Chào ngày mới 12 tháng 3


TÍM MỘT TRỜI YÊU THƯƠNG

Hạnh phúc thật giản đơn…
Khi sớm mai thức dậy
Thong thả vào trang mới
Cùng người thân chuyện trò

Thương năm tháng đường xa
Gừng cay và muối mặn
Nhớ giọt nước mắt trong
Sự an nhiên thầm lặng …

Chợt thấy lòng bâng khuậng
Thanh thản ngày vui tới
Thung dung chào ngày mới
Tím một trời yêu thương.


Hoàng Kim

Noi tinh yeu bat dau
Nơi tình yêu bắt đầu, ảnh Phan Chí Quyết

HOÀNG KIM CHUYỆN ĐỜI TÔI
liên vận thơ Hoàng Đại Nhân

‘Mùa khoai lang tím tuyệt vời
Nhuộm ta tím cả một trời yêu thương’ 1 
Gừng cay muối mặn dặm đường
Tím khoai, tím sắn, trầm hương cuộc đời 2 ..

1) Truyện thơ
CƯỚI VỢ MÙA KHOAI LANG TÍM

Hoàng Đại Nhân ·

Chuyển thể từ truyện ngắn “Cưới vợ giữa mùa khoai lang lim tím” của nhà văn Phạm Minh Giang- Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Bình. (Đăng trên Facebook ngày 24/5/2021).

Nhớ hoài tháng chạp bảy mươi (12/1970)
Hoàn thành nhiệm vụ, niềm vui vô cùng
Khí tài giao lại đã xong
Trên cho về phép thỏa lòng bấy nay

Hai tuần được nghỉ tuyệt hay
Được về cưới vợ kịp ngày đón xuân.
Nhờ xe đơn vị qua gần
Tới ngang Nam Định dừng chân, tôi về

Qua phà Tân Đệ, đã khuya
Một mình nhẹ bước đường quê, vội vàng
Kìa như phía trước có làng
Ánh đèn le lói, lẹ làng ghé vô:

“Bác ơi! Cho cháu nghỉ nhờ”
Hai lần tôi gọi, những lo… phiền hà
Bất ngờ cô gái bước ra
Hỏi rằng đêm tối, ai mà ghé đây?

“Tôi về nghỉ phép hôm nay
Vì đêm khuya quá, vào đây nghỉ nhờ
Thực lòng không dám phiền cô
Sáng mai đi sớm, khỏi lo, cô à”.

Mời anh bộ đội vô nhà
Rồi cô gọi bố đi ra trước đèn
Ông sai con gái tên Hiền
Nấu cơm, tráng trứng xong liền mang lên

Vô cùng mến phục cô em
Mời tôi ăn bữa cơm đêm, tuyệt vời
Sáng hôm sau hửng mặt trời
Tôi xin từ giã, nói lời chia tay

Hẹn em, tôi sẽ lại đây
(Hứa thầm sẽ sớm có ngày thăm em
Tưởng rằng chỉ nói làm quen
Ai hay lời hứa làm nên chuyện đời).

Gần trưa về đến nhà tôi
Cả nhà vui vẻ, nói cười hân hoan
Rồi mang bao chuyện luận bàn
Nhắc cô bạn gái tôi mang nặng tình…

Bỗng nghe sét đánh bên mình
Cô vừa đám cưới linh đình gần đây
Theo chồng sang sống bên Tây
Trách cô sao được, lỗi này tại tôi

Dù tình yêu đã chín muồi
Ngày chia tay, tôi chẳng lời hứa chi
Nghĩ rằng cuộc chiến trường kỳ
Chỉ thầm yêu, hứa làm gì…, tội nhau

Năm năm chờ đợi cũng lâu
Thì đành cam phận…, trách nhau nỗi gì.
Mấy ngày buồn nản sầu bi
Dẹp nhanh chuyện cũ, tôi đi thăm Hiền

Xã Thanh Phúc cũng gần bên
Tới nơi chỉ thấy nhà Hiền vắng tanh
Gặp cô hàng xóm lanh chanh:
“Em xin tình nguyện dẫn anh ra đồng”

Ngoài đồng, người quả là đông
Cùng nhau thu hoạch từng vồng khoai lang
Mọi người không khỏi ngỡ ngàng
Thấy tôi xuống, bới khoai lang giúp Hiền

Rồi cùng em, gánh về liền
Lòng vui quên mệt, cùng Hiền bước nhanh
Buổi trưa, việc đã hoàn thành
Bố Hiền mở tiệc đãi anh lính liền

Được lòng “thừa thắng xông lên”
Tôi xin phép, chiều mời Hiền sang chơi
Về nhà, gặp bố mẹ tôi
Vui sao, bố mẹ hết lời ngợi khen.

Hiền ơi, anh cám ơn em
Tình duyên như đã dậy men thắm màu
Thế là chỉ một ngày sau
Tôi làm lễ cưới dưới bầu trời quê

Chè xanh làng Mét ngon ghê
Mấy cây thuốc lá Hòn Mê thơm lừng
Chương trình văn nghệ chào mừng:
“Bài ca năm tấn” tưng bừng hội hôn

– “Bước chân trên dãy Trường Sơn”…
Lời ca cuốn hút dễ thương vô ngần
Hội hôn – nét đẹp đầu xuân
Duyên tình đôi lứa, muôn phần tươi vui.

Mùa khoai lang tím tuyệt vời
Nhuộm ta tím cả một trời yêu thương.

SGP, 16/5/2022
Ảnh minh họa mượn nhà mạng.

2) xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-kim-chuyen-doi-toi/ và chín đường dẫn tự truyện Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Giấc mơ lai khoai lang; Giống khoai lang Việt Nam; Giống khoai lang tím HL491; Giống sắn chủ lực KM419; Chọn giống sắn kháng CMD; Chuyện ngậm ngãi tìm trầm; Báu vật nơi đất Việt; Pho tượng Ngọc Quan Âm

GIỐNG KHOAI LANG HL491
Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997

Nguồn gốc giống: Giống khoai lang HL491 (Nhật tím) do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc chọn tạo và giới thiệu từ tổ hợp lai Murasa Kimasari polycross nguồn gốc Nhật Bản = CN76-2 CIP/AVRDC (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997). Giống đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997, hiện phổ biến trong sản xuất phía Nam và bán nhiều ở các siêu thị..

Đặc tính giống Thời gian sinh trưởng: 95 -110 ngày. Năng suất củ tươi: 15-27 tấn/ha, tỷ lệ chất khô 27- 31%. chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu tía, thịt củ màu tím đậm, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím, nhiễm nhẹ sùng, hà và sâu đục dây.

IAS90

Hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) đã được trồng khá phổ biến và mang lại sự thay đổi căn bản về năng suất cao và chất lượng ngon cho sự canh tác khoai lang tại nhiều tỉnh của Việt Nam. Những tỉnh trồng hai giống khoai lang này nhiều là  Vĩnh Long, Kiên Giang, Đà Lạt,  Đăk Nông, Gia Lai, Đồng Nai và Sóc Trăng, … Tại Vĩnh Long, việc thay thế giống khoai lang địa phương Dương Ngọc, Tàu Nghẹn, Bí Đế bằng hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) và ứng dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh thích hợp đã đưa sản lượng khoai lang Vĩnh Long năm 2000 từ  diện tích khoai lang 2,5 ngàn ha, năng suất bình quân 18,4 tấn/ ha, sản lượng 46,2 ngàn tấn, lên diện tích khoai lang 8,5 ngàn ha, năng suất bình quân 29,2 tấn/ ha , sản lượng 248,7 ngàn tấn, (Tổng cục Thống kê 2014).

KhoaiSan

Việc ứng dụng giống khoai lang tốt có năng suất chất lượng cao và các biện pháp kỹ thuật thâm canh đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho nông dân.  Tuy vậy, năng suất, sản lượng, hàm lượng các chất trong củ khoai lang (% chất khô, tinh bột, vitamin, … ) là có sự sai khác rất rõ giữa các địa phương, vùng miền, tùy thuộc chủ yếu vào các yếu tố:  đặc điểm sinh thái khí hậu đất đai và mức độ thích hợp với các giống khoai lang khác nhau; trình độ kỹ thuật thâm canh của dân địa phương và điều kiện kinh tế xã hội liên quan đến sản xuất và tiêu thụ khoai lang; mô hình tổ chức sản xuất tiêu thụ khép kín theo VIETGAP và lợi thế so sánh của khoai lang tại nơi thực hiện. Khó khăn chính trong sản xuất khoai lang hiện tại là: Giống khoai lang lẫn tạp và thoái hóa; Kỹ thuật canh tác khoai lang chưa thật phù hợp (từ thời vụ trồng, chọn đất, chọn hom giống tốt, kỹ thuật làm đất, bón phân NPK và hữu cơ vi sinh, kỹ thuật trồng, mật độ trồng, phòng trừ sùng khoai lang, sâu đục dây và bệnh hại, đến các biện pháp làm cỏ, nhấc dây, tổ chức sản xuất kinh doanh và tiêu thụ khép kín…); Chưa kiểm soát tốt sùng hà gây hại; Ít đầu tư thâm canh; Chưa tổ chức sản xuất kinh doanh và tiêu thụ khép kín. Chúng tôi sẵn sàng hợp tác nghiên cứu phát triển giống khoai lang và các biện pháp kỹ thuật thâm canh để lựa chọn giống xác định địa bàn phù hợp đạt chất lượng năng suất khoai lang cao và hiệu quả kinh tế.

Giống khoai lang Việt Nam ngon nhất hiện nay là HL518 (Nhật đỏ),và HL491 (Nhật tím) (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997)

Bài viết liên quan trên Hoàng Kim CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

QUA ĐÈO CHỢT GẶP MAI ĐẦU SUỐI
Hoàng Kim

“Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“. Tôi biết bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến gần nửa thế kỷ qua.Thuở ấy, tôi mười bảy tuổi, đã cùng người anh trai Hoàng Ngọc Dộ ra thăm đèo Ngang. Chúng tôi vừa đi xe đạp vừa đi bộ từ chân núi lên đến đỉnh đèo. Gần cột mốc địa giới hai tỉnh trên đỉnh đường xuyên sơn, cạnh khe suối ven đỉnh dốc sườn đèo có cây mai rừng rất đẹp. Chúng tôi đang thưởng ngoạn thì chợt gặp xe của Bộ trưởng Xuân Thủy và bí thư tỉnh ủy Quảng Bình Nguyễn Tư Thoan vừa tới. Họ đã xuống xe ngắm nhìn trời, biển, hoa, núi và bộ trưởng Xuân Thuỷ đã bình bài thơ trên. Nửa thế kỷ sau, Mai ảnh Phan Chi Thắng.gợi tôi viết bài này.

Bộ trưởng Xuân Thủy là nhà ngoại giao có kiến thức rộng, bạn thơ của Hồ Chí Minh, giỏi dịch thơ chữ Hán. Ông cũng là người đã dịch bài thơ “Nguyên tiêu” nổi tiếng, nên khi tôi tình cờ được nghe lời bình phẩm trực tiếp của ông về bài thơ trên thì tôi đã nhớ rất lâu. Tôi cũng hiểu nghĩa rõ ràng cụm từ “Trung Nam Hải” từ dịp ấy.

Ba mươi năm sau, khi anh Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu bài thơ “Tìm bạn không gặp” trong tập thơ “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ một nghìn năm Thăng Long, Hà Nội. Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” của Bác do nhà Hán học nổi tiếng Phan Văn Các diễn nghĩa và dịch thơ. Nội dung tuy vẫn thế nhưng bản dịch mới lời dịch sát nghĩa chữ Hán hơn so với bản tự dịch thoáng ý của chính Bác và có khác MỘT chữ so với bài mà tôi được nghe bình trước đây. Đó là từ “nghìn dặm” được thay bằng từ “trăm dặm” (“bách lý tầm quân vị ngộ quân” thay vì “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”). Bản dịch mới có lời ghi chú, nghe nói là của Bác. Bài thơ viết năm 1950 nhưng cảm xúc thực sự của Người khi thăng hoa bài thơ nổi tiếng này thì nay vẫn còn để ngỏ.

Hồ Chí Minh tầm hữu vị ngộ

Thiên lý tầm quân vị ngộ quân,
Mã đề đạp toái lĩnh đầu vân.
Quy lại ngẫu quá sơn mai thụ,
Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân.
尋友未遇

千里尋君未遇君,
馬蹄踏碎嶺頭雲。
歸來偶過山梅樹,
每朵黃花一點春。

“Nghìn Trăm dặm tìm anh chẳng gặp anh,
Đường về vó ngựa dẫm mây xanh.
Qua đèo chợt gặp mai đầu suối
Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành.”
(Bản tự dịch của Hồ Chí Minh, theo Xuân Thủy)

“Trăm dặm tìm không gặp cố nhân
Mây đèo dẫm vỡ ngựa dồn chân
Đường về chợt gặp cây mai núi
Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân”
(Bản dịch thơ của Phan Văn Các)

Bác ra nước ngoài từ đầu năm 1950 đến đầu tháng Tư mới về nước theo hồi ức “Chiến đấu trong vòng vây” của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác lúc đó đã sáu mươi tuổi, bí mật đi đến Bắc Kinh gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông rồi đi luôn sang Matxcơva gặp đồng chí Stalin. Bác cũng đi tìm gặp đại tướng Trần Canh khi chuẩn bị chiến dịch Biên giới. Trong cơn lốc của các sự kiện, Bác khẳng định: “ Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sức nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”.

“Nghìn dặm” hay “trăm dặm”? “gặp bạn” hay “không gặp” hoặc “gặp nhưng không gặp về cách làm”? Ngữ nghĩa của câu thơ “Bách lý tầm quân vị ngộ quân” khác hẳn với “thiên lý tầm quân vị ngộ quân” và không đơn giản dịch là “Tìm bạn không gặp”. Dường như Bác đang đề cập một vấn đề rất lớn của định hướng chiến lược đối ngoại. Nhiều sự kiện lịch sử hiện tại đã được giải mã nhưng còn nhiều ẩn ý sâu sắc trong thơ Bác cần được tiếp tục tìm hiểu, khám phá thêm. Những năm tháng khó khăn của cách mạng Việt Nam “chiến đấu trong vòng vây”; Những tổn thất và sai lầm trong cải cách ruộng đất do sự thúc ép từ phía Liên Xô và sự vận dụng không phù hợp kinh nghiệm của Trung Quốc; Quan hệ của nước nhỏ đối với các nước lớn. Nhiều điều tinh tế ẩn chứa trong thơ Bác.

Ý tứ trong bài thơ của Bác rất gần với với một bài thơ cổ của Trung Quốc thời nhà Tống: “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/ Mang hài đạp phá lãnh đầu vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những cành mai trong vườn nhà.

Bác Hồ cũng vượt vòng vây phong tỏa, chịu nhiều gian khổ suốt bốn tháng ròng để tìm sự ủng hộ quốc tế cho cách mạng Việt Nam đang “chiến đấu trong vòng vây”. Trên đường về, qua đèo, Bác chợt gặp cây mai đầu suối và Bác đã ngộ ra được những vấn đề sâu sắc của phương pháp cách mạng. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

Hồ Chí Minh Thướng Sơn

“Thướng sơn”; là bài thơ Ngôn chí đặc sắc của Hồ Chí Minh viết ở Lũng Dẻ năm 1942, in tại: Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990, trang 14. Bài thơ ẩn ngữ lấy ý chủ đạo “nhành mai” đối “mặt trời hồng“. “bên suối một nhành mai.”
Thướng sơn

Lục nguyệt nhị thập tứ,
Thướng đáo thử sơn lai.
Cử đầu hồng nhật cận,
Đối ngạn nhất chi mai.

上山
六月二十四
上到此山來
舉頭紅日近
對岸一枝梅

Dịch nghĩa

Ngày hai mươi bốn tháng sáu,
Lên đến núi này.
Ngẩng đầu thấy mặt trời đỏ gần lại,
Bờ bên kia có một nhành mai.
Dịch thơ

Hai mươi tư tháng sáu,
Lên ngọn núi này chơi.
Ngẩng đầu: mặt trời đỏ,
Bên suối một nhành mai.
(Bản dịch của Tố Hữu)

Hăm tư tháng sáu hôm nay
Trèo lên trên đỉnh núi này dạo chơi
Ngẩng lên đỏ chói mặt trời
Bên kia khe một nhành mai xanh rờn
(Bản dịch của Xuân Thủy)

Ngày 24 tháng 6 là ngày gì trong lịch sử? Ngày 24 tháng 6 năm 1812 là ngày đại quân của Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte vượt sông Neman, khởi đầu xâm chiếm Đế quốc Nga. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 là ngày khởi đầu của chiến dịch Voronezh đại quân Đức Quốc Xã Adolf Hitler tấn công Voronezh, thành phố có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt quan trọng bên bờ sông Đông, (là nguyên quán của Nikolai Fyodorovich Vatutin tư lệnh Phương diện quân Tây Nam, lực lượng phòng thủ chính của Liên Xô trong Chiến dịch phòng thủ Valuiki – Rossosh năm 1942). Về sau Adolf Hitler cho rằng hai ngày chậm trễ trong chiến dịch này đã làm Tập đoàn quân thiết giáp số 4 không kịp đến, làm giảm sức công phá và để cho Liên Xô kịp phòng thủ cứu nguy Stalingrad, thay đổi cục diện chiến tranh. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 tại Lũng Dẻ, Hồ Chí Minh lên núi.

“Thướng sơn” và “Tầm hữu vị ngộ” là ẩn ngữ, câu thơ lưu lạc giữa đời thường. Hồ Chí Minh là người chuộng kinh Dịch và rất tinh tế, thường có những ứng xử ngẫu nhiên phù hợp với quy luật tất nhiên. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết viết và nói thường có ẩn ý. Như 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, cũng là ngày khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam.

“Thướng sơn” (lên núi) là lên non thiêng ‘chống gậy lên non xem trận địa”, để xác định đúng tình thế, thời cơ và phương pháp cách mạng “tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế lại tùy nghi” là minh triết Hồ Chí Minh.”Đi đường mới biết gian lao. Núi cao rồi lại núi cao chập chùng . Núi cao lên đến tận cùng. thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” (Đi đường, Hồ Chí Minh) Lên núi là để xem thế trận biến ảo khôn lường dự báo kêết quả thắng thua của Chiến tranh thế giới thứ hai. Tôn Trung Sơn thời Trung Hoa Dân Quốc, đưa ra đại kế “Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ Công Nông, Tam Dân chủ thuyết” Uông Tinh Vệ nối nghiệp Tôn Trung Sơn cùng Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch.là “tam hùng”. Uông Tinh Vệ trước tả sau hữu, kết giao người Nhật và trở thành Hán gian vì Uông Tinh Vệ cho rằng Đức Nhật Ý sẽ thắng Nga Mỹ Anh Trung Hoa Dân Quốc.

Hồ Chí Minh nguyên tiêu

Nhân nói thêm dịch bài thơ “Nguyên tiêu” Hồ Chí Minh, kiệt tác trong “100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ 20” thì bản dịch thơ của Xuân Thủy được nhiều người yêu thích hơn cả. Tuy vậy nghe nói là Cụ Hồ đã hỏi vui Bộ trưởng Xuân Thủy rằng câu thơ “Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên” (sông xuân, nước xuân tiếp trời xuân) khi dịch là “Sông xuân nước lẫn bầu trời thêm xuân” thì ba chữ xuân sao chỉ còn lại hai chữ xuân? Đó cũng là sự tinh tế (như Bộ trưởng Xuân Thủy làm Bộ trưởng không Bộ vậy).

Rằm Tháng Giêng
Hồ Chí Minh

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

(Bản dịch thơ của Xuân Thuỷ)

Nguyên tác
元宵

今夜元宵月正圓,
春江春水接春天。
煙波深處談軍事,
夜半歸來月滿船。
Nguyên tiêu

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Dịch nghĩa

Đêm nay, rằm tháng giêng, trăng vừa tròn,
Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xuân.
Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,
Nửa đêm trở về, thuyền chở đầy ánh trăng.

Tháng 2 năm 1948.

Nguồn:
1. Hồ Chí Minh – Thơ, NXB Văn học, Hà Nội, 1975
2. Hồ Chí Minh toàn tập (tập 5), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

Nhành mai trong thơ Bác

Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” Hồ Chí Minh câu thơ nguyên tác cuối bài là “Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân” . Giáo sư tiến sĩ Hán học Phan Văn Các, nguyên Viện trưởng Viện Hán Nôm đã dịch là “Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân”. So câu chữ là rất chuẩn và rất sát nghĩa. Thế nhưng, tôi lại nghe cố bộ trưởng nhà thơ Xuân Thủy, người đã dịch kiệt tác bài thơ “Nguyên tiêu” ra tiếng Việt, nói năm 1970 thì “Ông Cụ” đã tự mình dịch câu thơ trên là “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành”.

Câu thơ “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” của Thiền sư Mãn Giác (Lý Trường,1051-1096) theo Minh Đức Triều Tâm Ảnh được dẫn lại và phân tích sâu thêm của Nguyễn Khôi, thì đáng chú ý nhất và khó dịch nhất là “nhất chi mai”.

Nhiều người dịch “nhất chi mai” là “một nhành mai, một nhánh mai, một cành mai”, thật ra phải hiểu “nhất chi mai” còn có nghĩa là “một đóa mai” mới thấu hiểu hết nghĩa thâm thúy. Một đóa là đủ cho cái tối thiểu, là đủ đại biểu cho mùa xuân, như một câu thơ có trước đó của Thiền sư Tề Kỷ (864-937) bạn của Thi sĩ Trịnh Cốc (849-911) đời nhà Đường đã sáng tác bài:

TẢO MAI

Vạn mộc đống dục chiết
Cô căn noãn độc hồi
Tiền thôn thâm tuyết lý
Tạc dạ nhất chi khai.
Phong đệ u hương khứ
Cầm khuy tố diễm lai
Minh niên như ưng luật
Tiên phát ánh xuân đài.

MAI NỞ SỚM

Vạn cây băng giá chết
Một cội ấm mọc ra
Đầu xóm trong tuyết đặc
Một cành đêm nở hoa.
Gió xa đem hương ẩn
Chim ngắm hoa trắng ngà
Năm tới như đúng tiết
Mừng Xuân sáng ánh tà.

Chuyện kể rằng: Khi thiền sư Sư Tề Kỷ, sau khi viết xong, vốn tính khiêm tốn đã đem sang nhờ Thi sĩ Trịnh Cốc “góp ý kiến”, Trịnh Cốc đọc nhanh, rồi nói “sổ chi” phi “tảo” dã, vị nhược “nhất chi” giai (“mấy cành” chưa phải là sớm, chưa hay bằng “một cành”). Thiền sư Sư Tề Kỷ bèn sửa thành “Tạc dạ nhất chi khai”(một cành đêm nở hoa) bất hủ.

Bài thơ của Mãn Giác so với Tề Kỷ thì tương tự, nhưng có phần thâm viễn hơn. Với ý muốn nhắn gửi với đời về lẽ chuyển dịch vô thường không dao động đến tâm an nhiên của ta (theo Trần Tuấn Kiệt); Còn theo Ngộ Không thì nên hiểu: ở đây “xuân tàn” là trầm luân, “hoa lạc tận” là hư vô, giữa mê và Ngộ, phân ra hữu và vô, có và không. “nhất chi mai” chính là giác ngộ với trong sinh có diệt, trong diệt có sinh.”

“Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân” là “nhành mai” điểm nhấn tinh tế trong thơ Bác. Tại đây, Hồ Chí Minh chỉ rõ là “đóa” cụ thể là “một đóa mai” (nhất chi mai) nhưng Hồ Chí Minh tài tình chỉ rõ là “hoàng hoa” “đóa mai vàng” rất phù hợp và thông dụng ở Việt Nam, khác với mơ, mận, mai trắng, có nhiều ở xứ lạnh nhưng ít thông dụng ở xứ ấm như Việt Nam. Hồ Chí Minh lại viết ba chữ “nhất điểm xuân” đồng nghĩa nhưng khác sự diễn đạt với “nhất chi mai”, lời dịch nghĩa lại thoáng nghĩa “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” thuần Việt hoàn toàn và khẳng định chân lý “toàn thể mới làm nên mùa xuân đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công thành công đại thành công.

“Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“ là kiệt tác thơ chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hoàng Kim

GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

nhắm mắt lại đi em
để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc
trời thanh thản xanh
đêm nồng nàn thở
ta có nhau trong cuộc đời này
nghe hương tinh khôi đọng mật
quyến rũ em và khát khao anh
mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
một tiếng chuông ngân
thon thả đầu ghềnh

nhắm mắt lại đi em
hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
vỗ về, chờ đợi, nhớ thương

nhắm mắt lại đi em
trong giấc mơ của anh
có em và rừng thiêng cổ tích
có suối nước trong veo như ngọc
có vườn trúc và ngôi nhà tranh
có một đàn trẻ thơ tung tăng
heo gà chó mèo ngựa trâu
nhởn nhơ trên đồng cỏ
tươi xanh

nhắm mắt lại đi em,
tận hưởng thú an lành.

Nhắm mắt lại đi em
Giấc ngủ ngoan
giấc mơ hạnh phúc
Em mãi bên anh,
Đồng hành với anh
Bài ca yêu thương
Bài ca hạnh phúc
Giấc mơ lành yêu thương

I have a dream

Nhắm mắt lại đi em
Giấc mơ cuộc đời
giấc mơ hạnh phúc
ngôi nhà tâm thức
Giấc mơ lành yêu thương
Có cánh cửa khép hờ
Có bãi cỏ xanh non.
Đất nước cây và hoa
Một khu vườn tĩnh lặng.
Chim sóc chó mèo gà
luôn quấn quýt sớm hôm.
Ban mai ửng
nghe chim trời gọi cửa.
Hoàng hôn buông
trăng gió nhẹ lay màn.
Ta về với ruộng đồng
Vui giấc mơ hạnh phúc
Vui một giấc mơ con
Hoa Lúa Hoa Người Hoa Đất 
Giấc mơ lành yêu thương.

Sun Yat-sen 2.jpg

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
#htn, #hoangkimlong, #banmai #vietnamxahoihoc, #htn365, #ana, #dayvahoc, #vietnamhoc, #cnm365#cltvn
, #vietcassava, #annhiên, #đẹpvàhay, https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-12-thang-3/

CNM365 Tình yêu cuộc sống: Tím một trời yêu thương; Thung dung đẹp và hay; Vạn An lời yêu thương; An vui cụ Trạng Trình; Soi sáng lại chính mình; Giấc mơ lành yêu thương; Điểm hẹn chốn đồng tâm; Hoa và Ong Hoa Người; Tháng Ba hoa gạo nở; Người Thầy trong tim em; Tỉnh thức cùng tháng năm; Champasak ngã ba biên giới; Thầy Quyền thâm canh lúa; Thế giới trong mắt ai; Ức Trai tâm tựa Ngọc; Sớm xuân kênh Thị Nghè; Nhà Trần trong sử Việt; Trần Duệ Tông hậu Trần; Đặng Dung thơ Cảm hoài; Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Chuyện đời Phan Chí Thắng; Chuyện thầy Li Li Nghệ; Chuyện đồng dao cho em; Tháng Ba hoa hồng trắng; Chuyện thầy Nguyễn Tử Siêm; Ban mai chào ngày mới; Tỉnh thức cùng tháng năm; Lên Trúc Lâm Yên TửĐêm Yên Tử; An vui cụ Trạng Trình; Qua Mang Thít Vĩnh Long; Thăm thẳm đất miền Trung; Câu chuyện đứng trước biển; Gia Cát Mã Tiền Khóa; Về với vùng cát đá; Quảng Tây nay và xưa; Truyện Pie Đại đế; Câu chuyện ảnh tháng Ba; Hoa Đất thương lời hiền; Chuyện đồng dao cho em; Ngôi sao mai chân trời; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói; Câu chuyện ảnh tháng Ba; Lào hoa trắng nắng Mekong; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Thầy là nắng tháng Ba; Công viên Tao Đàn HCM; Hậu duệ của mặt trời; Xuân sớm Ngọc Phương Nam; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Trương Minh Thảo hoa cỏ; Ngày mới ngọc cho đời; Giống lúa siêu xanh GSR65; Giống lúa siêu xanh GSR90; Nguyễn Duy cát trắng bụi; Chuyện đồng dao cho em; Lớp TT4 ĐHNN2 Hà Bắc; Thầy bạn trong đời tôi; Thăm thẳm trời sông Thương; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Bảo tồn và phát triển sắn; Cách mạng sắn Việt Nam; Câu cá bên dòng Sêrêpôk; Người lính cây sắn tuổi thơ; Đến với Tây Nguyên mới; Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Ngày mới ngọc cho đời; Xuân sớm Ngọc Phương Nam; Đến với Tây Nguyên mới; Giống lúa siêu xanh GSR65; Giống lúa siêu xanh GSR90; Nguyễn Duy cát trắng bụi;

Đi dưới trời minh triết; Trung Quốc một suy ngẫm; Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay; Thế sự bàn cờ vây; Đi để hiểu quê hương; Bảo tồn và phát triển sắn; Cách mạng sắn Việt Nam; Câu cá bên dòng Sêrêpôk; Người lính cây sắn tuổi thơ; Đến với Tây Nguyên mới; Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Ngày mới ngọc cho đời;

Ngày 12 tháng 3 năm 1925, ngày mất Tôn Dật Tiên, nhà cách mạng, chính khách người Trung Quốc (sinh năm 1866). Ngày 12 tháng 3 năm 1881, ngày sinh Mustafa Kemal Atatürk, tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ đầu tiên (mất năm 1938). Ngày 12 tháng 3 năm 1913, Canberra thủ đô tương lai của Úc chính thức được đặt tên trong một buổi lễ bởi phu nhân của Toàn quyền Úc Thomas Denman.

Bài chọn lọc ngày 12 tháng 3: Đi dưới trời minh triết; Trung Quốc một suy ngẫm;Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay; Thế sự bàn cờ vây; Đi để hiểu quê hương; Bảo tồn và phát triển sắn; Cách mạng sắn Việt Nam; Câu cá bên dòng Sêrêpôk; Người lính cây sắn tuổi thơ; Đến với Tây Nguyên mới; Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Ngày mới ngọc cho đời; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-12-thang-3/https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-12-thang-3/

ĐI DƯỚI TRỜI MINH TRIẾT
Hoàng Kim

Nhớ chuyện hiền trăm năm
Thương đời siêng ngày tháng
Đường xuân đời quên tuổi
Vui sống giữa thiên nhiên

xem tiếp https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/di-duoi-troi-minh-triet

HuyenTrangThapDaiNhan

HUYỀN TRANG THÁP ĐẠI NHẠN
Hoàng Kim

Tháp Đại Nhạn thuộc thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc là nơi tôn kính và uy nghiêm lưu dấu pho sử thi vĩ đại Phật Giáo Thế Giới với Trung Quốc. Danh thắng này ý nghĩa chuyển pháp luân dường như Vườn Lâm Tì Ni thánh địa Phật Giáo Đản Sinh thuộc vùng Rupandehi phía Tây Nam của Nepal gần Ấn Độ, cũng dường như rất gần với ý nghĩa danh thắng non thiêng Yên Tử nơi lưu dấu tích của Trúc Lâm vua Phật Trần Nhân Tông Việt Nam.

Nhân Nhớ thầy Nguyễn Quốc Toàn bài viết hay “Đại Đường Tây Vực Ký” (*), Hoàng Kim đọc lại và suy ngẫm Ấn Độ địa chỉ xanhHuyền Trang Tháp Đại Nhạn bài viết trước đây của riêng mình, nay làm mới lại để tự chiêm nghiệm. Sư huynh Nguyễn Quốc Toàn luôn trí huệ lắng đọng, bảo tồn tinh hoa di sản quý. Đời Người bước chân vô định, tay trắng, chân đất, đầu trần, cuốn theo chiều gió, như chiếc bách giữa dòng đời, duyên may tới được các chốn thiêng này, kể cũng là sự may mắn mãn nguyện.

(*) ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ
(Nhật kí Trần Huyền Trang – Đường Tăng)
Nguyễn Quốc Toàn kể
(8.3.2023)

Những ai đã đọc Tây Du kí, hoặc xem phim Tôn Ngộ Không, hẳn không thể quên được nhân vật Đường Tăng. Nhưng đấy là Đường Tăng do nhà văn Ngô Thừa Ân dựa vào ông Đường Tăng có thật thời nhà Đường để hư cấu nên. Ngài Đường Tăng thật tên là Trần Vĩ còn gọi là Trần Huyền Trang, ở tỉnh Hà Nam, sinh năm 600 thời nhà Tùy, mất năm 644 thời nhà Đường. Ông say mê nghiên cứu Phật giáo, và nhận thấy các bản kinh Phật dịch ra tiếng Trung Quốc thời bấy giờ nhiều chỗ chưa rõ nghĩa, nên lập chí đến Ấn Độ lưu học. Ông đã đi qua 138 nước và ghi lại thật đầy đủ địa hình, sông núi, quan phòng, thành trì, đường sá, giao thông, tập tục, phong thổ, khí hậu , sản vật, văn tự, ngôn ngữ, chính trị, kinh tế, văn hóa, tôn giáo của nhiều quốc gia vùng Trung á, Nam á, cùng với không ít các truyền thuyết cố sự Phật giáo. Sau 17 năm đèn sách tu tập, đến năm Trinh Quán thứ 9 triều Đường, ông về nước, mang theo 657 bộ kinh. Bu tui không có tham vọng giới thiệu toàn bộ tập sách vĩ đại “Đại Đường Tây Vực ký” mà chỉ trích đăng vài câu chuyện dân gian trong đó, ngõ hầu giúp các bạn mua vui khi trà dư tửu hậu vậy.

1- CHUYỆN Ở NƯỚC BÀ LA NI TƯ

Ở nước Bà La Ni Tư có tòa Phật tháp đồ sộ ẩn trong một khu rừng, nơi đây ngày xưa đức Như Lai dùng phép thần thông biến thành vua Nai. Ngài cai quản hai đàn nai, mỗi đàn hơn 500 con. Vua nước Bà La Ni Tư đang đi săn, Bồ tát vua Nai cầu xin vua:

– Ngài đi săn muốn bắn bao nhiêu cũng được. Lũ chúng tôi thuộc sở hữu của ngài, cũng phải chịu chết thôi. Nhưng chết rồi cơ thể chúng tôi sẽ mục rửa hôi thối, vì ngài đâu ăn cho hết. Chúng tôi chịu cung cấp mỗi ngày một con nai cho ngài, ngài có thịt tươi, bọn chúng tôi cũng được kéo dài tuổi thọ. Nhà vua chấp thuận ý kiến vua Nai, bãi bỏ cuộc đi săn trở về cung. Hai đàn nai cũng giữ lời hứa mỗi ngày thay phiên nhau cung cấp cho nhà vua một con. Trong đàn nai nọ có một con đang mang thai, lần đó đến lượt nó phải chịu chết, nai đau đớn nói với vua Nai:

– Đúng là đến phiên tôi phải chịu chết, nhưng con tôi đâu đã đến phiên!

Vua Nai làm bộ giận mắng:

– Ai mà không biết quý sinh mệnh

Con nai than thở:

– Vua ta không có lòng nhân từ. Mẹ con mình không sống

được bao lâu nữa rồi.

Vua Nai nói:

– Ta hiểu nỗi lòng người mẹ mong cho đứa con trong bụng lớn lên, để rồi thành chú nai mạnh khỏe sống giữa đời. Thôi! ta quyết định đi chết thay cho nhà ngươi.

Nói rồi vua Nai đi thẳng đến hoàng cung vua ở, vua tiếp vua Nai và hỏi:

– Có việc gì vậy

Vua Nai đáp:

– Có một con nai cái đến phiên bị giết song nó đang mang thai chưa đến kỳ sinh nở, tôi thấy bất nhẫn nên lấy thân mình thay cho nó.

Nhà vua nghe thế bèn than:

– Ta là thân người mà bụng thì nai, còn người thân nai mà bụng là người.

Từ đó nhà vua bãi bỏ lệnh giết hại đàn nai, dùng khu rừng ấy cho đàn nai sinh sôi nẩy nở nên gọi là rừng Thí Lộc.

2- CHUYỆN Ở NƯỚC KHUẤT CHI

Người dân Khuất Chi kể rằng, ngày xưa có một ông vua tôn sùng Tam Bảo muốn vân du các nơi để thăm viếng và hành lễ các Phật tích, bèn giao quyền cho người em ruột, lo việc triều chính, cai trị đất nước. Ngày vua lên đường người em dâng lên ngài một chiếc hộp bằng vàng. Nhà vua hỏi

– Làm vậy là ý gì?

– Khi bệ hạ hồi giá sẽ mở ra xem.

Nhà vua nhận hộp vàng và giao cho quan hầu cận cất giữ cẩn mật. Khi trở về hoàng cung vua nghe có người tâu rằng: Bệ hạ đi vắng giám quốc (em vua) dâm loạn trong cung. Nhà vua nổi cơn thịnh nộ, tính trị tội người em thật nặng, người em thưa:

– Mong Bệ hạ mở hộp ra xem, nếu thần có tội thì xin cam chịu mọi hình phạt, quyết không than phiền.

Nhà vua mở hộp ra xem thấy một khúc dương vật.

– Thật là quái dị. Ngươi giải thích thế nào đây ?

– Trước đây, Bệ hạ vân du, giao thần làm giám quốc, thần lo sợ gặp tai họa. nên tự cắt của quý của thần để sau này có vật chứng minh oan. Nay quả xẩy ra việc xin Bệ hạ minh xét.

Nhà vua nghe xong nể phục người em bội phần, lại càng thêm yêu mến, cho ra vào cung cấm tự do thoải mái.

Về sau người em đi trên đường gặp một đoàn 500 con bò đang bị lùa đến lò mổ giết thịt. Ông ta động mối từ tâm tự nhủ thầm “sao ta không cứu giúp lũ bò vô tội , gây dựng điều từ thiện, tạo nghiệp cho kiếp sau”, rồi bỏ tiền ra mua cả đàn bò để chúng khỏi bị giết thịt. Cái tâm đại từ bi ấy đã gây nên sức mạnh siêu phàm, dương vật mọc lại như cũ.

Từ khi phục hồi khả năng đàn ông, người em không ra vào cung cấm nữa. Nhà vua lấy làm lạ không hiểu vì lý do gì, bèn hỏi em. Người em cứ sự thật bẩm báo đầu đuôi gốc ngọn. Nhà vua cho là chuyện ly kỳ. bèn xây một ngôi chùa để biểu dương câu chuyện cảm động ấy, lưu lại cho hậu thế.

——–

Tượng ngài Trần Huyền Trang

Kim Notes lắng ghi chú:

HuyenTrang5

Trần Huyền Trang tên thật là Trần Vỹ, sinh năm 602 (hoặc 596?) thời Tùy Văn Đế Dương Kiên, tại huyện Câu Thi, hiện là huyện Yêm Sư, tỉnh Hà Nam, mất ngày 5 tháng 2 năm 664 tại Ấn Đài, Thiểm Tây, Trung Quốc; Huyền Trang là một trong những người Thầy vĩ đại nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc thời Đường, nhà dịch thuật kinh điển Phật Giáo rất nổi tiếng, là nguyên mẫu Đường Tam Tạng đã được tiểu thuyết hóa trong tác phẩm “Tây Du Ký”, là người cùng thời với vua Đường Thái Tông  Lý Thế Dân.

Năm 629 sư Trần Huyền Trang xuất phát từ Trung Quốc hành hương sang đất Phật, năm 630 thì đến nơi, năm 645 quay về Trung Quốc. Huyền Trang đích thân mang kinh Phật về và chủ trì dịch thuật thành 75 bộ kinh luận Phật Giáo với 1335 quyển, thực hiện liên tục trong suốt 19 năm với quy mô to lớn và chất lượng dịch thuật rất cao. Huyền Trang cũng là tác giả của bộ “Ðại Ðường Tây Vực Ký” 12 quyển có giá trị đặc biệt về địa lý, văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ và du lịch. Cao tăng Huyền Trang đồng thời cũng đào tạo một hệ thống tăng sĩ về Duy thức và Nhân minh Ấn Độ, là Quốc sư của triều Đường chấn hưng Phật Giáo và mang lại hiển vinh cho lịch sử Trung Quốc.

DuongHuyenTrangThapDaiNhan

Tháp Đại Nhạn là một tháp ở thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc được xây năm 652 trong thời kỳ của Đường Cao Tông trị vì 649-683, lúc đó tháp có 5 tầng cao 54 m dùng để chứa bản dịch Kinh phật của Đường Tam Tạng. Tháp đã được xây lại năm 704 trong thời Võ Tắc Thiên, bề mặt ốp gạch được trùng tu vào thời nhà Minh (1368–1644) và được phục chế tôn tạo vào năm 1964. Tháp Đại Nhan hiện cao 64 mét. Từ đỉnh tháp có thể bao quát tầm nhìn thành phố Tây An, là một trong 4 kinh đô trong lịch sử Trung Hoa, là kinh đô của 13 triều đại, bao gồm: nhà Chu, nhà Tần, nhà Hán và nhà Đường. Tây An cũng là điểm kết thúc phía đông của Con đường tơ lụa huyền thoại. Tháp Đại Nhạn là chứng tích du lịch nổi tiếng của thành phố Tây An.

ThapDaiNhan1

Đi dưới vùng  trời minh triết của Tháp Đại Nhạn lắng nghe cỏ cây và cổ vật kể chuyện.

HuyenTrang1
HuyenTrang2

Ngôi am cổ tự kia và phiến đá này còn lưu dấu vết tích của một vị chân tu.

DuongTamTangThapDaiNhan


Tháp Đại Nhạn và quần thể kiến trúc này tính đến nay đã ra ngoài ngàn năm.

DoiQuanDatNungTayAn


Ở Tây An còn có “đội quân đất nung của Tần Thủy Hoàng” với biết bao kỳ bí khác. Thế nhưng ấn tượng sâu sắc nhất trong tôi đối với Tây An vẫn là Huyền Trang với tháp Đại Nhạn. Đó là bài học lịch sử văn hóa nhân văn thật sâu sắc.

Đường Huyền Trang và Tháp Đại Nhạn, một vùng di sản thiêng liêng thật đáng khâm phục.

Tôi tới thăm Trần Huyền Trang và Tháp Đại Nhạn nhớ về Trúc Lâm Yên Tử, vườn Lâm Tì Ni, chợt nghĩ về di vật cổ ở Nam Cát Tiên nơi thánh địa Phật Giáo đất Phù Nam, chợt nhớ về”Đại Đường Tây Vực Ký” những ẩn ngữ kỳ lạ trong câu chuyện Phật Giáo mà cụ Nguyễn Quốc Toàn (Bulukhin) và cụ Vương Hồng Sến đã tinh tuyển chọn lọc kể lại. Hôm nay Ban mai chào ngày mới, Tĩnh thức cùng tháng năm, Vớt Trăng nhàn nét bút, Tỉnh lặng đời an nhiên Nhàn đàm câu chuyện cũ Thiền sư giữa đời thường, Lòng lâng lâng cảm khái

Thăm Vườn Quốc gia ở Việt Nam, ngắm di vật cổ ở Nam Cát Tiên, đối thoại với lịch sử văn hóa của một vùng đất, ta sẽ hiểu được tường tận nhiều điều. Vườn Quốc gia Việt Nam là một pho sách mở cần được khám phá, khai mở, bảo tồn và phát triển. Đó là một nguồn năng lượng dồi dào và mạch viết vô tận. Đặc biệt là khi kết nối hòa quyện được những di sản vô giá của dân tộc với các di sản lịch sử địa lý văn hóa du lịch của toàn thế giới.

Hoàng Kim

HOA ĐẤT THƯƠNG LỜI HIỀN
Hoàng Kim


1

Mẫu Phương Nam Tao Đàn
Nam tiến của người Việt
Đường Huyền Trân Công Chúa
Hoa Đất thương lời hiền

Ngày mới đầy yêu thương
Chuyện cũ chưa hề cũ
Nhà Trần trong sử Việt
Thoáng chốc tròn tháng năm

Ban mai chào ngày mới 
Vui bạn hiền người thân 
An nhiên nhàn nét bút
Thảnh thơi gieo đôi vần.

Chuyện cổ tích người lớn
Lời dặn của Thánh Trần
Yên Tử Trần Nhân Tông
Việt Nam con đường xanh

2

Việc chính đời người chỉ ít thôi.
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi.
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện.
Di sản muôn năm mãi sáng ngời

3

Đường trần non nước Việt dạo chơi
Minh triết an nhiên tới thảnh thơii
Phúc hậu trọn đời vui việc thiện
Tận tâm trí huệ hiến dâng người

4

Mình là hoa của đất
Ươm mầm xanh cho đời.
Gieo yêu thương hi vọng
Gặt hái những niềm vui.

Thấm thoắt bao xuân qua
Cùng nhau từ thuở ấy
Lộc muộn ngày hôm nay
Nhớ buổi đầu gieo cấy.

Hàng trăm ngàn hecta
Bội thu từ giống mới .
Nhìn bà con hân hoan
Đường trần vui quên mỏi.

5

Người ta hoa đất
An nhàn vô sự là tiên
Thung dung cỏ hoa
Thế giới người hiền

Điền trúc măng ngon
Hôm qua chăm mai
Sớm nay hái nấm
Chiều về thu măng.

Thung dung thanh nhàn
Sống giữa thiên nhiên
Đọc bài cho em
Vui cùng bạn quý

Đọc sách dọn vườn
Lánh chốn bon chen
Thảnh thơi cuộc đời
Chơi cùng hoa cỏ.

Xưa lên non Yên Tử
Mang lộc trúc về Nam
Nay đến chốn thung dung
Vui nhởn nhơ hái nấm.

Ơn Thầy Ơn Bạn
Lộc xuân cuộc đời
Thung dung Hoa Lúa
Phúc hậu, an nhiên,

Minh triết, tận tâm
Hoa Người Hoa Đất
Làm ngọc cho đời
Đạo ẩn vô danh.

6

Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.

7

BIỂN NÚI EM VÀ ANH
Hoàng Kim

Em khao khát
Anh bồi hồi trước biển
Sóng vỗ bờ
Âu yếm
Núi và sông.

Sông và suối
Nghìn đời đi về biển
Sóng yêu thương
Vỗ mãi
Đến vô cùng

Hoa Đất thương lời hiền
CHÁN CHẲNG MUỐN KHOE
Nguyễn Hữu Sơn tự đề ảnh…

Mỗi chiều bỏ ra nửa tiếng,
Cũng như chí chát cầu lông.
Tay làm hàm nhai quả chín,
Ngó cao xa chút mây hồng.
Bất chợt chạm nhành hoa cải,
Mơ hồ mình đã nên ông …

(Photo: Cháu Thành Hưng, lớp Ba), 3/2/2021.

8

THÍCH KHÔNG CẦN GIẤU
Kim Hoàng trêu cụ Nguyễn Hữu Sơn

Sớm nào cũng dành nửa tiếng,
Thung dung đếm nhịp thời gian.
Thong thả chỉ thêu nên gấm,
An nhiên việc tốt cứ làm.
Thoáng chốc đường trần nhìn lại,
Thanh nhàn vô sụ là tiên‘ …

Ngày Tảo Mai nhớ đức Nhân Tông, đưa ông Táo về Trời, vui thấy bài thơ hay của cụ Nguyễn Hữu Sơn, xin được đùa vui họa vần và lưu bài. Thông tin lưu tại Hoa Đất thương lời hiền http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-4-thang-2

9
PHẬT QUANG SƠN TAO ĐÀN
Hoàng Kim


Phật Quang Sơn tự nhớ Tinh Vân
Phật không cần tháp chúng sinh cần
Luyện tập tâm lành lời dạy khéo
Giáo dân trí huệ phúc khang an 😍

Chúc mừng Huỳnh Hồng luôn vui khỏe hạnh phúc. Hoa Đất thương lời hiền; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/cat…/chao-ngay-moi-5-thang-2/

10

CNM365 ĐẾM NHỊP THỜI GIAN
Hoàng Kim chúc vui Thiện Lạc


Ta vui đếm nhịp thời gian
Thung dung nhàn giữa gian nan đời thường.


Về với vùng văn hóa
Nhớ cụ Thái Kim Đỉnh
Nguyễn Du trăng huyền thoại
Trà sớm thương người hiền

Thích câu thơ bạn quý:
“Tí hư, Sửu hao, Dần bất lợi
Tam niên vận hạn ít tiền tiêu
Lo chi anh đủ đầy bút mực
Già rồi mình cứ phết thơ yêu”


Điểm nhịp thời gian đầy bút mực
Lo chi năm tháng thảnh thơi nhàn
Đất cảm trời thương người mến đức
Thung dung thầy bạn quý bình an.

2017-11-01_YenTu

Ngày Hạnh Phúc đọc lại kinh Dịch và lời khuyên của Trạng Trình: “Căn bản học Dịch là phải biết tùy thời, hướng thiện và lạc quan. Tùy thời thì an nhàn, trái thời thì vất vả. Tùy thời mà vẫn giữ được trung chính.”

Chiêm Lưu Huy mừng bạn ghé đọc. Hoa Đất thương lời hiền. Hôm qua cụ Nguyễn Hữu Sơn và hôm nay cụ Li Li Nghệ vừa ghé thăm Tao Đàn và mình cùng em Nguyen Chien Thang được thích thú đọc bài mới của các cụ thật thấm. Mình chép lại để nhớ.Hoa Đất thương lời hiềnChào ngày mới tốt lành; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-5-thang-2/

Việc chính Hoàng Kim lý lịch khoa học, phiếu chuyên gia khoa học công nghệ, trích yếu cá nhân, đúc kết câu chuyện đến ngày 2 9. 2019. Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimhttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-25-thang-8/

Tài liệu trích dẫn

(*) ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ
(Nhật kí Trần Huyền Trang – Đường Tăng)
Bu Lu Khin  Nguyễn Quốc Toàn

Những ai đã đọc Tây Du kí hoặc xem phim Tôn Ngộ Không, hẳn không thể quên được nhân vật Đường Tăng. Nhưng đấy là Đường Tăng do nhà văn Ngô Thừa Ân dựa vào ông Đường Tăng có thật thời nhà Đường để hư cấu nên. Ngài Đường Tăng thật tên là Trần Vĩ còn gọi là Trần Huyền Trang ở tỉnh Hà Nam, sinh năm 600 thời nhà Tùy, mất năm 644 thời nhà Đường. Ông say mê nghiên cứu Phật học và nhận thấy các bản kinh dịch ra tiếng Trung Quốc thời bấy giờ nhiều chỗ chưa rõ nghĩa nên lập chí đến Ấn Độ lưu học. Ông đã đi qua 138 nước và ghi lại thật đầy đủ địa hình, sông núi, quan phòng, thành trì, đường sá, giao thông, tập tục, phong thổ, khí hậu , sản vật, văn tự, ngôn ngữ, chính trị, kinh tế, văn hóa, tôn giáo của nhiều quốc gia vùng Trung á, Nam á, cùng với không ít các truyền thuyết cố sự Phật giáo. Sau 17 năm đèn sách tu tập, đến năm Trinh Quán thứ 9 triều Đường ông về nước mang theo 657 bộ kinh. Bu tui không có tham vọng giới thiệu toàn bộ tập sách vĩ đại “Đại Đường Tây Vực ký” mà chỉ trích đăng vài câu chuyện dân gian trong đó, ngõ hầu giúp các bạn mua vui khi trà dư tửu hậu vậy.

1- CHUYỆN Ở NƯỚC BÀ LA NI TƯ

Ở nước Bà La Ni Tư có tòa Phật tháp đồ sộ ẩn trong một khu rừng, nơi đây ngày xưa đức Như Lai dùng phép thần thông biến thành vua Nai. Ngài cai quản hai đàn nai, mỗi đàn hơn 500 con.

Vua nước Bà La Ni Tư đang đi săn, Bồ tát vua Nai cầu xin vua: Ngài đi săn muốn bắn bao nhiêu cũng được. Lũ chúng tôi thuộc sở hữu của ngài, cũng phải chịu chết thôi. Nhưng chết rồi cơ thể chúng tôi sẽ mục rửa hôi thối, vì ngài đâu ăn cho hết. Chúng tôi chịu cung cấp mỗi ngày một con nai cho ngài, ngài có thịt tươi, bọn chúng tôi cũng được kéo dài tuổi thọ.

Nhà vua chấp thuận ý kiến vua Nai, bãi bỏ cuộc đi săn trở về cung. Hai đàn nai cũng giữ lời hứa mỗi ngày thay phiên nhau cung cấp cho nhà vua một con. Trong đàn nai nọ có một con đang mang thai, lần đó đến lượt nó phải chịu chết.

Nai đau đớn nói với vua Nai: Đúng là đến phiên tôi phải chịu chết nhưng con tôi đâu đã đến phiên!

Vua Nai làm bộ giận mắng: Ai mà không biết quý sinh mệnh

Con nai than thở: Vua ta không có lòng nhân từ. Mẹ con mình không sống được bao lâu nữa rồi.

Vua Nai nói: Ta hiểu nỗi lòng người mẹ mong cho đứa con trong bụng lớn lên để rồi thành chú nai mạnh khỏe sống giữa đời. Thôi! ta quyết định đi chết thay cho nhà ngươi.

Nói rồi vua Nai đi thẳng đến hoàng cung vua ở,

Vua tiếp vua Nai và hỏi: Có việc gì vậy?

Vua Nai đáp: Có một con nai cái đến phiên bị giết song nó đang mang thai chưa đến kỳ sinh nở, tôi thấy bất nhẫn nên lấy thân mình thay cho nó.

Nhà vua nghe thế bèn than: Ta là thân người mà bụng thì nai, còn người thân nai mà bụng là người.

Từ đó nhà vua bãi bỏ lệnh giết hại đàn nai, dùng khu rừng ấy cho đàn nai sinh sôi nẩy nở nên gọi là rừng Thí Lộc.

2- CHUYỆN Ở NƯỚC KHUẤT CHI

Người dân Khuất Chi kể rằng, ngày xưa có một ông vua tôn sùng Tam Bảo muốn vân du các nơi để thăm viếng và hành lễ các Phật tích, bèn giao quyền cho người em ruột, lo việc triều chính, cai trị đất nước. Ngày vua lên đường người em dâng lên ngài một chiếc hộp bằng vàng.

Nhà vua hỏi: Làm vậy là ý gì?

Khi bệ hạ hồi giá sẽ mở ra xem.

Nhà vua nhận hộp vàng và giao cho quan hầu cận cất giữ cẩn mật. Khi trở về hoàng cung vua nghe có người tâu rằng: Bệ hạ đi vắng giám quốc (em vua) dâm loạn trong cung. Nhà vua nổi cơn thịnh nộ, tính trị tội người em thật nặng,

Người em thưa: Mong Bệ hạ mở hộp ra xem, nếu thần có tội thì xin cam chịu mọi hình phạt, quyết không than phiền.

Nhà vua mở hộp ra xem thấy một khúc dương vật.

Thật là quái dị. Ngươi giải thích thế nào đây?

Trước đây, Bệ hạ vân du, giao thần làm giám quốc, thần lo sợ gặp tai họa, nên tự cắt của quý của thần để sau này có vật chứng minh oan. Nay quả xẩy ra việc xin Bệ hạ minh xét.

Nhà vua nghe xong nể phục người em bội phần, lại càng thêm yêu mến, cho ra vào cung cấm tự do thoải mái.

Về sau người em đi trên đường gặp một đoàn 500 con bò đang bị lùa đến lò mổ giết thịt. Ông ta động mối từ tâm tự nhủ thầm “sao ta không cứu giúp lũ bò vô tội, gây dựng điều từ thiện, tạo nghiệp cho kiếp sau”, rồi bỏ tiền ra mua cả đàn bò để chúng khỏi bị giết thịt. Cái tâm đại từ bi ấy đã gây nên sức mạnh siêu phàm, dương vật mọc lại như cũ.

Từ khi phục hồi khả năng đàn ông, người em không ra vào cung cấm nữa. Nhà vua lấy làm lạ không hiểu vì lý do gì, bèn hỏi em. Người em cứ sự thật bẩm báo đầu đuôi gốc ngọn. Nhà vua cho là chuyện ly kỳ. bèn xây một ngôi chùa để biểu dương câu chuyện cảm động ấy, lưu lại cho hậu thế.

(**) Sự thật về Thầy Trần Huyền Trang tức “Ðường Tam Tạng” đi Tây Phương thỉnh kinh bài viết của học giả Vương Hồng Sến đăng tại Đặc San Quán Thế Âm, số 2, 1995. Quán Thế Âm Ni Tự, 128 Nollamara Avenue, Nollamara, WA, 6061, Australia, như sau:

“Mọi người Việt Nam chúng ta, ai ai cũng đã từng được nghe kể lại, hoặc đọc truyện Ông Ðường Tam Tạng đi Tây phương thỉnh kinh trong truyện Tây Du Ký Diễn Nghĩa. Trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, bộ Tây Du Ký Diễn Nghĩa có cái đặc điểm ngộ nghĩnh là trẻ nhỏ đọc thì mê theo trẻ nhỏ; người lớn đọc thì lại say sưa theo người lớn. Trẻ nhỏ thì thích Tây du diễn nghĩa thần thông quảng đại, có bảy mươi hai phép biến hóa, Có Trư Bát giới chọc cười duyên dáng …. Còn người lớn thì say mê vì những ý nghĩa thâm trầm, trào lộng.

So vớí các bộ tiểu thuyết danh tiếng khác như Hồng Lâu Mộng, Thủy Hử v..v… phạm vi phổ biến của Tây Du diễn nghĩa còn rộng hơn nhiều. Căn cứ theo bộ truyện Tây du diễn nghĩa, thì thầy trò Tam tạng gồm bốn người (Tam tạng, Ngộ không, Ngộ năng, Ngộ tịnh) và một con ngựa (bạch mã) tướng tinh là rồng mắc đọa. Cả đoàn đi qua Tây phương ròng rã 14 năm trời, khi thỉnh được kinh trở về có tám vị Kim Cang đằng vân theo hộ tống đưa về Trường an, vừa khứ hồi trở lại Tây phương cõi Phật chỉ mất có tám ngày vãng phản. Truyện kể bốn thấy trò và một ngựa ngày đêm vượt rừng trèo núi, gặp yêu dẹp yêu, gặp phước làm phước, gian nan không sờn, tử sanh chẳng nệ, trải qua tám mươi mốt nạn lớn, nào là Bàn Ty động quyến rũ, nào là Hỏa diệm sơn đỏ hực, Tiểu lôi kinh khủng v..v… mới đến được Tây phương.

Trong truyện vì làm việc của Tam Tạng là khó, không ai làm được, nên muốn cho dân chúng dễ tin, phải thêm thắt và thi vị hóa cuộc hành trình bằng bao nhiêu yêu tinh đón đương, lớp đòi ăn thịt Ðường Tăng, lớp cám dỗ (chuyện bảy con nhện cởi truồng tắm sông có Bát giới tắm hùa, còn khêu gợi gấp mấy chuyện ngày nay in hình khiêu dâm). Thực sự, Tây du diễn nghĩa là một bộ truyện thần thoại, hầu hết sự kiện, tình tiết đều là bịa đặt.

Nhưng chuyện thầy Trần Huyền Trang (Tam Tạng) đi từ Ðông Ðộ qua thỉnh Kinh Tây Phương lại là chuyện lịch sử có thật. Trần Huyền Trang là một nhân vật có thật trong lịch sử nhà Ðường. Ông tên thật là Trần Vỹ, sanh vào năm thứ 16 đời Tùy Văn Ðế Dương Kiên (596 sau Tây lịch) tại huyện Câu Thi (hiện là Huyện Yêm Sư) Tỉnh Hà Nam. Và chuyện thỉnh kinh Tây Phương cũng là chuyện có thật, đã được chính Huyền Trang thuật lại rất cặn kẽ trong bộ “Ðại Ðường Tây Vực Ký”. Thầy chính là một nhân vật sống đã vào lịch sử một cách vinh quang. Thầy từng làm tôi cho vua Ðương Thái Tôn (Lý Thế Dân) là bậc minh quân đem lại hiển vinh cho lịch sử Trung Quốc.

Sự thực thầy Huyền Trang chỉ đi một mình, cỡi một con ngựa già làm chân. Ông đi và ở suốt 17 năm bên Tây phương, gồm 2 năm đi, 2 năm về và 13 năm ở lại du học tại Ấn Ðộ. Ði từ năm 629 mãi đến năm 645 (sau Tây lịch) mới về đến thành Trường an (Trung quốc). Tính ra Huyền Trang đã rời Ðại Ðường đến 17 năm, đi trên năm vạn dặm đường, qua 128 quốc gia lớn nhỏ. Khi về, ông đã mang về:

– 150 Xá Lợi tử ( Tinh cốt của Như Lai).
– 2 tượng Phật gỗ đàn tô ngân cao 4 thước
– 3 Tượng Phật bằng đàn hương : Cao 3th5, 2th9, 2th3
– 657 bộ Kinh, chia làm 520 hiệp
– Cùng một số bảo vật khác nữa. và phải dùng voi, lạc đà và 24 ngựa mới chở hết.

Trên thực tế, đường đi không có gặp yêu tinh cản trở (có chăng là bọn mọi dữ thích ăn thịt người) nhưng những khó khăn trở ngại cản trở lẫn vật chất và tinh thần lại hết sức nhiều và lớn, nếu là người khác ắt vô phương vượt khỏi. Có lúc Thầy Huyền Trang nhịn đói nhịn khát suốt bảy tám ngày ròng rã giữa một trảng sa mạc trời nắng chang chang, không một bóng cây, cũng không một bóng người qua lại. Nhưng ý chí của Thầy thật là sắt đá. Có lần đói khát khổ quá, bụng tính quay trở về phía đông để tìm chỗ xin nước uống đem theo rồi sẽ đi nữa, nhưng vừa quày ngựa trở về hướng đông đi đặng một đỗi đường thầy lại tự nhủ: “Trước kia, đã thề nếu qua không đến Ấn Ðộ, quyết không trở về Ðông một bước. Nay thà đi về hướng Tây mà chết, chớ lẽ nào đi về Ðông để sống hèn”.

Một lần khác, thầy gặp bọn mọi ăn thịt người (Tức bọn yêu tinh kể trong truyện Tây Du). Thầy Tam Tạng sẵn lòng hiến thân cho bọn quỷ khát máu ấy. Nhưng giữa lúc bàn tính, xảy có mưa to sét lơn. Bọn người rừng kinh sợ vì cho rằng trời không bằng lòng. Chúng lật đật giục thầy lên đường, nhưng thầy khăng khăng một mực nài bọn kia: hoặc hãy “ăn thịt Thầy” nếu quả thật thầy có phép làm cho bọn nó sống lâu muôn tuổi, hoặc nếu bọn chúng muốn cho thầy lên đường thì phải ăn năn sám hối, chừa thú tánh, chừa ăn thịt người từ đây. Và rốt cuộc Tam Tạng cải hóa được bọn chúng. Hơn một ngàn ba trăm năm trước đây dám một người một ngựa vượt suối trèo non, băng sa mạc, càn rừng sâu đi đến xứ Ấn Ðộ huyền bí xa xăm, Trần Huyền Trang quả là một nhà du thám vĩ đại trong lịch sử. Kỳ công đó, tinh thần nghị lực đó, người đời sau không thể không nghiêng mình bái phục.

Trong thời gian mười ba năm lưu trú tại Ấn Độ, thầy đi viếng hầu hết các di tích của đạo Phật, đặc biệt nhất là thầy ở lại chùa Na Lan Ðà, học đạo trong sáu năm. Tất cả những kinh điển của phái Ðại Thừa, Tiểu Thừa, Kinh Phệ đà (Veda), các sách thuốc, sách thiên văn, địa lý, kỹ thuật v v… đều tập trung tại chùa này. Chùa do pháp sư Giới Hiền chủ trì và pháp sư có đến trên mười ngàn tín đồ theo học đạo.

Sau sáu năm học tập, Huyền Trang trở nên một trong ba người học trò giỏi nhất của vị cao tăng Giới Hiền. Theo sách khảo cứu Pháp văn, chẳng những là một nhà sư đạo đức, Huyền Trang còn tỏ ra là một học giả uyên thâm, một nhà du thám kỳ tài, một nhà sử học uyên bác, một nhà địa lý học chơn tài, một nhà ngôn ngữ học xuất chúng, nhứt là một nhà phiên dịch giỏi không ai bằng. Lúc còn ở Tây Phương, đi đến đâu, thầy cũng nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình từng địa phương. Khi về Trường an, thầy viết lại thành bộ Ðại Ðường Tây Vực Ký, gồm 12 quyển, trong ấy ghi lại đầy đủ lịch sử, địa lý, phong tục, tập quán v.v. của 128 nước đã trải qua hoặc từng trú ngụ. Ngày nay, những tài liệu của Thầy để lại vẫn còn giúp ích rất nhiều cho các chuyên gia khảo cổ Ấn Ðộ và bất kỳ ai ngày nay cũng công nhận những điều nghe thấy và ghi chép của Thầy Huyền Trang rất là đích xác.

Từ ngày về Trường an, thầy Huyền Trang bắt tay vào công việc phiên dịch. Suốt mười chín năm ròng rã (từ 645-644) thầy dịch được tất cả bẩy mươi lăm bộ kinh, gần một ngàn ba trăm ba mươi lăm quyển từ Phạn tự dịch qua Hán tự và một bộ (Ðạo Đức Kinh) và một bản dịch “Ðại Thừa khởi tín luận” từ chữ Hán ra chữ Phạn, cùng để lại cho đời một bộ “Ðại Ðường Tây Vực ký” .

Trưa ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, Thầy Huyền Trang gác bút nghìn thu tại chùa Ngọc Hoa, vì bịnh hoạn và già yếu. Thọ 69 tuổi. Ngày 14 tháng 4 thi hài Huyền Trang được an táng tại Bạch Lộc Nguyên. Ngày cử hành tang lễ có đến một triệu ngườì ở Trường An và các vùng lân cận qui tựu để tiễn chân thầy về nơi Cực Lạc. Ðám táng xong, có đến ba vạn người cất lều cư tang gần mộ phần. Từ xưa đến nay chưa có vị đế vương nào được ngưỡng mộ sùng bái bằng vị Thánh Tăng có một không hai này.”

(***) Lược sử về ngài Trần Huyền Trang, bài viết của TS. Huệ Dân ngày 31 tháng 1 năm 2011, đăng trên Đạo Phật ngày nay.

(****) Thiền sư Khương Tăng Hội, sơ tổ thiền tông Việt Nam và Trung Hoa, người có cha Ấn và mẹ Việt, xuất gia rất sớm và trụ trì ở Luy Lâu (Bắc Ninh ngày nay) và Kiến Nghiệp Đông Ngô (Nam Ninh ngày nay) vào thế kỷ thứ III trước cao tăng Huyền Trang khoảng 300 năm. Không rõ Thiền sư Khương Tăng Hội đã đến Tây An và Yên Kinh chưa?

TRUNG QUỐC MỘT SUY NGẪM

Thế giới trong mắt ai
Trung Nga với Trung Á
Vành đai và con đường
Trung Quốc một suy ngẫm

Đường trần thênh thênh bước
Đỉnh xanh mờ sương đêm
Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Hạnh Phúc vui kiếm tìm.

Sáng tạo và Công nghệ
Vành đai và con đường
Gia Cát Mã Tiền Khóa
Bình sinh Tập Cận Bình

Hồ Khẩu trên Hoàng Hà
Đại tuyết thành băng giá
Thế nước và thời trời
Rồng giữa mùa biến hóa.


Sương giáng đời luân chuyển
Thế lớn đang xoay vần
Hi vọng của hạnh phúc
Việt Nam con đường xan
h

Tuyết rơi trên Vạn Lý
Trường Thành bao đổi thay
Ngưa già thương đồng cỏ
Đại bàng nhớ trời mây.


Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ
Đầy trời hoa tuyết bay.

Đến Thái Sơn nhớ Người
Khổng Tử dạy và học
Kho báu đỉnh Tuyết Sơn
Huyền Trang tháp Đại Nhạn


Tô Đông Pha Tây Hồ
Đỗ Phủ thương đọc lại
Hoa Mai thơ Thiệu Ung
Ngày xuân đọc Trạng Trình


Quảng Tây nay và xưa
Lên đỉnh Thiên Môn Sơn
Ngày mới vui xuân hiểu
Kim Dung trong ngày mới

Lời dặn của Thánh Trần
Bình sinh Mao Trạch Đông
Bình sinh Tập Cận Bình
Thế giới trong mắt ai

Vành đai và con đường
Trung Nga với Trung Á
Con đường tơ lụa mới
TQ mộng China Dream

Sáng tạo và Công nghệ
Lúa siêu xanh Hòa Bình
Lúa cao cây Trung Quốc
Đi bộ trong đêm thiêng

Lên Thái Sơn hướng Phật
Lúa siêu xanh Việt Nam
Lên đỉnh Thiên Môn SơnĐường xuân theo chân Bác

Việt Nam con đường xanh
Trung Quốc thời ông Tập
Đi thuyền trên Trường Giang
An vui cụ Trạng Trình


Đường xuân đời quên tuổi
Trời nhân loại mênh mông

Thế sự bàn cờ vây
Bài đồng dao huyền thoại

*

Côn Lôn Thơ Mao Trạch Đông
Niệm Nô Kiều, Mao Trạch Đông
https://www.facebook.com/watch?v=647741297466362
Bản dịch tiếng Việt: Hoàng Trung Thông, Nam Trân

Dọc ngang trời đất
Ngút Côn Lôn thấy khắp cõi đời xuân sắc
Cuộn bay rồng ngọc ba trăm vạn
Khuấy cả bầu trời lạnh ngắt

Mùa hạ tuyết tan
Hai sông tràn ngập
Lắm kẻ thành cá tôm
Công tội nghìn năm
Ai đã cùng ngươi chỉ vạch?

Mà nay ta bảo Côn Lôn:
Không cần quá cao, không cần bấy nhiêu tuyết
Sao tựa được trời rút bảo kiếm
Đem ngươi chặt làm ba khúc?
Một gửi Châu Âu
Một tặng Châu Mỹ
Một trả về Đông quốc
Thế giới thái bình
Ấm lạnh chung đều quả đất



















Niệm nô kiều – Côn Lôn

Hoành không xuất thế,
Mãng Côn Lôn, duyệt tận nhân gian xuân sắc.
Phi khởi ngọc long tam bách vạn,
Giảo đắc chu thiên hàn triệt.
Hạ nhật tiêu dung,
Giang Hà hoành dật,
Nhân hoặc vi ngư miết.
Thiên thu công tội,
Thuỳ nhân tằng dữ bình thuyết?


Nhi kim ngã vị Côn Lôn:
Bất yếu giá cao, bất yếu giá đa tuyết.
An đắc ỷ thiên trừu bảo kiếm,
Bả nhữ tài vi tam tiệt?
Nhất tiệt di Âu,
Nhất tiệt tặng Mỹ,
Nhất tiệt hoàn Đông quốc.
Thái bình thế giới,
Hoàn cầu đồng thử lương nhiệt.


Trung Quốc một suy ngẫm là 36 đường dẫn các chuyện kể ghi chép về đất nước con người Trung Quốc xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/trung-quoc-mot-suy-ngam/ Chúng tôi lắng đọng những bàn luận của các cụ Phan Chí Thắng, Nguyễn Quốc Toàn, Li Li Nghệ , …, Trần Đăng Khoa “Tào lao với Lão Khoa”, phiếm đàm nhưng sự thật là việc quốc kế dân sinh, nói vui là ‘tào lao’ nhưng hay và nghiêm cẩn.

Chuỗi thông tin tham khảo: Việt Nam lịch sử 4000 năm https://youtu.be/Kk0tFs6TcGU; 小陈-Khám Phá Trung Quốc https://www.facebook.com/watch/khamphatrungquoc1/ ; Tây Tạng dã sử truyện https://youtu.be/BsN5IHrm_k8; Trung Quốc dã sử truyện https://youtu.be/pa-MmKd7vyo; Nước Lào dã sử truyện https://youtu.be/GIqjqDZ2HqA; Cham pa dã sử truyện https://youtu.be/GIqjqDZ2HqA; Quảng Tây nay và xưa https://hoangkimlong.wordpress.com/category/quang-tay-nay-va-xua/; KimYouTube https://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam; Trung Quốc một suy ngẫm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/trung-quoc-mot-suy-ngam/; Thế giới trong mắt ai https://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-gioi-trong-mat-ai/; Tỉnh thức cùng tháng năm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam;

Cụ Phan Chí Thắng phiếm đàm: Các quan lớn luôn có sân sau, hoạt động kinh tế dưới tên vợ con em út. Một tay ký chủ trương chính sách, tay kia tha hồ vơ tiền.

Vì cùng chung thể chế chính trị, nhiều năm qua Việt Nam thường “học tập kinh nghiệm” của Trung Quốc. Tất nhiên ai có gì hay ta cũng nên học. Trung Quốc có đả hổ diệt ruồi, sau đó ta có lò thiêu tham nhũng.

Dể diệt trừ tận gốc nạn tham nhũng cần những giải pháp mang tính hệ thống. Trong khi hệ thống chưa thay đổi, những biện pháp đả hổ diệt ruồi vẫn có ý nghĩa tích cực nhất định.

Đêm qua mưa to, lão Hâm tôi dậy mở các cửa sổ đón không khí mát dịu. Rồi không ngủ lại được, nằm suy nghĩ:

– Bao giờ Việt Nam ta có quy định như Trung Quốc không cho vợ con quan chức làm kinh tế?

– Quy định thế thì còn ai chạy chức chạy quyền nữa? Các quan về hết làm dân thì ai lãnh đạo đất nước?

Hôm kia chị gái Nguyễn Đức Chung nộp mười mấy tỉ thay em trai để khắc phục hậu quả nhằm giảm nhẹ tội. Bà chị lấy đâu ra lắm tiền thế, có phải là nhờ ông em một thời làm Chủ tịch Hà Nội?

Trần Đăng Khoa viết đúng sự thật của Trung Quốc ngày nay: “Trung Quốc là một nước phát triển rất hùng mạnh về tất cả mọi lĩnh vực, trong đó có truyền thông, thông tin. Thế kỷ XXI này là Thế kỷ Trung Quốc. Ở đâu cũng truy cập được internet, nhưng tiếc ở đó không dùng được Email, Google, Blog và cả Facebook. Vì thế, tôi như kẻ lạc rừng. Trung Quốc có gần trăm kênh truyền hình. Kênh nào cũng rất đẹp. Nhưng toàn truyền hình nội bộ của các tỉnh thành Trung Quốc, tuyệt không có một kênh nào của nước ngoài.” “Đúng là chúng tôi cũng còn nhiều hạn chế. Chúng tôi đang mở cửa. Nhưng mở cửa theo quy trình. Mở cửa từng bước…”. Sự đánh giá này của Khoa về Trung Quốc trong sự quản lý xây dựng, giao thông, du lịch văn hóa cũng thật chí lý: “Cái chúng ta còn phải phấn đấu để vươn tới thì Trung Quốc lại có cả một kho kinh nghiệm. Nói như một đồng chí ở Đại sứ quán ta, Trung Quốc có một đội ngũ cán bộ lãnh đạo rất giỏi. Ngay một cán bộ ở địa phương cũng có tầm nhìn của trung ương. Lấy tư duy của trung ương để xử lý cả những việc cỏn con ở cơ sở. Vì thế họ có được sự đồng bộ và nhất quán xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương. Chúng tôi qua Lệ Giang rồi Đại Lý, một thành phố cổ của Trung Quốc ở tỉnh Vân Nam. Thành phố này đã bị phá hủy vào năm 1996 trong trận động đất 7,5 độ richte. Vậy mà họ vẫn khôi phục lại được. Một thành phố rất đẹp, cổ kính. Nhiều ngôi nhà dựng lại mà trông cổ kính như có tuổi thọ hàng ngàn năm tuổi. Phải nói là rất tài. Trung Quốc là thế đấy. Họ kỹ lưỡng đến từng chi tiết nhỏ. Bởi thế, Trung Quốc là đất nước của du lịch. Thành phố nào cũng có những vẻ đẹp bí ẩn khiến người ta muốn chiêm ngưỡng, khám phá. Đó là những vẻ đẹp không chỉ chinh phục du khách nước ngoài mà còn có thể mê hoặc được cả chính người dân Trung Quốc. Chỉ riêng khách du lịch Trung Quốc cũng đã đủ “nuôi” ngành du lịch Trung Quốc rồi.

Tôi thích văn phong của Khoa “giản dị, xúc động, ám ảnh” và lối viết tưng tửng nhưng rất sát sự thật. Dẫu vậy, tôi thấy có điều đánh giá này cần phải đàm luận: Khoa đã nói: “Trung Quốc to mà vẫn không lớn. Vì rất không đàng hoàng. Ông bạn này cứ như một anh hàng xóm rất giàu có nhưng lại có cái tính rất khó chịu là cứ thích ăn cắp vặt. Nhà có hàng núi vàng, nhưng vẫn thích thó của những anh hàng xóm trái cam hay quả trứng gà. Nếu không lấy được thì khó chịu. Cái việc họ lấn đất, lấn biển lấn đảo cũng thế. Giả thiết nếu không có mấy hòn đảo ăn cắp, hay cả Biển Đông nữa, họ vẫn cứ lớn, vẫn giầu có, ở không ít mặt họ còn vượt cả Nga, cả Mỹ. Thế mà vẫn cứ càm cắp những thứ bé hin hin chẳng phải của mình. Khó chịu là thế!“.

Theo tôi thì nói như vậy lập luận vậy là đúng mà chưa rõ. Tôi thích lối lập luận của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm hơn. Cụ Trạng nói: Muốn BÌNH sao chẳng lấy nhân. Muốn An sao lại bắt dân ghê mình?” . “Mấy hòn đảo ăn cắp, hay cả Biển Đông nữa” sao có thể coi là nhỏ khi so sánh 2,5 triệu kilomet vuông kinh tế biển với 9,3 triệu kilomet vuông đất liền? Trung Quốc ngày nay có luận thuyết Trung Nam Hải, “nắm vững Trung, hướng về Nam, tranh chấp Hải” đó là luận thuyết “biển lịch sử”, là cửa “sinh đạo” của Trung Quốc trong Dịch lý, ngược hướng với “Tử Cấm Thành”. Thuyết này là khâu trọng yếu của ‘giấc mộng Trung Hoa vành đai và con đường’ để Trung Hoa trỗi dây, đâu có thể lấy lý lẽ ‘trộm vặt’ ‘ăn cắp vặt’ để lý giải, mà cần là một hệ thống lý luận sâu hơn.

Tôi thích minh triết Hồ Chí Minh, ‘Bình Ngô’ của cụ Nguyễn Trãi, ý thơ của cụ Trạng Trình, Nguyễn Du, Giáp Hải và triết lý của Engels hơn.

Minh triết Hồ Chí Minh khác sự diễn đạt trên. Bác Hồ là người ở bên cạnh Borodin tại Trung Quốc thời thống chế Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch bắt đầu thò ra “đường chín đoạn” khởi đầu của tầm nhìn học thuyết mà sau này chủ tịch Trung Quốc phát triển thành chủ thuyết “Trung Nam Hải” và “biển lịch sử” “nắm vững Trung, hướng về Nam, tranh chấp Hải”. Bác Hồ không nói nhưng lại để cho anh trai là Nguyễn Tất Đạt kể chuyện cho Sơn Tùng để đăng trên báo Cứu Quốc năm 1950 kể về lời đồng dao huyền thoại:

“Biển là ao lớn
Thuyền là con BÒ
Thuyền ăn gió no
Lội trên mặt nước
Em trông thấy trước
Anh trông thấy sau
Chúng ta lớn mau
Vượt qua ao lớn.”

(Thơ Nguyễn Sinh Cung, rút trong tập”Tất Đạt tự ngôn, Sơn Tùng công bố và Báo Cứu Quốc phát hành)

‘Bình Ngô’ của cụ Nguyễn Trãi viết rất hay, là tuyên ngôn độc lập của Việt Nam:

Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.”

(Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, do Ngô Tất Tố dịch)
Tôi thích minh triết Hồ Chí Minh, ‘Bình Ngô’ của cụ Nguyễn Trãi, ý thơ của cụ Trạng Trình, Nguyễn Du, Giáp Hải và triết lý của Engels hơn.

Minh triết Hồ Chí Minh khác sự diễn đạt trên. Bác Hồ là người ở bên cạnh Borodin tại Trung Quốc thời thống chế Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch bắt đầu thò ra “đường chín đoạn” khởi đầu của tầm nhìn học thuyết mà sau này chủ tịch Trung Quốc phát triển thành chủ thuyết “Trung Nam Hải” và “biển lịch sử” “nắm vững Trung, hướng về Nam, tranh chấp Hải”. Bác Hồ không nói nhưng lại để cho anh trai là Nguyễn Tất Đạt kể chuyện cho Sơn Tùng để đăng trên báo Cứu Quốc năm 1950 kể về lời đồng dao huyền thoại:

“Biển là ao lớn
Thuyền là con BÒ
Thuyền ăn gió no
Lội trên mặt nước
Em trông thấy trước
Anh trông thấy sau
Chúng ta lớn mau
Vượt qua ao lớn.”

(Thơ Nguyễn Sinh Cung, rút trong tập”Tất Đạt tự ngôn, Sơn Tùng công bố và Báo Cứu Quốc phát hành)

‘Bình Ngô’ của cụ Nguyễn Trãi viết rất hay, là tuyên ngôn độc lập của Việt Nam:

Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.”

(Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, do Ngô Tất Tố dịch)

Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì thông điệp ngoại giao nhắn gửi con cháu về lý lẽ giữ nước thật thông suốt ” Biển Đông vạn dặm giang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững trị bình”. (Vạn lý Đông minh quy bá ác Ức niên Nam cực điện long bình). Từ xưa đến nay, điều nhân là vô địch, Cần gì phải khư khư theo đuổi chiến tranh. Cổ lai nhân giả tri vô địch, Hà tất khu khu sự chiến tranh) Nếu nhà vua có bó đuốc sáng thì nên soi đến dân ở nơi nhà nát xóm nghèo (Quân vương như hữu quang minh chúc, ủng chiếu cùng lư bộ ốc dân) Trời sinh ra dân chúng, sự ấm no, ai cũng có lòng mong muốn cả. Muốn bình sao chẳng lấy nhân. Muốn an sao lại bắt dân ghê mình. Đạo lý, Dịch lý, Ẩn ngữ Việt thật sâu sắc thay !

Nguyễn Du trong uẩn khúc lịch sử Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn, Vua Càn Long sau thất bại nặng nề của nhà Thanh trong chiến tranh với Tây Sơn đã sai danh tướng Phúc Khang An thay thế Tôn Sĩ Nghị làm Tổng đốc Lưỡng Quảng định điều động thêm 50 vạn quân để ứng chiến vùng biên giới phía Nam nhưng nhà Thanh đang phải đối mặt với một vấn đề đặc biệt cơ mật và tối quan trọng tại Tây Tang là kho vàng tại tu viện Mật Tông bị quân Khuếch Nhĩ Khách Mông Cổ dòm ngó tấn công.Trong khi, nước Nam Nguyễn Huệ anh dũng thiện chiến không thể xem thường nên vua Càn Long lựa ý hòa hoãn với nhà Tây Sơn và tặng áo cho Nguyễn Huệ, sau đó đã dùng kế dập tắt hi vọng phục quốc của vua nhà Hậu Lê và các trung thần. Vua Càn Long viết.

Nước Phiên đến lúc ta đi tuần
Mới gặp mà như đã rất thân
Nước Tượng chưa từng nghe triều cận
Việc cống người vàng thật đáng khinh
Nhà Thanh coi trọng việc đi sứ
Chín đạo thường có đạo vỗ yên
Xếp võ tu văn thuận thiên đạo
Đại Thanh còn mãi vạn ngàn xuân.

Nguyễn Du kiệt tác thơ chữ Hán chạm thấu những vấn đề sâu sắc nhất của tình yêu thương con người và nhân loại các giá trị sử thi văn hóa ngoại giao xuất chúng có một không hai. Lời nhận xét của giáo sư Mai Quốc Liên “Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa”. Nguyễn Du kiệt tác thơ chữ Hán “Kỳ Lân mộ” .

Kỳ Lân Mộ
Nguyễn Du

Phương Chi Yên Đệ người thế nào?
Cướp ngôi của cháu, đồ bất nhân.
Mỗi khi nổi giận giết mười họ,
Cổn to vạc lớn hại trung thần
Năm năm giết người hơn trăm vạn
Xương chất thành núi máu chảy tràn
Nếu bảo thánh nhân Kỳ Lân xuất
Buổi ấy sao không đi về Nam?

Nguyên văn chữ Hán

Hà huống Yên Đệ hà như nhân
Đoạt điệt tự lập phi nhân quân
Bạo nộ nhân sinh di thập tộc
Đại bỗng cự hoạch phanh trung thần
Ngũ niên sở sát bách dư vạn
Bạch cốt thành sơn địa huyết ân
Nhược đạo năng vị Thánh nhân xuất
Đương thế hà bất Nam du tường?

“Kỳ Lân mộ” được công bố vào năm Quý Dậu (1813) khi Nguyễn Du làm Chánh sứ của đoàn sứ thần nhà Nguyễn sang thông hiếu với nhà Thanh năm Gia Long thứ 12 và Gia Khánh thứ 17. “Kỳ Lân mộ” là văn kiện ngoại giao “ý tại ngôn ngoại” thể hiện quan điểm và đường lối chính trị của Việt Nam triều Nguyễn. “Kỳ Lân mộ” lấy từ điển tích đã được ghi trong chính sử:  “Năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406) có con Kỳ Lân xuất hiện ở Nam Dương. Quan trấn sai mang lên Bắc Kinh dâng Minh Thành Tổ. Nào ngờ đến đây Kỳ Lân chết. Viên quan sai chôn ở đây và lập bia để ghi lại chuyện đó. Mộ bị mưa gió san phẳng còn lại tấm bia này.” Nguyễn Du dùng bài thơ này để dâng lên vua Càn Long tỏ rõ chính kiến và thông điệp ngoại giao  khéo gửi vua Càn Long và vua Gia Khánh. Bài thơ căm phẫn mắng chửi thẳng Yên Đệ Minh Thành Tổ là đồ bất nhân không xứng đáng là một ông vua. Yên Đệ  Minh Thành Tổ là một nhân vật lịch sử nổi bật của Trung Quốc. Sử gia Trung Quốc cho đến nay vẫn gọi Minh Thành Tổ là Vĩnh Lạc Đế hay Vĩnh Lạc đại đế là một trong các Hoàng đế kiệt xuất nhất của triều đại nhà Minh và lịch sử của Trung Quốc. Thời kỳ của Yên Đệ được ca ngợi gọi là Vĩnh Lạc thịnh thế, khiến nhà Minh phát triển đỉnh cao về quyền lực trong lịch sử. Nguyễn Du qua tác phẩm “Kỳ Lân mộ” trong Bắc Hành tạp lục, đã mắng thẳng Yên Đệ Minh Thành Tổ chẳng phải là minh quân mà là kẻ bá đạo dẫu có giành được ngai vàng, xô lệch lịch sử, thắng được cuộc chiến. cướp được nước người, xóa được di sản, nhưng không thể đoạt được lòng người, bia miệng muôn đời vẫn lưu tiếng xấu.

Giai thoại “Bài thơ vịnh bèo“ của Giáp Hải cũng ẩn chứa thông điệp ngoại giao sâu sắc. Năm Đinh Dậu, nhà Minh mư­ợn cớ phò Lê diệt Mạc đã sai đô đốc Cừu Loan và tư­ớng Mao Bá Ôn đem quân tiến vào ải Pha Luỹ. Mao Bá Ôn gửi chiến thư và bài thơ Bèo :

Mọc theo ruộng n­ước hóp như­ kim
Trôi dạt lênh đênh chẳng đứng im
Nào có gốc sâu, nào có lá
Dám sinh cành nhánh, dám sinh tim
Tụ rồi đã chắc không tan tác
Nổi đó nào hay chẳng đắm chìm
Đến lúc trời cao bùng gió dữ
Quét về hồ bể hẳn khôn tìm

Nguyên văn chữ Hán
Tuỳ điền trục thuỷ mạc ­ương châm
Đáo xứ khan lai thực bất thâm
Không hữu căn miêu không hữu diệp
Cảm sinh chi tiết, cảm sinh tâm
Đồ chi tụ sứ ninh chi tán
Đản thức phù thời ná thứ­c trầm
Đại để trung thiên phong khí ác
Tảo quy hồ hải tiện nan tầm.

Trạng nguyên Giáp Hải chịu mệnh vua Mạc Đăng Dung lên biên ải tiếp sứ đã họa đáp:

Ken dầy vải gấm khó luồn kim
Rễ lá liền nhau, động vẫn im
Tranh với bóng mây che mặt n­ước
Chẳng cho tia nắng rọi xuyên tim
Sóng dồi muôn lớp thư­ờng không vỡ
Gió táp ngàn cơn cũng chẳng chìm
Nào cá nào rồng trong ấy ẩn
Cần câu Lã Vọng biết đâu tìm.

Nguyên văn chữ Hán
Cẩm lâm mật mật bất dung châm
Đái diệp liên căn khởi kế thâm
Thư­ờng dữ bạch vân tranh thuỷ diện
Khẳng giao hồng nhật truỵ ba tâm
Thiên trùng lãng đả thành nan phá
Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm
Đa thiểu ngư­ long tàng giá lý
Thái công vô kế hạ câu tầm.

Mao Bá Ôn và Cừu Loan tiếp thư của Trạng nguyên Giáp Hải, bàn bạc với nhau, nhận định rằng nư­ớc Nam có thực lực, ch­ưa thể nuốt trôi đư­ợc, nên lặng lẽ có trật tự cho lui binh về.

Engels triết gia người Đức trong học thuyết Mác Engels cũng nói: “Tự do là cái nhìn sâu sắc vào sự cần thiết.” (Engels 1878. freedom is the insight into necessity. Anti-Dühring, pt. 1, ch. 11). “Nền kinh tế hay khoa học làm giàu sinh ra ghen tị lẫn nhau và sự tham lam của các thương gia chính trị này, mang trên trán của nó là dấu hiệu của sự ích kỷ đáng ghét nhất.”. (This political economy or science of enrichment born of the merchants’ mutual envy and greed, bears on its brow the mark of the most detestable selfishness. Outlines of a Critique of Political Economy (1844).

Nhiều người dân Trung Quốc lương thiện trung hậu khác với một cộng đồng ‘diều hâu’ toan tính trỗi dậy bá quyền. Trung Quốc mộng tạo dựng một đế quốc Á Châu với cam kết ‘Trung Quốc sẽ không áp đặt QUÁ KHỨ BI THẢM CỦA CHÍNH HỌ lên các quốc gia khác’ ‘ Nhân dân Trung Quốc kiên trì theo đuổi các mối giao thiệp hữu hảo với toàn bộ các quốc gia khác”. “Giấc mộng Trung Hoa vành đai và con đường” là một thế lực phi chính thức và phần lớn dựa vào kinh tế để cố kết cơ sở hạ tầng cứng thuộc vòng ảnh hưởng của Trung Quốc mà Mỹ , Nga, cộng đồng châu Âu EU, cộng đồng Hồi giáo buộc phải tôn trọng. Họ mở cửa từng phần cũng vì dân trí có tốt có xấu. Việt Nam tự cũng cố, ‘dĩ bất biến ứng vạn biến’.

Tom Miller có chuyên khảo công phu “Giấc mộng châu Á của Trung Quốc” nói về Donald Trump, Tập Cận Bình và Putin. Nguyễn Trần Bạt có bài viết “Donald Trump, Tập Cận Bình và Putin đang tháo ra để lắp lại nền chính trị thế giới”, Các nguyên thủ nước lớn hiện đang là tiêu điểm tầm nhìn đầy lo âu, hi vọng của nền chính trị lớn thế giới và tất cả cộng đồng nhân loại. Chúng ta nhớ lại thông điệp sau cùng của cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama cuối năm 2016 về bức tranh tối tương lai thế giới đầy lo âu hơn: “Tôi muốn kết luận lại bài diễn văn của mình bằng cách nói rằng tôi thừa nhận lịch sử đang kể một câu chuyện rất khác câu chuyện tôi nói ngày hôm nay. Chúng ta đã chọn một cái nhìn lịch sử đen tối hơn và đầy hoài nghi hơn. (Let me conclude by saying that I recognize history tells a different story than the one that I’ve talked about here today. There’s a much darker and more cynical view of history that we can adopt).

‘Tào lao với Lão Khoa’ về Trung Hoa, trước đây khi được hỏi, tôi đã nêu lên chính kiến của mình “Ba đặc khu liệu có đột phá?” theo tôi là “không”. Ba đặc khu đang dự định thành lập chỉ thích hợp cho phát triển du lịch, cơ sở nghỉ dưỡng, dịch vụ vui chơi, giải trí… Và do đó, không cần đưa ra các ưu đãi vượt trội về thuế, về quyền thuê đất lâu dài. Đó là một câu chuyện khác. Một dân tộc truyền kiếp bị đối xử không bình đẳng thì độc lập, tự do, hạnh phúc là điểm tương đồng sâu sắc nhất Việc hợp tác quyền biến ‘dĩ bất biến ứng vạn biến’ nhất thiết không được rơi vào “bẫy nợ” và không được phạm sai lầm. Các sinh lộ Bắc Nam Đông Tây cùng những vị trí hiểm yếu nhậy cảm về an ninh quốc phòng kinh tế văn hóa đời sống dân sinh cần tự mình xây dựng với hiền tài Việt Nam có tư vấn quốc tế. Luật đầu tư và hợp tác bền vững thành thực cần kết nối lĩnh vực hợp tác nghiên cứu phát triển trọng điểm hướng tới chén cơm ngon người dân, lao động, việc làm, an sinh xã hội và giáo dục đào tạo nguồn lực con người hiền tài để phát huy sự tương đồng văn hóa. Hợp tác với Trung Quốc nên hướng vào xây dựng cải tiến chuỗi giá trị ngành hàng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp du lịch sinh thái, giao lưu ngôn ngữ văn hóa, giáo dục dưỡng sinh đông tây y kết hợp, đào tạo nguồn lực, phát triển hiệu quả bền vững, đi đôi bảo vệ môi trường, tiến bộ công bằng xã hôi.

Hôm nay, khi bàn luận với ít người bạn quý, tôi lưu lại ý kiến của anh Bùi Quý Thuấn (CTV-VAECA VN Châu Phi) và anh Bùi Bá Bổng (nguyên Thứ trưởng Bộ NNPTNT) để suy ngẫm. Anh Búi Quý Thuấn viết

SUY NGẪM VỀ TRUNG QUỐC “Trung Quốc – như ít quốc gia nào trong thế giới hiện tại – bên cạnh tất cả những vấn đề trên, đã có khả năng kết hợp chính sách thay đổi hệ thống (chuyển đổi) với chính sách phát triển. Không dâng người này lên bàn thờ người kia, không phụ thuộc vào bất cứ một chủ nghĩa giáo điều nào, mà một cách hết sức thực dụng – không phụ thuộc vào những lời lẽ hoa mỹ chính thức – và rất hiểu biết, Trung Quốc đã sáng tạo và sử dụng sự hợp lực của cả hai quá trình quyết định sự thành của một thay đổi lớn. Những cải tổ của Trung Quốc không bị lỡ chuyến tàu của giai đoạn toàn cầu hóa đương đại đang rời ga. Đất nước đông dân này biết giành lấy toàn cầu hóa cho mình – để có lợi cho nền kinh tế quốc dân, cho các công ty của Trung Quốc và cho các công dân của mình. Trung Quốc đã mở cửa với những rủi ro tiềm ẩn đi liền với việc tham gia vào cuộc chơi kinh tế toàn cầu và sẵn sàng trả giá để đạt được lợi ích tối đa riêng. Trung Quốc đã đầu tư một cách hoàn hảo vào nhu cầu của phần còn lại của thế giới đối với tài nguyên của Trung Quốc, đặc biệt là nguồn nhân lực, và kéo theo đó là sản phẩm do những người này tạo ra. Trung Quốc đã thu hút một cách tài tình nguồn tiết kiệm từ nước ngoài, tạo điều kiện để nguồn tiền này chảy vào những đầu tư trực tiếp với vai trò của người đưa tiến bộ kỹ thuật vào ứng dụng thực tế trong khi bản thân mình thì tích lũy nguồn tài chính dự trữ khổng lồ. Thay vì cho phép chấp nhận một cách dễ dãi hệ thống bán lẻ hứa hẹn sinh lợi cao của nước ngoài vào lãnh thổ mình, thì Trung Quốc lại khuyến khích họ đầu tư vào các dân chuyền sản xuất như một sự tiếp nhận tiến bộ công nghệ bằng chính sách của mình. Về phần mình, bằng nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào, Trung Quốc nhanh chóng mua lại các mảng của hệ thống bán lẻ đó và khu vực tài chính của những nước giầu nhất thế giới, kể cả Hoa Kỳ. Chúng ta sẽ có không chỉ các chi nhánh ngân hàng của Tây Âu ở Trung Quốc mà còn có cả các chi nhánh ngân hàng của Trung Quốc ở Tây Âu, còn những đôi giày để chạy tốt nhất không phải là giầy Mỹ sản xuất tại Trung Quốc mà là giầy Trung Quốc sản xuất tại Mỹ. Rốt cuộc thì chính vì thế mà tỷ USD được dự trữ, chứ đâu phải để phòng xa. Mọi tai họa đều rơi lên đầu những người chạy theo học thuyết tân tự do chứ không phải lên đầu những người có chiến lược phát triển có ý nghĩa. Đấy là chưa nói đến trường hợp, nếu như họ có được chiến lược đó suốt 40 năm chứ không phải là 4 năm… [Kolodko, 2010]

Chỉ 26,2% người lao động có điều kiện ăn thịt, cá hàng ngàyTheo khảo sát của Tổng liên đoàn Lao động (LĐLĐ) Việt Nam, chỉ hơn 24% người lao động (NLĐ) có tiền lương và thu nhập vừa đủ đáp ứng chi tiêu cơ bản; có đến 75,5% NLĐ thu nhập không đáp ứng nhu cầu,

Kha Le Quy IAS Về giống lúa xuất khẩu có giá trị cao Hiện nay chúng ta có một cách hiểu chưa chính xác, vì sao Thái Lan, Campuchia có những giống lúa xuất khẩu đạt tới 1.000 USD nhưng Việt Nam không có. Xin thưa các giống lúa này là các giống lúa cổ truyền do ông cha họ để lại, mỗi năm chỉ trồng một vụ ở một số vùng nhất định và cho năng suất khoảng trên dưới 2 tấn/ha. Thái Lan hoặc Campuchia họ trồng lúa nước trời, không có thủy lợi nên duy trì các giống cổ truyền này. Ở Việt Nam, không thể trồng giống lúa năng suất thấp mỗi năm một vụ trên diện rộng vì như vậy sẽ không sản xuất đủ gạo và phải nhập khẩu nói gì đến xuất khẩu. Tuy nhiên như đã nêu trên, nếu khai thác lợi thế vùng tôm – lúa và vùng lúa mùa ở ĐBSCL để sản xuất lúa đặc sản sinh thái, lúa hữu cơ thì có khả năng đạt giá trị cao như giống cổ truyền của Thái Lan hoặc Campuchia. Điều cần học từ Thái Lan và Campuchia là chuỗi giá trị gạo của các giống lúa đem lại giá trị cao này họ làm rất tốt nên tạo được uy tín trên thị trường thế giới. [Tập tin: Bui Ba Bong Đề xuất về tái cơ cấu ngành lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long để phát triển bền vững.docx] Kha Le Quy IAS. Để trả lời cho một số câu hỏi của các chuyên gia mấy ngày vừa qua.15:14

*

Tôi đã đến Trung quốc nhiều lần, có mấy lần ăn cơm chung với nông dân trên núi cao và ngoài ruộng. Năm 1996, tôi có dịp khảo sát vùng khoai lang ở Sơn Đồng và Giang Tô và năm 2018 quay lại tự mình khảo sát so sánh nông nghiệp của chính vùng này, tận mắt và chính kiến nhìn nhận đánh giá. Năm 2014, tôi dạo chơi Thiên An Môn, Cố Cung, Di Hòa Viên, Thiên Đàn trong ngày Quốc tế Lao động, ngắm những nơi lưu dấu các di sản của những triều đại hiển hách nhất Trung Hoa, lắng nghe đất trời và các cổ vật kể chuyện. Tôi ngắm nhìn người nghệ sĩ nhân gian, vui cùng ông và đùa cùng trẻ thơ. Ngày trước đó, tôi vinh hạnh được làm việc với giáo sư Zhikang Li, trưởng dự án Siêu Lúa Xanh (Green Super Rice) chương trình nghiên cứu lúa nổi tiếng của CAAS & IRRI và có cơ hội tiếp cận nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc. Năm 2018 này, tôi lại có cơ hội tự mình đi du lịch bằng tàu cao tốc từ Bắc Kinh qua Thiên Tân đến Sơn Đông khảo sát nhanh nông nghiệp Trung Quốc, chuyến đi hơn 600 km chỉ hai tiếng. Những điều tôi được trực tiếp chứng kiến là tích cực và ấn tượng. Suốt dọc đường tới Thiên Tân và ba thành phố khác đến thành phố Thái An của Sơn Đông, tôi đã lưu được 5 video hình ảnh nông nghiệp Trung Quốc ngày nay để so sánh thấy được sự đổi thay cực kỳ ấn tượng của sản xuất nông nghiệp nước bạn.

Suy ngẫm từ núi Xanh (景山, Jǐngshān, Cảnh Sơn, Green Mount), ngọn núi địa linh của đế đô Bắc Kinh, suy ngẫm từ đỉnh núi Thái Sơn ở Sơn Đông, tôi tâm đắc lời nhắn gửi sâu xa của bậc hiền minh lỗi lạc Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Muốn bình sao chẳng lấy nhân / Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình” “Biển Đông vạn dặm giang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững thái bình) (Vạn lý Đông minh quy bá ác/ Ức niên Nam cực điện long bình). Suy ngẫm về cuộc cách mạng Xanh và đỉnh cao Hòa Bình. Chủ tịch Tập Cận Bình đang tiếp nối Tổng thống Tôn Trung Sơn để phát triển chủ thuyết liên Nga thân Việt trừ tà tứ toàn, một vành đai một con đường, ông cam kết những điều tốt đẹp với Việt Nam. Thế nhưng tại sao động thái tình hình thực tế của hai nước nhiều việc chưa tạo đủ niềm tin bạn hữu. Việt Nam tự cũng cố và trầm tĩnh theo dõi. Tôi sẽ còn viết tiếp câu chuyện Từ Mao Trạch Đông tới Tập Cận Bình.

Lời giáo sư Norman Borlaug văng vẳng bên tai tôi: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó.” Sự hiền minh lỗi lạc của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, và di sản vô giá của giáo sư Norman Borlaug cùng với các bậc Thầy về cách mạng xanh mãi mãi là niềm tin và nổ lực của chúng ta !

Trò chuyện Trung Quốc với Lão Khoa, tôi thích nói về một món ngon ở Bắc Kinh (hình). Đặc sản và biểu tượng của một vùng đất luôn thi vị trong lòng của người hành hương. Suốt mấy ngày ở Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, tôi thường chén món ngon này, như khi leo núi Thái Sơn thì ưa dùng món xúp ‘bát bửu’,  ‘khoai Hoàng Long” và “rượu Thái Sơn”.  “Thịt lợn kho Tàu Tô Đông Pha” là món ăn ngon nổi tiếng Hàng Châu, được đặt tên để vinh danh ông. Tô Đông Pha là một nhân vật quan trọng trong chính trị thời Tống, ông cùng Tư Mã Quang cựu tể tướng và sử gia danh tiếng thuộc phái “coi trọng đạo đức, lẽ phải, kỷ cương”, đối lập với chính sách mới “cường thịnh và phát triển lớn mạnh quốc gia bất chấp đạo lý” do Vương An Thạch chủ trương. Tô Đông Pha đã nổi tiếng là một nhà viết chính luận, các tác phẩm văn của ông đều đặc biệt sâu sắc, góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí và hiểu biết bách khoa thư, văn học du lịch Trung Quốc thế kỷ thứ 11. Thơ Tô Đông Pha nổi tiếng suốt lịch sử lâu dài, có tầm ảnh hưởng rộng lớn tại Trung Quốc, Nhật Bản và các vùng lân cận, cũng được biết đến trong phần nói tiếng Anh trên thế giới thông qua các bản dịch của Arthur Waley và các người khác. Về biểu tượng nghệ thuật, Tô Đông Pha được coi là nhân cách ưu việt của thế kỷ XI. Tôi đã từng chén “Thịt lợn kho Tàu Tô Đông Pha” ở Hàng Châu mà thương về hạt gạo làng ta còn chưa có thương hiệu Việt mạnh trên thị trường thế giới.

TRUNG QUỐC MỘT SUY NGẪM là một câu chuyện dài

Hoàng Kim và Hoàng Long đã có 20 ghi chú nhỏ (Notes), mỗi ghi chú là một đường link, được chép chung trong bài “Trung Quốc một suy ngẫm” ghi lại những ký ức về các chuyến du khảo Trung Hoa của chúng tôi, tạm coi là nhận thức luận của riêng mình. Ngoài ra còn có bài nghiên cứu lịch sử “Bình sinh Mao Trạch Đông” và “Bình sinh Tập Cận Bình“. Trung Quốc có nhiều nơi hiểm trở, núi cao vọi và sông vực sâu thẳm quanh co, có đủ các hạng người, có đủ chí thiện cực ác và minh sư. Nguyễn Du trăng huyền thoại gợi nhiều suy ngẫm. Bài này là các ghi chú nhỏ cho chính mình và chép tặng bạn đọc.

Mưa lũ lịch sử trong vòng 70 năm tại Trung Quốc: Mối liên hệ đáng sợ với Việt Nam (Triệu Quang/Dân Việt 7/2020)

TRUNG QUỐC MỘT SUY NGẪM
Hoàng Kim


Đập Tam Hiệp Chi Na một số thông tin & ý kiến (Ngô S Đồng Toản / FB 7/2020) Mưa lũ lịch sử trong vòng 70 năm tại Trung Quốc: Mối liên hệ đáng sợ với Việt Nam (Triệu Quang/ Dân Việt 7/2020). Học giả và chuyên gia môi sinh Trung Quốc lên tiếng về độ an toàn của các đập nước trong vùng địa chấn Tây Nam Trung Quốc kể cả Lan Thương (Mekong) (Phạm Phan Long /Viet Ecology Foundation 9/2009); ; Cảnh báo lũ tại đập Tam Hiệp. (Chris Gill/ Asia Times Financial 7/2020) Trung Quốc đối mặt với trận lụt tồi tệ nhất trong 70 năm sau nhiều tuần mưa lớn; thảm họa đã được tuyên bố ở 24 khu vực, bao gồm cả vùng thượng lưu của Dương Tử; 7.300 ngôi nhà đã bị sập và thiệt hại vượt quá 20,7 tỷ nhân dân tệ; Trung Quốc vận hành đập thủy điện khổng lồ cao hơn đập Tam Hiệp. Theo Reuter ngày 30 tháng 6 năm 2020, Trung Quốc bắt đầu vận hành đập thủy điện Ô Đông Đức là đập thủy điện lớn thứ tư ở nước này và là đập lớn thứ bảy trên thế giới, với chiều cao đập là 270m so với chiều cao 181m của đập Tam Hiệp.Trung Quốc một suy ngẫm (Hoàng Kim 7/2020 / https://hoangkimlong.wordpress.com/category/trung-quoc-mot-suy-ngam/)

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là suy-ngam-tu-nui-xanh-bac-kinh-1a.jpg

TRUNG QUỐC MỘT SUY NGẪM
Hoàng Kim

Trung Quốc câu chuyện ảnh
Trung Quốc một suy ngẫm

Hổ Khẩu trên Hoàng Hà Đại tuyết thành băng giá

Đường trần thênh thênh bước
Đỉnh xanh mờ sương đêm
Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Phước Đức vui kiếm tìm.

*

Lên Thái Sơn hướng Phật
Chiếu đất ở Thái An
Đi thuyền trên Trường Giang
Nguyễn Du trăng huyền thoại

Khổng Tử dạy và học
Đến Thái Sơn nhớ Người
Kho báu đỉnh Tuyết Sơn
Huyền Trang tháp Đại Nhạn

Tô Đông Pha Tây Hồ
Đỗ Phủ thương đọc lại
Hoa Mai thơ Thiệu Ung
Ngày xuân đọc Trạng Trình

Quảng Tây nay và xưa
Lên đỉnh Thiên Môn Sơn
Ngày mới vui xuân hiểu
Kim Dung trong ngày mới

Trung Quốc một suy ngẫm

lên Thái Sơn hướng Phật, cha con tôi có 17 notes trò chuyện về sự bàn luận của các học giả, nhà văn khả kính Việt Nam nói về Trung Quốc ngày nay. Đầu tiên là phiếm đàm của Trần Đăng Khoa bài viết về Trung Hoa “Tào lao với Lão Khoa” Tuy là nhàn đàm nhưng sự thực là những việc quốc kế dân sinh, tiếng là ‘tào lao’ mà thật sự nóng, hay và nghiêm cẩn. (xem tiếp…Trung Quốc một suy ngẫm)

THỔ NHĨ KỲ NGÀY NAY
Hoàng Kim
Thổ Nhĩ Kỳ và quốc phụ Ataturk, Thổ Nhĩ Kỳ nông nghiệp sinh thái; Thổ Nhĩ Kỳ với ‘vành đai và con đường’ là ba câu chuyện hôm nay

Kemal Atatürk (1881- 1938) được nhân dân nước cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ tôn vinh là Quốc phụ, nhà cách mạng, vị thống soái siêu việt Tổng thống đầu tiên Ông đã lãnh đạo Phong trào Dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ đấu tranh giành lại độc lập cho đất nước trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Sau khi thành lập chính phủ lâm thời tại Ankara, ông đã đánh bại lực lượng Đồng Minh. khai sinh nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. Ông là Tổng thống đầu tiên từ năm 1923 cho đến khi ông qua đời vào năm 1938. Tư tưởng thế tục và dân tộc, chính sách và lý thuyết của ông đã trở thành chủ thuyết Kemalism với khẩu hiệu nổi tiếng “hòa bình trong mỗi gia đình, hòa bình trên toàn thế giới” giúp đất nướcThổ Nhĩ Kỳ kế tục hiệu quả đế quốc Ottoman và trổi dậy mạnh mẽ thành cường quốc khu vực Trung Đông có vai trò vị trí chủ lực hiện nay trong NATO, mà ngày Mỹ Nga Trung Đức Anh Pháp đều tìm mọi cách liên thủ theo phương thức có lợi nhất. Thổ Nhĩ Kỳ cũng tìm mọi cách bảo tồn và phát triển bền vững theo phương thức riêng của mình.

Tôi có Rekai Akman và mấy người bạn ở Trung Đông, cũng từng có dịp ở đấy . Nay nhân chuyến đi Thổ Nhĩ Kỳ của vợ chồng PGS TS Trương Minh Dục, Trần Thị Thé là người thân cùng quê sang du lịch Thổ Nhĩ Kỳ mà trò chuyện , bàn luận về nghiên cứu giảng dạy lịch sử văn hóa. Trương Minh Dục là bạn học của tôi cùng quê thuở nhỏ. Anh là nhà sử học cẩn trọng có 12 đầu sách biên soạn chu đáo mà tôi thật ngưỡng mộ. Tôi háo hức theo dõi những điểm đến của anh chị để trò chuyện, bổ sung nhận thức về ba câu chuyên Thổ Nhĩ Kỳ mà tôi đã thao thức lâu nay 1) Thổ Nhĩ Kỳ và Quốc phụ Ataturk:.Vì sao dân Thổ Nhị Kỳ và các cường quốc Mỹ, Nga, Trung Quốc đều thật lòng ngưỡng mộ Kemal Ataturk như Washington, Pie Đại Đế, Tôn Trung Sơn? 2) Thổ Nhĩ Kỳ nông nghiệp sinh thái. Nông nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ đối sánh và sự hợp tác với Việt Nam? . Vì sao Quốc phụ Ataturk lại kiên quyết chuyển thủ đô từ Istanbul gần biển đến Ankara và ông đã đưa ra một loạt chính sách cải cách nông nghiệp kinh tế xã hội có tầm ảnh hưởng Thổ Nhĩ Kỳ sâu rộng và bền vũng đến vậy. Istanbul là thành phố lớn nhất, đồng thời là trung tâm kinh tế, văn hóa và lịch sử của Thổ Nhĩ Kỳ. Với dân số hơn 16 triệu người (2018), Istanbul là một trong số các vùng đô thị lớn nhất châu Âu và xếp vào một trong những thành phố đông dân nhất và thắng cảnh thế giới? Thủ đô Ankara hiện nay hiện đại và bền vững nông nghiệp du lịch sinh thái như thế nào trong chiến lượcvà tầm nhìn an ninh quốc gia? 3) Thổ Nhỉ Kỳ với vành đai và con đường. Thổ Nhĩ Kỳ tương đồng như thế nào với Việt Nam trong chiến lược của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình “thân Nga, bạn Ấn, mở rộng Á Âu Phi . Bài học lịch sử nào của Thổ Nhĩ Kỳ có thể vận dụng cho Việt Nam trong tình hình mới? ”

Hoàng Kim có người bạn cũ là Rekai Akman làm Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Biển Đen, địa chỉ ở 39 Sam Sun, Thổ Nhĩ Kỳ. là bạn học cùng lớp khá thân thuở cùng học ở CIMMYT với CIANO ở Mexico.Rekai Akman và tôi với thầy bạn trong lóp có tham gia một chuyến khảo sát miền Tây nước Mỹ tới ‘Hồ lớn Ciudad Obregon ba tỷ khối nước” (ảnh) mà tôi đã có dịp kể trong bài thơ Đi để hiểu quê hương . Rekai Akman cũng thích thơ. Quái dị là hai anh chàng của hai dân tộc khác biệt ngôn ngữ lại chưng thơ Việt ra đọc, và Akman khuyến khích tôi dịch sang tiếng anh để cu cậu sửa thơ thật vui vẻ. Tôi gắn thêm một ảnh liên tưởng sau này để thầy bạn trong cuộc cùng đọc miên man chuyện đời

Đi để hiểu quê hương
Hoàng Kim

Tạm biệt Oregon !
Tạm biệt Obregon California !
Cánh bay đưa ta về CIMMYT

Bầu trời xanh bát ngát
Lững lờ mây trắng bay
Những ngọn núi cao nhấp nhô
Những dòng sông dài uốn khúc
Hồ lớn Ciudad Obregon ba tỷ khối nước
Nở xòe như chùm pháo bông
Những cánh đồng mênh mông
Thành trăm hình thù dưới làn mây bạc
Con đường dài đưa ta đi
Suốt dọc từ Nam chí Bắc
Thành sợi chỉ màu chạy mút tầm xa…

Ơi vòm trời xanh bao la
Gọi lòng ta nhớ về Tổ Quốc
Ôi Việt Nam Việt Nam
Một vùng nhớ trong lòng ta tỉnh thức
Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương.

Chuyện Rekai Akman và tôi là khá thú vị. Chúng tôi cùng đến CIMMYT ngày 12 tháng 9 năm 1988 hai tuần trước khi nhập học để cày thêm tiếng Anh, luyện thêm kỹ năng nghe viết và đọc hiểu các từ chuyên môn, xử lý thông tin và học cách tự học, tự làm bài, và trả bài kịp thời trước khi dồn một khối lượng lớn kiến thức đậm đặc và rất tập trung trong một thời gian rất hạn hẹp nhưng cả hai chúng tôi ngoại ngữ khi ấy đều yếu.  Rekai Akman và tôi kết thân bất ngờ nhanh chóng vì những mẫu đối thoại ngắn mà tôi nhớ mãi. Hóa ra, đó là cách học hiệu quả, hướng thẳng đến nông nghiệp sinh thái và triết học lịch sử văn hóa của chính đất nước mình.

Hoàng Kim và Rekai Akman đứng cạnh nhau ở hàng thứ hai bìa trái . Chúng tôi là hai trong số người châu Á duy nhất tại lớp học Quản lý Trung tâm Trạm trại Nông nghiệp ở Trung tâm Nghiên cứu Ngô và Lúa mỳ Quốc tế (CIMMYT Experiment Station Management Trainees Cycle 1988-89). Người châu Á thứ ba là giáo sư tiến sĩ Hannibal Muhtar, người Lebanon quốc tịch Mỹ trong ảnh đứng hàng thứ hai ở vị trí thứ bảy trái qua. Thầy là Trưởng phòng huấn luyện của CIMMYT, trực tiếp phụ trách lớp học. Ban giảng huấn là các giáo sư danh tiếng của Đại học Mỹ, CIMMYT và Mexico đứng ở giữa hàng thứ hai và đầu với giữa hàng cuối. Ảnh chụp chung thiếu giáo sư Norman Borlaug, người vừa mới trở về CIANO. Lớp 17 người thì 2 người châu Á, 6 người ở châu Mỹ, 6 người ở châu Phi, 3 người ở Trung Đông. Hầu hết họ đều đã từng trãi qua quản lý trung tâm trạm trại nông nghiệp. Cuộc đời tôi có những niềm vui và dịp may thật bất ngờ. Sau các chuyến đi nghiên cứu học tập ở châu Mỹ, tôi may mắn nối được tuyến bay để gặp lại được một ít bạn cũ tại Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ …tôi may mắn có dịp khảo sát hội thảo và làm chuyên gia ở châu Phi, bất ngờ gặp lại được một ít bạn cũ tại Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, mà tôi đã kể trong bài Đối thoại nền văn hóa.

THỔ NHĨ KỲ VÀ QUỐC PHỤ ATATURK

Tượng Mustafa Kemal Atatürk (1881 -1938) trên lưng ngưa chiến ở Sam Sun gần Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Biển Đen ở Sam Sun, phía bắc của thủ đô bắc Ankara. Tôi hỏi Rekai Akman rằng: Đất nước và con người Thổ Nhĩ Kỳ có điều gì đặc sắc nhất? Akman trả lời: Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ ở vùng Trung Đông là trung tâm Á Âu Phi, có vị trí địa chính trị đặc biệt quan trọng, với diện tích 780.580 km² gấp 2,5 lần Việt Nam và dân số Thổ Nhĩ Kỳ gần bằng dân số Việt Nam, mức sống GDP bình quân đầu người danh nghĩa cao gấp 5 lần Việt Nam (cách đây 30 năm là như vậy và cho đến khi tôi gặp lại Rekai Akman thì tỷ lệ này vẫn như vậy, Tôi thật ngạc nhiên ấn tượng về điều này). Ngôn ngữ chính thức là tiếng Thổ nhĩ Kỳ.  Chính sách tôn giáo và dân tộc là tự do tôn giáo và lương tâm. Thế nhưng thực tiễn thì số liệu thống kê về tổng thành phần Hồi giáo và không tôn giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ chiếm tỷ trọng đặc biệt ưu thế  từ 96,4 đến 99,8% (Vô thần và phi Hồi giáo, theo giải thích của Rekai Akman như cách hiểu đạo nhà hoặc đạo thờ ông bà của Việt Nam là tôn kính cha mẹ ông bà tổ tiên hoàn toàn thuận theo tự nhiên) . Số người theo Cơ Đốc giáo, Chính thống giáo Cổ Đông phương và các loại tôn giáo khác chỉ chiếm tỷ lệ rất, rất thấp, hầu như không đáng kể. Sắc tộc của những nhóm sắc tộc nhỏ bé này lại có xu hướng di chuyển hoặc ép di chuyển ra nước ngoài sinh sống. Thổ Nhĩ Kỳ là hợp điểm của chiến tranh tôn gíáo , chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai, hiểu rất rõ vó ngưa chinh phục của Alexandros Đại đế, nhận thức đầy đủ cuộc hủy diệt của chiến tranh sắc tộc và chiến tranh tôn giáo trãi nhiều trăm năm của nhiều cuộc thập tự chinh mở rông nước chúa và khi Hồi giáo bị coi là dị giáo. Con Người đặc sắc nhất của Thổ Nhĩ Kỳ là Atatürk, vị Tổng thống đầu tiên, nhà cách mạng, quốc phụ của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, là Người được dân Thổ đặc biệt tôn kính. Atatürk là thống soái siêu việt của Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất Ông lãnh đạo Phong trào Dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ đấu tranh giành lại độc lập cho đất nước. Sau khi thành lập chính phủ lâm thời tại Ankara, ông đã đánh bại lực lượng Đồng Minh. khai sinh nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. Ông là Tổng thống đầu tiên từ năm 1923 cho đến khi ông qua đời vào năm 1938.



Địa danh đặc sắc nhất Thổ Nhĩ Kỳ là  thủ đô Ankara hiện đại, bền vững nông nghiệp du lịch sinh thái, có vị trí chiến lược không thể khuất phục .Đó là tầm nhìn xuất chúng của Quốc phụ Mustafa Kemal Atatürk, theo lời bình của Hoàng Kim, tiếp đến là  Istanbul (tây bắc Ankara), Bursa (tây bắc Ankara ), Eskişehir và İzmir (tây Ankara ), Sam Sun  (bắc Ankara ), Erzurum (đông bắc Ankara, tiền đồn NATO),  Antalya và Konya (tây nam Ankara), Mersin và Adana (nam Ankara), Kayseri và Gaziantep (đông nam Ankara), Ankara và những địa danh nổi bật nhất bao quanh Ankara đã tạo nên thế phòng thủ liên hoàn và chiều sâu phòng ngự nhiều tầng để phục hồi sinh lực trong lịch sử văn hóa an ninh quốc gia. (Kể đến đây tôi liên tưởng có hai cụ lớn trong sử Việt đã từng có ý định tổ chức thủ đô kháng chiến ở Tuyên Quang và Tây Nguyên)

Thổ Nhĩ Kỳ có di sản thế giới đặc sắc nhất là đền thờ nữ thần Artemis, còn gọi là đền thờ Diana, một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại, một kiệt tác nhân loại minh chứng nền văn minh Lưỡng Hà thuở xưa, mà nay là một nơi điêu tàn còn lưu lại dấu vết tại phố cổ Ephesus phía tây nam của thủ đô Ankara. Ngôi đền Artemis được xây dựng trong 120 năm từ năm 550 TCN, đến năm 430 TCN nhưng đã bị thiêu rụi trong đêm 21 tháng 7 năm 356 TCN do một kẻ điên háo danh là Herostratos đã phóng hoả đốt đền vào đêm Alexandros Đại đế chào đời. Ngôi đền này được xây dựng bằng đá cẩm thạch dài 115m rộng 55 m, nay chứng tích ở phố cổ Ephesus là cột đá còn sót lại, và mô hình đền thờ nữ thần Artemis được phục dựng lại tại Istanbul.



Rekai Akman nói với tôi về những huyền thoại và cách giải thích khác nhau về điều này Chính giáo và tà giáo luôn tìm cách triệt tiêu lẫn nhau nên những di sản văn hóa của bên này thì bị bên kia coi là nọc độc văn hóa. Hồi giáo nếu bạn muốn hiểu thật đúng thì phải nghiên cứu rất kỹ lời mặc khải của thánh Môhamet và đạo Hồi. Akman và những bạn vùng Trung Đông với tôi đều là những người bạn chân thành và tử tế. Tôi nghe lời khuyên của Akman nên sau này mới có sự chiêm nghiệm sâu và đã biên tập lại bài viết Môhamet và đạo HồiĐối thoại nền văn hóa.



THỔ NHĨ KỲ NÔNG NGHIỆP SINH THÁI

Thổ Nhĩ Kỳ là một nước phát triển. Hệ thống giao thông thủy bộ và hàng không đều tốt hơn nhiều so với Việt Nam. Đất đai Thổ Nhĩ Kỳ dường như rất giống vùng Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Lúa mì (wheat) lúa mạch (barley),  ngô, lúa nước  khoai tây là những cây lương thực chính của.Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 2016 lúa mì (Triticum sp. tên khác: tiểu mạch) có diện tích 7,61 triệu ha với năng suất bình quân 2,70 tấn/ ha, sản lượng 20,6 triệu tấn; lúa mạch (gồm lúa mạch đen Secale cereale, Tiểu hắc mạch Triticale, Triticum x Secale, cây lai giữa tiểu mạch và lúa mạch đen, Yến mạch Avena sativa, Kiều mạch Fagopyrum esculentum Moench = Polygonum fagopyrum L.) có diện tích 2,70 triệu ha với năng suất bình quân 2,48 tấn/ ha, sản lượng 6,70 triệu tấn;  ngô (Zea Mays L.) có diện tích 679 nghìn ha với năng suất bình quân 9,41 tấn/ ha, sản lượng 6,40 triệu tấn; lúa nước (Oryza sativa L.) có diện tích 116 nghìn ha với năng suất bình quân 7,92 tấn/ ha, sản lượng 0,92 triệu tấn; Khoai tây (Solanum tuberosum L.) có diện tích 144 nghìn ha với năng suất bình quân 32,8 tấn/ ha, sản lượng 4,75 triệu tấn


Lưỡng Hà hay Mesopotamia là tên gọi của một vùng địa lý và của một nền văn minh hệ thống sông Tigris và Euphrates, bây giờ bao gồm lãnh thổ Iraq, Kuwait, đông Syria, đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, và tây nam Iran hiện đại. Hai con sông Tigris và Euphrates (Lưỡng Hà) tạo nên bình nguyên trồng cây lương thực nổi tiếng trong lịch sử vùng Trung Đông.  Ankara là thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ từ năm 1923, là thành phố lớn thứ hai của quốc gia này sau Istanbul. Thủ đô Ankara nằm ở độ cao trung bình 938 mét trên mực nước biển, trên vùng đồng bằng rộng lớn ở miền trung Anatolia, với những khu rừng trên núi về phía bắc và đồng bằng khô hạn Konya ở phía nam. Các sông chính là các hệ thống Kızılırmak và sông Sakarya. 50% diện tích đất được sử dụng cho nông nghiệp, 28% là rừng và 10% là các đồng cỏ. Hồ nước mặn lớn nhất là Tuz Golu nằm một phần trong thành phố này. Đỉnh cao nhất là Işık Dağı với độ cao 2.015m . Thủ đô Ankara có khí hậu khá đặc trưng của Thổ Nhĩ Kỳ với nhiệt độ trung bình trong năm  là 12,0 °C. Từ tháng 10 đến tháng 4 là các tháng mùa lạnh nhiệt độ trung bình khoảng từ  13,1 °C đến 0,1 °C. Từ tháng 5 đến tháng 9 là các tháng mùa ấm nhiệt độ trung bình khoảng từ  16,2 °C đến 18,7 °C. Lượng mưa trong năm trị số bình  quân tứ 1953-2013 là 402 mm/ năm, lượng mưa từ tháng 12 đến tháng 6 mỗi tháng lượng mưa khoảng 35 -50 mm/ tháng; lượng mưa từ tháng 7 đến tháng 11 mỗi tháng lượng mưa biến động trong khoảng 10 -32 mm/ tháng

Sam Sun ở Biển Đen Thổ Nhĩ Kỳ. Sam Sun được coi là ‘chó lớn Thổ Nhĩ Kỳ gìn giữ Biển Đen” trong khi Istanbul là giao điểm Á Âu Phi thành phố quan trọng bậc nhất của lịch sử Trung Đông. Tầm quan trọng của Istanbul và Sam Sun ở Thổ Nhĩ Kỳ có thể so sánh với cụm chiến lược Vân Đồn Hạ Long Hải Phòng hải cảng quan trọng nhất ở Bắc Việt Nam với cụm chiến lược Hải Vân Sơn Trà Đà Nẵng ở miền Trung Việt Nam và khoảng cách địa lý cũng tương tự vậy.

Sam Sun Thổ Nhĩ Kỳ giống Sơn Trà Đà Nẵng. Sam Sun canh giữ Biển Đen còn Sơn Trà Đà Nẵng canh giữ Biển Đông. Lịch sử của Sam Sun dựa trên sắc tộc người Hittites Trung Á. Người Hittite thành lập liên minh chính trị đầu tiên ở Anatolia, thống trị vùng này và đặt tên cho các bộ tộc ‘vùng trung tâm của Biển Đen’. Trước Công Nguyên vào thế kỷ thứ 8 , người Miles đã thành lập thành phố Amisos như là một thành phố thương mại. Đến thế kỷ thứ 6 trước công nguyên thì người Cimmerians một sắc tộc khác từ Caucasus đến chiếm khu vực này. Trước Công Nguyên vào thế kỷ thứ 4, Alexander Đại đế là vua của toàn châu Á nhà chinh phục thiên tài nổi tiếng nhất thế giới thời đó đã đánh bại người Ba Tư và xâm lược Anatolia và Iran. Các vị vua Pontus của người Hy Lạp bị chi phối bởi Biển Đen và Crimea. Vua của Pontus Mitridates. Đế quốc La Mã, BC. Đến thế kỷ thứ nhất, khu vực này thuộc Đế chế La Mã. Sau Công Nguyên khi Đế chế La Mã bị chia hai, Sam Sun nằm trong vùng tranh chấp khốc liệt suốt hàng mấy trăm năm giữa các cuộc Thập tự chinh Công giáo và Hồi giáo. Sam Sun và Sinop là hai anh em của thành phố này đã thiết lập được Đế chế Ottoman của người Thổ. Sau khi Sam Sun qua đời, phần đất này đã bị Hi Lạp chinh phục. Sultan Mehmet đã lấy Đế quốc Ottoman năm 1413. Sam Sun ví như Saint Petersburg, thủ đô Phương Bắc của nước Nga,đầy máu và nước mắt, hiếm nơi nào nhiều đến như vậy. Sau ngày 29 tháng 10 năm 1923 Mustafa Kemal Atatürk Tổng thống đầu tiên Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố nước cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ được chính thức thành lập kế thừa vị thế quốc gia liên tục của Đế quốc Ottoman, thủ đô mới là Ankara. Năm 1924, Sam Sun trở thành một tỉnh trên bờ biển phía nam Cảng Biển Đen. Tỉnh Sam Sun hiện có diện tích tự nhiên: 9.475 km2, Dân số: 1.295.927 (2017), Mã bưu điện: 55000 Mã vùng điện thoại: 361. Giá trị lịch sử văn hóa Sam Sun được so sánh với Huế Đà Nẵng xứ Quảng của Việt Nam.

THỔ NHĨ KỲ VỚI ‘VÀNH ĐAI VÀ CON ĐƯỜNG’

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đưa ra sáng kiến “Vành đai và Con đường” vào năm 2013, khi nền kinh tế Trung Quốc đã trổi dậy thành nền kinh tế đứng hàng thứ hai thế giới sau Mỹ. Trong ba trụ cột của chiến lược “Liên Nga, bạn Ấn, mở rộng Á Âu Phi”  thì Trung Á Thổ Nhĩ Kỳ Trung Đông có vị trí quan trọng   Thổ Nhĩ Kỳ với ‘Vành đai và Con đường” có tương quan và đối sách gì, có bài học gì cho Việt Nam? Sáng kiến ‘vành đai và con đường’ nội dung gồm hai kế hoạch thành phần là “Vành đai Kinh tế Con đường tơ lụaĐường hàng hải”. Trung Quốc khắc họa Sáng kiến Vành đai và Con đường như một đại dự án quốc tế, được thiết kế nhằm tạo các tuyến giao thương mới và các đường liên kết kinh tế kết nối vượt qua biên giới quốc gia. Mỗi điểm trong chuỗi liên kết ‘Vành đai và Con đường’ chạy xuyên qua 67 nước và mọi tỉnh của Trung Quốc đều có kế hoạch đầu tư ‘Vành đai và Con đường’ cho riêng mình. Đây là một chiến lược có tầm nhìn dài hạn, có lộ trình, có kế sách liên hoàn, và rất khó thay đổi khi đã khởi động, khác xa với các mưu lược thông thường. Các nướcTrung Á và Tây Á, hầu như đều đồng thuận sáng kiến này, có cả Kazakhstan, Turkmenistan…Đây là cách Trung Quốc thể hiện sức mạnh kinh tế kết nối các nước tạo lưu thông hàng hóa, dịch vụ, thương mại. Tom Miller 2017, trong nghiên cứu “Giấc mộng Châu Á của Trung Quốc” (China’s Asian dream empire building along the new silk road, Đoàn Duy dịch, TS. Phạm Sĩ Thành hiệu đính, có dẫn lời của Lưu Á Châu, một vị tướng thẳng tính của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc từng gọi Trung Á là “món lễ vật hậu hĩ nhất được trời cao ban cho người Trung Quốc“. Đối với Trung Quốc, Trung Á mang lại nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, Kazakhstan có nguồn trữ lớn về dầu và uranium. Turkmenistan cung ứng gần phân nữa lượng khí đốt nhập khẩu Trung Quốc và ở đây  có tiềm năng to lớn cho việc tăng cường rút lấy nguồn khoáng sản trong khu vực.

Tây Á, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Đông tầm nhìn và vị trí chiến lược trong chuỗi liên kết này ra sao.  Nghiên cứu Thổ Nhĩ Kỳ với ‘Vành đai và Con đường’,  bài học gì cho Việt Nam?

Thổ Nhĩ Kỳ nông nghiệp sinh thái điều kiện tự nhiên ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa Lưỡng Hà và Ai Cập. Bản đồ văn minh Lưỡng Hà ( phần phủ màu xanh) đã cho thấy L miền đất giữa hai con sông Tigris và Euphrates tạo thành một khu vực đất phì nhiêu, rất thích hợp cho nghề nông. Chất đất ở Lưỡng Hà chủ yếu là đất sét dùng để làm gạch và đồ gốm rất tốt đã tạo nên một sắc thái riêng biệt của nền văn hóa Lưỡng Hà.Thế núi mạch sông của thủ đô Ankara, thành phố Istanbul và Bursa (tây bắc  Ankara),  Eskişehir và İzmir (tây Ankara ), Sam Sun  (bắc Ankara ), Erzurum (đông bắc Ankara, tiền đồn NATO),  Antalya và Konya (tây nam Ankara), Mersin và Adana (nam Ankara), Kayseri và Gaziantep (đông nam Ankara) và những vùng phụ cận trên ‘Vành đai và Con đường’ của Thổ Nhĩ Kỳ ở vị trí đặc biệt trọng  yếu nối tuyến Vành đai Kinh tế Con đường tơ lụaĐường hàng hải tại ngã ba Á Âu Phi  là rất quan trọng

Văn minh Lưỡng Hà, văn hóa Lưỡng Hà là câu chuyện quen mà lạ. “Một nền văn minh vĩ đại đã hình thành ở Trung Đông từ các khu định cư ở vùng Crescent Màu Mỡ. Nơi an tọa của vị thánh siêu quần, chủ nghĩa siêu thực linh thiêng và chủ nghĩa thực dụng tàn nhẫn. Nơi chúng ta có thể tìm thấy cội nguồn luật pháp, buôn bán, tiền bạc và máu đổ tràn lan. “Vùng đồng bằng Lưỡng Hà” trong loạt phim 52 tập Văn minh Phương Tây. ,,, Nếu bạn đang tìm về cội nguồn, có thể nói rằng nền văn minh Phương Tây khởi nguồn từ nền văn minh Lưỡng Hà châu Á, Văn minh  phương Tây ngày nay có nguồn gốc sâu xa trong một lớp bụi dày của lịch sử trãi từ Biển Đen đến vịnh Ba Tư. Mảnh đất tối tăm và đẫm máu, không bao giờ thôi khuấy đảo trong những vị thần, trong những cuộc chiến tranh, trong sự hiếu thắng của chúng ta và cả óc sáng tạo, táo bạo và chủ nghĩa bành trường của mình. Và còn có một chân lý lớn hơn nữa, đó là lịch sử Trung Đông  nhiều biến động, với những nền văn minh cổ xưa đã biến đổi và từ đó tưới mát cả nền văn minh phương Tây.ngày nay. GS. Eugen Weber, Giảng viên Lịch sử, Trường Đại học Los Angeles đã nói vậy khi giới thiệu bộ phim Lưỡng Hà.

Người Tây Á, chữ viết Tây Á là một trong những nền văn minh cổ nhất thế giới. “Cùng với nền văn minh Ai Cập, văn minh Sumer là nền văn minh cổ nhất thế giới: từ cuối thiên niên kỷ thứ IV trước công nguyên, ở vùng bình nguyên bên hai con sông Tigris và Euphrates đã hình thành xã hội có giai cấp. Nhưng khác với ở Ai Cập, văn hóa Lưỡng Hà không thuần nhất, tham gia vào việc tạo lập nên nó có những người Sumer là một dân tộc nói thứ ngôn ngữ không thuộc vào bất cứ họ ngôn ngữ nào mà chúng ta đã biết, những ngưới Akkad (Babylon và Assyria) sử dụng một trong những ngôn ngữ Semite cùng họ với tiếng Do Thái cổ, những người Phenician và Ả rập, những người Hurrit sinh sống ở vùng Bắc Mesopotamia và Bắc Syria và nhiều dân tộc khác. Chữ viết ở vùng Lưỡng Hà có lẽ do người Sumer sáng tạo nên. Những người Akkad và sau đó là những dân tộc Tiền Á vay mượn hệ thống chữ viết của họ (văn tự dạng nêm), và nó được sử dụng trong suốt ba thiên niên kỷ, dần dần tiến hóa và hoàn thiện. Như vậy, khi nghiên cứu nền văn học viết bằng văn tự dạng nêm, chúng ta có thể tìm hiểu được con đường hình thành văn học ở những giai đoạn sớm nhất của nền văn minh nhân loại, trong một quá trình hết sức lâu dài” Tác giả V. K. AFANASYEVA đã viết như vậy, PGS.TS. Trần Thị Phương Phương dịch)

Vua thành Lagash Gudea, trị vì vào thời hậu Akkad (thế kỷ XXII tr. CN). nói đến nguyên nhân khiến ông cho xây đền do được vị thần ra lệnh trong giấc mơ định mệnh:

Trong giấc mơ một người bỗng hiện ra
Sừng sững như bầu trời, vĩ đại như mặt đất
Đầu đội vương miện thần linh
Con đại bàng Anzud đậu trên tay
Dưới chân ầm ầm bão tố
Nằm bên trái, bên phải là bầy sư tử
Ngài ra lệnh xây một ngôi nhà
Nhưng ý nghĩa của giấc mơ ta không hiểu.
Khi bình minh ửng sáng phía chân trời, một người đàn bà xuất hiện
Bà là ai, bà là ai?
Đó là mẹ của vua, nữ thần Nanshe
Bà cất lời: Hỡi kẻ chăn chiên!
Ta sẽ giải thích giấc mơ cho con!
Con người sừng sững như bầu trời, vĩ đại như mặt đất
Với vương miện thần linh trên đầu, với đại bàng trên tay
Dưới chân là bão tố, trái phải là sư tử
Đó chính thực là em trai ta Ningirsu
Yêu cầu con xây cho Eninne một ngôi đền.

https://www.youtube.com/embed/tP14b6DjwXM?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent Văn minh phương Tây: Phần 3: Lưỡng Hà là một video đáng suy ngẫm

Rekai Akman trò chuyện với tôi thật nhiều về Thổ Nhĩ Kỳ,đất nước và con người mà với tôi sự lắng đọng hơn cả là nền văn minh Lưỡng Hà tàn lụi và phục hồi thấy rõ trên chính đất nước Thổ như vầng trăng lưỡi liềm và ngôi sao trắng nền đỏ là quốc kỳ Thổ.

“Đại sứ Nguyễn Hồng Thao, thành viên Ủy ban Luật pháp quốc tế (thuộc Liên Hợp Quốc) khi đánh giá vị trí Việt Nam trong tương quan chính trị thế giới và xung quanh sự kiện được thế giới quan tâm nhất trong tuần qua là “1 cuộc bầu cử lịch sử khép lại, rốt cục ta nhìn thấy điều gì?” đã viết “Trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của mình, Việt Nam đã đứng vững trên đôi chân của mình chứ không phải giành chiến thắng chỉ bằng sự trợ giúp nước ngoài hay để nước ngoài quyết định số phận. Lắng nghe dân, giải quyết hữu hiệu và kịp thời các nguyện vọng của người dân, không bỏ ai lại phía sau, đoàn kết nội bộ, tự lực tự cường, hợp tác quốc tế, luôn làm bạn với các nước nhưng cũng sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm phạm chủ quyền lãnh thổ và quyền lợi đất nước là các bí quyết không bao giờ cũ để xây dựng và phát triển đất nước. “

Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay với ‘Vành đai và Con đường’ là một câu chuyện dài. Đối thoại nền văn hóa là rất đáng suy ngẫm và bài học sâu sắc, thấm thía cho Việt Nam.

Video yêu thích

Hoàng Thành Thăng Long Hà Nội còn lại di tích gì sau 1000 năm #hnp

Vuonxuan

Chopin – Spring Waltz 
Secret Garden – Bí mật vườn thiêng

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam,Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Bình luận về bài viết này