3 năm 2007). “Not yet uhuru”. Mail & Guardian.
- ^ “”I’ll call you””. SouthAfrica.info. Ngày 2 tháng 6 năm 2004. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă Carroll, Rory (ngày 18 tháng 7 năm 2006). “Mandela keeps his opinions to himself as a nation marks its idol’s birthday”. The Guardian (London). Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Is Nelson Mandela Losing His Memory?”. Who2.com. Ngày 7 tháng 12 năm 2009.
- ^ a ă “Nelson Mandela Celebrates 90th Birthday by Urging Rich to Help Poor”. Fox News. Ngày 18 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Bingham, John (ngày 6 tháng 5 năm 2008). “Hyde Park concert to mark Mandela’s 90th”. The Independent. London: Independent Print Limited. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ http://www.guardian.co.uk/world/2010/jul/11/nelson-mandela-world-cup-final
- ^ “Mandela joins ‘Elders’ on turning 89”. MSNBC. Ngày 20 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela launches The Elders”. SAinfo. Ngày 19 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela announces The Elders”. The Elders. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Closing Ceremony”. TheBody.com. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
- ^ “About 46664”. 46664.com. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “XV International AIDS Conference – Daily Coverage”. Kaisernetwork. Ngày 15 tháng 7 năm 2004. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela’s eldest son dies of Aids”. BBC. Ngày 6 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ [1]
- ^ “Mandela warns Bush over Iraq”. BBC. Ngày 1 tháng 9 năm 2002. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Cornwell, Rupert (ngày 31 tháng 1 năm 2003). “Mandela lambastes ‘arrogant’ Bush over Iraq”. The Independent. London: Independent Print Limited. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Fenton, Tom (ngày 30 tháng 1 năm 2003). “Mandela Slams Bush On Iraq”. CBS. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela Slams Bush On Iraq”. CBS News. Ngày 30 tháng 1 năm 2003. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ [2]
- ^ Chanda, Abhik Kumar (ngày 10 tháng 5 năm 2005). “Mandela sues over forged sketches”. Mail & Guardian. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Mabuza, Ernest (ngày 13 tháng 7 năm 2005). “Ayob denies gain from Mandela art”. Business Day. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă Moya, Fikile-Notsikelelo (ngày 5 tháng 8 năm 2005). “Poor Ismail Ayob”. Mail & Guardian. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Keet, Jacques (ngày 21 tháng 7 năm 2005). “Courts ‘have final word on Mandela-Ayob clash’”. Business Day. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Mabuza, Ernest (ngày 18 tháng 7 năm 2005). “Bizos behind vicious campaign to discredit, defame me — Ayob”. Business Day. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2008.
- ^ “Ayob to pay back Mandela money”. News24. Ngày 27 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă Gordin, Jeremy (ngày 4 tháng 3 năm 2007). “What caused the Ayob, Mandela spat?”. Sunday Independent (Independent News & Media). Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Schmidt, Michael (ngày 3 tháng 3 năm 2007). “Mandela waging a vendetta – Ayob”. Pretoria News.
- ^ “Mandela’s lawyers take Ismail to court over money”. Mail & Guardian. Ngày 25 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Sefara, Makhudu; Mapiloko, Jackie (ngày 3 tháng 3 năm 2007). “Madiba set me up, says Ayob”. News24. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Adams, Sheena (ngày 8 tháng 7 năm 2006). “’Ayob tried to cover up unlawful spending’”. IOL. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Mkhwanazi, Siyabonga (ngày 28 tháng 2 năm 2007). “Lawyer to pay back R800000 to Mandela trust”. Pretoria News (South Africa). Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Mabuza, Ernest (ngày 10 tháng 3 năm 2007). “Ayob Runs Out of Cash But Accuses Mandela Again”. Business Day. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Bates, Rob (ngày 22 tháng 6 năm 2006). “Nelson Mandela to speak out for diamond industry”. Jewelers’ Circular Keystone. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Half Nelson – Mandela, diamond shill”. The New Republic. Ngày 8 tháng 12 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Snead, Elizabeth (ngày 15 tháng 6 năm 2006). “Mandela to defend De Beers from bad “Blood””. LA Times. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Chimuka, Garikai (ngày 14 tháng 5 năm 2008). “Gukurahundi and current wave of violence similar”. The Zimbabwe Times. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ Winter, Joseph (ngày 13 tháng 3 năm 2002). “Mugabe’s descent into dictatorship”. BBC. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela expresses anger at Mugabe”. The Namibian. Ngày 8 tháng 5 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela repudiates Mbeki on AIDS stance”. CNN. Ngày 29 tháng 9 năm 2000. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Hentoff, Matt (ngày 23 tháng 5 năm 2003). “Where is Nelson Mandela?”. The Village Voice. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Trapido, Michael (ngày 10 tháng 6 năm 2008). “Why has Nelson Mandela remained silent on Zimbabwe?”. Thought Leader. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Mugabe snubs Mandela”. News24. Ngày 5 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Failure of leadership in Zim – Mandela”. News24. Ngày 25 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ Father Disfigure by Eve Fairbanks, Newsweek Magazine, ngày 27 tháng 8 năm 2009
- ^ “UN gives backing to ‘Mandela Day’”. BBC News. Ngày 11 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2009.
- ^ “The Nobel Peace Prize 1993”. Nobelprize.org. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “The Order of Merit”. Royal Insight. Tháng 11 năm 2002. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.Bản mẫu:Failed verification
- ^ “President Honors Recipients of the Presidential Medal of Freedom”. The White House. Ngày 9 tháng 7 năm 2002. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Madiba conferred freedom of Johannesburg”. Gauteng Provincial Government. Ngày 27 tháng 7 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela and the Children”. Rooney Productions. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela to be honoured with Canadian citizenship”. CBC News. Ngày 19 tháng 11 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Order of Canada – Nelson Mandela, C.C.”. Governor General of Canada. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Bharat Ratna Award”. National Portal of India. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Statement on the Ataturk Award given to Nelson Mandela”. African National Congress. Ngày 12 tháng 4 năm 1992. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2007.
- ^ “Mandela changes his mind”. Turkish Press Review. Ngày 7 tháng 1 năm 1999. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2007.
- ^ “Mandela in Pakistan”. The Independent (London: Independent Print Limited). Ngày 3 tháng 10 năm 1992. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Stevie Wonder Music Banned in South Africa”. The New York Times. Ngày 27 tháng 3 năm 1985. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă â b c d Ketchum, Mike. “The Mandela Concert, Wembley 1988”. African National Congress. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ Drewett, Michael; Cloonan, Martin (2006). Popular Music Censorship in Africa. Ashgate Publishing. tr. 30. ISBN 0754652912.
- ^ Guernsey, Otis L.; Sweet, Jeffrey; Kronenberger, Louis (ngày 21 tháng 5 năm 2008). The Best Plays. University of Michigan. tr. 347. ISBN 1557830401.
- ^ “Brenda Fassie dies”. BBC. 2004. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Lee, Carmen (ngày 16 tháng 6 năm 2003). “20 Years Ago Today”. Time. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2008.
- ^ Sherrod, Lonnie R. (2006). Youth Activism: An International Encyclopedia. Greenwood Press. tr. 62. ISBN 0313328129.
- ^ Lamb, Bill. “Nickelback – If Everyone Cared”. About. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ Trussell, Jeff. “Freedom Hero: Nelson Mandela”. The My Hero Project. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Mandela’s 90th birthday year celebrates diversity of ideas”. Nelson Mandela Foundation. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Mandela 1996, p. 144-148.
- ^ Ann, Talbot (ngày 5 tháng 8 năm 1999). “Biography falls short of penetrating myth surrounding ANC leader”. International Committee of the Fourth International (ICFI). Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Gilbey, Ryan (ngày 14 tháng 5 năm 2007). “Whitewashed and watered down”. New Statesman. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Sampson, Anthony (1999). Mandela: The Authorised Biography. HarperCollins. tr. 217.
- ^ Keller, Bill. “Mandela and de Klerk (1997)”. The New York Times. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Goodbye Bafana – Sypnosis”. Goodbye Bafana – Official site. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ Cunningham, Matthew (ngày 3 tháng 6 năm 2004). “Creme cameos”. The Guardian. London. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Guerrero, Ed (1993). Framing Blackness: The African American Image in Film. Temple University Press. tr. 202. ISBN 1566391261.
- ^ Carlin, John (2008). Playing the Enemy: Nelson Mandela and the Game that Made a Nation. New York: Penguin Press. ISBN 978-1-59420-174-5
- ^ a ă Keller, Bill. – “Entering the Scrum”. – The New York Times Book Review. – ngày 17 tháng 8 năm 2008.
- ^ “The cast of the World Cup film revealed!”. Planet Rugby. Ngày 24 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2009.
- ^ Ian Herbert North (ngày 1 tháng 5 năm 2001). “Mandela vindicates ‘loony left’ of Leeds for honouring struggle”. The Independent (London: Independent Print Limited). Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2008.
- ^ “S. Africa renames Sandton Square as Nelson Mandela Square”. Xinhua News Agency. Ngày 31 tháng 3 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela statue is unveiled”. BBC News. Ngày 29 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Broad Parliamentary Support for Trafalgar Square Mandela statue”. London. Ngày 21 tháng 5 năm 2003. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Mandela salutes apartheid heroes”. News24. Ngày 29 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Stern, Jennifer (ngày 27 tháng 8 năm 2008). “Long walk immortalised in bronze”. Media Club South Africa. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2009.
- ^ “Nelson Mandela statue unveiled in Cape Town”. Nelson Mandela Foundation. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2009.
Tài liệu
- [[David Aikman|Aikman, David]] (2003). Great Souls: Six Who Changed a Century. Lexington Books. ISBN 0739104381.
- Mandela, Nelson (1996). The Illustrated Long Walk to Freedom. Paul Duncan (abridgement and picture editing). Boston: Little, Brown and Company. ISBN 0316880205.
Đọc thêm
- A Prisoner in the Garden: Opening Nelson Mandela’s Prison Archive. Penguin Books. 2005. ISBN 0-143-02495-7.
- Desmond Tutu; edited by John Allen. (1996). The Rainbow People of God: The Making of a Peaceful Revolution. Doubleday. ISBN 978-0385-48374-2.
- Benson, Mary. Nelson Mandela: The Man and the Movement.
- Bezdrob, Anne Marie du Preez (2006). The Nelson Mandela Story. Samoja Books. ISBN 0-620-36570-6.
- Denenberg, Barry. Nelson Mandela: No Easy Walk To Freedom.
- Hoobler, Dorothy; Hoobler, Thomas (1992). Mandela: The Man, The Struggle, The Triumph. New York: Franklin Watts. ISBN 978-0531152454.
- Juckes, Tim (1995). Opposition in South Africa: The Leadership of Matthews, Nelson Mandela, and Stephen Biko. Westport: Praeger Publishers.
- Mandela, Nelson (1995). Long Walk to Freedom. Little, Brown and Company. ISBN 0-316-54818-9.
- Meredith, Martin. Nelson Mandela: A Biography.
- Sampson, Anthony (1999). Mandela: The Authorised Biography. New York: Vintage Books. ISBN 0-679-78178-1.
- Smith, Charlene. Mandela: In Celebration of a Great Life.
- Stengel, Richard (2009). Mandela’s Way: Fifteen Lessons on Life, Love, and Courage. Crown. ISBN 978-0307460684.
- Villa-Vicencio, Charles (1996). The Spirit of Freedom. Berkeley: University of California Press.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Nelson Mandela |
- Nelson Mandela – Biography at Nobelprize.org
- Nelson Mandela Foundation
- Nelson Mandela Children’s Fund
- Nelson Mandela Children’s Fund (Canada)
- Time 100 profile
- Mandela: An Audio History
- Mandela: Son of Africa, Father of a Nation Documentary & Soundtrack
- The Elders
- The Art of Nelson Mandela
- CBC Digital Archives – Nelson Mandela: Prisoner, president, peacemaker
- Nelson Mandela: A Hero’s Way – Life magazine
- Martin Meredith: Nelson Mandela: A Biography – Interview May 2010
|
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Nelson Mandela |
- Sinh 1918
- Mất 2013
- Bất bạo động
- Tổng thống Nam Phi
- Người đoạt giải Nobel Hòa bình
- Nhà hoạt động nhân quyền
- Người đoạt Huy chương Tự do Tổng thống
- Người đoạt giải Sakharov
Friedrich Engels
![]() |
|
Thời đại | Triết gia thế kỷ 19 |
---|---|
Lĩnh vực | Triết học phương Tây |
Trường phái | Chủ nghĩa Marx |
Sở thích | Triết học, Chính trị, Kinh tế, Đấu tranh giai cấp |
Ý tưởng nổi trội | Đồng sáng lập chủ nghĩa Marx, Có nhiều tư tưởng cách mạng về chủ nghĩa cộng sản |
Ảnh hưởng bởi[hiện]
|
|
Ảnh hưởng tới[hiện]
|
Friedrich Engels (thường được phiên âm tiếng Việt là Phriđrich Ăngghen,[1] sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 mất ngày 5 tháng 8 năm 1895) nhà lí luận chính trị, là một triết gia và nhà khoa học người Đức thế kỷ 19, người cùng với Karl Marx đã sáng lập và phát triển chủ nghĩa cộng sản và là lãnh tụ của phong trào công nhân thế giới và Quốc tế I.[2] Ông cùng với Karl Marx và là đồng tác giả của bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848). Engels cũng biên tập và xuất bản quyển II và quyển III của bộ Tư bản sau khi Karl Marx mất.
Ngoài những công trình chung với Marx, ông còn viết nhiều tác phẩm khoa học có giá trị như: “Nguồn gốc của gia đình, sở hữu tư nhân và nhà nước”, “Về lịch sử người German cổ đại”, “Chống Duhring”, “Biện chứng của tự nhiên”, v.v… Ngoài ra, cuốn “Tác dụng của lao động chuyển hoá vượn thành người” cũng là một công trình khoa học tuyệt vời góp phần giải thích nguồn gốc hình thành và phát triển của loài người.
Mục lục
- 1 Cuộc đời
- 2 Các tác phẩm chính
- 2.1 Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị (1843)
- 2.2 Gia đình Thần thánh (1844)
- 2.3 Tình cảnh của giai cấp công nhân Anh năm 1844 (1844)
- 2.4 Tình cảnh nước Anh
- 2.5 Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848)
- 2.6 Tiểu luận về chiến tranh (1870 – 1871)
- 2.7 Chống Duhring (1878)
- 2.8 Biện chứng của tự nhiên (1873 – 1882)
- 2.9 Nguồn gốc của Gia đình, Sở hữu tư nhân, và Nhà nước (1884)
- 3 Một số câu nói
- 4 Đánh giá về ông
- 5 Hình ảnh về ông
- 6 Xem thêm
- 7 Chú thích
- 8 Liên kết ngoài
Cuộc đời
Friedrich Engels sinh ở Barmen, tỉnh Rhine của Vương quốc Phổ (hiện nay là một phần của Wuppertal, nước Đức). Ông là con trai trưởng của một nhà sản xuất sợi dệt giàu có người Đức.[3] Cha ông là một chủ tư bảnlớn, rất sùng đạo, tháo vát về kinh doanh, giao du rộng, nhưng về chính kiến thì rất bảo thủ. Mẹ ông là một trí thức kinh tế, nhạy cảm, đôn hậu, hoạt bát, thích hài hước và yêu văn học nghệ thuật. Ông ngoại của Engels là một giáo sư đại học về ngôn ngữ học, thường kể cho cháu ngoại mình nghe chuyện về các anh hùng trong các thần thoại Hy Lạp cổ đại và trong các truyền thuyết dân gian Đức.
Lúc Friedrich Engels vừa chào đời, mẹ không hứng thú gì với việc cha ông đã đặt tên cho ông là Friedrich, theo tên của vua Friedrich II Đại đế nước Phổ. Khác với cha ông, mẹ của Engels muốn lấy tên Johann Wolfgang Von Goethe – một đại thi hào và nhà thông thái người Đức để đặt cho con trai.[1] Ngay từ khi còn bé, Engels đã bộc lộ tính cách độc lập, sống trong một gia đình tư bản giàu có, những lời dạy bảo nghiêm khắc của cha và những sự đe doạ trừng phạt không thể làm cho ông đi đến chỗ phải phục tùng mù quáng. Đến năm 14 tuổi, Engels học ở trường tại thành phố Barmen. Học ở bậc trung học, ông luôn suy nghĩ, nêu nghi vấn rồi tự tìm đọc thêm để tự giải đáp cho mình. Ông có một châm ngôn là “Tôi nghi ngờ những gì mà tôi chưa rõ”.
Do nhu cầu tra cứu, ông đã đọc thêm rất nhiều ngoại ngữ. Ông đã sớm bộc lộ năng khiếu về ngoại ngữ, mới 17 tuổi mà Engels đã biết 15 ngoại ngữ, nói viết thông thạo tiếng La tinh, Cổ Hy Lạp, Tây Ban Nha, Pháp, Anh, Hà Lan, Italya. Ngoài ra còn có thể đọc được các thứ tiếng Xcandinaves, Bồ Đào Nha và tiếng Ba Lan, thậm chí cả một thổ ngữ Bắc Ireland mà trên khắp Trái Đất chỉ có 550 người nói.[4]
Vào tháng 10 năm 1834, Engels được cho đi học ở trường trung học Elberfelder, một trường tốt nhất ở Phổ thời bấy giờ.[5] Khi còn là học sinh trung học, Engels đã căm ghét sự chuyên chế và độc đoán của giới quan lại, ông kiên trì tự học, nuôi ý chí làm khoa học và hoạt động cải biến xã hội bằng cách mạng.[6]
Vào năm 1838, theo yêu cầu của bố, ông phải dời trường trung học khi chưa tốt nghiệp và được gửi đến làm việc với vai trò một thư ký không công ở văn phòng thương mại tại thành phố cảng Bremen năm 1838.[7][8] Trong thời gian này ông tự học các ngành sử học, triết học, văn học, ngôn ngữ và thơ ca, cũng trong thời gian này, Engels bắt đầu tiếp cận các tác phẩm triết học của Georg Wilhelm Friedrich Hegel, một triết gia đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền triết học Đức thời gian đó. Ông say mê nghiêm cứu về bộ môn này.
Tháng 9 năm 1838, ông đã xuất bản tác phẩm đầu tiên có tựa đề The Bedouin, trong Bremisches Conversationsblatt Số 40. Ông cũng bận rộn với lĩnh vực văn chương khác và các tác phẩm báo chí.[9][10] Cũng trong thời gian này, Engels cũng đã có tác phẩm về báo chí đầu tiên của mình trong bài báo có tựa đề “Những bức thư từ Vesphalia” công bố vào tháng 3 năm 1839.[11] Trong tác phẩm này, ông đã phê phán những chủ xưởng sùng đạo, đồng thời thể hiện rõ thiện cảm đối với công nhân. Bài báo đầu tiên này đã thể hiện tinh thần dân chủ cách mạng và vô thần của ông.[6]
Tháng 9 năm 1841, Engels đến Berlin gia nhập Quân đội Phổ theo diện nghĩa vụ quân sự, được biên chế vào binh đoàn Pháo binh Ngự lâm, ở đây ông được huấn luyện quân sự mà trong những năm sau, ông rất cần đến nó. Nhờ địa vị này ông đã có điều kiện để lui tới Berlin nơi ông tham gia theo dõi các bài giảng trong trường đại học, tham gia hội thảo về lịch sử tôn giáo. Vào thời điểm này, ông bắt đầu tham gia vào nhóm Hegel trẻ[12] Cuối năm này, Engels đã được tiếp cận tác phẩm Bản chất đạo Cơ Đốc của Fuerbac, tác phẩm nổi tiếng này đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến thế giới quan của ông.[6]
Mùa xuân 1842, Engels bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh) và xuất bản một vài bài trên Nhật báo sông Rhein.[8] Trong những bài báo in năm 1842, trên tờ báo Engels đã lên tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ Vương quốc Phổ, trật tự phong kiến ở Đức.
Ngày 8 tháng 10 năm 1842, Engels mãn hạn phục vụ trong quân đội, từ Berlin ông trở về Barmen. Một tháng sau vào tháng 11 năm 1842, ở tuổi 22, Engels đã được gửi đến Manchester, Anh để làm việc cho một công ty dệt Ermen and Engels, nơi cha của ông là một cổ đông để thực tập buôn bán.[13][14] Trên đường sang Anh, Engels đã ghé thăm trụ sở tờ báo Rheinische Zeitung ở Kioln và tại đây, ông đã lần đầu tiên gặp Marx, Tổng biên tập tờ báo này.[5] Từ đó họ trao đổi thư từ với nhau,[15] tình bạn giữa hai người được bắt đầu và ngày càng thắm thiết. Sợi dây thắt chặt tình bạn của họ là cùng chung mục đích, lý tưởng vì sự nghiệp giải phóng con người. Họ đã sát cánh bên nhau viết nên những công trình khoa học và lãnh đạo phong trào công nhân đấu tranh nhằm xoá bỏ Chủ nghĩa tư bản, xây dựng Chủ nghĩa cộng sản.[16]
Nhìn chung, trong thời gian này, những tác phẩm của Engels chủ yếu tập trung vào phê phán quan điểm của Sherling, một giáo sư và là triết học Đức trong thời kỳ này. Ông vẫn đứng trên lập trường duy tâm của triết học Georg Wilhelm Friedrich Hegel. Ví dụ: Ông cho rằng, cái gọi là lợi ích vật chất không bao giờ có thể xuất hiện trong lịch sử với tính cách là những mục đích độc lập, chủ đạo, những bao giờ cũng phục vụ một cách tự giác hoặc không tự giác cho cái nguyên tắc đang dẫn đường cho tiến bộ của lịch sử. Nhưng ông bắt đầu cảm thấy sự mâu thuẫn giữa tính cách mạng và bảo thủ trong triết học của Hegel, đồng thời cũng thấy tính triệt để hơn của triết học theo trường phái của Ludwig Andreas Feuerbach so với trường phái triết học của Hegel.[6]
Trong thời gian hai năm sống ở Manchester từ mùa thu năm 1842, việc nghiên cứu đời sống kinh tế và sự phát triển của chính trị nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia phong trào công nhân mới dẫn đến việc chuyển biến căn bản trong thế giới quan và lập trường quan điểm chính trị của ông từ một người duy tâm về triết học và là những nhà dân chủ cách mạng về quan điểm chính trị để dần trở thành một người theo chủ nghĩa duy vật biện chứng và là một người cộng sản. Ông đã đi thăm những nơi công nhân sống chen chúc trong cảnh nghèo nàn, bẩn thỉu. Ông đã tìm đọc tất cả những gì người trước đã viết về cuộc sống của công nhân. Cuốn Tình cảnh giai cấp công nhân Anh của ông đã miêu tả một cách chân thực và sâu sắc nhất cuộc sống khốn cùng của giai cấp công nhân. Chính Engels, lần đầu tiên đã phát hiện ra rằng, giai cấp công nhân không chỉ là giai cấp đau khổ trong xã hội tư bản, mà còn là giai cấp có sứ mệnh đấu tranh cho sự giải phóng cuối cùng của mình, đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội.[17]
Cũng trong thời gian ở Anh, dù phải tất bật với việc buôn bán nhưng ông vẫn không ngừng nghiên cứu viết bài cho tạp chí sông Rhinne từ nước Anh như: Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị là tác phẩm Những phác thảo phê phán môn kinh tế chính trị học, trong đó ông đã chỉ rõ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là cơ sở của toàn bộ sinh hoạt vật chất và tinh thần của xã hội tư sản, Tình cảnh nước Anh, Thomas Carley, Quá khứ và hiện tại, “Alexhsander Iung: Những bài giảng về văn học hiện đại của người Đức”[18]… Đặc biệt là bài báo “Tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh năm 1844” (1844) đã phân tích rõ sự phân chia xã hội thành ba giai cấp cơ bản: giai cấp quý tộc chiếm hữu ruộng đất, giai cấp tư sản công nghiệp và giai cấp vô sản. Ông còn tham gia viết bài cho tờ tạp chí Niên giám Pháp – Đức (tháng 2 năm 1844) của A. Ruge. Các bài báo này đề cập đến việc áp dụng phương pháp biện chứng vào việc phân tích các quan hệ kinh tế của xã hội tư sản.
Các tác phẩm này đã cho thấy Engels đã hoàn tất quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật và từ dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Khi đánh giá về cuộc cách mạng xảy ra ở nước Anh, ông viết: “Cuộc cách mạng ấy là tất yếu đối với nước Anh, nhưng cũng như tất cả mọi việc xảy ra ở Anh, cuộc cách mạng đó sẽ’ được khởi đầu và tiến hành vì những lợi ích, chứ không phải vì những nguyên tắc, các nguyên tắc chỉ có thể phát triển từ lợi ích, tức là cách mạng sẽ không phải là cách mạng chính trị, mà là cách mạng xã hội”. Ông cũng đã đứng trên lập trường duy vật và cộng sản để phê phán kinh tế chính trị học của nhà kinh tế học Adam Smith và David Ricardo đồng thời cũng vạch trần quan điểm chính trị của Thomas Carley, một người phê phán chủ nghĩa tư bản trên lập trường của giai cấp phong kiến.[19]
Trong thời gian sống ở Paris, Engels quan tâm nhiều đến hoạt động của Ban chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản và trở thành Uỷ viên của Ban lãnh đạo và là một trong những lãnh đạo Câu lạc bộ công nhân Đức (Tháng 3 năm 1848) do Ban chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản lập ra.
Tháng 3 năm 1848, cùng với Marx, Engels thảo ra Những yêu sách của Đảng cộng sản Đức được Ban chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản thông qua như là văn kiện có tính chất cương lĩnh cho hành động của giai cấp vô sản Đức. Tháng 4 năm 1848 ông cùng với Marx trở về Đức tham gia cuộc cách mạng Đức.
Ngày 20 tháng 5 năm 1848 Engels đến cùng với Marx chuẩn bị xuất bản tờ Neue Rheinische Zeitung. Engels tham gia viết các bài xã luận, bài điểm tình hình chính trị. Tháng 10 năm 1848 ông đi Bỉ để tránh lệnh truy nã của chính quyền Phổ nhưng ông không được phép cư trú chính trị. Engels lại đến Paris sau đó sang Thụy Sĩ tham gia Đại hội các liên đoàn công nhân Đức, ông được bầu vào Uỷ ban trung ương của tổ chức này.
Tháng giêng năm 1849 ông trở về Đức tiếp tục hoạt động cách mạng. Khi cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (vào tháng 5 năm 1849) Engels đã vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân đội cách mạng tiến hành cuộc khởi nghĩa.
Ngày 10 tháng 5 năm 1849, Engels đến Elberfeld và được sung vào Ban quân sự. Engels đưa ra một kế hoạch để triển khai cuộc đấu tranh cách mạng dấy lên thành phong trào toàn nước Đức. Trong thời kỳ này, ông tham gia trực tiếp bốn trận đánh lớn, trong đó có trận Rastatt. Sau này Engels đã viết một luận văn quân sự nổi tiếng có tên là: Tiểu luận về chiến tranh.
Tháng 11 năm 1849, Engels đến Luân Đôn và được bổ sung vào Ban chấp hành Trung ương Liên đoàn Những người cộng sản mà Marx đã cải tổ sau khi đến đây. Engels sống ở London một năm, trong thời gian đó ông đã viết các tác phẩm Cách mạng và phản cách mạng ở Đức, Cuộc chiến tranh nông dân ở Đức. Sau đó, ông cùng với K. Marx viết “Lời kêu gọi của Ban chấp hành trung ương gửi Liên đoàn những người cộng sản. Tháng ba – 1850″.[20]
Trong cuộc Cách mạng 1848 – 1849 ở Đức, Engels đã trực tiếp chiến đấu trong quân đội cách mạng. Cách mạng thất bại, tháng 11 năm 1850, Engels buộc phải chuyển dến Manchester và lại bắt đầu làm việc ở Văn phòng thương mại phụ trách doanh nghiệp ngành sợi bông của gia đình, sau chung cổ phần với một hãng buôn. Điều này tạo điều kiện cho Engels có thể giúp đỡ về vật chất cho Marx hoạt động cách mạng.[2][21] Vì giành hết tâm lực cho sự nghiệp cách mạng, nên gia đình Marx gặp rất nhiều khó khăn túng thiếu trong cuộc sống. Engels luôn là người tận tình giúp đỡ bạn của mình bằng số tài sản có được từ gia đình. Ngày 3 tháng 2 năm 1845, Marx bị trục xuất khỏi Paris giữa lúc nguồn tài chính của gia đình cạn kiệt. Engels đã tìm cách quyên tiền từ các bạn bè, đồng chí để giúp gia đình Marx vượt qua khó khăn. Những năm tiếp theo, Marx vẫn luôn ở vào cảnh túng thiếu, thậm chí có lúc không mua đủ bánh mì ăn hàng ngày. Để bạn hoàn thành sự nghiệp, Engels đã chấp nhận làm thư ký trong hãng buôn của cha mình suốt 20 năm để lấy tiền giúp Marx.
Engels đặc biệt chú ý nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên, môn quân sự, chính sách quốc tế. Cùng với Maex, Engels tham gia lãnh đạo Quốc tế cộng sản I. Tháng 9 năm 1870, Engels đến Luân Đôn và được đưa vào tổng hội đồng của quốc tế cộng sản I. Ông luôn kiên trì đấu tranh chống lại quan điểm cơ hội của phái Bakunin, Proudhon, Lassalle.
Năm 1871, Engels tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ Công xã Paris. Trong thời gian này, Engels đã viết một số tác phẩm có giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn Chống Duhring (1818) góp phần to lớn cho việc hoàn thiện lý luận cho chủ nghĩa Marx.
Sau khi Marx qua đời (1883), Engels là người lãnh đạo tổ chức những người theo chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho in tập 2 và 3 của bộ Tư bản mà K. Marx chưa kịp hoàn thành. Engels còn viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những năm cuối đời: Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước (1884), Lút-vích Phơ-bách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1866), Biện chứng tự nhiên, Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894)…[5]
Vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 5 tháng 8 năm 1895 Engels qua đời. Trước lúc mất, ông yêu cầu sau này để tang ông chỉ nên tiến hành trong một số ít người, thi hài được hỏa táng và tro được ném xuống biển. Vào hồi 14 giờ Thứ bảy ngày 10 tháng 8 năm 1895, chiếc quan tài để thi hài Engels đã đặt tại nhà thiêu ở Yoking cách Luân Đôn gần 30 dặm, phủ đầy hoa tang từ các nước Đức, Áo, Pháp, Anh, Ý, Bỉ, Hà Lan, Nga, Ba Lan, Bulgaria… Những người đại diện cho tất cả các dân tộc lớn đã tập hợp bên cạnh linh cữu ông để tiễn biệt.[17]
Các tác phẩm chính
Trong suốc cuộc đời của mình, Engels đã viết nhiều tác phẩm kinh điển. Trong hoàn cảnh lịch sử mới hiện nay, những tác phẩm của Engels không hề mất đi tính thời sự. Người đọc vẫn tìm thấy chân giá trị vĩnh hằng trong những tư tưởng của ông đối với khoa học hiện đại ở nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc sống: về bản chất con người, về quan hệ giữa người và người, giữa con người và thiên nhiên, về tự do của con người, về ý nghĩa của cuộc sống[22] Những tác phẩm của ông có thể kể đến là:
Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị (1843)
Kiệt tác thời trẻ này của Engels không chỉ phê phán đúng đắn Adam Smith, Ricardo và Malthus mà còn tạo tiền đề để chúng ta tiếp tục phê phán Samuelsson và Mankiw.
Một năm sau khi đến nước Anh, tức là khoảng cuối năm 1843, Engels đã viết cuốn tác phẩm này, trong đó ông phê phán kinh tế chính trị học tư sản rằng: “kinh tế chính trị học cũng không nghĩ đến việc đặt vấn đề về tính chất chính đáng của chế độ tư hữu” và nhấn mạnh “chỉ có chứng giải và thực hiện chế độ tự do thương mại thì mới làm cho chúng ta có thể vượt ra khỏi những giới hạn của khoa kinh tế chính trị của chế độ tư hữu”.
Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị thể hiện những kinh nghiệm đầu tiên khi Engels tiếp nhận và vận dụng phép biện chứng để nghiên cứu kinh tế chính trị học. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, các phạm trù mặt đối lập và mâu thuẫn được Engels sử dụng để phân tích các phạm trù kinh tế. Đối lập với các nhà kinh tế học tư sản xem xét các phạm trù kinh tế như những gì vĩnh viễn, ông coi các phạm trù đó là những phạm trù lịch sử được chế định bởi sở hữu tư nhân và như vậy, sự xuất hiện của chúng mang tính lịch sử nhất thời.
Tác phẩm này thể hiện khá rõ những ảnh hưởng của Fuerbach đối với Engels. Tuy nhiên, về phương diện triết học, ông đã đi xa hơn Feuerbach. Chẳng hạn, khi xem xét tính tất yếu của cách mạng xã hội, Engels đã không coi nguyên nhân của cách mạng xã hội bắt nguồn từ những cơ sở đạo đức như Feuerbach quan niệm, mà từ sự phát triển của các mâu thuẫn khách quan do sở hữu tư nhân tạo nên. Như vậy, về phương diện này, quan điểm của Engels đã khác hẳn so với quan điểm của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng cũng như các nhà duy vật tiền bối. Để làm rõ cơ sở duy vật trong Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị, cần phải xem xét nội dung của tác phẩm trong bối cảnh bao quát hơn, phải chú ý đến tổng thể các công trình của Engels trong thời kỳ ông sống ở Manchester, từ đó mới có thể thấy được mối liên hệ nhân quả giữa các sự kiện kinh tế, sự đối lập giai cấp, đấu tranh chính trị.
Trước Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị, trong các bài báo đầu tiên của Engels ở Anh, mới chỉ thấy những dự đoán của ông về vai trò của lợi ích kinh tế trong đời sống xã hội. Đến Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị, Engels đã nhận thấy giai cấp vô sản và giai cấp tư sản như những giai cấp xã hội xét về phương diện kinh tế. Thật ra, điều này đã được các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh chỉ rõ và Engels lấy đó làm điểm xuất phát cho nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, khác với các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh, Engels cho rằng, sở hữu tư nhân chính là cơ sở lịch sử của sự tồn tại giai cấp trong xã hội tư sản.
Gia đình Thần thánh (1844)
“Gia đình thần thánh” là tác phẩm lý luận viết chung đầu tiên của Engels và Marx, đây là tác phẩm có vị trí quan trọng trong toàn bộ quá trình hình thành các quan điểm triết học và chính trị xã hội của học thuyết Marx.
Tên đầy đủ của tác phẩm này là “Gia đình thần thánh hay phê phán sự phê phán có tính phê phán. Chống Bruno Bauer và đồng bọn” được viết vào năm 1884. “Gia đình thần thánh” là tên gọi hài hước đặt cho anh em Bauer và bọn theo đuôi họ tụ tập quanh tờ “Allgemeine Literatur – Zeitung” (“Báo văn học phổ thông”). Trong cuốn sách này, Marx và Engels đã bác bỏ anh em Bauer và những người khác thuộc phái Hegel trẻ (hoặc phái Hegel tả) đồng thời cũng phê phán cả triết học duy tâm của chính Hegel. Tác phẩm này được viết vào khoảng tháng Chín đến tháng Mười một 1844 và xuất bản vào tháng Hai 1845 ở Frankfurt trên sông Main. Tác phẩm này gồm tất cả 9 chương, trong đó có gi chú rõ ràng những chương, mục do hai người viết.[23]
Trong tác phẩm này, hai ông đã đề ra những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, như vai trò quyết định của sản xuất vật chất đối với tiến trình phát triển của xã hội loài người, vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần chúng nhân dân lao động. Cũng trong tác phẩm này, Enggel đã cùng với Marx một lần nữa khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản và chỉ ra rằng, chính địa vị của giai cấp vô sản trong xã hội tư sản hiện đại đã quy định vai trò, sứ mệnh đó. Cũng trong tác phẩm này, hai ông đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và phương pháp của nó, nêu luận điểm về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Tình cảnh của giai cấp công nhân Anh năm 1844 (1844)
Đây là bài báo của Engels gửi cho Nhật báo sông Rhine từ nước Anh. Đây được xem là tư tưởng về vai trò xác định của cách mạng công nghiệp trong lịch sử nước Anh. Trong bài báo đó, ông khẳng định: “Tác dụng cách mạng hoá ấy của nền công nghiệp Anh là cơ sở của tất cả mọi quan hệ ở nước Anh ngày nay, là động lực của toàn bộ sự phát triển xã hội. Hậu quả đầu tiên của nó là việc đề cao lợi ích… lên thành sự thống trị đối với con người… Nói một cách khác, ở hữu, vật đã trở thành kẻ thống trị thế giới. Kết quả quan trọng nhất của thế kỷ XVIII đối với nước Anh là sự hình thành giai cấp vô sản do có cuộc cách mạng công nghiệp… Kết quả của toàn bộ sự phát triển là giờ đây, nước Anh chia thành ba phái: phái quý tộc ruộng đất, phái quý tộc kim tiền và phái dân chủ công nhân”.
Cũng thông qua tác phẩm này, Engels đã phân tích các quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp trong xã hội lúc đó và chỉ ra mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Trên cơ sở phân tích này, Ph. Ăng-ghen lần đầu tiên đã đưa ra tư tưởng về tính tất yếu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; tính quốc tế của cuộc cách mạng này.
Tình cảnh nước Anh
Dự định của Enggels quay trở lại phân tích tình cảnh nước Anh đã phải thực hiện theo hình thức khác một chút so với mong muốn, vì tờ Niên giám Pháp – Đức bị ngừng xuất bản do bị kiểm duyệt. Từ cuối tháng 8 đến tháng 10 năm 1844, trên các trang tiếng Đức của tờ báo Tiên lên xuất bản ở Phổ đã có sự tham gia của Marx vào Ban biên tập. Do vậy, Enggels có điều kiện đăng tiếp tục hai bài báo có nhan đề Tình cảnh nước Anh thế kỷ 18 và Tình cảnh nước Anh.
Trong tác phẩm Tình cảnh nước Anh, Enggels đã thể hiện thái độ phê phán quan điểm của Hegel về lịch sử và khẳng định: “Lịch sử được chúng ta đánh giá cao hơn là bất kỳ một học thuyết triết học nào khác trước đây, thậm chí còn cao hơn cả Hegel, mà lịch sử chung quy chỉ được ông ta dùng để kiểm nghiệm cái kết cấu logic của ông ta thôi”.
Theo ông, “tình cảnh nước Anh có ý nghĩa to lớn đối với lịch sử và đối với tất cả các nước khác, bởi vì về mặt xã hội, rõ ràng là nước Anh đã vượt xa tất cả những nước khác”. Đây là kết luận vô cùng quan trọng mà Engels đã rút ra từ sự phân tích lịch sử xã hội Anh. ở đây, ông phát hiện ra rằng, thực trạng xã hội Anh dưới chế độ tư bản chủ nghĩa biểu hiện không chỉ đặc điểm xã hội của bản thân nước Anh tư bản chủ nghĩa mà trong chừng mực nào đó, còn có ý nghĩa to lớn, toàn diện cho các quốc gia khác.
Đó cũng chính là điều mà Marx đã kết luận trong lời tựa của tập I, bộ Tư bản trong lần xuất bản thứ nhất: “Nước phát triển hơn về công nghiệp chỉ nêu lên cho nước kém phát triển cái hình ảnh tương lai của bản thân nước này mà thôi”.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848)
Đây là tác phẩm viết chung của Marx và Engels, đây được xem là tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Marx. Lê-nin đã cho rằng “Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng bộ sách”.
Tiểu luận về chiến tranh (1870 – 1871)
“Tiểu luận về chiến tranh” là một trong những tác phẩm quân sự lớn của F. Engels, trong đó ông đứng trên lập trường của chù nghĩa duy vật lịch sử để phân lích các sự kiện của cuộc chiến tranh Pháp- Phổ năm 1870-1871. Tác phẩm gồm một loạt 59 bài gắn liền với nhau viết dưới hình thức điểm tình hình chiến sự. Trong số này có 40 bài nhan đề “Tiểu luận về chiến tranh” kèm theo số thứ tự tương ứng, còn những bài kia thì lấy đầu đề khác nhau.[24]
Lý do trực tiếp để viết những bài về cuộc chiến tranh Pháp – Phổ là Ti-blin (Ta- ran). Một trong những phóng viên quân sự của tờ “Pall Mall Gazetle”. Đã nghị với Marx gửi những bản tin quân sự cho tờ báo này. Mác chuyển đề nghị ấy cho Ăng-ghen. Ba bài đầu Engels gửi cho Marx, xem xong Marx chuyển cho ban biên tập. Những bài sau Engels gửi thẳng cho ban biên tập tờ “Pall Mall Gazette”để đăng được nhanh hơn.
Những bài của Engels về cuộc chiến tranh Pháp – Phổ được viết cập nhật liên tục theo các sự kiện xảy ra. Engels nghiên cứu tỉ mỉ tất cả những tài liệu mà ông có được về tình hình chiến sự: những bản tin của các tờ báo Anh, Đức, Pháp, những bức điên mới nhất từ Pháp và Đức gửi đi. Mặc dầu những bản tin đó không đầy đủ và mâu thuẫn nhau, nhưng với tất cả những thiếu sót trong một số chi tiết không sao tránh khỏi trong điều kiện ấy, Engels đã dựng lại được tiến trình thực sự của chiến cuộc trong những bài báo của mình.
Khi bắt tay vào viết “tiểu luận về chiến tranh”. Engels dự định viết một tuần 2 bài; sau khi đăng 3 bài đầu gây được sự quan tâm sâu sắc của độc giả và thu hut sự chú ý của toàn bộ báo chí, biên tập viên của tờ “Pall Mall Gazette” là Grin-vút đề nghị Engels gửi bài cho báo với sổ lượng không hạn chế, vào thời kỳ chiến sự diễn ra sôi nổi nhất, Engels viết môi tuần 3 thậm chí 4 bài.
Grin-vút đã nhiều lần sửa chữa hài viết của Engels mà không có sự đồng ý của tác giả. Như Engels đã nhận xét trong thư của mình trong bài “‘Tiểu luận về chiến lranh.- lIl” người ta đã tùy tiện sửa đổi những thuật ngữ quân sự, hơn nữa nhứng sửa đổi đó chứng tỏ Grin-vút không hiểu hiết những thuậl ngữ quân sự ấy. Trong bài “Tiểu luận về chiến tranh.- XIII”, người ta đã thêm vào đoạn cuối một số nội dung.[25]
Những bài “Tiểu luận về chiến tranh” được đãng trên tờ “Pall Mall Gazette” từ ngày 29 tháng Bảy 1870 đến 18 tháng Hai 1871, trừ ba bài đầu ký tên “Z.”, những bài khác đều đăng không ký lên, hơn nữa chỉ có một số ít người biết tác giả của những bài ấy là Engels. Những bài viết của Engels về cuộc chiến tranh Pháp- Phổ dã thành công lớn. Hàng loạt tờ báo đã lặp lại nội dung của những bài ấy trong các bài điểm tình hình. Bạn bè của Engels đặt cho ông biệt hiệu “Tướng quân”.
Khi Engels còn sống. Những bài viết của ông về cuộc chiến tranh Pháp- Phổ đã không được tái bản. Những bài báo cắt từ tờ “Pall Mall Gazette” có mang chữ ký của chính tay Engels ở góc phải hoặc trái mỗi bài do V.Át-le, một trong những nhà lãnh đạo Đảng dân chủ xã hội Áo, gửi trong nhiều năm đã không được đông đảo độc giả biết đến. Chỉ mấy năm sau khi Át-le chết, vào năm 1923, những bài viết của Engels mới được xuất bản thành tập sách riêng bằng tiếng Anh in li-tô dưới nhan đề chung “Tiểu luận về chiến tranh”. “Tiểu luận về chiến tranh” được xuất bản lần đầu bằng tiếng Nga vào năm 1924.
Chống Duhring (1878)
Tên nguyên bản của tác phẩm này là “Ông Duhring đảo lộn khoa học”[26] là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của chủ nghĩa Marx. Tác phẩm này gồm có ba phần: phần thứ nhất có tựa đề: Triết học, phần thứ hai có tựa đề là kinh tế chính trị học và phần thứ ba là xã hội chủ nghĩa.[27]
Trong tác phẩm này, lần đầu tiên Engels trình bày một cách hoàn chỉnh thế giới quan Marxist: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, khoa kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học. Ông chỉ ra mối liên hệ không thể tách rời và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Marx.
Ông cũng chỉ rõ chúng gắn bó với nhau và tác động lẫn nhau như thế nào và chúng tạo nên toàn bộ một hệ thống lý luận mà các bộ phận cấu thành riêng rẽ thì tương đối độc lập nhưng đồng thời lại chỉ có thể hiểu được một cách đúng đắn trong mối liên hệ bên trong giữa chúng với tổng thể. Đồng thời Engels cũng tiếp tục phát triển triết học Marxist trong những vấn đề cơ bản, ở đây ông đã sử dụng những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên cũng như những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh giai cấp.
Với tác phẩm của mình, Engels trực tiếp tham gia vào các cuộc tranh luận trong phong trào công nhân Đức xung quanh các vấn đề cơ bản về thế giới quan và chính trị. Với việc đó, ông ủng hộ cuộc đấu tranh chống hệ tư tưởng tư sản và tiểu tư sản mà đại biểu trước hết là Eugen Duhring. Tác phẩm “Chống Duhring” góp phần quyết định vào thắng lợi của chủ nghĩa Marx trong phong trào công nhân.
Engels viết tác phẩm này từ mùa thu năm 1876 đến giữa năm 1878. Chương X của phần thứ hai là do Marx biên soạn. Tác phẩm này được đăng lần đầu tiên dưới hình thức một loạt bài trên tờ “Vorwarts” từ ngày 3 tháng giêng năm 1877 đến tháng bảy năm 1878. Tháng bảy 1877, phần thứ nhất của tác phẩm được xuất bản ở Leizig thành một tập riêng, tiếp theo đó vào tháng bảy 1878 là phần thứ hai và phần thứ ba, cũng được in dưới hình thức một tập riêng. Đồng thời, tháng bảy 1878 ở Leipzig cũng ra đời bản in đầu tiên toàn bộ tác phẩm với lời nói đầu của Engels. Lần xuất bản cuối cùng (thứ ba) được Engels xem lại và bổ sung, đã ra đời vào năm 1894.
Trong “Chống Duhring”, Engels đấu tranh chống những tác phẩm sau đây của Duhring: “Giáo trình triết học với tư cách là một thế giới quan khoa học chặt chẽ và sự hình thành cuộc sống”, Leipzig 1875, “Giáo trình kinh tế chính trị và kinh tế xã hội gồm các điểm chủ yếu của chính sách tài chính”, lần xuất bản thứ hai có biên soạn lại một phần, Leipzig 1876, “Lịch sử phê phán của khoa kinh tế chính trị và của chủ nghĩa xã hội”, lần xuất bản thứ hai có biên soạn lại một phần, Berling,1875.[26]
Biện chứng của tự nhiên (1873 – 1882)
Đây là tác phẩm chưa hoàn thành của Engels, lần đầu tiên được xuất bản bằng tiếng Nga và tiếng Đức tại Liên Xô năm 1925. Tác phẩm này bao gồm những bài bút kí viết từ 1873 đến 1886, chủ yếu là từ 1873 đến 1882.[28]
Tư tưởng trung tâm của tác phẩm là tư tưởng về các hình thái vận động của vật chất. Chính dựa trên tư tưởng này, Engels dự định xây dựng một tác phẩm – về con đường phát triển biện chứng khách quan của tự nhiên tiến đến sự phát triển kinh tế của xã hội loài người – tiếp nối bộ “Tư bản” của K. Marx để cùng với “Tư bản” tạo nên một công trình hoàn chỉnh về học thuyết Marxist, chứ không có ý định viết một cuốn sách phổ thông về phép biện chứng và cũng không chỉ dừng lại ở sự khái quát lịch sử phát triển của khoa học tự nhiên.
Xuất phát từ các hình thái vận động của vật chất, Engels xác định đối tượng của các khoa học, lấy sự phụ thuộc lẫn nhau của các khoa học làm nguyên tắc chung để phân loại chúng. Theo Engels, vật chất vận động từ thấp lên cao, từ vận động cơ học đến vận động hoá học, sinh học và cao hơn cả là sự vận động của xã hội loài người. Tương ứng với các hình thức vận động đó của vật chất – trong quá trình lịch sử – là các khoa học: cơ học, vật lí học, hoá học, sinh học, khoa học xã hội. Nhận thức phải đi từ các hình thái vận động thấp đến các hình thái vận động cao hơn. Sự chuyển hoá từ một hình thái vận động này sang một hình thái vận động khác cao hơn bao giờ cũng là một bước nhảy vọt, một quá trình biện chứng. Vì vậy các khoa học nghiên cứu về chúng cũng phải phản ánh được phép biện chứng đó.
Engels chỉ rõ rằng quan điểm máy móc, siêu hình về giới tự nhiên đang sụp đổ do sự phát triển của khoa học tự nhiên và buộc phải nhường chỗ cho quan điểm biện chứng. Điều đó đặt ra yêu cầu đối với các nhà khoa học tự nhiên là cần chuyển từ tư duy siêu hình sang tư duy biện chứng, phải tự giác nắm lấy phép biện chứng. Engels còn đề cập đến hàng loạt các vấn đề triết học khác như các quy luật cơ bản và các phạm trù của phép biện chứng được rút ra từ trong tự nhiên, vấn đề lí thuyết tiến hoá C. Darwin, vấn đề vai trò của lao động trong sự hình thành con người.
Do sự phát triển của khoa học hơn một trăm năm qua, dĩ nhiên, không ít những vấn đề chuyên sâu được Engels đề cập trong Biện chứng của tự nhiên cần được bổ sung, phát triển. Mặc dù vậy, nhiều tư tưởng của Engels vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa phương pháp luận rất lớn trong việc tiếp cận với sự phát triển mới trên mọi lĩnh vực triết học, khoa học và đời sống xã hội của thời đại ngày nay.
Nguồn gốc của Gia đình, Sở hữu tư nhân, và Nhà nước (1884)
Tên đầu đủ của tác phẩm là “Nguồn gốc của Gia đình, Sở hữu tư nhân, và Nhà nước. Nhân có những công trình nghiên cứu của Lewis H. Morgan”. Tác phẩm gồm có tất cả chín chương, được viết vào năm 1884.[29] Đây là một tác phẩm cơ bản của chủ nghĩa Marx.
Dựa trên các kết quả và phát hiện của Lewis H. Morgan, Friedrich Engels đã phân tích lịch sử nhân loại trong những giai đoạn sớm nhất của nó, luận chứng quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và quá trình hình thành của xã hội có giai cấp, dựa trên chế độ tư hữu. Ông cũng vạch rõ những đặc trưng của xã hội đó, giải thích sự phát triển của các quan hệ gia đình trong các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau, chỉ ra nguồn gốc và bản chất của Nhà nước, chứng minh sự tất yếu diệt vong của Nhà nước và xã hội có giai cấp nói chung.
Engels bắt đầu viết cuốn này từ cuối tháng Ba năm 1884, và tới hết tháng Năm năm đó thì hoàn tất. Khi đọc các bản thảo viết tay của Marx, Engels đã tìm thấy một bản tóm tắt cuốn “Xã hội Cổ đại” của L.H. Morgan, nhà khoa học tiến bộ người Mỹ, được Marx ghi trong các năm 1880-1881, có nhiều nhận xét phê phán và luận điểm của chính Marx.
Sau khi đọc bản tóm tắt, Engels nhận thấy cuốn sách của Morgan đã xác minh quan điểm duy vật lịch sử và các quan điểm về xã hội nguyên thủy của Marx và mình đề xuất, và thấy cần viết một tác phẩm riêng, sử dụng các tài liệu và kết luận của Morgan và Marx. Khi viết cuốn này, Engels đã đưa vào nhiều tài liệu bổ sung, lấy từ các nghiên cứu của bản thân mình về lịch sử Hi Lạp – La Mã, lịch sử Ireland thời cổ, lịch sử người Germania thời cổ, v.v.
Năm 1890, với việc những tài liệu về lịch sử xã hội nguyên thủy đã phong phú hơn, Engels bắt đầu chuẩn bị cho bản in mới, cũng là bản in thứ 4 của cuốn này. Người đã nghiên cứu các sách báo mới nhất, đặc biệt là các tác phẩm của M.M. Kovalevsky, nhà khoa học người Nga và đã thêm vào nhiều điểm sửa chữa, bổ sung. Bản in này được xuất bản năm 1891, và sau đó không còn sửa đổi gì nữa.
Đây là một kiệt tác về lịch sử của Engels mà nhiều nhà nghiên cứu đã cố tình bỏ qua hay bóp méo nó.
Trong tác phẩm này, ông trình bày cặn kẽ sự phát sinh các nhà nước ở Hy lạp, La mã, Celt và German. Đồng thời ông cũng vạch trần sự lẫn lộn của nhiều nhà sử học hiện nay khi lẫn lộn thời đại dã man với thời kỳ hình thành các quốc gia cổ đại. Do đó, biến các thủ lĩnh quân sự của bộ lạc thành vua, lẫn các Pharaoh, vua Thương, Hùng Vương thành người cai trị tối cao. Do đó, cũng lẫn lộn rằng các thể chế thời Thương, vương quốc của các Pharaoh, Văn Lang…là các nhà nước(thực ra đây chỉ là các tổ chức thị tộc phát triển ở mức độ cao).[cần dẫn nguồn]
Một số câu nói
- Ta không nên quá ảo tưởng vào những chiến thắng của mình đối với thiên nhiên. Thiên nhiên sẽ trả thù ta cho mỗi một “chiến thắng” ấy.
- Một dân tộc không thể được tự do nếu dân tộc ấy uy hiếp các dân tộc khác. Sức mạnh mà dân tộc này cần có để đè nén dân tộc khác cuối cùng sẽ luôn chống lại chính dân tộc ấy.
- Khi con người thôi không là nô lệ của con người nữa thì con người lại trở thành nô lệ của đồ vật.
- Nếu cuộc hôn nhân vì tình yêu được coi là chuẩn mực đạo đức thì cuộc hôn nhân ấy chỉ được coi là đạo đức nếu như sau đó, tình yêu vẫn còn tiếp tục tồn tại.
- Không thể chạy trốn khỏi số phận – hay nói cách khác, không thể trốn chạy khỏi những hậu quả tất yếu từ các hành động của mình.
- Nếu ta muốn cống hiến cho một sự nghiệp, một công việc nào đó thì trước tiên công việc ấy, sự nghiệp ấy phải trở thành sự nghiệp ích kỷ của riêng ta.
- Những ý tưởng nhen nhóm, nuôi dưỡng lẫn nhau, giống như những tia lửa điện vậy.
- Đứa trẻ ít bị xúc phạm thì lớn lên sẽ trở thành người biết tự trọng nhiều hơn.
- Những quyết định nông nổi thường rất cao thượng, hào hiệp, và anh hùng nữa, nhưng thông thường chúng dẫn đến những điều ngu ngốc.
- Một cá nhân được khắc họa tính cách không chỉ bằng những việc anh ta làm mà còn bằng cách anh ta làm việc ấy nữa.
- Sự hèn nhát làm mất đi trí tuệ.
“ | Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, – đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại | ” |
—Engels[30] |
Đánh giá về ông
- Nhà cách mạng vô sản người Nga là Vladimir Ilyich Lenin có nhận định trong tác phẩm Toàn tập như sau:
“ | Sau bạn ông là Karl Marx, Engels là nhà bác học và là người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh. Từ ngày mà vận mệnh đã gắn liền với Karl Marx và Engels thì sự nghiệp suốt đời của hai người bạn ấy trở thành sự nghiệp chung của họ. Cho nên, muốn hiểu Friedrich Engels đã làm gì cho giai cấp vô sản thì phải nhận rõ ý nghĩa của học thuyết và hoạt động của Marx đối với sự phát triển của phong trào công nhân hiện đại. | ” |
—Vladimir Ilyich Lenin[31] |
“ | Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Marx và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Marx, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Engels. | ” |
—Vladimir Ilyich Lenin[32] |
“ | Với công trình này (Chỉnh lý, biên tập và cho xuất bản Quyển II và Quyển III bộ Tư bản luận sau khi Marx mất mà chưa kịp hoàn thành), F. Engels đã dựng cho người bạn thiên tài của ông một đài kỷ niệm trang nghiêm, trên đó F. Engels cũng không ngờ đã khắc luôn cả tên mình bằng những chữ không bao giờ phai mờ được. | ” |
—Vladimir Ilyich Lenin[33] |
- Sinh thời, Friedrich Engels thường không hề đề cao bản thân, đánh giá ông như “cây vĩ cầm thứ hai” bên cạnh Karl Marx, và cho rằng Karl Marx mới chính là người cha của chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, Friedrich Engels có những cống hiến không nhỏ và khó quên đối với chủ nghĩa Marx trong những năm đầu. Do đó, Friedrich Engels xứng đáng là một trong những gương mặt vĩ đại nhất trong suốt chiều dài lịch sử của Chủ nghĩa xã hội hiện đại.[34]
- Friedrich Engels là lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của giai cấp vô sản, người đã cùng C. Mác xây dựng nên lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học và đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động.[16]
- Tạp chí Cộng sản của Đảng cộng sản Việt Nam cũng có nhận đĩnh về ông là “Nhà lý luận lỗi lạc và chiến sỹ cách mạng vĩ đại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế”.[35]
Hình ảnh về ông
-
Tập
Tượng của ông tại Moskva
Xem thêm
Chú thích
- ^ a ă “SGGP Official Website”. Truy cập 2 tháng 6 năm 2014.
- ^ a ă http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=19D3aWQ9MTM4NjMmZ3JvdXBpZD0ma2luZD1leGFjdCZrZXl3b3JkPUVOR0hFTitGLg==&page=1[liên kết hỏng]
- ^ “MECW”. Truy cập 2 tháng 6 năm 2014.
- ^ http://vovnews.vn/Home/Angghen-vi-lanh-tu-cach-mang-vi-dai/200711/74471.vov[liên kết hỏng]
- ^ a ă â http://123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/4lanhtu/details.asp?topic=3&subtopic=89&leader_topic=3&id=BT1260356613[liên kết hỏng]
- ^ a ă â b Giáo trình Triết học Mác – Lê nin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2006, trang 102
- ^ “Lenin: Frederick Engels”. Truy cập 2 tháng 6 năm 2014.
- ^ a ă Tucker, Robert C. The Marx-Engels Reader, p.xv
- ^ http://www.marxists.org/archive/marx/works/cw/volume02/preface.htm[liên kết hỏng]
- ^ http://www.marxists.org/archive/marx/works/cw/volume02/footnote.htm#188[liên kết hỏng]
- ^ http://www.marxists.org/vietnamese/marx-engels/1839/03/telegraph.htm
- ^ Hegel trẻ là một môn phái triết học gồm những người có tư tưởng cấp tiến vô sản, sử dụng phương pháp biện chứng của triết học Hegel để phê phán chế độ phong kiến Đức, nhóm này đóng vai trò tích cực trong việc chuẩn bị tư tưởng cho cuộc cách mạng tư sản Đức năm 1848
- ^ http://www.marxists.org/archive/marx/bio/engels/en-1893.htm
- ^ “BBC”. Truy cập 2 tháng 6 năm 2014.
- ^ Trong thời gian từ năm 1844 lúc Engels 24 tuổi cho đến năm 1883 lúc Marx mất, hai người đã viết cho nhau tổng cộng 1.386 bức thư. Nghiên cứu các bức thư đó, Lê-nin cho là “có giá trị khoa học và chính trị rất lớn”.
- ^ a ă http://truongchinhtrina.gov.vn/ArticleDetail.aspx?_Article_ID=162
- ^ a ă “Engels”. Truy cập 2 tháng 6 năm 2014.
- ^ http://www.marxists.org/vietnamese/marx-engels/1842/07/07.htm
- ^ Giáo trình Triết học Mác – Lê nin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2006, trang 105
- ^ http://www.marxists.org/vietnamese/marx-engels/1850/03/loikeugoi.htm
- ^ “BBC Vietnamese”. Truy cập 2 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Những giá trị vĩnh hằng từ di sản Engels”. Tuổi Trẻ Online. Truy cập 2 tháng 6 năm 2014.
- ^ http://www.marxists.org/vietnamese/marx-engels/1845/gia_dinh_than_thanh/index.htm
- ^ http://www.marxists.org/vietnamese/marx-engels/1870s/tlchientranh/index.htm
- ^ Ở cuối bài này biên tập viên Grin-vút của tờ “Pall Mall Gazette” đã thêm đoạn sau đây bị xóa đi trong lần xuất bản này: “Rất có thể là cuộc vây đánh Xtơ-ra-xbua săp sửa kết thúc bằng sự đầu hàng của cứ điểm. Xem ra người Đức đã hành động hết sức nghiêm chỉnh. Cho đến sáng sớm hôm qua, cuộc pháo kích từ phía Ken đã tiến hành liên lục 3 ngày đêm. Đồng thời quân Phổ đưa những vọng gác lên cách cứ điểm từ 500 đến 800 i-ác-đơ. Kho vũ khí bị cháy và mấy khẩu trọng pháo vừa đặt vào trận đia đã lập tức bắn vào đoạn ấy”.
- ^ a ă http://www.marxists.org/vietnamese/marx-engels/1870s/chongduhring/chuthich.htm#n1f
- ^ http://www.marxists.org/vietnamese/marx-engels/1870s/chongduhring/index.htm
- ^ http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=14A2aWQ9MzA4NDUmZ3JvdXBpZD0xNiZraW5kPSZrZXl3b3JkPQ==&page=1[liên kết hỏng]
- ^ http://www.marxists.org/vietnamese/marx-engels/1880s/nguon_goc_cua_gia_dinh/index.htm
- ^ C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1995, tập 2, trang 393
- ^ V.I.Lê-nin, Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Moskva, năm 1978, tập 2 trang 3
- ^ V.I.Lê-nin, Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Moskva, năm 1978, tập 26 trang 110
- ^ V.I.Lê-nin, Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Moskva, năm 1978, tập 2 trang 5
- ^ Những cống hiến lớn lao của Ph. Ăng-ghen vào lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, Trần Nguyễn Tuyên, Tạp chí Cộng sản, số 793 (tháng 11 năm 2008), trang 38
- ^ http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=5&News_ID=271183567[liên kết hỏng]
Liên kết ngoài
![]() |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Friedrich Engels |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Friedrich Engels |
Video yêu thích
KimYouTube
Trở về trang chính Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học Cây Lương thực Dạy và Học Tình yêu cuộc sống Kim on LinkedIn Kim on Facebook KimTwitter hoangkim vietnam