#cnm365 #cltvn 30 tháng 9


#CNM365 #CLTVN 30 THÁNG 9
Hoàng Kim và Hoàng Long
CNM365 Tình yêu cuộc sống #vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói; Vườn giống sắn Đồng Xuân, Giống sắn KM419 và KM440; Giống sắn chủ lực KM419; Chọn giống sắn Việt Nam; Châu Mỹ chuyện không quên; Lời Thầy dặn thung dung; Con đường di sản LewisClark; Ngọt bùi nhớ trái ớt cay; Thầy Nguyễn Lân Dũng; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Ngày 30 tháng 9 năm 1935 Đập Hoover của Hoa Kỳ được khánh thành. Đập này nằm trên biên giới giữa hai bang Arizona và Nevada, của sông Colorado, miền tây nước Mỹ. Phía bắc đập nước đã thành hồ Mead, là một trong những kho nước nhân tạo lớn nhất thế giới, dài 177 km, tuyến bờ hồ dài 1.323 km (Hình 1.6). Ngày 30 tháng 9 năm 1966 Ngày Độc lập tại Botswana là một nước cộng hoà nằm kín trong lục địa Nam Phi, trước kia là quốc gia bảo hộ bởi Vương quốc Anh, nay thành nước độc lập thuộc Khối thịnh vượng chung Anh Quốc. Nước Botswana có diện tích tự nhiên 581.730 km² (hạng 46) so Việt Nam 331.699 km² (hạng 66) Nước Botswana được đặt tên theo nhóm sắc tộc lớn nhất, người Tswana, có quan hệ chặt chẽ với Nam Phi, chủ yếu dựa vào khai mỏ (đặc biệt là kim cương), chăn nuôi gia súc, và du lịch; Ngày 30 tháng 9 năm 1520, Suleiman I đăng quang Sultan của Ottoman, đế quốc đạt đỉnh cao về quân sự, chính trị và kinh tế trong thời gian ông trị vì. ‘Nhà nước Ottoman Tối cao’ là quốc hiệu nước Thổ Nhĩ Kỳ thời từ năm 1299 đến 1923. Đế quốc Ottoman tương tác với văn hóa phương Đông và phương Tây trong suốt lịch sử 624 năm của nó. Đế quốc Ottoman thời đỉnh cao quyền lực ở thế kỷ XVI và thế kỷ XVII, lãnh thổ rộng lớn gồm các vùng Tiểu Á, Trung Đông, nhiều phần ở Bắc Phi, và đa phần đông nam châu Âu đến tận Kavkaz, có diện tích khoảng trên 5,6 triệu km², với vùng ảnh hưởng thực tế của đế quốc này còn rộng hơn nhiều, nếu tính cả các vùng lân cận do các bộ lạc du mục cai quản, thuộc đế quốc này cai quản được công nhận. Bài chọn lọc ngày 30 tháng 9: #vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói; Vườn giống sắn Đồng Xuân, Giống sắn KM419 và KM440; Giống sắn chủ lực KM419; Chọn giống sắn Việt Nam; Châu Mỹ chuyện không quên; Lời Thầy dặn thung dung; Con đường di sản LewisClark; Ngọt bùi nhớ trái ớt cay; Thầy Nguyễn Lân Dũng; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-30-thang-9/

Chọn giống sắn Việt Nam
GIỐNG SẮN CHỦ LỰC KM419
Giống sắn KM 419 được chọn tạo từ tổ hợp lai BKA900 x KM 98-5. Giống do Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên, Trường Đại học Nông Lâm Huế tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Thị Trúc Mai, Võ Văn Quang, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Lệ Dung, Nguyễn Phương, Hoàng Long, Nguyễn Minh Cường, Đào Trọng Tuấn, Trần Công Khanh, Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thị Cách, Nguyễn Trọng Hiển, Lê Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2016), Giống sắn KM419 đượcBộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận sản xuất thử tại Quyết định số 85 / QĐ-BNN-TT Hà Nội ngày 13 tháng 1 năm 2016 cho vùng sinh thái Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ).

Giống sắn KM419 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2016 chiếm 38 % so với giống sắn KM94 chiếm 31,7% (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree), và năm 2019 giống sắn KM419 chiếm khoảng 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam. Giống sắn chủ lực và phổ biến ở Việt Nam ngày nay là KI419 và KM140, trong khi chờ đợi các giống sắn mới tích hợp gen kháng bệnh CMD được khảo nghiệm (Báo Nhân Dân 2020 dẫn kết luận của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,: các giống đối chứng tốt nhất hiện trồng tại Tây Ninh là KM419 và KM140 có năng suất 44-48 tấn/ha https://nhandan.vn/chuyen-lam-an/tim-ra-giong-san-khang-benh-kham-la-625634/ );.

Giống sắn KM419 đã phát triển rộng rãi tại Tây Ninh, Đồng Nai, Đắk Lắk, Phú Yên,…được nông dân các địa phương ưa chuộng với tên gọi sắn giống cao sản siêu bột Nông Lâm. Đặc biệt tại tỉnh Phú Yên giống sắn KM419 được trồng trên 85% tổng diện tích sắn của toàn tỉnh mang lại bội thu năng suất và hiệu quả cao về kinh tế xã hội. Tại Tây Ninh, năm 2019 diện tích sắn bị nhiễm bệnh CMD tuy vẫn còn cao nhưng mức độ hại giảm mạnh, lý do vì KM419 và KM94 là giống chủ lực chiếm trên 76% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh (KM419 chiếm 45% ở vụ Đông Xuân và 54,2% ở vụ Hè Thu; KM94 chiếm 31% ở vụ Đông Xuân và 21,6% ở vụ Hè Thu). Tại Đăk Lắk, năm 2019 diện tích sắn KM419 chiếm trên 70% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh.

Giống KM419 có đặc điểm:

+ Thân xanh xám thẳng, ngọn xanh cọng đỏ, lá xanh đậm, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 34,9-54,9 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
+ Hàm lượng tinh bột: 27,8 – 30,7%.
+ Năng suất tinh bột: 10,1-15,8 tấn/ ha
+ Chỉ số thu hoạch: 62 %.
+ Thời gian thu hoạch: 7-10 tháng.
+ Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng và bệnh khảm lá virus CMD
+ Cây cao vừa, nhặt mắt, tán gọn, thích hợp trồng mật độ dày 12,500- 14.000 gốc/ ha .

Sự bùng nổ về năng suất sản lượng và hiệu quả kinh tế sắn đã trùng hợp với sự xuất hiện, lây lan của các bệnh hại bệnh sắn nghiêm trọng. Đặc biệt bệnh khảm lá CMD do virus gây hại (Sri Lanka Cassava Mosaic Virus) lây lan rất nhanh và gây hại khủng hoảng các vùng trồng sắn. Tại Việt Nam, bệnh này được phát hiện vào tháng 5/2017 trên giống sắn HLS11, đến tháng 7/ 2019 bệnh đã gây hại các vùng trồng sắn của 15 tỉnh, thành phố (2018), trên hầu hết các giống sắn hiện có ở Việt Nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Cục BVTV đã có văn bản 1068 ngày 9/5/2019 xác định “Việc hướng dẫn nông dân mua giống KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất hiện nay”.

Điểm lưu ý trong sản xuất hiện nay là trồng giống KM419 sạch bệnh. Cần phân biệt giống sắn giống KM419 với HLS11 và các giống sắn chưa rõ lý lịch cha mẹ và nguồn gốc giống. Giống sắn KM419 đăc trưng là 1) thấp cây, tán gọn, cọng đỏ; 2) vỏ cũ xám trắng, 3) chống chịu nhẹ đến trung bình bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 đặc trưng là 1) cao cây, cọng xanh, 2) vỏ củ nâu đỏ, 3) nhiễm nặng bệnh CMD và bệnh đốm lá CBB. Giống sắn chủ lực KM419, được lai tạo đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440, KM397 tạo ra các giống sắn KM568, KM537, KM536, KM535, năng suất bột cao kháng bệnh CMD và CWBD và có dạng hình cây thấp tán gọn,

Giống sắn KM419 bìa trái thấp cây, tán gọn, cọng đỏ, chống chịu trung bình với bệnh CMD và CWBD , và các dòng sắn lai ít bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 giữa, cao cây, cọng xanh, nhiễm nặng bệnh CMD

Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và vùng phụ cận (Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự 2020). Sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao và nhiễm nhẹ đến trung bình bệnh CMD và bệnh chồi rồng (CWBD) để đưa thêm vào gen mục tiêu (C39) kháng bệnh. Chọn tạo và phát triển 1-2 các giống sắn mới trong phả hệ các giống sắn triển vọng KM568, KM537, KM536, KM535, KM534 là nội dung nghiên cứu quan trọng “Chọn tạo sắn Việt Nam” cấp thiết, có tính khả thi cao, tính mới cao, kế thừa và phát triển bền vững giống sắn ở Việt Nam tốt nhất hiện nay.

xem thêm Chọn giống sắn Việt Nam; Chọn giống sắn kháng CWBD; Chọn giống sắn kháng CMD, Bảo tồn và phát triển sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

Video yêu thích
Giống sắn KM419 và KM440 ở Việt Nam hiện nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU .

CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN
Hoàng Kim

Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.

“Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.

Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. Lời Thầy dặn thung dung.

Châu Mỹ chuyện không quên
Hoàng Kim

Niềm tin và nghị lực
Về lại mái trường xưa
Hưng Lộc nôi yêu thương
Năm tháng ở trời Âu

Vòng qua Tây Bán Cầu
CIMMYT tươi rói kỷ niệm
Mexico ấn tượng lắng đọng
Lời Thầy dặn không quên

Ấn tượng Borlaug và Hemingway
Con đường di sản Lewis Clark
Sóng yêu thương vỗ mãi
Đối thoại nền văn hóa

Truyện George Washington
Minh triết Thomas Jefferson
Mark Twain nhà văn Mỹ
Đi để hiểu quê hương

500 năm nông nghiệp Brazil
Ngọc lục bảo Paulo Coelho
Rio phố núi và biển
Kiệt tác của tâm hồn

Giấc mơ thiêng cùng Goethe
Chuyện Henry Ford lên Trời
Bài đồng dao huyền thoại
Bảo tồn và phát triển

Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt Nam và Howeler
Một ngày với Hernán Ceballos
CIAT Colombia thật ấn tượng
Martin Fregene xa mà gần

Châu Mỹ chuyện không quên
CIP Peru và khoai Việt
Nam Mỹ trong mắt tôi
Nhiều bạn tôi ở đấy

Machu Picchu di sản thế giới
Mark Zuckerberg và Facebook
Lời vàng Albert Einstein
Bill Gates học để làm

Thomas Edison một huyền thoại
Toni Morrison nhà văn Mỹ
Walt Disney bạn trẻ thơ
Lúa Việt tới Châu Mỹ.

xem tiếp 36 đường dẫn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chau-my-chuyen-khong-quen/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tuthangminhlabaihocdautien.jpg

BÀI HỌC TỰ THẮNG MÌNH
Hoàng Kim

Ngày mỗi ngày phải tự thắng mình
Trận chiến mới em mãi là chiến sĩ
Ngày mỗi ngày cần ghi đều nhật ký
Tự thắng mình là bài học đầu tiên !

Có điện lung linh suốt đêm
Không quên vầng trăng ngọn lửa
Ngày dẫu miệt mài
Đêm về phải cố
Khắc sâu lời nguyền xưa !

“Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân”

Lưu bút Norman E. Borlaug gửi Hoàng Kim ngày 17 tháng 7 năm 1989 từ CIMMYT (hình) sau khi tôi đã về Việt Nam. Bài học phúc hậu, minh triết, tân tâm của gương sáng người Thầy, đã theo tôi suốt đời, tỏa sáng nhân cách, trí tuệ.

Chuyện Bài học tự thắng mình trong chùm bài viết Đi như một dòng sông Châu Mỹ chuyện không quên.nối Con đường di sản LewisClark . Đó là sự tiếp nối Làng Minh Lệ quê tôi của các ghi chú nhỏ (Notes) Linh Giang Đình Minh Lệ; Đá Đứng chốn sông thiêng; Nguồn Son nối Phong Nha Đất Mẹ vùng di sản. Tôi xa quê Quảng Bình từ nhỏ. Quê hương nơi sinh thành là bài học quý cho bất cứ ai lớn nổi thành người, nhưng tôi vì hoàn cảnh lưu lạc xa xứ nên hiểu quê hương có giới hạn, mà ấn tượng lắng đọng sâu sắc nhất là Tổ quốc Quê hương đất nước con người, trãi mười hai bến nước của vận mệnh chiếc lá trôi dạt, đi để hiểu quê hương. Làng Minh Lệ quê tôi là bài học KHAI TÂM đầu đời là của cha mẹ và thầy giáo già mù nơi ngôi nhà tuổi thơ bến quê, với sự chỉ dạy tiếp theo của anh hai Hoàng Ngọc Dộ, chị năm Hoàng Thị Huyền đã thay cha mẹ mất để nuôi em dìu dắt cưu mang em, với thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng cùng quý thầy bạn và người thân thắp lên ngọn lửa. Bài học của bến nước này là KHAI TRÍ. Chùm ảnh bài này thắp sáng ước mơ. .

LỜI THẦY DẶN
Hoàng Kim

Việc chính đời người chỉ ít thôi.
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi.
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện.
Di sản muôn năm mãi sáng ngời

Biết đủ thời nhàn sống thảnh thơi
Con em và cháu vững tay rồi
An nhàn vô sự là tiên đấy
Minh triết mỗi ngày dạy học chơi.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoangkim-tiepbotruongnguyenngoctruu.jpg

Bộ Trưởng Nguyễn Ngọc Trìu đến Trung tâm Hưng Lộc năm 1987 thăm thành tựu tiến bộ kỹ thuật “Trồng ngô lai xen đậu ở vùng Đông Nam Bộ” và mô hình “Nghiên cứu phát triển đậu rồng ở các tỉnh phía Nam” (Nguồn: Nhớ cụ Nguyễn Ngọc Trìu, bài và ảnh Hoàng Kim)

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thaybanlalocxuancuocdoi.jpg

NLU hướng tới 65 năm. Chào mừng quý Thầy Cô và Các Bạn 30 năm ngày ra Trường 2010. Ảnh Họp mặt Kỷ niệm 30 năm ngày ra Trường, Khóa 2 Trồng Trọt, Chăn nuôi, Kinh tế, Lâm Nghiệp, Thủy Sản Trường Đại Học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, năm 2010 (Nguồn: Thầy bạn trong đời tôi, Bài và ảnh Hoàng Kim, lưu ảnh truyền thống)

ĐI NHƯ MỘT DÒNG SÔNG
Hoàng Kim


Hoàng Kim ở CIMMYT 1988 (hình) trong bài Đi như một dòng sông . Đây là kinh nghiệm khởi nghiệp kể cho người thân và thầy bạn quý, với các bạn trẻ đang tìm kiếm sự kết nối học để làm (Learning to Doing) với dạy và học hiệu qủa. Bài viết này được trích phần đầu của Thầy bạn là lộc xuân với phần giữa Dạy và học ngày nay và phần cuối Con đường di sản LewisClark của Châu Mỹ chuyện không quên . Đó là thu hoạch của tôi với thầy bạn

TỪ CẬU BÉ LÀNG MINH LỆ

Quê tôi ở miền Trung nghèo khó “Nhà mình gần ngã ba sông/ Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình,/ Linh Giang sông núi hữu tình / Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con/ Chèo thuyền cho khuất bến Son/ Để con khỏi chộ (thấy) nước non thêm buồn/ Câu thơ quặn thắt đời con/ Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ”. Tôi xa quê từ nhỏ. Mười tuổi mồ côi mẹ, Mười bốn tuổi cha chết do bom Mỹ giết hại.Tôi với chị gái Hoàng Thị Huyền ở với anh trai Hoàng Ngọc Dộ trong nhà hầm của lớp học ở làng Phù Lưu để học cấp ba Bắc Quảng Trạch. Anh trai tôi dạy cấp một, giáo viên khẩu phần ăn 13 ký lương thực mỗi tháng, trong đó có 70% là khoai sắn. Anh vì nuôi hai em thay cha mẹ mất nên khẩu phần ăn ấy chia cho ba người ăn. Đói. Gia đình tôi năm năm đã ăn ngày một bữa. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh đứng khóc trên bục giảng vận động thầy cô, bạn hữu chia sớt khoai sắn giúp đỡ. Tôi cũng dạy năm lớp vở lòng, ba lớp bổ túc văn hóa và cùng anh cuốc đất tăng gia để vượt khó vươn lên. Thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết những lời xúc động trong Bài ca Trường Quảng Trạch trường ca tình thầy trò: “Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất. Lại cha già giặc giết hôm qua. Tình thầy, tình bạn, tình cha. Ấy là ân nghĩa thiết tha mặn nồng” (9)  Những gương mặt thầy bạn đã trở thành máu thịt trong đời tôi.

Thi đậu vào Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc năm 1970, tôi học Trồng trọt 4 cùng khóa với các bạn Trần Văn Minh, Đỗ Thị Minh Huệ, Phan Thanh Kiếm, Đỗ Khắc Thịnh, Vũ Mạnh Hải, Phạm Sĩ Tân, Phạm Huy Trung, Lê Xuân Đính, Nguyễn Hữu Bình, Lê Huy Bá … cho đến ngày 02 tháng 9 năm 1971 thì tôi gia nhập quân đội cùng lứa với Nguyễn Văn Thạc. Đợt tuyển quân sinh viên trong ngày độc lập đã nói lên sự quyết liệt sinh tử và ý nghĩa thiêng liêng của ngày cầm súng. Chiến trường đánh lớn. Đơn vị chúng tôi chỉ huấn luyện rất ngắn rồi vào trận ngay với 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn. Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 sau này đã đi vào huyền thoại: “Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm” Tổ chúng tôi bốn người thì Xuân và Chương hi sinh, chỉ Trung và tôi trở về trường sau ngày đất nước thống nhất.  Những vần thơ viết dưới đây là xúc động sâu xa của tôi khi nghĩ về bạn học đồng đội đã khuất: “Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh

Tôi về học tiếp năm thứ hai tại Trồng trọt 10 của Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc đến cuối năm 1977 thì chuyển trường vào Đại học Nông nghiệp 4, tiền thân Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trồng trọt 2 thuở đó là một lớp chung mãi cuối khóa mới tách ra 2A,2B, 2C. Tôi làm Chủ tịch Hội Sinh viên thay cho anh Nguyễn Anh Tuấn khoa thủy sản ra trường về dạy Đại học Cần Thơ. Trồng trọt khóa hai chúng tôi thuở đó được học với các thầy cô: Nguyễn Đăng Long, Tô Phúc Tường, Nguyễn Tâm Đài, Trịnh Xuân Vũ, Lê Văn Thượng, Ngô Kế Sương, Trần Thạnh, Lê Minh Triết, Phạm Kiến Nghiệp, Nguyễn Bá Khương, Nguyễn Tâm Thu, Nguyễn Bích Liễu, Trần Như Nguyện, Trần Nữ Thanh, Vũ Mỹ Liên, Từ Bích Thủy, Huỳnh Thị Lệ Nguyên, Trần Thị Kiếm, Vũ Thị Chỉnh, Ngô Thị Sáu, Huỳnh Trung Phu, Phan Gia Tân, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Kế, … Ngoài ra còn có nhiều thầy cô hướng dẫn thực hành, thực tập, kỹ thuật phòng thí nghiệm, chủ nhiệm lớp như Bùi Cách Tuyến, Nguyễn Văn Kịp, Lê Quang Hưng, Trương Đình Khôi, Nguyễn Ngọc Châu, Nguyễn Gia Quốc, Nguyễn Văn Biền, Lê Huy Bá, Hoàng Quý Châu, Phạm Lệ Hòa, Đinh Ngọc Loan, Chung Anh Tú và cô Thảo làm thư ký văn phòng Khoa. Bác Năm Quỳnh là Bí thư Đảng ủy đầu tiên của Trường sau đó là thầy Kiên và cô Bạch Trà. Thầy Nguyễn Phan là Hiệu trưởng kiêm Trưởng Trại Thực nghiệm. Thầy Dương Thanh Liêm, Nguyễn Ngọc Tuân, Võ Thị Tuyết, Ngô Văn Mận, Bùi Xuân An … ở khoa Chăn nuôi Thú y, thầy Nguyển Yên Khâu, Nguyễn Quang Lộc … ở khoa Cơ khí, cô Nguyễn Thị Sâm ở Phòng Tổ chức, cô Văn Thị Bạch Mai dạy tiếng Anh, thầy Đặng, thầy Tuyển, thầy Châu ở Kinh tế -Mác Lê …Thầy Trần Thạnh, anh Quang, anh Đính, anh Đống ở trại Trường là những người đã gần gũi và giúp đỡ nhiều các lớp nông học.

Thay ban trong doi toi 1b

Thuở đó đời sống thầy cô và sinh viên thật thiếu thốn. Các lớp Trồng trọt khóa 1, khóa 2, khóa 3 chúng tôi thường hoạt động chung như: thực hành sản xuất ở trại lúa Cát Lái, giúp dân phòng trừ rầy nâu, điều tra nông nghiệp, trồng cây dầu che mát sân trường, rèn nghề ở trại thực nghiệm, huấn luyện quốc phòng toàn dân, tập thể dục sáng, hội diễn văn nghệ, thi đấu bóng chuyền, bóng đá tạo nên sự thân tình gắn bó. Những sinh viên các khóa đầu tiên được đào tạo ở Khoa Nông học sau ngày Việt Nam thống nhất hiện đang công tác tại trường có các thầy cô như  Từ Thị Mỹ Thuận, Lê Văn Dũ, Huỳnh Hồng, Cao Xuân Tài, Phan Văn Tự, …

Tháng 5 năm 1981, nhóm sinh viên của khoa Nông học đã bảo vệ thành công đề tài thu thập và tuyển chọn giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu, Gạo, Bí Đà Lạt được Bộ Nông nghiệp công nhận giống ở Hội nghị Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Toàn Quốc Lần thứ Nhất tổ chức tại Thành phố Hố Chí Minh. Đây là một trong những kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đầu tiên của Trường giới thiệu cho sản xuất. Thầy Cô Khoa Nông học và hai lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 cũng đã làm họ trai họ gái tác thành đám cưới cho vợ chồng tôi. Sau này, chúng tôi lấy tên khoai Hoàng Long để đặt cho con và thầm hứa việc tiếp nối sự nghiệp nghiên cứu khoa học và giảng dạy, một nghề nghiệp cao quý và lương thiện. “Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền. Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó. Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ. Có bạn thầy càng bền chí vươn lên. Trước mỗi khó khăn tập thể luôn bên. Chia ngọt xẻ bùi động viên tiếp sức. Thân thiết yêu thương như là ruột thịt. Ta tự nhủ lòng cần cố gắng hơn

tt2-1

Bạn học chúng tôi vẫn thỉnh thoảng họp mặt, có Danh sách các lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 số điện thoại và địa chỉ liên lạc. Một số hình ảnh của các lớp ngày ấy và bây giờ

TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA TÔI

Đi như một dòng sông, Đời người là chuỗi hệ thống Học, Làm, Dạy, Nhàn, Viết.của năm quá trình kế tiếp nhau, đan xen nhau, hỗ trợ nhau, trộn vào nhau thành đời tôi.

SỰ HỌC khởi đầu từ lúc con người sinh ra cho đến khi có VIỆC LÀM để mưu sinh, để lao động, để cống hiến, để không còn làm người ăn bám sống trên mồ hôi thành quả của người khác, để biến cái sở trường thành hữu dụng. Đó là sự học chân chính, học để làm. Sự học tốt nhất là tự học suốt đời và sự học hữu dụng nhất, hiệu quả nhất là học làm người có ích. Học để làm tốt một nghề.

VIỆC LÀM VÀ VIỆC DẠY dường như chiếm một nữa đời người khi một phần tư đời người cho tuổi thơ và sự học, Dẫu sự học tốt nhất là tự học suốt đời nhưng thật xấu hổ nếu không biết làm và dạy. Học làm người có ích là có tâm huyết, chuyên nghiệp và kỹ năng học làm người có ích. Có người giảng dạy và việc làm tách riêng , làm thành thạo trước và trao truyền sau nhưng có nhiều người việc làm và việc dạy kết rất nhuyễn, Cha mẹ là thầy cô đầu đời của con.

AN NHÀN VÔ SỰ VÀ VIẾT. Nhàn và viết để lắng đọng di sản. An nhàn vô sự và viết dường như chiếm một phần tư đời người sau cùng. Phúc cho ai hưởng nhàn và đọng lại di sản. Minh triết sống phúc hậu là bài học quý, Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.

CON ĐƯỜNG DI SẢN LEVIS CLARK

Tôi sang châu Mỹ nhiều lần, có trên 36 bài đường dẫn, thỉnh thoảng vui đọc lại và viết.Đó là một chặng đường trải nghiệm thích thú, trong con đường di sản của riêng mình. Thầy tôi Norman Borlaug  trao đổi với tôi thật nhiều câu chuyện Thomas Jefferson (1743 – 1826) là Nhà tư tưởng sáng lập nước Mỹ, với Lewis & Clark cuộc thám hiểm miền Tây nước Mỹ. Đó là một ví dụ điển hình về tầm nhìn và dự án khoa học thành công.Con đường di sản LewisClark lắng đọng trong tôi thật sâu Chuyện bây giờ mới kể …

Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark đã được khởi sự vào ngày 14 tháng 5 năm 1804 và kết thúc cuối năm 1806. Đây là cuộc thám hiểm trên bộ đầu tiên của người Mỹ đến những tiểu bang duyên hải cận tây nhất của nước Mỹ và ngược lại. Miền Tây nước Mỹ là vùng đất nhiều thổ dân da đỏ sinh sống khoảng 10 ngàn năm trước đó, và thuở ấy miền Tây nước Mỹ có sự hiện diện của những cư dân mới là người thám hiểm và định cư thuộc các nước Tây Ban Nha, Anh, México, Nga và Mỹ. Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã kiến nghị Quốc hội Mỹ phê chuẩn đầu tư cho chuyến khảo sát đường bộ của cuộc thám hiểm của Lewis và Clark cùng cộng sự. Trong một lá thư đề ngày 20 tháng 6 năm 1803, Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã viết cho Lewis. “Mục tiêu sứ mạng của anh là thám hiểm Sông Missouri và dòng suối chính của nó qua dòng chảy và sự liên thông của nó với các bộ phận nước khác của Thái Bình Dương để xem Sông Columbia, Xứ Oregon, Colorado hay bất cứ con sông nào có thể cung cấp một sự liên thông mặt nước thực tiễn và trực tiếp nhất ngang qua lục địa này để giúp cho những mục đích thương mại“.

Thầy tôi trong buổi trò chuyện của mình đã khoanh vào các chỉ dấu Thomas Jefferson Lewis & Clark thành những điểm chính nhấn mạnh cho các lời diễn đạt của mình


Trong chuyến khảo sát CIANO, OREGON của Miền Tây Mexico và nước Mỹ năm 1989 sau 186 năm từ chuyến thám hiểm miền Tây nước Mỹ của Lewis & Clark và cộng sự, tôi nhớ đinh ninh lời Thầy dặn, thật ấn tượng và thấm thía khi viết bài thơ cảm khái:

ĐI ĐỂ HIỂU QUÊ HƯƠNG

Tạm biệt Oregon !
Tạm biệt Obregon California !
Cánh bay đưa ta về CIMMYT
Bầu trời xanh bát ngát
Lững lờ mây trắng bay
Những ngọn núi cao nhấp nhô
Những dòng sông dài uốn khúc
Hồ lớn Ciudad Obregon
ba tỷ khối nước

Nở xòe như chùm pháo bông
Những cánh đồng mênh mông
Thành trăm hình thù dưới làn mây bạc
Con đường dài đưa ta đi
Suốt dọc từ Nam chí Bắc
Thành sợi chỉ màu chạy mút tầm xa…

Ơi vòm trời xanh bao la
Gọi lòng ta nhớ về Tổ Quốc
Ôi Việt Nam, Việt Nam
Một vùng nhớ trong lòng ta tỉnh thức
Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương.

Hoàng Kim

Sáu tháng ở CIMMYT với tôi là một câu chuyện ám ảnh. Tôi như cậu bé chăn cừu mà Paulo Coelho kể trong kiệt tác của tâm hồn Nhà Giả Kim (O Alquimista) mà tôi đã viết ở Ngọc lục bảo Paulo Coelho, cũng giống như cô bé Quách Tương tại tiểu thuyết ‘Thần điêu đại hiệp’ của Kim Dung đi vào thế giới bí ẩn của riêng mình với khát khao tìm kiếm

Thầy Norman Borlaug là nhà khoa học xanh sống nhân đạo, và nêu gương tốt. Thầy là nhà nông học Mỹ cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong  cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống.Câu chuyện về Người tôi đã kể vắn tắt tại Norman Borlaug di sản, niềm tin và nổ lực

Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29.8.1988. Thầy đã một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày cha mất. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch, Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy.

Người Thầy của tôi đã chọn chỉ cho tôi chỉ dấu Thomas Jefferson đã viết tự truyện của riêng mình để nói ít nhất trong lịch sử nước Mỹ nhưng để lại di sản lớn bằng cách chọn nhấn mạnh các mục từ khi bắt đầu và kết thúc sự nghiệp công cộng lâu dài của mình.

Lời Thầy dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm tiếng để đời”.


Tôi nghĩ ngợi nhiều về miền Tây của Mexico và nước Mỹ xưa và nay. Ở đó cũng có những cây xương rồng và những vùng đất cằn cỗi.


Miền Tây của Mexico, CIANO và vùng OREGON của Miền Tây nước Mỹ cũng đồi núi trập trùng hệt Việt Nam và biên độ nóng bức và giá lạnh thật lớn, dân cư thưa thớt với nhiều người dân bản địa.

Chúng tôi đến CIANO và đi dọc miền Tây mà không đi ngang nước Mỹ như Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark. CIANO là địa chỉ xanh tuyệt vời để tôi hiểu thế nào là một trạm trại nông nghiệp thực sự.


Khu văn phòng của trại thực nghiệm CIANO không lớn nhưng thực sự tiện nghi và hiệu quả và đồng ruộng nghiên cứu thí nghiệm thì được đầu tư và quản lý thật tuyệt vời.


Cánh đồng lúa mì thí nghiệm thực nghiệm tại CIANO thực sự cuốn hút. Đoàn chúng tôi ngày đi tham quan học tập. Buổi chiều sau khi ăn tối tôi lại mê mãi ghi chép,đọc và viết.
Bài học mà thầy Norman Borlaug chỉ dấu với tôi về Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark thật thú vị.

Chuyến khảo sát của Lewis và Clark trong hai năm rưỡi đã đạt được thành tựu:

  • Hoa Kỳ hiểu biết rộng thêm về địa lý của phía miền tây nước Mỹ trong hình thức các bản đồ về các con sông và dãy núi chính.
  • Quan sát và mô tả 178 loài thực vật và 122 loài động vật (qua Danh sách của loài thực động vật được mô tả qua chuyến thám hiểm Lewis và Clark)
  • Khuyến khích giao thương da thú Âu-Mỹ tại miền Tây
  • Mở rộng quan hệ ngoại giao Âu-Mỹ với người bản thổ Mỹ
  • Thiết lập một tiền lệ cho việc thám hiểm miền Tây của Quân đội Hoa Kỳ
  • Củng cố tuyên bố chủ quyền của Hoa Kỳ đối với Lãnh thổ Oregon
  • Tập trung sự chú ý của truyền thông và của Hoa Kỳ vào miền Tây
  • Nhật ký của Lewis và Clark với các trang viết về họ đã hình thành một bộ văn chương lớn nói về miền Tây.

Lời Thầy dặn thung dungCon đường di sản LewisClark với tôi là bài học tuyệt vời.

Ngọt bùi nhớ trái ớt cay

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Mênh mang một khúc sông Hồng
Huyền Thoại Hồ Núi Cốc
Một thoáng Tây Hồ
Trên đỉnh Phù Vân
Chảy đi sông ơi …

Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Advertisement

Chào ngày mới 30 tháng 9


DẠY VÀ HỌC 30 THÁNG 9
Hoàng Kim và Hoàng Long
CNM365 Tình yêu cuộc sống #vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói; Vườn giống sắn Đồng Xuân, Giống sắn KM419 và KM440; Giống sắn chủ lực KM419; Chọn giống sắn Việt Nam; Châu Mỹ chuyện không quên; Lời Thầy dặn thung dung; Con đường di sản LewisClark; Ngọt bùi nhớ trái ớt cay; Thầy Nguyễn Lân Dũng; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Ngày 30 tháng 9 năm 1935 Đập Hoover của Hoa Kỳ được khánh thành. Đập này nằm trên biên giới giữa hai bang Arizona và Nevada, của sông Colorado, miền tây nước Mỹ. Phía bắc đập nước đã thành hồ Mead, là một trong những kho nước nhân tạo lớn nhất thế giới, dài 177 km, tuyến bờ hồ dài 1.323 km (Hình 1.6). Ngày 30 tháng 9 năm 1966 Ngày Độc lập tại Botswana là một nước cộng hoà nằm kín trong lục địa Nam Phi, trước kia là quốc gia bảo hộ bởi Vương quốc Anh, nay thành nước độc lập thuộc Khối thịnh vượng chung Anh Quốc. Nước Botswana có diện tích tự nhiên 581.730 km² (hạng 46) so Việt Nam 331.699 km² (hạng 66) Nước Botswana được đặt tên theo nhóm sắc tộc lớn nhất, người Tswana, có quan hệ chặt chẽ với Nam Phi, chủ yếu dựa vào khai mỏ (đặc biệt là kim cương), chăn nuôi gia súc, và du lịch; Ngày 30 tháng 9 năm 1520, Suleiman I đăng quang Sultan của Ottoman, đế quốc đạt đỉnh cao về quân sự, chính trị và kinh tế trong thời gian ông trị vì. ‘Nhà nước Ottoman Tối cao’ là quốc hiệu nước Thổ Nhĩ Kỳ thời từ năm 1299 đến 1923. Đế quốc Ottoman tương tác với văn hóa phương Đông và phương Tây trong suốt lịch sử 624 năm của nó. Đế quốc Ottoman thời đỉnh cao quyền lực ở thế kỷ XVI và thế kỷ XVII, lãnh thổ rộng lớn gồm các vùng Tiểu Á, Trung Đông, nhiều phần ở Bắc Phi, và đa phần đông nam châu Âu đến tận Kavkaz, có diện tích khoảng trên 5,6 triệu km², với vùng ảnh hưởng thực tế của đế quốc này còn rộng hơn nhiều, nếu tính cả các vùng lân cận do các bộ lạc du mục cai quản, thuộc đế quốc này cai quản được công nhận. Bài chọn lọc ngày 30 tháng 9: #vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói; Vườn giống sắn Đồng Xuân, Giống sắn KM419 và KM440; Giống sắn chủ lực KM419; Chọn giống sắn Việt Nam; Châu Mỹ chuyện không quên; Lời Thầy dặn thung dung; Con đường di sản LewisClark; Ngọt bùi nhớ trái ớt cay; Thầy Nguyễn Lân Dũng; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-30-thang-9/

Chọn giống sắn Việt Nam
GIỐNG SẮN CHỦ LỰC KM419
Giống sắn KM 419 được chọn tạo từ tổ hợp lai BKA900 x KM 98-5. Giống do Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên, Trường Đại học Nông Lâm Huế tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Thị Trúc Mai, Võ Văn Quang, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Lệ Dung, Nguyễn Phương, Hoàng Long, Nguyễn Minh Cường, Đào Trọng Tuấn, Trần Công Khanh, Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thị Cách, Nguyễn Trọng Hiển, Lê Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2016), Giống sắn KM419 đượcBộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận sản xuất thử tại Quyết định số 85 / QĐ-BNN-TT Hà Nội ngày 13 tháng 1 năm 2016 cho vùng sinh thái Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ).

Giống sắn KM419 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2016 chiếm 38 % so với giống sắn KM94 chiếm 31,7% (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree), và năm 2019 giống sắn KM419 chiếm khoảng 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam. Giống sắn chủ lực và phổ biến ở Việt Nam ngày nay là KI419 và KM140, trong khi chờ đợi các giống sắn mới tích hợp gen kháng bệnh CMD được khảo nghiệm (Báo Nhân Dân 2020 dẫn kết luận của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,: các giống đối chứng tốt nhất hiện trồng tại Tây Ninh là KM419 và KM140 có năng suất 44-48 tấn/ha https://nhandan.vn/chuyen-lam-an/tim-ra-giong-san-khang-benh-kham-la-625634/ );.

Giống sắn KM419 đã phát triển rộng rãi tại Tây Ninh, Đồng Nai, Đắk Lắk, Phú Yên,…được nông dân các địa phương ưa chuộng với tên gọi sắn giống cao sản siêu bột Nông Lâm. Đặc biệt tại tỉnh Phú Yên giống sắn KM419 được trồng trên 85% tổng diện tích sắn của toàn tỉnh mang lại bội thu năng suất và hiệu quả cao về kinh tế xã hội. Tại Tây Ninh, năm 2019 diện tích sắn bị nhiễm bệnh CMD tuy vẫn còn cao nhưng mức độ hại giảm mạnh, lý do vì KM419 và KM94 là giống chủ lực chiếm trên 76% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh (KM419 chiếm 45% ở vụ Đông Xuân và 54,2% ở vụ Hè Thu; KM94 chiếm 31% ở vụ Đông Xuân và 21,6% ở vụ Hè Thu). Tại Đăk Lắk, năm 2019 diện tích sắn KM419 chiếm trên 70% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh.

Giống KM419 có đặc điểm:

+ Thân xanh xám thẳng, ngọn xanh cọng đỏ, lá xanh đậm, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 34,9-54,9 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
+ Hàm lượng tinh bột: 27,8 – 30,7%.
+ Năng suất tinh bột: 10,1-15,8 tấn/ ha
+ Chỉ số thu hoạch: 62 %.
+ Thời gian thu hoạch: 7-10 tháng.
+ Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng và bệnh khảm lá virus CMD
+ Cây cao vừa, nhặt mắt, tán gọn, thích hợp trồng mật độ dày 12,500- 14.000 gốc/ ha .

Sự bùng nổ về năng suất sản lượng và hiệu quả kinh tế sắn đã trùng hợp với sự xuất hiện, lây lan của các bệnh hại bệnh sắn nghiêm trọng. Đặc biệt bệnh khảm lá CMD do virus gây hại (Sri Lanka Cassava Mosaic Virus) lây lan rất nhanh và gây hại khủng hoảng các vùng trồng sắn. Tại Việt Nam, bệnh này được phát hiện vào tháng 5/2017 trên giống sắn HLS11, đến tháng 7/ 2019 bệnh đã gây hại các vùng trồng sắn của 15 tỉnh, thành phố (2018), trên hầu hết các giống sắn hiện có ở Việt Nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Cục BVTV đã có văn bản 1068 ngày 9/5/2019 xác định “Việc hướng dẫn nông dân mua giống KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất hiện nay”.

Điểm lưu ý trong sản xuất hiện nay là trồng giống KM419 sạch bệnh. Cần phân biệt giống sắn giống KM419 với HLS11 và các giống sắn chưa rõ lý lịch cha mẹ và nguồn gốc giống. Giống sắn KM419 đăc trưng là 1) thấp cây, tán gọn, cọng đỏ; 2) vỏ cũ xám trắng, 3) chống chịu nhẹ đến trung bình bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 đặc trưng là 1) cao cây, cọng xanh, 2) vỏ củ nâu đỏ, 3) nhiễm nặng bệnh CMD và bệnh đốm lá CBB. Giống sắn chủ lực KM419, được lai tạo đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440, KM397 tạo ra các giống sắn KM568, KM537, KM536, KM535, năng suất bột cao kháng bệnh CMD và CWBD và có dạng hình cây thấp tán gọn,

Giống sắn KM419 bìa trái thấp cây, tán gọn, cọng đỏ, chống chịu trung bình với bệnh CMD và CWBD , và các dòng sắn lai ít bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 giữa, cao cây, cọng xanh, nhiễm nặng bệnh CMD

Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và vùng phụ cận (Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự 2020). Sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao và nhiễm nhẹ đến trung bình bệnh CMD và bệnh chồi rồng (CWBD) để đưa thêm vào gen mục tiêu (C39) kháng bệnh. Chọn tạo và phát triển 1-2 các giống sắn mới trong phả hệ các giống sắn triển vọng KM568, KM537, KM536, KM535, KM534 là nội dung nghiên cứu quan trọng “Chọn tạo sắn Việt Nam” cấp thiết, có tính khả thi cao, tính mới cao, kế thừa và phát triển bền vững giống sắn ở Việt Nam tốt nhất hiện nay.

xem thêm Chọn giống sắn Việt Nam; Chọn giống sắn kháng CWBD; Chọn giống sắn kháng CMD, Bảo tồn và phát triển sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

Video yêu thích
Giống sắn KM419 và KM440 ở Việt Nam hiện nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU .

CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN
Hoàng Kim

Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.

“Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.

Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. Lời Thầy dặn thung dung.

Châu Mỹ chuyện không quên
Hoàng Kim

Niềm tin và nghị lực
Về lại mái trường xưa
Hưng Lộc nôi yêu thương
Năm tháng ở trời Âu

Vòng qua Tây Bán Cầu
CIMMYT tươi rói kỷ niệm
Mexico ấn tượng lắng đọng
Lời Thầy dặn không quên

Ấn tượng Borlaug và Hemingway
Con đường di sản Lewis Clark
Sóng yêu thương vỗ mãi
Đối thoại nền văn hóa

Truyện George Washington
Minh triết Thomas Jefferson
Mark Twain nhà văn Mỹ
Đi để hiểu quê hương

500 năm nông nghiệp Brazil
Ngọc lục bảo Paulo Coelho
Rio phố núi và biển
Kiệt tác của tâm hồn

Giấc mơ thiêng cùng Goethe
Chuyện Henry Ford lên Trời
Bài đồng dao huyền thoại
Bảo tồn và phát triển

Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt Nam và Howeler
Một ngày với Hernán Ceballos
CIAT Colombia thật ấn tượng
Martin Fregene xa mà gần

Châu Mỹ chuyện không quên
CIP Peru và khoai Việt
Nam Mỹ trong mắt tôi
Nhiều bạn tôi ở đấy

Machu Picchu di sản thế giới
Mark Zuckerberg và Facebook
Lời vàng Albert Einstein
Bill Gates học để làm

Thomas Edison một huyền thoại
Toni Morrison nhà văn Mỹ
Walt Disney bạn trẻ thơ
Lúa Việt tới Châu Mỹ.

xem tiếp 36 đường dẫn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chau-my-chuyen-khong-quen/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tuthangminhlabaihocdautien.jpg

BÀI HỌC TỰ THẮNG MÌNH
Hoàng Kim

Ngày mỗi ngày phải tự thắng mình
Trận chiến mới em mãi là chiến sĩ
Ngày mỗi ngày cần ghi đều nhật ký
Tự thắng mình là bài học đầu tiên !

Có điện lung linh suốt đêm
Không quên vầng trăng ngọn lửa
Ngày dẫu miệt mài
Đêm về phải cố
Khắc sâu lời nguyền xưa !

“Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân”

Lưu bút Norman E. Borlaug gửi Hoàng Kim ngày 17 tháng 7 năm 1989 từ CIMMYT (hình) sau khi tôi đã về Việt Nam. Bài học phúc hậu, minh triết, tân tâm của gương sáng người Thầy, đã theo tôi suốt đời, tỏa sáng nhân cách, trí tuệ.

Chuyện Bài học tự thắng mình trong chùm bài viết Đi như một dòng sông Châu Mỹ chuyện không quên.nối Con đường di sản LewisClark . Đó là sự tiếp nối Làng Minh Lệ quê tôi của các ghi chú nhỏ (Notes) Linh Giang Đình Minh Lệ; Đá Đứng chốn sông thiêng; Nguồn Son nối Phong Nha Đất Mẹ vùng di sản. Tôi xa quê Quảng Bình từ nhỏ. Quê hương nơi sinh thành là bài học quý cho bất cứ ai lớn nổi thành người, nhưng tôi vì hoàn cảnh lưu lạc xa xứ nên hiểu quê hương có giới hạn, mà ấn tượng lắng đọng sâu sắc nhất là Tổ quốc Quê hương đất nước con người, trãi mười hai bến nước của vận mệnh chiếc lá trôi dạt, đi để hiểu quê hương. Làng Minh Lệ quê tôi là bài học KHAI TÂM đầu đời là của cha mẹ và thầy giáo già mù nơi ngôi nhà tuổi thơ bến quê, với sự chỉ dạy tiếp theo của anh hai Hoàng Ngọc Dộ, chị năm Hoàng Thị Huyền đã thay cha mẹ mất để nuôi em dìu dắt cưu mang em, với thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng cùng quý thầy bạn và người thân thắp lên ngọn lửa. Bài học của bến nước này là KHAI TRÍ. Chùm ảnh bài này thắp sáng ước mơ. .

LỜI THẦY DẶN
Hoàng Kim

Việc chính đời người chỉ ít thôi.
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi.
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện.
Di sản muôn năm mãi sáng ngời

Biết đủ thời nhàn sống thảnh thơi
Con em và cháu vững tay rồi
An nhàn vô sự là tiên đấy
Minh triết mỗi ngày dạy học chơi.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoangkim-tiepbotruongnguyenngoctruu.jpg

Bộ Trưởng Nguyễn Ngọc Trìu đến Trung tâm Hưng Lộc năm 1987 thăm thành tựu tiến bộ kỹ thuật “Trồng ngô lai xen đậu ở vùng Đông Nam Bộ” và mô hình “Nghiên cứu phát triển đậu rồng ở các tỉnh phía Nam” (Nguồn: Nhớ cụ Nguyễn Ngọc Trìu, bài và ảnh Hoàng Kim)

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thaybanlalocxuancuocdoi.jpg

NLU hướng tới 65 năm. Chào mừng quý Thầy Cô và Các Bạn 30 năm ngày ra Trường 2010. Ảnh Họp mặt Kỷ niệm 30 năm ngày ra Trường, Khóa 2 Trồng Trọt, Chăn nuôi, Kinh tế, Lâm Nghiệp, Thủy Sản Trường Đại Học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, năm 2010 (Nguồn: Thầy bạn trong đời tôi, Bài và ảnh Hoàng Kim, lưu ảnh truyền thống)

ĐI NHƯ MỘT DÒNG SÔNG
Hoàng Kim


Hoàng Kim ở CIMMYT 1988 (hình) trong bài Đi như một dòng sông . Đây là kinh nghiệm khởi nghiệp kể cho người thân và thầy bạn quý, với các bạn trẻ đang tìm kiếm sự kết nối học để làm (Learning to Doing) với dạy và học hiệu qủa. Bài viết này được trích phần đầu của Thầy bạn là lộc xuân với phần giữa Dạy và học ngày nay và phần cuối Con đường di sản LewisClark của Châu Mỹ chuyện không quên . Đó là thu hoạch của tôi với thầy bạn

TỪ CẬU BÉ LÀNG MINH LỆ

Quê tôi ở miền Trung nghèo khó “Nhà mình gần ngã ba sông/ Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình,/ Linh Giang sông núi hữu tình / Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con/ Chèo thuyền cho khuất bến Son/ Để con khỏi chộ (thấy) nước non thêm buồn/ Câu thơ quặn thắt đời con/ Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ”. Tôi xa quê từ nhỏ. Mười tuổi mồ côi mẹ, Mười bốn tuổi cha chết do bom Mỹ giết hại.Tôi với chị gái Hoàng Thị Huyền ở với anh trai Hoàng Ngọc Dộ trong nhà hầm của lớp học ở làng Phù Lưu để học cấp ba Bắc Quảng Trạch. Anh trai tôi dạy cấp một, giáo viên khẩu phần ăn 13 ký lương thực mỗi tháng, trong đó có 70% là khoai sắn. Anh vì nuôi hai em thay cha mẹ mất nên khẩu phần ăn ấy chia cho ba người ăn. Đói. Gia đình tôi năm năm đã ăn ngày một bữa. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh đứng khóc trên bục giảng vận động thầy cô, bạn hữu chia sớt khoai sắn giúp đỡ. Tôi cũng dạy năm lớp vở lòng, ba lớp bổ túc văn hóa và cùng anh cuốc đất tăng gia để vượt khó vươn lên. Thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết những lời xúc động trong Bài ca Trường Quảng Trạch trường ca tình thầy trò: “Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất. Lại cha già giặc giết hôm qua. Tình thầy, tình bạn, tình cha. Ấy là ân nghĩa thiết tha mặn nồng” (9)  Những gương mặt thầy bạn đã trở thành máu thịt trong đời tôi.

Thi đậu vào Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc năm 1970, tôi học Trồng trọt 4 cùng khóa với các bạn Trần Văn Minh, Đỗ Thị Minh Huệ, Phan Thanh Kiếm, Đỗ Khắc Thịnh, Vũ Mạnh Hải, Phạm Sĩ Tân, Phạm Huy Trung, Lê Xuân Đính, Nguyễn Hữu Bình, Lê Huy Bá … cho đến ngày 02 tháng 9 năm 1971 thì tôi gia nhập quân đội cùng lứa với Nguyễn Văn Thạc. Đợt tuyển quân sinh viên trong ngày độc lập đã nói lên sự quyết liệt sinh tử và ý nghĩa thiêng liêng của ngày cầm súng. Chiến trường đánh lớn. Đơn vị chúng tôi chỉ huấn luyện rất ngắn rồi vào trận ngay với 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn. Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 sau này đã đi vào huyền thoại: “Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm” Tổ chúng tôi bốn người thì Xuân và Chương hi sinh, chỉ Trung và tôi trở về trường sau ngày đất nước thống nhất.  Những vần thơ viết dưới đây là xúc động sâu xa của tôi khi nghĩ về bạn học đồng đội đã khuất: “Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh

Tôi về học tiếp năm thứ hai tại Trồng trọt 10 của Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc đến cuối năm 1977 thì chuyển trường vào Đại học Nông nghiệp 4, tiền thân Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trồng trọt 2 thuở đó là một lớp chung mãi cuối khóa mới tách ra 2A,2B, 2C. Tôi làm Chủ tịch Hội Sinh viên thay cho anh Nguyễn Anh Tuấn khoa thủy sản ra trường về dạy Đại học Cần Thơ. Trồng trọt khóa hai chúng tôi thuở đó được học với các thầy cô: Nguyễn Đăng Long, Tô Phúc Tường, Nguyễn Tâm Đài, Trịnh Xuân Vũ, Lê Văn Thượng, Ngô Kế Sương, Trần Thạnh, Lê Minh Triết, Phạm Kiến Nghiệp, Nguyễn Bá Khương, Nguyễn Tâm Thu, Nguyễn Bích Liễu, Trần Như Nguyện, Trần Nữ Thanh, Vũ Mỹ Liên, Từ Bích Thủy, Huỳnh Thị Lệ Nguyên, Trần Thị Kiếm, Vũ Thị Chỉnh, Ngô Thị Sáu, Huỳnh Trung Phu, Phan Gia Tân, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Kế, … Ngoài ra còn có nhiều thầy cô hướng dẫn thực hành, thực tập, kỹ thuật phòng thí nghiệm, chủ nhiệm lớp như Bùi Cách Tuyến, Nguyễn Văn Kịp, Lê Quang Hưng, Trương Đình Khôi, Nguyễn Ngọc Châu, Nguyễn Gia Quốc, Nguyễn Văn Biền, Lê Huy Bá, Hoàng Quý Châu, Phạm Lệ Hòa, Đinh Ngọc Loan, Chung Anh Tú và cô Thảo làm thư ký văn phòng Khoa. Bác Năm Quỳnh là Bí thư Đảng ủy đầu tiên của Trường sau đó là thầy Kiên và cô Bạch Trà. Thầy Nguyễn Phan là Hiệu trưởng kiêm Trưởng Trại Thực nghiệm. Thầy Dương Thanh Liêm, Nguyễn Ngọc Tuân, Võ Thị Tuyết, Ngô Văn Mận, Bùi Xuân An … ở khoa Chăn nuôi Thú y, thầy Nguyển Yên Khâu, Nguyễn Quang Lộc … ở khoa Cơ khí, cô Nguyễn Thị Sâm ở Phòng Tổ chức, cô Văn Thị Bạch Mai dạy tiếng Anh, thầy Đặng, thầy Tuyển, thầy Châu ở Kinh tế -Mác Lê …Thầy Trần Thạnh, anh Quang, anh Đính, anh Đống ở trại Trường là những người đã gần gũi và giúp đỡ nhiều các lớp nông học.

Thay ban trong doi toi 1b

Thuở đó đời sống thầy cô và sinh viên thật thiếu thốn. Các lớp Trồng trọt khóa 1, khóa 2, khóa 3 chúng tôi thường hoạt động chung như: thực hành sản xuất ở trại lúa Cát Lái, giúp dân phòng trừ rầy nâu, điều tra nông nghiệp, trồng cây dầu che mát sân trường, rèn nghề ở trại thực nghiệm, huấn luyện quốc phòng toàn dân, tập thể dục sáng, hội diễn văn nghệ, thi đấu bóng chuyền, bóng đá tạo nên sự thân tình gắn bó. Những sinh viên các khóa đầu tiên được đào tạo ở Khoa Nông học sau ngày Việt Nam thống nhất hiện đang công tác tại trường có các thầy cô như  Từ Thị Mỹ Thuận, Lê Văn Dũ, Huỳnh Hồng, Cao Xuân Tài, Phan Văn Tự, …

Tháng 5 năm 1981, nhóm sinh viên của khoa Nông học đã bảo vệ thành công đề tài thu thập và tuyển chọn giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu, Gạo, Bí Đà Lạt được Bộ Nông nghiệp công nhận giống ở Hội nghị Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Toàn Quốc Lần thứ Nhất tổ chức tại Thành phố Hố Chí Minh. Đây là một trong những kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đầu tiên của Trường giới thiệu cho sản xuất. Thầy Cô Khoa Nông học và hai lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 cũng đã làm họ trai họ gái tác thành đám cưới cho vợ chồng tôi. Sau này, chúng tôi lấy tên khoai Hoàng Long để đặt cho con và thầm hứa việc tiếp nối sự nghiệp nghiên cứu khoa học và giảng dạy, một nghề nghiệp cao quý và lương thiện. “Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền. Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó. Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ. Có bạn thầy càng bền chí vươn lên. Trước mỗi khó khăn tập thể luôn bên. Chia ngọt xẻ bùi động viên tiếp sức. Thân thiết yêu thương như là ruột thịt. Ta tự nhủ lòng cần cố gắng hơn

tt2-1

Bạn học chúng tôi vẫn thỉnh thoảng họp mặt, có Danh sách các lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 số điện thoại và địa chỉ liên lạc. Một số hình ảnh của các lớp ngày ấy và bây giờ

TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA TÔI

Đi như một dòng sông, Đời người là chuỗi hệ thống Học, Làm, Dạy, Nhàn, Viết.của năm quá trình kế tiếp nhau, đan xen nhau, hỗ trợ nhau, trộn vào nhau thành đời tôi.

SỰ HỌC khởi đầu từ lúc con người sinh ra cho đến khi có VIỆC LÀM để mưu sinh, để lao động, để cống hiến, để không còn làm người ăn bám sống trên mồ hôi thành quả của người khác, để biến cái sở trường thành hữu dụng. Đó là sự học chân chính, học để làm. Sự học tốt nhất là tự học suốt đời và sự học hữu dụng nhất, hiệu quả nhất là học làm người có ích. Học để làm tốt một nghề.

VIỆC LÀM VÀ VIỆC DẠY dường như chiếm một nữa đời người khi một phần tư đời người cho tuổi thơ và sự học, Dẫu sự học tốt nhất là tự học suốt đời nhưng thật xấu hổ nếu không biết làm và dạy. Học làm người có ích là có tâm huyết, chuyên nghiệp và kỹ năng học làm người có ích. Có người giảng dạy và việc làm tách riêng , làm thành thạo trước và trao truyền sau nhưng có nhiều người việc làm và việc dạy kết rất nhuyễn, Cha mẹ là thầy cô đầu đời của con.

AN NHÀN VÔ SỰ VÀ VIẾT. Nhàn và viết để lắng đọng di sản. An nhàn vô sự và viết dường như chiếm một phần tư đời người sau cùng. Phúc cho ai hưởng nhàn và đọng lại di sản. Minh triết sống phúc hậu là bài học quý, Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.

CON ĐƯỜNG DI SẢN LEVIS CLARK

Tôi sang châu Mỹ nhiều lần, có trên 36 bài đường dẫn, thỉnh thoảng vui đọc lại và viết.Đó là một chặng đường trải nghiệm thích thú, trong con đường di sản của riêng mình. Thầy tôi Norman Borlaug  trao đổi với tôi thật nhiều câu chuyện Thomas Jefferson (1743 – 1826) là Nhà tư tưởng sáng lập nước Mỹ, với Lewis & Clark cuộc thám hiểm miền Tây nước Mỹ. Đó là một ví dụ điển hình về tầm nhìn và dự án khoa học thành công.Con đường di sản LewisClark lắng đọng trong tôi thật sâu Chuyện bây giờ mới kể …

Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark đã được khởi sự vào ngày 14 tháng 5 năm 1804 và kết thúc cuối năm 1806. Đây là cuộc thám hiểm trên bộ đầu tiên của người Mỹ đến những tiểu bang duyên hải cận tây nhất của nước Mỹ và ngược lại. Miền Tây nước Mỹ là vùng đất nhiều thổ dân da đỏ sinh sống khoảng 10 ngàn năm trước đó, và thuở ấy miền Tây nước Mỹ có sự hiện diện của những cư dân mới là người thám hiểm và định cư thuộc các nước Tây Ban Nha, Anh, México, Nga và Mỹ. Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã kiến nghị Quốc hội Mỹ phê chuẩn đầu tư cho chuyến khảo sát đường bộ của cuộc thám hiểm của Lewis và Clark cùng cộng sự. Trong một lá thư đề ngày 20 tháng 6 năm 1803, Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã viết cho Lewis. “Mục tiêu sứ mạng của anh là thám hiểm Sông Missouri và dòng suối chính của nó qua dòng chảy và sự liên thông của nó với các bộ phận nước khác của Thái Bình Dương để xem Sông Columbia, Xứ Oregon, Colorado hay bất cứ con sông nào có thể cung cấp một sự liên thông mặt nước thực tiễn và trực tiếp nhất ngang qua lục địa này để giúp cho những mục đích thương mại“.

Thầy tôi trong buổi trò chuyện của mình đã khoanh vào các chỉ dấu Thomas Jefferson Lewis & Clark thành những điểm chính nhấn mạnh cho các lời diễn đạt của mình


Trong chuyến khảo sát CIANO, OREGON của Miền Tây Mexico và nước Mỹ năm 1989 sau 186 năm từ chuyến thám hiểm miền Tây nước Mỹ của Lewis & Clark và cộng sự, tôi nhớ đinh ninh lời Thầy dặn, thật ấn tượng và thấm thía khi viết bài thơ cảm khái:

ĐI ĐỂ HIỂU QUÊ HƯƠNG

Tạm biệt Oregon !
Tạm biệt Obregon California !
Cánh bay đưa ta về CIMMYT
Bầu trời xanh bát ngát
Lững lờ mây trắng bay
Những ngọn núi cao nhấp nhô
Những dòng sông dài uốn khúc
Hồ lớn Ciudad Obregon
ba tỷ khối nước

Nở xòe như chùm pháo bông
Những cánh đồng mênh mông
Thành trăm hình thù dưới làn mây bạc
Con đường dài đưa ta đi
Suốt dọc từ Nam chí Bắc
Thành sợi chỉ màu chạy mút tầm xa…

Ơi vòm trời xanh bao la
Gọi lòng ta nhớ về Tổ Quốc
Ôi Việt Nam, Việt Nam
Một vùng nhớ trong lòng ta tỉnh thức
Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương.

Hoàng Kim

Sáu tháng ở CIMMYT với tôi là một câu chuyện ám ảnh. Tôi như cậu bé chăn cừu mà Paulo Coelho kể trong kiệt tác của tâm hồn Nhà Giả Kim (O Alquimista) mà tôi đã viết ở Ngọc lục bảo Paulo Coelho, cũng giống như cô bé Quách Tương tại tiểu thuyết ‘Thần điêu đại hiệp’ của Kim Dung đi vào thế giới bí ẩn của riêng mình với khát khao tìm kiếm

Thầy Norman Borlaug là nhà khoa học xanh sống nhân đạo, và nêu gương tốt. Thầy là nhà nông học Mỹ cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong  cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống.Câu chuyện về Người tôi đã kể vắn tắt tại Norman Borlaug di sản, niềm tin và nổ lực

Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29.8.1988. Thầy đã một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày cha mất. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch, Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy.

Người Thầy của tôi đã chọn chỉ cho tôi chỉ dấu Thomas Jefferson đã viết tự truyện của riêng mình để nói ít nhất trong lịch sử nước Mỹ nhưng để lại di sản lớn bằng cách chọn nhấn mạnh các mục từ khi bắt đầu và kết thúc sự nghiệp công cộng lâu dài của mình.

Lời Thầy dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm tiếng để đời”.


Tôi nghĩ ngợi nhiều về miền Tây của Mexico và nước Mỹ xưa và nay. Ở đó cũng có những cây xương rồng và những vùng đất cằn cỗi.


Miền Tây của Mexico, CIANO và vùng OREGON của Miền Tây nước Mỹ cũng đồi núi trập trùng hệt Việt Nam và biên độ nóng bức và giá lạnh thật lớn, dân cư thưa thớt với nhiều người dân bản địa.

Chúng tôi đến CIANO và đi dọc miền Tây mà không đi ngang nước Mỹ như Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark. CIANO là địa chỉ xanh tuyệt vời để tôi hiểu thế nào là một trạm trại nông nghiệp thực sự.


Khu văn phòng của trại thực nghiệm CIANO không lớn nhưng thực sự tiện nghi và hiệu quả và đồng ruộng nghiên cứu thí nghiệm thì được đầu tư và quản lý thật tuyệt vời.


Cánh đồng lúa mì thí nghiệm thực nghiệm tại CIANO thực sự cuốn hút. Đoàn chúng tôi ngày đi tham quan học tập. Buổi chiều sau khi ăn tối tôi lại mê mãi ghi chép,đọc và viết.
Bài học mà thầy Norman Borlaug chỉ dấu với tôi về Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark thật thú vị.

Chuyến khảo sát của Lewis và Clark trong hai năm rưỡi đã đạt được thành tựu:

  • Hoa Kỳ hiểu biết rộng thêm về địa lý của phía miền tây nước Mỹ trong hình thức các bản đồ về các con sông và dãy núi chính.
  • Quan sát và mô tả 178 loài thực vật và 122 loài động vật (qua Danh sách của loài thực động vật được mô tả qua chuyến thám hiểm Lewis và Clark)
  • Khuyến khích giao thương da thú Âu-Mỹ tại miền Tây
  • Mở rộng quan hệ ngoại giao Âu-Mỹ với người bản thổ Mỹ
  • Thiết lập một tiền lệ cho việc thám hiểm miền Tây của Quân đội Hoa Kỳ
  • Củng cố tuyên bố chủ quyền của Hoa Kỳ đối với Lãnh thổ Oregon
  • Tập trung sự chú ý của truyền thông và của Hoa Kỳ vào miền Tây
  • Nhật ký của Lewis và Clark với các trang viết về họ đã hình thành một bộ văn chương lớn nói về miền Tây.

Lời Thầy dặn thung dungCon đường di sản LewisClark với tôi là bài học tuyệt vời.

Ngọt bùi nhớ trái ớt cay

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Mênh mang một khúc sông Hồng
Huyền Thoại Hồ Núi Cốc
Một thoáng Tây Hồ
Trên đỉnh Phù Vân
Chảy đi sông ơi …

Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Chào ngày mới 30 tháng 9


DẠY VÀ HỌC 30 THÁNG 9
Hoàng Kim và Hoàng Long
CNM365 Tình yêu cuộc sống #vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói; Vườn giống sắn Đồng Xuân, Giống sắn KM419 và KM440; Giống sắn chủ lực KM419; Chọn giống sắn Việt Nam; Châu Mỹ chuyện không quên; Lời Thầy dặn thung dung; Con đường di sản LewisClark; Ngọt bùi nhớ trái ớt cay; Thầy Nguyễn Lân Dũng; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Ngày 30 tháng 9 năm 1935 Đập Hoover của Hoa Kỳ được khánh thành. Đập này nằm trên biên giới giữa hai bang Arizona và Nevada, của sông Colorado, miền tây nước Mỹ. Phía bắc đập nước đã thành hồ Mead, là một trong những kho nước nhân tạo lớn nhất thế giới, dài 177 km, tuyến bờ hồ dài 1.323 km (Hình 1.6). Ngày 30 tháng 9 năm 1966 Ngày Độc lập tại Botswana là một nước cộng hoà nằm kín trong lục địa Nam Phi, trước kia là quốc gia bảo hộ bởi Vương quốc Anh, nay thành nước độc lập thuộc Khối thịnh vượng chung Anh Quốc. Nước Botswana có diện tích tự nhiên 581.730 km² (hạng 46) so Việt Nam 331.699 km² (hạng 66) Nước Botswana được đặt tên theo nhóm sắc tộc lớn nhất, người Tswana, có quan hệ chặt chẽ với Nam Phi, chủ yếu dựa vào khai mỏ (đặc biệt là kim cương), chăn nuôi gia súc, và du lịch; Ngày 30 tháng 9 năm 1520, Suleiman I đăng quang Sultan của Ottoman, đế quốc đạt đỉnh cao về quân sự, chính trị và kinh tế trong thời gian ông trị vì. ‘Nhà nước Ottoman Tối cao’ là quốc hiệu nước Thổ Nhĩ Kỳ thời từ năm 1299 đến 1923. Đế quốc Ottoman tương tác với văn hóa phương Đông và phương Tây trong suốt lịch sử 624 năm của nó. Đế quốc Ottoman thời đỉnh cao quyền lực ở thế kỷ XVI và thế kỷ XVII, lãnh thổ rộng lớn gồm các vùng Tiểu Á, Trung Đông, nhiều phần ở Bắc Phi, và đa phần đông nam châu Âu đến tận Kavkaz, có diện tích khoảng trên 5,6 triệu km², với vùng ảnh hưởng thực tế của đế quốc này còn rộng hơn nhiều, nếu tính cả các vùng lân cận do các bộ lạc du mục cai quản, thuộc đế quốc này cai quản được công nhận. Bài chọn lọc ngày 30 tháng 9: #vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói; Vườn giống sắn Đồng Xuân, Giống sắn KM419 và KM440; Giống sắn chủ lực KM419; Chọn giống sắn Việt Nam; Châu Mỹ chuyện không quên; Lời Thầy dặn thung dung; Con đường di sản LewisClark; Ngọt bùi nhớ trái ớt cay; Thầy Nguyễn Lân Dũng; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-30-thang-9/

Chọn giống sắn Việt Nam
GIỐNG SẮN CHỦ LỰC KM419
Giống sắn KM 419 được chọn tạo từ tổ hợp lai BKA900 x KM 98-5. Giống do Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên, Trường Đại học Nông Lâm Huế tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Thị Trúc Mai, Võ Văn Quang, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Lệ Dung, Nguyễn Phương, Hoàng Long, Nguyễn Minh Cường, Đào Trọng Tuấn, Trần Công Khanh, Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thị Cách, Nguyễn Trọng Hiển, Lê Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2016), Giống sắn KM419 đượcBộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận sản xuất thử tại Quyết định số 85 / QĐ-BNN-TT Hà Nội ngày 13 tháng 1 năm 2016 cho vùng sinh thái Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ).

Giống sắn KM419 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2016 chiếm 38 % so với giống sắn KM94 chiếm 31,7% (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree), và năm 2019 giống sắn KM419 chiếm khoảng 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam. Giống sắn chủ lực và phổ biến ở Việt Nam ngày nay là KI419 và KM140, trong khi chờ đợi các giống sắn mới tích hợp gen kháng bệnh CMD được khảo nghiệm (Báo Nhân Dân 2020 dẫn kết luận của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,: các giống đối chứng tốt nhất hiện trồng tại Tây Ninh là KM419 và KM140 có năng suất 44-48 tấn/ha https://nhandan.vn/chuyen-lam-an/tim-ra-giong-san-khang-benh-kham-la-625634/ );.

Giống sắn KM419 đã phát triển rộng rãi tại Tây Ninh, Đồng Nai, Đắk Lắk, Phú Yên,…được nông dân các địa phương ưa chuộng với tên gọi sắn giống cao sản siêu bột Nông Lâm. Đặc biệt tại tỉnh Phú Yên giống sắn KM419 được trồng trên 85% tổng diện tích sắn của toàn tỉnh mang lại bội thu năng suất và hiệu quả cao về kinh tế xã hội. Tại Tây Ninh, năm 2019 diện tích sắn bị nhiễm bệnh CMD tuy vẫn còn cao nhưng mức độ hại giảm mạnh, lý do vì KM419 và KM94 là giống chủ lực chiếm trên 76% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh (KM419 chiếm 45% ở vụ Đông Xuân và 54,2% ở vụ Hè Thu; KM94 chiếm 31% ở vụ Đông Xuân và 21,6% ở vụ Hè Thu). Tại Đăk Lắk, năm 2019 diện tích sắn KM419 chiếm trên 70% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh.

Giống KM419 có đặc điểm:

+ Thân xanh xám thẳng, ngọn xanh cọng đỏ, lá xanh đậm, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 34,9-54,9 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
+ Hàm lượng tinh bột: 27,8 – 30,7%.
+ Năng suất tinh bột: 10,1-15,8 tấn/ ha
+ Chỉ số thu hoạch: 62 %.
+ Thời gian thu hoạch: 7-10 tháng.
+ Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng và bệnh khảm lá virus CMD
+ Cây cao vừa, nhặt mắt, tán gọn, thích hợp trồng mật độ dày 12,500- 14.000 gốc/ ha .

Sự bùng nổ về năng suất sản lượng và hiệu quả kinh tế sắn đã trùng hợp với sự xuất hiện, lây lan của các bệnh hại bệnh sắn nghiêm trọng. Đặc biệt bệnh khảm lá CMD do virus gây hại (Sri Lanka Cassava Mosaic Virus) lây lan rất nhanh và gây hại khủng hoảng các vùng trồng sắn. Tại Việt Nam, bệnh này được phát hiện vào tháng 5/2017 trên giống sắn HLS11, đến tháng 7/ 2019 bệnh đã gây hại các vùng trồng sắn của 15 tỉnh, thành phố (2018), trên hầu hết các giống sắn hiện có ở Việt Nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Cục BVTV đã có văn bản 1068 ngày 9/5/2019 xác định “Việc hướng dẫn nông dân mua giống KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất hiện nay”.

Điểm lưu ý trong sản xuất hiện nay là trồng giống KM419 sạch bệnh. Cần phân biệt giống sắn giống KM419 với HLS11 và các giống sắn chưa rõ lý lịch cha mẹ và nguồn gốc giống. Giống sắn KM419 đăc trưng là 1) thấp cây, tán gọn, cọng đỏ; 2) vỏ cũ xám trắng, 3) chống chịu nhẹ đến trung bình bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 đặc trưng là 1) cao cây, cọng xanh, 2) vỏ củ nâu đỏ, 3) nhiễm nặng bệnh CMD và bệnh đốm lá CBB. Giống sắn chủ lực KM419, được lai tạo đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440, KM397 tạo ra các giống sắn KM568, KM537, KM536, KM535, năng suất bột cao kháng bệnh CMD và CWBD và có dạng hình cây thấp tán gọn,

Giống sắn KM419 bìa trái thấp cây, tán gọn, cọng đỏ, chống chịu trung bình với bệnh CMD và CWBD , và các dòng sắn lai ít bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 giữa, cao cây, cọng xanh, nhiễm nặng bệnh CMD

Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và vùng phụ cận (Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự 2020). Sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao và nhiễm nhẹ đến trung bình bệnh CMD và bệnh chồi rồng (CWBD) để đưa thêm vào gen mục tiêu (C39) kháng bệnh. Chọn tạo và phát triển 1-2 các giống sắn mới trong phả hệ các giống sắn triển vọng KM568, KM537, KM536, KM535, KM534 là nội dung nghiên cứu quan trọng “Chọn tạo sắn Việt Nam” cấp thiết, có tính khả thi cao, tính mới cao, kế thừa và phát triển bền vững giống sắn ở Việt Nam tốt nhất hiện nay.

xem thêm Chọn giống sắn Việt Nam; Chọn giống sắn kháng CWBD; Chọn giống sắn kháng CMD, Bảo tồn và phát triển sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

Video yêu thích
Giống sắn KM419 và KM440 ở Việt Nam hiện nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU .

CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN
Hoàng Kim

Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.

“Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.

Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. Lời Thầy dặn thung dung.

Châu Mỹ chuyện không quên
Hoàng Kim

Niềm tin và nghị lực
Về lại mái trường xưa
Hưng Lộc nôi yêu thương
Năm tháng ở trời Âu

Vòng qua Tây Bán Cầu
CIMMYT tươi rói kỷ niệm
Mexico ấn tượng lắng đọng
Lời Thầy dặn không quên

Ấn tượng Borlaug và Hemingway
Con đường di sản Lewis Clark
Sóng yêu thương vỗ mãi
Đối thoại nền văn hóa

Truyện George Washington
Minh triết Thomas Jefferson
Mark Twain nhà văn Mỹ
Đi để hiểu quê hương

500 năm nông nghiệp Brazil
Ngọc lục bảo Paulo Coelho
Rio phố núi và biển
Kiệt tác của tâm hồn

Giấc mơ thiêng cùng Goethe
Chuyện Henry Ford lên Trời
Bài đồng dao huyền thoại
Bảo tồn và phát triển

Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt Nam và Howeler
Một ngày với Hernán Ceballos
CIAT Colombia thật ấn tượng
Martin Fregene xa mà gần

Châu Mỹ chuyện không quên
CIP Peru và khoai Việt
Nam Mỹ trong mắt tôi
Nhiều bạn tôi ở đấy

Machu Picchu di sản thế giới
Mark Zuckerberg và Facebook
Lời vàng Albert Einstein
Bill Gates học để làm

Thomas Edison một huyền thoại
Toni Morrison nhà văn Mỹ
Walt Disney bạn trẻ thơ
Lúa Việt tới Châu Mỹ.

xem tiếp 36 đường dẫn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chau-my-chuyen-khong-quen/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tuthangminhlabaihocdautien.jpg

BÀI HỌC TỰ THẮNG MÌNH
Hoàng Kim

Ngày mỗi ngày phải tự thắng mình
Trận chiến mới em mãi là chiến sĩ
Ngày mỗi ngày cần ghi đều nhật ký
Tự thắng mình là bài học đầu tiên !

Có điện lung linh suốt đêm
Không quên vầng trăng ngọn lửa
Ngày dẫu miệt mài
Đêm về phải cố
Khắc sâu lời nguyền xưa !

“Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân”

Lưu bút Norman E. Borlaug gửi Hoàng Kim ngày 17 tháng 7 năm 1989 từ CIMMYT (hình) sau khi tôi đã về Việt Nam. Bài học phúc hậu, minh triết, tân tâm của gương sáng người Thầy, đã theo tôi suốt đời, tỏa sáng nhân cách, trí tuệ.

Chuyện Bài học tự thắng mình trong chùm bài viết Đi như một dòng sông Châu Mỹ chuyện không quên.nối Con đường di sản LewisClark . Đó là sự tiếp nối Làng Minh Lệ quê tôi của các ghi chú nhỏ (Notes) Linh Giang Đình Minh Lệ; Đá Đứng chốn sông thiêng; Nguồn Son nối Phong Nha Đất Mẹ vùng di sản. Tôi xa quê Quảng Bình từ nhỏ. Quê hương nơi sinh thành là bài học quý cho bất cứ ai lớn nổi thành người, nhưng tôi vì hoàn cảnh lưu lạc xa xứ nên hiểu quê hương có giới hạn, mà ấn tượng lắng đọng sâu sắc nhất là Tổ quốc Quê hương đất nước con người, trãi mười hai bến nước của vận mệnh chiếc lá trôi dạt, đi để hiểu quê hương. Làng Minh Lệ quê tôi là bài học KHAI TÂM đầu đời là của cha mẹ và thầy giáo già mù nơi ngôi nhà tuổi thơ bến quê, với sự chỉ dạy tiếp theo của anh hai Hoàng Ngọc Dộ, chị năm Hoàng Thị Huyền đã thay cha mẹ mất để nuôi em dìu dắt cưu mang em, với thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng cùng quý thầy bạn và người thân thắp lên ngọn lửa. Bài học của bến nước này là KHAI TRÍ. Chùm ảnh bài này thắp sáng ước mơ. .

LỜI THẦY DẶN
Hoàng Kim

Việc chính đời người chỉ ít thôi.
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi.
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện.
Di sản muôn năm mãi sáng ngời

Biết đủ thời nhàn sống thảnh thơi
Con em và cháu vững tay rồi
An nhàn vô sự là tiên đấy
Minh triết mỗi ngày dạy học chơi.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoangkim-tiepbotruongnguyenngoctruu.jpg

Bộ Trưởng Nguyễn Ngọc Trìu đến Trung tâm Hưng Lộc năm 1987 thăm thành tựu tiến bộ kỹ thuật “Trồng ngô lai xen đậu ở vùng Đông Nam Bộ” và mô hình “Nghiên cứu phát triển đậu rồng ở các tỉnh phía Nam” (Nguồn: Nhớ cụ Nguyễn Ngọc Trìu, bài và ảnh Hoàng Kim)

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thaybanlalocxuancuocdoi.jpg

NLU hướng tới 65 năm. Chào mừng quý Thầy Cô và Các Bạn 30 năm ngày ra Trường 2010. Ảnh Họp mặt Kỷ niệm 30 năm ngày ra Trường, Khóa 2 Trồng Trọt, Chăn nuôi, Kinh tế, Lâm Nghiệp, Thủy Sản Trường Đại Học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, năm 2010 (Nguồn: Thầy bạn trong đời tôi, Bài và ảnh Hoàng Kim, lưu ảnh truyền thống)

ĐI NHƯ MỘT DÒNG SÔNG
Hoàng Kim


Hoàng Kim ở CIMMYT 1988 (hình) trong bài Đi như một dòng sông . Đây là kinh nghiệm khởi nghiệp kể cho người thân và thầy bạn quý, với các bạn trẻ đang tìm kiếm sự kết nối học để làm (Learning to Doing) với dạy và học hiệu qủa. Bài viết này được trích phần đầu của Thầy bạn là lộc xuân với phần giữa Dạy và học ngày nay và phần cuối Con đường di sản LewisClark của Châu Mỹ chuyện không quên . Đó là thu hoạch của tôi với thầy bạn

TỪ CẬU BÉ LÀNG MINH LỆ

Quê tôi ở miền Trung nghèo khó “Nhà mình gần ngã ba sông/ Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình,/ Linh Giang sông núi hữu tình / Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con/ Chèo thuyền cho khuất bến Son/ Để con khỏi chộ (thấy) nước non thêm buồn/ Câu thơ quặn thắt đời con/ Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ”. Tôi xa quê từ nhỏ. Mười tuổi mồ côi mẹ, Mười bốn tuổi cha chết do bom Mỹ giết hại.Tôi với chị gái Hoàng Thị Huyền ở với anh trai Hoàng Ngọc Dộ trong nhà hầm của lớp học ở làng Phù Lưu để học cấp ba Bắc Quảng Trạch. Anh trai tôi dạy cấp một, giáo viên khẩu phần ăn 13 ký lương thực mỗi tháng, trong đó có 70% là khoai sắn. Anh vì nuôi hai em thay cha mẹ mất nên khẩu phần ăn ấy chia cho ba người ăn. Đói. Gia đình tôi năm năm đã ăn ngày một bữa. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh đứng khóc trên bục giảng vận động thầy cô, bạn hữu chia sớt khoai sắn giúp đỡ. Tôi cũng dạy năm lớp vở lòng, ba lớp bổ túc văn hóa và cùng anh cuốc đất tăng gia để vượt khó vươn lên. Thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết những lời xúc động trong Bài ca Trường Quảng Trạch trường ca tình thầy trò: “Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất. Lại cha già giặc giết hôm qua. Tình thầy, tình bạn, tình cha. Ấy là ân nghĩa thiết tha mặn nồng” (9)  Những gương mặt thầy bạn đã trở thành máu thịt trong đời tôi.

Thi đậu vào Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc năm 1970, tôi học Trồng trọt 4 cùng khóa với các bạn Trần Văn Minh, Đỗ Thị Minh Huệ, Phan Thanh Kiếm, Đỗ Khắc Thịnh, Vũ Mạnh Hải, Phạm Sĩ Tân, Phạm Huy Trung, Lê Xuân Đính, Nguyễn Hữu Bình, Lê Huy Bá … cho đến ngày 02 tháng 9 năm 1971 thì tôi gia nhập quân đội cùng lứa với Nguyễn Văn Thạc. Đợt tuyển quân sinh viên trong ngày độc lập đã nói lên sự quyết liệt sinh tử và ý nghĩa thiêng liêng của ngày cầm súng. Chiến trường đánh lớn. Đơn vị chúng tôi chỉ huấn luyện rất ngắn rồi vào trận ngay với 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn. Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 sau này đã đi vào huyền thoại: “Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm” Tổ chúng tôi bốn người thì Xuân và Chương hi sinh, chỉ Trung và tôi trở về trường sau ngày đất nước thống nhất.  Những vần thơ viết dưới đây là xúc động sâu xa của tôi khi nghĩ về bạn học đồng đội đã khuất: “Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh

Tôi về học tiếp năm thứ hai tại Trồng trọt 10 của Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc đến cuối năm 1977 thì chuyển trường vào Đại học Nông nghiệp 4, tiền thân Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trồng trọt 2 thuở đó là một lớp chung mãi cuối khóa mới tách ra 2A,2B, 2C. Tôi làm Chủ tịch Hội Sinh viên thay cho anh Nguyễn Anh Tuấn khoa thủy sản ra trường về dạy Đại học Cần Thơ. Trồng trọt khóa hai chúng tôi thuở đó được học với các thầy cô: Nguyễn Đăng Long, Tô Phúc Tường, Nguyễn Tâm Đài, Trịnh Xuân Vũ, Lê Văn Thượng, Ngô Kế Sương, Trần Thạnh, Lê Minh Triết, Phạm Kiến Nghiệp, Nguyễn Bá Khương, Nguyễn Tâm Thu, Nguyễn Bích Liễu, Trần Như Nguyện, Trần Nữ Thanh, Vũ Mỹ Liên, Từ Bích Thủy, Huỳnh Thị Lệ Nguyên, Trần Thị Kiếm, Vũ Thị Chỉnh, Ngô Thị Sáu, Huỳnh Trung Phu, Phan Gia Tân, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Kế, … Ngoài ra còn có nhiều thầy cô hướng dẫn thực hành, thực tập, kỹ thuật phòng thí nghiệm, chủ nhiệm lớp như Bùi Cách Tuyến, Nguyễn Văn Kịp, Lê Quang Hưng, Trương Đình Khôi, Nguyễn Ngọc Châu, Nguyễn Gia Quốc, Nguyễn Văn Biền, Lê Huy Bá, Hoàng Quý Châu, Phạm Lệ Hòa, Đinh Ngọc Loan, Chung Anh Tú và cô Thảo làm thư ký văn phòng Khoa. Bác Năm Quỳnh là Bí thư Đảng ủy đầu tiên của Trường sau đó là thầy Kiên và cô Bạch Trà. Thầy Nguyễn Phan là Hiệu trưởng kiêm Trưởng Trại Thực nghiệm. Thầy Dương Thanh Liêm, Nguyễn Ngọc Tuân, Võ Thị Tuyết, Ngô Văn Mận, Bùi Xuân An … ở khoa Chăn nuôi Thú y, thầy Nguyển Yên Khâu, Nguyễn Quang Lộc … ở khoa Cơ khí, cô Nguyễn Thị Sâm ở Phòng Tổ chức, cô Văn Thị Bạch Mai dạy tiếng Anh, thầy Đặng, thầy Tuyển, thầy Châu ở Kinh tế -Mác Lê …Thầy Trần Thạnh, anh Quang, anh Đính, anh Đống ở trại Trường là những người đã gần gũi và giúp đỡ nhiều các lớp nông học.

Thay ban trong doi toi 1b

Thuở đó đời sống thầy cô và sinh viên thật thiếu thốn. Các lớp Trồng trọt khóa 1, khóa 2, khóa 3 chúng tôi thường hoạt động chung như: thực hành sản xuất ở trại lúa Cát Lái, giúp dân phòng trừ rầy nâu, điều tra nông nghiệp, trồng cây dầu che mát sân trường, rèn nghề ở trại thực nghiệm, huấn luyện quốc phòng toàn dân, tập thể dục sáng, hội diễn văn nghệ, thi đấu bóng chuyền, bóng đá tạo nên sự thân tình gắn bó. Những sinh viên các khóa đầu tiên được đào tạo ở Khoa Nông học sau ngày Việt Nam thống nhất hiện đang công tác tại trường có các thầy cô như  Từ Thị Mỹ Thuận, Lê Văn Dũ, Huỳnh Hồng, Cao Xuân Tài, Phan Văn Tự, …

Tháng 5 năm 1981, nhóm sinh viên của khoa Nông học đã bảo vệ thành công đề tài thu thập và tuyển chọn giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu, Gạo, Bí Đà Lạt được Bộ Nông nghiệp công nhận giống ở Hội nghị Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Toàn Quốc Lần thứ Nhất tổ chức tại Thành phố Hố Chí Minh. Đây là một trong những kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đầu tiên của Trường giới thiệu cho sản xuất. Thầy Cô Khoa Nông học và hai lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 cũng đã làm họ trai họ gái tác thành đám cưới cho vợ chồng tôi. Sau này, chúng tôi lấy tên khoai Hoàng Long để đặt cho con và thầm hứa việc tiếp nối sự nghiệp nghiên cứu khoa học và giảng dạy, một nghề nghiệp cao quý và lương thiện. “Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền. Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó. Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ. Có bạn thầy càng bền chí vươn lên. Trước mỗi khó khăn tập thể luôn bên. Chia ngọt xẻ bùi động viên tiếp sức. Thân thiết yêu thương như là ruột thịt. Ta tự nhủ lòng cần cố gắng hơn

tt2-1

Bạn học chúng tôi vẫn thỉnh thoảng họp mặt, có Danh sách các lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 số điện thoại và địa chỉ liên lạc. Một số hình ảnh của các lớp ngày ấy và bây giờ

TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA TÔI

Đi như một dòng sông, Đời người là chuỗi hệ thống Học, Làm, Dạy, Nhàn, Viết.của năm quá trình kế tiếp nhau, đan xen nhau, hỗ trợ nhau, trộn vào nhau thành đời tôi.

SỰ HỌC khởi đầu từ lúc con người sinh ra cho đến khi có VIỆC LÀM để mưu sinh, để lao động, để cống hiến, để không còn làm người ăn bám sống trên mồ hôi thành quả của người khác, để biến cái sở trường thành hữu dụng. Đó là sự học chân chính, học để làm. Sự học tốt nhất là tự học suốt đời và sự học hữu dụng nhất, hiệu quả nhất là học làm người có ích. Học để làm tốt một nghề.

VIỆC LÀM VÀ VIỆC DẠY dường như chiếm một nữa đời người khi một phần tư đời người cho tuổi thơ và sự học, Dẫu sự học tốt nhất là tự học suốt đời nhưng thật xấu hổ nếu không biết làm và dạy. Học làm người có ích là có tâm huyết, chuyên nghiệp và kỹ năng học làm người có ích. Có người giảng dạy và việc làm tách riêng , làm thành thạo trước và trao truyền sau nhưng có nhiều người việc làm và việc dạy kết rất nhuyễn, Cha mẹ là thầy cô đầu đời của con.

AN NHÀN VÔ SỰ VÀ VIẾT. Nhàn và viết để lắng đọng di sản. An nhàn vô sự và viết dường như chiếm một phần tư đời người sau cùng. Phúc cho ai hưởng nhàn và đọng lại di sản. Minh triết sống phúc hậu là bài học quý, Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.

CON ĐƯỜNG DI SẢN LEVIS CLARK

Tôi sang châu Mỹ nhiều lần, có trên 36 bài đường dẫn, thỉnh thoảng vui đọc lại và viết.Đó là một chặng đường trải nghiệm thích thú, trong con đường di sản của riêng mình. Thầy tôi Norman Borlaug  trao đổi với tôi thật nhiều câu chuyện Thomas Jefferson (1743 – 1826) là Nhà tư tưởng sáng lập nước Mỹ, với Lewis & Clark cuộc thám hiểm miền Tây nước Mỹ. Đó là một ví dụ điển hình về tầm nhìn và dự án khoa học thành công.Con đường di sản LewisClark lắng đọng trong tôi thật sâu Chuyện bây giờ mới kể …

Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark đã được khởi sự vào ngày 14 tháng 5 năm 1804 và kết thúc cuối năm 1806. Đây là cuộc thám hiểm trên bộ đầu tiên của người Mỹ đến những tiểu bang duyên hải cận tây nhất của nước Mỹ và ngược lại. Miền Tây nước Mỹ là vùng đất nhiều thổ dân da đỏ sinh sống khoảng 10 ngàn năm trước đó, và thuở ấy miền Tây nước Mỹ có sự hiện diện của những cư dân mới là người thám hiểm và định cư thuộc các nước Tây Ban Nha, Anh, México, Nga và Mỹ. Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã kiến nghị Quốc hội Mỹ phê chuẩn đầu tư cho chuyến khảo sát đường bộ của cuộc thám hiểm của Lewis và Clark cùng cộng sự. Trong một lá thư đề ngày 20 tháng 6 năm 1803, Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã viết cho Lewis. “Mục tiêu sứ mạng của anh là thám hiểm Sông Missouri và dòng suối chính của nó qua dòng chảy và sự liên thông của nó với các bộ phận nước khác của Thái Bình Dương để xem Sông Columbia, Xứ Oregon, Colorado hay bất cứ con sông nào có thể cung cấp một sự liên thông mặt nước thực tiễn và trực tiếp nhất ngang qua lục địa này để giúp cho những mục đích thương mại“.

Thầy tôi trong buổi trò chuyện của mình đã khoanh vào các chỉ dấu Thomas Jefferson Lewis & Clark thành những điểm chính nhấn mạnh cho các lời diễn đạt của mình


Trong chuyến khảo sát CIANO, OREGON của Miền Tây Mexico và nước Mỹ năm 1989 sau 186 năm từ chuyến thám hiểm miền Tây nước Mỹ của Lewis & Clark và cộng sự, tôi nhớ đinh ninh lời Thầy dặn, thật ấn tượng và thấm thía khi viết bài thơ cảm khái:

ĐI ĐỂ HIỂU QUÊ HƯƠNG

Tạm biệt Oregon !
Tạm biệt Obregon California !
Cánh bay đưa ta về CIMMYT
Bầu trời xanh bát ngát
Lững lờ mây trắng bay
Những ngọn núi cao nhấp nhô
Những dòng sông dài uốn khúc
Hồ lớn Ciudad Obregon
ba tỷ khối nước

Nở xòe như chùm pháo bông
Những cánh đồng mênh mông
Thành trăm hình thù dưới làn mây bạc
Con đường dài đưa ta đi
Suốt dọc từ Nam chí Bắc
Thành sợi chỉ màu chạy mút tầm xa…

Ơi vòm trời xanh bao la
Gọi lòng ta nhớ về Tổ Quốc
Ôi Việt Nam, Việt Nam
Một vùng nhớ trong lòng ta tỉnh thức
Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương.

Hoàng Kim

Sáu tháng ở CIMMYT với tôi là một câu chuyện ám ảnh. Tôi như cậu bé chăn cừu mà Paulo Coelho kể trong kiệt tác của tâm hồn Nhà Giả Kim (O Alquimista) mà tôi đã viết ở Ngọc lục bảo Paulo Coelho, cũng giống như cô bé Quách Tương tại tiểu thuyết ‘Thần điêu đại hiệp’ của Kim Dung đi vào thế giới bí ẩn của riêng mình với khát khao tìm kiếm

Thầy Norman Borlaug là nhà khoa học xanh sống nhân đạo, và nêu gương tốt. Thầy là nhà nông học Mỹ cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong  cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống.Câu chuyện về Người tôi đã kể vắn tắt tại Norman Borlaug di sản, niềm tin và nổ lực

Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29.8.1988. Thầy đã một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày cha mất. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch, Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy.

Người Thầy của tôi đã chọn chỉ cho tôi chỉ dấu Thomas Jefferson đã viết tự truyện của riêng mình để nói ít nhất trong lịch sử nước Mỹ nhưng để lại di sản lớn bằng cách chọn nhấn mạnh các mục từ khi bắt đầu và kết thúc sự nghiệp công cộng lâu dài của mình.

Lời Thầy dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm tiếng để đời”.


Tôi nghĩ ngợi nhiều về miền Tây của Mexico và nước Mỹ xưa và nay. Ở đó cũng có những cây xương rồng và những vùng đất cằn cỗi.


Miền Tây của Mexico, CIANO và vùng OREGON của Miền Tây nước Mỹ cũng đồi núi trập trùng hệt Việt Nam và biên độ nóng bức và giá lạnh thật lớn, dân cư thưa thớt với nhiều người dân bản địa.

Chúng tôi đến CIANO và đi dọc miền Tây mà không đi ngang nước Mỹ như Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark. CIANO là địa chỉ xanh tuyệt vời để tôi hiểu thế nào là một trạm trại nông nghiệp thực sự.


Khu văn phòng của trại thực nghiệm CIANO không lớn nhưng thực sự tiện nghi và hiệu quả và đồng ruộng nghiên cứu thí nghiệm thì được đầu tư và quản lý thật tuyệt vời.


Cánh đồng lúa mì thí nghiệm thực nghiệm tại CIANO thực sự cuốn hút. Đoàn chúng tôi ngày đi tham quan học tập. Buổi chiều sau khi ăn tối tôi lại mê mãi ghi chép,đọc và viết.
Bài học mà thầy Norman Borlaug chỉ dấu với tôi về Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark thật thú vị.

Chuyến khảo sát của Lewis và Clark trong hai năm rưỡi đã đạt được thành tựu:

  • Hoa Kỳ hiểu biết rộng thêm về địa lý của phía miền tây nước Mỹ trong hình thức các bản đồ về các con sông và dãy núi chính.
  • Quan sát và mô tả 178 loài thực vật và 122 loài động vật (qua Danh sách của loài thực động vật được mô tả qua chuyến thám hiểm Lewis và Clark)
  • Khuyến khích giao thương da thú Âu-Mỹ tại miền Tây
  • Mở rộng quan hệ ngoại giao Âu-Mỹ với người bản thổ Mỹ
  • Thiết lập một tiền lệ cho việc thám hiểm miền Tây của Quân đội Hoa Kỳ
  • Củng cố tuyên bố chủ quyền của Hoa Kỳ đối với Lãnh thổ Oregon
  • Tập trung sự chú ý của truyền thông và của Hoa Kỳ vào miền Tây
  • Nhật ký của Lewis và Clark với các trang viết về họ đã hình thành một bộ văn chương lớn nói về miền Tây.

Lời Thầy dặn thung dungCon đường di sản LewisClark với tôi là bài học tuyệt vời.

Ngọt bùi nhớ trái ớt cay

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Mênh mang một khúc sông Hồng
Huyền Thoại Hồ Núi Cốc
Một thoáng Tây Hồ
Trên đỉnh Phù Vân
Chảy đi sông ơi …

Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

#cnm365 #cltvn 29 tháng 9


DẠY VÀ HỌC 29 THÁNG 9
Hoàng Kim và Hoàng Long
CNM365 Tình yêu cuộc sống #vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói; Vườn giống sắn Đồng Xuân ,Thầy Nguyễn Lân Dũng; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên; Ngày 29 tháng 9 năm 1774, Tác phẩm Nỗi đau của chàng Werther được phát hành khiến tác gia Johann Wolfgang von Goethe (hình) nổi tiếng thế giới. Johann Wolfgang von Goethe là nhà thông thái Đức, vĩ nhân văn chương thế giới, nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học, tiểu thuyết gia, họa sĩ. Ba tác phẩm sử thi danh tiếng nhất của ông, bền vững với thời gian, là kịch thơ Faust đỉnh cao văn chương thế giới, Nỗi đau của chàng WertherWilhelm Meister’s Apprenticeship ; Ngày 29 tháng 9 năm 1951 là ngày mất của Nguyễn Bình, tên thật là Nguyễn Phương Thảo, (1906 – 1951) là Trung tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, lãnh đạo quân dân miền Nam Việt Nam kháng chiến chống Pháp. Ông hi sinh tại xã Srê Dốc, huyện Sê San, tỉnh Xtung Treng, trên đất Campuchia . Ông là  người đầu tiên được nhận huận chương quân công hạng nhất bởi sắc lệnh 84/SL của chủ tịch Hồ Chí Minh, được nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày 29 tháng 9 năm 1954, 12 quốc gia ký hiệp định thành lập Tổ chức Nghiên .cứu Nguyên tử Châu Âu (CERN), phòng thí nghiệm vật lý hạt lớn nhất thế giới hiện nay. Bài chọn lọc ngày 29 tháng 9:#vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói; Vườn giống sắn Đồng Xuân , Thầy Nguyễn Lân Dũng; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-29-thang-9/

SỰ THẬT TỐT HƠN NGÀN LỜI NÓI
Hoàng Kim

Việt Nam con đường xanh
Chung sức trên đường xuân
Vui đi dưới mặt trời
Sự thật tốt hơn ngàn lời nói
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/su-that-tot-hon-ngan-loi-noi/

Giống sắn KM568 trên ruông nông dân Phú Yên (giữa) rất sạch bệnh khảm lá virus (CMD) và bệnh chồi rồng CWBD, bên trái phía sau là giống sắn chủ lực sản xuất KM419 cũ nhiều và đồng đều nhưng nhiễm bệnh CMD mức 3,5; bên phải phía sau là giống chủ lực thương mại KM440 kháng bệnh CMD cấp 2 và CWBD cấp 1,5. Giống sắn KM568 là kết quả đề tài nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất của tỉnh Phú Yên.

PHÚ YÊN GIẢI PHÁP SÁNG TẠO VÀ CÔNG NGHÊ GIỐNG SẮN.
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Đình Phú, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Văn Minh và đồng sự.


Giống sắn KM568, KM539, KM440 đang thể hiện sự vượt trội trên ruộng sắn La Hai, Đồng Xuân Phú Yên ngày 29 tháng 9 năm 2022. Đây là kết quả bước đầu của nội dung 1 Nâng cấp cải tiến giống sắn chủ lực thương mại KM419, KM440 bằng cách hồi giao với KM539, KM537, KM534, KM94 thuộc nhiệm vụ khoa học thực tiễn cấp bách:”Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên; xem tiếp Bảo tồn và phát triển sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/ và Giống sắn KM419 và KM440 https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-san-km419-va-km440

THẦY NGHỀ NÔNG CHIẾN SĨ
Hoàng Kim
kính tặng anh Trần Mạnh Báo

Bao nhiêu bạn cũ đã đi rồi
Nhớ để mà thương cố gắng thôi
Nhà khoa học xanh gương trung hiếu
Người thầy chiến sĩ đức hi sinh
Dưới đáy đại dương là ngọc quý
Trên đồng chữ nghĩa ấy tinh anh
Doanh nghiệp Thái Bình chăm việc thiện
Giống tốt bội thu vẹn nghĩa tình.

(*) Ảnh tư liệu chon lọc về anh Trần Mạnh Báo (từ 1 đến 8). Chúc mừng gạo Việt từ giống tốt đến thương hiệu (Hoàng Long 9). Con đường lúa gạo Việt Nam’ vươn tới muôn nơi  ‘Cơm ngon từ giống, gạo sạch từ tâm’

Xem tiếp: Thầy nghề nông chiến sĩ

Nha khoa hoc xanh nguoi thay chien si
Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là ta-la-ai-doi-thoai-voi-canh-dong.jpg
Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là tu-hoa-lua-bun-non-toi-dong-xuan-ruong-ngau.jpg
Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là mo-hinh-lien-ket-san-xuat-va-bao-tieu-san-pham.jpg

†††

Trần Mạnh Báo viếng Bác

(**) ‘Con đường lúa gạo Việt Nam’  là chùm bài viết #CLTVN của #hoangkimlong kể về một số chân dung nhà nông phác thảo:Việt Nam tổ quốc tôi, Việt Nam con đường xanh; Viện Lúa Sao Thần Nông; Con đường lúa gạo Việt Nam; Thầy Tuấn kinh tế hộ; Sóc Trăng Lương Định Của; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Thầy lúa Bùi Bá Bổng; Thầy Quyền thâm canh lúa; Thầy Luật lúa OMCS OM; Thầy Xuân canh tác lúa; Thầy nghề nông chiến sĩ; Chuyện cô Trâm lúa lai; Chuyện thầy Hoan lúa lai; Hồ Quang Cua gạo ST; Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi; Gạo Việt và thương hiệu; Một niềm tin thắp lửa; Bảo tồn và phát triển sắn; Chọn giống sắn Việt Nam; Sắn Việt Nam ngày nay; Cách mạng sắn Việt Nam; Vietnamese cassava today Chọn giống sắn kháng CMD; Chọn giống sắn kháng CWBD; Mười kỹ thuật thâm canh sắn;

Hanh phuc la dong doi anh lam hat ngoc cho doi

Lúa Siêu Xanh Việt Nam kết nối CAAS IRRI
Chọn giống sắn Việt Nam sự thật tốt hơn ngàn lời nói

SẮN VIỆT NAM NGÀY NAY: BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Vietnamese cassava today: conservation and sustainable development
Nguyen Thi Truc Mai, Hoang Kim, Hoang Long, et al. (*)
Selection of cassava varieties resistant to CMD
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

Ở Việt Nam, giống sắn KM419 và KM440 đến nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 để khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững: xem thêm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

In  Vietnam, up to now, cassava varieties KM419 and KM440 are popular,  after even CMD and CWBD, https://youtu.be/XDM6i8vLHcI and https://youtu.be/kjWwyW0hkbU planting clean KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 for DUS and VCU trials remains our advice to farmer at this stage.  Cassava conservation and sustainable development in Vietnam: https://youtu.be/XMHEa-KewEk; https://youtu.be/5l9xPES76fU;

Bệnh virus khảm lá CMD từ ban đầu Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) là thách thức của các nhà khoa học. “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã được Bộ NNPTNT xác định tại công văn chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV ngày 3 tháng 5 năm 2019. Giống sắn KM419 có năng suất tinh bột cao nhất và diện tích trồng phổ biến nhất Việt Nam. Giống sắn KM419 chống chịu trung bình bệnh CMD và bệnh chổi rồng (CWBD), trong điều kiện áp lực 2 bệnh này ở Việt Nam hiện nay là rất cao. Sự cần thiết cấp bách lai tạo KM419 đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440 (KM94 đột biến); KM397 vào giống sắn ưu tú này .

Giống sắn KM419 bìa trái thấp cây, tán gọn, cọng đỏ, chống chịu trung bình với bệnh CMD và CWBD , và các dòng sắn lai ít bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 giữa, cao cây, cọng xanh, nhiễm nặng bệnh CMD

Giải pháp chọn giống sắn Việt Nam tiếp nối hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có. Bài viết CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM đúc kết tóm tắt thông tin đã có và định hướng cho sự nổ lực Trúc Mai, Hoang Long, BM Nguyễn, Nguyen Van Nam, Nhan Pham, Hung Nguyenviet, Hoàng Kim, Jonathan Newby … đang lai hữu tính và bồi dục nâng cao tính kháng cho các giống sắn KM419, KM440, KM397, tốt nhất hiện nay

Chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 để khảo nghiệm DUS và VCU , bảo tồn và phát triển những giống sắn tốt nhất có năng suất cao và ít sâu bệnh.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là km98-1-cassava-breeding-in-viet-nam-1.jpg

CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG CWBD
Nguyễn Bạch Mai, Hoàng Kim, Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu
Selection of cassava varieties resistant to CWBD *

Chọn giống sắn kháng CWBD. “Ở Việt Nam, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan CWBD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440, KM397, KM98-1, ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện; xem thêm http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.htmlhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/ Trò chuyện với Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/ (*)

Selection of cassava varieties resistant to CWBD. In Vietnam, the main solution to prevent the spread of CWBD is integrated control: using cassava varieties KM419, KM397, KM440, … less infected than KM94 and using disease-free seed sources; field sanitation to destroy disease sources in a timely manner; kill leafhoppers, stem planthoppers, red spiders, mealybugs and other disease-spreading insects; it is necessary to take good care of cassava, fertilize and weed 3 times to increase the resistance of the plants, arrange appropriate seasons to limit pests; promptly destroy the source of the disease when the disease appears; see more http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.html and https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/ Conversations with Hoang Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/ https://www.youtube.com/embed/0MVPGxOpoPY?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

CAVAC Cách chọn thân cây sắn để trồng (Video hướng dẫn về bệnh khảm trên cây sắn)https://youtu.be/0MVPGxOpoPY Video của Australian Embassy, Cambodia 18 8 2021 đã viết. “Bạn có biết sắn là cây trồng lớn thứ hai của Campuchia và mang lại sinh kế cho hơn 90.000 hộ gia đình, đóng góp hàng trăm triệu đô la cho nền kinh tế? Điều này cũng có nghĩa là sâu bệnh có thể có tác động tàn phá. Australia thông qua chương trình Chuỗi Giá trị Nông nghiệp Campuchia-Australia (CAVAC) và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) đang làm việc với Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản để ngăn chặn sự lây lan của bệnh Chổi rồng (CWBD), một mối đe dọa lớn đối với cây sắn. Bệnh CWBD làm giảm hàm lượng tinh bột và sản lượng sắn 80%). Australian Embassy, Cambodia 18 tháng 8 lúc 13:05 “Eradicating Disease from Cambodia’s Cash Crop (ភាសាខ្មែរនៅខាងក្រោម) Did you know cassava is Cambodia’s second biggest crop and provides a livelihood for more… than 90,000 households, contributing hundreds of millions of dollars to the economy? This also means that pests and diseases can have a devastating impact. Australia through the Cambodia-Australia Agricultural Value Chain (CAVAC) program and the International Centre for Tropical Agriculture (CIAT) is working with the Ministry of Agriculture, Forestry and Fisheries to stop the spread of Cassava Witches’ Broom Disease, a major threat to cassava that reduces its starch content and yields by 80%” Australian Embassy, Cambodia said. https://www.youtube.com/embed/-MA3hDJezAg?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

*

Chọn giống sắn kháng CWBD Ở Việt Nam, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan CWBD và CMD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440,KM397, KM98-1 ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện; xem thêm http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.html

Selection of cassava varieties resistant to CWBD. In Vietnam, the main solution to prevent the spread of CWBD is integrated control: using cassava varieties KM419, KM440, KM397, KM98-1 less infected than KM94 and using disease-free seed sources; field sanitation to destroy disease sources in a timely manner; kill leafhoppers, stem planthoppers, red spiders, mealybugs and other disease-spreading insects; it is necessary to take good care of cassava, fertilize and weed 3 times to increase the resistance of the plants, arrange appropriate seasons to limit pests; promptly destroy the source of the disease when the disease appears; (Cassava in Vietnam: Conservation and Sustainable Development https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/ )

Chọn giống sắn kháng CMD https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

The truth is better than a thousandwords

THẦY NGUYỄN LÂN DŨNG
Hoàng Kim

Thầy Nguyễn Lân Dũng là người Thầy đức độ, trí tuệ bách khoa thư, người thầy giỏi giáo dục sinh học.Tôi có ba ghi chép nhỏ về Thầy đối với một bài học lớn: 1) Một gương sáng người Thầy; 2) Một nếp nhà văn hóa; 3) Một công án kỳ lạ. Thầy Nguyễn Lân Dũng https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-nguyen-lan-dung/

Bài viết này tôi xin được tỏ lời biết ơn chân thành, thầm lặng, ân tình, kính trọng Thầy. Ấn tượng sâu sắc nhất của tôi khi viết “Nguyễn Du trăng huyền thoại” nhờ công án kỳ lạ “Vinh quang nghề Thầy”, “Linh Nhạc thương người hiền” trải suốt mười năm (2011-2021) kể từ khi thầy tặng sách quý, với câu chuyện lạ “Nguyễn Du nửa đêm đọc lại“; “Nguyễn Du và đền cổ Trung Liệt“. Tôi noi gương sáng và lời khuyến khích tâm đắc của Thầy để đúc kết “Lê Quý Đôn tinh hoa” “Dẫu có bạc vàng trăm vạn lượng. Không bằng kinh sử một vài pho”. Tôi viết “Minh triết Hồ Chí Minh” lại nhớ về bài Thầy viết “Bác Hồ với thế giới tâm linh“. Dạy và học mỗi ngày của tôi là chịu ảnh hưởng lớn của tinh hoa “Vinh quang nghề Thầy”.

MỘT GƯƠNG SÁNG NGƯỜI THẦY

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng sinh ngày 29 tháng 9 năm 1938. Thầy Nguyễn Lân Dũng là con thứ ba của nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân và cụ bà Nguyễn Thị Tề. Nơi sinh của Thầy ở xã Ngọc Lập, huyện Mỹ Hào, nay là phường Phùng Chí Kiên, thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Vợ của thầy Nguyễn Lân Dũng là cô Nguyễn Kim Nữ Hiếu, đại tá, phó giáo sư tiến sĩ, thầy thuốc nhân dân, nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện Quân y 108, là con gái của giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên và cụ bà Vi Kim Ngọc. Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên từng làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ năm 1946 đến năm 1975. Bà Vi Kim Ngọc là cháu của quan tổng đốc Vi Văn Định, một danh thần thời nhà Nguyễn. Địa chỉ nơi ở hiện nay của thầy Nguyễn Lân Dũng tại số 1 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Điện thoại 0903 428308. Thầy công việc thường ngày, gần như trọn đời, là giảng day và nghiên cứu. Sở trường của Thầy là làm “Người của công chúng”. Ngôn chí Thầy yêu thích là câu cách ngôn: Sống khỏe, chết nhanh, ít của để dành, nhiều người thương mến.

Thầy Nguyễn Lân Dũng là giáo sư tiến sĩ sinh học, nhà giáo nhân dân Việt Nam. Thầy giảng dạy nghiên cứu tại Viện Vi sinh vật và Công nghệ Sinh học thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Thầy Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà sinh học hàng đầu Việt Nam, nổi tiếng với di sản lắng đọng ‘Tài nguyên vi sinh vật Việt Nam’. Trong sách “Bách khoa toàn thư nông nghiệp Việt Nam”. Tập 1. Tổng quan Việt Nam. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa. Nội dung thực tiễn và trước tác của Thầy lắng đọng công phu nhất là ‘Công tác quản lý nguồn gen vi sinh vật tại Bảo tàng giống chuẩn vi sinh vật’ (VTCC), Trung tâm Công nghệ sinh học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong sách “Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong kế hoạch sự sống”. Nhà Xuất Bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2003, trang 861 – 864 (Cộng tác với Dương Văn Hợp). Bộ sách chuyên khảo Công nghệ nuôi trồng nấm. Tập 1. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2002; Công nghệ nuôi trồng nấm. Tập 2. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2003 Tự học nghề trồng nấm. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2004; Chuyên mục: “Hỏi gì, đáp nấy” tập 1 đến tập 9 , Nhà xuất bản Trẻ 1999 – 2005..Thầy cũng có nhiều tác phẩm phổ thông khác và nhiều bài báo khoa học phổ thông có giá trị bách khoa, khuyến học, khuyến nông.

Di sản lớn nhất lắng đọng của Thầy là CON NGƯỜI VÀ NẾP NHÀ. Di sản này là sự trao truyền và tỏa sáng bài học quý giá nhất của thầy cô Nguyễn Lân Nguyễn Thị Tề trong dòng chảy của một gia tộc danh gia được người đương thời vinh danh, tỏa sáng “Gương sáng nghề Thầy” từ thời thầy Nguyễn Lân (*): “Giáo sư nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân vẻ đẹp của một nhân cách lớn” “Luôn luôn sống với đất nước, với nhân dân, với lẽ phải, với những truyền thống đạo lý của dân tộc, ghét sự xa hoa, chỉ ưa thanh bạch, rất giàu nghị lực, thông minh, rất cần cù trung thực, thẳng thắn mà vẫn không làm mất lòng người, rất tự trọng, giao tiếp lịch sự, chu đáo từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, yêu thương tôn trọng con người “. Thầy Nguyễn Lân Dũng đã cùng gia tộc, con cháu bảo tồn và phát triển tốt truyền thống ấy. Thầy Nguyễn Lân Dũng thực sự là người của công chúng, bạn của nhà nông, thầy của nhiều lớp sinh viên và của mọi người, Thầy là lão làng Xóm Lá, người giáo sư nhân hậu tốt tính của trang văn Nguyễn Lân Dũng http://nguyenlandung.vn102.space/

MỘT NẾP NHÀ VĂN HÓA

Thầy Nguyễn Lân Dũng có hai con đều thành đạt trong cuộc sống. Con trai cả của Thầy là phó giáo sư, tiến sĩ bác sĩ y khoa Nguyễn Lân Hiếu nay là Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 nhiệm kì 2016-2021. Bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu ứng cử và trúng cử đại biểu quốc hội lần đầu năm 2016 ở đơn vị bầu cử số 2 tỉnh An Giang gồm các huyện: Châu Phú và Châu Thành. Ông là một chuyên gia tim mạch có tên tuổi với nhiều cống hiến trong nền Y học Việt Nam. Con gái út của thầy Nguyễn Lân Dũng là tiến sĩ sinh học Nguyễn Kim Nữ Thảo đã hoàn thành luận án tiến sĩ tại Mỹ, cũng là dịch giả của tác phẩm “Loài tinh tinh thứ 3” dày 672 trang. Nguyễn Kim Nữ Thảo trước đó đã từng đoạt giải Olympic Sinh học quốc tế tại Bỉ, giải nhất Sinh học toàn quốc ở lớp 11 và giải nhì ở lớp 12. Nguyễn Kim Nữ Thảo khi theo học lớp cử nhân tài năng tại Đại học Quốc gia Hà Nội, cũng đã từng được cấp bằng gương mặt trẻ tiêu biểu, giải thưởng Nữ sinh Việt Nam, bằng khen của Chủ tịch UBND TP Hà Nội, bằng khen của Thành đoàn Thanh niên Cộng sản Hà Nội

Thầy Nguyễn Lân Dũng “Người của công chúng”. Thầy từng làm Phó Chủ tịch Hội Liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, Chuyên gia cao cấp Viện Vi Sinh vật và Công nghệ Sinh học, Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển Nhân lực, Viện trưởng Viện Thực phẩm Chức năng, Cố vấn Việt Nam của Hội Liên hiệp Thanh niên Quốc tế (IYF), Chủ nhiệm Chương trình tự nguyện đưa khoa học kĩ thuật vào hộ nông dân; Ủy viên Ủy ban Đối ngoại Quốc hội; Đại biểu Quốc hội ba khóa liên tục khóa X (1977-2002), khóa XI (2002-2007) và khóa XII (2007-2011) tại tỉnh Đắc Nông; với sau này con trai thầy là bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu làm đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 nhiệm kì 2016- 2021

Gia đình của thầy Nguyễn Lân Dũng thực sự là một nếp nhà văn hóa: cha mẹ, anh chị em Thầy và những người con của hai Cụ đều là những trí thức có tài năng. Thật tâm đắc với lời giáo sư Nguyễn Đình Chú định luận về thầy Nguyễn Lân, là thân phụ của thầy Nguyễn Lân Dũng, rằng: “Tôi ước gì trên đất nước ta sẽ có nhiều gia đình toàn trí thức như gia đình cố Giáo sư Đặng Thai Mai, gia đình Giáo sư Nguyễn Lân mà tôi được biết.Tôi đã nói điều này trong sự suy nghĩ về vấn đề gia phong, gia đạo, gia thế, gia truyền, vấn đề vai trò của gia đình, gia tộc trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc, trong yêu cầu phát triển văn hóa xây dựng cuộc sống của đất nước hôm nay và mai sau”. Theo “Hồi ký giáo dục” của thầy Nguyễn Lân, tại sách ‘Vinh quang nghề Thầy’ thì ông nội của thầy Nguyễn Lân Dũng là cụ Nguyễn Xuân Thiều, con thứ hai của một ông lang nghèo, là cụ Nguyễn Danh Tưởng, ở làng Ngọc Lập (nay đổi là xã Phùng Chí Kiên) huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Cụ Thiều lớn lên theo cụ Nguyễn Thiện Thuật đánh Pháp ở Bãi Sậy. Cụ Tán Thuật chiến đấu anh dũng nhưng vì thế yếu phải chịu thất bại lánh sang Trung Quốc. Cụ Nguyễn Xuân Thiều cũng phải bỏ quê đi lánh nạn, tha phương cầu thực, đến phủ Từ Sơn Bắc Ninh, và sau đó kết duyên với bà nội của thầy Dũng là cụ Quản Thị Ba, con thứ ba của một gia đình tiểu thương. Cụ Thiều lên lao động ở Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng nhưng sau đó bị sốt rét ngã nước phải về lại Từ Sơn nương nhờ vợ. Nhà nghèo đông con và gia đình phải cưu mang cả anh chồng là cụ Nguyễn Xuân Cảnh bị mù và hai người con trai của anh chồng là Nguyễn Khánh Dư và Nguyễn Danh Cảnh. Thầy Nguyễn Lân là con thứ 17 trong gia đình nhưng lúc thầy ra đời chỉ còn có bốn người anh em gồm hai anh, một chị và thầy, còn những người khác đều hữu sinh vô dưỡng cả.

Ông bà nội của thầy Nguyễn Lân Dũng nhà tuy nghèo khó nhưng rất quan tâm đến việc học hành của bốn người con và người cháu là ông Nguyễn Khánh Dư. Do đó, năm 17 tuổi anh cả của thầy Nguyễn Lân là Nguyễn Tiến Trinh đã thi đỗ làm thư ký Thương chính và được bổ vào làm việc tận Cam Ranh. Người anh thứ hai là Nguyễn Văn Phượng và thầy Nguyễn Lân đều đã được học chữ Hán từ rất sớm. Thầy Nguyễn Lân tuổi thơ được học chữ Hán với thầy Đỗ Cự một nhà nho không đỗ đạt gì nhưng rất yêu thương học trò. Cụ đã khai tâm đầu đời cho thầy, tác động sâu sắc đến thầy Nguyễn Lân từ bé biết kính phục sự nghiệp giáo dục. Thầy Nguyễn Lân học chữ Hán được hơn một năm thì bố mẹ cho chuyển về học trường Pháp Việt bên cạnh phủ Từ Sơn. Sau đó mẹ thầy Nguyễn Lân bị mất sớm vì Cụ lao lực đã mất hết răng khi mới có 49 tuổi vì đẻ nhiều lần quá. Gia đình thầy trong lúc quẫn bách, được anh họ Nguyễn Khánh Dư đã đưa thầy Nguyễn Lân về Hải Phòng để nuôi ăn học nhưng thật đau xót ông Nguyễn Khánh Dư bị lây ho lao và từ trần. Anh cả của thầy Nguyễn Lân là Nguyễn Tiến Trinh đã đón cha và em vào Bình Định để phụng dưỡng cha và nuôi em ăn học. Vợ chồng người anh rất quyết tâm bảo bọc và cưu mang người em, nên thuở ấy giá gạo hai đồng một tạ mà học nội trú phải trả 17 đồng một tháng hơn phân nữa lương tháng của người anh ruột nhưng anh chị vẫn quyết giúp cho em ăn học nội trú. Nhờ nghị lực cao và sự chăm học của thầy Nguyễn Lân với phước nhà như đã kể trên, nên thầy Nguyễn Lân được bồi bổ sức khỏe không còi cọc ốm yếu nữa, được dạy học tốt tại trường dòng nội trú của thầy Pháp, lại ở và học chung với ba học sinh người Pháp là con Tây đoan Thầy Nguyễn Lân đã đậu đầu kỳ thi tiểu học, và đậu tuyển sinh vào Trường Bưởi. Học ở Trường Bưởi thầy Nguyễn Lân chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất từ thầy Dương Quảng Hàm. Thầy Nguyễn Lân sau này khi được phong tặng nhà giáo nhân dân đã đọc bài thơ “Tình sâu nghĩa nặng” tôn vinh thầy Dương Quảng Hàm “Trường Bưởi noi gương cụ giáo Hàm/ Một nhà học giả thật phi phàm/ Làu thông Âu Á, say nghiên cứu/ Ham dạy Sử Văn, lợi chẳng ham !” Năm 1927 sau khi tốt nghiệp trường Bưởi , thầy Nguyễn Lân di dạy trường tư thục Trung Bắc học hiệu . Ngày 23 tháng chạp năm Mậu Thìn (1928) bố và chị dâu của thầy Nguyễn Lân đều bị chết vì tai nạn ở xưởng phảo Năm 1932 thầy Nguyễn Lân tốt nghiệp thủ khoa Trường cao đẳng sư phạm Đông Dương và bắt đầu dạy học ở Trường tư thục Hồng Bàng và Thăng Long ở Hà Nội (từ năm 1923 đến 1935) và kết duyên với bà Nguyễn Thị Tề là con gái cụ Nguyễn Hữu Tiệp, một người giàu vào hạng nhất nhì ở Bắc Kỳ thời bấy giờ.

Bảo tồn và phát triển tốt nếp nhà văn hóa. Vợ chồng nhà giáo Nguyễn Lân nhờ duyên lành phúc ấm nhân cách nghị lực may mắn, đã sinh thành và nuôi dưỡng được tám người con 1) Nguyễn Lân Tuất, nhạc sĩ giáo sư Viện Hàn lâm Âm nhạc, nghệ sĩ công huân Nga; 2) Nguyễn Tề Chỉnh, tiến sĩ sinh học; 3) Nguyễn Lân Dũng, giáo sư tiến sĩ sinh học; 4) Nguyễn Lân Cường phó giáo sư tiến sĩ khảo cổ học, 5) Nguyễn Lân Hùng, chuyên gia nông học; 6) Nguyễn Lân Tráng tiến sĩ giảng dạy tại Đại học Bách khoa; 7) Nguyễn Lân Việt, bác sĩ, phó giáo sư tiến sĩ, cựu Hiệu trưởng Trường Đại học Y khoa Hà Nộ; 8) Nguyễn Lân Trung, phó giáo sư tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Năm 1935 đến năm 1945 thầy Nguyễn Lân vào Huế làm giáo viên trường công ở trường Quốc Học, Đồng Khánh, Bách Công. Thầy dạy giỏi và mực thước,tham gia Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ ở Trung Kỳ, lại là nhà văn Từ Ngọc danh tiếng với các tác phẩm có nhiều độc giả thời đó như Những trang sử vẻ vang (hai tập) Nhà Xuất bản Mai Lĩnh Hà Nội 1943; Nguyễn Trường Tộ , Nhà Xuất Bản Viễn Đệ Huế và NXB Mai Lĩnh Hà Nội 1941, tái bản 1942, Hai ngả (tiểu thuyết xã hội) Nhà Xuất bản Tân Dân Hà Nội năm 1938; Ngược dòng (tiểu thuyết xã hội) Nhà Xuất bản Tân Dân Hà Nội 1936; Khói hương (tiểu thuyết xã hội) Nhà Xuất bản Tân Dân Hà Nội 1935; Cậu bé nhà quê (tiểu thuyết giáo dục, có bản dịch ra tiếng Pháp) năm 1925 .

Trong bài “Nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân, vẻ đẹp của một nhân cách lớn” giáo sư Nguyễn Đình Chú định luận: “Với tư thế đó, nhân cách đó, Chính phủ Trần Trọng Kim thành lập. Giáo sư Nguyễn Lân là người được tranh thủ. Cách mạng tháng Tám thành công. Giáo sư Nguyễn Lân được mời làm Ủy Viên Giáo Dục Tỉnh Thừa Thiên; Giám đốc Học chính Nam Bộ. Sau đó chuyển ra Hà Nội dạy ban chuyên khoa Trường Chu Văn An rồi đi kháng chiến, làm Giám đốc Giáo dục các Liên Khu 10 và Liên khu Việt Bắc. Năm 1951 sang Trung Quốc dạy trường Sư phạm Cao cấp tại Khu học xá Nam Ninh, từ năm 1956 dạy tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và làm Chủ nhiệm khoa Tâm lý Giáo dục học của Trường từ ngày thành lập cho đến ngày giáo sư nghĩ hưu . Giáo sư còn tham gia nhiều hoạt động văn hóa xã hội …Giáo sư Nguyễn Lân đã đóng góp cho đất nước, cho nhân dân Việt Nam ta với nhiều tư cách: 1) Một nhà hoạt động xã hội nhiều tâm huyết trong sự đưa ánh sáng văn hóa đến cho nhân dân, trong việc chăm lo vun đắp khối đại đoàn kết dân tộc; 2) Một nhà giáo đã có công đào tạo cho đất nước nhiều nhân tài, nhiều cán bộ ưu tú. 3) Một nhà văn Từ Ngọc Nguyễn Lân (Chi tiết tác phẩm ở bộ Từ điển văn học mục Từ Ngọc); 4) Một nhà ngữ pháp với sách giáo khoa Ngữ pháp Việt Nam từ lớp 1 đến lớp 7 (NXB Giáo dục 1965); 5) Một nhà biên soạn từ điển vào tuổi đại lão.”vô địch” có lẽ không sai ” (Trích) “Bà Cụ Nguyễn Lân quả là một người phụ nữ, một người vợ, một người mẹ không dễ gì có nhiều trong đời thường, và tôi muốn cho rằng 50% sự nghiệp, công trình của giáo sư là thuộc về bà” (trích)

(xem tiếp)

MỘT CÔNG ÁN KỲ LẠ

Thầy Nguyễn Lân Dũng. Ấn tượng sâu sắc nhất của tôi khi viết “Nguyễn Du trăng huyền thoại” nhờ công án kỳ lạ “Vinh quang nghề Thầy”, “Linh Nhạc thương người hiền” trải suốt mười năm (2011-2021) kể từ khi thầy tặng sách quý, với câu chuyện lạ “Nguyễn Du nửa đêm đọc lại“; “Nguyễn Du và đền cổ Trung Liệt“. Tôi noi gương sáng và lời khuyến khích tâm đắc của Thầy để đúc kết “Lê Quý Đôn tinh hoa” “Dẫu có bạc vàng trăm vạn lượng. Không bằng kinh sử một vài pho”. Tôi viết “Minh triết Hồ Chí Minh” lại nhớ về bài Thầy viết “Bác Hồ với thế giới tâm linh“. Dạy và học mỗi ngày của tôi là chịu ảnh hưởng lớn của tinh hoa “Vinh quang nghề Thầy”.

Nhớ Thầy Nguyễn Lân Dũng, tôi ám ảnh năm câu hỏi của một công án kỳ lạ 1) Nguyễn Du có phải là Từ Hải hay không? 2) Thầy Nguyễn Lân Dũng đọc sách Hoàng Tuấn Công sẽ viết gì? 3) Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh với vua Bảo Đại và Thủ tướng Trần Trọng Kim không thể có được thỏa hiệp hợp tác khi hình thành nước Việt Nam mới? 4) Gia tài tinh thần thầy cô Nguyễn Lân Nguyễn Thị Tề trao truyền lại cho gia tộc mà thầy Nguyễn Lân Dũng đã đúc kết năm điểm? 5) Bài học tinh hoa của “Vinh quang nghề Thầy”?

ĐỌC ‘VINH QUANG NGHỀ THẦY

1
Năm 2011, tôi tình cờ biết được một câu chuyện riêng, rất đau lòng và thương tâm của gia tộc thầy Nguyễn Lân Dũng. Ông nội của thầy Nguyễn Lân Dũng với vợ bác hai Nguyễn Văn Phượng và mười người thợ của gia đình bác hai thầy Dũng đều đã bị cháy thiêu tại một tai nạn pháo bông. Xưởng pháo bị nổ sau bữa tiệc cuối năm, vào ngày 23 tháng Chạp năm Mậu Thìn (1928) khi công nhân đang ngủ, chắc họ đã đụng vào ngọn đèn dầu tây cạnh đấy và đèn bị đổ nên lửa đã bắt vào pháo để đấy ở tầng dưới, khi ông nội thầy Dũng ngủ trên gác, vừa xuống tới cầu thang cũng tắt nghỉ. Sau này, lúc gần ngày Chạp mộ, tôi ghé thăm trang Thầy Nguyễn Lân Dũng http://nguyenlandung.vn102.space/ lúc thầy đã là lão làng tốt tính quen thuộc ở Xóm Lá, thì tôi được thầy Dũng đồng cảm tặng sách “Vinh quang nghề Thầy” ,soi tỏ nhiều chi tiết thời vận mà tôi sẽ xin nói rõ hơn trong sự luận bàn ‘Một công án kỳ lạ’ ở phần sau.

2

Đọc “Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân ‘Bay trên tấm thảm dệt bằng vải gai’ của tác giả Võ Thị Hảo, báo Gia đình và xã hội số 96 (406) ngày 12 tháng 8 năm 2003, tôi bùi ngừi tự hỏi không biết có những ai đã để ý và dừng lại rất lâu, thật lâu tại ba trích đoạn này 1) “Người vợ hiền ấy (bà Nguyễn Thị Tề sinh năm 1915, mất năm 1993), 4 tháng trước khi từ bỏ cõi đời, ở tuổi 79, đã tự tay rút chỉ thêu một chiếc gối tặng ông. Gối đơn. Vì bà đi trước. Lời trối trăng trước lúc tạ thế, nói đủ cho cô con dâu đã sống cùng ông bà hơn hai chục năm nghe “Con nhớ ở lại chăm sóc ông cho mợ”. Với chiếc gối độc nhất, để giữ lại hơi ấm của bà, sau 5 năm cặm cụi, một cuốn từ điển, công trình ‘vĩ mô’ cuối cùng trong đời, hôm nay, Giáo sư Nguyễn Lân đã thanh thản trên đường về với hiền thê. Trên ‘tấm thảm gai’ của hàn sĩ”:2) Cả nhà đều làm nghề giáo. Nhưng trong những phiên chợ giáo dục hỗn mang, hoạt báo , vô lương, không có họ. “Hôm nay là ngày giỗ bác cả Trình. Nhờ bác mà ba và các con mới được như ngày hôm nay. Ba là con thứ 17 trong nhà , sinh ra đã ‘tiên thiên bất túc’, nhà nghèo, mẹ mất sớm, may nhờ có bác cả Trình nuôi ba như con, cho ăn, cho học, cho chữa bệnh… Ơn này, ba và các con cháu không bao giờ quên“; 3) “Cả đời, với nếp sống thanh bạch của một hàn sĩ, với tinh thần làm việc và ý chí cũng như công tích của một nhà sư phạm có nhân cách lớn, cụ Nguyễn Lân đã kiên trì chống chọi lại thói ăn xổi ở thì, xa lánh cáí “QUẦNG SÁNG PHÙ PHIẾM CỦA PHÁO BÔNG”, (HK in đậm để ghi nhớ dạy và học), không lợi dụng vị trí và các mối quen biết để trục lợi….”. Ngày ấy, tới gần tới dịp Chạp mộ, tôi lại nhớ tới ngày 23 tháng Chap năm Mậu Thìn (1928), ngày tai họa pháo bông thương tâm ập xuống ngôi nhà lương thiện của Thầy.

3

“Vinh quang nghề Thầy” thấm thía nhất, sâu sắc nhất, thương yêu nhất trong lòng tôi với sự kính trọng, ngưỡng mộ là thầm lặng đọc đi đọc lại nhiều lần, để tỉnh thức noi gương sáng người hiền, soi thấu những bài học quý “Vĩnh biệt Cha yêu quý” trong “Ba của chúng con”

Đó là tấm gương về lòng tin, tin ở chính mình, tin ở sự nghiệp vẻ vang của dân tộc, tin ở lẽ phải, ở chính nghĩa, tin ở tất cả những người lương thiện sống quanh ta.

Đó là tấm gương về lòng hiếu học và ý chí phấn đấu học tập suốt đời để không ngừng làm giàu kiến thức cho mình và dùng kiến thức ấy để cống hiến cho xã hội.

Đó là tấm lòng nhân ái, yêu đời, yêu người, vị tha, khoan dung dành cho những người sống quanh mình. Ba luôn xót thương cho những số phận bất hạnh, luôn luôn cảm thông cho những lỗi lầm do ít kinh nghiệm hoặc thiếu kiến thức. Nhưng Ba lại là người hết sức bất bình với những hành vi tham lam, vị kỷ, dối trá, lọc lừa, vô đạo đức. Ba căm ghét sự lợi dụng chức quyền , làm giàu bất chính, bắt nạt dân lành, dối trên lừa dưới.

Đó là tấm gương về nếp sống giản dị, tiết kiệm, không màng công danh phú quý, không chuộng hình thức, luôn khiêm nhường và quý trọng sức lao động của người khác.”

(còn nữa…)

vochonggslevanto

CHUYỆN THẦY LÊ VĂN TỐ
Hoàng Kim


Giáo sư Lê Văn Tố là một người thầy hiền hậu, tài năng mà đời tôi may mắn được gần gũi, học hỏi và tôi thực sự kính trọng. Thầy Tố cùng quê Nghệ Tĩnh với cụ Nguyễn Công Trứ người đã tuyên ngôn sứ mệnh của kẻ quốc sĩ: “Đã mang tiếng ở trong trời đất. Phải có danh gì với núi sông” đối với người có học thực sự phải làm được điều gì đó ích lợi cho dân cho nước. Chuyện thầy Lê Văn Tố khơi dậy trong tôi sự thăm thẳm nhớ quê của một người con xa xứ và ước vọng tiếp tục hoàn thiện các công việc ân tình phục vụ ích lợi cho Tổ Quốc Quê Hương. Thầy Tố có nhiều chuyện đời mà tôi thích nhất bảy chuyện: 1) PHTI – HCMC và FCC; 2) Một chuyến đi ‘dối già’ và những suy tư ”, 3) “Lịch sử Logo FCC”, 4) “FOLI và FOVINA”,5) “Câu thơ đời ám ảnh”, 6) “Thầy Tố chuyện đời thường ” 7) “Thầy Tố bạn và học trò ” Trước đây khi bước vào tuổi 75 thầy Tố đã có cuộc du xuân “dối già” cùng vợ về quê. Đó là câu chuyện không phải của riêng ai, chỉ là người trước người sau mà thôi, bạn cũng chẳng kiêng cử về hai chữ “dối già” vì thầy cô nay còn mạnh khỏe lắm, phải thọ đến trăm tuổi, nhưng một cuộc du xuân cùng vợ về quê là chuyện to. Thầy coi xong việc này là thảnh thơi xong một việc chính.

Mời bạn lắng nghe lời Thầy kể:

  1. PHTI – HCMC VÀ FCC

    Thầy Lê Văn Tố viết “Tiền nhân bảo” Công trồng là công bỏ, Công làm cỏ là công ăn“. Đúng vậy tôi chỉ có công trồng chỉ có 2 cây là PHTI-HCMC và FCC trồng trong những đêm dài chuyển mình đổi mới: không được thành lập thêm cơ quan ở HCMC nếu không có chữ kí của ông Võ Văn Kiệt phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng và ông Phan Văn Khải chủ tịch thành phố. Tôi ở nước ngoài về cầm thơ tay của ông Chín Cần – phó ban tổ chức trung ương, Bộ trưởng, không biết sợ là gì cứ thế xông vào thế mà được việc. Có đội ngủ tốt. Cơ quan làm được nhiều việc, có uy tín với xã hội. Tôi về hưu đã lâu, nhân ngày gia đình Việt Nam, anh em cơ quan đến thăm. Cầm phong bì trên ngực, gạo, sữa nặng quá không ôm được biểu lộ tấm lòng của người già. Trân trong trước tình cảm của anh chị em”. Đọc những lời chia sẻ, Ấm áp mãi tình thân. Trang sách đời rộng mở. Dạy và học chuyên cần. Em Hoàng Kim xin được lưu về chuyên trang Chuyện thầy Lê Văn Tố

2. MỘT CHUYẾN ĐI “DỐI GIÀ” VÀ NHỮNG SUY TƯ
Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Lê Văn T

Bước vào tuổi 75 tôi muốn có cuộc du xuân “dối già” cùng vợ về quê.

Như có món nợ nào đó chưa trả xong khi bước sang thế giới khác, đầu óc tôi vẫn văng vẳng đâu đó câu ví dặm “ giận thì giận mà thương thì thương” tôi không giận ai cả. Chỉ biết giận mình vì tuy có một số sản phẩm được người tiêu dùng chấp nhận nhưng chưa có gì đóng góp cho quê hương. Có lẽ núm nhau mẹ chôn ở gốc tre bụi chuối nào đó nên quê hương vẫn sâu đậm trong lòng – mặc dầu li hương hơn 60 năm.

Không sâu đậm sao được đến như Le Breton thầy giáo của giáo sư Lê Thước ở trường quốc học Vinh đã không ngần ngại khi viết: “ông yêu xứ Nghệ và con người Nghệ Tĩnh”( Le vienx An-Tĩnh 1936, bản dịch của Trung Tâm văn hóa ngôn ngữ đông tây năm 2005). Có lẽ Le Breton vì hiểu và yêu xứ Nghệ nên mới để lại tác phẩm chân tình giàu tính văn học, sáng giá về khảo cổ học, sử học, am hiểu về địa chất Nghệ Tĩnh đến thế.

Để tiết kiệm thời gian, tôi liên hệ một số cơ sở du lịch và khách sạn 5 sao Mường Thanh Sông Lam ở Vinh thu xếp cho một chuyến du lịch cao cấp với hướng dẫn viên giàu tri thức, am hiểu địa danh các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Nam Đàn, Thanh Chương, Hương Sơn, Hương Khê, theo đường 8 đến biên giới Lào- Việt. Yêu cầu đơn giản đó không được đáp ứng. Tôi thuê xe về quê nội, quê ngoại.

Hai quê qua bao thăng trầm nay đã được công nhận là di tích văn hóa lịch sử. Quê nội đời cố Lê Kim Ứng đã có công giúp phong trào Cần Vương và là nơi trú ngụ của gia đình cụ Nguyễn Sinh Sắc cùng 3 con sinh sống một thời gian thời thơ ấu. Phong cảnh và tình người chắc để lại trong lòng Bác Hồ những kĩ niệm khó quên nên khi Bác gặp tham tán quân sự Việt Nam tại Mạc Tư Khoa (người cùng quê) Bác còn hỏi thăm và khen là Nguyệt Bổng (tên cũ) đẹp.

Nhiều văn nghệ sĩ trong kháng chiến chống Pháp như Nguyễn Văn Tý, Trần Hoàn,…đã từng sinh sống tại quê tôi. Hồi nhỏ chúng tôi vẫn nghêu ngao “một chiều anh bước đi, em tiễn đưa anh ra tận cuối đồi, rằng kháng chiến còn trường kì là còn gian khổ”. Trần Hoàn đã bén duyên với người con gái quê tôi, trước lúc đi công tác xa đã để lại bài hát trên.

Khi vua Hàm Nghi bị bắt, phong trào Cần Vương đi vào thoái trào. Các sĩ phu Cần Vương cảm kích trước sự giúp đỡ của gia tộc Lê Kim Ứng đã nói : việc nước chưa thành, công ơn gia tộc chưa trả được chỉ mới chọn được miếng đất tốt để hai cụ an nghỉ lúc trăm tuổi với lòng mong mỏi gia tộc ngày càng hưng thịnh. Tôi không am hiểu phong thủy nhưng mộ Cố trên đồi cao vẫn hội đủ: tả thanh long, hữu bạch hổ có sông dài uốn lượn phía dưới.Tuổi già nhưng nhờ mấy trăm bậc đá cháu mới làm nên vẫn cố leo lên thắp hương Cố lần cuối.

Bên kia quả đồi là giếng Cửa Khâu nước chảy quanh năm từ lòng núi không bao giờ cạn với đàn cá tung tăng như cá thần Cẩm Thủy (Thanh Hóa). Chị em tôi lúc nhỏ hay phải gánh nước từ giếng Cửa Khâu về để mẹ làm tương ăn quanh năm, thổi xôi nếp rồng cúng giỗ…

Về quê nhiều lần hỏi về giếng Cửa Khâu, nếp rồng, bánh vo (làm từ bột gạo lức lúa nương) chỉ còn mấy người già còn nhớ. May thay lần này có người dẫn đường tìm lại được giếng Cửa Khâu khi trời vừa tối. Cảm động vô cùng bà con xúm lại. Người biếu chai rượu, kẻ chai tương được sản xuất từ nguồn nước giếng này. Đúng là món ngon nhớ đời. Không phải chỉ mình tôi mà biết bao người xứ Nghệ, khách thập phương từng sinh sống ở đây vẫn nhớ con cá mát kho tương, xôi nếp rồng, bánh vo… Nay chỉ còn trong kí ức người già!

Bù lại có món ngọn lang luộc xào tỏi mà các anh chị ở tòa soạn báo Kinh tế Sài Gòn, Sài Gòn Times khi chiêu đãi tôi ở thành phố Hồ Chí Minh thường nhắc đến nay đã trở thành món đặc sản nhưng phổ thông khắp thành Vinh. Ước gì ngọn lang, cá thu nướng Cửa Lò, gà đồi Nghệ An trở thành hàng hóa phổ biến ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.

Nghệ An còn nổi tiếng với cam Xã Đoài. Lần này về quê, cố tìm đến vùng cam Xã Đoài để mua bằng được loại cam nổi tiếng ngọt, thơm, nguyên gốc về làm quà. Loại cam mà tôi đã từng được ăn, được chứng kiến người dân chăm sóc theo lối cổ truyền. Cũng gọi là cam Xã Đoài bán hiện nay nhưng sao quá nhiều nước và chua! Đường cao tốc vun vút qua xứ đạo năm xưa, khó tìm được người dân để hỏi đường. May gặp được người dắt trâu làm đồng về chỉ nói đơn giản: “Không cần hỏi ai cả cứ đi tiếp nhìn bên trái thấy nhiều tòa nhà, cổng thành kiên cố, đường bê tông dài bao quanh– cam Xã Đoài ở đó.

Có lẽ sau Tết hết mùa cam chỉ thấy hai quả cam đá to tướng trên tượng đài trước tòa dinh thự. Chợt nhớ tới ông Nguyễn Hữu Tiêu giám đốc nông trường Sông Con (Nghĩa Đan) . Chỉ còn một mắt vì gian truân của cuộc đời nhưng vẫn sáng nhìn xa trông rộng nên đã đưa cam Xã Đoài lên vùng đồi tạo nên thương hiệu cam Vinh nổi tiếng một thời làm mát lòng người dân miền Bắc, trong lúc khan hiếm hàng hóa của thời bao cấp.

Hi vọng sẽ còn dịp trở về thắp hương trên bàn thờ ông Tiêu ở Nghĩa Đàn với cam Xã Đoài thứ thiệt. Cam Xã Đoài mọc trên đất pha cát xung quanh nhà thờ Xã Đoài. Có lẽ cần đến vai trò xứ đạo để phát triển và giữ được thương hiệu loại cam quý giá này.

Viết đến đây tôi lại nhớ đến cố ngoại Phan Sĩ Thục được vua Tự Đức cử làm chánh sứ đến triều Thanh. Làm quan to trong triều nhưng khi lương, giáo tàn sát lẫn nhau, cố đã mở cửa nhà quan để giáo dân vào trú ẩn, góp phần hòa giải mâu thuẫn. Ngày nay con đường mang tên ông là một trong những con đường dẫn đến tượng đài Bác Hồ ở Vinh. Tôi thầm cảm ơn các anh chị lớp trước, phải “có tâm có tầm” mới cất giữ được bút phê của vua “Liêm như Thục” và ấn kiếm áo mũ vua ban cho đời sau (sách vua quan triều Nguyễn cũng đã ghi chép chuyện này).

Lần này về quê tôi còn gắng sức đến thắp hương mộ bà Hoàng Thị Loan trên đồi cao. Mát trời cảnh đẹp nhưng nhiều cụ già với lòng thành tâm chỉ ngồi dưới chân đồi. Giá có những chiếc cáng nhỏ để giúp các cụ! Con đường bậc thang lên đồi dốc chỉ có nước trà xanh và nước có gas nếu có củ sắn dây luộc trồng xung quanh đồi hoặc nước sắn dây sẽ thêm mát lòng người đến viếng… Nhà lưu niệm Nguyễn Du to rộng mênh mông nhưng sao vẫn thiếu tiếng ngâm Kiều của mẹ thuở nhỏ…

Quà về quê tôi chỉ có dịp mang theo cam Quỳ Hợp thay cho cam Xã Đoài và chai tương Cửa Khâu. Nếu có thêm cá thu nướng Cửa Lò đông lạnh hút chân không thì tốt biết bao. An ninh ở sân bay Vinh không cho tôi mang chai tương theo người nhưng sau khi biết tôi mang tương về để nghiên cứu phát triển sản xuất đã linh động cho qua. Về Sài Gòn kể chuyện mọi người khen an ninh có tâm và có tầm nhìn…

Chuyến đi dối già chỉ có mấy ngày nhưng có biết bao điều suy tư. Suy tư có thể đúng có thể sai nhưng vẫn là suy tư của người con xứ Nghệ xa quê.

GS. TSKH Lê Văn Tố

3. LỊCH SỬ LOGO FCC
The History of Logo FCC

Anh em ở cơ quan cũ FCC và tổng giám đốc FCC anh Trần Phương đến chơi và trao đổi với tôi viết lịch sử FCC để lưu lại và giáo dục truyền thống cho lớp trẻ mới vào . Tôi từ chối và nói : Đã gửi phòng lưu trữ cơ quan các tài liệu cũng như bút tích của ông Võ Văn Kiệt ,ông Phan Văn Khải và ông Nguyễn Văn Chính ( Chín Cần Bí Thư Trung Ương Đảng , Bộ Trưởng Bộ Lương Thực ). Cơ quan nếu cần thì dựa vào tài liệu đó cũng như đĩa CD cử người viết là xong. Nay tôi chỉ kể lịch sử Logo FCC để mọi người có thêm tài liệu: 

Việt Nam từ thiếu ăn bắt đầu xuất cảng gạo, hồi ấy chúng ta giành gạo tốt nhất để bán. Nước ngoài mua gạo 35% tấm Việt Nam về bán lại gạo có phẩm chất cao hơn. Thuộc chuyên môn của mình, tôi đề nghị nhà nước cho thành lập cơ quan giám định thứ 2 với tên giao dịch quốc tế là :Food Control Center (FCC) bên cạnh Vinacontrol. Với sự hợp tác chân thành , tránh phiền phức cho khách hàng FCC đã tới Vinacontrol bàn bạc, thống nhất quy trình làm việc và đưa các mẫu gạo chuẩn để giám định. Cán bộ FCC thắc mắc tại sao mẫu gạo chuẩn chỉ ghi tên Vinacontrol và Viện Nghiên Cứu Lương Thực, còn FCC ở đâu ?

Ở trong tim các anh và trên ngực các anh – Tôi trả lời và chỉ vào ngực áo đồng phục của mọi người có Logo FCC. Mình phục vụ tốt hết lòng với khách hàng sẽ tạo dần uy tín. FCC với đội ngũ chuyên môn của mình đã tới từng kho hàng tham gia chuẩn bị hàng xuất khẩu cho họ theo đúng hợp đồng đã kí đồng thời mời cơ quan giám định quốc tế OMIC-Nhật Bản đến giảng dạy và cộng tác chuyên môn. FCC dần dần đã tạo dựng được uy tín của mình với khách hàng trong và ngoài nước song song với việc đào tạo tuyển dụng nhân viên mới. Có lần doanh nghiệp phản ánh với chúng tôi anh H buổi đêm bắt doanh nghiệp đem xe về Sài Gòn ngủ để mai đến Long An làm việc tiếp. Thời đó đường sá đi lại rất khó khăn sau khi điều tra chúng tôi biết đó là sự thật lập tức cho nhân viên tạm thời nghỉ việc và hẹn lúc nào biết cách phục vụ khách hàng sẽ được làm việc tiếp. Nghề giám định có nhiều lúc cũng rất cân não và khó khăn. Lúc kiểm lô ý dĩ xuất cảng sang Nhật, tới cảng Yokohama họ trả lại vì nhiễm độc tố Aflatoxin vượt chuẩn. Với lề lối làm việc khoa học, FCC khẳng định với khách hàng nếu lỗi của mình, chúng tôi sẽ nhận trách nhiệm nhưng trước hết cần lấy mẫu lại để kiểm tra đồng thời kiểm tra mẫu lưu trữ để trong kho và gửi mẫu sang Băng Cốc, Tokyo. Có kết quả tương đồng, tôi tin rằng chúng tôi có lý và khuyên khách hàng về sấy khô lại sản phẩm đổi các công ten nơ khác, nếu Nhật họ yêu cầu thì mạnh dạn xuất hàng. Mọi việc êm xuôi, tôi cũng trút được gánh nặng thoát khỏi vòng số 8 vì tội cố ý làm trái.

Có lẽ ở Yokohama họ lấy mẫu không đúng cách không đại diện cho lô hàng nên có sai sót nói trên. Từ sự việc này dự án ACIAR đề nghị tôi và một chuyên gia Úc viết bài giảng về phương pháp lấy mẫu cho các trường đại học.

Không phải chỉ tranh luận với khách hàng nước ngoài mà còn tranh luận với hải quan nước nhà. Chúng ta có nhà máy xay bột mì hiện đại nhưng nếu nhập hạt mì về xay sát sẽ bị đánh thuế vì hải quan cho rằng hạt mì là đã qua xay xát (Vì hạt lúa mì sau thu hoạch đã rất bóng ). Thuyết phục không xong, tôi cho hạt mì ngâm ủ và nói nếu qua xay xát hạt mì sẽ không nảy mầm. Cuối cùng hải quan chấp nhận. Có lần chúng tôi mời cán bộ FAO đến chứng kiến lô dầu ăn viện trợ cho Việt Nam bị ôi mốc vì chất lượng kém. Họ tâm phục khẩu khục đổi cho ta lô dầu khác. FCC ngày càng phát triển được ủy quyền giám định không những chỉ hàng lương thực thực phẩm mà còn nhiều loại hàng hóa khác. Cái áo đã chật nhưng Logo FCC đã đi ra thế giới làm thế nào đây ? Động viên anh em tìm thêm một chữ C cho hợp với cái áo mới, từ đó có tên : Food & Commoditoes Control. FCC đã giữ vững và phát triển tên tuổi của mình hơn 30 năm nay nhưng 1 lần nữa chứng tỏ sự non yếu của tôi – 1 người chuyên về kỹ thuật lương thực thực phẩm chỉ nghĩ đến giám định thực phẩm mà thôi…

Khi được xây dựng trụ sở mới tôi bàn với anh em : Mình chưa đủ tài chính xây dưng tòa nhà 9 lầu thì chỉ xây dựng 4 lầu nhưng nền móng kết cấu đủ 9 lầu tránh đập phá lãng phí.

Về hưu đã lâu rất ít khi tới cơ quan nhưng mỗi lần đến để sinh hoạt khoa học hoặc giới thiệu sách khoa học mới của các bạn đồng nghiệp. Nhìn tòa nhà 9 tầng vươn cao giữa hàng me cổ thụ ( Hợp đồng giao hẹn với công ty xây dựng không được chặt me ) lòng tôi lại lâng lâng.”

GS.TSKH Lê Văn Tố

ThayTovachaoPOLI

4. FOLI VÀ FOVINA
Một phần tư thế kỉ trôi qua của sản phẩm nghiên cứu Foli

Xuất khẩu gạo còn tồn dư nhiều gạo gãy, tấm tốt. Tiếc quá, tôi bàn với anh em ta sản xuất cháo ăn liền được không ? Ăn liền nhưng tiền đâu nghiên cứu ? Anh em hỏi lại tôi ? Ra Hà Nội xin tiền nghiên cứu nhưng họ không tin vì cháo thì phải nấu nhừ chứ máy móc làm sao được? Biết tôi từ lâu nhưng họ vẫn trách yêu : Cậu sách vở nhiều quá thần kinh hay sao? Về lại Sài Gòn tôi gõ cửa giáo sư Hoàng Anh Tuấn (giám đốc sở khoa học, ủy viên ủy ban TP. HCM) xin tiền nghiên cứu. Ông cười bảo tôi : Đó không phải là lĩnh vực của tôi nhưng tôi tin anh về làm thủ tục đi.

Có 50 triệu cầm tay ( Hồi đó 50 triệu là to ) các kĩ sư của chúng tôi ra đặt xưởng CARIC thiết bị chịu áp lực làm Extruder. Họ từ chối. Thử dùng nòng súng đại bác cũ được không ? – Tôi bàn với anh em. Kĩ sư Lộc và bộ phận cơ khí đã làm được Extruder từ nòng súng đại bác và sau đó kĩ sư Bình, kĩ sư Châu làm Extruder cỡ nhỏ hơn. Cháo ăn liền ra đời bán chạy khắp toàn quốc. Uy tín của Viện được nâng cao. Sáng sớm dân xếp hàng dày đặc trước cơ quan chờ thùng cháo ăn liền về cho gia đình và bán lại kiếm lời. Anh em bảo tôi đặt tên cho xưởng cháo đi. Đi đâu họ cũng hỏi xưởng cháo ngượng lắm !

Xưởng FOLI được không ? Sao lại gọi là xưởng FOLI ?

FOLI là food ăn liền để liền mạch với sản phẩm PHOMI được sản xuất từ nguyên liệu phối lúa mì rất bổ dưỡng chuyển giao cho xí nghiệp xay lúa mì Bình Đông bán rất chạy nuôi sống được 60 công nhân đang thất nghiệp.

Sản phẩm đã bán chạy sẽ có người làm giả nên cần đăng kí bản quyền. Tên FOLI và Logo FOLI mang hình đầu gà từ đó vì sản phẩm ra đời năm Qúy Dậu ( 1993 ). Mặc dù vậy ở Hà Nội có cô giáo vì kế sinh nhai làm giả cháo ăn liền của chúng tôi. Công an hỏi ý kiến để xử lý. Tôi bàn với công an : Vì sinh kế cô giáo mới làm như vậy các anh chỉ cần khuyên họ nếu có điều kiện thì mở cơ sở sản xuất mới chứ không được lấy tên FOLI. Từ cháo ăn liền họ hàng của FOLI có thêm nhiều sản phẩm mới : Cơm gạo nứt ăn liền, cốm gạo lứt rong biển, chè đậu xanh ăn liền, cốm 5 loại đậu, xưởng đồ hộp di động, canh chua ăn liền …. Sản phẩm đã có mặt trên thị trường ¼ thế kỉ.

Hội nghị tổng kết ở cơ quan giám đốc sở khoa học bảo tôi lên trả lời câu hỏi tri thức Việt kiều : Tại sao các anh làm được Extruder trong giai đoạn hiện nay. Không giấu diếm tôi thú thật là chúng tôi phải dùng nòng súng đại bác để chế tạo và nói đùa thêm : Các anh khôn đã xuất biên chúng tôi ở lại vừa điên vừa khùng. Là đồ Nghệ tôi đã chơi chữ có người cho tôi là điên khùng, tiếng Pháp FOLIE là kẻ khùng điên.

Về hưu nhớ lời của nhà thơ Nga Eptusenco: Đừng chết trước lúc lìa đời. Còn khỏe và đang “ngứa nghề” tôi thành lập Pilot Plan cho mình tại nhà để sản xuất thực phẩm có lợi cho sức khỏe từ nguyên liệu tự nhiên với tên gọi FOVINA (Food Vital, Natural) như kem bổ sung Isoflavon, bánh Macca, bánh bổ sung các loại hạt dinh dưỡng bánh mì thanh long giữ được dài ngày cho người đi biển … công nhân vui mừng được ăn nghỉ đàng hoàng và sống bằng sản phẩm mình làm ra. Đó cũng là địa điểm thuận lợi để các nhà khoa học ngồi hàn huyên tâm sự thử sản phẩm mới“.

GS.TSKH Lê Văn Tố

chuyendoigslevanto

5. CÂU THƠ ĐỜI ÁM ẢNH

Tôi đã trích dẫn chuyện thầy Lê Văn Tố để đọc và suy ngẫm, và sẽ còn quay lại trong nhiều dịp. Tôi tẩn mẫn in đậm các chữ chai tương. “FCC’ ‘POLI’  ‘FOVINA’ . Bill Gates vừa hôm qua chia sẻ thông tin What’s the secret to making great bread?  (‘Bí quyết để làm bánh mì tuyệt vời là gì?’) Câu hỏi của Bill Gates  dường như là một dấu lặng sâu xa cho ẩm thực và nông nghiệp, là một sự đồng cảm …

Chuyện đời của giáo sư Lê Văn Tố là bài học suy ngẫm. Thầy Tố qua tám mươi xuân vẫn trên con đường di sản mang các giá trị ẩm thực Việt lan rộng và tỏa sáng. Con người của tâm huyết và thực tiễn là lặng lẽ dâng hiến. Đó là đức độ của một người Thầy.

Nhà thơ Trần Đăng Khoa thẩm thơ khá tinh tế “thơ hay là giản dị, xúc động, ám ảnh”. Anh Tư Hoàng Trung Trực của tôi, vị đại tá tư lệnh sư đoàn thời chống Mỹ, cũng thích kể chuyện đời bằng thơ vì theo anh kể chuyện thơ có hồn và dễ nhớ hơn. Anh đã viết hồi ức thơ “Dấu chân người lính” kể về những khốc liệt hi sinh gian khổ chiến trường, đối mặt sinh tử.Thầy Lê Văn Tố cũng vậy, thầy hồi tưởng chuyện đời của thầy bằng những câu thơ tuy mộc mạc đời thường nhưng thật ám ảnh.

NGOÀI THẤT TUẦN  VIẾT LÚC NỬA ĐÊM
Lê Văn Tố

Mẹ nằm đó miên man trên giường bệnh.
Tóc trắng phau miệng mấp mấy mấy điều,
Chị nằm bên : “mẹ tỉnh hay mê ?”
Mẹ đi rồi thương ai nhiều nhất ?

Mẹ thều thào con nào đẻ chả thương,
Nhưng rồi mẹ lại vấn vương.
“Thương thằng Tố nhiều hơn con ạ !
Nó dành phần nuôi mẹ sớm chiều.

Con mẹ hiếu thảo đủ điều.
Nhưng phải xâm xiu, còn lo cho gia đình chúng nó…”
Nhớ lúc “bão tan” còn niêu đất nhỏ
Mẹ bảo : “Thổi nồi cháo – nhớ đổ nước cho nhiều”.

Ngô không có, khoai chẳng còn.
Còn gì đâu mà nổi lửa mẹ ơi !
Đêm đông gió giật từng hồi.
Hết cả rồi biết sống sao đây ?

Bán nốt con chó, bán cả cái vò
Có bữa câu được con tràu to.
Đổi gạo cháo no mấy bữa
Rồi lại co ro ngồi trên bậu cửa.

Con muốn bỏ học, mẹ không cho.
Bụng đói, rét co, nằm không chăn chiếu
Gốc sim già – lửa ấm được một bên.
Rồi mẹ lại lom khom lên núi xuống đồng .

Không quản ngày đông, nắng hè cháy bỏng…
Mẹ gánh, mẹ gồng xộc xệch mòn vai
Mua mít tại nhà bổ bán ở chợ
Hột nhặt về – độn để con ăn

Đêm ngủ chiêm bao thấy mẹ hiện về.
Nghẹn ngào con viết vội vần thơ…

CHÂN ĐẤT THEO ANH
Lê Văn Tố

Hòa bình về Thủ Đô
Nghệ An còn đói khổ
Đưa em ra Kinh Đô
Dép Bác Hồ* nỏ có

Em lội bộ theo anh
Tính toán mãi loanh quanh
Mua đôi dép con hổ**
Em bước chân đi nhanh.

Hổ rình chân em cứa
Xách cọp đi theo mình
Lặng thinh em tiến bước.
Em tiến bước lặng thinh

Mấy con nhỏ phía trước
Ngoái cổ cười bảo nhau
Đi mau mặc kệ tau
Chân đau đi răng được ?

Rồi em tiến dài bước
Vượt qua mọi chông gai
Không dép lốp xâu quai
Nhưng có oai con hổ.

* Loại dép bằng lốp ôtô xâu quai.
** Loại dép nhựa tái chế rất cứng

6. THẦY TỐ CHUYỆN ĐỜI THƯỜNG

Hoàng Kim xin chia sẻ ký ức quý giá của giáo sư tiến sĩ khoa học Lê Văn Tố. Tôi nói với các em sinh viên và các bạn đồng nghiệp: “Bài học khởi nghiệp của thầy Lê Văn Tố và FCC là rất quý và thật đáng suy ngẫm”

Thầy Tố kể: “Cảm ơn các bạn xa gần đã quan tâm và bình luận. Nói đến “công trồng” không thể không nhắc đến anh Nguyễn An Hoàng mà tôi có duyên được gặp anh khi anh ở Hungary về đang phụ trách một đơn vị HCSN phía Nam của Bộ cơ khí luyện kim. Tôi chân thành nói với anh “Tôi không biết quản lí đâu. Tôi chỉ là người đứng mũi chịu sào để các anh chủ động hoạt động”. Công trình đầu tiên của cơ quan do anh tự thiết kế chế tạo và lắp ráp: Máy sấy bột sắn làm tá dược cho xí nghiệp dược Tây Ninh. Làm xong đưa ra sản xuất nhưng họ không có tiền trả chỉ trả bằng sắt thép. Bán sắt thép ở thành phố thì công an ập vào! Tôi bắt đầu biết sợ nhưng cũng động viên anh em: “Nhà nước giao cho ta con gà để cúng, ta làm sạch sẽ luộc lên nộp đủ gan mề cổ cánh, chỉ lấy nước húp thôi” và dặn thêm tôi có làm sao khi đi thăm nuôi nhớ mang thêm sách tiếng anh và từ điển để tôi dạy phạm nhân. Mọi việc ổn thỏa chúng tôi từng bước đi lên, Khi FCC lớn mạnh, áo đã chật nhà nước không cho núp bóng viện nghiên cứu nữa mà phải thành lập doanh nghiệp nhà nước hẳn hoi. Tôi và anh Trần Phương (Tổng giám đốc FCC hiện nay) bay ra Hà Nội. Công việc còn ngổn ngang mà sớm mai đã phải xét duyệt, anh Phương phải phóng xe đến nhà chị Tuất đánh máy làm việc suốt đêm. Sáng sau mắt nhắm mắt mở trước hội đồng xét duyệt của Bộ tài chính và Bộ NN & PTNT, thôi thì “khôn ngoan chẳng lọ thật thà” tôi nói: “Sổ sách của chúng tôi như sổ chợ nhưng đảm bảo không bị thất thoát nhờ hội đồng giúp đỡ xử lí cho”. Phải nói rằng thời đó khó khăn nhưng hội đồng dễ thông cảm cho các “nhà kĩ thuật khởi nghiệp”. Không đao to búa lớn kiểm điểm bình bầu nhưng cơ quan làm việc nhuần nhuyễn với nhau. Trưa ăn cơm nóng sốt tại cớ quan rồi lăn ra chợp mắt làm xong việc mới về. Nói đến trụ sở không thể nhắc đến Omic Nhật Bản, họ hiểu và tin tưởng cho chúng tôi vay tiền rồi lấy công trả nợ. Tiền ít nhưng tham làm 4 lầu để sử dụng nhưng móng đủ sức làm 9 lầu. Anh em thắc mắc hỏi: “Sao đang đói mà anh làm to thế?” Tôi cười: “Làm cho các anh đó. Sau này khỏi phải đập phá khi xây thêm. Chúng ta đã chứng kiến cảnh đập phá quá nhiều rồi”. Khi tôi về hưu anh Đức (giám đốc PHT-HCMC) lên bộ xin xây 9 lầu cho cơ quan. Nguyên tắc phải khảo sát nền móng trước khi cấp giấy phép nhưng giáo sư Giang biết tôi là người chủ trì công trình xây dựng trước đây nên nói ngay: “Anh Tố mà làm thì chắc chắn”. Nghe anh Đức kể lại về hưu rồi vẫn sướng rơn vì trí thức được lãnh đạo tin tưởng. Thực tế giáo sư Giang chỉ gặp tôi 1 lần khi đó anh là vụ trưởng khi tôi đang tổ chức triển lãm ở Cần Thơ với tiêu đề “Đưa công nghiệp chế biến về nông thôn để mỗi địa phương có sản phẩm của mình”. Hàng có bao nhiêu bán hết sạch. Cứ như vậy chúng tôi tiến từng bước vững chắc. Ngẫu hứng mấy dòng để góp vui với cơ quan tổ chúc kỉ niệm 30 năm ngày thành lập FCC, vì khi đó sức khỏe yếu không chống gậy đến được.”

7.THẦY TỐ BẠN VÀ HỌC TRÒ

Tôi nhẫn nha chép lại những chuyện đời quanh thầy Tố, vui có buồn có nhưng đến đây thì cứ vui. Sớm nay, tập thể dục xong, trước khi góp ý bài đăng báo khoa học kỹ thuật nông nghiệp cho nhỏ học trò, tôi lướt qua một chút các trang tin nóng trong ngày, suy tư hoài khi đọc bài “Tắc kẹt vì đâu?“”Ba hoa cái tôi, cái tội và cái tồi“”Thị trường thép thế giới: Tương lai không sáng sủa“. Biết bao chuyện nóng hổi mà kẻ sĩ không thể không lo nghĩ. Nhưng thôi, đến thăm thầy, xin được nói chuyện vui nhiều hơn chuyện buồn thì tốt hơn. Thầy Quyền nghề nông của chúng tôi là tấm gương mẫu mực về sự phúc hậu, minh triết, tận tụy trên con đường xanh của chúng ta,  một người bạn thiết của thầy Tố, luôn quan tâm dặn dò giữ gìn sức khỏe.

Thầy Lê  Văn Tố cùng thời với những anh chị, bạn hữu “Nga học, Tây học”của thế hệ nông nghiệp đầu tiên nước Việt Nam mới. Nhiều người quen thân của thầy đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong nông nghiệp, sinh học và giáo dục nghề nông như: GS. Lương Định Của (16 tháng 8 năm 1920 – 28 tháng 12 năm 1975), GS. Đào Thế Tuấn (4 tháng 7 năm 1931- 19 tháng 1 năm 2011), GS. Vũ Tuyên Hoàng (2 tháng 12 năm 1939 -26 tháng 2 năm 2008), PGS. Lưu Trọng Hiếu (-15 tháng 5 năm 2008), GS. Trần Thế Thông, GS. Nguyễn Văn Luật, GS. Mai Văn Quyền, GS.  Trịnh Xuân Vũ, GS. Ngô Kế Sương, PGS. Nguyễn Văn Uyển,   GS. Nguyễn Tử Siêm, … Quê hương, dòng họ, gia đình, người thân và bạn quý là nguồn sinh khí, điểm tựa cho mỗi cuộc đời và sự nghiệp.

Trong nhiều câu chuyện đời thường, tôi thích bài thơ các anh Võ Đức Tình, Thao Lâm viết về thầy Tố:

CÓ MỘT NƠI NHƯ THẾ
Võ Đức Tình

Mái nhà xưa hai trái tim vàng
Giản dị một đời chẳng cao sang
Chỉ lo đào tạo bao thế hệ
Kiến thức tinh hoa thật vững vàng

Nơi ấy vườn xanh rộn tiếng cười
Thuyền câu rong ruổi khắp muôn nơi
Đưa cá về ao: hàng lưu trữ
Đãi bạn bè xa đãi khách mời

Ăn xong về lại mái nhà xưa
Bánh nóng trà thơm suốt bốn mùa
Bè bạn gần xa đều thưởng thức
Xem thầy chế biến đã vừa chưa

Bạn hỏi rằng đâu đẹp thế này
Cảnh đẹp người vui chuyện đắm say
Nơi ấy bạn hiền thành tri kỷ
Cô Nga thầy Tố ” trực” đêm ngày

Duc Tinh Vo
friends with To Le Van

TIẾNG CHIM THÂN QUEN !
Thao Lâm 26 9 2020
  ·

Tiếng chim bìm bịp gọi tôi về
Thăm miền thơ ấu… nơi chốn quê
Vùng đồi Phú Thọ miên man nhớ
Cuối xuân bìm bịp gọi nhau về !

Đón nắng vàng ươm buổi sớm mai
Tiếng kêu “bìm bịp” tha thiết hoài
Đón đợi “bạn tình” trong nắng đẹp
Thỏa lòng mong ước được sinh sôi !

Lâu lắm lại nghe tiếng thân quen
Bên sông nhà bạn* ngay Sài Gòn
Màu nâu bìm bịp bay thấp thoáng
Tình Bạn thêm nồng kỷ niệm nhen !

Tình Bạn lâu nay vốn đậm đà
Người Nam kẻ Bắc có đâu xa
Lại được cùng nhau nghe bìm bịp
Tiếng chim thân thuộc của hai ta !

Nhớ ngày thăm nhà Bạn-GS Lê Văn Tố ở Q7 Sài Gòn.MĐ.HN 26.9.2020

KỶ NIỆM VỚI GS LÊ VĂN TỐ

Anh Tinh Cao Cao Văn Tinh viết: Cám ơn anh Hoàng Kim đã cho độc giả thêm nhiều chi tiết về GS Lê Văn Tố với hoạt động khoa học không mệt mỏi của mình trong bối cảnh cơ chế cũ. Tôi có kỷ niệm về việc GS Tố hết mình để giúp người bạn của ông . Ông Phạm Huy Hùng (ông đã mất) làm ở cục quân khí trong kháng chiến chống Pháp . Sau này ông làm chuyên viên cơ quan tôi, mất hết giấy tờ khi nghỉ hưu không có chế độ . Hồ sơ phức tạp chạy nhiều nơi tới các cơ quan trung ương và cuối cùng tới ông Vũ Mão ở Quốc hội . Ông Vũ Mão đã ngạc nhiên vời người thủ trưởng cũ của mình và xác nhận chuyển qua Bộ Lao động Thương binh Xã hội làm chế độ cho ông Hùng. Chúng tôi cảm kích tấm lòng của GS Lê Văn Tố hết mình giúp bạn . Chuyện thứ hai liên quan tới GS Tố. Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm đặt ra rất sớm khi mở cửa . Khu chế xuất Tân Thuận mở ra , các trường mẫu giáo và phổ thông các cấp đại học gặp vấn đề ngộ độc thực phẩm đặt ra rất gay gắt . Độc tố trong rau củ quả nhận biết, xử lý như thế nào chúng ta chưa có kinh nghiệm cả lý thuyết lẫn thực tiễn . Thành phố Hồ Chí Minh cử một đoàn nhiều chuyên ngành đi Đài Loan , Hàn Quốc học hỏi . Phần liên quan tới tôi là xử lý thuốc bảo vệ thực vật lưu dẫn trong rau củ quả xử lý bằng ozone có được không. Vì có nhiều quảng cáo thời đó là dùng hóa chất, dùng ozone xử lý hết mọi dư lượng trong rau củ quả ! Tôi là người nghiên cứu sản xuất máy ozone rất sớm ở Việt Nam năm 1979 mà không có một thông tin gì về việc này, mà nghĩ cũng không có lý. Tôi tới gặp GS Tố , anh vui vẻ chấp nhận cho tôi kiểm tra trên mẫu rau mồng tơi từ Gò Vấp . Anh còn cho thêm một số thông tin về việc này làm tôi cẩn thận trong kiểm tra. Kết quả đúng như anh đã nói và tôi nghi ngờ các quảng cáo: khí ozone không có tác dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật đã lưu dẫn trong rau củ quả trong nông nghiệp. Sau này một số hội chợ, hội thảo nông nghiệp tôi đã lấy kết quả kiểm tra ở viện FCCC của giáo sư Tố để bác bỏ các quảng cáo láo phi khoa học của một số nhà thương mại . Tôi rất biết ơn và cảm phục tấm lòng của giáo sư Tố. Cám ơn Hoàng Kim và góp thêm một vài tư liệu về sự hoạt động khoa học và đời thường của nhà khoa học chân chính .

xem tiếp: Chuyện thầy Lê Văn Tố https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-thay-le-van-to/

Goethe at Rome

GIẤC MƠ THIÊNG CÙNG GOETHE
Người già kể chuyện sử thi
Kalovi Vary, Roma, Oregon
Thắp lên trong tôi ngọn lửa
Hoàng Kim

Mọi lý thuyết đều là màu xám,
chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi
Goethe trao tặng cho tôi
Ngọc minh triết của Người.

Tôi giấc mơ gặp Goethe
Kalovi Vary, Czechoslovakia
trong rừng thiêng cổ tích.
Người kể chuyện sử thi

Tiệp Khắc kỷ niệm một thời
Praha Goethe và lâu đài cổ
Những khát khao của Faust,
Nỗi đau của chàng Werther

Người nhắc tôi đừng quên
kể chuyện sử thi dân mình
Cho dù học gì làm gì
Cũng đừng quên chuyện đó !

Người hỏi tôi trong mơ
Con có dám học Faust?
Chọn minh triết làm Thầy
Suốt đời theo Trí Tuệ ?

Tôi trả lời.trong mơ
Có con xin theo Người !
Con xin theo học Goethe
Người kể chuyện sử thi

Ta bàng hoàng gặp Goethe
Trên cầu đi bộ Charles
Trong 30 tượng thánh trầm tư
Tôi ngắm hình tượng Faust

Quảng trường Old Town Square
Đế Quốc La Mã Thần Thánh
Goethe lắng đọng tại Praha
Trong huyền thoại muôn đời

Tôi nhớ Người ở Frankfurt,
Di sản Người Leipzig, Strasbourg
Ông già hiền triết châu Âu
Tại bao nhiêu điểm đến …

Tôi học Goethe qua thơ Xuân Diệu
Mọi lý thuyết đều là màu xám,
chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi
Thơ Người đi cùng tôi bao tháng năm.

Tôi gặp Goethe ở châu Âu
Trong hình bóng người hiền
Cũng gặp Người tại Oregon
Nơi Miền Tây Nước Mỹ.

Tôi gặp Goethe ở châu Mỹ
Tại Ciudad Obregon
Hồ lớn ba tỷ khối nước
Cây xanh đất nước giao hòa

Tôi  gặp Người ở CIMMYT Mexico
phía cuối trời Tây
GoetheNorman Borlaug dạy cho tôi
Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương

Người hóa thân
trong thanh thản
bóng cây xanh
Người đàm đạo
với Norman Borlaug
và cậu học trò nghèo
Về ý tưởng xanh
Con đường xanh
Hành trình xanh
Sự nghiệp xanh
Nhà khoa học xanh
giấc mơ hạnh phúc

Goethe là vòm cây xanh
Goethe cũng là lão nông
ngồi cùng chúng ta
chuyện trò
trên cánh đồng xanh
hạnh phúc.

Goethe Norman Borlaug
là những trí tuệ bậc Thầy.
Họ không màng hư vình
mà hướng tới đỉnh cao hòa bình
sự an lành tiến bộ.

Anh và em cùng Goethe
Ở FAO, Rome, Italy
Người hóa thân
thành nữ thần Tình Yêu (*)

Trời xanh tuyệt vời !
Trời nhân loại mênh mông !

(*) Hình ảnh Hoàng Kim ở Roma, Italia.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là fao-roma-italia.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dao-choi-cung-gouthe-1.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là kim-in-italia.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là kim-in-ita-lia-2.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là kim-o-fao-2.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tro-ve-diem-hen-2.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là y-1.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tro-ve-diem-hen.jpg

Giấc mơ về điểm hẹn

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Mênh mang một khúc sông Hồng
Huyền Thoại Hồ Núi Cốc
Một thoáng Tây Hồ
Trên đỉnh Phù Vân
Chảy đi sông ơi …

Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Chào ngày mới 29 tháng 9


DẠY VÀ HỌC 29 THÁNG 9
Hoàng Kim và Hoàng Long
CNM365 Tình yêu cuộc sống #vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói; Vườn giống sắn Đồng Xuân ,Thầy Nguyễn Lân Dũng; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên; Ngày 29 tháng 9 năm 1774, Tác phẩm Nỗi đau của chàng Werther được phát hành khiến tác gia Johann Wolfgang von Goethe (hình) nổi tiếng thế giới. Johann Wolfgang von Goethe là nhà thông thái Đức, vĩ nhân văn chương thế giới, nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học, tiểu thuyết gia, họa sĩ. Ba tác phẩm sử thi danh tiếng nhất của ông, bền vững với thời gian, là kịch thơ Faust đỉnh cao văn chương thế giới, Nỗi đau của chàng WertherWilhelm Meister’s Apprenticeship ; Ngày 29 tháng 9 năm 1951 là ngày mất của Nguyễn Bình, tên thật là Nguyễn Phương Thảo, (1906 – 1951) là Trung tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, lãnh đạo quân dân miền Nam Việt Nam kháng chiến chống Pháp. Ông hi sinh tại xã Srê Dốc, huyện Sê San, tỉnh Xtung Treng, trên đất Campuchia . Ông là  người đầu tiên được nhận huận chương quân công hạng nhất bởi sắc lệnh 84/SL của chủ tịch Hồ Chí Minh, được nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày 29 tháng 9 năm 1954, 12 quốc gia ký hiệp định thành lập Tổ chức Nghiên .cứu Nguyên tử Châu Âu (CERN), phòng thí nghiệm vật lý hạt lớn nhất thế giới hiện nay. Bài chọn lọc ngày 29 tháng 9:#vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói; Vườn giống sắn Đồng Xuân , Thầy Nguyễn Lân Dũng; Chuyện thầy Lê Văn Tố; Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-29-thang-9/

SỰ THẬT TỐT HƠN NGÀN LỜI NÓI
Hoàng Kim

Việt Nam con đường xanh
Chung sức trên đường xuân
Vui đi dưới mặt trời
Sự thật tốt hơn ngàn lời nói
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/su-that-tot-hon-ngan-loi-noi/

Giống sắn KM568 trên ruông nông dân Phú Yên (giữa) rất sạch bệnh khảm lá virus (CMD) và bệnh chồi rồng CWBD, bên trái phía sau là giống sắn chủ lực sản xuất KM419 cũ nhiều và đồng đều nhưng nhiễm bệnh CMD mức 3,5; bên phải phía sau là giống chủ lực thương mại KM440 kháng bệnh CMD cấp 2 và CWBD cấp 1,5. Giống sắn KM568 là kết quả đề tài nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất của tỉnh Phú Yên.

PHÚ YÊN GIẢI PHÁP SÁNG TẠO VÀ CÔNG NGHÊ GIỐNG SẮN.
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Đình Phú, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Văn Minh và đồng sự.


Giống sắn KM568, KM539, KM440 đang thể hiện sự vượt trội trên ruộng sắn La Hai, Đồng Xuân Phú Yên ngày 29 tháng 9 năm 2022. Đây là kết quả bước đầu của nội dung 1 Nâng cấp cải tiến giống sắn chủ lực thương mại KM419, KM440 bằng cách hồi giao với KM539, KM537, KM534, KM94 thuộc nhiệm vụ khoa học thực tiễn cấp bách:”Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên; xem tiếp Bảo tồn và phát triển sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/ và Giống sắn KM419 và KM440 https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-san-km419-va-km440

THẦY NGHỀ NÔNG CHIẾN SĨ
Hoàng Kim
kính tặng anh Trần Mạnh Báo

Bao nhiêu bạn cũ đã đi rồi
Nhớ để mà thương cố gắng thôi
Nhà khoa học xanh gương trung hiếu
Người thầy chiến sĩ đức hi sinh
Dưới đáy đại dương là ngọc quý
Trên đồng chữ nghĩa ấy tinh anh
Doanh nghiệp Thái Bình chăm việc thiện
Giống tốt bội thu vẹn nghĩa tình.

(*) Ảnh tư liệu chon lọc về anh Trần Mạnh Báo (từ 1 đến 8). Chúc mừng gạo Việt từ giống tốt đến thương hiệu (Hoàng Long 9). Con đường lúa gạo Việt Nam’ vươn tới muôn nơi  ‘Cơm ngon từ giống, gạo sạch từ tâm’

Xem tiếp: Thầy nghề nông chiến sĩ

Nha khoa hoc xanh nguoi thay chien si
Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là ta-la-ai-doi-thoai-voi-canh-dong.jpg
Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là tu-hoa-lua-bun-non-toi-dong-xuan-ruong-ngau.jpg
Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là mo-hinh-lien-ket-san-xuat-va-bao-tieu-san-pham.jpg

†††

Trần Mạnh Báo viếng Bác

(**) ‘Con đường lúa gạo Việt Nam’  là chùm bài viết #CLTVN của #hoangkimlong kể về một số chân dung nhà nông phác thảo:Việt Nam tổ quốc tôi, Việt Nam con đường xanh; Viện Lúa Sao Thần Nông; Con đường lúa gạo Việt Nam; Thầy Tuấn kinh tế hộ; Sóc Trăng Lương Định Của; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Thầy lúa Bùi Bá Bổng; Thầy Quyền thâm canh lúa; Thầy Luật lúa OMCS OM; Thầy Xuân canh tác lúa; Thầy nghề nông chiến sĩ; Chuyện cô Trâm lúa lai; Chuyện thầy Hoan lúa lai; Hồ Quang Cua gạo ST; Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi; Gạo Việt và thương hiệu; Một niềm tin thắp lửa; Bảo tồn và phát triển sắn; Chọn giống sắn Việt Nam; Sắn Việt Nam ngày nay; Cách mạng sắn Việt Nam; Vietnamese cassava today Chọn giống sắn kháng CMD; Chọn giống sắn kháng CWBD; Mười kỹ thuật thâm canh sắn;

Hanh phuc la dong doi anh lam hat ngoc cho doi

Lúa Siêu Xanh Việt Nam kết nối CAAS IRRI
Chọn giống sắn Việt Nam sự thật tốt hơn ngàn lời nói

SẮN VIỆT NAM NGÀY NAY: BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Vietnamese cassava today: conservation and sustainable development
Nguyen Thi Truc Mai, Hoang Kim, Hoang Long, et al. (*)
Selection of cassava varieties resistant to CMD
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

Ở Việt Nam, giống sắn KM419 và KM440 đến nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 để khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững: xem thêm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

In  Vietnam, up to now, cassava varieties KM419 and KM440 are popular,  after even CMD and CWBD, https://youtu.be/XDM6i8vLHcI and https://youtu.be/kjWwyW0hkbU planting clean KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 for DUS and VCU trials remains our advice to farmer at this stage.  Cassava conservation and sustainable development in Vietnam: https://youtu.be/XMHEa-KewEk; https://youtu.be/5l9xPES76fU;

Bệnh virus khảm lá CMD từ ban đầu Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) là thách thức của các nhà khoa học. “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã được Bộ NNPTNT xác định tại công văn chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV ngày 3 tháng 5 năm 2019. Giống sắn KM419 có năng suất tinh bột cao nhất và diện tích trồng phổ biến nhất Việt Nam. Giống sắn KM419 chống chịu trung bình bệnh CMD và bệnh chổi rồng (CWBD), trong điều kiện áp lực 2 bệnh này ở Việt Nam hiện nay là rất cao. Sự cần thiết cấp bách lai tạo KM419 đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440 (KM94 đột biến); KM397 vào giống sắn ưu tú này .

Giống sắn KM419 bìa trái thấp cây, tán gọn, cọng đỏ, chống chịu trung bình với bệnh CMD và CWBD , và các dòng sắn lai ít bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 giữa, cao cây, cọng xanh, nhiễm nặng bệnh CMD

Giải pháp chọn giống sắn Việt Nam tiếp nối hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có. Bài viết CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM đúc kết tóm tắt thông tin đã có và định hướng cho sự nổ lực Trúc Mai, Hoang Long, BM Nguyễn, Nguyen Van Nam, Nhan Pham, Hung Nguyenviet, Hoàng Kim, Jonathan Newby … đang lai hữu tính và bồi dục nâng cao tính kháng cho các giống sắn KM419, KM440, KM397, tốt nhất hiện nay

Chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 để khảo nghiệm DUS và VCU , bảo tồn và phát triển những giống sắn tốt nhất có năng suất cao và ít sâu bệnh.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là km98-1-cassava-breeding-in-viet-nam-1.jpg

CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG CWBD
Nguyễn Bạch Mai, Hoàng Kim, Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long, Nguyễn Văn Phu
Selection of cassava varieties resistant to CWBD *

Chọn giống sắn kháng CWBD. “Ở Việt Nam, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan CWBD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440, KM397, KM98-1, ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện; xem thêm http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.htmlhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/ Trò chuyện với Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/ (*)

Selection of cassava varieties resistant to CWBD. In Vietnam, the main solution to prevent the spread of CWBD is integrated control: using cassava varieties KM419, KM397, KM440, … less infected than KM94 and using disease-free seed sources; field sanitation to destroy disease sources in a timely manner; kill leafhoppers, stem planthoppers, red spiders, mealybugs and other disease-spreading insects; it is necessary to take good care of cassava, fertilize and weed 3 times to increase the resistance of the plants, arrange appropriate seasons to limit pests; promptly destroy the source of the disease when the disease appears; see more http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.html and https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/ Conversations with Hoang Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/ https://www.youtube.com/embed/0MVPGxOpoPY?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

CAVAC Cách chọn thân cây sắn để trồng (Video hướng dẫn về bệnh khảm trên cây sắn)https://youtu.be/0MVPGxOpoPY Video của Australian Embassy, Cambodia 18 8 2021 đã viết. “Bạn có biết sắn là cây trồng lớn thứ hai của Campuchia và mang lại sinh kế cho hơn 90.000 hộ gia đình, đóng góp hàng trăm triệu đô la cho nền kinh tế? Điều này cũng có nghĩa là sâu bệnh có thể có tác động tàn phá. Australia thông qua chương trình Chuỗi Giá trị Nông nghiệp Campuchia-Australia (CAVAC) và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) đang làm việc với Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản để ngăn chặn sự lây lan của bệnh Chổi rồng (CWBD), một mối đe dọa lớn đối với cây sắn. Bệnh CWBD làm giảm hàm lượng tinh bột và sản lượng sắn 80%). Australian Embassy, Cambodia 18 tháng 8 lúc 13:05 “Eradicating Disease from Cambodia’s Cash Crop (ភាសាខ្មែរនៅខាងក្រោម) Did you know cassava is Cambodia’s second biggest crop and provides a livelihood for more… than 90,000 households, contributing hundreds of millions of dollars to the economy? This also means that pests and diseases can have a devastating impact. Australia through the Cambodia-Australia Agricultural Value Chain (CAVAC) program and the International Centre for Tropical Agriculture (CIAT) is working with the Ministry of Agriculture, Forestry and Fisheries to stop the spread of Cassava Witches’ Broom Disease, a major threat to cassava that reduces its starch content and yields by 80%” Australian Embassy, Cambodia said. https://www.youtube.com/embed/-MA3hDJezAg?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

*

Chọn giống sắn kháng CWBD Ở Việt Nam, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan CWBD và CMD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440,KM397, KM98-1 ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện; xem thêm http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.html

Selection of cassava varieties resistant to CWBD. In Vietnam, the main solution to prevent the spread of CWBD is integrated control: using cassava varieties KM419, KM440, KM397, KM98-1 less infected than KM94 and using disease-free seed sources; field sanitation to destroy disease sources in a timely manner; kill leafhoppers, stem planthoppers, red spiders, mealybugs and other disease-spreading insects; it is necessary to take good care of cassava, fertilize and weed 3 times to increase the resistance of the plants, arrange appropriate seasons to limit pests; promptly destroy the source of the disease when the disease appears; (Cassava in Vietnam: Conservation and Sustainable Development https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tro-chuyen-voi-hoang-kim/ )

Chọn giống sắn kháng CMD https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

The truth is better than a thousandwords

THẦY NGUYỄN LÂN DŨNG
Hoàng Kim

Thầy Nguyễn Lân Dũng là người Thầy đức độ, trí tuệ bách khoa thư, người thầy giỏi giáo dục sinh học.Tôi có ba ghi chép nhỏ về Thầy đối với một bài học lớn: 1) Một gương sáng người Thầy; 2) Một nếp nhà văn hóa; 3) Một công án kỳ lạ. Thầy Nguyễn Lân Dũng https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-nguyen-lan-dung/

Bài viết này tôi xin được tỏ lời biết ơn chân thành, thầm lặng, ân tình, kính trọng Thầy. Ấn tượng sâu sắc nhất của tôi khi viết “Nguyễn Du trăng huyền thoại” nhờ công án kỳ lạ “Vinh quang nghề Thầy”, “Linh Nhạc thương người hiền” trải suốt mười năm (2011-2021) kể từ khi thầy tặng sách quý, với câu chuyện lạ “Nguyễn Du nửa đêm đọc lại“; “Nguyễn Du và đền cổ Trung Liệt“. Tôi noi gương sáng và lời khuyến khích tâm đắc của Thầy để đúc kết “Lê Quý Đôn tinh hoa” “Dẫu có bạc vàng trăm vạn lượng. Không bằng kinh sử một vài pho”. Tôi viết “Minh triết Hồ Chí Minh” lại nhớ về bài Thầy viết “Bác Hồ với thế giới tâm linh“. Dạy và học mỗi ngày của tôi là chịu ảnh hưởng lớn của tinh hoa “Vinh quang nghề Thầy”.

MỘT GƯƠNG SÁNG NGƯỜI THẦY

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng sinh ngày 29 tháng 9 năm 1938. Thầy Nguyễn Lân Dũng là con thứ ba của nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân và cụ bà Nguyễn Thị Tề. Nơi sinh của Thầy ở xã Ngọc Lập, huyện Mỹ Hào, nay là phường Phùng Chí Kiên, thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Vợ của thầy Nguyễn Lân Dũng là cô Nguyễn Kim Nữ Hiếu, đại tá, phó giáo sư tiến sĩ, thầy thuốc nhân dân, nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện Quân y 108, là con gái của giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên và cụ bà Vi Kim Ngọc. Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên từng làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ năm 1946 đến năm 1975. Bà Vi Kim Ngọc là cháu của quan tổng đốc Vi Văn Định, một danh thần thời nhà Nguyễn. Địa chỉ nơi ở hiện nay của thầy Nguyễn Lân Dũng tại số 1 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Điện thoại 0903 428308. Thầy công việc thường ngày, gần như trọn đời, là giảng day và nghiên cứu. Sở trường của Thầy là làm “Người của công chúng”. Ngôn chí Thầy yêu thích là câu cách ngôn: Sống khỏe, chết nhanh, ít của để dành, nhiều người thương mến.

Thầy Nguyễn Lân Dũng là giáo sư tiến sĩ sinh học, nhà giáo nhân dân Việt Nam. Thầy giảng dạy nghiên cứu tại Viện Vi sinh vật và Công nghệ Sinh học thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Thầy Nguyễn Lân Dũng là một trong những nhà sinh học hàng đầu Việt Nam, nổi tiếng với di sản lắng đọng ‘Tài nguyên vi sinh vật Việt Nam’. Trong sách “Bách khoa toàn thư nông nghiệp Việt Nam”. Tập 1. Tổng quan Việt Nam. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa. Nội dung thực tiễn và trước tác của Thầy lắng đọng công phu nhất là ‘Công tác quản lý nguồn gen vi sinh vật tại Bảo tàng giống chuẩn vi sinh vật’ (VTCC), Trung tâm Công nghệ sinh học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong sách “Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong kế hoạch sự sống”. Nhà Xuất Bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2003, trang 861 – 864 (Cộng tác với Dương Văn Hợp). Bộ sách chuyên khảo Công nghệ nuôi trồng nấm. Tập 1. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2002; Công nghệ nuôi trồng nấm. Tập 2. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2003 Tự học nghề trồng nấm. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2004; Chuyên mục: “Hỏi gì, đáp nấy” tập 1 đến tập 9 , Nhà xuất bản Trẻ 1999 – 2005..Thầy cũng có nhiều tác phẩm phổ thông khác và nhiều bài báo khoa học phổ thông có giá trị bách khoa, khuyến học, khuyến nông.

Di sản lớn nhất lắng đọng của Thầy là CON NGƯỜI VÀ NẾP NHÀ. Di sản này là sự trao truyền và tỏa sáng bài học quý giá nhất của thầy cô Nguyễn Lân Nguyễn Thị Tề trong dòng chảy của một gia tộc danh gia được người đương thời vinh danh, tỏa sáng “Gương sáng nghề Thầy” từ thời thầy Nguyễn Lân (*): “Giáo sư nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân vẻ đẹp của một nhân cách lớn” “Luôn luôn sống với đất nước, với nhân dân, với lẽ phải, với những truyền thống đạo lý của dân tộc, ghét sự xa hoa, chỉ ưa thanh bạch, rất giàu nghị lực, thông minh, rất cần cù trung thực, thẳng thắn mà vẫn không làm mất lòng người, rất tự trọng, giao tiếp lịch sự, chu đáo từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, yêu thương tôn trọng con người “. Thầy Nguyễn Lân Dũng đã cùng gia tộc, con cháu bảo tồn và phát triển tốt truyền thống ấy. Thầy Nguyễn Lân Dũng thực sự là người của công chúng, bạn của nhà nông, thầy của nhiều lớp sinh viên và của mọi người, Thầy là lão làng Xóm Lá, người giáo sư nhân hậu tốt tính của trang văn Nguyễn Lân Dũng http://nguyenlandung.vn102.space/

MỘT NẾP NHÀ VĂN HÓA

Thầy Nguyễn Lân Dũng có hai con đều thành đạt trong cuộc sống. Con trai cả của Thầy là phó giáo sư, tiến sĩ bác sĩ y khoa Nguyễn Lân Hiếu nay là Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 nhiệm kì 2016-2021. Bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu ứng cử và trúng cử đại biểu quốc hội lần đầu năm 2016 ở đơn vị bầu cử số 2 tỉnh An Giang gồm các huyện: Châu Phú và Châu Thành. Ông là một chuyên gia tim mạch có tên tuổi với nhiều cống hiến trong nền Y học Việt Nam. Con gái út của thầy Nguyễn Lân Dũng là tiến sĩ sinh học Nguyễn Kim Nữ Thảo đã hoàn thành luận án tiến sĩ tại Mỹ, cũng là dịch giả của tác phẩm “Loài tinh tinh thứ 3” dày 672 trang. Nguyễn Kim Nữ Thảo trước đó đã từng đoạt giải Olympic Sinh học quốc tế tại Bỉ, giải nhất Sinh học toàn quốc ở lớp 11 và giải nhì ở lớp 12. Nguyễn Kim Nữ Thảo khi theo học lớp cử nhân tài năng tại Đại học Quốc gia Hà Nội, cũng đã từng được cấp bằng gương mặt trẻ tiêu biểu, giải thưởng Nữ sinh Việt Nam, bằng khen của Chủ tịch UBND TP Hà Nội, bằng khen của Thành đoàn Thanh niên Cộng sản Hà Nội

Thầy Nguyễn Lân Dũng “Người của công chúng”. Thầy từng làm Phó Chủ tịch Hội Liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, Chuyên gia cao cấp Viện Vi Sinh vật và Công nghệ Sinh học, Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển Nhân lực, Viện trưởng Viện Thực phẩm Chức năng, Cố vấn Việt Nam của Hội Liên hiệp Thanh niên Quốc tế (IYF), Chủ nhiệm Chương trình tự nguyện đưa khoa học kĩ thuật vào hộ nông dân; Ủy viên Ủy ban Đối ngoại Quốc hội; Đại biểu Quốc hội ba khóa liên tục khóa X (1977-2002), khóa XI (2002-2007) và khóa XII (2007-2011) tại tỉnh Đắc Nông; với sau này con trai thầy là bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu làm đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 nhiệm kì 2016- 2021

Gia đình của thầy Nguyễn Lân Dũng thực sự là một nếp nhà văn hóa: cha mẹ, anh chị em Thầy và những người con của hai Cụ đều là những trí thức có tài năng. Thật tâm đắc với lời giáo sư Nguyễn Đình Chú định luận về thầy Nguyễn Lân, là thân phụ của thầy Nguyễn Lân Dũng, rằng: “Tôi ước gì trên đất nước ta sẽ có nhiều gia đình toàn trí thức như gia đình cố Giáo sư Đặng Thai Mai, gia đình Giáo sư Nguyễn Lân mà tôi được biết.Tôi đã nói điều này trong sự suy nghĩ về vấn đề gia phong, gia đạo, gia thế, gia truyền, vấn đề vai trò của gia đình, gia tộc trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc, trong yêu cầu phát triển văn hóa xây dựng cuộc sống của đất nước hôm nay và mai sau”. Theo “Hồi ký giáo dục” của thầy Nguyễn Lân, tại sách ‘Vinh quang nghề Thầy’ thì ông nội của thầy Nguyễn Lân Dũng là cụ Nguyễn Xuân Thiều, con thứ hai của một ông lang nghèo, là cụ Nguyễn Danh Tưởng, ở làng Ngọc Lập (nay đổi là xã Phùng Chí Kiên) huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Cụ Thiều lớn lên theo cụ Nguyễn Thiện Thuật đánh Pháp ở Bãi Sậy. Cụ Tán Thuật chiến đấu anh dũng nhưng vì thế yếu phải chịu thất bại lánh sang Trung Quốc. Cụ Nguyễn Xuân Thiều cũng phải bỏ quê đi lánh nạn, tha phương cầu thực, đến phủ Từ Sơn Bắc Ninh, và sau đó kết duyên với bà nội của thầy Dũng là cụ Quản Thị Ba, con thứ ba của một gia đình tiểu thương. Cụ Thiều lên lao động ở Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng nhưng sau đó bị sốt rét ngã nước phải về lại Từ Sơn nương nhờ vợ. Nhà nghèo đông con và gia đình phải cưu mang cả anh chồng là cụ Nguyễn Xuân Cảnh bị mù và hai người con trai của anh chồng là Nguyễn Khánh Dư và Nguyễn Danh Cảnh. Thầy Nguyễn Lân là con thứ 17 trong gia đình nhưng lúc thầy ra đời chỉ còn có bốn người anh em gồm hai anh, một chị và thầy, còn những người khác đều hữu sinh vô dưỡng cả.

Ông bà nội của thầy Nguyễn Lân Dũng nhà tuy nghèo khó nhưng rất quan tâm đến việc học hành của bốn người con và người cháu là ông Nguyễn Khánh Dư. Do đó, năm 17 tuổi anh cả của thầy Nguyễn Lân là Nguyễn Tiến Trinh đã thi đỗ làm thư ký Thương chính và được bổ vào làm việc tận Cam Ranh. Người anh thứ hai là Nguyễn Văn Phượng và thầy Nguyễn Lân đều đã được học chữ Hán từ rất sớm. Thầy Nguyễn Lân tuổi thơ được học chữ Hán với thầy Đỗ Cự một nhà nho không đỗ đạt gì nhưng rất yêu thương học trò. Cụ đã khai tâm đầu đời cho thầy, tác động sâu sắc đến thầy Nguyễn Lân từ bé biết kính phục sự nghiệp giáo dục. Thầy Nguyễn Lân học chữ Hán được hơn một năm thì bố mẹ cho chuyển về học trường Pháp Việt bên cạnh phủ Từ Sơn. Sau đó mẹ thầy Nguyễn Lân bị mất sớm vì Cụ lao lực đã mất hết răng khi mới có 49 tuổi vì đẻ nhiều lần quá. Gia đình thầy trong lúc quẫn bách, được anh họ Nguyễn Khánh Dư đã đưa thầy Nguyễn Lân về Hải Phòng để nuôi ăn học nhưng thật đau xót ông Nguyễn Khánh Dư bị lây ho lao và từ trần. Anh cả của thầy Nguyễn Lân là Nguyễn Tiến Trinh đã đón cha và em vào Bình Định để phụng dưỡng cha và nuôi em ăn học. Vợ chồng người anh rất quyết tâm bảo bọc và cưu mang người em, nên thuở ấy giá gạo hai đồng một tạ mà học nội trú phải trả 17 đồng một tháng hơn phân nữa lương tháng của người anh ruột nhưng anh chị vẫn quyết giúp cho em ăn học nội trú. Nhờ nghị lực cao và sự chăm học của thầy Nguyễn Lân với phước nhà như đã kể trên, nên thầy Nguyễn Lân được bồi bổ sức khỏe không còi cọc ốm yếu nữa, được dạy học tốt tại trường dòng nội trú của thầy Pháp, lại ở và học chung với ba học sinh người Pháp là con Tây đoan Thầy Nguyễn Lân đã đậu đầu kỳ thi tiểu học, và đậu tuyển sinh vào Trường Bưởi. Học ở Trường Bưởi thầy Nguyễn Lân chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất từ thầy Dương Quảng Hàm. Thầy Nguyễn Lân sau này khi được phong tặng nhà giáo nhân dân đã đọc bài thơ “Tình sâu nghĩa nặng” tôn vinh thầy Dương Quảng Hàm “Trường Bưởi noi gương cụ giáo Hàm/ Một nhà học giả thật phi phàm/ Làu thông Âu Á, say nghiên cứu/ Ham dạy Sử Văn, lợi chẳng ham !” Năm 1927 sau khi tốt nghiệp trường Bưởi , thầy Nguyễn Lân di dạy trường tư thục Trung Bắc học hiệu . Ngày 23 tháng chạp năm Mậu Thìn (1928) bố và chị dâu của thầy Nguyễn Lân đều bị chết vì tai nạn ở xưởng phảo Năm 1932 thầy Nguyễn Lân tốt nghiệp thủ khoa Trường cao đẳng sư phạm Đông Dương và bắt đầu dạy học ở Trường tư thục Hồng Bàng và Thăng Long ở Hà Nội (từ năm 1923 đến 1935) và kết duyên với bà Nguyễn Thị Tề là con gái cụ Nguyễn Hữu Tiệp, một người giàu vào hạng nhất nhì ở Bắc Kỳ thời bấy giờ.

Bảo tồn và phát triển tốt nếp nhà văn hóa. Vợ chồng nhà giáo Nguyễn Lân nhờ duyên lành phúc ấm nhân cách nghị lực may mắn, đã sinh thành và nuôi dưỡng được tám người con 1) Nguyễn Lân Tuất, nhạc sĩ giáo sư Viện Hàn lâm Âm nhạc, nghệ sĩ công huân Nga; 2) Nguyễn Tề Chỉnh, tiến sĩ sinh học; 3) Nguyễn Lân Dũng, giáo sư tiến sĩ sinh học; 4) Nguyễn Lân Cường phó giáo sư tiến sĩ khảo cổ học, 5) Nguyễn Lân Hùng, chuyên gia nông học; 6) Nguyễn Lân Tráng tiến sĩ giảng dạy tại Đại học Bách khoa; 7) Nguyễn Lân Việt, bác sĩ, phó giáo sư tiến sĩ, cựu Hiệu trưởng Trường Đại học Y khoa Hà Nộ; 8) Nguyễn Lân Trung, phó giáo sư tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Năm 1935 đến năm 1945 thầy Nguyễn Lân vào Huế làm giáo viên trường công ở trường Quốc Học, Đồng Khánh, Bách Công. Thầy dạy giỏi và mực thước,tham gia Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ ở Trung Kỳ, lại là nhà văn Từ Ngọc danh tiếng với các tác phẩm có nhiều độc giả thời đó như Những trang sử vẻ vang (hai tập) Nhà Xuất bản Mai Lĩnh Hà Nội 1943; Nguyễn Trường Tộ , Nhà Xuất Bản Viễn Đệ Huế và NXB Mai Lĩnh Hà Nội 1941, tái bản 1942, Hai ngả (tiểu thuyết xã hội) Nhà Xuất bản Tân Dân Hà Nội năm 1938; Ngược dòng (tiểu thuyết xã hội) Nhà Xuất bản Tân Dân Hà Nội 1936; Khói hương (tiểu thuyết xã hội) Nhà Xuất bản Tân Dân Hà Nội 1935; Cậu bé nhà quê (tiểu thuyết giáo dục, có bản dịch ra tiếng Pháp) năm 1925 .

Trong bài “Nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân, vẻ đẹp của một nhân cách lớn” giáo sư Nguyễn Đình Chú định luận: “Với tư thế đó, nhân cách đó, Chính phủ Trần Trọng Kim thành lập. Giáo sư Nguyễn Lân là người được tranh thủ. Cách mạng tháng Tám thành công. Giáo sư Nguyễn Lân được mời làm Ủy Viên Giáo Dục Tỉnh Thừa Thiên; Giám đốc Học chính Nam Bộ. Sau đó chuyển ra Hà Nội dạy ban chuyên khoa Trường Chu Văn An rồi đi kháng chiến, làm Giám đốc Giáo dục các Liên Khu 10 và Liên khu Việt Bắc. Năm 1951 sang Trung Quốc dạy trường Sư phạm Cao cấp tại Khu học xá Nam Ninh, từ năm 1956 dạy tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và làm Chủ nhiệm khoa Tâm lý Giáo dục học của Trường từ ngày thành lập cho đến ngày giáo sư nghĩ hưu . Giáo sư còn tham gia nhiều hoạt động văn hóa xã hội …Giáo sư Nguyễn Lân đã đóng góp cho đất nước, cho nhân dân Việt Nam ta với nhiều tư cách: 1) Một nhà hoạt động xã hội nhiều tâm huyết trong sự đưa ánh sáng văn hóa đến cho nhân dân, trong việc chăm lo vun đắp khối đại đoàn kết dân tộc; 2) Một nhà giáo đã có công đào tạo cho đất nước nhiều nhân tài, nhiều cán bộ ưu tú. 3) Một nhà văn Từ Ngọc Nguyễn Lân (Chi tiết tác phẩm ở bộ Từ điển văn học mục Từ Ngọc); 4) Một nhà ngữ pháp với sách giáo khoa Ngữ pháp Việt Nam từ lớp 1 đến lớp 7 (NXB Giáo dục 1965); 5) Một nhà biên soạn từ điển vào tuổi đại lão.”vô địch” có lẽ không sai ” (Trích) “Bà Cụ Nguyễn Lân quả là một người phụ nữ, một người vợ, một người mẹ không dễ gì có nhiều trong đời thường, và tôi muốn cho rằng 50% sự nghiệp, công trình của giáo sư là thuộc về bà” (trích)

(xem tiếp)

MỘT CÔNG ÁN KỲ LẠ

Thầy Nguyễn Lân Dũng. Ấn tượng sâu sắc nhất của tôi khi viết “Nguyễn Du trăng huyền thoại” nhờ công án kỳ lạ “Vinh quang nghề Thầy”, “Linh Nhạc thương người hiền” trải suốt mười năm (2011-2021) kể từ khi thầy tặng sách quý, với câu chuyện lạ “Nguyễn Du nửa đêm đọc lại“; “Nguyễn Du và đền cổ Trung Liệt“. Tôi noi gương sáng và lời khuyến khích tâm đắc của Thầy để đúc kết “Lê Quý Đôn tinh hoa” “Dẫu có bạc vàng trăm vạn lượng. Không bằng kinh sử một vài pho”. Tôi viết “Minh triết Hồ Chí Minh” lại nhớ về bài Thầy viết “Bác Hồ với thế giới tâm linh“. Dạy và học mỗi ngày của tôi là chịu ảnh hưởng lớn của tinh hoa “Vinh quang nghề Thầy”.

Nhớ Thầy Nguyễn Lân Dũng, tôi ám ảnh năm câu hỏi của một công án kỳ lạ 1) Nguyễn Du có phải là Từ Hải hay không? 2) Thầy Nguyễn Lân Dũng đọc sách Hoàng Tuấn Công sẽ viết gì? 3) Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh với vua Bảo Đại và Thủ tướng Trần Trọng Kim không thể có được thỏa hiệp hợp tác khi hình thành nước Việt Nam mới? 4) Gia tài tinh thần thầy cô Nguyễn Lân Nguyễn Thị Tề trao truyền lại cho gia tộc mà thầy Nguyễn Lân Dũng đã đúc kết năm điểm? 5) Bài học tinh hoa của “Vinh quang nghề Thầy”?

ĐỌC ‘VINH QUANG NGHỀ THẦY

1
Năm 2011, tôi tình cờ biết được một câu chuyện riêng, rất đau lòng và thương tâm của gia tộc thầy Nguyễn Lân Dũng. Ông nội của thầy Nguyễn Lân Dũng với vợ bác hai Nguyễn Văn Phượng và mười người thợ của gia đình bác hai thầy Dũng đều đã bị cháy thiêu tại một tai nạn pháo bông. Xưởng pháo bị nổ sau bữa tiệc cuối năm, vào ngày 23 tháng Chạp năm Mậu Thìn (1928) khi công nhân đang ngủ, chắc họ đã đụng vào ngọn đèn dầu tây cạnh đấy và đèn bị đổ nên lửa đã bắt vào pháo để đấy ở tầng dưới, khi ông nội thầy Dũng ngủ trên gác, vừa xuống tới cầu thang cũng tắt nghỉ. Sau này, lúc gần ngày Chạp mộ, tôi ghé thăm trang Thầy Nguyễn Lân Dũng http://nguyenlandung.vn102.space/ lúc thầy đã là lão làng tốt tính quen thuộc ở Xóm Lá, thì tôi được thầy Dũng đồng cảm tặng sách “Vinh quang nghề Thầy” ,soi tỏ nhiều chi tiết thời vận mà tôi sẽ xin nói rõ hơn trong sự luận bàn ‘Một công án kỳ lạ’ ở phần sau.

2

Đọc “Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân ‘Bay trên tấm thảm dệt bằng vải gai’ của tác giả Võ Thị Hảo, báo Gia đình và xã hội số 96 (406) ngày 12 tháng 8 năm 2003, tôi bùi ngừi tự hỏi không biết có những ai đã để ý và dừng lại rất lâu, thật lâu tại ba trích đoạn này 1) “Người vợ hiền ấy (bà Nguyễn Thị Tề sinh năm 1915, mất năm 1993), 4 tháng trước khi từ bỏ cõi đời, ở tuổi 79, đã tự tay rút chỉ thêu một chiếc gối tặng ông. Gối đơn. Vì bà đi trước. Lời trối trăng trước lúc tạ thế, nói đủ cho cô con dâu đã sống cùng ông bà hơn hai chục năm nghe “Con nhớ ở lại chăm sóc ông cho mợ”. Với chiếc gối độc nhất, để giữ lại hơi ấm của bà, sau 5 năm cặm cụi, một cuốn từ điển, công trình ‘vĩ mô’ cuối cùng trong đời, hôm nay, Giáo sư Nguyễn Lân đã thanh thản trên đường về với hiền thê. Trên ‘tấm thảm gai’ của hàn sĩ”:2) Cả nhà đều làm nghề giáo. Nhưng trong những phiên chợ giáo dục hỗn mang, hoạt báo , vô lương, không có họ. “Hôm nay là ngày giỗ bác cả Trình. Nhờ bác mà ba và các con mới được như ngày hôm nay. Ba là con thứ 17 trong nhà , sinh ra đã ‘tiên thiên bất túc’, nhà nghèo, mẹ mất sớm, may nhờ có bác cả Trình nuôi ba như con, cho ăn, cho học, cho chữa bệnh… Ơn này, ba và các con cháu không bao giờ quên“; 3) “Cả đời, với nếp sống thanh bạch của một hàn sĩ, với tinh thần làm việc và ý chí cũng như công tích của một nhà sư phạm có nhân cách lớn, cụ Nguyễn Lân đã kiên trì chống chọi lại thói ăn xổi ở thì, xa lánh cáí “QUẦNG SÁNG PHÙ PHIẾM CỦA PHÁO BÔNG”, (HK in đậm để ghi nhớ dạy và học), không lợi dụng vị trí và các mối quen biết để trục lợi….”. Ngày ấy, tới gần tới dịp Chạp mộ, tôi lại nhớ tới ngày 23 tháng Chap năm Mậu Thìn (1928), ngày tai họa pháo bông thương tâm ập xuống ngôi nhà lương thiện của Thầy.

3

“Vinh quang nghề Thầy” thấm thía nhất, sâu sắc nhất, thương yêu nhất trong lòng tôi với sự kính trọng, ngưỡng mộ là thầm lặng đọc đi đọc lại nhiều lần, để tỉnh thức noi gương sáng người hiền, soi thấu những bài học quý “Vĩnh biệt Cha yêu quý” trong “Ba của chúng con”

Đó là tấm gương về lòng tin, tin ở chính mình, tin ở sự nghiệp vẻ vang của dân tộc, tin ở lẽ phải, ở chính nghĩa, tin ở tất cả những người lương thiện sống quanh ta.

Đó là tấm gương về lòng hiếu học và ý chí phấn đấu học tập suốt đời để không ngừng làm giàu kiến thức cho mình và dùng kiến thức ấy để cống hiến cho xã hội.

Đó là tấm lòng nhân ái, yêu đời, yêu người, vị tha, khoan dung dành cho những người sống quanh mình. Ba luôn xót thương cho những số phận bất hạnh, luôn luôn cảm thông cho những lỗi lầm do ít kinh nghiệm hoặc thiếu kiến thức. Nhưng Ba lại là người hết sức bất bình với những hành vi tham lam, vị kỷ, dối trá, lọc lừa, vô đạo đức. Ba căm ghét sự lợi dụng chức quyền , làm giàu bất chính, bắt nạt dân lành, dối trên lừa dưới.

Đó là tấm gương về nếp sống giản dị, tiết kiệm, không màng công danh phú quý, không chuộng hình thức, luôn khiêm nhường và quý trọng sức lao động của người khác.”

(còn nữa…)

vochonggslevanto

CHUYỆN THẦY LÊ VĂN TỐ
Hoàng Kim


Giáo sư Lê Văn Tố là một người thầy hiền hậu, tài năng mà đời tôi may mắn được gần gũi, học hỏi và tôi thực sự kính trọng. Thầy Tố cùng quê Nghệ Tĩnh với cụ Nguyễn Công Trứ người đã tuyên ngôn sứ mệnh của kẻ quốc sĩ: “Đã mang tiếng ở trong trời đất. Phải có danh gì với núi sông” đối với người có học thực sự phải làm được điều gì đó ích lợi cho dân cho nước. Chuyện thầy Lê Văn Tố khơi dậy trong tôi sự thăm thẳm nhớ quê của một người con xa xứ và ước vọng tiếp tục hoàn thiện các công việc ân tình phục vụ ích lợi cho Tổ Quốc Quê Hương. Thầy Tố có nhiều chuyện đời mà tôi thích nhất bảy chuyện: 1) PHTI – HCMC và FCC; 2) Một chuyến đi ‘dối già’ và những suy tư ”, 3) “Lịch sử Logo FCC”, 4) “FOLI và FOVINA”,5) “Câu thơ đời ám ảnh”, 6) “Thầy Tố chuyện đời thường ” 7) “Thầy Tố bạn và học trò ” Trước đây khi bước vào tuổi 75 thầy Tố đã có cuộc du xuân “dối già” cùng vợ về quê. Đó là câu chuyện không phải của riêng ai, chỉ là người trước người sau mà thôi, bạn cũng chẳng kiêng cử về hai chữ “dối già” vì thầy cô nay còn mạnh khỏe lắm, phải thọ đến trăm tuổi, nhưng một cuộc du xuân cùng vợ về quê là chuyện to. Thầy coi xong việc này là thảnh thơi xong một việc chính.

Mời bạn lắng nghe lời Thầy kể:

  1. PHTI – HCMC VÀ FCC

    Thầy Lê Văn Tố viết “Tiền nhân bảo” Công trồng là công bỏ, Công làm cỏ là công ăn“. Đúng vậy tôi chỉ có công trồng chỉ có 2 cây là PHTI-HCMC và FCC trồng trong những đêm dài chuyển mình đổi mới: không được thành lập thêm cơ quan ở HCMC nếu không có chữ kí của ông Võ Văn Kiệt phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng và ông Phan Văn Khải chủ tịch thành phố. Tôi ở nước ngoài về cầm thơ tay của ông Chín Cần – phó ban tổ chức trung ương, Bộ trưởng, không biết sợ là gì cứ thế xông vào thế mà được việc. Có đội ngủ tốt. Cơ quan làm được nhiều việc, có uy tín với xã hội. Tôi về hưu đã lâu, nhân ngày gia đình Việt Nam, anh em cơ quan đến thăm. Cầm phong bì trên ngực, gạo, sữa nặng quá không ôm được biểu lộ tấm lòng của người già. Trân trong trước tình cảm của anh chị em”. Đọc những lời chia sẻ, Ấm áp mãi tình thân. Trang sách đời rộng mở. Dạy và học chuyên cần. Em Hoàng Kim xin được lưu về chuyên trang Chuyện thầy Lê Văn Tố

2. MỘT CHUYẾN ĐI “DỐI GIÀ” VÀ NHỮNG SUY TƯ
Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Lê Văn T

Bước vào tuổi 75 tôi muốn có cuộc du xuân “dối già” cùng vợ về quê.

Như có món nợ nào đó chưa trả xong khi bước sang thế giới khác, đầu óc tôi vẫn văng vẳng đâu đó câu ví dặm “ giận thì giận mà thương thì thương” tôi không giận ai cả. Chỉ biết giận mình vì tuy có một số sản phẩm được người tiêu dùng chấp nhận nhưng chưa có gì đóng góp cho quê hương. Có lẽ núm nhau mẹ chôn ở gốc tre bụi chuối nào đó nên quê hương vẫn sâu đậm trong lòng – mặc dầu li hương hơn 60 năm.

Không sâu đậm sao được đến như Le Breton thầy giáo của giáo sư Lê Thước ở trường quốc học Vinh đã không ngần ngại khi viết: “ông yêu xứ Nghệ và con người Nghệ Tĩnh”( Le vienx An-Tĩnh 1936, bản dịch của Trung Tâm văn hóa ngôn ngữ đông tây năm 2005). Có lẽ Le Breton vì hiểu và yêu xứ Nghệ nên mới để lại tác phẩm chân tình giàu tính văn học, sáng giá về khảo cổ học, sử học, am hiểu về địa chất Nghệ Tĩnh đến thế.

Để tiết kiệm thời gian, tôi liên hệ một số cơ sở du lịch và khách sạn 5 sao Mường Thanh Sông Lam ở Vinh thu xếp cho một chuyến du lịch cao cấp với hướng dẫn viên giàu tri thức, am hiểu địa danh các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Nam Đàn, Thanh Chương, Hương Sơn, Hương Khê, theo đường 8 đến biên giới Lào- Việt. Yêu cầu đơn giản đó không được đáp ứng. Tôi thuê xe về quê nội, quê ngoại.

Hai quê qua bao thăng trầm nay đã được công nhận là di tích văn hóa lịch sử. Quê nội đời cố Lê Kim Ứng đã có công giúp phong trào Cần Vương và là nơi trú ngụ của gia đình cụ Nguyễn Sinh Sắc cùng 3 con sinh sống một thời gian thời thơ ấu. Phong cảnh và tình người chắc để lại trong lòng Bác Hồ những kĩ niệm khó quên nên khi Bác gặp tham tán quân sự Việt Nam tại Mạc Tư Khoa (người cùng quê) Bác còn hỏi thăm và khen là Nguyệt Bổng (tên cũ) đẹp.

Nhiều văn nghệ sĩ trong kháng chiến chống Pháp như Nguyễn Văn Tý, Trần Hoàn,…đã từng sinh sống tại quê tôi. Hồi nhỏ chúng tôi vẫn nghêu ngao “một chiều anh bước đi, em tiễn đưa anh ra tận cuối đồi, rằng kháng chiến còn trường kì là còn gian khổ”. Trần Hoàn đã bén duyên với người con gái quê tôi, trước lúc đi công tác xa đã để lại bài hát trên.

Khi vua Hàm Nghi bị bắt, phong trào Cần Vương đi vào thoái trào. Các sĩ phu Cần Vương cảm kích trước sự giúp đỡ của gia tộc Lê Kim Ứng đã nói : việc nước chưa thành, công ơn gia tộc chưa trả được chỉ mới chọn được miếng đất tốt để hai cụ an nghỉ lúc trăm tuổi với lòng mong mỏi gia tộc ngày càng hưng thịnh. Tôi không am hiểu phong thủy nhưng mộ Cố trên đồi cao vẫn hội đủ: tả thanh long, hữu bạch hổ có sông dài uốn lượn phía dưới.Tuổi già nhưng nhờ mấy trăm bậc đá cháu mới làm nên vẫn cố leo lên thắp hương Cố lần cuối.

Bên kia quả đồi là giếng Cửa Khâu nước chảy quanh năm từ lòng núi không bao giờ cạn với đàn cá tung tăng như cá thần Cẩm Thủy (Thanh Hóa). Chị em tôi lúc nhỏ hay phải gánh nước từ giếng Cửa Khâu về để mẹ làm tương ăn quanh năm, thổi xôi nếp rồng cúng giỗ…

Về quê nhiều lần hỏi về giếng Cửa Khâu, nếp rồng, bánh vo (làm từ bột gạo lức lúa nương) chỉ còn mấy người già còn nhớ. May thay lần này có người dẫn đường tìm lại được giếng Cửa Khâu khi trời vừa tối. Cảm động vô cùng bà con xúm lại. Người biếu chai rượu, kẻ chai tương được sản xuất từ nguồn nước giếng này. Đúng là món ngon nhớ đời. Không phải chỉ mình tôi mà biết bao người xứ Nghệ, khách thập phương từng sinh sống ở đây vẫn nhớ con cá mát kho tương, xôi nếp rồng, bánh vo… Nay chỉ còn trong kí ức người già!

Bù lại có món ngọn lang luộc xào tỏi mà các anh chị ở tòa soạn báo Kinh tế Sài Gòn, Sài Gòn Times khi chiêu đãi tôi ở thành phố Hồ Chí Minh thường nhắc đến nay đã trở thành món đặc sản nhưng phổ thông khắp thành Vinh. Ước gì ngọn lang, cá thu nướng Cửa Lò, gà đồi Nghệ An trở thành hàng hóa phổ biến ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.

Nghệ An còn nổi tiếng với cam Xã Đoài. Lần này về quê, cố tìm đến vùng cam Xã Đoài để mua bằng được loại cam nổi tiếng ngọt, thơm, nguyên gốc về làm quà. Loại cam mà tôi đã từng được ăn, được chứng kiến người dân chăm sóc theo lối cổ truyền. Cũng gọi là cam Xã Đoài bán hiện nay nhưng sao quá nhiều nước và chua! Đường cao tốc vun vút qua xứ đạo năm xưa, khó tìm được người dân để hỏi đường. May gặp được người dắt trâu làm đồng về chỉ nói đơn giản: “Không cần hỏi ai cả cứ đi tiếp nhìn bên trái thấy nhiều tòa nhà, cổng thành kiên cố, đường bê tông dài bao quanh– cam Xã Đoài ở đó.

Có lẽ sau Tết hết mùa cam chỉ thấy hai quả cam đá to tướng trên tượng đài trước tòa dinh thự. Chợt nhớ tới ông Nguyễn Hữu Tiêu giám đốc nông trường Sông Con (Nghĩa Đan) . Chỉ còn một mắt vì gian truân của cuộc đời nhưng vẫn sáng nhìn xa trông rộng nên đã đưa cam Xã Đoài lên vùng đồi tạo nên thương hiệu cam Vinh nổi tiếng một thời làm mát lòng người dân miền Bắc, trong lúc khan hiếm hàng hóa của thời bao cấp.

Hi vọng sẽ còn dịp trở về thắp hương trên bàn thờ ông Tiêu ở Nghĩa Đàn với cam Xã Đoài thứ thiệt. Cam Xã Đoài mọc trên đất pha cát xung quanh nhà thờ Xã Đoài. Có lẽ cần đến vai trò xứ đạo để phát triển và giữ được thương hiệu loại cam quý giá này.

Viết đến đây tôi lại nhớ đến cố ngoại Phan Sĩ Thục được vua Tự Đức cử làm chánh sứ đến triều Thanh. Làm quan to trong triều nhưng khi lương, giáo tàn sát lẫn nhau, cố đã mở cửa nhà quan để giáo dân vào trú ẩn, góp phần hòa giải mâu thuẫn. Ngày nay con đường mang tên ông là một trong những con đường dẫn đến tượng đài Bác Hồ ở Vinh. Tôi thầm cảm ơn các anh chị lớp trước, phải “có tâm có tầm” mới cất giữ được bút phê của vua “Liêm như Thục” và ấn kiếm áo mũ vua ban cho đời sau (sách vua quan triều Nguyễn cũng đã ghi chép chuyện này).

Lần này về quê tôi còn gắng sức đến thắp hương mộ bà Hoàng Thị Loan trên đồi cao. Mát trời cảnh đẹp nhưng nhiều cụ già với lòng thành tâm chỉ ngồi dưới chân đồi. Giá có những chiếc cáng nhỏ để giúp các cụ! Con đường bậc thang lên đồi dốc chỉ có nước trà xanh và nước có gas nếu có củ sắn dây luộc trồng xung quanh đồi hoặc nước sắn dây sẽ thêm mát lòng người đến viếng… Nhà lưu niệm Nguyễn Du to rộng mênh mông nhưng sao vẫn thiếu tiếng ngâm Kiều của mẹ thuở nhỏ…

Quà về quê tôi chỉ có dịp mang theo cam Quỳ Hợp thay cho cam Xã Đoài và chai tương Cửa Khâu. Nếu có thêm cá thu nướng Cửa Lò đông lạnh hút chân không thì tốt biết bao. An ninh ở sân bay Vinh không cho tôi mang chai tương theo người nhưng sau khi biết tôi mang tương về để nghiên cứu phát triển sản xuất đã linh động cho qua. Về Sài Gòn kể chuyện mọi người khen an ninh có tâm và có tầm nhìn…

Chuyến đi dối già chỉ có mấy ngày nhưng có biết bao điều suy tư. Suy tư có thể đúng có thể sai nhưng vẫn là suy tư của người con xứ Nghệ xa quê.

GS. TSKH Lê Văn Tố

3. LỊCH SỬ LOGO FCC
The History of Logo FCC

Anh em ở cơ quan cũ FCC và tổng giám đốc FCC anh Trần Phương đến chơi và trao đổi với tôi viết lịch sử FCC để lưu lại và giáo dục truyền thống cho lớp trẻ mới vào . Tôi từ chối và nói : Đã gửi phòng lưu trữ cơ quan các tài liệu cũng như bút tích của ông Võ Văn Kiệt ,ông Phan Văn Khải và ông Nguyễn Văn Chính ( Chín Cần Bí Thư Trung Ương Đảng , Bộ Trưởng Bộ Lương Thực ). Cơ quan nếu cần thì dựa vào tài liệu đó cũng như đĩa CD cử người viết là xong. Nay tôi chỉ kể lịch sử Logo FCC để mọi người có thêm tài liệu: 

Việt Nam từ thiếu ăn bắt đầu xuất cảng gạo, hồi ấy chúng ta giành gạo tốt nhất để bán. Nước ngoài mua gạo 35% tấm Việt Nam về bán lại gạo có phẩm chất cao hơn. Thuộc chuyên môn của mình, tôi đề nghị nhà nước cho thành lập cơ quan giám định thứ 2 với tên giao dịch quốc tế là :Food Control Center (FCC) bên cạnh Vinacontrol. Với sự hợp tác chân thành , tránh phiền phức cho khách hàng FCC đã tới Vinacontrol bàn bạc, thống nhất quy trình làm việc và đưa các mẫu gạo chuẩn để giám định. Cán bộ FCC thắc mắc tại sao mẫu gạo chuẩn chỉ ghi tên Vinacontrol và Viện Nghiên Cứu Lương Thực, còn FCC ở đâu ?

Ở trong tim các anh và trên ngực các anh – Tôi trả lời và chỉ vào ngực áo đồng phục của mọi người có Logo FCC. Mình phục vụ tốt hết lòng với khách hàng sẽ tạo dần uy tín. FCC với đội ngũ chuyên môn của mình đã tới từng kho hàng tham gia chuẩn bị hàng xuất khẩu cho họ theo đúng hợp đồng đã kí đồng thời mời cơ quan giám định quốc tế OMIC-Nhật Bản đến giảng dạy và cộng tác chuyên môn. FCC dần dần đã tạo dựng được uy tín của mình với khách hàng trong và ngoài nước song song với việc đào tạo tuyển dụng nhân viên mới. Có lần doanh nghiệp phản ánh với chúng tôi anh H buổi đêm bắt doanh nghiệp đem xe về Sài Gòn ngủ để mai đến Long An làm việc tiếp. Thời đó đường sá đi lại rất khó khăn sau khi điều tra chúng tôi biết đó là sự thật lập tức cho nhân viên tạm thời nghỉ việc và hẹn lúc nào biết cách phục vụ khách hàng sẽ được làm việc tiếp. Nghề giám định có nhiều lúc cũng rất cân não và khó khăn. Lúc kiểm lô ý dĩ xuất cảng sang Nhật, tới cảng Yokohama họ trả lại vì nhiễm độc tố Aflatoxin vượt chuẩn. Với lề lối làm việc khoa học, FCC khẳng định với khách hàng nếu lỗi của mình, chúng tôi sẽ nhận trách nhiệm nhưng trước hết cần lấy mẫu lại để kiểm tra đồng thời kiểm tra mẫu lưu trữ để trong kho và gửi mẫu sang Băng Cốc, Tokyo. Có kết quả tương đồng, tôi tin rằng chúng tôi có lý và khuyên khách hàng về sấy khô lại sản phẩm đổi các công ten nơ khác, nếu Nhật họ yêu cầu thì mạnh dạn xuất hàng. Mọi việc êm xuôi, tôi cũng trút được gánh nặng thoát khỏi vòng số 8 vì tội cố ý làm trái.

Có lẽ ở Yokohama họ lấy mẫu không đúng cách không đại diện cho lô hàng nên có sai sót nói trên. Từ sự việc này dự án ACIAR đề nghị tôi và một chuyên gia Úc viết bài giảng về phương pháp lấy mẫu cho các trường đại học.

Không phải chỉ tranh luận với khách hàng nước ngoài mà còn tranh luận với hải quan nước nhà. Chúng ta có nhà máy xay bột mì hiện đại nhưng nếu nhập hạt mì về xay sát sẽ bị đánh thuế vì hải quan cho rằng hạt mì là đã qua xay xát (Vì hạt lúa mì sau thu hoạch đã rất bóng ). Thuyết phục không xong, tôi cho hạt mì ngâm ủ và nói nếu qua xay xát hạt mì sẽ không nảy mầm. Cuối cùng hải quan chấp nhận. Có lần chúng tôi mời cán bộ FAO đến chứng kiến lô dầu ăn viện trợ cho Việt Nam bị ôi mốc vì chất lượng kém. Họ tâm phục khẩu khục đổi cho ta lô dầu khác. FCC ngày càng phát triển được ủy quyền giám định không những chỉ hàng lương thực thực phẩm mà còn nhiều loại hàng hóa khác. Cái áo đã chật nhưng Logo FCC đã đi ra thế giới làm thế nào đây ? Động viên anh em tìm thêm một chữ C cho hợp với cái áo mới, từ đó có tên : Food & Commoditoes Control. FCC đã giữ vững và phát triển tên tuổi của mình hơn 30 năm nay nhưng 1 lần nữa chứng tỏ sự non yếu của tôi – 1 người chuyên về kỹ thuật lương thực thực phẩm chỉ nghĩ đến giám định thực phẩm mà thôi…

Khi được xây dựng trụ sở mới tôi bàn với anh em : Mình chưa đủ tài chính xây dưng tòa nhà 9 lầu thì chỉ xây dựng 4 lầu nhưng nền móng kết cấu đủ 9 lầu tránh đập phá lãng phí.

Về hưu đã lâu rất ít khi tới cơ quan nhưng mỗi lần đến để sinh hoạt khoa học hoặc giới thiệu sách khoa học mới của các bạn đồng nghiệp. Nhìn tòa nhà 9 tầng vươn cao giữa hàng me cổ thụ ( Hợp đồng giao hẹn với công ty xây dựng không được chặt me ) lòng tôi lại lâng lâng.”

GS.TSKH Lê Văn Tố

ThayTovachaoPOLI

4. FOLI VÀ FOVINA
Một phần tư thế kỉ trôi qua của sản phẩm nghiên cứu Foli

Xuất khẩu gạo còn tồn dư nhiều gạo gãy, tấm tốt. Tiếc quá, tôi bàn với anh em ta sản xuất cháo ăn liền được không ? Ăn liền nhưng tiền đâu nghiên cứu ? Anh em hỏi lại tôi ? Ra Hà Nội xin tiền nghiên cứu nhưng họ không tin vì cháo thì phải nấu nhừ chứ máy móc làm sao được? Biết tôi từ lâu nhưng họ vẫn trách yêu : Cậu sách vở nhiều quá thần kinh hay sao? Về lại Sài Gòn tôi gõ cửa giáo sư Hoàng Anh Tuấn (giám đốc sở khoa học, ủy viên ủy ban TP. HCM) xin tiền nghiên cứu. Ông cười bảo tôi : Đó không phải là lĩnh vực của tôi nhưng tôi tin anh về làm thủ tục đi.

Có 50 triệu cầm tay ( Hồi đó 50 triệu là to ) các kĩ sư của chúng tôi ra đặt xưởng CARIC thiết bị chịu áp lực làm Extruder. Họ từ chối. Thử dùng nòng súng đại bác cũ được không ? – Tôi bàn với anh em. Kĩ sư Lộc và bộ phận cơ khí đã làm được Extruder từ nòng súng đại bác và sau đó kĩ sư Bình, kĩ sư Châu làm Extruder cỡ nhỏ hơn. Cháo ăn liền ra đời bán chạy khắp toàn quốc. Uy tín của Viện được nâng cao. Sáng sớm dân xếp hàng dày đặc trước cơ quan chờ thùng cháo ăn liền về cho gia đình và bán lại kiếm lời. Anh em bảo tôi đặt tên cho xưởng cháo đi. Đi đâu họ cũng hỏi xưởng cháo ngượng lắm !

Xưởng FOLI được không ? Sao lại gọi là xưởng FOLI ?

FOLI là food ăn liền để liền mạch với sản phẩm PHOMI được sản xuất từ nguyên liệu phối lúa mì rất bổ dưỡng chuyển giao cho xí nghiệp xay lúa mì Bình Đông bán rất chạy nuôi sống được 60 công nhân đang thất nghiệp.

Sản phẩm đã bán chạy sẽ có người làm giả nên cần đăng kí bản quyền. Tên FOLI và Logo FOLI mang hình đầu gà từ đó vì sản phẩm ra đời năm Qúy Dậu ( 1993 ). Mặc dù vậy ở Hà Nội có cô giáo vì kế sinh nhai làm giả cháo ăn liền của chúng tôi. Công an hỏi ý kiến để xử lý. Tôi bàn với công an : Vì sinh kế cô giáo mới làm như vậy các anh chỉ cần khuyên họ nếu có điều kiện thì mở cơ sở sản xuất mới chứ không được lấy tên FOLI. Từ cháo ăn liền họ hàng của FOLI có thêm nhiều sản phẩm mới : Cơm gạo nứt ăn liền, cốm gạo lứt rong biển, chè đậu xanh ăn liền, cốm 5 loại đậu, xưởng đồ hộp di động, canh chua ăn liền …. Sản phẩm đã có mặt trên thị trường ¼ thế kỉ.

Hội nghị tổng kết ở cơ quan giám đốc sở khoa học bảo tôi lên trả lời câu hỏi tri thức Việt kiều : Tại sao các anh làm được Extruder trong giai đoạn hiện nay. Không giấu diếm tôi thú thật là chúng tôi phải dùng nòng súng đại bác để chế tạo và nói đùa thêm : Các anh khôn đã xuất biên chúng tôi ở lại vừa điên vừa khùng. Là đồ Nghệ tôi đã chơi chữ có người cho tôi là điên khùng, tiếng Pháp FOLIE là kẻ khùng điên.

Về hưu nhớ lời của nhà thơ Nga Eptusenco: Đừng chết trước lúc lìa đời. Còn khỏe và đang “ngứa nghề” tôi thành lập Pilot Plan cho mình tại nhà để sản xuất thực phẩm có lợi cho sức khỏe từ nguyên liệu tự nhiên với tên gọi FOVINA (Food Vital, Natural) như kem bổ sung Isoflavon, bánh Macca, bánh bổ sung các loại hạt dinh dưỡng bánh mì thanh long giữ được dài ngày cho người đi biển … công nhân vui mừng được ăn nghỉ đàng hoàng và sống bằng sản phẩm mình làm ra. Đó cũng là địa điểm thuận lợi để các nhà khoa học ngồi hàn huyên tâm sự thử sản phẩm mới“.

GS.TSKH Lê Văn Tố

chuyendoigslevanto

5. CÂU THƠ ĐỜI ÁM ẢNH

Tôi đã trích dẫn chuyện thầy Lê Văn Tố để đọc và suy ngẫm, và sẽ còn quay lại trong nhiều dịp. Tôi tẩn mẫn in đậm các chữ chai tương. “FCC’ ‘POLI’  ‘FOVINA’ . Bill Gates vừa hôm qua chia sẻ thông tin What’s the secret to making great bread?  (‘Bí quyết để làm bánh mì tuyệt vời là gì?’) Câu hỏi của Bill Gates  dường như là một dấu lặng sâu xa cho ẩm thực và nông nghiệp, là một sự đồng cảm …

Chuyện đời của giáo sư Lê Văn Tố là bài học suy ngẫm. Thầy Tố qua tám mươi xuân vẫn trên con đường di sản mang các giá trị ẩm thực Việt lan rộng và tỏa sáng. Con người của tâm huyết và thực tiễn là lặng lẽ dâng hiến. Đó là đức độ của một người Thầy.

Nhà thơ Trần Đăng Khoa thẩm thơ khá tinh tế “thơ hay là giản dị, xúc động, ám ảnh”. Anh Tư Hoàng Trung Trực của tôi, vị đại tá tư lệnh sư đoàn thời chống Mỹ, cũng thích kể chuyện đời bằng thơ vì theo anh kể chuyện thơ có hồn và dễ nhớ hơn. Anh đã viết hồi ức thơ “Dấu chân người lính” kể về những khốc liệt hi sinh gian khổ chiến trường, đối mặt sinh tử.Thầy Lê Văn Tố cũng vậy, thầy hồi tưởng chuyện đời của thầy bằng những câu thơ tuy mộc mạc đời thường nhưng thật ám ảnh.

NGOÀI THẤT TUẦN  VIẾT LÚC NỬA ĐÊM
Lê Văn Tố

Mẹ nằm đó miên man trên giường bệnh.
Tóc trắng phau miệng mấp mấy mấy điều,
Chị nằm bên : “mẹ tỉnh hay mê ?”
Mẹ đi rồi thương ai nhiều nhất ?

Mẹ thều thào con nào đẻ chả thương,
Nhưng rồi mẹ lại vấn vương.
“Thương thằng Tố nhiều hơn con ạ !
Nó dành phần nuôi mẹ sớm chiều.

Con mẹ hiếu thảo đủ điều.
Nhưng phải xâm xiu, còn lo cho gia đình chúng nó…”
Nhớ lúc “bão tan” còn niêu đất nhỏ
Mẹ bảo : “Thổi nồi cháo – nhớ đổ nước cho nhiều”.

Ngô không có, khoai chẳng còn.
Còn gì đâu mà nổi lửa mẹ ơi !
Đêm đông gió giật từng hồi.
Hết cả rồi biết sống sao đây ?

Bán nốt con chó, bán cả cái vò
Có bữa câu được con tràu to.
Đổi gạo cháo no mấy bữa
Rồi lại co ro ngồi trên bậu cửa.

Con muốn bỏ học, mẹ không cho.
Bụng đói, rét co, nằm không chăn chiếu
Gốc sim già – lửa ấm được một bên.
Rồi mẹ lại lom khom lên núi xuống đồng .

Không quản ngày đông, nắng hè cháy bỏng…
Mẹ gánh, mẹ gồng xộc xệch mòn vai
Mua mít tại nhà bổ bán ở chợ
Hột nhặt về – độn để con ăn

Đêm ngủ chiêm bao thấy mẹ hiện về.
Nghẹn ngào con viết vội vần thơ…

CHÂN ĐẤT THEO ANH
Lê Văn Tố

Hòa bình về Thủ Đô
Nghệ An còn đói khổ
Đưa em ra Kinh Đô
Dép Bác Hồ* nỏ có

Em lội bộ theo anh
Tính toán mãi loanh quanh
Mua đôi dép con hổ**
Em bước chân đi nhanh.

Hổ rình chân em cứa
Xách cọp đi theo mình
Lặng thinh em tiến bước.
Em tiến bước lặng thinh

Mấy con nhỏ phía trước
Ngoái cổ cười bảo nhau
Đi mau mặc kệ tau
Chân đau đi răng được ?

Rồi em tiến dài bước
Vượt qua mọi chông gai
Không dép lốp xâu quai
Nhưng có oai con hổ.

* Loại dép bằng lốp ôtô xâu quai.
** Loại dép nhựa tái chế rất cứng

6. THẦY TỐ CHUYỆN ĐỜI THƯỜNG

Hoàng Kim xin chia sẻ ký ức quý giá của giáo sư tiến sĩ khoa học Lê Văn Tố. Tôi nói với các em sinh viên và các bạn đồng nghiệp: “Bài học khởi nghiệp của thầy Lê Văn Tố và FCC là rất quý và thật đáng suy ngẫm”

Thầy Tố kể: “Cảm ơn các bạn xa gần đã quan tâm và bình luận. Nói đến “công trồng” không thể không nhắc đến anh Nguyễn An Hoàng mà tôi có duyên được gặp anh khi anh ở Hungary về đang phụ trách một đơn vị HCSN phía Nam của Bộ cơ khí luyện kim. Tôi chân thành nói với anh “Tôi không biết quản lí đâu. Tôi chỉ là người đứng mũi chịu sào để các anh chủ động hoạt động”. Công trình đầu tiên của cơ quan do anh tự thiết kế chế tạo và lắp ráp: Máy sấy bột sắn làm tá dược cho xí nghiệp dược Tây Ninh. Làm xong đưa ra sản xuất nhưng họ không có tiền trả chỉ trả bằng sắt thép. Bán sắt thép ở thành phố thì công an ập vào! Tôi bắt đầu biết sợ nhưng cũng động viên anh em: “Nhà nước giao cho ta con gà để cúng, ta làm sạch sẽ luộc lên nộp đủ gan mề cổ cánh, chỉ lấy nước húp thôi” và dặn thêm tôi có làm sao khi đi thăm nuôi nhớ mang thêm sách tiếng anh và từ điển để tôi dạy phạm nhân. Mọi việc ổn thỏa chúng tôi từng bước đi lên, Khi FCC lớn mạnh, áo đã chật nhà nước không cho núp bóng viện nghiên cứu nữa mà phải thành lập doanh nghiệp nhà nước hẳn hoi. Tôi và anh Trần Phương (Tổng giám đốc FCC hiện nay) bay ra Hà Nội. Công việc còn ngổn ngang mà sớm mai đã phải xét duyệt, anh Phương phải phóng xe đến nhà chị Tuất đánh máy làm việc suốt đêm. Sáng sau mắt nhắm mắt mở trước hội đồng xét duyệt của Bộ tài chính và Bộ NN & PTNT, thôi thì “khôn ngoan chẳng lọ thật thà” tôi nói: “Sổ sách của chúng tôi như sổ chợ nhưng đảm bảo không bị thất thoát nhờ hội đồng giúp đỡ xử lí cho”. Phải nói rằng thời đó khó khăn nhưng hội đồng dễ thông cảm cho các “nhà kĩ thuật khởi nghiệp”. Không đao to búa lớn kiểm điểm bình bầu nhưng cơ quan làm việc nhuần nhuyễn với nhau. Trưa ăn cơm nóng sốt tại cớ quan rồi lăn ra chợp mắt làm xong việc mới về. Nói đến trụ sở không thể nhắc đến Omic Nhật Bản, họ hiểu và tin tưởng cho chúng tôi vay tiền rồi lấy công trả nợ. Tiền ít nhưng tham làm 4 lầu để sử dụng nhưng móng đủ sức làm 9 lầu. Anh em thắc mắc hỏi: “Sao đang đói mà anh làm to thế?” Tôi cười: “Làm cho các anh đó. Sau này khỏi phải đập phá khi xây thêm. Chúng ta đã chứng kiến cảnh đập phá quá nhiều rồi”. Khi tôi về hưu anh Đức (giám đốc PHT-HCMC) lên bộ xin xây 9 lầu cho cơ quan. Nguyên tắc phải khảo sát nền móng trước khi cấp giấy phép nhưng giáo sư Giang biết tôi là người chủ trì công trình xây dựng trước đây nên nói ngay: “Anh Tố mà làm thì chắc chắn”. Nghe anh Đức kể lại về hưu rồi vẫn sướng rơn vì trí thức được lãnh đạo tin tưởng. Thực tế giáo sư Giang chỉ gặp tôi 1 lần khi đó anh là vụ trưởng khi tôi đang tổ chức triển lãm ở Cần Thơ với tiêu đề “Đưa công nghiệp chế biến về nông thôn để mỗi địa phương có sản phẩm của mình”. Hàng có bao nhiêu bán hết sạch. Cứ như vậy chúng tôi tiến từng bước vững chắc. Ngẫu hứng mấy dòng để góp vui với cơ quan tổ chúc kỉ niệm 30 năm ngày thành lập FCC, vì khi đó sức khỏe yếu không chống gậy đến được.”

7.THẦY TỐ BẠN VÀ HỌC TRÒ

Tôi nhẫn nha chép lại những chuyện đời quanh thầy Tố, vui có buồn có nhưng đến đây thì cứ vui. Sớm nay, tập thể dục xong, trước khi góp ý bài đăng báo khoa học kỹ thuật nông nghiệp cho nhỏ học trò, tôi lướt qua một chút các trang tin nóng trong ngày, suy tư hoài khi đọc bài “Tắc kẹt vì đâu?“”Ba hoa cái tôi, cái tội và cái tồi“”Thị trường thép thế giới: Tương lai không sáng sủa“. Biết bao chuyện nóng hổi mà kẻ sĩ không thể không lo nghĩ. Nhưng thôi, đến thăm thầy, xin được nói chuyện vui nhiều hơn chuyện buồn thì tốt hơn. Thầy Quyền nghề nông của chúng tôi là tấm gương mẫu mực về sự phúc hậu, minh triết, tận tụy trên con đường xanh của chúng ta,  một người bạn thiết của thầy Tố, luôn quan tâm dặn dò giữ gìn sức khỏe.

Thầy Lê  Văn Tố cùng thời với những anh chị, bạn hữu “Nga học, Tây học”của thế hệ nông nghiệp đầu tiên nước Việt Nam mới. Nhiều người quen thân của thầy đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong nông nghiệp, sinh học và giáo dục nghề nông như: GS. Lương Định Của (16 tháng 8 năm 1920 – 28 tháng 12 năm 1975), GS. Đào Thế Tuấn (4 tháng 7 năm 1931- 19 tháng 1 năm 2011), GS. Vũ Tuyên Hoàng (2 tháng 12 năm 1939 -26 tháng 2 năm 2008), PGS. Lưu Trọng Hiếu (-15 tháng 5 năm 2008), GS. Trần Thế Thông, GS. Nguyễn Văn Luật, GS. Mai Văn Quyền, GS.  Trịnh Xuân Vũ, GS. Ngô Kế Sương, PGS. Nguyễn Văn Uyển,   GS. Nguyễn Tử Siêm, … Quê hương, dòng họ, gia đình, người thân và bạn quý là nguồn sinh khí, điểm tựa cho mỗi cuộc đời và sự nghiệp.

Trong nhiều câu chuyện đời thường, tôi thích bài thơ các anh Võ Đức Tình, Thao Lâm viết về thầy Tố:

CÓ MỘT NƠI NHƯ THẾ
Võ Đức Tình

Mái nhà xưa hai trái tim vàng
Giản dị một đời chẳng cao sang
Chỉ lo đào tạo bao thế hệ
Kiến thức tinh hoa thật vững vàng

Nơi ấy vườn xanh rộn tiếng cười
Thuyền câu rong ruổi khắp muôn nơi
Đưa cá về ao: hàng lưu trữ
Đãi bạn bè xa đãi khách mời

Ăn xong về lại mái nhà xưa
Bánh nóng trà thơm suốt bốn mùa
Bè bạn gần xa đều thưởng thức
Xem thầy chế biến đã vừa chưa

Bạn hỏi rằng đâu đẹp thế này
Cảnh đẹp người vui chuyện đắm say
Nơi ấy bạn hiền thành tri kỷ
Cô Nga thầy Tố ” trực” đêm ngày

Duc Tinh Vo
friends with To Le Van

TIẾNG CHIM THÂN QUEN !
Thao Lâm 26 9 2020
  ·

Tiếng chim bìm bịp gọi tôi về
Thăm miền thơ ấu… nơi chốn quê
Vùng đồi Phú Thọ miên man nhớ
Cuối xuân bìm bịp gọi nhau về !

Đón nắng vàng ươm buổi sớm mai
Tiếng kêu “bìm bịp” tha thiết hoài
Đón đợi “bạn tình” trong nắng đẹp
Thỏa lòng mong ước được sinh sôi !

Lâu lắm lại nghe tiếng thân quen
Bên sông nhà bạn* ngay Sài Gòn
Màu nâu bìm bịp bay thấp thoáng
Tình Bạn thêm nồng kỷ niệm nhen !

Tình Bạn lâu nay vốn đậm đà
Người Nam kẻ Bắc có đâu xa
Lại được cùng nhau nghe bìm bịp
Tiếng chim thân thuộc của hai ta !

Nhớ ngày thăm nhà Bạn-GS Lê Văn Tố ở Q7 Sài Gòn.MĐ.HN 26.9.2020

KỶ NIỆM VỚI GS LÊ VĂN TỐ

Anh Tinh Cao Cao Văn Tinh viết: Cám ơn anh Hoàng Kim đã cho độc giả thêm nhiều chi tiết về GS Lê Văn Tố với hoạt động khoa học không mệt mỏi của mình trong bối cảnh cơ chế cũ. Tôi có kỷ niệm về việc GS Tố hết mình để giúp người bạn của ông . Ông Phạm Huy Hùng (ông đã mất) làm ở cục quân khí trong kháng chiến chống Pháp . Sau này ông làm chuyên viên cơ quan tôi, mất hết giấy tờ khi nghỉ hưu không có chế độ . Hồ sơ phức tạp chạy nhiều nơi tới các cơ quan trung ương và cuối cùng tới ông Vũ Mão ở Quốc hội . Ông Vũ Mão đã ngạc nhiên vời người thủ trưởng cũ của mình và xác nhận chuyển qua Bộ Lao động Thương binh Xã hội làm chế độ cho ông Hùng. Chúng tôi cảm kích tấm lòng của GS Lê Văn Tố hết mình giúp bạn . Chuyện thứ hai liên quan tới GS Tố. Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm đặt ra rất sớm khi mở cửa . Khu chế xuất Tân Thuận mở ra , các trường mẫu giáo và phổ thông các cấp đại học gặp vấn đề ngộ độc thực phẩm đặt ra rất gay gắt . Độc tố trong rau củ quả nhận biết, xử lý như thế nào chúng ta chưa có kinh nghiệm cả lý thuyết lẫn thực tiễn . Thành phố Hồ Chí Minh cử một đoàn nhiều chuyên ngành đi Đài Loan , Hàn Quốc học hỏi . Phần liên quan tới tôi là xử lý thuốc bảo vệ thực vật lưu dẫn trong rau củ quả xử lý bằng ozone có được không. Vì có nhiều quảng cáo thời đó là dùng hóa chất, dùng ozone xử lý hết mọi dư lượng trong rau củ quả ! Tôi là người nghiên cứu sản xuất máy ozone rất sớm ở Việt Nam năm 1979 mà không có một thông tin gì về việc này, mà nghĩ cũng không có lý. Tôi tới gặp GS Tố , anh vui vẻ chấp nhận cho tôi kiểm tra trên mẫu rau mồng tơi từ Gò Vấp . Anh còn cho thêm một số thông tin về việc này làm tôi cẩn thận trong kiểm tra. Kết quả đúng như anh đã nói và tôi nghi ngờ các quảng cáo: khí ozone không có tác dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật đã lưu dẫn trong rau củ quả trong nông nghiệp. Sau này một số hội chợ, hội thảo nông nghiệp tôi đã lấy kết quả kiểm tra ở viện FCCC của giáo sư Tố để bác bỏ các quảng cáo láo phi khoa học của một số nhà thương mại . Tôi rất biết ơn và cảm phục tấm lòng của giáo sư Tố. Cám ơn Hoàng Kim và góp thêm một vài tư liệu về sự hoạt động khoa học và đời thường của nhà khoa học chân chính .

xem tiếp: Chuyện thầy Lê Văn Tố https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-thay-le-van-to/

Goethe at Rome

GIẤC MƠ THIÊNG CÙNG GOETHE
Người già kể chuyện sử thi
Kalovi Vary, Roma, Oregon
Thắp lên trong tôi ngọn lửa
Hoàng Kim

Mọi lý thuyết đều là màu xám,
chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi
Goethe trao tặng cho tôi
Ngọc minh triết của Người.

Tôi giấc mơ gặp Goethe
Kalovi Vary, Czechoslovakia
trong rừng thiêng cổ tích.
Người kể chuyện sử thi

Tiệp Khắc kỷ niệm một thời
Praha Goethe và lâu đài cổ
Những khát khao của Faust,
Nỗi đau của chàng Werther

Người nhắc tôi đừng quên
kể chuyện sử thi dân mình
Cho dù học gì làm gì
Cũng đừng quên chuyện đó !

Người hỏi tôi trong mơ
Con có dám học Faust?
Chọn minh triết làm Thầy
Suốt đời theo Trí Tuệ ?

Tôi trả lời.trong mơ
Có con xin theo Người !
Con xin theo học Goethe
Người kể chuyện sử thi

Ta bàng hoàng gặp Goethe
Trên cầu đi bộ Charles
Trong 30 tượng thánh trầm tư
Tôi ngắm hình tượng Faust

Quảng trường Old Town Square
Đế Quốc La Mã Thần Thánh
Goethe lắng đọng tại Praha
Trong huyền thoại muôn đời

Tôi nhớ Người ở Frankfurt,
Di sản Người Leipzig, Strasbourg
Ông già hiền triết châu Âu
Tại bao nhiêu điểm đến …

Tôi học Goethe qua thơ Xuân Diệu
Mọi lý thuyết đều là màu xám,
chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi
Thơ Người đi cùng tôi bao tháng năm.

Tôi gặp Goethe ở châu Âu
Trong hình bóng người hiền
Cũng gặp Người tại Oregon
Nơi Miền Tây Nước Mỹ.

Tôi gặp Goethe ở châu Mỹ
Tại Ciudad Obregon
Hồ lớn ba tỷ khối nước
Cây xanh đất nước giao hòa

Tôi  gặp Người ở CIMMYT Mexico
phía cuối trời Tây
GoetheNorman Borlaug dạy cho tôi
Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương

Người hóa thân
trong thanh thản
bóng cây xanh
Người đàm đạo
với Norman Borlaug
và cậu học trò nghèo
Về ý tưởng xanh
Con đường xanh
Hành trình xanh
Sự nghiệp xanh
Nhà khoa học xanh
giấc mơ hạnh phúc

Goethe là vòm cây xanh
Goethe cũng là lão nông
ngồi cùng chúng ta
chuyện trò
trên cánh đồng xanh
hạnh phúc.

Goethe Norman Borlaug
là những trí tuệ bậc Thầy.
Họ không màng hư vình
mà hướng tới đỉnh cao hòa bình
sự an lành tiến bộ.

Anh và em cùng Goethe
Ở FAO, Rome, Italy
Người hóa thân
thành nữ thần Tình Yêu (*)

Trời xanh tuyệt vời !
Trời nhân loại mênh mông !

(*) Hình ảnh Hoàng Kim ở Roma, Italia.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là fao-roma-italia.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dao-choi-cung-gouthe-1.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là kim-in-italia.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là kim-in-ita-lia-2.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là kim-o-fao-2.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tro-ve-diem-hen-2.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là y-1.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tro-ve-diem-hen.jpg

Giấc mơ về điểm hẹn

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Mênh mang một khúc sông Hồng
Huyền Thoại Hồ Núi Cốc
Một thoáng Tây Hồ
Trên đỉnh Phù Vân
Chảy đi sông ơi …

Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

#cnm365 #cltvn 28 tháng 9


#CNM365 #CLTVN 28 THÁNG 9
Hoàng Kim và Hoàng Long
CNM365 Tình yêu cuộc sống #vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói; Chín điều lành hạnh phúc; Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên; Ngày 28 tháng 9 năm 1928, Alexander Fleming nhận thấy một loại mốc diệt vi khuẩn phát triển trong phòng thí nghiệm của ông, thứ mà về sau được gọi là penicillin. Ngày 28 tháng 9 năm 1926, ngày sinh Nguyễn Cảnh Toàn, giáo sư toán học người Việt Nam (mất năm 2017), nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, thứ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam (1976-1989), phó Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam và Tổng biên tập tạp chí Toán học và Tuổi trẻ trong hơn 40 năm. Ông được báo chí trong nước đánh giá là một tấm gương tự học thành tài và có công lao trong việc đào tạo và xây dựng đội ngũ những giáo viên toán. Ngày 28 tháng 9 năm 1986, Đảng Dân chủ Tiến bộ Đài Loan tuyên bố thành lập tại Đài Bắc, là đảng đối lập đích thực đầu tiên tại Đài Loan. Bài chọn lọc ngày 28 tháng 9: Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên;Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-28-thang-9/

SỰ THẬT TỐT HƠN NGÀN LỜI NÓI
Hoàng Kim

Việt Nam con đường xanh
Chung sức trên đường xuân
Lúa sắn Việt Nam bài học lớn
Sự thật tốt hơn ngàn lời nói

THẦY NGHỀ NÔNG CHIẾN SĨ
Hoàng Kim
kính tặng anh Trần Mạnh Báo

Bao nhiêu bạn cũ đã đi rồi
Nhớ để mà thương cố gắng thôi
Nhà khoa học xanh gương trung hiếu
Người thầy chiến sĩ đức hi sinh
Dưới đáy đại dương là ngọc quý
Trên đồng chữ nghĩa ấy tinh anh
Doanh nghiệp Thái Bình chăm việc thiện
Giống tốt bội thu vẹn nghĩa tình.

(*) Ảnh tư liệu chon lọc về anh Trần Mạnh Báo (từ 1 đến 8). Chúc mừng gạo Việt từ giống tốt đến thương hiệu (Hoàng Long 9). Con đường lúa gạo Việt Nam’ vươn tới muôn nơi  ‘Cơm ngon từ giống, gạo sạch từ tâm’

Xem tiếp: Thầy nghề nông chiến sĩ

CÓ MỘT NGÀY NHƯ THẾ
Hoàng Kim

Có một ngày như thế
Về với Trường thân yêu
Thầy bạn chung tiếp sức
Cùng nối dây cho diều.

Có một ngày như thế
Ngày Niềm vui đó em
Niềm tin và nghị lực
Em vượt lên chính mình.

Chùm ảnh Có một ngày như thế

Xem tiếp chùm ảnh Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín http://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-chuyen-anh-thang-chin

NGƯỜI VỊN TRỜI CHẤP SÓI
Hoang Kim

Hà Giang ơi Hà Giang ơi
Núi thẳm mờ sương thấu cửa trời
Nơi đâu bạn cũ (*) thành sương khói
Bồng bềnh mây trắng dốc chơi vơi.

Trời rất xanh và rừng rất sâu
Mèo Vạc xa kìa, Lũng Dẻ đâu
Nào hang Cắc Cớ nào Công Cốc
Núi Tản ngàn năm biếc một màu.

Phình ngán Phình ngán Ắt tắc tím
Bạn ra kéo mình ra búa
Trò chơi mê mãi suối bên mai
Người vịn trời xanh chấp sói rừng.

(*) Hoàng Kim ở E568 F325B sau này là nòng cốt của F356 nước mắt Vị Xuyên, chính ủy sư đoàn Phạm Hồng (Hải Dương) là người thân. Ngày về thăm nơi cũ Người vịn trời xanh chấp sói rừng

PRAHA GOETHE VÀ LÂU ĐÀI CỔ
Hoàng Kim


Lâu đài Praha là lâu đài cổ lớn nhất thế giới theo sách Kỷ lục Guinness. Ở đó có quảng trường Old Town Square là trung tâm trục lịch sử suốt nghìn năm với những tòa nhà cổ đầy màu sắc, các nhà thờ Gothic và đồng hồ thiên văn thời trung cổ. Lâu đài cổ Praha là nơi lưu dấu sử thi muôn đời của Gớt (Johann Wolfgang von Goethe 17491832), vĩ nhân khoa học nhân văn, nhà thông thái, đỉnh cao văn chương thế giới. Tôi may mắn được lạc vào thế giới của Goethe và được lắng nghe Người trò chuyện sử thi qua các trang sách kỳ thú.

Điều kỳ lạ với tôi là sau khi gặp Goethe và đọc tác phẩm của Người tại vùng đất thiêng Old Town Square và vùng suối nước nóng nổi tiếng Kalovy Vary nơi có khu nghĩ dưỡng spa và rừng cổ  thư viện Goethe, tôi ám ảnh đến lạ như bị thôi miên bởi một năng lượng quá mạnh mẽ. Tôi cũng ước ao hiểu biết và mong muốn dấn thân làm được những điều gì đó có ích cho đời. Tôi được phiêu lưu lên rừng xuống biển, đi được nhiều nơi khắp Á Âu Phi Mỹ mà người nhà với bạn bè nói vui là “có lộc và có may mắn xuất ngoại” bởi từ cậu bé chân đất làng Minh Lệ nghèo khó làm sao có được sự đổi đời này. Tôi được gặp Goethe nhiều lần sau đó, ở những địa điểm rất xa nhau, như ở Obragon (miền Tây nước Mỹ), CIMMYT (Mexico), FAO, Rome (Italiy), Ghent (Bỉ) Giấc mơ xanh, ước mơ xanh là bài học quý đầu đời. Goethe là người Thầy lớn của tôi.

Ngày 29 tháng 9 năm 1774 là ngày Johann Wolfgang von Goethe đã phát hành kiệt tác ‘Nỗi đau của chàng Werther’ mang lại cho Goethe danh tiếng quốc tế. Ngày 29 tháng 9 năm 1951 là ngày mất của tướng Nguyễn Bình, vị trung tướng và tư lệnh Nam Bộ Việt Nam (sinh năm 1906). Ngày 29 tháng 9 năm 1973 cũng là ngày mất của W. H. Auden là nhà thơ Mỹ gốc Anh (sinh năm 1907). Ông là một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ 20, người có sự ảnh hưởng rất lớn đến nền văn học Anh Mỹ.

“Praha Goethe và lâu đài cổ“ là phần hai của bài viết  “Tiệp Khắc kỷ niệm một thời”, tiếp nối  phần một “Tiệp Khắc đất nước con người”. Praha là thủ đô Cộng hòa Séc, trái tim văn hóa và học vấn châu Âu, nơi trung tâm thành phố được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới năm 1992, là “thành phố vàng” “thành phố một trăm ngọn tháp”. Goethe là nhà thông thái thiên tài, nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học, triết gia, nhà viết kịch và họa sỹ người Đức danh tiếng toàn châu Âu và Thế Giới với Viện Goethe hiện có phân viện tại 13 thành phố ở Đức và 128 thành phố nước ngoài nhưng lắng đọng về Người là tại cụm công trình di sản thế giới nêu trên với những câu chuyện huyền thoại kỳ lạ.

Praha thành phố vàng

Sang Tiệp, đến Praha, chúng tôi được ở  khu nhà dành cho sinh viên và thực tập sinh nước ngoài tại Trường Đại học Praha, nơi có khá nhiều thực tập sinh và sinh viên các nước Âu, Á, Phi, Mỹ đến học nơi xưa là Trường Đại Học Karlova  được thành lập từ năm 1348, trung tâm học vấn châu Âu. Trường Đại học Praha là niềm tự hào của thầy cô giáo trường này và cũng là niềm tự hào của đất nước Tiệp Khắc.

Chị Magdalena Buresova hướng dẫn chúng tôi đi dã ngoại ba tuần trước khi chúng tôi trở về Trường trình bày báo cáo “Thành tựu nghiên cứu phát triển đậu rồng và các cây họ đậu nhiệt đới hợp tác Việt Tiệp” trong một Seminar ở Khoa Cây trồng và được thông báo là có nhiều người quan tâm.

Điểm đến đầu tiên của chúng tôi là “Praha vàng”, lâu đài cổ thành Hradčanské, quảng trường Con Ngựa, quảng trường Con Gà (theo cách gọi của sinh viên Việt tại Tiệp) và vô vàn những điểm tham quan nối hai đầu của hai Quảng trường Museum và Můstek và cầu đi bộ Karl (Tiếng Tiệp gọi là Karlův, người Việt gọi là cầu Tình) bắc trên con sông Vltava đến khu lâu đài cổ.

Thủ đô Praha hiện có dân số khoảng 1,5 – 2,5 triệu người, GDP bình quân đầu người của Praha cao gấp đôi mức bình quân của Cộng hòa Séc và cao gấp rưởi (153%) mức  bình quân của Liên minh châu Âu.  Tôi thuở đến Tiệp Khắc học năm 1986 thì dân số Praha ước khoảng 1,2 triệu người và Praha trong mắt tôi thời ấy thật “xa hoa”, giống như câu nói lưu truyền dân gian “Muốn giàu đi Đức, tri thức đi Nga, xa hoa đi Tiệp”. Câu thơ của nhà thơ Tố Hữu trong “Nhật ký đường về” năm 1964: “Praha vàng tím chiều hè. Hỡi nàng công chúa nằm mê, mộng gì” lung linh trong đầu tôi. Thành phố  Praha nằm bên sông Vltava ở miền trung Bohemia, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Séc trong hơn 1000 năm, như tôi đã kể tại “Tiệp Khắc đất nước con người”

Tại Quảng trường Con Gà có cái đồng hồ cổ mỗi khi đánh chuông báo giờ, chú gà gáy lảnh lót từ tòa tháp cao nhất và những vị thần lần lượt diễu qua ô cửa nhỏ… Các du khách ai cũng thích thú nán lại chờ xem gà gáy và những vị thần diễu qua ô cửa nhỏ. Gần bảy trăm năm trôi qua mà chương trình của đồng hồ vẫn chính xác một cách tuyệt vời ! Cầu đi bộ Charles, hoàn thành năm 1402 rất nổi tiếng, nối đôi bờ sông Vltava ở trung tâm thủ đô Praha. Sông Vltava có chiều dài 430 km với diện tích lưu vực là 28.090 km² là sông dài nhất của Cộng hòa Séc, sông chảy theo hướng bắc từ đầu nguồn tại Šumava gần biên giới với Đức qua Český Krumlov, České Budějovice, và Praha, hợp lưu vào sông Elbe tại Mělník. Sông Vltava có 31 km chảy trong địa bàn của thành phố Praha với 18 cây cầu bắc ngang sông, trong đó cầu Charles là danh thắng số một về cầu nối đôi bờ thủ đô Praha.

Goethe vĩ nhân huyền thoại

Tôi gặp Goethe ở Kalovi Vary trong rừng thiêng cổ tích. Người đã viết nên kiệt tác Faust, Nỗi đau của chàng Werther, bộ sử thi huyền thoại ngợi ca con người, mãi mãi bền vững với thời gian.

Goethe là nhà thông thái thiên tài, nhà thơ văn, nhà khoa học, triết gia, viết kịch và họa sỹ người Đức. Goethe tuy sinh ra và lớn lên ở Frankfurt am Main, thành phố lớn thứ năm của Đức, nhưng ông đã sống ở Leipzig (thuộc Đức) Strasbourg (thuộc Pháp), và nơi tưởng niệm Goethe tại Tiệp Khắc có ở rất nhiều vùng . Danh tiếng của ông vang dội toàn châu Âu và Thế Giới. Viện Goethe hiện có phân viện tại 13 thành phố ở Đức và 128 thành phố ở nước ngoài.

Goethe là giáo sư đại học, bạn thân và quân sư của Quận công Charles Augustus xứ Saxe-Weimar trong Đế quốc La Mã Thần thánh.  Các tác phẩm của Goethe là kiệt tác của nhân loại. Ông viết những điều vượt lên lịch sử, khoa học, tôn giáo, không bị cuốn hút vào những tham vọng, khát khao quyền lực, những sự kiện nổi bật của thực tại mà hướng tới CON NGƯỜI với khát khao hiểu biết và ước mơ vượt lên nghịch cảnh số phận.

Hai tác phẩm nổi tiếng nhất của Goethe  là Faust và  Nỗi đau của chàng WertherFaust là tác phẩm thơ kịch văn xuôi độc đáo và tiêu biểu nhất của Goethe với 12.111 câu thơ thể tự do xen lẫn với văn xuôi, mở đầu là 32 câu thơ đề tặng, kế đến là 25 trường đoạn, thể hiện tâm trạng của Goethe cũng là  tâm trạng của thời đại. Cấu trúc và dịch lý tựa như kiệt tác Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm của Việt Nam

Faust I được Goethe sáng tác năm 1808, khi ông đang độ tuổi thanh xuân bế tắc và khao khát cống hiến,  với tâm trạng chán ghét muốn nổi loạn chống lại “sự cùng khổ Đức”. Đó là tâm trạng của các nhà văn và thế hệ thanh niên phong trào Bão táp và Xung kích. Goethe đặc biệt ngưỡng mộ vua nước Phổ là Friedrich II Đại Đế đã giành chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 – 1763). Goethe nung nấu viết được sử thi ghi lại những chuyển biến lớn của thời đại, làm quân sư chính đạo cho các quân vương và nhà lãnh đạo tài năng để thay đổi được thực trạng của nước Đức hiện thời. Ông viết:

“Vùng đất Đức, từ lâu đã bị ngoại bang vùi dập, bị các nước khác xâm chiếm,… nền thi ca Đức… thiếu niềm tự tôn của cả một dân tộc: chúng ta không hề thiếu tài năng. Lần đầu tiên thi ca Đức có được niềm tự hào thực sự, và tự hào hơn là nhờ Đức Vua Friedrich Đại Đế và những chiến công của Người trong cuộc Đại chiến Bảy năm. Tất cả mọi nền thi ca dân tộc đều mờ nhạt, càng mờ nhạt đi, nếu nó không dựa trên sự độc đáo nhân văn, không dựa trên những sự kiện gắn bó với nhân dân và những vị lãnh đạo xuất sắc của nước nó… Các vị vua phải được quan tâm trong chiến tranh và hiểm họa, trong những khi họ là những người đứng đầu mọi thứ, vì họ quyết định đến sự tồn vong của dân tộc và do đó họ sẽ được yêu thích hơn cả các vị Thần Thánh. Theo lối suy nghĩ này thì mỗi dân tộc vinh quang đều phải có một bộ sử thi… ” (Goethe).

Faust II gốm 5 hồi được Goethe bắt đầu khi ông đã năm mươi tuổi và hoàn thành ngày 22 tháng 7 năm 1831, một năm trước khi Goethe đi vào cõi vĩnh hằng lúc 82 tuổi. Faust II không còn là con người tuổi trẻ khát khao dấn thân nữa mà tuyển chọn những công việc rất hữu ích để giúp cho đời.

Faust đi từ một  nguyên mẫu dân gian Johannes Faust (hoặc Johann Faust, George Faust) là một nhân vật có thật, đặc biệt nổi tiếng ở vùng Đức Tiệp,  sống vào khoảng năm  1480 – 1541. Đó là một thầy thuốc, nhà chiêm tinh và “phù thủy” ảo thuật gia xuất chúng người Đức (ngôn từ để chỉ nhà khoa học tài năng có thể biến đá thành vàng). Trong thời kỳ kháng cách, chống mê tín dị đoan, cải cách tôn giáo thế kỷ 16 xuất hiện 68 giai thoại về nhân vật Faust được Johannes Spies ghi chép lại và từ đó lưu truyền trong dân gian về nhân vật này như một huyền thoại: người bán linh hồn cho quỷ dữ.

Sách truyện dân gian là một hình thức phổ biến của văn học châu Âu vùng  Bohemia thế kỷ 15-16. Những tác phẩm khuyết danh thường được in bằng giấy thông thường và bán rẻ nên lưu truyền khá phổ biến và rộng rãi trong công chúng. Nhân vật trong truyện dân gian thường thông minh, hóm hỉnh, nhiều yếu tố lạ, có hành động “kinh thiên động địa” trong những tình huống phức tạp, éo le… J.Spies cho xuất bản cuốn sách truyện dân gian về Faust năm 1587 cùng lời giải thích: Chuyện về Faust, kẻ làm quỷ thuật du đãng và là tên phù thuỷ. Hắn liên minh với quỷ sứ. Hắn phiêu lưu mạo hiểm. Và hắn phải nhận lấy số phận của mình. Kẻ không kính trọng thánh thần và là ví dụ khủng khiếp răn đe mọi người.

Faust trong dân gian là một học giả tài ba, sống nội tâm, ít chơi bời và không sa vào ham muốn quyền lực hoặc dục vọng như người đương thời mà khát khao kiến thức, hiểu biết, sống tự do phóng khoáng, không thích bị câu thúc, và chỉ chuyên giao du với những kẻ vô thần phù hợp với mình. Faust đã kết bạn với quỷ Mephisto ở dưới địa ngục và đã hiến linh hồn của mình cho quỷ để thỏa mãn ước mơ khám phá hiểu biết của mình. Kết cục Faust bị quỷ Mephisto hành hạ đọa đày đau khổ và máu óc Faust vung vãi khắp nơi nhưng quỷ dữ không thể nào khuất phục được Faust. Huyền thoại về  Faust với 68 câu chuyện đầy tính sử thi phiêu lưu mạo hiểm của một nhân vật có thật trong đời sống được công chúng hết sức ưa chuộng. Faust dám khát khao tự do, khám phá những bí mật của trời đất, xâm phạm đến sự thiêng liêng của thần thánh. Điều đó đã làm chất liệu nền, khơi nguồn cảm hứng cho Goethe ra đời kiệt tác Faust.

Goethe đã tìm thấy từ hình tượng nguyên mẫu của Faust trong dân gian, một khát vọng vô biên về sức mạnh sáng tạo và chinh phục của con người. Faust giống như Tôn Ngô Không của phương Đông, có thể lên thiên đường, xuống địa ngục,  trãi nhiều kiếp nạn nhưng cuối cùng đã tìm thấy chân lý “Chỉ những ai biết hăng say lao động, biết nổ lực chinh phục những đỉnh cao chí thiện thì mới xứng đáng được hưởng tự do và tình yêu cuộc sống.

Faust trong bí mật lâu đài cổ

Faust là hình bóng của Goethe trong kiệt tác ở quảng trường Old Town Square. Đó là  một con người chí thiện, yêu tự do, ước mơ hiểu biết. Kiệt tác Faust trong văn chương và kiệt tác Faust tại quảng trường Old Town Square đều rất nổi tiếng và bền vững với thời gian. Goethe đã dựng chân dung hình tượng Faust là một con người có tốt có xấu, có chính có tà, có thiện có ác, với những nỗ lực không ngừng vượt qua cám dỗ, dục vọng do sự tạo nghiệp của quỷ sứ Mephisto. Faust  là bài ca muôn thuở của tình yêu cuộc sống.

Faust trong văn chương của Goethe là tổng hòa của kịch, thơ, văn xuôi, tiên tri, dịch lý, là “kịch trong kịch” với nhiều tác phẩm nhỏ được lồng ghép nhau. Những đối thoại triết học thật sâu lắng và thích hợp cho những nhà nghiên cứu nhưng những hoạt cảnh ma quỷ và con người lại kích thích vùng tâm thức trẻ thơ của mỗi con người. Đọc Faust, ta hình dung như đọc Tây Du Ký, Sấm Trạng Trình, Truyên Kiều, Kiếm hiệp Kim Dung, …

G. Chonhio nhận xét  “lịch sử nhân loại được hồi sinh trọn vẹn theo từng bước chân của Faust”. Faust từ một nhân vật có thật đã trở thành hình tượng huyền thoại trong dân gian và với kiệt tác của Goethe đã thành bất tử với thời gian . Điều này cũng tương tự như Trận Xích Bích thời Tam Quốc là chất liệu cho thơ và từ của Tô Đông Pha nhưng chính Tiền Xích Bích Phú và Hậu Xích Bích Phú của Tô Đông Pha lại là pho sử thi lưu dấu vùng địa linh Xích Bích neo đậu vào tim óc người đọc của nhiều thế hệ.

Goethe đã đoạn tuyệt với các mô tả sáo mòn cổ điển, đẽo gọt những sự kiện vụn vặt và những thị hiếu bình thường để khắc họa rất sâu tâm trạng của chính thời đại ông đang sống, hướng tới tương lai. Goethe đã khai mở, tiếp hợp với  thời kỳ khai sáng và chủ nghĩa lãng mạn. Chính vì vậy, Goethe đã có ảnh hưởng đặc biệt to lớn đến nền văn chương thế giới, nổi bật nhất ở châu Âu và nước Mỹ. Tác phẩm của Goethe hiện vẫn là nguồn cảm hứng trong âm nhạc cổ điển Đức, kịch, thơ, và triết học. Kiệt tác văn chương của  Goethe bền vững với thời gian.

Old Town Square là quảng trường nổi tiếng của lâu đài cổ Praha.  Kalovy Vary là vùng suối nước nóng nổi tiếng ở cộng hòa Sec, nơi có khu nghỉ dưỡng spa và rừng cổ tích với thư viện Goethe. Cuộc đời tôi thật may khi được lạc vào cả hai nơi kỳ diệu này trong thế giới của Goethe, được “Dạo chơi cùng Goethe”, lắng Người kể chuyện sử thi  khai mở tâm thức.

Đêm thiêng, bình minh và ngày mới bắt đầu.

Hoàng Kim

(*) Ghi chú: Tiệp Khắc kỷ niệm một thời, tôi viết lần đầu ngày 28 tháng 9 năm 2015 và dự định viết một ghi chép sâu hơn về  Praha Goethe và lâu đài cổ để bình giải Nỗi đau của chàng Werther và vở kịch thơ Faust là hai kiệt tác văn chương nổi tiếng của đại văn hào Goethe, danh nhân văn hóa thế giới, bậc thầy triết học và văn hóa lừng lẫy nhất của dân tộc Đức, lưu dấu rất đậm nét ở Tiệp Khắc. Năm nay, tôi đã hiệu đính và bổ sung bài viết này để hiến tặng bạn đọc.

NẮNG ẤM TRỜI XANH ẤY
Hoàng Kim


Thoáng ý thơ hay ngày tiễn bạn
Mà nghe xao xuyến tưởng mình đi
Chao ơi nắng ấm trời xanh ấy
“Điểm hẹn” (*) làm ta ước trở về (**) …

(*) ĐIỂM HẸN
Hoàng Kim


Anh như chim ưng quay về tổ ấm
Vẫn khát bầu trời ước vọng bay lên
Ơi Bồng Lai cồn cào nỗi nhớ
Anh về bên này lại nhớ bên em.

(**) CHIA TAY
Nguyễn Dương


“Chia tay đâu phải không gặp nữa
Mà khói hoàng hôn cay mắt nhau
Mà chiều như rụng theo chân bước
Và nắng đường xa bỗng bạc màu …”

Praha Goethe và lâu đài cổ xem tiếp : Giấc mơ thiêng cùng Goethe

CHƯA QUÊN SƯƠNG MUỐI GIÓ MÙA
Trinh Đường

Gửi một người nhờ mua
sương mù biên giới
-Tặng HGC-

Em nhờ anh mua bao nhiêu sương mù
Một làn mỏng làm khăn quàng
Một thung lũng để em vào ở ẩn ?
Sương Núi Nùng thương thu
Sương Hồ Tây để hồn ai hoá bướm
Còn sương mù trên đây
Dày
Đặc
Mịt mùng
Như quanh ta bỗng kín cổng cao tường
Như bốn mặt đều thiên la địa võng
Như trái đất bỗng lọt vào quả bóng
Bồng bềnh trôi trong một cõi hỗn hoang
Sương chặn xe úa hết ánh đèn vàng
Cứ đông đặc một trời hoa tuyết xốp
Tưởng xắn được ra từng mảng một
Để đắp thành vô số núi chiêm bao !

Em muốn mù sương biên giới tỉnh nào ?
Lạng Sơn, Hà Giang… không đâu bán cả
Chỉ có bán nấm tai mèo, thảo quả
Trao cho nhau những núi hẹn, sông thề
Qua tiếng khèn làm mây nước đê mê
Qua quả còn giao duyên lễ hội…
Đành lấy hồn đựng sương mù biên giới
Gửi về em nỗi nhớ thương dài…
Hà Giang 31/12/1996

Nhà thơ Trinh Đường (1 1 1917- 28 9 2001) đã vĩnh viễn ra đi nhưng tình yêu của ông đối với thơ, những bài thơ ông viết và những gì ông đã làm để gìn giữ và tôn vinh nền thơ dân tộc Việt vẫn còn mãi trong lòng chúng ta.

Cảm ơn nhà thơ Hoàng Gia Cương thơ hiền theo dòng thời gian đã lắng đọng những điều sâu sắc. Xin chọn lưu bài thơ CHƯA QUÊN SƯƠNG MUỐI GIÓ MÙA của nhà thơ Trinh Đường cảm hứng nhân tứ thơ ” Chưa quên sương muối gió mùa Không đi nên gửi nhà thơ mua dùm” của nhà thơ Hoàng Gia Cương . Bài thơ “Người vịn trời chấp sói;” của Hoàng Kim ngày 28 tháng 9 là nhớ bạn đơn vị cũ và nhớ Trinh Đường.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Mênh mang một khúc sông Hồng
Huyền Thoại Hồ Núi Cốc
Một thoáng Tây Hồ
Trên đỉnh Phù Vân
Chảy đi sông ơi …

Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Chào ngày mới 28 tháng 9


DẠY VÀ HỌC 28 THÁNG 9
Hoàng Kim và Hoàng Long
CNM365 Tình yêu cuộc sống #vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói; Chín điều lành hạnh phúc; Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên; Ngày 28 tháng 9 năm 1928, Alexander Fleming nhận thấy một loại mốc diệt vi khuẩn phát triển trong phòng thí nghiệm của ông, thứ mà về sau được gọi là penicillin. Ngày 28 tháng 9 năm 1926, ngày sinh Nguyễn Cảnh Toàn, giáo sư toán học người Việt Nam (mất năm 2017), nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, thứ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam (1976-1989), phó Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam và Tổng biên tập tạp chí Toán học và Tuổi trẻ trong hơn 40 năm. Ông được báo chí trong nước đánh giá là một tấm gương tự học thành tài và có công lao trong việc đào tạo và xây dựng đội ngũ những giáo viên toán. Ngày 28 tháng 9 năm 1986, Đảng Dân chủ Tiến bộ Đài Loan tuyên bố thành lập tại Đài Bắc, là đảng đối lập đích thực đầu tiên tại Đài Loan. Bài chọn lọc ngày 28 tháng 9: Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín; Chuyện đồng dao cho em; Người vịn trời chấp sói; Praha Goethe và lâu đài cổ; Giấc mơ thiêng cùng Goethe; Văn chương ngọc cho đời; Ăn cháo nói càn khôn; Tự do ngời tâm đức; Người dĩ công vi thượng; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên;Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-28-thang-9/

SỰ THẬT TỐT HƠN NGÀN LỜI NÓI
Hoàng Kim

Việt Nam con đường xanh
Chung sức trên đường xuân
Lúa sắn Việt Nam bài học lớn
Sự thật tốt hơn ngàn lời nói

THẦY NGHỀ NÔNG CHIẾN SĨ
Hoàng Kim
kính tặng anh Trần Mạnh Báo

Bao nhiêu bạn cũ đã đi rồi
Nhớ để mà thương cố gắng thôi
Nhà khoa học xanh gương trung hiếu
Người thầy chiến sĩ đức hi sinh
Dưới đáy đại dương là ngọc quý
Trên đồng chữ nghĩa ấy tinh anh
Doanh nghiệp Thái Bình chăm việc thiện
Giống tốt bội thu vẹn nghĩa tình.

(*) Ảnh tư liệu chon lọc về anh Trần Mạnh Báo (từ 1 đến 8). Chúc mừng gạo Việt từ giống tốt đến thương hiệu (Hoàng Long 9). Con đường lúa gạo Việt Nam’ vươn tới muôn nơi  ‘Cơm ngon từ giống, gạo sạch từ tâm’

Xem tiếp: Thầy nghề nông chiến sĩ

CÓ MỘT NGÀY NHƯ THẾ
Hoàng Kim

Có một ngày như thế
Về với Trường thân yêu
Thầy bạn chung tiếp sức
Cùng nối dây cho diều.

Có một ngày như thế
Ngày Niềm vui đó em
Niềm tin và nghị lực
Em vượt lên chính mình.

Chùm ảnh Có một ngày như thế

Xem tiếp chùm ảnh Có một ngày như thế; Câu chuyện ảnh tháng Chín http://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-chuyen-anh-thang-chin

NGƯỜI VỊN TRỜI CHẤP SÓI
Hoang Kim

Hà Giang ơi Hà Giang ơi
Núi thẳm mờ sương thấu cửa trời
Nơi đâu bạn cũ (*) thành sương khói
Bồng bềnh mây trắng dốc chơi vơi.

Trời rất xanh và rừng rất sâu
Mèo Vạc xa kìa, Lũng Dẻ đâu
Nào hang Cắc Cớ nào Công Cốc
Núi Tản ngàn năm biếc một màu.

Phình ngán Phình ngán Ắt tắc tím
Bạn ra kéo mình ra búa
Trò chơi mê mãi suối bên mai
Người vịn trời xanh chấp sói rừng.

(*) Hoàng Kim ở E568 F325B sau này là nòng cốt của F356 nước mắt Vị Xuyên, chính ủy sư đoàn Phạm Hồng (Hải Dương) là người thân. Ngày về thăm nơi cũ Người vịn trời xanh chấp sói rừng

PRAHA GOETHE VÀ LÂU ĐÀI CỔ
Hoàng Kim


Lâu đài Praha là lâu đài cổ lớn nhất thế giới theo sách Kỷ lục Guinness. Ở đó có quảng trường Old Town Square là trung tâm trục lịch sử suốt nghìn năm với những tòa nhà cổ đầy màu sắc, các nhà thờ Gothic và đồng hồ thiên văn thời trung cổ. Lâu đài cổ Praha là nơi lưu dấu sử thi muôn đời của Gớt (Johann Wolfgang von Goethe 17491832), vĩ nhân khoa học nhân văn, nhà thông thái, đỉnh cao văn chương thế giới. Tôi may mắn được lạc vào thế giới của Goethe và được lắng nghe Người trò chuyện sử thi qua các trang sách kỳ thú.

Điều kỳ lạ với tôi là sau khi gặp Goethe và đọc tác phẩm của Người tại vùng đất thiêng Old Town Square và vùng suối nước nóng nổi tiếng Kalovy Vary nơi có khu nghĩ dưỡng spa và rừng cổ  thư viện Goethe, tôi ám ảnh đến lạ như bị thôi miên bởi một năng lượng quá mạnh mẽ. Tôi cũng ước ao hiểu biết và mong muốn dấn thân làm được những điều gì đó có ích cho đời. Tôi được phiêu lưu lên rừng xuống biển, đi được nhiều nơi khắp Á Âu Phi Mỹ mà người nhà với bạn bè nói vui là “có lộc và có may mắn xuất ngoại” bởi từ cậu bé chân đất làng Minh Lệ nghèo khó làm sao có được sự đổi đời này. Tôi được gặp Goethe nhiều lần sau đó, ở những địa điểm rất xa nhau, như ở Obragon (miền Tây nước Mỹ), CIMMYT (Mexico), FAO, Rome (Italiy), Ghent (Bỉ) Giấc mơ xanh, ước mơ xanh là bài học quý đầu đời. Goethe là người Thầy lớn của tôi.

Ngày 29 tháng 9 năm 1774 là ngày Johann Wolfgang von Goethe đã phát hành kiệt tác ‘Nỗi đau của chàng Werther’ mang lại cho Goethe danh tiếng quốc tế. Ngày 29 tháng 9 năm 1951 là ngày mất của tướng Nguyễn Bình, vị trung tướng và tư lệnh Nam Bộ Việt Nam (sinh năm 1906). Ngày 29 tháng 9 năm 1973 cũng là ngày mất của W. H. Auden là nhà thơ Mỹ gốc Anh (sinh năm 1907). Ông là một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ 20, người có sự ảnh hưởng rất lớn đến nền văn học Anh Mỹ.

“Praha Goethe và lâu đài cổ“ là phần hai của bài viết  “Tiệp Khắc kỷ niệm một thời”, tiếp nối  phần một “Tiệp Khắc đất nước con người”. Praha là thủ đô Cộng hòa Séc, trái tim văn hóa và học vấn châu Âu, nơi trung tâm thành phố được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới năm 1992, là “thành phố vàng” “thành phố một trăm ngọn tháp”. Goethe là nhà thông thái thiên tài, nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học, triết gia, nhà viết kịch và họa sỹ người Đức danh tiếng toàn châu Âu và Thế Giới với Viện Goethe hiện có phân viện tại 13 thành phố ở Đức và 128 thành phố nước ngoài nhưng lắng đọng về Người là tại cụm công trình di sản thế giới nêu trên với những câu chuyện huyền thoại kỳ lạ.

Praha thành phố vàng

Sang Tiệp, đến Praha, chúng tôi được ở  khu nhà dành cho sinh viên và thực tập sinh nước ngoài tại Trường Đại học Praha, nơi có khá nhiều thực tập sinh và sinh viên các nước Âu, Á, Phi, Mỹ đến học nơi xưa là Trường Đại Học Karlova  được thành lập từ năm 1348, trung tâm học vấn châu Âu. Trường Đại học Praha là niềm tự hào của thầy cô giáo trường này và cũng là niềm tự hào của đất nước Tiệp Khắc.

Chị Magdalena Buresova hướng dẫn chúng tôi đi dã ngoại ba tuần trước khi chúng tôi trở về Trường trình bày báo cáo “Thành tựu nghiên cứu phát triển đậu rồng và các cây họ đậu nhiệt đới hợp tác Việt Tiệp” trong một Seminar ở Khoa Cây trồng và được thông báo là có nhiều người quan tâm.

Điểm đến đầu tiên của chúng tôi là “Praha vàng”, lâu đài cổ thành Hradčanské, quảng trường Con Ngựa, quảng trường Con Gà (theo cách gọi của sinh viên Việt tại Tiệp) và vô vàn những điểm tham quan nối hai đầu của hai Quảng trường Museum và Můstek và cầu đi bộ Karl (Tiếng Tiệp gọi là Karlův, người Việt gọi là cầu Tình) bắc trên con sông Vltava đến khu lâu đài cổ.

Thủ đô Praha hiện có dân số khoảng 1,5 – 2,5 triệu người, GDP bình quân đầu người của Praha cao gấp đôi mức bình quân của Cộng hòa Séc và cao gấp rưởi (153%) mức  bình quân của Liên minh châu Âu.  Tôi thuở đến Tiệp Khắc học năm 1986 thì dân số Praha ước khoảng 1,2 triệu người và Praha trong mắt tôi thời ấy thật “xa hoa”, giống như câu nói lưu truyền dân gian “Muốn giàu đi Đức, tri thức đi Nga, xa hoa đi Tiệp”. Câu thơ của nhà thơ Tố Hữu trong “Nhật ký đường về” năm 1964: “Praha vàng tím chiều hè. Hỡi nàng công chúa nằm mê, mộng gì” lung linh trong đầu tôi. Thành phố  Praha nằm bên sông Vltava ở miền trung Bohemia, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Séc trong hơn 1000 năm, như tôi đã kể tại “Tiệp Khắc đất nước con người”

Tại Quảng trường Con Gà có cái đồng hồ cổ mỗi khi đánh chuông báo giờ, chú gà gáy lảnh lót từ tòa tháp cao nhất và những vị thần lần lượt diễu qua ô cửa nhỏ… Các du khách ai cũng thích thú nán lại chờ xem gà gáy và những vị thần diễu qua ô cửa nhỏ. Gần bảy trăm năm trôi qua mà chương trình của đồng hồ vẫn chính xác một cách tuyệt vời ! Cầu đi bộ Charles, hoàn thành năm 1402 rất nổi tiếng, nối đôi bờ sông Vltava ở trung tâm thủ đô Praha. Sông Vltava có chiều dài 430 km với diện tích lưu vực là 28.090 km² là sông dài nhất của Cộng hòa Séc, sông chảy theo hướng bắc từ đầu nguồn tại Šumava gần biên giới với Đức qua Český Krumlov, České Budějovice, và Praha, hợp lưu vào sông Elbe tại Mělník. Sông Vltava có 31 km chảy trong địa bàn của thành phố Praha với 18 cây cầu bắc ngang sông, trong đó cầu Charles là danh thắng số một về cầu nối đôi bờ thủ đô Praha.

Goethe vĩ nhân huyền thoại

Tôi gặp Goethe ở Kalovi Vary trong rừng thiêng cổ tích. Người đã viết nên kiệt tác Faust, Nỗi đau của chàng Werther, bộ sử thi huyền thoại ngợi ca con người, mãi mãi bền vững với thời gian.

Goethe là nhà thông thái thiên tài, nhà thơ văn, nhà khoa học, triết gia, viết kịch và họa sỹ người Đức. Goethe tuy sinh ra và lớn lên ở Frankfurt am Main, thành phố lớn thứ năm của Đức, nhưng ông đã sống ở Leipzig (thuộc Đức) Strasbourg (thuộc Pháp), và nơi tưởng niệm Goethe tại Tiệp Khắc có ở rất nhiều vùng . Danh tiếng của ông vang dội toàn châu Âu và Thế Giới. Viện Goethe hiện có phân viện tại 13 thành phố ở Đức và 128 thành phố ở nước ngoài.

Goethe là giáo sư đại học, bạn thân và quân sư của Quận công Charles Augustus xứ Saxe-Weimar trong Đế quốc La Mã Thần thánh.  Các tác phẩm của Goethe là kiệt tác của nhân loại. Ông viết những điều vượt lên lịch sử, khoa học, tôn giáo, không bị cuốn hút vào những tham vọng, khát khao quyền lực, những sự kiện nổi bật của thực tại mà hướng tới CON NGƯỜI với khát khao hiểu biết và ước mơ vượt lên nghịch cảnh số phận.

Hai tác phẩm nổi tiếng nhất của Goethe  là Faust và  Nỗi đau của chàng WertherFaust là tác phẩm thơ kịch văn xuôi độc đáo và tiêu biểu nhất của Goethe với 12.111 câu thơ thể tự do xen lẫn với văn xuôi, mở đầu là 32 câu thơ đề tặng, kế đến là 25 trường đoạn, thể hiện tâm trạng của Goethe cũng là  tâm trạng của thời đại. Cấu trúc và dịch lý tựa như kiệt tác Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm của Việt Nam

Faust I được Goethe sáng tác năm 1808, khi ông đang độ tuổi thanh xuân bế tắc và khao khát cống hiến,  với tâm trạng chán ghét muốn nổi loạn chống lại “sự cùng khổ Đức”. Đó là tâm trạng của các nhà văn và thế hệ thanh niên phong trào Bão táp và Xung kích. Goethe đặc biệt ngưỡng mộ vua nước Phổ là Friedrich II Đại Đế đã giành chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 – 1763). Goethe nung nấu viết được sử thi ghi lại những chuyển biến lớn của thời đại, làm quân sư chính đạo cho các quân vương và nhà lãnh đạo tài năng để thay đổi được thực trạng của nước Đức hiện thời. Ông viết:

“Vùng đất Đức, từ lâu đã bị ngoại bang vùi dập, bị các nước khác xâm chiếm,… nền thi ca Đức… thiếu niềm tự tôn của cả một dân tộc: chúng ta không hề thiếu tài năng. Lần đầu tiên thi ca Đức có được niềm tự hào thực sự, và tự hào hơn là nhờ Đức Vua Friedrich Đại Đế và những chiến công của Người trong cuộc Đại chiến Bảy năm. Tất cả mọi nền thi ca dân tộc đều mờ nhạt, càng mờ nhạt đi, nếu nó không dựa trên sự độc đáo nhân văn, không dựa trên những sự kiện gắn bó với nhân dân và những vị lãnh đạo xuất sắc của nước nó… Các vị vua phải được quan tâm trong chiến tranh và hiểm họa, trong những khi họ là những người đứng đầu mọi thứ, vì họ quyết định đến sự tồn vong của dân tộc và do đó họ sẽ được yêu thích hơn cả các vị Thần Thánh. Theo lối suy nghĩ này thì mỗi dân tộc vinh quang đều phải có một bộ sử thi… ” (Goethe).

Faust II gốm 5 hồi được Goethe bắt đầu khi ông đã năm mươi tuổi và hoàn thành ngày 22 tháng 7 năm 1831, một năm trước khi Goethe đi vào cõi vĩnh hằng lúc 82 tuổi. Faust II không còn là con người tuổi trẻ khát khao dấn thân nữa mà tuyển chọn những công việc rất hữu ích để giúp cho đời.

Faust đi từ một  nguyên mẫu dân gian Johannes Faust (hoặc Johann Faust, George Faust) là một nhân vật có thật, đặc biệt nổi tiếng ở vùng Đức Tiệp,  sống vào khoảng năm  1480 – 1541. Đó là một thầy thuốc, nhà chiêm tinh và “phù thủy” ảo thuật gia xuất chúng người Đức (ngôn từ để chỉ nhà khoa học tài năng có thể biến đá thành vàng). Trong thời kỳ kháng cách, chống mê tín dị đoan, cải cách tôn giáo thế kỷ 16 xuất hiện 68 giai thoại về nhân vật Faust được Johannes Spies ghi chép lại và từ đó lưu truyền trong dân gian về nhân vật này như một huyền thoại: người bán linh hồn cho quỷ dữ.

Sách truyện dân gian là một hình thức phổ biến của văn học châu Âu vùng  Bohemia thế kỷ 15-16. Những tác phẩm khuyết danh thường được in bằng giấy thông thường và bán rẻ nên lưu truyền khá phổ biến và rộng rãi trong công chúng. Nhân vật trong truyện dân gian thường thông minh, hóm hỉnh, nhiều yếu tố lạ, có hành động “kinh thiên động địa” trong những tình huống phức tạp, éo le… J.Spies cho xuất bản cuốn sách truyện dân gian về Faust năm 1587 cùng lời giải thích: Chuyện về Faust, kẻ làm quỷ thuật du đãng và là tên phù thuỷ. Hắn liên minh với quỷ sứ. Hắn phiêu lưu mạo hiểm. Và hắn phải nhận lấy số phận của mình. Kẻ không kính trọng thánh thần và là ví dụ khủng khiếp răn đe mọi người.

Faust trong dân gian là một học giả tài ba, sống nội tâm, ít chơi bời và không sa vào ham muốn quyền lực hoặc dục vọng như người đương thời mà khát khao kiến thức, hiểu biết, sống tự do phóng khoáng, không thích bị câu thúc, và chỉ chuyên giao du với những kẻ vô thần phù hợp với mình. Faust đã kết bạn với quỷ Mephisto ở dưới địa ngục và đã hiến linh hồn của mình cho quỷ để thỏa mãn ước mơ khám phá hiểu biết của mình. Kết cục Faust bị quỷ Mephisto hành hạ đọa đày đau khổ và máu óc Faust vung vãi khắp nơi nhưng quỷ dữ không thể nào khuất phục được Faust. Huyền thoại về  Faust với 68 câu chuyện đầy tính sử thi phiêu lưu mạo hiểm của một nhân vật có thật trong đời sống được công chúng hết sức ưa chuộng. Faust dám khát khao tự do, khám phá những bí mật của trời đất, xâm phạm đến sự thiêng liêng của thần thánh. Điều đó đã làm chất liệu nền, khơi nguồn cảm hứng cho Goethe ra đời kiệt tác Faust.

Goethe đã tìm thấy từ hình tượng nguyên mẫu của Faust trong dân gian, một khát vọng vô biên về sức mạnh sáng tạo và chinh phục của con người. Faust giống như Tôn Ngô Không của phương Đông, có thể lên thiên đường, xuống địa ngục,  trãi nhiều kiếp nạn nhưng cuối cùng đã tìm thấy chân lý “Chỉ những ai biết hăng say lao động, biết nổ lực chinh phục những đỉnh cao chí thiện thì mới xứng đáng được hưởng tự do và tình yêu cuộc sống.

Faust trong bí mật lâu đài cổ

Faust là hình bóng của Goethe trong kiệt tác ở quảng trường Old Town Square. Đó là  một con người chí thiện, yêu tự do, ước mơ hiểu biết. Kiệt tác Faust trong văn chương và kiệt tác Faust tại quảng trường Old Town Square đều rất nổi tiếng và bền vững với thời gian. Goethe đã dựng chân dung hình tượng Faust là một con người có tốt có xấu, có chính có tà, có thiện có ác, với những nỗ lực không ngừng vượt qua cám dỗ, dục vọng do sự tạo nghiệp của quỷ sứ Mephisto. Faust  là bài ca muôn thuở của tình yêu cuộc sống.

Faust trong văn chương của Goethe là tổng hòa của kịch, thơ, văn xuôi, tiên tri, dịch lý, là “kịch trong kịch” với nhiều tác phẩm nhỏ được lồng ghép nhau. Những đối thoại triết học thật sâu lắng và thích hợp cho những nhà nghiên cứu nhưng những hoạt cảnh ma quỷ và con người lại kích thích vùng tâm thức trẻ thơ của mỗi con người. Đọc Faust, ta hình dung như đọc Tây Du Ký, Sấm Trạng Trình, Truyên Kiều, Kiếm hiệp Kim Dung, …

G. Chonhio nhận xét  “lịch sử nhân loại được hồi sinh trọn vẹn theo từng bước chân của Faust”. Faust từ một nhân vật có thật đã trở thành hình tượng huyền thoại trong dân gian và với kiệt tác của Goethe đã thành bất tử với thời gian . Điều này cũng tương tự như Trận Xích Bích thời Tam Quốc là chất liệu cho thơ và từ của Tô Đông Pha nhưng chính Tiền Xích Bích Phú và Hậu Xích Bích Phú của Tô Đông Pha lại là pho sử thi lưu dấu vùng địa linh Xích Bích neo đậu vào tim óc người đọc của nhiều thế hệ.

Goethe đã đoạn tuyệt với các mô tả sáo mòn cổ điển, đẽo gọt những sự kiện vụn vặt và những thị hiếu bình thường để khắc họa rất sâu tâm trạng của chính thời đại ông đang sống, hướng tới tương lai. Goethe đã khai mở, tiếp hợp với  thời kỳ khai sáng và chủ nghĩa lãng mạn. Chính vì vậy, Goethe đã có ảnh hưởng đặc biệt to lớn đến nền văn chương thế giới, nổi bật nhất ở châu Âu và nước Mỹ. Tác phẩm của Goethe hiện vẫn là nguồn cảm hứng trong âm nhạc cổ điển Đức, kịch, thơ, và triết học. Kiệt tác văn chương của  Goethe bền vững với thời gian.

Old Town Square là quảng trường nổi tiếng của lâu đài cổ Praha.  Kalovy Vary là vùng suối nước nóng nổi tiếng ở cộng hòa Sec, nơi có khu nghỉ dưỡng spa và rừng cổ tích với thư viện Goethe. Cuộc đời tôi thật may khi được lạc vào cả hai nơi kỳ diệu này trong thế giới của Goethe, được “Dạo chơi cùng Goethe”, lắng Người kể chuyện sử thi  khai mở tâm thức.

Đêm thiêng, bình minh và ngày mới bắt đầu.

Hoàng Kim

(*) Ghi chú: Tiệp Khắc kỷ niệm một thời, tôi viết lần đầu ngày 28 tháng 9 năm 2015 và dự định viết một ghi chép sâu hơn về  Praha Goethe và lâu đài cổ để bình giải Nỗi đau của chàng Werther và vở kịch thơ Faust là hai kiệt tác văn chương nổi tiếng của đại văn hào Goethe, danh nhân văn hóa thế giới, bậc thầy triết học và văn hóa lừng lẫy nhất của dân tộc Đức, lưu dấu rất đậm nét ở Tiệp Khắc. Năm nay, tôi đã hiệu đính và bổ sung bài viết này để hiến tặng bạn đọc.

NẮNG ẤM TRỜI XANH ẤY
Hoàng Kim


Thoáng ý thơ hay ngày tiễn bạn
Mà nghe xao xuyến tưởng mình đi
Chao ơi nắng ấm trời xanh ấy
“Điểm hẹn” (*) làm ta ước trở về (**) …

(*) ĐIỂM HẸN
Hoàng Kim


Anh như chim ưng quay về tổ ấm
Vẫn khát bầu trời ước vọng bay lên
Ơi Bồng Lai cồn cào nỗi nhớ
Anh về bên này lại nhớ bên em.

(**) CHIA TAY
Nguyễn Dương


“Chia tay đâu phải không gặp nữa
Mà khói hoàng hôn cay mắt nhau
Mà chiều như rụng theo chân bước
Và nắng đường xa bỗng bạc màu …”

Praha Goethe và lâu đài cổ xem tiếp : Giấc mơ thiêng cùng Goethe

CHƯA QUÊN SƯƠNG MUỐI GIÓ MÙA
Trinh Đường

Gửi một người nhờ mua
sương mù biên giới
-Tặng HGC-

Em nhờ anh mua bao nhiêu sương mù
Một làn mỏng làm khăn quàng
Một thung lũng để em vào ở ẩn ?
Sương Núi Nùng thương thu
Sương Hồ Tây để hồn ai hoá bướm
Còn sương mù trên đây
Dày
Đặc
Mịt mùng
Như quanh ta bỗng kín cổng cao tường
Như bốn mặt đều thiên la địa võng
Như trái đất bỗng lọt vào quả bóng
Bồng bềnh trôi trong một cõi hỗn hoang
Sương chặn xe úa hết ánh đèn vàng
Cứ đông đặc một trời hoa tuyết xốp
Tưởng xắn được ra từng mảng một
Để đắp thành vô số núi chiêm bao !

Em muốn mù sương biên giới tỉnh nào ?
Lạng Sơn, Hà Giang… không đâu bán cả
Chỉ có bán nấm tai mèo, thảo quả
Trao cho nhau những núi hẹn, sông thề
Qua tiếng khèn làm mây nước đê mê
Qua quả còn giao duyên lễ hội…
Đành lấy hồn đựng sương mù biên giới
Gửi về em nỗi nhớ thương dài…
Hà Giang 31/12/1996

Nhà thơ Trinh Đường (1 1 1917- 28 9 2001) đã vĩnh viễn ra đi nhưng tình yêu của ông đối với thơ, những bài thơ ông viết và những gì ông đã làm để gìn giữ và tôn vinh nền thơ dân tộc Việt vẫn còn mãi trong lòng chúng ta.

Cảm ơn nhà thơ Hoàng Gia Cương thơ hiền theo dòng thời gian đã lắng đọng những điều sâu sắc. Xin chọn lưu bài thơ CHƯA QUÊN SƯƠNG MUỐI GIÓ MÙA của nhà thơ Trinh Đường cảm hứng nhân tứ thơ ” Chưa quên sương muối gió mùa Không đi nên gửi nhà thơ mua dùm” của nhà thơ Hoàng Gia Cương . Bài thơ “Người vịn trời chấp sói;” của Hoàng Kim ngày 28 tháng 9 là nhớ bạn đơn vị cũ và nhớ Trinh Đường.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Mênh mang một khúc sông Hồng
Huyền Thoại Hồ Núi Cốc
Một thoáng Tây Hồ
Trên đỉnh Phù Vân
Chảy đi sông ơi …

Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

#cnm365 #cltvn 27 tháng 9


#CNM365 #CLTVN 27 THÁNG 9
Hoàng Kim và Hoàng Long
CNM365 Tình yêu cuộc sống #vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên; Ngày 27 tháng 9 năm 1821 Quốc khánh Mexico giành được độc lập từ Tây Ban Nha. Ngày 27 tháng 9 năm 1905, Albert Einstein định rõ phương trình E=mc² trong bài luận “Quán tính của một vật có tùy theo nội dung Năng lượng?” xuất bản trên Tạp chí Vật lý học Annalen der Physik. Ngày 27 tháng 9 năm 1949 Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xác định Mao Trạch Đông làm Chủ tịch chính phủ Nhân dân Trung ương, Chu Ân Lai làm Tổng lý Chính vụ Viện,  quốc kỳ là Ngũ tinh Hồng kỳ, Quốc ca là Nghĩa dũng quân tiến hành khúc tại Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc. Bài chọn lọc ngày 27 tháng 9 #vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay;:Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-27-thang-9/

ĐI NHƯ MỘT DÒNG SÔNG
Hoàng Kim


Hoàng Kim ở CIMMYT 1988 trong bài viết Đi như một dòng sông là những ký ức vụn kể về Con đường di sản LewisClark của Châu Mỹ chuyện không quên. Tôi đã viết Kim Notes lắng ghi chú kể về Làng Minh Lệ quê tôi; Hoành Sơn và Linh Giang; Linh Giang sông quê hương; Linh Giang Đình Minh Lệ; Đá Đứng chốn sông thiêng; Nguồn Son nối Phong Nha; Quê Mẹ vùng di sản;. Tôi xa quê từ nhỏ. Quê hương nơi sinh thành thường là bài học lón nhất đời người nhưng tôi vì hoàn cảnh xa quê nên hiểu quê hương có giới hạn mà thường ấn tượng về mười hai bến nước của chiếc lá trôi dạt do vận mệnh. Mỗi dân tộc và mỗi con người đều có vận mệnh của riêng mình, bằng cách tin sâu vào luật nhân quả, thực hành chí thiện để tương lai cuộc đời được tốt hơn. Đi để hiểu quê hương.

Đi như một dòng sông là bài học kinh nghiệm khởi nghiệp của tôi kể lại cho người thân và thầy bạn quý. Tôi đặc biệt dành tặng cho các bạn trẻ đang tìm kiếm sự kết nối Học để Làm (Learning to Doing) và để Dạy hiệu qủa. Tôi tâm đắc lời Bác về triết lý giáo dục “Ngủ thì ai cũng như lương thiện. Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền. Hiền dữ phải đâu là tính sằn. Phần nhiều do giáo dục mà nên. Học không bao giờ muộn. Học lắng nghe cuộc sống. Sự chậm rãi minh triết; Vui bước tới thảnh thơi. Bài viết này được trích từ phần đầu của Thầy bạn là lộc xuân với phần giữa Dạy và học ngày nay và phần cuối Con đường di sản LewisClark của Châu Mỹ chuyện không quên . Đó là thu hoạch của tôi trà sớm với thầy bạn

TỪ CẬU BÉ LÀNG MINH LỆ

Quê tôi ở miền Trung nghèo khó “Nhà mình gần ngã ba sông/ Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình,/ Linh Giang sông núi hữu tình / Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con/ Chèo thuyền cho khuất bến Son/ Để con khỏi chộ (thấy) nước non thêm buồn/ Câu thơ quặn thắt đời con/ Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ”. Tôi xa quê từ nhỏ. Mười tuổi mồ côi mẹ, Mười bốn tuổi cha chết do bom Mỹ giết hại.Tôi với chị gái Hoàng Thị Huyền ở với anh trai Hoàng Ngọc Dộ trong nhà hầm của lớp học ở làng Phù Lưu để học cấp ba Bắc Quảng Trạch. Anh trai tôi dạy cấp một, giáo viên khẩu phần ăn 13 ký lương thực mỗi tháng, trong đó có 70% là khoai sắn. Anh vì nuôi hai em thay cha mẹ mất nên khẩu phần ăn ấy chia cho ba người ăn. Đói. Gia đình tôi năm năm đã ăn ngày một bữa. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh đứng khóc trên bục giảng vận động thầy cô, bạn hữu chia sớt khoai sắn giúp đỡ. Tôi cũng dạy năm lớp vở lòng, ba lớp bổ túc văn hóa và cùng anh cuốc đất tăng gia để vượt khó vươn lên. Thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết những lời xúc động trong Bài ca Trường Quảng Trạch trường ca tình thầy trò: “Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất. Lại cha già giặc giết hôm qua. Tình thầy, tình bạn, tình cha. Ấy là ân nghĩa thiết tha mặn nồng” (9)  Những gương mặt thầy bạn đã trở thành máu thịt trong đời tôi.

Thi đậu vào Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc năm 1970, tôi học Trồng trọt 4 cùng khóa với các bạn Trần Văn Minh, Đỗ Thị Minh Huệ, Phan Thanh Kiếm, Đỗ Khắc Thịnh, Vũ Mạnh Hải, Phạm Sĩ Tân, Phạm Huy Trung, Lê Xuân Đính, Nguyễn Hữu Bình, Lê Huy Bá … cho đến ngày 02 tháng 9 năm 1971 thì tôi gia nhập quân đội cùng lứa với Nguyễn Văn Thạc. Đợt tuyển quân sinh viên trong ngày độc lập đã nói lên sự quyết liệt sinh tử và ý nghĩa thiêng liêng của ngày cầm súng. Chiến trường đánh lớn. Đơn vị chúng tôi chỉ huấn luyện rất ngắn rồi vào trận ngay với 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn. Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 sau này đã đi vào huyền thoại: “Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm” Tổ chúng tôi bốn người thì Xuân và Chương hi sinh, chỉ Trung và tôi trở về trường sau ngày đất nước thống nhất.  Những vần thơ viết dưới đây là xúc động sâu xa của tôi khi nghĩ về bạn học đồng đội đã khuất: “Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh

Tôi về học tiếp năm thứ hai tại Trồng trọt 10 của Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc đến cuối năm 1977 thì chuyển trường vào Đại học Nông nghiệp 4, tiền thân Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trồng trọt 2 thuở đó là một lớp chung mãi cuối khóa mới tách ra 2A,2B, 2C. Tôi làm Chủ tịch Hội Sinh viên thay cho anh Nguyễn Anh Tuấn khoa thủy sản ra trường về dạy Đại học Cần Thơ. Trồng trọt khóa hai chúng tôi thuở đó được học với các thầy cô: Nguyễn Đăng Long, Tô Phúc Tường, Nguyễn Tâm Đài, Trịnh Xuân Vũ, Lê Văn Thượng, Ngô Kế Sương, Trần Thạnh, Lê Minh Triết, Phạm Kiến Nghiệp, Nguyễn Bá Khương, Nguyễn Tâm Thu, Nguyễn Bích Liễu, Trần Như Nguyện, Trần Nữ Thanh, Vũ Mỹ Liên, Từ Bích Thủy, Huỳnh Thị Lệ Nguyên, Trần Thị Kiếm, Vũ Thị Chỉnh, Ngô Thị Sáu, Huỳnh Trung Phu, Phan Gia Tân, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Kế, … Ngoài ra còn có nhiều thầy cô hướng dẫn thực hành, thực tập, kỹ thuật phòng thí nghiệm, chủ nhiệm lớp như Bùi Cách Tuyến, Nguyễn Văn Kịp, Lê Quang Hưng, Trương Đình Khôi, Nguyễn Ngọc Châu, Nguyễn Gia Quốc, Nguyễn Văn Biền, Lê Huy Bá, Hoàng Quý Châu, Phạm Lệ Hòa, Đinh Ngọc Loan, Chung Anh Tú và cô Thảo làm thư ký văn phòng Khoa. Bác Năm Quỳnh là Bí thư Đảng ủy đầu tiên của Trường sau đó là thầy Kiên và cô Bạch Trà. Thầy Nguyễn Phan là Hiệu trưởng kiêm Trưởng Trại Thực nghiệm. Thầy Dương Thanh Liêm, Nguyễn Ngọc Tuân, Võ Thị Tuyết, Ngô Văn Mận, Bùi Xuân An … ở khoa Chăn nuôi Thú y, thầy Nguyển Yên Khâu, Nguyễn Quang Lộc … ở khoa Cơ khí, cô Nguyễn Thị Sâm ở Phòng Tổ chức, cô Văn Thị Bạch Mai dạy tiếng Anh, thầy Đặng, thầy Tuyển, thầy Châu ở Kinh tế -Mác Lê …Thầy Trần Thạnh, anh Quang, anh Đính, anh Đống ở trại Trường là những người đã gần gũi và giúp đỡ nhiều các lớp nông học.

Thay ban trong doi toi 1b

Thuở đó đời sống thầy cô và sinh viên thật thiếu thốn. Các lớp Trồng trọt khóa 1, khóa 2, khóa 3 chúng tôi thường hoạt động chung như: thực hành sản xuất ở trại lúa Cát Lái, giúp dân phòng trừ rầy nâu, điều tra nông nghiệp, trồng cây dầu che mát sân trường, rèn nghề ở trại thực nghiệm, huấn luyện quốc phòng toàn dân, tập thể dục sáng, hội diễn văn nghệ, thi đấu bóng chuyền, bóng đá tạo nên sự thân tình gắn bó. Những sinh viên các khóa đầu tiên được đào tạo ở Khoa Nông học sau ngày Việt Nam thống nhất hiện đang công tác tại trường có các thầy cô như  Từ Thị Mỹ Thuận, Lê Văn Dũ, Huỳnh Hồng, Cao Xuân Tài, Phan Văn Tự, …

Tháng 5 năm 1981, nhóm sinh viên của khoa Nông học đã bảo vệ thành công đề tài thu thập và tuyển chọn được các giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu, Gạo, Bí Đà Lạt được Bộ Nông nghiệp công nhận giống ở Hội nghị Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Toàn Quốc Lần thứ Nhất tổ chức tại Thành phố Hố Chí Minh. Đây là một trong những kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đầu tiên của Trường giới thiệu cho sản xuất. Thầy Cô Khoa Nông học và hai lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 cũng đã làm họ trai họ gái tác thành đám cưới cho vợ chồng tôi. Sau này, chúng tôi lấy tên khoai Hoàng Long để đặt cho con và thầm hứa việc tiếp nối sự nghiệp nghiên cứu khoa học và giảng dạy, một nghề nghiệp cao quý và lương thiện. “Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền. Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó. Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ. Có bạn thầy càng bền chí vươn lên. Trước mỗi khó khăn tập thể luôn bên. Chia ngọt xẻ bùi động viên tiếp sức. Thân thiết yêu thương như là ruột thịt. Ta tự nhủ lòng cần cố gắng hơn

tt2-1

Bạn học chúng tôi vẫn thỉnh thoảng họp mặt, có danh sách các lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 số điện thoại và địa chỉ liên lạc. Một số hình ảnh của các lớp ngày ấy và bây giờ lắng đọng sâu sắc trong lòng tôi.

TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA TÔI

Đi như một dòng sông; Đi để hiểu quê hương Đời người gồm chuỗi hệ thống Học, Làm, Dạy, Nhàn, Viết. là năm quá trình kế tiếp nhau, đan xen nhau, hỗ trợ nhau, trộn vào nhau. CNM365 Tình yêu cuộc sống là kinh nghiệm đời người lặp lại mỗi năm.Tôi tâm đắc Tôn tử thiên IV chọn lại từ đứcTrần Hưng Đạo, Lời dặn của Thánh Trần; Biết mình và biết người; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhânNgười đánh giỏi trước làm thế địch không thể thắng để đợi thế địch mà mình có thể thắng. Tiết chế ở mình mà thôi.” Câu thoại cổ trí tuệ nhân loại chọn lại từ Lev Tonstoy và Paulo Coelho “Sống có nghĩa là thay đổi, và các mùa lặp lại những bài học này cho chúng ta mỗi năm. Thay đổi và đổi mới là quy luật của cuộc sống“. (Living means changing, and the seasons repeat these lessons to us every year Change and renewal are the laws of life) Thăm nhà cũ của Darwin thích đôi mắt Darwin soi thấu nguồn gốc các loài: “Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất hay thông minh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất” “It is not the strongest of the species that survives, nor the most intelligent that survives. It is the one that is most adaptable to change”

SỰ HỌC khởi đầu từ lúc con người sinh ra cho đến khi có VIỆC LÀM để mưu sinh, để lao động, để cống hiến, để không còn làm người ăn bám sống trên mồ hôi thành quả của người khác, để biến cái sở trường thành hữu dụng. Đó là sự học chân chính, học để làm. Sự học tốt nhất là tự học suốt đời và sự học hữu dụng nhất, hiệu quả nhất là học làm người có ích. Học để làm tốt một nghề.

VIỆC LÀM VÀ VIỆC DẠY dường như chiếm một nữa đời người khi một phần tư đời người cho tuổi thơ và sự học, Dẫu sự học tốt nhất là tự học suốt đời nhưng thật xấu hổ nếu không biết làm và dạy. Học làm người có ích là có tâm huyết, chuyên nghiệp và kỹ năng học làm người có ích. Có người giảng dạy và việc làm tách riêng , làm thành thạo trước và trao truyền sau nhưng có nhiều người việc làm và việc dạy kết rất nhuyễn, Cha mẹ là thầy cô đầu đời của con.

AN NHÀN VÔ SỰ VÀ VIẾT. Nhàn và viết là lắng đọng di sản. An nhàn vô sự và viết dường như chiếm một phần tư đời người sau cùng. Phúc cho ai hưởng nhàn và đọng lại di sản. Minh triết sống phúc hậu là bài học quý, Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.

CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN

Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.

“Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.

Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. Lời Thầy dặn thung dung.

Châu Mỹ chuyện không quên

Niềm tin và nghị lực
Về lại mái trường xưa
Hưng Lộc nôi yêu thương
Năm tháng ở trời Âu

Vòng qua Tây Bán Cầu
CIMMYT tươi rói kỷ niệm
Mexico ấn tượng lắng đọng
Lời Thầy dặn không quên

Ấn tượng Borlaug và Hemingway
Con đường di sản Lewis Clark
Sóng yêu thương vỗ mãi
Đối thoại nền văn hóa

Truyện George Washington
Minh triết Thomas Jefferson
Mark Twain nhà văn Mỹ
Đi để hiểu quê hương

500 năm nông nghiệp Brazil
Ngọc lục bảo Paulo Coelho
Rio phố núi và biển
Kiệt tác của tâm hồn

Giấc mơ thiêng cùng Goethe
Chuyện Henry Ford lên Trời
Bài đồng dao huyền thoại
Bảo tồn và phát triển

Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt Nam và Howeler
Một ngày với Hernán Ceballos
CIAT Colombia thật ấn tượng
Martin Fregene xa mà gần

Châu Mỹ chuyện không quên
CIP Peru và khoai Việt
Nam Mỹ trong mắt tôi
Nhiều bạn tôi ở đấy

Machu Picchu di sản thế giới
Mark Zuckerberg và Facebook
Lời vàng Albert Einstein
Bill Gates học để làm

Thomas Edison một huyền thoại
Toni Morrison nhà văn Mỹ
Walt Disney bạn trẻ thơ
Lúa Việt tới Châu Mỹ.

Thầy tôi Norman Borlaug  trao đổi với tôi thật nhiều câu chuyệnThomas Jefferson (1743 – 1826) là Nhà tư tưởng sáng lập nước Mỹ, với Lewis & Clark cuộc thám hiểm miền Tây nước Mỹ. Đó là một ví dụ điển hình về tầm nhìn và dự án khoa học thành công. Con đường di sản Lewis và Clark lắng đọng trong tôi thật sâu Chuyện bây giờ mới kể …

Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark đã được khởi sự vào ngày 14 tháng 5 năm 1804 và kết thúc cuối năm 1806. Đây là cuộc thám hiểm trên bộ đầu tiên của người Mỹ đến những tiểu bang duyên hải cận tây nhất của nước Mỹ và ngược lại. Miền Tây nước Mỹ là vùng đất nhiều thổ dân da đỏ sinh sống khoảng 10 ngàn năm trước đó, và thuở ấy miền Tây nước Mỹ có sự hiện diện của những cư dân mới là người thám hiểm và định cư thuộc các nước Tây Ban Nha, Anh, México, Nga và Mỹ. Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã kiến nghị Quốc hội Mỹ phê chuẩn đầu tư cho chuyến khảo sát đường bộ của cuộc thám hiểm của Lewis và Clark cùng cộng sự. Trong một lá thư đề ngày 20 tháng 6 năm 1803, Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã viết cho Lewis. “Mục tiêu sứ mạng của anh là thám hiểm Sông Missouri và dòng suối chính của nó qua dòng chảy và sự liên thông của nó với các bộ phận nước khác của Thái Bình Dương để xem Sông Columbia, Xứ Oregon, Colorado hay bất cứ con sông nào có thể cung cấp một sự liên thông mặt nước thực tiễn và trực tiếp nhất ngang qua lục địa này để giúp cho những mục đích thương mại“.

Thầy tôi trong buổi trò chuyện của mình đã khoanh vào các chỉ dấu Thomas Jefferson Lewis & Clark thành những điểm chính nhấn mạnh cho các lời diễn đạt của mình


Trong chuyến khảo sát CIANO, OREGON của Miền Tây Mexico và nước Mỹ năm 1989 sau 186 năm từ chuyến thám hiểm miền Tây nước Mỹ của Lewis & Clark và cộng sự, tôi nhớ đinh ninh lời Thầy dặn, thật ấn tượng và thấm thía khi viết bài thơ cảm khái:

ĐI KHẮP QUÊ NGƯỜI ĐỂ HIỂU ĐẤT QUÊ HƯƠNG

Tạm biệt Oregon !
Tạm biệt Obregon California !
Cánh bay đưa ta về CIMMYT
Bầu trời xanh bát ngát
Lững lờ mây trắng bay
Những ngọn núi cao nhấp nhô
Những dòng sông dài uốn khúc
Hồ lớn Ciudad Obregon
ba tỷ khối nước

Nở xòe như chùm pháo bông
Những cánh đồng mênh mông
Thành trăm hình thù dưới làn mây bạc
Con đường dài đưa ta đi
Suốt dọc từ Nam chí Bắc
Thành sợi chỉ màu chạy mút tầm xa…

Ơi vòm trời xanh bao la
Gọi lòng ta nhớ về Tổ Quốc
Ôi Việt Nam, Việt Nam
Một vùng nhớ trong lòng ta tỉnh thức
Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương.

Hoàng Kim

Sáu tháng ở CIMMYT với tôi là một câu chuyện ám ảnh. Tôi như cậu bé chăn cừu mà Paulo Coelho kể trong kiệt tác của tâm hồn Nhà Giả Kim (O Alquimista) mà tôi đã viết ở Ngọc lục bảo Paulo Coelho, cũng giống như cô bé Quách Tương tại tiểu thuyết ‘Thần điêu đại hiệp’ của Kim Dung đi vào thế giới bí ẩn của riêng mình với khát khao tìm kiếm

Thầy Norman Borlaug là nhà khoa học xanh sống nhân đạo, và nêu gương tốt. Thầy là nhà nông học Mỹ cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong  cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống.Câu chuyện về Người tôi đã kể vắn tắt tại Norman Borlaug di sản, niềm tin và nổ lực


Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29.8.1988. Thầy đã một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày cha mất. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch, Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy.

Người Thầy của tôi đã chọn chỉ cho tôi chỉ dấu Thomas Jefferson đã viết tự truyện của riêng mình để nói ít nhất trong lịch sử nước Mỹ nhưng để lại di sản lớn bằng cách chọn nhấn mạnh các mục từ khi bắt đầu và kết thúc sự nghiệp công cộng lâu dài của mình.

Lời Thầy dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm tiếng để đời”.


Tôi nghĩ ngợi nhiều về miền Tây của Mexico và nước Mỹ xưa và nay. Ở đó cũng có những cây xương rồng và những vùng đất cằn cỗi.


Miền Tây của Mexico, CIANO và vùng OREGON của Miền Tây nước Mỹ cũng đồi núi trập trùng hệt Việt Nam và biên độ nóng bức và giá lạnh thật lớn, dân cư thưa thớt với nhiều người dân bản địa.

Chúng tôi đến CIANO và đi dọc miền Tây mà không đi ngang nước Mỹ như Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark. CIANO là địa chỉ xanh tuyệt vời để tôi hiểu thế nào là một trạm trại nông nghiệp thực sự.


Khu văn phòng của trại thực nghiệm CIANO không lớn nhưng thực sự tiện nghi và hiệu quả và đồng ruộng nghiên cứu thí nghiệm thì được đầu tư và quản lý thật tuyệt vời.


Cánh đồng lúa mì thí nghiệm thực nghiệm tại CIANO thực sự cuốn hút. Đoàn chúng tôi ngày đi tham quan học tập. Buổi chiều sau khi ăn tối tôi lại mê mãi ghi chép,đọc và viết.
Bài học mà thầy Norman Borlaug chỉ dấu với tôi về Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark thật thú vị.

Chuyến khảo sát của Lewis và Clark trong hai năm rưỡi đã đạt được thành tựu:

  • Hoa Kỳ hiểu biết rộng thêm về địa lý của phía miền tây nước Mỹ trong hình thức các bản đồ về các con sông và dãy núi chính.
  • Quan sát và mô tả 178 loài thực vật và 122 loài động vật (qua Danh sách của loài thực động vật được mô tả qua chuyến thám hiểm Lewis và Clark)
  • Khuyến khích giao thương da thú Âu-Mỹ tại miền Tây
  • Mở rộng quan hệ ngoại giao Âu-Mỹ với người bản thổ Mỹ
  • Thiết lập một tiền lệ cho việc thám hiểm miền Tây của Quân đội Hoa Kỳ
  • Củng cố tuyên bố chủ quyền của Hoa Kỳ đối với Lãnh thổ Oregon
  • Tập trung sự chú ý của truyền thông và của Hoa Kỳ vào miền Tây
  • Nhật ký của Lewis và Clark với các trang viết về họ đã hình thành một bộ văn chương lớn nói về miền Tây.

Lời Thầy dặnCon đường di sản Lewis và Clark, với tôi là bài học tuyệt vời.

MEXICO ẤN TƯỢNG LẮNG ĐỌNG

Tìm hiểu đất nước và con người Mexico, chúng ta tìm về bốn câu hỏi là bốn yếu tố chính: Đất nước (đất đai và thức ăn); Con người (tộc người, ngôn ngữ, văn hóa); Môi trường sống (khí hậu, danh thắng, vấn đề chung); Chế độ và  Kinh tế hiện trạng. “Đất nước Mexico ấn tượng lắng đọng”  là phần hai của bài viết “Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương” tiếp theo phần một “Con đường di sản Lewis và Clark“.
Hợp chúng quốc Mê-hi-cô gọi tắt Mexico là một nước cộng hòa liên bang ở Bắc Mỹ có diện tích gần 2 triệu km², xếp thứ 14 trên thế giới và dân số khoảng 123,16 triệu người, xếp thứ 12 trên thế giới, so Việt Nam dân số khoảng 95,26 triệu người, xếp thứ 15, số liệu ước lượng tháng 7 năm 2016 theo The World Factbook. México là nước nói tiếng Tây Ban Nha nhiều nhất ở châu Mỹ và Thế giới. Đất nước này bị đô hộ bởi  thực dân Tây Ban Nha từ thế kỷ thứ 16 và được công nhận là một quốc gia độc lập chính thức năm 1821. Mexico có 31 bang và thành phố thủ đô Mê-hi-cô thuộc liên bang là một trong những khu đô thị đông dân nhất thế giới.

México có tên gọi bắt nguồn từ tên kinh đô cổ của dân tộc Mexica, nền văn minh Aztec trong lịch sử. Theo kinh thư Mendoza là một cuốn sách kể về lịch sử của người Aztec và ngày nay xuất hiện trên quốc kỳ và quốc huy của México, có một vị thần đã chỉ cho người dân của bộ tộc này địa điểm xây dựng kinh đô tại nơi có một con đại bàng mang trong miệng một con rắn và đậu xuống cành cây xương rồng ở địa điểm gần hồ Texcoco. Nơi đây sau đó, người Aztec đã xây dựng nên một thành phố rộng lớn, đó là Trung tâm lịch sử của thành phố México ngày nay (hình trên), di sản thế giới được UNESCO công nhận năm 1987. Ngôn ngữ chính thức của México là tiếng Tây Ban Nha và 62 ngôn ngữ bản địa được quyền bình đẳng theo hiến pháp. Tại Mexico có số lượng người nói tiếng Tây Ban Nha cao nhất thế giới. Mexico xếp vào châu Mỹ latinh dù Mexico ở Bắc Mỹ, lý do chủ yếu bởi yếu tố ngôn ngữ, văn hóa, tộc người, và lịch sử. Nếu như tiếng Anh là ngôn ngữ chính ở nước Mỹ, tiếng Bồ Đào Nha là ngôn ngữ chính ở Brazil , tiếng Pháp và tiếng Anh là ngôn ngữ chính ở Canada thì ở hầu hết các nước Nam Mỹ và vùng Caribe đều sử dụng tiếng Tây Ban Nha làm ngôn ngữ chính. Nói cách khác, tiếng Tây Ban Nha là thông dụng nhất của phần lớn các nước châu Mỹ Latinh. Tại Mexico, tôn giáo chính là Công giáo Roma chiếm khoảng 87,9% theo điều tra nhân khẩu năm 2000, mặc dù số lượng người đi lễ nhà thờ hàng tuần chỉ khoảng 46%;  người dân México theo đạo Tin lành ít hơn với khoảng 5,2%, số còn lại theo một số tôn giáo khác.

Đất nước México là nơi ra đời hai nền văn minh lớn của châu Mỹ là Aztec và Maya.  Mexico có thiên nhiên đa dạng và nền văn hóa đa sắc tộc, có lẽ đặc sắc nhất châu Mỹ của sự giao thoa nhiều nền văn hóa mà chủ đạo là nền văn hóa bản địa truyền thống đã biến đổi với nền văn hóa Tây Ban Nha đã Mỹ Latinh hóa. Sự pha trộn với khối văn hóa Mỹ Anh , Brazil Bồ Đào Nha, Canada Pháp ngữ đã làm cho México là ột quốc gia là một quốc gia đa chủng tộc sử dụng như ngôn ngữ ở đất nước Thuy Sĩ mà người dân ở đó có thể hiểu dễ dàng ba đến bốn thứ tiếng. Nhóm sắc tộc chiếm tỉ lệ cao nhất tại México là người lai giữa người da trắng và người da đỏ ước tính từ 60-75%. Nhóm sắc tộc chiếm tỉ lệ 12 – 30% dân số là  người da đỏ bản địa.  Nhóm sắc tộc chiếm tỉ lệ 9 – 25 % là người da trắng đến từ Tây Ban Nha, Mỹ, Canada, Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Đức,  Ba Lan,  Nga,…, người da vàng đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Philippines, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ … và người da đen đến từ châu Phi với tỷ lệ ít hơn.

Đất nước México địa hình chủ yếu là đồi núi và hệ thống khí hậu quá đa dạng, nên việc đầu tư sản xuất thâm canh quy mô lớn ở México khó hơn nhiều so với nước Mỹ, Canada và Nam Mỹ. Người México bản địa bữa ăn truyền thống chủ yếu ngô làm lương thực chính, kết hợp với các loài rau đậu, ớt, cà chua, lúa mì. México là nơi ra đời có nhiều loại bánh ngô có nhân thịt hoặc trộn rau, bánh ngô phomat, bánh ngô cay, thực phẩm đồ uống phổ biến là sữa ngô và rượu tequila được chế từ lá cây Agave Azul Tequilana, một loài thực vật bản địa ở Mexico, có độ cồn từ 38–40%, cá biệt có loại có độ cồn lên tới 43–46%. Ngày nay việc sử dụng gạo cũng rất phổ biến tai México để làm lương thực, ngoài ra còn có thịt bò, thịt lợn, thịt gà, rượu nho, tỏi,  đu đủ, dứa, ớt cay, khoai lang, đậu, lạc, chocolate …Con người mang ẩm thực quê hương mình đi khắp hành tinh nên một đất nước đa sắc tộc như Mexico có nền ẩm thực rất đa dạng. México cũng có thị trường âm nhạc lớn nhất châu Mỹ Latinh và xuất khẩu âm nhạc rộng khắp Trung Mỹ, Nam Mỹ, châu Âu (đặc biệt là Tây Ban Nha) và nhiều nước trên thế giới .

México hiện nay là nền kinh tế lớn thứ 11 trên thế giới và có thu nhập bình quân đầu người thuộc nhóm trung bình cao. Kinh tế México có mối liên hệ chặt chẽ với Canada và Mỹ nhờ Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ. México là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế khác như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới và có vai trò quan trọng trong khu vực Mỹ Latinh, là nước Mỹ Latinh duy nhất nằm trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế.  Vấn nạn chủ yếu của México là sự phân hóa giàu nghèo, tỷ lệ nghèo đói cao, bất bình đẳng thu nhập, tình trạng bạo lực, buôn bán ma túy phổ biến tại nhiều vùng, sự khủng hoảng trong quan hệ ngoại giao giữa México với các nước tham gia khai thác tài nguyên tại đây, sự di cư rất cao từ nước Mexico sang Mỹ vì chênh lệch nhiều về đời sống.

Danh sách di sản thế giới tại Mexico có tổng cộng 34 di sản được UNESCO công nhận, trong đó có 27 di sản văn hóa, 6 di sản tự nhiên và 1 di sản hỗn hợp.

Chùm ảnh dưới đây là những là một thoáng Mexico nhớ lại và suy ngẫm.

Teotihuacan disanthegioi Mexico
Ấn tượng hơn cả là Teotihuacan thành phố thời tiền Colombo, di sản thế giới 1987, ở México.

Monte Alban kimtuthap Mexico
Monte Alban kim tự tháp cổ trung tâm của nền văn minh Zapotec,  di sản thế giới năm 1987 ở tiểu bang Oaxaca  phía nam Mexico.

ĐỐI THOẠI NỀN VĂN HÓA
Hoàng Kim


Cảm ơn tác giả Nguyễn Thị Bích Hậu và sự chia sẻ của Vien Tran, một bài nghiên cứu văn hóa giáo dục và phân tích nghiêm túc. Xã hội cần những hiền tài trong chấn hưng đất nước, nhưng cần thực sự hiểu biết chọn lọc tinh hoa và sự thích hợp, thổi vào những môn học cấp bách, cần thiết , tẻ nhạt với ước vọng và niềm đam mê,

“Hơn nữa việc truyền cảm hứng từ thành tích của một kỳ thi học thuật thì nó cũng hạn chế trong cộng đồng các tín đồ của môn đó thôi vì có phải ai cũng yêu Toán hay Lý, Hóa, Sinh gì đâu. Nhưng thành tựu thể thao hay nghệ thuật thì lại được vinh danh ác liệt. Là vì những môn này phổ biến ai chả thích nên họ quan tâm. Và các ngôi sao thể thao hay nghệ thuật có thể hành nghề ngay từ rất sớm và mau chóng lên đài vinh quang của nghề đó nếu có tài và đủ sự khổ luyện. Và hơn nữa những tài năng này thường mau chóng bị đào thải do các điều kiện cần và đủ ở nhiều môn chính là trẻ và khỏe. Nhưng dù như vậy, các tài năng Toán học hay bất cứ môn khoa học nào tại Mỹ sau này rất giỏi và họ sẽ trở thành các nhà khoa học, các nhà phát minh sáng chế tuyệt vời cho thế giới. Đó là vì họ thực sự yêu thích và hơn cả yêu thích là đam mê cháy bỏng môn mà họ theo đuổi. Họ cũng biết rằng vinh quang của khoa học cần phải trả giá bằng sự nghiêm túc tìm tòi, khám phá, học hỏi nhiều năm. Họ không phải là gà chọi mà là tinh hoa của nước Mỹ. Đào tạo tài năng kiểu gà chọi chỉ có ích cho việc tự sướng, còn sau này sẽ làm thui chột tài năng và thậm chí tạo ra những con người sống dở chết dở vì bị thổi phồng quá mức từ khi còn nhỏ và mắc kẹt trong cái bẫy của danh vọng hão huyền”. (Nguyễn Thị Bích Hậu) .

Cái kết thật hợp lý ! Xin phép được chia sẻ. Tôi may mắn được trãi nghiệm CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN và đã được KHAI TRÍ bằng chính điều này (ảnh) “Đó là vì họ thực sự yêu thích và hơn cả yêu thích là đam mê cháy bỏng môn mà họ theo đuổi. Họ cũng biết rằng vinh quang của khoa học cần phải trả giá bằng sự nghiêm túc tìm tòi, khám phá, học hỏi nhiều năm.” (Nguyễn Thị Bích Hậu). “Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu hiểu bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.”Học để làm (Learning by Doing/ Learning to Doing). Học để sử dụng được thành thạo chuyên nghiệp sở học thành hữu dụng, hữu ích cho nhân dân đất nước mình và chính bản thân mình”. (Hoàng Kim).

Tài liệu dẫn

Đào tạo tài năng kiểu gà chọi sẽ làm thui chột tài năng
Nguyễn Thị Bích Hậu


Đào tạo tài năng kiểu gà chọi chỉ có ích cho việc tự sướng, còn sau này sẽ làm thui chột tài năng và thậm chí tạo ra những con người sống dở chết dở vì bị thổi phồng quá mức từ khi còn nhỏ và mắc kẹt trong cái bẫy của danh vọng hão huyền.

Trong khi Việt Nam ( hạng 17 toàn đoàn) rầm rộ trên báo chí đăng tin hàng loạt về thành tích của đội tuyển Olympic Toán thì đội tuyển Mỹ ( hạng 3 toàn đoàn năm nay) chả có 1 dòng nào trên báo và cũng chả có hình ảnh gì luôn. Mà có hạng 1 thì cũng vậy nốt.

Leo lên Gúc gồ tìm thì thấy năm nào vinh dự lắm, đứng hạng 1 toàn đoàn thì đội tuyển Mỹ được một bài nhỏ tí kèm ảnh trên website của Hội Toán học Mỹ và may ra thêm 1 bài trên website của trường Carnegie Mellon là mừng hú.

Còn không thì chìm nghỉm. Mặc dù Mỹ nhiều năm nay hạng toàn đoàn đứng 1 ,2,3 và cùng lắm là 4. Đi thi chỉ có 6 bạn thì 5 bạn lãnh huy chương vàng còn 1 thì huy chương bạc, đại khái vậy.

Ra đường hỏi dân hay học sinh coi học sinh Mỹ nào lãnh huy chương vàng Toán hay bất cứ môn nào khác năm nay thì coi chừng toi đặc. Vì đảm bảo là hỏng ai bít là chính. Vì báo chí không đưa tin và thật sự trừ một ít người quan tâm thì tìm hiểu tí, còn lại chả ma nào quan tâm.

Thay vào đó chỉ cần hỏi tên cầu thủ bóng chày, bóng bầu dục hay bóng rổ hay ca sĩ trẻ nào lãnh thành tích cao nhất năm nay thì sẽ có cả núi người nói ro ro.

Mà nhìn vào đội tuyển Toán của Mỹ đi thi Olympic quốc tế dưới đây ( năm 2019, 2018 và 2015) có thể thấy giống như đội tuyển nước Á châu nào đó. Bởi toàn là mặt Á châu. Thực ra đều là người gốc Á quốc tịch Mỹ là chính, và chủ yếu là gốc Tàu và gốc Ấn rất giỏi và thông minh.

Cũng có 1 huấn luyện viên là phó giáo sư tại đại học Carnegie Mellon. Mà ông này dựa theo tên thì gốc Sing và xa xôi hơn nữa thì chắc là gốc Tàu qua Sing ở mà gia đình đã ở Mỹ và có quốc tịch Mỹ từ nhỏ. Po-Shen Loh là tên ổng ( trong hình). Ông này từng đoạt Huy chương Bạc Olympic Toán năm 1999. Yêu Toán và tốt nghiệp hạng xuất sắc tại CalTech danh giá, sau đó là nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Princeton rồi qua dạy tại Carnegie Mellon.

Cách chọn học sinh vào đội tuyển đại khái là dễ ẹc. Học sinh Mỹ muốn tham gia các kỳ thi toán giỏi ( hay bất cứ kỳ thi học sinh giỏi môn gì) thì cứ việc đăng ký với Hiệp hội quốc gia Mỹ của môn đó cũng là nhà tổ chức qua mạng và tìm coi nơi nào thi gần nhà mình nhất thì phi tới, nạp vài chục usd lệ phí là xong.

Thi hết vòng này qua vòng khác thoải mái, miễn đậu thì vào vòng trong. Không có đội tuyển đội tiếc gì và chả có ma nào luyện chưởng. Ông nào thích thì bò ra mà học toán. Nếu cần thì đăng ký tham gia vào các chương trình sinh hoạt của cộng đồng yêu Toán của Hội Toán học Mỹ, đại loại nạp phí hội viên thì sẽ đi sinh hoạt chung hay hội thảo, và nhận các tài liệu chuyên về Toán để ngâm cú và tán dóc với nhau về Toán.

Khi nào thi vào vòng cuối thì sẽ chọn ra tùy năm chừng vài chục bạn có thành tích cao nhất tham dự trại hè MAA’s Mathematical Olympiad Summer của Hội Toán học Mỹ vào tháng 6 hàng năm. Đại loại để cho nó có tính quốc tế thì thường có 70 học sinh tham gia, trong đó ngoài học sinh Mỹ thì mời cả học sinh giỏi Toán của 10 nước khác tới. Các bạn này sẽ cùng nhau ăn chơi nhảy múa trong cái trại đó kèm theo học và giải Toán rồi trao đổi và tranh luận, thi thố cho vui. Trại hè mà. Như vậy thì học sinh vừa được học vừa được chơi vừa được học hỏi từ các bạn giỏi Toán nhất nước Mỹ và thế giới. Trại này cũng thường chỉ diễn ra 2-3 tuần thôi. Tiền bạc thì không mất vì được tài trợ.

Rồi hết trại hè chọn ra chừng 6 bạn đi thi. Túm lại 6 bạn này sẽ là những người giỏi nhất. Mà tiêu chí của giỏi nhất ở đây không phải là gà chọi đã được vỗ nhiều năm và tung vào sới chọi chết thôi như kiểu ta. 6 bạn này là những người thông minh và đam mê Toán nhất. Do chủ yếu là tự học nên sức bật và khả năng tự khám phá, tự ngâm cú của các bạn này là cực kỳ cao cường. Thành ra năm nào đi thi chủ yếu là gặt huy chương vàng, buồn buồn lãnh thêm 1 cái huy chương bạc.

Vậy mà về nước ngoài gia đình cha mẹ và 1 ít người thân quen thì chả ma nào đón rước. Và cũng chả báo chí nào thèm tới quay phim chụp hình lăng xê gì ráo. Mà các cháu này cũng không thấy buồn bã gì vì thi Olympic thì cũng chỉ là 1 kỳ thi năng khiếu thôi có gì ghê gớm đâu. Muốn là nhà toán học hay nhà khoa học gì đó còn phải lao động cật lực vài chục năm nữa.Trường trung học của Vịt Bầu và Chim Sẻ nhà mình ở Mỹ có 1 đội tuyển thể thao năm nào cũng hạng 1 toàn Mỹ. Khi mà vô địch xong thì cả trường dàn quân ra từ trong ra tận cổng hân hoan chào đón, phụ huynh nở mày nở mặt sướng lắm. Nhưng mà học sinh nào thi đậu các giải Toán Lý Hóa gì đó thì may ra được đưa lên FB của trường là vinh dự lắm rồi.

Vì sao vậy? Vì Mỹ họ quan niệm rằng thành tựu của học thuật thật ra chỉ có thể vinh danh sau nhiều năm miệt mài khám phá, nghiên cứu, sáng tạo. Đại khái như là giải Nobel. Còn nếu chỉ dừng lại tại 1 kỳ thi quốc tế kể cả danh giá như Olympic thì cũng chỉ là bước khởi đầu. Hơn nữa việc truyền cảm hứng từ thành tích của một kỳ thi học thuật thì nó cũng hạn chế trong cộng đồng các tín đồ của môn đó thôi vì có phải ai cũng yêu Toán hay Lý, Hóa, Sinh gì đâu.

Nhưng thành tựu thể thao hay nghệ thuật thì lại được vinh danh ác liệt. Là vì những môn này phổ biến ai chả thích nên họ quan tâm. Và các ngôi sao thể thao hay nghệ thuật có thể hành nghề ngay từ rất sớm và mau chóng lên đài vinh quang của nghề đó nếu có tài và đủ sự khổ luyện. Và hơn nữa những tài năng này thường mau chóng bị đào thải do các điều kiện cần và đủ ở nhiều môn chính là trẻ và khỏe.

Nhưng dù như vậy, các tài năng Toán học hay bất cứ môn khoa học nào tại Mỹ sau này rất giỏi và họ sẽ trở thành các nhà khoa học, các nhà phát minh sáng chế tuyệt vời cho thế giới. Đó là vì họ thực sự yêu thích và hơn cả yêu thích là đam mê cháy bỏng môn mà họ theo đuổi. Họ cũng biết rằng vinh quang của khoa học cần phải trả giá bằng sự nghiêm túc tìm tòi, khám phá, học hỏi nhiều năm. Họ không phải là gà chọi mà là tinh hoa của nước Mỹ.

Đào tạo tài năng kiểu gà chọi chỉ có ích cho việc tự sướng, còn sau này sẽ làm thui chột tài năng và thậm chí tạo ra những con người sống dở chết dở vì bị thổi phồng quá mức từ khi còn nhỏ và mắc kẹt trong cái bẫy của danh vọng hão huyền.

Nguyễn Thị Bích Hậu
— với Trúc Mai và 19 người khác.

ĐỐI THOẠI NỀN VĂN HÓA
Hoàng Kim

Bài học cuộc sống quý giá là sự thấu hiểu và đối thọại giữa các nền văn hóa. Văn hóa là những gì lắng đọng khi ta đã quên đi tất cả. Tôi kể về một lớp học đã theo tôi suốt bao năm. Lớp học đa sắc tộc. Triết luận Goethe, Jefferson, Borlaug và Hemingway lắng đọng thật sâu sắc trong lòng tôi. Sử thi “Faust” kiệt tác văn chương thế giới của Goeth lưu dấu di sản khoa học nhân văn ở nhiều nơi trên thế giới. Thomas Jefferson, tác giả của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, của Đạo Luật Virginia về Tự Do Tôn Giáo và Người Cha của Đại Học Virginia’ đủ đọng mật cho một thế giới biến chuyển. Norman Borlaug nhà khoa học xanh ‘cứu sống nhiều người hơn bất cứ ai khác trong lịch sử’. Hemingway “Ông già và biển cả” là bài học tự do niềm vui sáng tạo giúp ta trở về với Ngày xuân đọc Trạng Trình; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Tô Đông Pha Tây Hồ

“Đối thoại nền văn hóa’ là phần ba, tiếp theo phần một “Con đường di sản LewisClark“; phần hai “Mexico ấn tượng lắng đọng” của bài viết “Đi như một dòng sông” và Châu Mỹ chuyện không quênTừ cậu bé chân đất Làng Minh Lệ đi ra thế giới, tôi nhớ không quên lời dạy đầu đời của cha tôi, người bị bom Mỹ giết ngày 29 tháng 8 âm lịch năm 1968, “Con Kim. Cu khi mô cũng nhớ con cả. Con học với Thầy phải biết kính thầy, lễ phép để cho thầy thương, chơi với bạn phải biết nhường bạn để cho bạn mến, làm việc gì cũng phải biết tự ý cẩn thận lời nói và việc làm, không bị người ta xui (dại). Bốn ý đó con phải nhớ nha con. Khai tâm là lời cha mẹ thầy anh chị thuở đầu đời nhưng khai trí lại học được ở trường đời “Đi như một dòng sông” mà thu hoạch được nhiều nhất chính ở bến sông này Châu Mỹ chuyện không quên mà tôi đã đúc kết được trên 36 đường link “Đối thoại nền văn hóa cho tự học của chính mình và hiến tặng bạn đọc.

ĐỐI THOẠI VĂN HÓA LỚP HỌC

Tiến sĩ Hannibal Multar, người Do Thái quê gốc Jerusalem, nay định cư ở Mỹ, Trưởng Chương trình Đào tạo của CIMMYT, thầy giáo chủ nhiệm lớp chúng tôi, trong bữa cơm chiêu đãi đầu tiên tại thủ đô Mexico thành phố di sản thế giới 1987, ngay câu đầu tiên sau khi giới thiệu về mình, đã quay sang hỏi tôi:  Kim ‘bạn tôi”. Lớp mình đủ năm châu. Bạn là người Việt Nam duy nhất của châu Á tại đây. Làm ơn hãy cho tôi biết, bạn muốn học gì ? Tôi bình tĩnh và lém lĩnh trả lời: “Chào thầy và các bạn.Tôi muốn ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’ như câu tục ngữ Việt Nam quê tôi. Trước hết, tôi muốn thân thiết học và hành với thầy bạn để thấu hiểu và đối thoại giữa các nền văn hóa. Thứ hai, tôi muốn trau dồi tiếng Anh vì đây là cơ hội tuyệt vời cho tôi để nghe, đọc, viết và nói tiếng Anh hàng ngày. Thứ ba, tôi muốn học cách quản lý Trung tâm Trạm trại Nông nghiệp chuyên cây trồng như CIMMYT, học cách chọn giống ngô và kỹ thuật thâm canh ngô thích hợp bền vững, cách làm cho người dân Việt Nam trồng ngô đạt năng suất cao,  thu nhập và đời sống tốt hơn”. Thầy bạn cùng cười: “Nói hay lắm!”.

Doithoaigiuacacnenvanhoa3

Sau này khi về Việt Nam, tôi có giữ lưu bút thầy bạn trong đó có thư này của thầy Hannibal Multar. Nội dung bức thư như sau: “Kim “bạn của tôi”. Tôi chỉ muốn nói một vài từ để bày tỏ sự đánh giá chân thành và niềm vui của tôi khi gặp bạn. Tôi cũng tự hào khi biết bạn trong vòng năm, sáu tháng này. Gia đình bạn đang nhớ bạn nhưng chúng tôi đã được rất nhiều bởi sự hiện diện của bạn với chúng tôi ở đây. Bạn gọi tôi là giáo sư bởi vì tôi đã dạy bạn về cách quản lý trạm trại nông nghiệp, nhưng thực ra tôi đã học được từ bạn rất nhiều. Tôi thấy bạn nổ lực và kiên trì học ngôn ngữ. Tôi đã nhìn thấy tác phẩm nghệ thuật đẹp và thơ của bạn. Sự thành thạo chuyên môn mà bạn phải đối mặt với nhiệm vụ của mình ở đây là một thành viên trong đội ngũ tuyệt vời. Tôi sẽ luôn nhớ bạn, bạn của tôi. Hãy giữ liên lạc và cho tôi biết nếu tôi có thể giúp đỡ bằng bất kỳ cách nào. Gửi lời chào thân thiết của tôi  đến gia đình tốt của bạn. Bạn thân. Hannibal Multar.

(To Kim “my friend”. I just want to say a few word to express to my sincere appreciation and joy for having met you. I am also proud to have known you over these five-  six months. Your family have missed you but we gained a lot by your presence with us here. You call me professor because I taught  you about station management, but rest assured that I have learned a lot from you. I saw you struggle and persevere in language. I have seen your beautiful art work and also your poetry. The professional adtitude you faced your duties here in being such a gracious team member. I shall alway remember you, my friend. Please keep in touch  and let me know if I can be of help in any ways. My best personal regards to your good family. Your friend. Hannibal Multar).

Doithoaigiuacacnenvanhoa21

GIẤC MƠ THIÊNG CÙNG GOETHE

Tượng Goethe có ở vườn danh nhân Đại học Tự trị Quốc gia México (Universidad Nacional Autónoma de México, tên viết tắt UNAM) là di sản thế giới năm 2007, trường đại học lớn nhất ở khu vực Mỹ Latinh nằm tại thành phố thủ đô México.Tiến sĩ Hannibal Multar thầy giáo chuyên gia huấn luyện quản lý trung tâm, trạm trại thí nghiệm nông nghiệp CIMMYT hướng dẫn tôi tham quan nơi này cũng như nhiều di sản thế giới khác mà tôi đã kể câu chuyện Mexico ấn tượng lắng đọng

Goethe

Goethe trong lòng tôi là nhà khoa học xanh sinh học và nhà thơ kể chuyện sử thi hay nhất thế gian. Tôi thuở nhỏ đã ngưỡng mộ Người qua câu thơ do Xuân Diệu dịch: “Mọi lý thuyết đều là màu xám, chỉ có cây đời mãi mãi tươi xanh”.

Lần trước, khi tôi đến Praha,  tôi đã gặp Goethe hóa thân thành “nhà phù thủy” là kiệt tác sử thi giữa quảng trường Old Town Square tại lâu đài cổ thành Hradčanské “Praha vàng”, quảng trường Con Ngưa, quảng trường Con Gà (theo cách gọi của sinh viên Việt Tiệp). Lâu đài Praha là lâu đài cổ lớn nhất thế giới theo sách Kỷ lục Guinness, với quảng trường Old Town Square, trung tâm trục lịch sử suốt nghìn năm, những tòa nhà cổ đầy màu sắc, với các nhà thờ Gothic và đồng hồ thiên văn thời trung cổ. Tôi cũng được gặp Goethe trên tượng đá danh nhân trên cầu đi bộ Karl (Tiếng Tiệp gọi là Karlův, người Việt gọi là cầu Tình) nối hai đầu Quảng trường Museum và Můstek  bắc trên con sông Vltava đến khu lâu đài cổ. Và sau cùng trong đêm thánh vô cùng tại rừng thiêng cổ tích Kalovi Vary, tôi đã may mắn có giấc mơ thiêng dạo chơi cùng Goethe. Câu chuyện dài này tôi đã kể trong Praha Goethe và lâu đài cổ

Lần này, khi tôi đến Mexico,  số phận lại cho tôi được gặp Goethe hóa thân trong tượng đá “vườn danh nhân” cùng kiệt tác sử thi Teotihuacan thành phố thời tiền Colombo, di sản thế giới 1987 ở México và Monte Alban kim tự tháp cổ trung tâm của nền văn minh Zapotec,  di sản thế giới năm 1987 ở tiểu bang Oaxaca  phía nam Mexico thì Trường Đại học Tự trị Quốc gia México (Universidad Nacional Autónoma de México,  UNAM) cũng là di sản thế giới năm 2007. UNAM được thành lập vào ngày 22 tháng 9 năm 1910 bởi Justo Sierra như là một thay thế cho Hoàng gia và Đại học Giáo hoàng México (thành lập vào ngày 21 tháng 9 năm 1551 bởi sắc lệnh hoàng gia của Karl V của đế quốc La Mã Thần thánh . Goethe giữa những chứng tích của nền văn minh Aztec và Maya “người tiền sử bản địa da đỏ” hóa đá sử thi 8.000 – 10.000 năm tuổi thì tư duy trí tuệ của nhà thông thái thiên tài, nhà thơ văn, nhà khoa học, triết gia, viết kịch và họa sỹ người Đức vẫn lưu dấu niềm tự hào của đất nước ông ở Mexico và nhiều nước ở châu Mỹ xa xôi.

Goethe tuy sinh ra và lớn lên ở Frankfurt am Main, thành phố lớn thứ năm của Đức, và ông đã sống ở Leipzig (thuộc Đức) Strasbourg (thuộc Pháp), nhưng nơi tưởng niệm Goethe tại Tiệp Khắc có ở rất nhiều vùng . Danh tiếng của ông vang dội toàn châu Âu và Thế Giới. Viện Goethe hiện có phân viện tại 13 thành phố ở Đức và 128 thành phố ở nước ngoài, trong đó có nhiều nước châu Mỹ. Đó là một hiện tượng lan tỏa văn hóa hiếm thấy.

Faust

Faust hoặc George Faust là một nhân vật có thật, đặc biệt nổi tiếng ở  Đức – Tiệp,  sống vào khoảng năm  1480 – 1541, là một thầy thuốc, nhà chiêm tinh và “phù thủy” ảo thuật gia xuất chúng người Đức, nhà khoa học tài năng có khả năng biến đá thành vàng. Faust là người  khát khao kiến thức, hiểu biết, người yêu tự do, không thích bị câu thúc. Faust đã kết bạn với quỷ để thỏa mãn ước mơ khám phá hiểu biết của mình. Kết cục cái giá của tự do khám phá những bí mật của trời đất, thiêng liêng của thần thánh phải trả bằng tính mạng của mình. Goethe tìm thấy từ hình tượng trong dân gian, một khát vọng vô biên về sức mạnh sáng tạo và chinh phục của con người để tìm ra một triết lý nhân văn soi thấu sự đam mê tự do là cái giá ĐƯỢC MẤT cao hơn mạng sống:  “Chỉ những ai biết hăng say lao động, biết nổ lực chinh phục những đỉnh cao chí thiện thì mới xứng đáng được hưởng tự do và tình yêu cuộc sống.

Đối thoại giữa các nền văn hóa, tôi chiêm nghiệm Giấc mơ thiêng cùng Goethe

GIẤC MƠ THIÊNG CÙNG GOETHE
Người già kể chuyện sử thi
Kalovi Vary, Roma, Oregon
Thắp lên trong tôi ngọn lửa
Hoàng Kim

Mọi lý thuyết đều là màu xám,
chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi
Goethe trao tặng cho tôi
Ngọc minh triết của Người.

Tôi giấc mơ gặp Goethe
Kalovi Vary, Czechoslovakia
trong rừng thiêng cổ tích.
Người kể chuyện sử thi

Tiệp Khắc kỷ niệm một thời
Praha Goethe và lâu đài cổ
Những khát khao của Faust,
Nỗi đau của chàng Werther

Người nhắc tôi đừng quên
kể chuyện sử thi dân mình
Cho dù học gì làm gì
Cũng đừng quên chuyện đó !

Người hỏi tôi trong mơ
Con có dám học Faust?
Chọn minh triết làm Thầy
Suốt đời theo Trí Tuệ ?

Tôi trả lời.trong mơ
Có con xin theo Người !
Con xin theo học Goethe
Người kể chuyện sử thi

Ta bàng hoàng gặp Goethe
Trên cầu đi bộ Charles
Trong 30 tượng thánh trầm tư
Tôi ngắm hình tượng Faust

Quảng trường Old Town Square
Đế Quốc La Mã Thần Thánh
Goethe lắng đọng tại Praha
Trong huyền thoại muôn đời

Tôi nhớ Người ở Frankfurt,
Di sản Người Leipzig, Strasbourg
Ông già hiền triết châu Âu
Tại bao nhiêu điểm đến …

Tôi học Goethe qua thơ Xuân Diệu
Mọi lý thuyết đều là màu xám,
chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi
Thơ Người đi cùng tôi bao tháng năm.

Tôi gặp Goethe ở châu Âu
Trong hình bóng người hiền
Cũng gặp Người tại Oregon
Nơi Miền Tây Nước Mỹ.

Tôi gặp Goethe ở châu Mỹ
Tại Ciudad Obregon
Hồ lớn ba tỷ khối nước
Cây xanh đất nước giao hòa

Tôi  gặp Người ở CIMMYT Mexico
phía cuối trời Tây
GoetheNorman Borlaug dạy cho tôi
Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương

Người hóa thân
trong thanh thản
bóng cây xanh
Người đàm đạo
với Norman Borlaug
và cậu học trò nghèo
Về ý tưởng xanh
Con đường xanh
Hành trình xanh
Sự nghiệp xanh
Nhà khoa học xanh
giấc mơ hạnh phúc

Goethe là vòm cây xanh
Goethe cũng là lão nông
ngồi cùng chúng ta
chuyện trò
trên cánh đồng xanh
hạnh phúc.

Goethe Norman Borlaug
là những trí tuệ bậc Thầy.
Họ không màng hư vình
mà hướng tới đỉnh cao hòa bình
sự an lành tiến bộ.

Anh và em cùng Goethe
Ở FAO, Rome, Italy
Người hóa thân
thành nữ thần Tình Yêu (*)

Trời xanh tuyệt vời !
Trời nhân loại mênh mông !

(*) Hình ảnh Hoàng Kim ở Roma, Italia.

ĐỐI THOẠI VĂN HÓA CHÂU PHI

Bài học cuộc sống quý giá là sự thấu hiểu và đối thọại giữa các nền văn hóa.Đối thoại văn hóa với Châu Phi tôi có tám ghi chép theo thời gian: Nhớ châu PhiMôhamet và đạo Hồi; Lúa sắn Việt Châu Phi; Thổ Nhĩ Kỳ nông nghiệp sinh thái; Thổ Nhĩ Kỳ với ‘vành đai và con đường’;Việt Nam con đường xanh; Mười hai ngày ở Ghana. Đó là sự tiếp nối kỳ lạ của đời tôi tại châu Phi qua nhiều chuyến đi đến Uganda, Nigeria, Ai Cập, Sông Nin, Thổ Nhĩ Kỳ, Ghana và các địa danh khác. . Các bạn cũ năm xưa tôi gặp ở CIMMYT, CIANO, OREGON, CIAT, CIP sau này có một số bạn tôi may mắn được gặp lại và gắn bó rất lâu khai mở thêm nhiều chuyến đi và kết gắn thêm các bạn mới tạo thành câu chuyện bạn hữu và du lịch sinh thái thú vị lưu lạc trong ký ức thật vui vẻ theo tôi nhiều năm. Tôi định gom điều này trong câu chuyện Nhớ châu Phi là một chủ đề khái quát hơn và kết nối với tám mục trên của châu Phi và bổ sung thêm nhưng cần có thời gian sắp xếp lại: Châu Phi một thoáng nhìn toàn cảnh. Châu Phi bạn nhớ điều gì nhất? Châu Phi chiến lược chuyển đổi sắn. Lúa sắn Việt Nam với châu Phi. Nông nghiệp và du lịch sinh thái. Trên đây chỉ mới là một số chỉ mục ghi chép chính của tôi trước đây về nhớ châu Phi đất nước con người. Tôi cần biên tập xâu chuỗi ký ức vụn các điạ danh và bạn hữu với những ghi nhớ chính. Mục đích của ghi chép này nhằm bảo tồn một số tư liệu thông tin bản thân có thể có ích cho ai đó quan tâm nông nghiệp sinh thái Việt Nam trong sự nhận thức và đối thoại nền văn hóa. Đi để hiểu quê hương đất nước con người, những giá trị cốt lõi văn hóa lịch sử dân tộc tôn giáo trong trãi nghiệm sinh thái nông nghiệp nước bạn giúp khai mở hiểu biết thế giới rộng lớn.

ĐỐI THOẠI VĂN HÓA CHÂU MỸ

Châu Mỹ chuyện không quên Tôi sang châu Mỹ nhiều lần, có trên 36 bài đường links, thỉnh thoảng vui đọc lại và viết thêm ghi chú Đó là một chặng đường trải nghiệm thích thú, trong con đường di sản của riêng mình Đối thoại nền va7n hóa. Đi để hiểu quê hương, Học để làm được điều gì đó.

Châu Mỹ chuyện không quên, tôi đã và đang lưu lại bao điều tâm đắc, Kazuo Kawano, Reinhardt Howeler, Hernan Ceballos, … là những người bạn tuyệt vời của tôi ở CIAT. Tôi học những gương cụ thể của họ nhưng cũng ấn tượng sâu sắc bởi bao gương sáng danh nhân như gương  George Washington, Thomas Jefferson; Norman Borlaug, Mark Zuckerberg, Bill Gates học để làm, đối với tôi thật sự thấm thía. Tôi thích học để làm, học vừa làm trí tuệ của họ. Câu châm ngôn hay về “sự đọc” đưa vào trang viết này thật đúng: “ Trong một thế giới có đủ bình tâm, người viết nhỏ hơn người đọc, người đọc nhỏ hơn quyển truyện họ đang đọc, và quyển truyện nhỏ hơn sự đọc. Người viết và người đọc rồi chết, truyện rồi quên. Sự đọc ở lại và làm nên một phần mênh mông trong định nghĩa của việc làm người “.

HoangTranLeNguyendatphuongNam

THẮP ĐÈN LÊN ĐI EM !
Hoàng Kim

Thắp đèn lên đi em!
Xua tăm tối, giữa đêm trường ta học
Vũ trụ bao la đèn em là hạt ngọc
Cùng sao khuya soi sáng mảnh đất này
Dù sớm chiều em đã học hăng say
Dù ngày mệt chưa một hồi thanh thản
Đèn hãy thắp sáng niềm tin chiến thắng
Em thắp đèn lên cho trang sách soi mình.

Thắp đèn lên đi em!
Xua tăm tối giữa đêm trường ta học
Em đâu chỉ học bằng ánh mắt
Mà bằng cả lòng mình, cả khối óc hờn căm
Thù giặc giết cha, bom cày sập tung hầm
Nhà tan nát, sân trường đầy miệng hố
Hãy học em ơi, dù ngày có khổ
Lao động suốt ngày em cần giấc ngủ ngon
Nhưng đói nghèo đâu có để ta yên
Và nghị lực nhắc em đừng ngon giấc
Nợ nước thù nhà ngày đêm réo dục
Dậy đi em, Tổ quốc gọi anh hùng.

Thắp đèn lên đi em!
Xua tăm tối giữa đêm trường ta học
Mặc cho gió đêm nay lạnh về tê buốt
Tấm áo sờn không đủ ấm người em
Vùng dậy khỏi mền, em thắp ngọn đèn lên
Để ánh sáng xua đêm trường lạnh cóng
Qua khổ cực càng yêu người lao động
Trãi đói nghèo càng rèn đức kiên trung
Em đã đọc nhiều gương sáng danh nhân
Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí
Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ
Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin.

Thắp đèn lên đi em!

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Mênh mang một khúc sông Hồng
Huyền Thoại Hồ Núi Cốc
Một thoáng Tây Hồ
Trên đỉnh Phù Vân
Chảy đi sông ơi …

Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Chào ngày mới 27 tháng 9


DẠY VÀ HỌC 27 THÁNG 9
Hoàng Kim và Hoàng Long
CNM365 Tình yêu cuộc sống #vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay; Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên; Ngày 27 tháng 9 năm 1821 Quốc khánh Mexico giành được độc lập từ Tây Ban Nha. Ngày 27 tháng 9 năm 1905, Albert Einstein định rõ phương trình E=mc² trong bài luận “Quán tính của một vật có tùy theo nội dung Năng lượng?” xuất bản trên Tạp chí Vật lý học Annalen der Physik. Ngày 27 tháng 9 năm 1949 Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xác định Mao Trạch Đông làm Chủ tịch chính phủ Nhân dân Trung ương, Chu Ân Lai làm Tổng lý Chính vụ Viện,  quốc kỳ là Ngũ tinh Hồng kỳ, Quốc ca là Nghĩa dũng quân tiến hành khúc tại Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc. Bài chọn lọc ngày 27 tháng 9 #vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay;:Đi như một dòng sông; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhân; Kế sách một chữ Đồng; Biết mình và biết người; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Làng Minh Lệ quê tôi; Châu Mỹ chuyện không quên; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-27-thang-9/

ĐI NHƯ MỘT DÒNG SÔNG
Hoàng Kim


Hoàng Kim ở CIMMYT 1988 trong bài viết Đi như một dòng sông là những ký ức vụn kể về Con đường di sản LewisClark của Châu Mỹ chuyện không quên. Tôi đã viết Kim Notes lắng ghi chú kể về Làng Minh Lệ quê tôi; Hoành Sơn và Linh Giang; Linh Giang sông quê hương; Linh Giang Đình Minh Lệ; Đá Đứng chốn sông thiêng; Nguồn Son nối Phong Nha; Quê Mẹ vùng di sản;. Tôi xa quê từ nhỏ. Quê hương nơi sinh thành thường là bài học lón nhất đời người nhưng tôi vì hoàn cảnh xa quê nên hiểu quê hương có giới hạn mà thường ấn tượng về mười hai bến nước của chiếc lá trôi dạt do vận mệnh. Mỗi dân tộc và mỗi con người đều có vận mệnh của riêng mình, bằng cách tin sâu vào luật nhân quả, thực hành chí thiện để tương lai cuộc đời được tốt hơn. Đi để hiểu quê hương.

Đi như một dòng sông là bài học kinh nghiệm khởi nghiệp của tôi kể lại cho người thân và thầy bạn quý. Tôi đặc biệt dành tặng cho các bạn trẻ đang tìm kiếm sự kết nối Học để Làm (Learning to Doing) và để Dạy hiệu qủa. Tôi tâm đắc lời Bác về triết lý giáo dục “Ngủ thì ai cũng như lương thiện. Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền. Hiền dữ phải đâu là tính sằn. Phần nhiều do giáo dục mà nên. Học không bao giờ muộn. Học lắng nghe cuộc sống. Sự chậm rãi minh triết; Vui bước tới thảnh thơi. Bài viết này được trích từ phần đầu của Thầy bạn là lộc xuân với phần giữa Dạy và học ngày nay và phần cuối Con đường di sản LewisClark của Châu Mỹ chuyện không quên . Đó là thu hoạch của tôi trà sớm với thầy bạn

TỪ CẬU BÉ LÀNG MINH LỆ

Quê tôi ở miền Trung nghèo khó “Nhà mình gần ngã ba sông/ Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình,/ Linh Giang sông núi hữu tình / Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con/ Chèo thuyền cho khuất bến Son/ Để con khỏi chộ (thấy) nước non thêm buồn/ Câu thơ quặn thắt đời con/ Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ”. Tôi xa quê từ nhỏ. Mười tuổi mồ côi mẹ, Mười bốn tuổi cha chết do bom Mỹ giết hại.Tôi với chị gái Hoàng Thị Huyền ở với anh trai Hoàng Ngọc Dộ trong nhà hầm của lớp học ở làng Phù Lưu để học cấp ba Bắc Quảng Trạch. Anh trai tôi dạy cấp một, giáo viên khẩu phần ăn 13 ký lương thực mỗi tháng, trong đó có 70% là khoai sắn. Anh vì nuôi hai em thay cha mẹ mất nên khẩu phần ăn ấy chia cho ba người ăn. Đói. Gia đình tôi năm năm đã ăn ngày một bữa. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh đứng khóc trên bục giảng vận động thầy cô, bạn hữu chia sớt khoai sắn giúp đỡ. Tôi cũng dạy năm lớp vở lòng, ba lớp bổ túc văn hóa và cùng anh cuốc đất tăng gia để vượt khó vươn lên. Thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết những lời xúc động trong Bài ca Trường Quảng Trạch trường ca tình thầy trò: “Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất. Lại cha già giặc giết hôm qua. Tình thầy, tình bạn, tình cha. Ấy là ân nghĩa thiết tha mặn nồng” (9)  Những gương mặt thầy bạn đã trở thành máu thịt trong đời tôi.

Thi đậu vào Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc năm 1970, tôi học Trồng trọt 4 cùng khóa với các bạn Trần Văn Minh, Đỗ Thị Minh Huệ, Phan Thanh Kiếm, Đỗ Khắc Thịnh, Vũ Mạnh Hải, Phạm Sĩ Tân, Phạm Huy Trung, Lê Xuân Đính, Nguyễn Hữu Bình, Lê Huy Bá … cho đến ngày 02 tháng 9 năm 1971 thì tôi gia nhập quân đội cùng lứa với Nguyễn Văn Thạc. Đợt tuyển quân sinh viên trong ngày độc lập đã nói lên sự quyết liệt sinh tử và ý nghĩa thiêng liêng của ngày cầm súng. Chiến trường đánh lớn. Đơn vị chúng tôi chỉ huấn luyện rất ngắn rồi vào trận ngay với 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn. Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 sau này đã đi vào huyền thoại: “Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm” Tổ chúng tôi bốn người thì Xuân và Chương hi sinh, chỉ Trung và tôi trở về trường sau ngày đất nước thống nhất.  Những vần thơ viết dưới đây là xúc động sâu xa của tôi khi nghĩ về bạn học đồng đội đã khuất: “Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh

Tôi về học tiếp năm thứ hai tại Trồng trọt 10 của Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc đến cuối năm 1977 thì chuyển trường vào Đại học Nông nghiệp 4, tiền thân Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trồng trọt 2 thuở đó là một lớp chung mãi cuối khóa mới tách ra 2A,2B, 2C. Tôi làm Chủ tịch Hội Sinh viên thay cho anh Nguyễn Anh Tuấn khoa thủy sản ra trường về dạy Đại học Cần Thơ. Trồng trọt khóa hai chúng tôi thuở đó được học với các thầy cô: Nguyễn Đăng Long, Tô Phúc Tường, Nguyễn Tâm Đài, Trịnh Xuân Vũ, Lê Văn Thượng, Ngô Kế Sương, Trần Thạnh, Lê Minh Triết, Phạm Kiến Nghiệp, Nguyễn Bá Khương, Nguyễn Tâm Thu, Nguyễn Bích Liễu, Trần Như Nguyện, Trần Nữ Thanh, Vũ Mỹ Liên, Từ Bích Thủy, Huỳnh Thị Lệ Nguyên, Trần Thị Kiếm, Vũ Thị Chỉnh, Ngô Thị Sáu, Huỳnh Trung Phu, Phan Gia Tân, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Kế, … Ngoài ra còn có nhiều thầy cô hướng dẫn thực hành, thực tập, kỹ thuật phòng thí nghiệm, chủ nhiệm lớp như Bùi Cách Tuyến, Nguyễn Văn Kịp, Lê Quang Hưng, Trương Đình Khôi, Nguyễn Ngọc Châu, Nguyễn Gia Quốc, Nguyễn Văn Biền, Lê Huy Bá, Hoàng Quý Châu, Phạm Lệ Hòa, Đinh Ngọc Loan, Chung Anh Tú và cô Thảo làm thư ký văn phòng Khoa. Bác Năm Quỳnh là Bí thư Đảng ủy đầu tiên của Trường sau đó là thầy Kiên và cô Bạch Trà. Thầy Nguyễn Phan là Hiệu trưởng kiêm Trưởng Trại Thực nghiệm. Thầy Dương Thanh Liêm, Nguyễn Ngọc Tuân, Võ Thị Tuyết, Ngô Văn Mận, Bùi Xuân An … ở khoa Chăn nuôi Thú y, thầy Nguyển Yên Khâu, Nguyễn Quang Lộc … ở khoa Cơ khí, cô Nguyễn Thị Sâm ở Phòng Tổ chức, cô Văn Thị Bạch Mai dạy tiếng Anh, thầy Đặng, thầy Tuyển, thầy Châu ở Kinh tế -Mác Lê …Thầy Trần Thạnh, anh Quang, anh Đính, anh Đống ở trại Trường là những người đã gần gũi và giúp đỡ nhiều các lớp nông học.

Thay ban trong doi toi 1b

Thuở đó đời sống thầy cô và sinh viên thật thiếu thốn. Các lớp Trồng trọt khóa 1, khóa 2, khóa 3 chúng tôi thường hoạt động chung như: thực hành sản xuất ở trại lúa Cát Lái, giúp dân phòng trừ rầy nâu, điều tra nông nghiệp, trồng cây dầu che mát sân trường, rèn nghề ở trại thực nghiệm, huấn luyện quốc phòng toàn dân, tập thể dục sáng, hội diễn văn nghệ, thi đấu bóng chuyền, bóng đá tạo nên sự thân tình gắn bó. Những sinh viên các khóa đầu tiên được đào tạo ở Khoa Nông học sau ngày Việt Nam thống nhất hiện đang công tác tại trường có các thầy cô như  Từ Thị Mỹ Thuận, Lê Văn Dũ, Huỳnh Hồng, Cao Xuân Tài, Phan Văn Tự, …

Tháng 5 năm 1981, nhóm sinh viên của khoa Nông học đã bảo vệ thành công đề tài thu thập và tuyển chọn được các giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu, Gạo, Bí Đà Lạt được Bộ Nông nghiệp công nhận giống ở Hội nghị Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Toàn Quốc Lần thứ Nhất tổ chức tại Thành phố Hố Chí Minh. Đây là một trong những kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đầu tiên của Trường giới thiệu cho sản xuất. Thầy Cô Khoa Nông học và hai lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 cũng đã làm họ trai họ gái tác thành đám cưới cho vợ chồng tôi. Sau này, chúng tôi lấy tên khoai Hoàng Long để đặt cho con và thầm hứa việc tiếp nối sự nghiệp nghiên cứu khoa học và giảng dạy, một nghề nghiệp cao quý và lương thiện. “Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền. Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó. Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ. Có bạn thầy càng bền chí vươn lên. Trước mỗi khó khăn tập thể luôn bên. Chia ngọt xẻ bùi động viên tiếp sức. Thân thiết yêu thương như là ruột thịt. Ta tự nhủ lòng cần cố gắng hơn

tt2-1

Bạn học chúng tôi vẫn thỉnh thoảng họp mặt, có danh sách các lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 số điện thoại và địa chỉ liên lạc. Một số hình ảnh của các lớp ngày ấy và bây giờ lắng đọng sâu sắc trong lòng tôi.

TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA TÔI

Đi như một dòng sông; Đi để hiểu quê hương Đời người gồm chuỗi hệ thống Học, Làm, Dạy, Nhàn, Viết. là năm quá trình kế tiếp nhau, đan xen nhau, hỗ trợ nhau, trộn vào nhau. CNM365 Tình yêu cuộc sống là kinh nghiệm đời người lặp lại mỗi năm.Tôi tâm đắc Tôn tử thiên IV chọn lại từ đứcTrần Hưng Đạo, Lời dặn của Thánh Trần; Biết mình và biết người; Quốc Công đạo làm tướng; Tiết Chế đức dụng nhânNgười đánh giỏi trước làm thế địch không thể thắng để đợi thế địch mà mình có thể thắng. Tiết chế ở mình mà thôi.” Câu thoại cổ trí tuệ nhân loại chọn lại từ Lev Tonstoy và Paulo Coelho “Sống có nghĩa là thay đổi, và các mùa lặp lại những bài học này cho chúng ta mỗi năm. Thay đổi và đổi mới là quy luật của cuộc sống“. (Living means changing, and the seasons repeat these lessons to us every year Change and renewal are the laws of life) Thăm nhà cũ của Darwin thích đôi mắt Darwin soi thấu nguồn gốc các loài: “Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất hay thông minh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất” “It is not the strongest of the species that survives, nor the most intelligent that survives. It is the one that is most adaptable to change”

SỰ HỌC khởi đầu từ lúc con người sinh ra cho đến khi có VIỆC LÀM để mưu sinh, để lao động, để cống hiến, để không còn làm người ăn bám sống trên mồ hôi thành quả của người khác, để biến cái sở trường thành hữu dụng. Đó là sự học chân chính, học để làm. Sự học tốt nhất là tự học suốt đời và sự học hữu dụng nhất, hiệu quả nhất là học làm người có ích. Học để làm tốt một nghề.

VIỆC LÀM VÀ VIỆC DẠY dường như chiếm một nữa đời người khi một phần tư đời người cho tuổi thơ và sự học, Dẫu sự học tốt nhất là tự học suốt đời nhưng thật xấu hổ nếu không biết làm và dạy. Học làm người có ích là có tâm huyết, chuyên nghiệp và kỹ năng học làm người có ích. Có người giảng dạy và việc làm tách riêng , làm thành thạo trước và trao truyền sau nhưng có nhiều người việc làm và việc dạy kết rất nhuyễn, Cha mẹ là thầy cô đầu đời của con.

AN NHÀN VÔ SỰ VÀ VIẾT. Nhàn và viết là lắng đọng di sản. An nhàn vô sự và viết dường như chiếm một phần tư đời người sau cùng. Phúc cho ai hưởng nhàn và đọng lại di sản. Minh triết sống phúc hậu là bài học quý, Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.

CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN

Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.

“Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.

Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. Lời Thầy dặn thung dung.

Châu Mỹ chuyện không quên

Niềm tin và nghị lực
Về lại mái trường xưa
Hưng Lộc nôi yêu thương
Năm tháng ở trời Âu

Vòng qua Tây Bán Cầu
CIMMYT tươi rói kỷ niệm
Mexico ấn tượng lắng đọng
Lời Thầy dặn không quên

Ấn tượng Borlaug và Hemingway
Con đường di sản Lewis Clark
Sóng yêu thương vỗ mãi
Đối thoại nền văn hóa

Truyện George Washington
Minh triết Thomas Jefferson
Mark Twain nhà văn Mỹ
Đi để hiểu quê hương

500 năm nông nghiệp Brazil
Ngọc lục bảo Paulo Coelho
Rio phố núi và biển
Kiệt tác của tâm hồn

Giấc mơ thiêng cùng Goethe
Chuyện Henry Ford lên Trời
Bài đồng dao huyền thoại
Bảo tồn và phát triển

Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt Nam và Howeler
Một ngày với Hernán Ceballos
CIAT Colombia thật ấn tượng
Martin Fregene xa mà gần

Châu Mỹ chuyện không quên
CIP Peru và khoai Việt
Nam Mỹ trong mắt tôi
Nhiều bạn tôi ở đấy

Machu Picchu di sản thế giới
Mark Zuckerberg và Facebook
Lời vàng Albert Einstein
Bill Gates học để làm

Thomas Edison một huyền thoại
Toni Morrison nhà văn Mỹ
Walt Disney bạn trẻ thơ
Lúa Việt tới Châu Mỹ.

Thầy tôi Norman Borlaug  trao đổi với tôi thật nhiều câu chuyệnThomas Jefferson (1743 – 1826) là Nhà tư tưởng sáng lập nước Mỹ, với Lewis & Clark cuộc thám hiểm miền Tây nước Mỹ. Đó là một ví dụ điển hình về tầm nhìn và dự án khoa học thành công. Con đường di sản Lewis và Clark lắng đọng trong tôi thật sâu Chuyện bây giờ mới kể …

Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark đã được khởi sự vào ngày 14 tháng 5 năm 1804 và kết thúc cuối năm 1806. Đây là cuộc thám hiểm trên bộ đầu tiên của người Mỹ đến những tiểu bang duyên hải cận tây nhất của nước Mỹ và ngược lại. Miền Tây nước Mỹ là vùng đất nhiều thổ dân da đỏ sinh sống khoảng 10 ngàn năm trước đó, và thuở ấy miền Tây nước Mỹ có sự hiện diện của những cư dân mới là người thám hiểm và định cư thuộc các nước Tây Ban Nha, Anh, México, Nga và Mỹ. Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã kiến nghị Quốc hội Mỹ phê chuẩn đầu tư cho chuyến khảo sát đường bộ của cuộc thám hiểm của Lewis và Clark cùng cộng sự. Trong một lá thư đề ngày 20 tháng 6 năm 1803, Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã viết cho Lewis. “Mục tiêu sứ mạng của anh là thám hiểm Sông Missouri và dòng suối chính của nó qua dòng chảy và sự liên thông của nó với các bộ phận nước khác của Thái Bình Dương để xem Sông Columbia, Xứ Oregon, Colorado hay bất cứ con sông nào có thể cung cấp một sự liên thông mặt nước thực tiễn và trực tiếp nhất ngang qua lục địa này để giúp cho những mục đích thương mại“.

Thầy tôi trong buổi trò chuyện của mình đã khoanh vào các chỉ dấu Thomas Jefferson Lewis & Clark thành những điểm chính nhấn mạnh cho các lời diễn đạt của mình


Trong chuyến khảo sát CIANO, OREGON của Miền Tây Mexico và nước Mỹ năm 1989 sau 186 năm từ chuyến thám hiểm miền Tây nước Mỹ của Lewis & Clark và cộng sự, tôi nhớ đinh ninh lời Thầy dặn, thật ấn tượng và thấm thía khi viết bài thơ cảm khái:

ĐI KHẮP QUÊ NGƯỜI ĐỂ HIỂU ĐẤT QUÊ HƯƠNG

Tạm biệt Oregon !
Tạm biệt Obregon California !
Cánh bay đưa ta về CIMMYT
Bầu trời xanh bát ngát
Lững lờ mây trắng bay
Những ngọn núi cao nhấp nhô
Những dòng sông dài uốn khúc
Hồ lớn Ciudad Obregon
ba tỷ khối nước

Nở xòe như chùm pháo bông
Những cánh đồng mênh mông
Thành trăm hình thù dưới làn mây bạc
Con đường dài đưa ta đi
Suốt dọc từ Nam chí Bắc
Thành sợi chỉ màu chạy mút tầm xa…

Ơi vòm trời xanh bao la
Gọi lòng ta nhớ về Tổ Quốc
Ôi Việt Nam, Việt Nam
Một vùng nhớ trong lòng ta tỉnh thức
Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương.

Hoàng Kim

Sáu tháng ở CIMMYT với tôi là một câu chuyện ám ảnh. Tôi như cậu bé chăn cừu mà Paulo Coelho kể trong kiệt tác của tâm hồn Nhà Giả Kim (O Alquimista) mà tôi đã viết ở Ngọc lục bảo Paulo Coelho, cũng giống như cô bé Quách Tương tại tiểu thuyết ‘Thần điêu đại hiệp’ của Kim Dung đi vào thế giới bí ẩn của riêng mình với khát khao tìm kiếm

Thầy Norman Borlaug là nhà khoa học xanh sống nhân đạo, và nêu gương tốt. Thầy là nhà nông học Mỹ cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong  cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống.Câu chuyện về Người tôi đã kể vắn tắt tại Norman Borlaug di sản, niềm tin và nổ lực


Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29.8.1988. Thầy đã một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày cha mất. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch, Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy.

Người Thầy của tôi đã chọn chỉ cho tôi chỉ dấu Thomas Jefferson đã viết tự truyện của riêng mình để nói ít nhất trong lịch sử nước Mỹ nhưng để lại di sản lớn bằng cách chọn nhấn mạnh các mục từ khi bắt đầu và kết thúc sự nghiệp công cộng lâu dài của mình.

Lời Thầy dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm tiếng để đời”.


Tôi nghĩ ngợi nhiều về miền Tây của Mexico và nước Mỹ xưa và nay. Ở đó cũng có những cây xương rồng và những vùng đất cằn cỗi.


Miền Tây của Mexico, CIANO và vùng OREGON của Miền Tây nước Mỹ cũng đồi núi trập trùng hệt Việt Nam và biên độ nóng bức và giá lạnh thật lớn, dân cư thưa thớt với nhiều người dân bản địa.

Chúng tôi đến CIANO và đi dọc miền Tây mà không đi ngang nước Mỹ như Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark. CIANO là địa chỉ xanh tuyệt vời để tôi hiểu thế nào là một trạm trại nông nghiệp thực sự.


Khu văn phòng của trại thực nghiệm CIANO không lớn nhưng thực sự tiện nghi và hiệu quả và đồng ruộng nghiên cứu thí nghiệm thì được đầu tư và quản lý thật tuyệt vời.


Cánh đồng lúa mì thí nghiệm thực nghiệm tại CIANO thực sự cuốn hút. Đoàn chúng tôi ngày đi tham quan học tập. Buổi chiều sau khi ăn tối tôi lại mê mãi ghi chép,đọc và viết.
Bài học mà thầy Norman Borlaug chỉ dấu với tôi về Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark thật thú vị.

Chuyến khảo sát của Lewis và Clark trong hai năm rưỡi đã đạt được thành tựu:

  • Hoa Kỳ hiểu biết rộng thêm về địa lý của phía miền tây nước Mỹ trong hình thức các bản đồ về các con sông và dãy núi chính.
  • Quan sát và mô tả 178 loài thực vật và 122 loài động vật (qua Danh sách của loài thực động vật được mô tả qua chuyến thám hiểm Lewis và Clark)
  • Khuyến khích giao thương da thú Âu-Mỹ tại miền Tây
  • Mở rộng quan hệ ngoại giao Âu-Mỹ với người bản thổ Mỹ
  • Thiết lập một tiền lệ cho việc thám hiểm miền Tây của Quân đội Hoa Kỳ
  • Củng cố tuyên bố chủ quyền của Hoa Kỳ đối với Lãnh thổ Oregon
  • Tập trung sự chú ý của truyền thông và của Hoa Kỳ vào miền Tây
  • Nhật ký của Lewis và Clark với các trang viết về họ đã hình thành một bộ văn chương lớn nói về miền Tây.

Lời Thầy dặnCon đường di sản Lewis và Clark, với tôi là bài học tuyệt vời.

MEXICO ẤN TƯỢNG LẮNG ĐỌNG

Tìm hiểu đất nước và con người Mexico, chúng ta tìm về bốn câu hỏi là bốn yếu tố chính: Đất nước (đất đai và thức ăn); Con người (tộc người, ngôn ngữ, văn hóa); Môi trường sống (khí hậu, danh thắng, vấn đề chung); Chế độ và  Kinh tế hiện trạng. “Đất nước Mexico ấn tượng lắng đọng”  là phần hai của bài viết “Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương” tiếp theo phần một “Con đường di sản Lewis và Clark“.
Hợp chúng quốc Mê-hi-cô gọi tắt Mexico là một nước cộng hòa liên bang ở Bắc Mỹ có diện tích gần 2 triệu km², xếp thứ 14 trên thế giới và dân số khoảng 123,16 triệu người, xếp thứ 12 trên thế giới, so Việt Nam dân số khoảng 95,26 triệu người, xếp thứ 15, số liệu ước lượng tháng 7 năm 2016 theo The World Factbook. México là nước nói tiếng Tây Ban Nha nhiều nhất ở châu Mỹ và Thế giới. Đất nước này bị đô hộ bởi  thực dân Tây Ban Nha từ thế kỷ thứ 16 và được công nhận là một quốc gia độc lập chính thức năm 1821. Mexico có 31 bang và thành phố thủ đô Mê-hi-cô thuộc liên bang là một trong những khu đô thị đông dân nhất thế giới.

México có tên gọi bắt nguồn từ tên kinh đô cổ của dân tộc Mexica, nền văn minh Aztec trong lịch sử. Theo kinh thư Mendoza là một cuốn sách kể về lịch sử của người Aztec và ngày nay xuất hiện trên quốc kỳ và quốc huy của México, có một vị thần đã chỉ cho người dân của bộ tộc này địa điểm xây dựng kinh đô tại nơi có một con đại bàng mang trong miệng một con rắn và đậu xuống cành cây xương rồng ở địa điểm gần hồ Texcoco. Nơi đây sau đó, người Aztec đã xây dựng nên một thành phố rộng lớn, đó là Trung tâm lịch sử của thành phố México ngày nay (hình trên), di sản thế giới được UNESCO công nhận năm 1987. Ngôn ngữ chính thức của México là tiếng Tây Ban Nha và 62 ngôn ngữ bản địa được quyền bình đẳng theo hiến pháp. Tại Mexico có số lượng người nói tiếng Tây Ban Nha cao nhất thế giới. Mexico xếp vào châu Mỹ latinh dù Mexico ở Bắc Mỹ, lý do chủ yếu bởi yếu tố ngôn ngữ, văn hóa, tộc người, và lịch sử. Nếu như tiếng Anh là ngôn ngữ chính ở nước Mỹ, tiếng Bồ Đào Nha là ngôn ngữ chính ở Brazil , tiếng Pháp và tiếng Anh là ngôn ngữ chính ở Canada thì ở hầu hết các nước Nam Mỹ và vùng Caribe đều sử dụng tiếng Tây Ban Nha làm ngôn ngữ chính. Nói cách khác, tiếng Tây Ban Nha là thông dụng nhất của phần lớn các nước châu Mỹ Latinh. Tại Mexico, tôn giáo chính là Công giáo Roma chiếm khoảng 87,9% theo điều tra nhân khẩu năm 2000, mặc dù số lượng người đi lễ nhà thờ hàng tuần chỉ khoảng 46%;  người dân México theo đạo Tin lành ít hơn với khoảng 5,2%, số còn lại theo một số tôn giáo khác.

Đất nước México là nơi ra đời hai nền văn minh lớn của châu Mỹ là Aztec và Maya.  Mexico có thiên nhiên đa dạng và nền văn hóa đa sắc tộc, có lẽ đặc sắc nhất châu Mỹ của sự giao thoa nhiều nền văn hóa mà chủ đạo là nền văn hóa bản địa truyền thống đã biến đổi với nền văn hóa Tây Ban Nha đã Mỹ Latinh hóa. Sự pha trộn với khối văn hóa Mỹ Anh , Brazil Bồ Đào Nha, Canada Pháp ngữ đã làm cho México là ột quốc gia là một quốc gia đa chủng tộc sử dụng như ngôn ngữ ở đất nước Thuy Sĩ mà người dân ở đó có thể hiểu dễ dàng ba đến bốn thứ tiếng. Nhóm sắc tộc chiếm tỉ lệ cao nhất tại México là người lai giữa người da trắng và người da đỏ ước tính từ 60-75%. Nhóm sắc tộc chiếm tỉ lệ 12 – 30% dân số là  người da đỏ bản địa.  Nhóm sắc tộc chiếm tỉ lệ 9 – 25 % là người da trắng đến từ Tây Ban Nha, Mỹ, Canada, Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Đức,  Ba Lan,  Nga,…, người da vàng đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Philippines, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ … và người da đen đến từ châu Phi với tỷ lệ ít hơn.

Đất nước México địa hình chủ yếu là đồi núi và hệ thống khí hậu quá đa dạng, nên việc đầu tư sản xuất thâm canh quy mô lớn ở México khó hơn nhiều so với nước Mỹ, Canada và Nam Mỹ. Người México bản địa bữa ăn truyền thống chủ yếu ngô làm lương thực chính, kết hợp với các loài rau đậu, ớt, cà chua, lúa mì. México là nơi ra đời có nhiều loại bánh ngô có nhân thịt hoặc trộn rau, bánh ngô phomat, bánh ngô cay, thực phẩm đồ uống phổ biến là sữa ngô và rượu tequila được chế từ lá cây Agave Azul Tequilana, một loài thực vật bản địa ở Mexico, có độ cồn từ 38–40%, cá biệt có loại có độ cồn lên tới 43–46%. Ngày nay việc sử dụng gạo cũng rất phổ biến tai México để làm lương thực, ngoài ra còn có thịt bò, thịt lợn, thịt gà, rượu nho, tỏi,  đu đủ, dứa, ớt cay, khoai lang, đậu, lạc, chocolate …Con người mang ẩm thực quê hương mình đi khắp hành tinh nên một đất nước đa sắc tộc như Mexico có nền ẩm thực rất đa dạng. México cũng có thị trường âm nhạc lớn nhất châu Mỹ Latinh và xuất khẩu âm nhạc rộng khắp Trung Mỹ, Nam Mỹ, châu Âu (đặc biệt là Tây Ban Nha) và nhiều nước trên thế giới .

México hiện nay là nền kinh tế lớn thứ 11 trên thế giới và có thu nhập bình quân đầu người thuộc nhóm trung bình cao. Kinh tế México có mối liên hệ chặt chẽ với Canada và Mỹ nhờ Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ. México là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế khác như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới và có vai trò quan trọng trong khu vực Mỹ Latinh, là nước Mỹ Latinh duy nhất nằm trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế.  Vấn nạn chủ yếu của México là sự phân hóa giàu nghèo, tỷ lệ nghèo đói cao, bất bình đẳng thu nhập, tình trạng bạo lực, buôn bán ma túy phổ biến tại nhiều vùng, sự khủng hoảng trong quan hệ ngoại giao giữa México với các nước tham gia khai thác tài nguyên tại đây, sự di cư rất cao từ nước Mexico sang Mỹ vì chênh lệch nhiều về đời sống.

Danh sách di sản thế giới tại Mexico có tổng cộng 34 di sản được UNESCO công nhận, trong đó có 27 di sản văn hóa, 6 di sản tự nhiên và 1 di sản hỗn hợp.

Chùm ảnh dưới đây là những là một thoáng Mexico nhớ lại và suy ngẫm.

Teotihuacan disanthegioi Mexico
Ấn tượng hơn cả là Teotihuacan thành phố thời tiền Colombo, di sản thế giới 1987, ở México.

Monte Alban kimtuthap Mexico
Monte Alban kim tự tháp cổ trung tâm của nền văn minh Zapotec,  di sản thế giới năm 1987 ở tiểu bang Oaxaca  phía nam Mexico.

ĐỐI THOẠI NỀN VĂN HÓA
Hoàng Kim


Cảm ơn tác giả Nguyễn Thị Bích Hậu và sự chia sẻ của Vien Tran, một bài nghiên cứu văn hóa giáo dục và phân tích nghiêm túc. Xã hội cần những hiền tài trong chấn hưng đất nước, nhưng cần thực sự hiểu biết chọn lọc tinh hoa và sự thích hợp, thổi vào những môn học cấp bách, cần thiết , tẻ nhạt với ước vọng và niềm đam mê,

“Hơn nữa việc truyền cảm hứng từ thành tích của một kỳ thi học thuật thì nó cũng hạn chế trong cộng đồng các tín đồ của môn đó thôi vì có phải ai cũng yêu Toán hay Lý, Hóa, Sinh gì đâu. Nhưng thành tựu thể thao hay nghệ thuật thì lại được vinh danh ác liệt. Là vì những môn này phổ biến ai chả thích nên họ quan tâm. Và các ngôi sao thể thao hay nghệ thuật có thể hành nghề ngay từ rất sớm và mau chóng lên đài vinh quang của nghề đó nếu có tài và đủ sự khổ luyện. Và hơn nữa những tài năng này thường mau chóng bị đào thải do các điều kiện cần và đủ ở nhiều môn chính là trẻ và khỏe. Nhưng dù như vậy, các tài năng Toán học hay bất cứ môn khoa học nào tại Mỹ sau này rất giỏi và họ sẽ trở thành các nhà khoa học, các nhà phát minh sáng chế tuyệt vời cho thế giới. Đó là vì họ thực sự yêu thích và hơn cả yêu thích là đam mê cháy bỏng môn mà họ theo đuổi. Họ cũng biết rằng vinh quang của khoa học cần phải trả giá bằng sự nghiêm túc tìm tòi, khám phá, học hỏi nhiều năm. Họ không phải là gà chọi mà là tinh hoa của nước Mỹ. Đào tạo tài năng kiểu gà chọi chỉ có ích cho việc tự sướng, còn sau này sẽ làm thui chột tài năng và thậm chí tạo ra những con người sống dở chết dở vì bị thổi phồng quá mức từ khi còn nhỏ và mắc kẹt trong cái bẫy của danh vọng hão huyền”. (Nguyễn Thị Bích Hậu) .

Cái kết thật hợp lý ! Xin phép được chia sẻ. Tôi may mắn được trãi nghiệm CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN và đã được KHAI TRÍ bằng chính điều này (ảnh) “Đó là vì họ thực sự yêu thích và hơn cả yêu thích là đam mê cháy bỏng môn mà họ theo đuổi. Họ cũng biết rằng vinh quang của khoa học cần phải trả giá bằng sự nghiêm túc tìm tòi, khám phá, học hỏi nhiều năm.” (Nguyễn Thị Bích Hậu). “Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu hiểu bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.”Học để làm (Learning by Doing/ Learning to Doing). Học để sử dụng được thành thạo chuyên nghiệp sở học thành hữu dụng, hữu ích cho nhân dân đất nước mình và chính bản thân mình”. (Hoàng Kim).

Tài liệu dẫn

Đào tạo tài năng kiểu gà chọi sẽ làm thui chột tài năng
Nguyễn Thị Bích Hậu


Đào tạo tài năng kiểu gà chọi chỉ có ích cho việc tự sướng, còn sau này sẽ làm thui chột tài năng và thậm chí tạo ra những con người sống dở chết dở vì bị thổi phồng quá mức từ khi còn nhỏ và mắc kẹt trong cái bẫy của danh vọng hão huyền.

Trong khi Việt Nam ( hạng 17 toàn đoàn) rầm rộ trên báo chí đăng tin hàng loạt về thành tích của đội tuyển Olympic Toán thì đội tuyển Mỹ ( hạng 3 toàn đoàn năm nay) chả có 1 dòng nào trên báo và cũng chả có hình ảnh gì luôn. Mà có hạng 1 thì cũng vậy nốt.

Leo lên Gúc gồ tìm thì thấy năm nào vinh dự lắm, đứng hạng 1 toàn đoàn thì đội tuyển Mỹ được một bài nhỏ tí kèm ảnh trên website của Hội Toán học Mỹ và may ra thêm 1 bài trên website của trường Carnegie Mellon là mừng hú.

Còn không thì chìm nghỉm. Mặc dù Mỹ nhiều năm nay hạng toàn đoàn đứng 1 ,2,3 và cùng lắm là 4. Đi thi chỉ có 6 bạn thì 5 bạn lãnh huy chương vàng còn 1 thì huy chương bạc, đại khái vậy.

Ra đường hỏi dân hay học sinh coi học sinh Mỹ nào lãnh huy chương vàng Toán hay bất cứ môn nào khác năm nay thì coi chừng toi đặc. Vì đảm bảo là hỏng ai bít là chính. Vì báo chí không đưa tin và thật sự trừ một ít người quan tâm thì tìm hiểu tí, còn lại chả ma nào quan tâm.

Thay vào đó chỉ cần hỏi tên cầu thủ bóng chày, bóng bầu dục hay bóng rổ hay ca sĩ trẻ nào lãnh thành tích cao nhất năm nay thì sẽ có cả núi người nói ro ro.

Mà nhìn vào đội tuyển Toán của Mỹ đi thi Olympic quốc tế dưới đây ( năm 2019, 2018 và 2015) có thể thấy giống như đội tuyển nước Á châu nào đó. Bởi toàn là mặt Á châu. Thực ra đều là người gốc Á quốc tịch Mỹ là chính, và chủ yếu là gốc Tàu và gốc Ấn rất giỏi và thông minh.

Cũng có 1 huấn luyện viên là phó giáo sư tại đại học Carnegie Mellon. Mà ông này dựa theo tên thì gốc Sing và xa xôi hơn nữa thì chắc là gốc Tàu qua Sing ở mà gia đình đã ở Mỹ và có quốc tịch Mỹ từ nhỏ. Po-Shen Loh là tên ổng ( trong hình). Ông này từng đoạt Huy chương Bạc Olympic Toán năm 1999. Yêu Toán và tốt nghiệp hạng xuất sắc tại CalTech danh giá, sau đó là nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Princeton rồi qua dạy tại Carnegie Mellon.

Cách chọn học sinh vào đội tuyển đại khái là dễ ẹc. Học sinh Mỹ muốn tham gia các kỳ thi toán giỏi ( hay bất cứ kỳ thi học sinh giỏi môn gì) thì cứ việc đăng ký với Hiệp hội quốc gia Mỹ của môn đó cũng là nhà tổ chức qua mạng và tìm coi nơi nào thi gần nhà mình nhất thì phi tới, nạp vài chục usd lệ phí là xong.

Thi hết vòng này qua vòng khác thoải mái, miễn đậu thì vào vòng trong. Không có đội tuyển đội tiếc gì và chả có ma nào luyện chưởng. Ông nào thích thì bò ra mà học toán. Nếu cần thì đăng ký tham gia vào các chương trình sinh hoạt của cộng đồng yêu Toán của Hội Toán học Mỹ, đại loại nạp phí hội viên thì sẽ đi sinh hoạt chung hay hội thảo, và nhận các tài liệu chuyên về Toán để ngâm cú và tán dóc với nhau về Toán.

Khi nào thi vào vòng cuối thì sẽ chọn ra tùy năm chừng vài chục bạn có thành tích cao nhất tham dự trại hè MAA’s Mathematical Olympiad Summer của Hội Toán học Mỹ vào tháng 6 hàng năm. Đại loại để cho nó có tính quốc tế thì thường có 70 học sinh tham gia, trong đó ngoài học sinh Mỹ thì mời cả học sinh giỏi Toán của 10 nước khác tới. Các bạn này sẽ cùng nhau ăn chơi nhảy múa trong cái trại đó kèm theo học và giải Toán rồi trao đổi và tranh luận, thi thố cho vui. Trại hè mà. Như vậy thì học sinh vừa được học vừa được chơi vừa được học hỏi từ các bạn giỏi Toán nhất nước Mỹ và thế giới. Trại này cũng thường chỉ diễn ra 2-3 tuần thôi. Tiền bạc thì không mất vì được tài trợ.

Rồi hết trại hè chọn ra chừng 6 bạn đi thi. Túm lại 6 bạn này sẽ là những người giỏi nhất. Mà tiêu chí của giỏi nhất ở đây không phải là gà chọi đã được vỗ nhiều năm và tung vào sới chọi chết thôi như kiểu ta. 6 bạn này là những người thông minh và đam mê Toán nhất. Do chủ yếu là tự học nên sức bật và khả năng tự khám phá, tự ngâm cú của các bạn này là cực kỳ cao cường. Thành ra năm nào đi thi chủ yếu là gặt huy chương vàng, buồn buồn lãnh thêm 1 cái huy chương bạc.

Vậy mà về nước ngoài gia đình cha mẹ và 1 ít người thân quen thì chả ma nào đón rước. Và cũng chả báo chí nào thèm tới quay phim chụp hình lăng xê gì ráo. Mà các cháu này cũng không thấy buồn bã gì vì thi Olympic thì cũng chỉ là 1 kỳ thi năng khiếu thôi có gì ghê gớm đâu. Muốn là nhà toán học hay nhà khoa học gì đó còn phải lao động cật lực vài chục năm nữa.Trường trung học của Vịt Bầu và Chim Sẻ nhà mình ở Mỹ có 1 đội tuyển thể thao năm nào cũng hạng 1 toàn Mỹ. Khi mà vô địch xong thì cả trường dàn quân ra từ trong ra tận cổng hân hoan chào đón, phụ huynh nở mày nở mặt sướng lắm. Nhưng mà học sinh nào thi đậu các giải Toán Lý Hóa gì đó thì may ra được đưa lên FB của trường là vinh dự lắm rồi.

Vì sao vậy? Vì Mỹ họ quan niệm rằng thành tựu của học thuật thật ra chỉ có thể vinh danh sau nhiều năm miệt mài khám phá, nghiên cứu, sáng tạo. Đại khái như là giải Nobel. Còn nếu chỉ dừng lại tại 1 kỳ thi quốc tế kể cả danh giá như Olympic thì cũng chỉ là bước khởi đầu. Hơn nữa việc truyền cảm hứng từ thành tích của một kỳ thi học thuật thì nó cũng hạn chế trong cộng đồng các tín đồ của môn đó thôi vì có phải ai cũng yêu Toán hay Lý, Hóa, Sinh gì đâu.

Nhưng thành tựu thể thao hay nghệ thuật thì lại được vinh danh ác liệt. Là vì những môn này phổ biến ai chả thích nên họ quan tâm. Và các ngôi sao thể thao hay nghệ thuật có thể hành nghề ngay từ rất sớm và mau chóng lên đài vinh quang của nghề đó nếu có tài và đủ sự khổ luyện. Và hơn nữa những tài năng này thường mau chóng bị đào thải do các điều kiện cần và đủ ở nhiều môn chính là trẻ và khỏe.

Nhưng dù như vậy, các tài năng Toán học hay bất cứ môn khoa học nào tại Mỹ sau này rất giỏi và họ sẽ trở thành các nhà khoa học, các nhà phát minh sáng chế tuyệt vời cho thế giới. Đó là vì họ thực sự yêu thích và hơn cả yêu thích là đam mê cháy bỏng môn mà họ theo đuổi. Họ cũng biết rằng vinh quang của khoa học cần phải trả giá bằng sự nghiêm túc tìm tòi, khám phá, học hỏi nhiều năm. Họ không phải là gà chọi mà là tinh hoa của nước Mỹ.

Đào tạo tài năng kiểu gà chọi chỉ có ích cho việc tự sướng, còn sau này sẽ làm thui chột tài năng và thậm chí tạo ra những con người sống dở chết dở vì bị thổi phồng quá mức từ khi còn nhỏ và mắc kẹt trong cái bẫy của danh vọng hão huyền.

Nguyễn Thị Bích Hậu
— với Trúc Mai và 19 người khác.

ĐỐI THOẠI NỀN VĂN HÓA
Hoàng Kim

Bài học cuộc sống quý giá là sự thấu hiểu và đối thọại giữa các nền văn hóa. Văn hóa là những gì lắng đọng khi ta đã quên đi tất cả. Tôi kể về một lớp học đã theo tôi suốt bao năm. Lớp học đa sắc tộc. Triết luận Goethe, Jefferson, Borlaug và Hemingway lắng đọng thật sâu sắc trong lòng tôi. Sử thi “Faust” kiệt tác văn chương thế giới của Goeth lưu dấu di sản khoa học nhân văn ở nhiều nơi trên thế giới. Thomas Jefferson, tác giả của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, của Đạo Luật Virginia về Tự Do Tôn Giáo và Người Cha của Đại Học Virginia’ đủ đọng mật cho một thế giới biến chuyển. Norman Borlaug nhà khoa học xanh ‘cứu sống nhiều người hơn bất cứ ai khác trong lịch sử’. Hemingway “Ông già và biển cả” là bài học tự do niềm vui sáng tạo giúp ta trở về với Ngày xuân đọc Trạng Trình; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Tô Đông Pha Tây Hồ

“Đối thoại nền văn hóa’ là phần ba, tiếp theo phần một “Con đường di sản LewisClark“; phần hai “Mexico ấn tượng lắng đọng” của bài viết “Đi như một dòng sông” và Châu Mỹ chuyện không quênTừ cậu bé chân đất Làng Minh Lệ đi ra thế giới, tôi nhớ không quên lời dạy đầu đời của cha tôi, người bị bom Mỹ giết ngày 29 tháng 8 âm lịch năm 1968, “Con Kim. Cu khi mô cũng nhớ con cả. Con học với Thầy phải biết kính thầy, lễ phép để cho thầy thương, chơi với bạn phải biết nhường bạn để cho bạn mến, làm việc gì cũng phải biết tự ý cẩn thận lời nói và việc làm, không bị người ta xui (dại). Bốn ý đó con phải nhớ nha con. Khai tâm là lời cha mẹ thầy anh chị thuở đầu đời nhưng khai trí lại học được ở trường đời “Đi như một dòng sông” mà thu hoạch được nhiều nhất chính ở bến sông này Châu Mỹ chuyện không quên mà tôi đã đúc kết được trên 36 đường link “Đối thoại nền văn hóa cho tự học của chính mình và hiến tặng bạn đọc.

ĐỐI THOẠI VĂN HÓA LỚP HỌC

Tiến sĩ Hannibal Multar, người Do Thái quê gốc Jerusalem, nay định cư ở Mỹ, Trưởng Chương trình Đào tạo của CIMMYT, thầy giáo chủ nhiệm lớp chúng tôi, trong bữa cơm chiêu đãi đầu tiên tại thủ đô Mexico thành phố di sản thế giới 1987, ngay câu đầu tiên sau khi giới thiệu về mình, đã quay sang hỏi tôi:  Kim ‘bạn tôi”. Lớp mình đủ năm châu. Bạn là người Việt Nam duy nhất của châu Á tại đây. Làm ơn hãy cho tôi biết, bạn muốn học gì ? Tôi bình tĩnh và lém lĩnh trả lời: “Chào thầy và các bạn.Tôi muốn ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’ như câu tục ngữ Việt Nam quê tôi. Trước hết, tôi muốn thân thiết học và hành với thầy bạn để thấu hiểu và đối thoại giữa các nền văn hóa. Thứ hai, tôi muốn trau dồi tiếng Anh vì đây là cơ hội tuyệt vời cho tôi để nghe, đọc, viết và nói tiếng Anh hàng ngày. Thứ ba, tôi muốn học cách quản lý Trung tâm Trạm trại Nông nghiệp chuyên cây trồng như CIMMYT, học cách chọn giống ngô và kỹ thuật thâm canh ngô thích hợp bền vững, cách làm cho người dân Việt Nam trồng ngô đạt năng suất cao,  thu nhập và đời sống tốt hơn”. Thầy bạn cùng cười: “Nói hay lắm!”.

Doithoaigiuacacnenvanhoa3

Sau này khi về Việt Nam, tôi có giữ lưu bút thầy bạn trong đó có thư này của thầy Hannibal Multar. Nội dung bức thư như sau: “Kim “bạn của tôi”. Tôi chỉ muốn nói một vài từ để bày tỏ sự đánh giá chân thành và niềm vui của tôi khi gặp bạn. Tôi cũng tự hào khi biết bạn trong vòng năm, sáu tháng này. Gia đình bạn đang nhớ bạn nhưng chúng tôi đã được rất nhiều bởi sự hiện diện của bạn với chúng tôi ở đây. Bạn gọi tôi là giáo sư bởi vì tôi đã dạy bạn về cách quản lý trạm trại nông nghiệp, nhưng thực ra tôi đã học được từ bạn rất nhiều. Tôi thấy bạn nổ lực và kiên trì học ngôn ngữ. Tôi đã nhìn thấy tác phẩm nghệ thuật đẹp và thơ của bạn. Sự thành thạo chuyên môn mà bạn phải đối mặt với nhiệm vụ của mình ở đây là một thành viên trong đội ngũ tuyệt vời. Tôi sẽ luôn nhớ bạn, bạn của tôi. Hãy giữ liên lạc và cho tôi biết nếu tôi có thể giúp đỡ bằng bất kỳ cách nào. Gửi lời chào thân thiết của tôi  đến gia đình tốt của bạn. Bạn thân. Hannibal Multar.

(To Kim “my friend”. I just want to say a few word to express to my sincere appreciation and joy for having met you. I am also proud to have known you over these five-  six months. Your family have missed you but we gained a lot by your presence with us here. You call me professor because I taught  you about station management, but rest assured that I have learned a lot from you. I saw you struggle and persevere in language. I have seen your beautiful art work and also your poetry. The professional adtitude you faced your duties here in being such a gracious team member. I shall alway remember you, my friend. Please keep in touch  and let me know if I can be of help in any ways. My best personal regards to your good family. Your friend. Hannibal Multar).

Doithoaigiuacacnenvanhoa21

GIẤC MƠ THIÊNG CÙNG GOETHE

Tượng Goethe có ở vườn danh nhân Đại học Tự trị Quốc gia México (Universidad Nacional Autónoma de México, tên viết tắt UNAM) là di sản thế giới năm 2007, trường đại học lớn nhất ở khu vực Mỹ Latinh nằm tại thành phố thủ đô México.Tiến sĩ Hannibal Multar thầy giáo chuyên gia huấn luyện quản lý trung tâm, trạm trại thí nghiệm nông nghiệp CIMMYT hướng dẫn tôi tham quan nơi này cũng như nhiều di sản thế giới khác mà tôi đã kể câu chuyện Mexico ấn tượng lắng đọng

Goethe

Goethe trong lòng tôi là nhà khoa học xanh sinh học và nhà thơ kể chuyện sử thi hay nhất thế gian. Tôi thuở nhỏ đã ngưỡng mộ Người qua câu thơ do Xuân Diệu dịch: “Mọi lý thuyết đều là màu xám, chỉ có cây đời mãi mãi tươi xanh”.

Lần trước, khi tôi đến Praha,  tôi đã gặp Goethe hóa thân thành “nhà phù thủy” là kiệt tác sử thi giữa quảng trường Old Town Square tại lâu đài cổ thành Hradčanské “Praha vàng”, quảng trường Con Ngưa, quảng trường Con Gà (theo cách gọi của sinh viên Việt Tiệp). Lâu đài Praha là lâu đài cổ lớn nhất thế giới theo sách Kỷ lục Guinness, với quảng trường Old Town Square, trung tâm trục lịch sử suốt nghìn năm, những tòa nhà cổ đầy màu sắc, với các nhà thờ Gothic và đồng hồ thiên văn thời trung cổ. Tôi cũng được gặp Goethe trên tượng đá danh nhân trên cầu đi bộ Karl (Tiếng Tiệp gọi là Karlův, người Việt gọi là cầu Tình) nối hai đầu Quảng trường Museum và Můstek  bắc trên con sông Vltava đến khu lâu đài cổ. Và sau cùng trong đêm thánh vô cùng tại rừng thiêng cổ tích Kalovi Vary, tôi đã may mắn có giấc mơ thiêng dạo chơi cùng Goethe. Câu chuyện dài này tôi đã kể trong Praha Goethe và lâu đài cổ

Lần này, khi tôi đến Mexico,  số phận lại cho tôi được gặp Goethe hóa thân trong tượng đá “vườn danh nhân” cùng kiệt tác sử thi Teotihuacan thành phố thời tiền Colombo, di sản thế giới 1987 ở México và Monte Alban kim tự tháp cổ trung tâm của nền văn minh Zapotec,  di sản thế giới năm 1987 ở tiểu bang Oaxaca  phía nam Mexico thì Trường Đại học Tự trị Quốc gia México (Universidad Nacional Autónoma de México,  UNAM) cũng là di sản thế giới năm 2007. UNAM được thành lập vào ngày 22 tháng 9 năm 1910 bởi Justo Sierra như là một thay thế cho Hoàng gia và Đại học Giáo hoàng México (thành lập vào ngày 21 tháng 9 năm 1551 bởi sắc lệnh hoàng gia của Karl V của đế quốc La Mã Thần thánh . Goethe giữa những chứng tích của nền văn minh Aztec và Maya “người tiền sử bản địa da đỏ” hóa đá sử thi 8.000 – 10.000 năm tuổi thì tư duy trí tuệ của nhà thông thái thiên tài, nhà thơ văn, nhà khoa học, triết gia, viết kịch và họa sỹ người Đức vẫn lưu dấu niềm tự hào của đất nước ông ở Mexico và nhiều nước ở châu Mỹ xa xôi.

Goethe tuy sinh ra và lớn lên ở Frankfurt am Main, thành phố lớn thứ năm của Đức, và ông đã sống ở Leipzig (thuộc Đức) Strasbourg (thuộc Pháp), nhưng nơi tưởng niệm Goethe tại Tiệp Khắc có ở rất nhiều vùng . Danh tiếng của ông vang dội toàn châu Âu và Thế Giới. Viện Goethe hiện có phân viện tại 13 thành phố ở Đức và 128 thành phố ở nước ngoài, trong đó có nhiều nước châu Mỹ. Đó là một hiện tượng lan tỏa văn hóa hiếm thấy.

Faust

Faust hoặc George Faust là một nhân vật có thật, đặc biệt nổi tiếng ở  Đức – Tiệp,  sống vào khoảng năm  1480 – 1541, là một thầy thuốc, nhà chiêm tinh và “phù thủy” ảo thuật gia xuất chúng người Đức, nhà khoa học tài năng có khả năng biến đá thành vàng. Faust là người  khát khao kiến thức, hiểu biết, người yêu tự do, không thích bị câu thúc. Faust đã kết bạn với quỷ để thỏa mãn ước mơ khám phá hiểu biết của mình. Kết cục cái giá của tự do khám phá những bí mật của trời đất, thiêng liêng của thần thánh phải trả bằng tính mạng của mình. Goethe tìm thấy từ hình tượng trong dân gian, một khát vọng vô biên về sức mạnh sáng tạo và chinh phục của con người để tìm ra một triết lý nhân văn soi thấu sự đam mê tự do là cái giá ĐƯỢC MẤT cao hơn mạng sống:  “Chỉ những ai biết hăng say lao động, biết nổ lực chinh phục những đỉnh cao chí thiện thì mới xứng đáng được hưởng tự do và tình yêu cuộc sống.

Đối thoại giữa các nền văn hóa, tôi chiêm nghiệm Giấc mơ thiêng cùng Goethe

GIẤC MƠ THIÊNG CÙNG GOETHE
Người già kể chuyện sử thi
Kalovi Vary, Roma, Oregon
Thắp lên trong tôi ngọn lửa
Hoàng Kim

Mọi lý thuyết đều là màu xám,
chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi
Goethe trao tặng cho tôi
Ngọc minh triết của Người.

Tôi giấc mơ gặp Goethe
Kalovi Vary, Czechoslovakia
trong rừng thiêng cổ tích.
Người kể chuyện sử thi

Tiệp Khắc kỷ niệm một thời
Praha Goethe và lâu đài cổ
Những khát khao của Faust,
Nỗi đau của chàng Werther

Người nhắc tôi đừng quên
kể chuyện sử thi dân mình
Cho dù học gì làm gì
Cũng đừng quên chuyện đó !

Người hỏi tôi trong mơ
Con có dám học Faust?
Chọn minh triết làm Thầy
Suốt đời theo Trí Tuệ ?

Tôi trả lời.trong mơ
Có con xin theo Người !
Con xin theo học Goethe
Người kể chuyện sử thi

Ta bàng hoàng gặp Goethe
Trên cầu đi bộ Charles
Trong 30 tượng thánh trầm tư
Tôi ngắm hình tượng Faust

Quảng trường Old Town Square
Đế Quốc La Mã Thần Thánh
Goethe lắng đọng tại Praha
Trong huyền thoại muôn đời

Tôi nhớ Người ở Frankfurt,
Di sản Người Leipzig, Strasbourg
Ông già hiền triết châu Âu
Tại bao nhiêu điểm đến …

Tôi học Goethe qua thơ Xuân Diệu
Mọi lý thuyết đều là màu xám,
chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi
Thơ Người đi cùng tôi bao tháng năm.

Tôi gặp Goethe ở châu Âu
Trong hình bóng người hiền
Cũng gặp Người tại Oregon
Nơi Miền Tây Nước Mỹ.

Tôi gặp Goethe ở châu Mỹ
Tại Ciudad Obregon
Hồ lớn ba tỷ khối nước
Cây xanh đất nước giao hòa

Tôi  gặp Người ở CIMMYT Mexico
phía cuối trời Tây
GoetheNorman Borlaug dạy cho tôi
Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương

Người hóa thân
trong thanh thản
bóng cây xanh
Người đàm đạo
với Norman Borlaug
và cậu học trò nghèo
Về ý tưởng xanh
Con đường xanh
Hành trình xanh
Sự nghiệp xanh
Nhà khoa học xanh
giấc mơ hạnh phúc

Goethe là vòm cây xanh
Goethe cũng là lão nông
ngồi cùng chúng ta
chuyện trò
trên cánh đồng xanh
hạnh phúc.

Goethe Norman Borlaug
là những trí tuệ bậc Thầy.
Họ không màng hư vình
mà hướng tới đỉnh cao hòa bình
sự an lành tiến bộ.

Anh và em cùng Goethe
Ở FAO, Rome, Italy
Người hóa thân
thành nữ thần Tình Yêu (*)

Trời xanh tuyệt vời !
Trời nhân loại mênh mông !

(*) Hình ảnh Hoàng Kim ở Roma, Italia.

ĐỐI THOẠI VĂN HÓA CHÂU PHI

Bài học cuộc sống quý giá là sự thấu hiểu và đối thọại giữa các nền văn hóa.Đối thoại văn hóa với Châu Phi tôi có tám ghi chép theo thời gian: Nhớ châu PhiMôhamet và đạo Hồi; Lúa sắn Việt Châu Phi; Thổ Nhĩ Kỳ nông nghiệp sinh thái; Thổ Nhĩ Kỳ với ‘vành đai và con đường’;Việt Nam con đường xanh; Mười hai ngày ở Ghana. Đó là sự tiếp nối kỳ lạ của đời tôi tại châu Phi qua nhiều chuyến đi đến Uganda, Nigeria, Ai Cập, Sông Nin, Thổ Nhĩ Kỳ, Ghana và các địa danh khác. . Các bạn cũ năm xưa tôi gặp ở CIMMYT, CIANO, OREGON, CIAT, CIP sau này có một số bạn tôi may mắn được gặp lại và gắn bó rất lâu khai mở thêm nhiều chuyến đi và kết gắn thêm các bạn mới tạo thành câu chuyện bạn hữu và du lịch sinh thái thú vị lưu lạc trong ký ức thật vui vẻ theo tôi nhiều năm. Tôi định gom điều này trong câu chuyện Nhớ châu Phi là một chủ đề khái quát hơn và kết nối với tám mục trên của châu Phi và bổ sung thêm nhưng cần có thời gian sắp xếp lại: Châu Phi một thoáng nhìn toàn cảnh. Châu Phi bạn nhớ điều gì nhất? Châu Phi chiến lược chuyển đổi sắn. Lúa sắn Việt Nam với châu Phi. Nông nghiệp và du lịch sinh thái. Trên đây chỉ mới là một số chỉ mục ghi chép chính của tôi trước đây về nhớ châu Phi đất nước con người. Tôi cần biên tập xâu chuỗi ký ức vụn các điạ danh và bạn hữu với những ghi nhớ chính. Mục đích của ghi chép này nhằm bảo tồn một số tư liệu thông tin bản thân có thể có ích cho ai đó quan tâm nông nghiệp sinh thái Việt Nam trong sự nhận thức và đối thoại nền văn hóa. Đi để hiểu quê hương đất nước con người, những giá trị cốt lõi văn hóa lịch sử dân tộc tôn giáo trong trãi nghiệm sinh thái nông nghiệp nước bạn giúp khai mở hiểu biết thế giới rộng lớn.

ĐỐI THOẠI VĂN HÓA CHÂU MỸ

Châu Mỹ chuyện không quên Tôi sang châu Mỹ nhiều lần, có trên 36 bài đường links, thỉnh thoảng vui đọc lại và viết thêm ghi chú Đó là một chặng đường trải nghiệm thích thú, trong con đường di sản của riêng mình Đối thoại nền va7n hóa. Đi để hiểu quê hương, Học để làm được điều gì đó.

Châu Mỹ chuyện không quên, tôi đã và đang lưu lại bao điều tâm đắc, Kazuo Kawano, Reinhardt Howeler, Hernan Ceballos, … là những người bạn tuyệt vời của tôi ở CIAT. Tôi học những gương cụ thể của họ nhưng cũng ấn tượng sâu sắc bởi bao gương sáng danh nhân như gương  George Washington, Thomas Jefferson; Norman Borlaug, Mark Zuckerberg, Bill Gates học để làm, đối với tôi thật sự thấm thía. Tôi thích học để làm, học vừa làm trí tuệ của họ. Câu châm ngôn hay về “sự đọc” đưa vào trang viết này thật đúng: “ Trong một thế giới có đủ bình tâm, người viết nhỏ hơn người đọc, người đọc nhỏ hơn quyển truyện họ đang đọc, và quyển truyện nhỏ hơn sự đọc. Người viết và người đọc rồi chết, truyện rồi quên. Sự đọc ở lại và làm nên một phần mênh mông trong định nghĩa của việc làm người “.

HoangTranLeNguyendatphuongNam

THẮP ĐÈN LÊN ĐI EM !
Hoàng Kim

Thắp đèn lên đi em!
Xua tăm tối, giữa đêm trường ta học
Vũ trụ bao la đèn em là hạt ngọc
Cùng sao khuya soi sáng mảnh đất này
Dù sớm chiều em đã học hăng say
Dù ngày mệt chưa một hồi thanh thản
Đèn hãy thắp sáng niềm tin chiến thắng
Em thắp đèn lên cho trang sách soi mình.

Thắp đèn lên đi em!
Xua tăm tối giữa đêm trường ta học
Em đâu chỉ học bằng ánh mắt
Mà bằng cả lòng mình, cả khối óc hờn căm
Thù giặc giết cha, bom cày sập tung hầm
Nhà tan nát, sân trường đầy miệng hố
Hãy học em ơi, dù ngày có khổ
Lao động suốt ngày em cần giấc ngủ ngon
Nhưng đói nghèo đâu có để ta yên
Và nghị lực nhắc em đừng ngon giấc
Nợ nước thù nhà ngày đêm réo dục
Dậy đi em, Tổ quốc gọi anh hùng.

Thắp đèn lên đi em!
Xua tăm tối giữa đêm trường ta học
Mặc cho gió đêm nay lạnh về tê buốt
Tấm áo sờn không đủ ấm người em
Vùng dậy khỏi mền, em thắp ngọn đèn lên
Để ánh sáng xua đêm trường lạnh cóng
Qua khổ cực càng yêu người lao động
Trãi đói nghèo càng rèn đức kiên trung
Em đã đọc nhiều gương sáng danh nhân
Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí
Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ
Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin.

Thắp đèn lên đi em!

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Mênh mang một khúc sông Hồng
Huyền Thoại Hồ Núi Cốc
Một thoáng Tây Hồ
Trên đỉnh Phù Vân
Chảy đi sông ơi …

Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

#cnm365 #cltvn 26 tháng 9


#CNM365 #CLTVN 26 THÁNG 9
Hoàng Kim và Hoàng Long
CNM365 Tình yêu cuộc sống #vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ; Nguyễn Khải thầy văn Việt; Sách hay thầy bạn quý; Về Việt Bắc nhớ Người; Mây lành Phổ Đà Sơn; Thiên nhiên là thú thần tiên; Vui đi dưới mặt trời, Đá Đứng chốn sông thiêng; Đợi nắng; Ta về với Linh Giang; Hoa Đất của quê hương, Hoa Đất thương lời hiền; Đất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha; Linh Giang Đình Minh Lệ; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ; Trần Khánh Dư “Bán than”. Trần Khánh Dư vẹn kiếp; Kim Dung trong ngày mới; Ngày 26 tháng 9 năm 1983, sĩ quan Liên Xô Trung tá Stanislav Yevgrafovich Petrov, người sau này nhận được giải thưởng đặc biệt Công dân thế giới ngày 21 tháng 5 năm 2004, bởi sự kiện ngày 26 tháng 8 năm 1983 đã tránh được chiến tranh nguyên tử khắp thế giới bằng cách chứng nhận báo động giả mặc dù hệ thống báo trước cho rằng Hoa Kỳ đang tấn công; Ngày 26 tháng 9 năm 1969, Album Abbey Road của ban nhạc The Beatles được phát hành tại Anh. Ban nhạc The Beatles có tên trong danh sách “Nhân vật quan trọng nhất của thế kỷ 20” của tạp chí Time,  là nghệ sĩ có hơn 600 triệu đĩa đã bán trên toàn thế giới. Ngày 26 tháng 9 năm 2004, tạp chí Rolling Stone xếp The Beatles là nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại. Ngày 26 tháng 9 năm 2007, Nhịp dẫn cầu Cần Thơ sập làm 54 người chết, 180 người bị thương.(Cầu Cần Thơ ngày nay, hình). Bài viết chọn lọc ngày 26 tháng 9 #vietnamhoc; #Thungdung; #cltvn; #đẹpvàhay; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ; Nguyễn Khải thầy văn Việt; Sách hay thầy bạn quý; Về Việt Bắc nhớ Người; Mây lành Phổ Đà Sơn; Thiên nhiên là thú thần tiên; Vui đi dưới mặt trời, Đá Đứng chốn sông thiêng; Đợi nắng; Ta về với Linh Giang; Hoa Đất của quê hương, Hoa Đất thương lời hiền; Đất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha; Linh Giang Đình Minh Lệ; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ;Trần Khánh Dư “Bán than” Trần Khánh Dư vẹn kiếp; Kim Dung trong ngày mới; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-26-thang-9/

TRÚC LÂM TRẦN NHÂN TÔNG
Hoàng Kim

Trần Nhân Tông (1258-1308)  là một trong những vị vua anh minh nhất của lịch sử Việt Nam. Người tên thật là Trần Khâm, vua Trần thứ ba (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Với 50 năm cuộc đời, vua Phật Trần Nhân Tông đã kịp làm được ít nhất năm việc lớn hiếm thấy và khó ai bì kịp ở mọi dân tộc và mọi thời đại: 1) Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thời đó; 2) Tổ sư thiền phái Trúc Lâm và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306) là vua Phật Việt Nam. 3) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với kiệt tác thơ Thiền Trần Nhân Tông và thắng tích Trúc Lâm Yên Tử; 4) Người thầy chiến lược vĩ đại muôn đời của kế sách một chữ “đồng” “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”, nhược thắng cường, yếu thắng mạnh, nước nhỏ thắng nước lớn, sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt bằng vương đạo, thuận thời, thuận người . 5) Nhà trị loạn kỳ tài đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt ở thời khắc quyết định, biến nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.

Kiệt tác thơ thiền đức Nhân Tông là đỉnh cao thơ Thiền thời Trần:

Cư trần lạc đạo phú
Đại Lãm Thần Quang tự
Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
Đăng Bảo Đài sơn
Đề Cổ Châu hương thôn tự
Đề Phổ Minh tự thủy tạ
Động Thiên hồ thượng
Họa Kiều Nguyên Lãng vận
Hữu cú vô cú
Khuê oán
Lạng Châu vãn cảnh
Mai
Nguyệt
Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ
Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính
Sơn phòng mạn hứng
I
II
Sư đệ vấn đáp
Tán Tuệ Trung thượng sĩ
Tảo mai
I
II
Tặng Bắc sứ Lý Tư Diễn
Tây chinh đạo trung (tái chinh Ai Lao)
Thiên Trường phủ
Thiên Trường vãn vọng
Tống Bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai
Tống Bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng
Trúc nô minh
Tức sự
I
II
Vũ Lâm thu vãn
Xuân cảnh
Xuân hiểu
Xuân nhật yết Chiêu Lăng
Xuân vãn

Lên non thiêng Yên Tử, khảo sát điền dã những chứng tích lịch sử văn hóa lưu dấu mãi với thời gian. “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.). Đức Nhân Tông viết về sự đạt ngộ với người thầy là Tuệ Trung Thượng Sĩ . “Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy”. “Soi sáng lại chính mình” chứ không tìm kho báu ở đâu khác là trí tuệ siêu việt của vua Phật Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông.

Đêm Yên Tử là trãi nghiệm sâu lắng nhất đời tôi, tác phẩm và trích dẫn biên khảo yêu thích. Tôi chép lại hai điểm nhấn quan trọng “Dấu xưa đêm Yên Tử” “Thơ Thiền đức Nhân Tông” với bốn bài thơ “Lên non thiêng Yên Tử”, “Tìm về đức Nhân Tông”, “Sông núi lưu ân tình”, “Biển Hồ NgọcTây Nguyên” của chính mình với bài Trần Nhân Tông (1247-1308): Minh quân và đạo sĩ của Nguyễn Đức Hiệp.

DẤU XƯA ĐÊM YÊN TỬ

Đêm Yên Tử, vào lúc nửa đêm, ngày mồng 1 tháng 11 năm Mậu Thân (1308) sao sáng đầy trời, Trúc Lâm hỏi: “Bây giờ là mấy giờ?”. Bảo Sát thưa: “Giờ Tý”. Trúc Lâm đưa tay ra hiệu mở cửa sổ nhìn ra ngoài và nói: “Đến giờ ta đi rồi vậy”. Bảo Sát hỏi: “Tôn sư đi đâu bây giờ?”. Trúc Lâm nói: “Mọi pháp đều không sinh. Mọi pháp đều không diệt. Nếu hiểu được như thế. Chư Phật thường hiện tiền. Chẳng đi cũng chẳng lại”.

( trước đó) sách “Tam tổ thực lục”, bản dịch, Tư liệu Viện Khảo cổ học, ký hiệu D 687, trang 12 ghi: “Ngày 18 ngài lại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở ngọn núi Kỳ Đặc, Ngài thấy rức đầu. Ngài gọi hai vị tì kheo là Tử Danh và Hoàn Trung lại bảo: ta muốn lên núi Ngoạ Vân mà chân không thể đi được thì phải làm thế nào? Hai vị tỳ kheo bạch rằng hai đệ tử chúng tôi có thể đỡ đại đức lên được. Khi lên đến núi, ngài cảm ơn hai vị tỷ kheo và bảo các ngươi xuống núi tu hành, đừng lấy sự sinh tử làm nhàm sự.

Ngày 19 ngài sai thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử giục Bảo Sát đến ngay núi Ngoạ Vân….. Ngày 21, Bảo Sát đến núi Ngoạ Vân, Ngài thấy Bảo Sát đến mỉm cười nói rằng ta sắp đi đây, sao ngươi đến muộn thế?” “Mùa đông tháng 11, … ngày mồng 3, thượng hoàng (Trần Nhân Tông) băng ở Am Ngoạ Vân Núi Yên Tử”. Sách Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, Nhà Xuất Bản Văn hoá Thông tin, 2004, trang 570 chép.

Đêm Yên Tử, tôi đi lúc nửa đêm từ nơi khởi đầu tại khu lăng mộ đức Nhân Tông theo đường xưa mây trắng lên chùa Đồng, Tôi đi một mình trong đêm lạnh không trăng sao và thật tỉnh lặng với một đèn pin nhỏ trong tay, gậy trúc, khăn quàng cổ và ba lô. Tôi đã tới vòm đá hang cọp phía sau chùa Bảo Sái gần đỉnh chùa Đồng lúc ba giờ khuya và ngồi dưới chân Bụt Trần Nhân Tông với cảm giác thành tâm, an nhiên thật lạ, không lo âu và không phiền muộn. Nơi đây giờ này là lúc Trần Nhân Tông mất. Người từ chùa Hoa Yên lúc nữa đêm đã nhờ Bảo Sái, một danh tướng cận vệ và đại đệ tử thân tín, cõng Người lên đây. Bảy trăm năm sau, giữa đêm thiêng Yên Tử, đúng chính nơi và khoảng giờ lúc đức Nhân Tông mất, tôi lắng nghe tiếng lá cây gạo trên 700 tuổi rơi rất mỏng lúc canh khuya. Bóng của Phật Nhân Tông mờ mờ bình thản lưng đền. Lúc đó vụt hiện trong đầu tôi bài kệ “Cư trần lạc đạo” của đức Nhân Tông và bài thơ “đề Yên Tử sơn, Hoa Yên Tự” của Nguyễn Trãi văng vẳng thinh không thăm thẳm vô cùng …

Hoàng Kim kính cẩn cảm nhận

LÊN NON THIÊNG YÊN TỬ

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc

“Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải ngọc châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)

Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng. (2)

Non thiêng Yên Tử
Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
Bảy trăm năm đức Nhân Tông
Non sông bao cảnh đổi
Kế sách một chữ Đồng
Lồng lộng gương trời buổi sớm
Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông …

* (1) Thơ Nguyễn Trải (2) Bản dịch thơ của Hoàng Kim
Nguồn: THUNG DUNG thơ văn Hoàng Kim Lên non thiêng Yên Tử (2011) https://thungdung.wordpress.com/yentu/

SÔNG NÚI LƯU ÂN TÌNH

Thương nước biết ơn bao người ngọc (*)
Vì dân qua bến nhẹ tênh lòng
Nhớ bao tài đức đời phiêu dạt
Ân tình lưu mãi những dòng sông.

(*) An Tư, Huyền Trân, Ngọc Hoa, Ngọc Vạn, …

TÌM VỀ ĐỨC NHÂN TÔNG

Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim…
(Trần Nhân Tông)

Người ơi con đến đây tìm
Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ
Núi cao trùng điệp nhấp nhô
Trời xuân bảng lãng chuông chùa Hoa Yên

Thầy còn dạo bước cõi tiên
Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn
Mang cây lộc trúc về Nam
Ken dày phên giậu ở miền xa xôi

Cư trần lạc đạo Người ơi
Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung
Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung
Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài

An Kỳ Sinh trấn giữa trời
Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non …

BIỂN HỒ NGỌC TÂY NGUYÊN

“Mây núi nào không bay cạnh núi,
Sóng nào chẳng ở chốn xa khơi.” (1)
Ban mai nắng hửng Tiên Sơn đẹp
Vàng sáng trời quang Biển Hồ ơi.

Dấu xưa Đêm Yên Tử
Thơ Thiền Trần Nhân Tông
Lên non thiêng Yên Tử
Sông núi lưu ân tình
Tìm về đức Nhân Tông
Biển Hồ Ngọc Tây Nguyên

Bạch Ngọc
tiếp dẫn thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ (1)
ảnh Chùa Bửu Minh

Tài liệu trích dẫn

TRẦN NHÂN TÔNG (1247-1308):
MINH QUÂN VÀ ĐẠO SĨ
biên khảo của Nguyễn Đức Hiệp
(Nguồn: https://nghiencuulichsu.com/2012/10/02/tran-nhan-tong-1247-1308-minh-quan-va-dao-si/)

“Nhà ta vốn là dân hạ bạn
đời đời ưa chuộng việc hùng dũng”
Trần Nhân Tông

Trong lịch sử Việt Nam, có những vị vua giỏi giang cáng đáng và lãnh đạo nước trong những tình huống khó khăn. Trần Nhân Tông là một trong những vị vua đầu khai triều và xây dựng nhà Trần. Triều ông là giai đoạn cực thịnh nhất của nhà Trần. Ông lãnh đạo nước trong những thời kỳ gay cấn nhất của lịch sử Việt Nam: chiến tranh xâm lược của đạo quân Mông Cổ gieo rắc kinh hoàng ở khắp lục địa Á-Âu.

Trong hai cuộc xâm lăng của Mông Cổ lần hai và lần ba, ông đã cùng tướng sĩ và nhân dân đối phó và đánh bại giặc. Ông là người mở ra Hội nghị Diên Hồng hỏi ý kiến toàn dân và cùng nhân dân đối kháng địch. Trần Nhân Tông không những là vị vua cương chính và gần dân mà còn là một đạo sĩ Phật giáo hiền tài, một trong ba sư tổ sáng lập ra trường phái Trúc Lâm duy nhất ở Việt Nam.

1- Con người và sự nghiệp

(a) Bản chất con người

Thái tử Trần Khâm tức Trần Nhân Tông lên ngôi vua thay thế Thượng Hoàng Thanh Tông năm 1279. Ông là một vị vua có cốt ở dân và có một târn hồn Việt cội rễ. Ẩn tàng trong ông là ý thức về nguồn, gợi nhớ gốc tổ Rồng Tiên, như lời ông từng nói với con Trần Anh Tông và Quốc Công Trần Quốc Tuấn: “Nhà ta vốn là dân hạ bạn, đời đời ưa chuộng việc hùng dũng… thích hình rồng vào đùi để tỏ ra không quên gốc.” Tục xăm hình rất phổ biến trong dân gian Việt Nam từ thời Hùng Vương, đến đời Trần Nhân Tông thì phát triển mạnh mẽ. Từ vua quan đến quân dân đều vẽ xâm hình rồng trước bụng, sau lưng và hai vế đùi. Lúc này người ta chẳng những quan niệm xâm hình rồng để khi xuống nước không bị giao long làm hại mà còn ngầm nhắc nhở nhau về một nguồn gốc như lời vua nhắn nhủ.

Tục này thịnh hành đến nổi người Trung Hoa trông thấy gọi là “thái long” tức rồng vẽ. Theo sứ nhà Nguyên Trần Phụ, thì mỗi người dân Đại Việt còn thích chữ “Nghĩa di quyền phụ, hình vu báo quốc” (Vì việc nghĩa mà liều thân, vì ơn nước mà báo đền). Điều này cho thấy dưới đời vua Trần Nhân Tông, quân dân đều một lòng và tụ tập quanh một ông vua có căn cơ là gốc dân.

(b) Tư cách lãnh đao

Nhân Tông là một vị vua anh minh, biết dùng và trọng dụng nhân tài. Đời ông, nhân tài, anh hùng, tuấn kiệt lũ luợt kéo ra giúp nước, lòng người như một. Bên ông, về quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật .., về văn học có các văn thi sĩ uyên bác như Nguyễn Thuyên, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Riêng Nguyễn Thuyên là người khởi đầu dùng chữ Nôm làm thơ phú, văn hay như Hàn Dũ bên Trung Quốc ngày xưa nên Nhân Tông cho đổi tên là họ Hàn.

Sự hiểu người và dùng người của ông được thể hiện qua một câu chuyện tiêu biểu sau. Trong không khí khẩn trương, khi con trai của Hốt Tất Liệt là Thái tử Thoát Hoan đang sôi sục căm hờn điều động binh mã ở biên thùy để sửa soạn tràn vào Đại Việt. Vào một ngày cuối năm Nhâm Ngọ (1282), tại bến Bình Than có một cuộc họp lịch sử giữa vua Trần Nhân Tông và các tướng sĩ. Giữa lúc vua Nhân Tông và mọi người đang bàn bạc sôi nổi, vua chợt nhìn ra ngoài sông và thoáng thấy một chiếc thuyền lớn chở đầy than theo dòng đổ về xuôi. Nhác thấy trên thuyền có một người đội nón lá, mặc áo ngắn, ngộ ngộ trông như người quen, vua bèn chỉ và hỏi quan thi thần:

– Người kia có phải là Nhân Huệ Vương không?

Rồi lập tức sai quân chèo thuyền nhỏ đuổi theo. Nhưng lát sau chỉ thấy quân trở về không, tâu với vua là ông lái ngang bướng ấy không chịu đến mà chỉ trả lời rằng:

– Lão già này là người bán than, có việc gì mà vua gọi đến!

Nghe thấy thế, các quan rất đổi ngạc nhiên và lo cho người bán than, cái tội khi quân mạn thượng này dù xử nhẹ cũng phải dăm chục trượng là ít. Nhưng Nhân Tông vẫn tươi cười mà rằng:

– Thế thì đúng là Nhân Huệ Vương rồi, người thường không dám trả lời ta như thế!

Rồi sai nội thị đi gọi: lần này “lão ta” chịu đến. Vua quan nhìn ra thì đích thị không sai. Người lái thuyền bán than đó chính là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Đội chiếc nón lá và bận tấrn áo nâu ngắn bạc phếch, quần xắn tới đầu gối, trông ông ta thật phong trần. Nhưng lạ thay, cuộc sống lam lũ vẫn không làm mất được cái vẻ tinh anh quắc thước và dáng dấp hiên ngang ở người tướng vũ dũng của cuộc kháng chiến chống Mông Cổ năm xưa, vì nóng tính và trót phạm lỗi với triều đình nên bị cách chức và tịch thu gia sản. Chuyến đi hôrn nay của ông tình cờ lại hóa hay

– Thế nào, liệu khanh còn đủ sức đánh giặc hay không? – Nhân Tông ướm hỏi.

Nghe thấy hai chữ “đánh giặc”, mắt Trần Khánh Dư vụt sáng:

– Dạ, thần còn đủ sức. Mấy năm nay vung rìu đẵn gỗ, cánh tay thần xern ra còn rắng rỏi hơn xưa.

Nhân Tông cười vui vẻ và ngợi khen:

– Quả là gan Trần Khánh Dư còn bền hơn sắt đá. Được rồi còn phải xem khanh lập công chuộc tội ra sao?

Đoạn xuống chiếu tha tội cho Trần Khánh Dư, ban mũ áo, phong làm phó tướng quân rồi cho ngồi ở ghế cuối hàng vương để bàn việc nước. Thế là triều đình lại có thêm được một người tài giỏi đứng ra phò vua giúp nước.

Sự dùng người của Nhân Tông như thế xứng đáng phong cách của một người lãnh đạo: hiểu và dùng người đúng chỗ.

(c) Cách cư xử người

Trần Nhân Tông là một vị vua khí khái và nhân đức. Đối diện với bao phong ba bão táp, ông lãnh đạo tướng sĩ và nhân dân chống đỡ những cơn hiểrn nguy. Nhưng không lúc nào là ông không để ý đến tình trạng của quân dân.

Khi quân Mông Cổ với khí thế hung tàn tràn vào Đại Việt, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn vì kém thế thua chạy rút về Vạn Kiếp. Nhân Tông nghe Hưng Đạo Vương thua, liền ngự một chiếc thuyền nhỏ xuống Hải Dương rồi cho vời Hưng Đạo Vương đến bàn việc, nhân thấy quân mình thua, trong bụng không yên, mới bảo Hưng Đạo Vương rằng:

– Thế giặc to như vậy, mà chống nó thì dân sự tàn hại, hay là trẫm hãy chịu hàng đi để cứu muôn dân?

Hưng Đạo Vương tâu rằng:

– Bệ hạ nói câu ấy thì thật là nhân đức, nhưng mà tôn miếu xã ­tắc thi sao? Nếu bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng.

Nhân Tông nghe lời nói trung liệt như vậy, trong bụng mới yên.

Cũng vậy, đối với quân thù, trong trận chiến thắng lịch sử của quân ta ở Tây Kết (Khoái Châu, Hải Hưng), tướng giặc là Toa Đô bị trúng tên chết và Ô Mã Nhi phải chốn chui xuống thuyền vượt biển chạy về Trung Quốc. Khi các tướng thắng trận đưa đầu Toa Đô về nộp, Nhân Tông thấy người dũng kiện mà lại hết lòng với chúa, nên xúc động mới than rằng: “Làm bầy tôi nên như người này” rồi cởi áo ngự bào đắp vào đầu Toa Đô, sai quân dùng lễ mai táng cho tử tế.

Khi bóng quân Mông Cổ không còn trên đất Nam, triều đình bắt được một tráp chứa các biểu hàng của một số quan. Số là khi quân giặc đang cường thịnh, triều thần lắm kẻ hai lòng, có giấy má đi lại với chúng. Đình thần muốn lục tráp ra để trị tội, nhưng Nhân Tông và Thánh Tông Thượng Hoàng nghĩ xa đến sự hoà giãi dân tộc nên sai đem đốt cả tráp đi cho yên lòng mọi người và cùng nhau xây dựng lại cố đô. Duy chỉ những người thực sự hàng và hợp tác với giặc mới bị trị tội.

(d) Trị nước

Trách nhiệm giữ nước đã xong, Nhân Tông còn phải lo việc ngoại giao với giặc và xây dựng lại đất nước và con người. Với nhà Nguyên, Mông Cổ, vua không kiêu căng khi thắng, mà hoà khí, khiêm nhượng nhưng nhân chính. Sự tàn phá của quân Mông Cổ thật nặng nề đến nổi, lúc chiến thắng trở về Thăng Long, vua không còn cung điện để ở mà phải tạm trú ở Lăng thị vệ. Trong tờ biểu gởi Hốt Tất Liêt, Nhân Tông đã phải viết: “đốt phá hết chùa miếu trong nước, khai quật phần mộ tổ tiên, cướp bóc dân gian, phá phách sản nghiệp trăm họ, mọi tàn ác không việc nào trừ …”.

Hậu quả của chiến tranh tàn khốc như vậy cho nên phải có chính sách an dân và ủy lạo dân. Sau cuộc chiến, Nhân Tông xuống chiếu đại xá cho thiên hạ. Nơi nào bị địch đốt phá thì tha tô ruộng và tạp dịch toàn phần, các chỗ khác thì xét miễn giảm theo thứ bậc khác nhau. Chinh sách khéo léo và có tầm nhìn xa này, thể hiện một tinh thần thương dân và ở một đầu óc có tư tưởng đầu tư xây dựng lâu dài, đã được kể lại trong quyển “Long thành dật sự” như sau:

Sau chiến tranh, thành Thăng Long nhiều đoạn bị san bằng, vua Nhân Tông định hạ chỉ gấp rút xây lại thành trì. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn can rằng: “Việc sửa lại thành trì không cần kíp lắm. Việc cần kíp của triều đình phải làm ngay không thể chậm trễ được là việc ủy lạo nhân dân. Hơn 4 năm, quân giặc hai lần tràn sang quấy rối, từ nơi núi rừng đến nơi đồng ruộng, đều bị tàn phá hầu hết. Vậy mà nhân dân vẫn một lòng hướng về triều đình, xuất tài, xuất lộc, đi lính và đóng thuế, làm nên một lực lượng mạnh cho triều đình chống nhau với giặc. Nay nhà vua được trở về yên ổn. Việc làm trước hết là chú ý ngay đến dân, những nơi nào bị tàn phá, tuỳ tình trạng nặng nhẹ mà cứu tế; nơi nào bị tàn phá quá nặng, có thể miễn tô thuế mấy năm. Có như thế dân mới nức lòng càng quy hướng về triều đình hơn nữa. Người xưa đã nói: “chúng chí thành thành” nghĩa là ý chí của dân là một bức thành kiên cố. Đó mới là cái thành cần sửa chữa ngay, xin nhà vua xử lý.”

Vua Nhân Tông vui vẻ nghe theo lời khuyên của Trần Quốc Tuấn. Đây cũng là một bài học quan trọng mà gần đây chúng ta đã không nắm mà nguy hơn nữa là đã làm ngược lại.

Cũng vậy để cải tổ bộ máy hành chánh, và thúc đẩy nền kinh tế giúp dân giàu mạnh. Trần Nhân Tông quyết định giảm thủ tục, các quan lộc và quan liêu trong nước. Trước một bộ máy quá lớn và quá nặng nề từ Thượng thư sảnh, Môn hạ sảnh, Nội mật viện, đến các quan, cac lục bộ, các cục (Nội thư hoả cục, Chi hậu cục..), các đài (Ngự sử đài), các viện (Khu mật viện, Hàn lâm viện, Thẩm hình viện, Quốc sử viện, Thái y viện,..), các ty .. khiến Trần Nhân Tông phải thốt lên :

” Sao một nước bé bằng bàn tay mà phong nhiều quan thế! “

Lại một lần nữa, vấn đề này cũng là vấn đề mà hiện nay chúng ta đang trực tiếp đối diện

(e) Trung hiếu và gia huấn

Trần Nhân Tông coi việc trung hiếu là quan trọng hàng đầu. Đối với thượng hoàng và các bề trên ông đều hết lòng đáp nghĩa. Ông thường lễ long trọng hàng năm trước các lăng tiền bối. Bài thơ của ông làm lúc về bái yết lăng ông nội Trần Thái Tông vẫn còn để lại trong sử sách.

Trượng vệ thiên môn túc
Y quan thất phẩm thông ..

(Qua nghìn cửa chào nghiêm túc,
Đủ áo mũ các quan của bảy chức ..)

Khi ông là Thượng hoàng, đối với con ông là Trần Anh Tông, ông để tự do nhưng đều khuyên bảo những điều nhân đức về phép trị dân. Sử sách chép rằng, Anh Tông là người có hiếu nhưng thường uống rượu và lẻn đi chơi đêm khắp kinh thành, đến gà gáy mới về. Vì thế có lúc Nhân Tông phải có thái độ cứng rắn.

Tháng năm năm Kỷ Hợi (1299), vua Anh Tông uống rượu xương bồ say quá. Thượng hoàng Nhân Tông từ phủ Thiên Trường (Nam Định), nơi các Thượng hoàng thường ở an dưỡng, về kinh sư, quan trong triều không ai biết cả. Nhân Tông thong thả xem khắp các cung điện, từ sáng đến trưa. Người trong cung dâng cơm, Nhân Tông ngoãnh trông, không thấy vua, ngạc nhiên hỏi ở đâu?

Cung nhân vào đánh thức nhưng vua say quá không tỉnh. Ông giận lắm, trở về Thiên Trường ngay, xuống chiếu cho các quan ngày mai đến họp ở phủ Thiên Trường. Đến chiều, vua Anh Tông mới tỉnh, biết Thượng Hoàng về kinh, sợ hải quá, vội vàng chạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên Đoàn Nhữ Hài, mượn thảo bài biểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi suốt đêm đến phủ Thiên Trường. Nhân Tông xem biểu rồi quở mắng một lúc, và tha lỗi cho Anh Tông. Từ đó vua Anh Tông không uống rượu nữa.

2- Xuất thế và thơ văn

Sau khi quân xâm lăng Nguyên Mông Cổ không còn dám có tham vọng chiếm Đại Việt, năm năm sau (1293) Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con ở Thăng Long rồi rút về Thiên Trường đi ngao du và bắt đầu xuất thế. Trước lúc đó, ông đã là một nhà đạo sĩ và thi văn nổi tiếng đời Trần. Đời của ông lúc này chuyển qua một giai đoạn khác, việc nước và gia đình đã xong giờ đến việc mình và đời sống tinh thần của bản thân.

Ông cùng các đệ tử của mình lên núi Yên Tử (Quảng Ninh) xây dựng các chùa. Một trong những chùa nổi tiếng nhất là chùa Hoa Yên. Ông là vị “tổ” đã có công lớn trong việc xây dựng nên phái Phật giáo ở vùng Yên Tử Sơn này. Trần Nhân Tông, cùng sư Pháp Hoa và sư Huyền Quang là tam tổ của trường phái Trúc Lâm và thường được goi là phái Trúc Lâm Tam Tổ vì chỉ riêng ở Việt Nam mới có.

Sự nhập thiền của Trần Nhân Tông không phải là một tiêu cực yếm thế. Thiền Trúc Lâm mang một hinh thái nữa có nữa không, nữa thực nữa hư và có một tinh thần biện chứng tích cực. Một thiền Phật giáo nhập thế mà tất cả mọi người dân đều có thể áp dụng theo đuổi ở mọi nơi, mọi lúc trong đời sống không phải chỉ ở cửa chùa. Bắt nguồn từ thiền Vô Ngôn thông, quan điểm cơ bản của thiền Trúc lâm là “tức tâm tức Phật”, Phật ở tâm, ở trong ta, khi đốn ngộ thì ta là Phật và Phật là ta. Từ Yên Tử Sơn, lâu lâu Nhân Tông đi ngao du các nơi, thăm thắng cảnh thanh bình của quê hương mình. Lúc qua Thiên Trường vào một buổi chiều, trong cảnh tranh tối tranh sáng của đồng quê Việt Nam, dưới con mắt Thiền của mình, ông đã xúc cảm làm một bài thơ tựa đề “Thiên Trường vãn vọng”

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý quy ngưu tận
Bạch lộ song song phi hạ điền

(Xóm trước thôn sau tựa khói lồng
Bóng chiều dường có lại dường không
Mục đồng sáo vẵng trâu về hết
Cò trắng từng đôi hạ xuống đồng)

Những buổi chiều của đồng quê Việt Nam đẹp đẽ và yên tỉnh như kia là một hiện thực, đã có từ nghin năm nay trong đời sống nhân dân, và đã tác động mạnh mẽ vào một tâm hồn Việt cội rễ của đạo sĩ Trần Nhân Tông.

Danh tiếng của đạo sĩ Trần Nhân Tông vang lừng khắp Đại Việt đến tận đất Chiêm Thành. Trong cuộc thăm viếng lịch sử chưa từng có của một Thượng hoàng nước Đại Việt, cả Chiêm Thành từ vua quan đến nhân dân một lòng tôn kính một hiền sĩ từ phương xa ghé vào. Nhân Tông cũng xúc động và học hỏi nhiều từ một nền văn minh khác. Đối với ông, con người đâu đâu cũng vậy. Biên giới chỉ là một hàng rào giã tạo đặt ra bởi sự không thông hiểu giữa con người. Ông đã nhin xa và muốn thắt chặt tình thân hữu anh em của hai dân tộc Việt-Chiêm. Ông đề nghị với vua Trần Anh Tông kết hợp con gái Nhân Tông (tức em gái Trần Anh Tông) là công chúa Huyền Trân với vua Chiêm Thành. Cả Chiêm Thành, từ sự kính trọng đối với một đạo sĩ hiền tài này, đã hoan hỷ chấp nhận. Vua Chiêm là Chế Mân (Jaya Sinhavarman III mà trước đây là thái tử Harijit đã cùng đồng minh Đại Việt chống quân Nguyên đổ bộ ở Chiêm Thành) đã tặng Đại Việt hai châu Ô và châu Rí trong cuộc hôn nhân lịch sử này. Nhưng tiếc thay sau khi Chế Mân và Trần Nhân Tông mất, chiến tranh lại tái diễn giữa hai dân tộc.

Năm 1308, Thượng hoàng Trần Nhân Tông băng hà ở am Ngọa Vân, núi Yên Tử. Sư Pháp Hoa thiêu xác ông, nhặt hỏa cốt và hơn ba ngàn hạt xá lị để vào hộp, mang về chùa Từ Phúc ở kinh sư.

Mùa thu năm 1310, linh cửu chứa hỏa cốt Thượng hoàng được rước về chôn ở làng Quý Đức, Phủ Long Hưng (Thái Bình). Khi nghe tin ấy, cả nước đều muốn tiễn linh cửu người Việt hiền tài này lần cuối cùng. Trước hết, tạm quàn Nhân Tông ở điện Diên Hiền, khi sắp phát dẫn, đã đến giờ rồi mà quan liêu dân chúng đứng xem đầy khắp cung điện, ngay cả tể tướng cầm roi xua đuổi mà cũng không thể giản ra được. Vua cho gọi Trịnh Trọng Tử đến bảo rằng: “Linh cửu sắp phát dẫn mà dân chúng đầy nghẽn như thế này thì làm thế nào ?”. Trọng Tử là người có tiếng là nhiều tài năng trí xảo nhất Thăng Long và cũng rất giỏi về âm nhạc. Trọng Tử lập tức đến thềm Thiên Trì gọi quan Hải khấu và quan Hổ dực do Trọng Tử trông coi đến ngồi la liệt ở thềm, sai hát mấy câu hát Long Ngâm. Mọi người đều ngạc nhiên, kéo nhau đến xem, cung điện mới giãn người, linh cửu mới rước đi được. Long Ngâm khúc là một lối hát vãn, giọng bi ai, nghe rất cảm động … Suốt mấy ngày ấy từ Thăng Long đến Thái Bình, Long Ngâm khúc của cả nước theo linh cửu của ngài đến nơi an nghĩ cuối cùng.

Một ngôi sao sáng đã vụt tắt trên bầu trời nước Đại Việt. Mặc dầu thể xác ông không còn và đã tan thành tro bụi như ông muốn, nhưng hồn ông vẫn còn trong lòng dân tộc Việt.

Lời bạt:

Trong lịch sử trên thế giới rất hiếm người tài vừa là vua trị vì vừa là một hiền triết. Văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị an độ nhân dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations”. Ở phương đông hơn mười hai thế kỷ sau có Trần Nhân Tông, cũng một minh quân, sáng lập trường phái thiền Trúc Lâm Việt Nam với các tác phẩm thiền “Khoá Hư lục”(1), “Thiền lâm thiết chủy ngữ lục”, “Tăng già toái sự” (5) không kém sâu sa.

Thiền Trúc Lâm Yên tử tuy không còn, nhưng dư âm vẫn còn vọng: cuối thế kỷ 18, Ngô Thì Nhậm mong tái lập lại dòng thiền này với tác phẩm “Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh”, gần đây chùa Trúc Lâm ở Đà Lạt là một cố gắng mong muốn khôi phục dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Hoàng thành cổ Thăng Long nay đã được khám phá, một ngày nào đó tôi hy vọng là điện Diên Hiền sẽ được hồi phục. Nguời người sẽ được đến tận nơi vua làm việc, đãi yến, nơi linh cửu vua tạm quàn, hình dung cảnh quan và tưởng nhớ mùi hương thiền toả ngát sáu trăm năm mươi năm trước và tưởng tượng trở lại thời vàng son của thiền Việt Nam với minh quân Trần Nhân Tông. Núi Yên Tử giờ đã có cáp treo, nhưng đi hành hương đường dốc bộ vẫn là tốt nhất theo dấu chân của Thượng hoàng Nhân Tông.

(1) Theo Thiều Chửu và một số nhà nghiên cứu cho là Trần Nhân Tông là tác giả “Khóa hư lục” chứ không phải Trần Thái Tông

Tham khảo

(1) Đại Việt Sử Ký toàn thư, Quyển 5 và 6, Kỷ Nhà Trần, Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, 1993

(2) Khuyết danh, Thiền uyển tập anh, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990

(3) Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận,http://www.quangduc.com/lichsu/17vnpgsuluan.html

(4) Tạ Ngọc Liễn, Vài nhận xét về Thiền Tông và phái Trúc Lâm – Yên Tử đời Trần, Nghiên cứu Lịch sử, số 4 (175), tháng 7,8/1977, p. 51-62

(5) Nguyễn Duy Hinh, Yên Tử – Vua Trần – Trúc Lâm, Nghiên cứu Lịch sử, số 2 (173), tháng 3,4/1977, p. 10-21. — tại Đỉnh Thiêng Yên Tử – Chùa Đồng.

LÀNG MINH LỆ QUÊ TÔI
Hoàng Kim

Linh Giang Đình Minh Lệ
Nguồn Son nối Phong Nha
Đất Mẹ vùng di sản
Đá Đứng chốn sông thiêng.
Bến Lội Đền Bốn Miếu
Cầu Minh Lệ Rào Nan
Lời thề trên sông Hóa
Lời dặn của Thánh Trần
Ta về với Linh Giang

“Cao Cát Mạc Sơn
Sơn Hà Cảnh Thổ
Văn Võ Cổ Kim
Linh Giang thông đại hải
Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn
Đình Bảng Cao Lao Hạ
Miếu cổ thủy sơn thần”
.

LINH GIANG
Hoàng Kim


Nhà mình gần ngã ba sông
Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình
Linh Giang sông núi hữu tình
Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con

“Chèo thuyền cho khuất bến Son
Để con khỏi chộ nước non thêm buồn “

Câu ru quặn thắt đời con
Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ

Ra đi từ bấy đến chừ
Lặn trong sương khói bến đò sông quê
Ngày xuân giữ vẹn lời thề
Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.

ĐÌNH MINH LỆ
Hoàng Kim

Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.

ĐÁ ĐỨNG CHỐN SÔNG THIẾNG
Hoàng Kim

Con về Đá Đứng Rào Nan
Cồn Dưa Minh Lệ của làng quê hương
Linh Giang chảy giữa vô thường
Đôi bờ thăm thẳm nối đường tử sinh.

BẾN LỘI ĐỀN BỐN MIẾU
Hoàng Kim

Bến Lội, Bốn Miếu tinh anh
Cồn Dưa, Đá Đứng kết thành Bắc Nam
Rào Nan, Chợ Mới, Nguồn Son
Làng tôi khoai lúa thơm hương quê nhà

TA VỀ VỚI LINH GIANG
Hoàng Kim

Ta về với Linh Giang
Lời thề trên sông Hóa
Ta khóc khi ra đi
Tâm bình lặng lúc về

Linh Giang Đình Minh Lệ
Nguồn Son nối Phong Nha
Đất Mẹ vùng di sản
Cầu Minh Lệ Rào Nan

Hoành Sơn với Linh Giang
Đá Đứng chốn sông thiêng
Sông Nhật Lệ Lũy Thầy
Tuyến ba tầng thủ hiểm

Nam tiến của người Việt
Cao Biền trong sử Việt
Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Đào Duy Từ còn mãi

Bài ca Trường Quảng Trạch
Lời dặn của Thánh Trần
Cuối dòng sông là biển
Hoa Đất thương lời hiền

Ta về với Linh Giang
Sông đời thao thiết chảy

LỜI THỀ TRÊN SÔNG HÓA
Hoàng Kim


Sông Hóa ơi Bạch Đằng Giang
Ta đến nơi đây chẳng một lần
Lời thề sông núi trời đất hiểu
Lời dặn của Thánh Trần

Sông Hóa ơi hời, ơi Linh Giang
Quê hương liền dải tụ trời Nam
Minh Lệ, Hưng Long hai bầu sữa
Hoàng Gia trung chính một con đường.

Rào Nan Đá Đứng chốn sông thiêng
Nguồn Son Chợ Mới đẹp ân tình
Minh Lệ đình xưa thương làng cũ
Nguyện làm hoa đất của quê hương.

Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.

LINH GIANG TRONG LỊCH SỬ

Sông Gianh (Linh Giang) Hoành Sơn, Đèo Ngang, Sông Nhật Lệ, thành phố Đồng Hới, Di sản thiên nhiên thế giới vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là sáu biểu trưng đặc sắc của tỉnh Quảng Bình về địa chính trị, du lịch sinh thái, lịch sử, địa lý, văn hóa. Sông Gianh là biểu tượng chính.

SÔNG GIANH là một con sông chảy trên địa phận tỉnh Quảng Bình, bắt nguồn từ khu vực ven núi Cô Pi cao 2.017 m thuộc dãy Trường Sơn, chảy qua địa phận các huyện Minh Hóa, Tuyên Hoá, Bố Trạch, Quảng Trạch và thị xã Ba Đồn để đổ ra biển Đông ở Cửa Gianh. Dòng chảy ở thượng nguồn theo hình chữ V với hướng chủ đạo là tây nam-đông bắc. Từ điểm giáp ranh ba xã Thanh Thạch, Hương Hóa, Kim Hóa bắt đầu chảy theo hướng tây bắc-đông nam. Tới ranh giới hai xã Kim Hóa và Lệ Hóa nó tiếp nhận thêm nước từ một chi lưu nhỏ phía hữu ngạn, chảy về từ phía tây. Phía dưới thị trấn Ba Đồn khoảng 3 km, sông Gianh tiếp nhận thêm nước từ chi lưu phía hữu ngạn, chảy ra từ khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng. Sông Gianh dài khoảng 160 km, cắt qua quốc lộ 1 ở tây bắc Cửa Gianh 5 km. Tổng diện tích lưu vực là 4.680 km², độ cao trung bình 360 m, độ dốc trung bình 19,2%, lượng nước năm 7,95 km³ ứng với lưu lượng nước trung bình năm 252 m³/s, môđun dòng chảy năm 53,8 l/s.km². Mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 11, chiếm khoảng 60-75% lượng dòng chảy hàng năm. Dòng cát bùn khoảng 1,93×105 tấn/năm, ứng với độ đục trung bình năm 192 g/m³ và hệ số xâm thực 168 tấn/km² năm. Tàu thuyền có thể qua lại đoạn sông ở hạ lưu, từ Cửa Gianh đến Ba Đồn 6 km, đến thị trấn Đồng Lê huyện Tuyên Hóa là 47 km. Đoạn thượng lưu từ Khe Nét trở về nguồn dài khoảng 70–80 km, lòng sông nhiều thác ghềnh. Khoảng 20 km đầu nguồn đá đổ ngổn ngang trong lòng sông. Tới Đồng Tâm, lòng sông rộng khoảng 80 – 90 m, lớn nhất 110–115 m. Đoạn từ các xã Phù Hóa, Quảng Tiên tới thị xã Ba Đồn (17°45′25″B 106°25′10″Đ), lòng sông có 5 cồn, đảo nhỏ trên sông, trong đó đảo dài nhất khoảng 3,8 km rộng nhất khoảng 0,8 km. Ngay dưới Ba Đồn lòng sông rộng tới 1 km.

Hoành Sơn và Đèo Ngang là ranh giới thời Đại Cồ Việt và Chiêm Thành sau khi người Việt giành được độc lập (939). Trước thời kỳ Nam Tiến của người Việt (1069) đã có bản đồ thời Đường lưu dấu địa giới.Sông Gianh là ranh giới thời Trịnh-Nguyễn phân tranh giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài (1570-1786) với sự xung đột vũ trang gần nửa thế kỷ (1627-1672). Chiến trường chính là miền Bố Chính (Quảng Bình). Đèo Ngang gắn với huyền thoại “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Năm 1558, Nguyễn Hoàng, một danh tướng thời Lê Trung Hưng, con thứ của Nguyễn Kim, sợ bị Trịnh Kiểm mưu hại, đã xin vào trấn thủ Thuận Hoá, mở đầu nhà Nguyễn sau này. Trong cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn, quân Trịnh án ngữ ở đèo Ngang, nhưng thực sự ranh giới Bắc Nam là sông Gianh. Bờ bắc sông có chợ Ba Đồn là nơi quân Trịnh mua đồ ăn uống và trao đổi hàng hóa. Bờ nam sông Gianh có một số thành lũy chắc chắn do Đào Duy Từ tổ chức xây đắp, với luỹ Thầy dài 18 km, luỹ Trường Dục dài 10 km. Di tích Lũy Thầy, Quảng Bình quan, thành quách của thời Trịnh Nguyễn nay vẫn còn.

Đá Đứng chốn sông thiêng là dấu tích huyền thoại Cao Biền trong sử Việt tại Làng Minh Lệ quê tôi ở Nam Sông Gianh. Đá Đứng chốn sông thiêng là một trong năm dấu ấn Nam Tiến của người Việt để Việt Nam Tổ quốc thống nhất toàn vẹn, quy giang sơn về một mối. Đá Đứng chốn sông thiêng cùng với Thiên Thụ Sơn ở Huế; Núi Đá Bia Phú Yên; Văn Miếu Trấn Biên Đồng Nai; Thiên Cấm Sơn An Giang là năm bài học lớn địa chính trị, lịch sử, văn hóa. Việt Nam tổ quốc tôi vận mệnh đất nước và mỗi gia đình Việt đã cuốn theo cơn lốc của các sự kiến lịch sử với giặc ngoại xâm Pháp Nhật Tàu giày xéo quê hương, Pháp bại Nhật hàng Bảo Đại thoái vị, Việt Minh cướp chính quyền, Chiến tranh Đông Dương, Chiến tranh Việt Nam nối tiếp nhau tàn phá quê hương tôi. Gia đình tôi đang êm ấm rơi vào cảnh lưu tán, không nhà “Hoành Linh vô gia huynh đệ tán” như ngoại truyện đã ghi chép . Mời đọc đường link lần lượt của năm mục từ: 1) Làng Minh Lệ quê tôi; 2) Linh Giang Đình Minh Lệ; 3) Nguồn Son nối Phong Nha; 4) Đất Mẹ vùng di sản; 5) Đá Đứng chốn sông thiêng.

Bạn Hoàng Minh Thuần ở TU Bình Thuận đã trao đổi tổng quát: Dạ anh. Em cũng nghĩ khai thác được tour du lịch sông nước kết hơp thắng cảnh từ Cầu sông Gianh lên Ba Đồn, Chợ Mới, bến Lội đền Bốn Miếu, bến chợ Troóc, Phong Nha – Kẽ Bàng, động Thiên Đường, động Sơn Đoòng chẳng khác gì thắng cảnh TRÀNG AN… là điều kiện thuận lợi để quê ình phát triển.

Làng Minh Lệ quê tôi

Linh Giang Đình Minh Lệ gồm năm ảnh chọn lọc. Ảnh một làTa về với Linh GiangẢnh hai là Linh Giang Ảnh ba là Ngã ba sông Chợ Mới(điểm trung tâm kết nối chợ Đồn, cầu Gianh, cảng Thanh Khê, Nguồn Son nối Phong Nha Kẻ Bàng, Thiên Đường, Sơn Đoòng chợ Troóc, Chợ Mới nối Rào Nan Cầu Minh Lệ, Bến Lội Đền Bốn Miếu, Đá Đứng chốn sông thiêng trong quần thể kinh tế quốc phòng du lịch sinh thái lịch sử văn hóa Ảnh bốn là Cầu Minh Lệ Rào Nan ảnh năm là Đình Minh Lệ có Bằng Công nhân Di tích lịch sử Văn hóa được xếp cấp Quốc gia theo Quyết định số 1430 QĐ/BT ngày 12 tháng 10 năm 1993 của Bộ Văn hóa Thông tin.

Cầu Gianh bắc qua sông Linh Giang ở Quảng Bình Chi lưu Rào Nan và Nguồn Son hợp lưu hai nhánh Linh Giang và hợp lưu với Rào Nậy gần Quảng Hải, Chợ Đồn, Thanh Khê, nơi có đường Quốc lộ 1 thiên lý Bắc Nam và Cầu Gianh. Cuối sông này là biển Quảng Bình

Người thợ cầu lão thành cũng là nhà khảo cứu địa chí lịch sử văn hóa Nguyễn Quốc Toàn (Bulukhin) có bài viết Về với Linh Giang rất sâu sắc đã được nhà báo TORO đăng trên tạp chí Pháp Lý ở Hà Nội (xem toàn văn cuối bài). Ông Nguyễn Quốc Toàn người Quảng Bình xa xứ, ông thật nặng lòng với quê hương. Ông viết:

Người Việt từ xa xưa vẫn tâm niệm rằng thần sông thiêng lắm. Có chuyện kể: “Đô phủ thành hoàng thần quân” là thần sông Tô Lịch đã hoá phép phá tan nghìn cân đồng của Tiết độ sứ Cao Biền dùng yểm long mạch (Lịch sử Việt Nam tập I. NXB KHXH 1976), Biền chuốc lấy hoạ là cứ xây thành Đại La lên lại đổ.

Cách nay 1200 năm, nhà thơ Hésiod người Hy Lạp khuyến cáo những người qua sông rằng: “Đừng bao giờ qua những con sông với dòng chảy vĩnh hằng mà trước đó chưa đọc lời cầu nguyện, đừng mãi mê ngắm những dòng chảy tráng lệ của chúng mà trước đó chưa nhúng hai tay khỏi những điều ác vấy bẩn, chúng sẽ kéo cơn cuồng nộ của các thần linh trút xuống đầu mình, sẽ phải chịu những đòn trừng phạt khủng khiếp” (Từ điển Biểu tượng văn hoá thế giới của Jean Chevarier và Alain Gheerbrant. NXB Đà Nẵng và trường viết văn Nguyễn Du 1.1976).

Vậy thì thay tên đổi họ một dòng sông đã chính danh cách nay hơn 17 thế kỷ không hiểu người ta có cầu nguyện gì không? Lạ thay, các bậc “Trị quốc bình thiên hạ” thuở xưa lưu lại hậu thế trước tác chất đầy lầu tàng thư, nhưng không thấy một dòng nào nói nguyên do đổi tên Linh Giang thành Sông Gianh.

Chỉ thấy sách “Tấn thư châu quận ký” nói rằng: “Năm Thái Khang thứ 10 chia quận Tây Quyển mà lập huyện Thọ Linh, sông chảy qua Thọ Linh là Linh Giang” (Đất nước Việt Nam qua các thời đại của Đào duy Anh). Thái Khang thứ 10 là năm 290. Năm 1875 vua Tự Đức sai Quốc sử quán soạn sách “Đại Nam nhất thống chí”, trong mục “hình thế” tỉnh Quảng Bình có ghi: ” … Phía bắc liền với Hoan Châu, núi cao thì có núi Đâu Mâu, và núi Thần Đinh, sông lớn thì có sông Linh Giang (Gianh) và sông Nhật Lệ” (Đại Nam nhất thống chí (thời Tự Đức) Tập II trang 12. Chữ Gianh trong ngoặc đơn là do dịch giả Phạm Trọng Điềm và người hiệu đính là đào Duy Anh chua vào. Sách ĐNNTC viết bằng chữ Hán , mà chữ Hán chỉ có “Danh” chứ không có “Gianh”) .

Như vậy tính đến năm 1875 thì tên sông Linh Giang đã được dân gian gọi trong suốt 1586 năm, gần 16 thế kỷ. Mãi đến năm 1876 sử gia Đặng Xuân Bảng soạn sách “Sử học bị khảo” lại chép: “Quảng Bình có sông Gianh phát nguồn từ Thanh Lãng..” Tính cho đến năm 1998 thì tên sông Gianh mới có 123 năm. Cũng ở thời điểm 1998 tên Linh Giang đã có 1708 tuổi gấp gần 14 lần tuổi của tên sông Gianh.

Người ta đã luận bàn khá nhiều về từ Gianh chưa rõ lai lịch và ngữ nghĩa này. Một giáo sư sử học danh tiếng phỏng đoán: Gianh có lẽ là Ranh trong ranh giới (Trịnh Nguyễn phân tranh) đọc theo tiếng Bắc. Nếu phỏng đoán này đúng thì có nên dùng nỗi đau chia cắt âý để đặt tên cho chiếc cầu không?. Người khác cho rằng Gianh là đọc “trại” của từ Giang (trong Linh Giang) mà ra. Chẳng hạn người ta đã đọc “trại” Minh Lễ thành Minh Lệ, Lũng Quýt thành Dung Quất, Betulông (Baietoulon) thành Bái Tử Long v.v…Nhưng hai từ Linh Giang không thể đọc “trại” thành một từ Gianh được.

Linh Giang có nghĩa là sông thiêng liêng, huyền bí, còn Gianh không có trong từ điển Hán Việt, cũng không phải tiếng Việt phổ thông mà chỉ là phương ngữ (miền Bắc) chỉ cây cỏ tranh lợp nhà. Có lẽ ngoài câu thành ngữ của người miền Bắc nói về sự nghèo túng: “Nhà gianh vách đất” thì từ Gianh không thấy xuất hiện ở đâu nữa.

Đấy là ngược nguồn lịch sử để tìm tên sông, ngõ hầu góp một tiếng nói với các nhà Địa – Văn hoá khi làm sách địa chí, chứ người viết không có ý định kiến nghị đổi tên sông Gianh trở lại sông Linh Giang. Bởi tên sông Gianh dẫu sao cũng là một phần máu thịt của khúc ruột miền Trung từ 123 năm nay rồi.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dinh-minh-le-linh-giang-1.jpg

Đình Minh Lệ xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn) Tỉnh Quảng Bình có Bằng Công nhân Di tích lịch sử Văn hóa Di tích được xếp cấp Quốc gia theo Quyết định số 1430 QĐ/BT ngày 12 tháng 10 năm 1993 của Bộ Văn hóa Thông tin. Đình được xây dựng vào thời ‘Hồng Đức Lê Triều’. Trùng tân năm Bảo Đại nhị niên năm 1927, trùng tu vào các năm 1998, 2003, 2011 và chống xuống cấp năm 2018. Đình thờ Thành hoàng làng Trung lang Thượng tướng quân Trương Hy Trọng và các vị Thần tổ của bốn họ Trương, Nguyễn, Hoàng, Trần. Đình là nơi diễn ra các lễ hội của làng, nơi gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu trong thời kỳ vận động thành lập Đảng, khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc. Đình là chứng nhân sự hi sinh to lớn và những chiến công xuất sắc của xã Quảng Minh đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Bia dựng năm 2018.

Tài liệu dẫn

Đình Minh Lệ, ảnh Hoàng Minh Đức

Đình Minh Lệ được xây dựng năm 1464 dưới triều vua Lê Thánh Tông, hoàng đế thứ 5 của nhà Lê sơ, là nơi thờ tự bốn vị Đức Thần Tổ Trương, Hoàng, Trần, Nguyễn. Thuở sơ khai, đình Minh Lệ là ngôi đình chung của cả năm thôn “Nhất xã ngũ thôn”: Minh Lệ (Quảng Minh), thôn Đoài (Diên Trường – Quảng Sơn), Vĩnh Ninh (Hoà Ninh – Quảng Hoà), Vĩnh Phước, Vĩnh Lộc (Quảng Lộc), trích dẫn theo bài “Qua một ngôi đình suy nghĩ về người xưa” của nhà giáo Hoàng Hữu Sam đăng trên Tạp chí Nhật Lệ năm 2001 và sách “Thời lửa đạn” theo hồi ký của nhà giáo Nguyễn Hữu Thanh

ĐÁ ĐỨNG CHỐN SÔNG THIÊNG
Hoàng Kim


Hoàng Gia Cương thơ hiền có thơ hay và ảnh đẹp gợi cho Hoàng Kim viết chùm bài nghiên cứu địa chí lịch sử văn hóa với các mục từ chính: Đất Mẹ vùng di sản/ Đá Đứng chốn sông thiêng / Linh Giang / Đình Minh Lệ / Nguồn Son nối Phong Nha/ Cầu Minh Lệ Rào Nan/ Bến Lội Đền Bốn Miếu / Đào Duy Từ còn mãi / Nam tiến của người Việt /

Đá Đứng chốn sông thiêng là điểm địa linh phong thủy quan trọng, là mốc địa giới, huyền thoại Cao Biền trong sử Việt, đánh dấu sinh lộ Nam tiến của người Việt. Cao Biền là người được Lý Thái Tổ tôn vinh “Hoàng Thành Thăng Long công lớn Cao Vương” đã lưu hậu thế tấm bản đồ Việt Nam thời Đường với chú giải về con người thế núi mạch sông đất Việt khi mà Cao Biền làm Tỉnh Hải Quân năm 864 – 868 và Cao Tầm tiếp nối năm 868 – 878 (hình). Cao Biền cũng lưu miếu thờ và huyền thoại “cao cát mạc sơn”, người đã ném bút thần tạo nên Đá Đứng Làng Minh Lệ. Vợ Cao Biền là Lã Thị Nga, nay dân làng vẫn thờ làm thành hoàng của nghề tằm tơ dệt lụa tại làng Vạn Phúc, Hà Đông. Mộ Cao Biền ở thôn 5 đầm Môn xóm Cát, Tuy An, Phú Yên vẫn lưu truyền huyền thoại ngàn năm. Hoành Sơn Linh Giang Lũy Thầy tuyến phòng thủ ba tầng thủ hiểm ở Quảng Bình của đại kế ‘Bắc chặn cường địch, Nam tiến mở rộng” do Đào Duy Từ kỳ tài đất Việt thời Lê Trịnh Nguyễn khởi xướng và khéo tổ chức. Chuyện ‘Đá Đứng chốn sông thiêng’ nhằm tuyển chọn và lưu lại các ghi chép không nỡ quên như Đức lớn Trần Thái Tông, Bảy Núi Thiên Cấm Sơn.

VỀ VỚI LINH GIANG
Nguyễn Quốc Toàn


*Bóc tờ lịch ngày 27 tháng 11 năm 1999 tôi chợt nhớ ra cây cầu bắc qua sông Gianh vừa tròn một tuổi (1). Ở tuổi “thôi nôi” nó đủ sức mạnh của Phù Đổng Thiên Vương. Trên lưng “cậu bé” một tuổi ấy đã có ngót nửa triệu xe ô tô lăn bánh. Vòng cung ánh điện nối hai bờ cứ làm tôi liên tưởng một câu trong kinh phật: “Cây cầu là cái bản nhiên nối liền các thế giới không cho chúng ta phân tán. Khi qua cầu đêm sẽ sáng lên như ban ngày vì thế giới vô biên chỉ là ánh sáng” (2). Hành trình đến thế giới vô biên lại bắt đầu từ hữu hạn ngày 27 tháng 11 năm 1998. Hôm đó mưa gió đầy trời, nước sông Gianh lên cao chảy xiết, xe cộ ùn lại hai bờ vì phà buộc phải ngừng hoạt động. Bộ giao thông vận tải quyết định làm lễ khánh thành cầu sớm hơn dự kiến. Từ rất sớm, dân chúng đã đông nghịt hai bờ, đứng chen chúc trên 9 nhịp cầu. Bao nhiêu già trẻ gái trai là bấy nhiêu kiểu che mưa chắn gió: tơi chằm, nón lá, áo bạt, áo mưa, vài nhựa… có người liều ướt, rét run cầm cập nhưng nét mặt vẫn rạng rỡ hân hoan. Tôi lần xuống gầm cầu phía bắc tìm tấm bảng đồng khắc tên cầu nhưng không thấy. Trong bụng mừng thầm “cầu Gianh” chỉ là tên tạm để đọc diễn văn khánh thành chứ chưa phải tên chính thức. Tên chính thưc của nó hẳn là cầu Linh Giang. Trước mố cầu là một nắm hương cháy lập loè, toả khói thơm phức. Lư hương là những viên đá hộc được ghép lại. Chắc chắn lễ dâng hương này không nằm trong chương trình khánh thành cầu. Người nào đây muốn thỉnh linh hồn những ai vì đại nghĩa mà bỏ mình trên dòng sông và cáo yết thần sông rằng cây cầu đã được khai sinh? Người Việt từ xa xưa vẫn tâm niệm rằng thần sông thiêng lắm. Có chuyện kể: “Đô phủ thành hoàng thần quân” là thần sông Tô Lịch đã hoá phép phá tan nghìn cân đồng của Tiết độ sứ Cao Biền dùng yểm long mạch (3), Biền chuốc lấy hoạ là cứ xây thành Đại La lên lại đổ. Cách nay 1200 năm, nhà thơ Hésiod người Hy Lạp khuyến cáo những người qua sông rằng: “Đừng bao giờ qua những con sông với dòng chảy vĩnh hằng mà trước đó chưa đọc lời cầu nguyện, đừng mãi mê ngắm những dòng chảy tráng lệ của chúng mà trước đó chưa nhúng hai tay khỏi những điều ác vấy bẩn, chúng sẽ kéo cơn cuồng nộ của các thần linh trút xuống đầu mình, sẽ phải chịu những đòn trừng phạt khủng khiếp” (4). Vậy thì thay tên đổi họ một dòng sông đã chính danh cách nay hơn 17 thế kỷ không hiểu người ta có cầu nguyện gì không? Lạ thay, các bậc “Trị quốc bình thiên hạ” thuở xưa lưu lại hậu thế trước tác chất đầy lầu tàng thư, nhưng không thấy một dòng nào nói nguyên do đổi tên Linh Giang thành Sông Gianh. Chỉ thấy sách “Tấn thư châu quận ký” nói rằng: “Năm Thái Khang thứ 10 chia quận Tây Quyển mà lập huyện Thọ Linh, sông chảy qua Thọ Linh là Linh Giang” (5). Thái Khang thứ 10 là năm 290. Năm 1875 vua Tự Đức sai Quốc sử quán soạn sách “Đại Nam nhất thống chí”, trong mục “hình thế” tỉnh Quảng Bình có ghi: ” … Phía bắc liền với Hoan Châu, núi cao thì có núi Đâu Mâu, và núi Thần Đinh, sông lớn thì có sông Linh Giang (Gianh) (6) và sông Nhật Lệ”. Như vậy tính đến năm 1875 thì tên sông Linh Giang đã được dân gian gọi trong suốt 1586 năm, gần 16 thế kỷ. Mãi đến năm 1876 sử gia Đặng Xuân Bảng soạn sách “Sử học bị khảo” lại chép: “Quảng Bình có sông Gianh phát nguồn từ Thanh Lãng..” Tính cho đến năm 1998 thì tên sông Gianh mới có 123 năm. Cũng ở thời điểm 1998 tên Linh Giang đã có 1708 tuổi gấp gần 14 lần tuổi của tên sông Gianh. Người ta đã luận bàn khá nhiều về từ Gianh chưa rõ lai lịch và ngữ nghĩa này. Một giáo sư sử học danh tiếng phỏng đoán: Gianh có lẽ là Ranh trong ranh giới (Trịnh Nguyễn phân tranh) đọc theo tiếng Bắc. Nếu phỏng đoán này đúng thì có nên dùng nỗi đau chia cắt âý để đặt tên cho chiếc cầu không?. Người khác cho rằng Gianh là đọc “trại” của từ Giang (trong Linh Giang) mà ra. Chẳng hạn người ta đã đọc “trại” Minh Lễ thành Minh Lệ, Lũng Quýt thành Dung Quất, Betulông (Baietoulon) thành Bái Tử Long v.v…Nhưng hai từ Linh Giang không thể đọc “trại” thành một từ Gianh được. Linh Giang có nghĩa là sông thiêng liêng, huyền bí, còn Gianh không có trong từ điển Hán Việt, cũng không phải tiếng Việt phổ thông mà chỉ là phương ngữ (miền Bắc) chỉ cây cỏ tranh lợp nhà. Có lẽ ngoài câu thành ngữ của người miền Bắc nói về sự nghèo túng: “Nhà gianh vách đất” thì từ Gianh không thấy xuất hiện ở đâu nữa.

Đấy là ngược nguồn lịch sử để tìm tên sông, ngõ hầu góp một tiếng nói với các nhà Địa – Văn hoá khi làm sách địa chí, chứ người viết không có ý định kiến nghị đổi tên sông Gianh trở lại sông Linh Giang. Bởi tên sông Gianh dẫu sao cũng là một phần máu thịt của khúc ruột miền Trung từ 123 năm nay rồi. Nhưng cây cầu hiện đại đầu tiên qua sông Gianh có nhất thiết phải mang tên “Cầu Gianh” không? Nếu sông Gianh còn thêm nhiều cầu, chẳng nhẽ phải gọi chúng là cầu Gianh 1, cầu Gianh 2, cầu Gianh 3 như điểm danh binh sĩ trong quân ngũ. Ngày 20.9.1997 Bộ Giao thông vận tải có quyết định 2468 đổi tên Quốc lộ 29 thành Quốc lộ 12 thì Bộ và lãnh đạo tỉnh Quảng Bình có thêm quyết định đặt tên  cầu qua sông Gianh là cầu Linh Giang cũng phải lẽ. Cho đến nay, tôi cũng như nhiều người hằng ước mong cây cầu qua sông Gianh mang chính cái tên khởi thuỷ của dòng sông cách nay 1708 năm. Ví dầu những giọt nước Linh Giang xa xưa đã trôi về miền cổ tích thì dòng sông vẫn luôn luôn là chính nó. CẦU LINH GIANG bắc qua sông Gianh là hình ảnh liên tục của quá khứ và hiện tại. Tên gọi ấy chính là âm thanh hình thành bởi tác động của những sức mạnh tạo nên nó, vì hai từ Linh Giang giàu sức gợi cảm, phù hợp với tâm linh người Việt, chuẩn xác về tu từ, làm nhớ lại cội nguồn một vùng đất miền Trung với vô vàn biến cố lịch sử. Sự phong phú về tên gọi những cây cầu trên một dòng sông và sức hàm chứa nội lực văn hoá của mỗi tên gọi ấy làm sang trọng thêm cho một vùng đất. Có lẽ vì thế chăng mà trên sông Hương của cố đô Huế có các tên cầu Tràng Tiền, Phú Xuân, Bạch Hổ, trên sông Hồng của thủ đô Hà Nội có những cầu Chương Dương, cầu Long Biên, cầu Thăng Long…

Qua sông phải dọn mình là cách nói của nhà thơ. Dâng hương cầu nguyện là thành tâm của người tin có thần sông và linh hồn tồn tại. Tôi làm nghề thợ cầu, nên mỗi lần qua sông lại vơ vẩn nghĩ về tên sông tên cầu – những “định hình” có vẻ như không còn gì để mà nghĩ ngợi nữa. Nhưng xem ra cũng chưa hẳn thế. Xưa kia hoàng đế La mã là Pontifex nay là danh hiệu của Giáo hoàng có nghĩa là người bắc cầu. Pontifex vừa là người bắc cầu vừa chính là chiếc cầu ấy (4). Vị thiền sư người Nhật ở thế kỷ 13 là Nichiren nói về đức Phật rằng: “Đối với chúng sinh ngài là chiếc cầu lớn, giúp chúng vượt qua ngả chéo 6 con đường” (4) thì ra khối vật chất bê – tông cốt thép khi đã thành cây cầu, nó nghiễm nhiên đi vào biểu tượng văn hoá nhân loại như một sự tất yếu. Vậy tìm đặt một cái tên xứng đáng cho cây cầu qua sông Gianh mới hết tuổi “thôi nôi” đã có sức mạnh Phù Đổng kia cũng đáng để chúng ta suy nghĩ lắm thay. (Thợ cầu Bulukhin, bài và ảnh, đăng ngày 13. 5. 2009)
(1) Bài này viết từ 27.11.1999; (2) Kinh Chadogya Upanishad; (3) Lịch sử Việt Nam tập I. NXB KHXH 1976; (4) Từ điển Biểu tượng văn hoá thế giới của Jean Chevarier và Alain Gheerbrant. NXB Đà Nẵng và trường viết văn Nguyễn Du 1.1976; (5) Đất nước Việt Nam qua các thời đại của Đào duy Anh;. (6) Đại Nam nhất thống chí (thời Tự Đức) Tập II trang 12. Chữ Gianh trong ngoặc đơn là do dịch giả Phạm Trọng Điềm và người hiệu đính là đào Duy Anh chua vào. Sách ĐNNTC viết bằng chữ Hán , mà chữ Hán chỉ có “Danh” chứ không có “Gianh”

LÀNG MINH LỆ QUA THƯ TỊCH
Trương Minh Dục


Trong quá trình hình thành và phát triển, do yêu cầu quản lý phát triển xã hội, một đất nước, hay một địa phương tên gọi có thay đổi tùy theo các chế độ chính trị, các vương triều và cả theo tập quán dân gian. Làng Minh Lệ hiện nay của tôi cũng không phải là ngoại lệ. Thời gian gần đây, nhiều anh em yêu quê hương tranh luận về tên làng Minh Lễ hay Minh Lệ?. Tranh luận là tốt, để hiểu hơn về quá trình hình thành và phát triển của quê hương. Bỡi lẽ, ai cũng yêu quê hương, nhưng hiểu đầy đủ, sâu sắc về quê hương thì chưa có điều kiện đầy đủ về tư liệu và thời gian. Trong mùa Covid-19, tôi dành thời gian đọc lại những thư tịch cổ, đặng cung cấp cho những ai quan tâm đến quá trình hình thành và phát triển của Làng.

*

Làng Minh Lệ hiện nay được hình thành là kết quả của chính sách di dân khai phá vùng đất Bố Chính dưới thời Lê Thánh Tông sau thắng lợi bình Chiêm năm 1471. Trong sách “Ô châu cận lục” của Dương Văn An, được viết năm 1552, ấn hành năm 1555, cho biết, châu Bố Chính (gồm vùng đất Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hoá và Minh Hoá ngày nay) có 68 xã (nhưng trong liệt kê là 69), trong đó có xã Thị Lễ (xã lúc ấy là đơn vị hành chính thấp nhất). Nhưng trong thư tịch về đình làng Vĩnh Phước đề cập đến 5 thôn của xã Thị Lễ lúc bấy giờ là: An Phước, An Lộc, An Hoà, An Lễ, An Trường. Trong sách “Phủ biên tạp lục” được viết năm 1776, Lê Quý Đôn chỉ đề cập đến các địa danh từ nam sông Gianh là châu Nam Bố Chánh, còn châu Bắc Bố Chánh thuộc Đàng ngoài nên không được đề cập đến.

Trong Sắc phong Thành hoàng cho ông Trương Công Chấn tự Hy Trọng năm Quang Trung thứ hai (Kỷ Dậu- 1789), người có công “bình lồi thiết xã”, Thị Lễ có 5 thôn (trong sắc phong không ghi tên thôn).Như vậy, Trương Công Chấn là Thành Hoàng của 5 thôn chứ không phải của riêng Minh Lễ (nay là Minh Lệ).

Trong Sắc phong cho Ông Nguyễn Cơ (có tài liệu ghi Nguyễn Quốc Cơ) năm Tự Đức thập tam niên (1860), có ghi quê quán thôn Yên Lễ, xã Thị Lễ, tổng Thuận Thị, huyện Minh Chính, phủ Quảng Trạch. Đến giai đoạn từ năm 1885 đến 1889, vua Đồng Khánh tổ chức “Tổng điều tra” dân số, dân cư và tổ chức hành chính, phủ Quảng Trạch có 4 huyện: Bình Chính, Minh Chính, Bố Trạch và Minh Hoá. Huyện Minh Chính có hai tổng Thuận Thị và Thuận Lễ. Tổng Thuận Thị có 18 xã, thôn, phường. Địa danh Minh Lễ lần đâù tiên xuất hiện là cấp xã (làng). Còn các thôn Diên Trường, Hoà Ninh, Vĩnh Lộc, Vĩnh Phước là các thôn trực thuộc tổng Thuận Thị. Dưới thời Pháp thuộc, làng là tổ chức hành chính cơ sở.

Cho đến năm 1927, trong bài thơ Làm đình, cụ phó lý lúc bấy giờ là Hoàng Liễn còn viết tên làng là Làng Minh Lễ. Trong kháng chiến chống Pháp, tổ chức hành chính cơ sở là xã. Xã Minh Trạch lúc đó là các xã Quảng Minh, Quảng Sơn, Quảng Thủy bây giờ. Cho đến bây giờ chưa tìm thấy tên làng Minh Lệ xuất hiện ở tài liệu Hán Nôm nào. Có người cho rằng từ Minh Lệ là từ Minh Lễ mà ra do người vùng ta thường nói các từ dấu ngã thành nặng và theo thời gian nói và viết trùng nhau. Tôi cho rằng đó cũng có cơ sở.

Giải nghĩa từ Lễ, trong Ô Châu cận lục, phần tổng luận về phòng tục, có viết: “Cao Lao, Thị Lễ nối nghiệp văn nho”; (…) “danh lừng Thị Lễ lắm văn nhân theo phép lễ nghi”. Còn trong bài thơ Làm đình, một bài thơ ngắn và rất hay ca ngợi vùng đất quê hương nhất là phong thủy của đình làng, văn hoá và con người làng Minh Lễ, cụ Hoàng Liễn có giải thích: Làng Minh Lễ: Minh là cờ, Lễ là nghĩa. Minh tắc thiêng chấp phí kính chỉ”. Như vậy, chữ Lễ trong Thị Lễ, sau đó là Minh Lễ là phép tắc lễ nghi. * Viết ra như vậy không phải để đổi tên làng, mà để các thế hệ hậu sinh biết đúng về gốc tích của quê hương mình.

Những thông tin tóm lược này để mọi người tham khảo. Mong ai có tư liệu gì chỉ giúp để bổ sung thêm. Ảnh đầu trang: Môt số tài liệu tham khảo để viết stt này

Nguồn: Trương Minh Dục ngày 18 Tháng 4  

QUA MỘT NGÔI ĐÌNH SUY NGHĨ VỀ NGƯỜI XƯA
Bút ký Hoàng Hữu Sam


“Qua đình ngã nón trông đình. Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”. Ngày nay, qua đình Minh Lễ, xã Quảng Minh – Quảng Trạch, các trai tân gái lịch không còn nhìn thấy, như xưa kia, đây là nơi hò hẹn, nơi gửi gắm tâm tình cho nhau trước khi đi đến xây dựng cuộc sống vợ chồng “Bách niên giai lão” trên mảnh đất truyền thống đầy huyền thoại này.

Đình Minh Lễ được xây dựng từ thế kỷ XIX, là nơi thờ vị Thành Hoàng làng cùng các vị Thần tổ của bốn Họ trong làng, là nơi sinh hoạt văn hóa, hội hè, đình đám và bàn công việc làng. Đình được trùng tân vào năm Bảo Đại nhị niên.Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử đất nước và quê hương trong một thời gian quá dài, nhất là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đình làng Minh Lễ đã “ Trơ gan cùng tuế nguyệt” với những bức tường đổ nát nằm trong những lùm cây hoang dại và um tùm. Cũng chính trong hoang tàn đổ nát ấy mà Đình Minh Lễ trở thành nơi hội họp bí mật của cán bộ cách mạng trong xã, nơi thu giấu vũ khí đánh giặc ngoại xâm, nơi rèn luyện ý chí quật cường của những người con quê hương căm thù chế độ cũ, nơi vang lên tiếng mõ đình inh ỏi sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945 để toàn dân cướp chính quyền và bầu lên Ủy ban Hành chính lâm thời đầu tiên của xã Minh Lễ.

Xuất phát từ ý thức muốn bảo vệ lấy những gì là di tích văn hóa lịch sử của quê hương, một số con em của làng có tâm huyết với mảnh đất quê nhà đã làm đơn gửi lên Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh xin trùng tu lại ngôi đình. Được sự động viên, giúp đỡ của chính quyền địa phương và của Sở Văn hóa -Thông tin, đơn xin trùng tu đình làng Minh Lễ được chấp nhận. Năm 1993 Đình Minh Lễ được Bộ Văn hóa – thông tin ra quyết định công nhận Di tích Văn hóa – Lịch sử của xã Quảng Minh. Qua hai đợt Đình Minh Lễ đã được trùng tu lại đẹp đẽ, khang trang, đứng sừng sững giữa bầu trời xanh của một miền quê đất nước. Ở đây, nhờ trí nhớ hoàn hảo của ông Hoàng Hữu Xứng mà tôi đã viết lại tất cả các bức hoành phi và câu đối – đều được ghi lại hầu như theo đúng nguyên tác thư pháp xưa.

Đình làng Minh Lễ vẫn giữ được thư pháp tuyệt vời của hai ông Tôn Thất Mai, Hoàng Tinh Sà (thân sinh tác giả- NBT) – Hai người được triều Vua nhà Nguyễn mời vào kinh đô viết sắc bằng cho toàn quốc -được nhân dân làng Minh Lễ mời viết giúp những bức hoành phi và câu đối cho Đình làng. Với các yếu tố: kiến trúc, hoa văn, bề dày lịch sử, giá trị tinh thần biểu hiện qua nội dung các bức hoành phi và câu đối, nên Đình làng Minh Lễ mới được công nhận Di tích Văn hóa – Lịch sử. Tất cả đó tạo nên niềm tự hào chính đáng của nhân dân làng Minh Lễ từ trước tới nay.*

Vậy chúng ta hãy nghe các cụ xưa đã nói những gì qua các bức hoành phi và câu đối ở Đình? *

Thoạt đầu, bước tới cổng Đình, chúng ta bắt gặp ngay đôi câu đối ở hai cột trụ cổng bằng chữ Nho đại tự mà đứng xa hàng năm mét vẫn có thể nhìn đọc được: Tiền hướng Linh Giang thông đại hải / Hậu liên Ngùi Lĩnh tiếp cao sơn. Câu đối đã nói lên vị trí to rộng giữa một khoảng trời đất bao la: mặt trước hướng về sông Gianh (Linh Giang) để thông ra biển cả. Mặt sau liền với núi Ngùi (Ngùi Lĩnh ) và tiếp đến núi cao của dãy Trường Sơn hùng vĩ. Ở cổng phụ cạnh cổng chính, có đôi câu đối đã đem chúng ta trở về với cội nguồn làng quê: Làng Minh Lễ ngày xưa được gọi là Bến Lội – nơi hợp lưu của dòng Rào Nan với một nhánh nhỏ là Rào Đá, do phù sa của Rào Đá tuôn ra mạnh nên chỗ hợp lưu ấy bị cạn lại mới gọi Bến Lội – người ta có thể lội qua được – đó là: Minh Lễ chương danh đình dĩ cố /Thiệp tân tích sử thủy trường thanh.*Giang sơn Bến Lội – Minh Lễ còn là một mảnh đất vô cùng đẹp đẽ, một địa linh đã sản sinh ra những người con kiệt xuất cho đất nước và quê hương: Sơn cao thủy tú phong quang vô hạn hảo / Địa linh nhân kiệt hoằng thạc xuất nhân trung (Phong cảnh núi sông cao đẹp vô cùng. Đất linh thiêng sinh ra những con người hào kiệt, thật là vĩ đại ngang trời mây) *

Các cụ còn làm cho con cháu thấy được niềm vui, lòng tin tưởng quê hương ngày càng đổi mới, ngày càng hướng tới văn minh: Cách trí lương phương thiên khái văn minh tân vận hội / Trác thành để trụ được chung linh khí cửu Giang Sơn (Mở rộng tầm hiểu biết, trời mở vận hội mới là vận hội văn minh / Gọt dủa cho thành công, đất hun đúc nên khí thiêng của giang sơn cũ). *Được sống trên mảnh đất địa linh nhân kiệt, nhân dân đã thông qua các cụ xưa đã ca ngợi quê hương và biết ơn vị Thành Hoàng đã “Mở mang văn nghiệp, võ công” (Bố võ tuyên văn – một câu trong Sắc phong). Đồng thời phải biết kính trọng và tôn thờ các vị Thần linh đó vừa có công lớn, vừa tăng thêm sức mạnh của núi sông: Tại kỳ thượng tại kỳ tả hữu /Tý nhĩ thọ tỷ nhĩ xí xương ( Kính thờ thần như thần thánh đứng ở trên (bàn thờ) và cả ở hai bên tả hữu (chúng ta). Cầu mong cho được sống lâu và được vẻ vang rực rỡ).Hoặc: Hân yết đại danh thùy vũ trụ / Hiên ngang chính khí tráng sơn hà (Tiếng tăm lừng lẫy hòa trong vũ trụ Chính khí hiên ngang tăng thêm sức mạnh của núi sông)* Đặc biệt, đây là những di huấn, những sự nhắc nhở các thế hệ sau phải tuân thủ theo lễ nghĩa, đồng thời cũng phải luôn luôn nhớ đến tên làng đã đi vào lịch sử, đã có từ thời nhà Trần (thế kỷ thứ XIII).* Bức hoành phi ở giữa:Hội đồng hữu dịch ( Đình làng là nơi hội họp của làng, mà có hội họp thì có trao đổi diễn dịch (như có thảo luận) cho sáng ra những điều lễ nghĩa) Câu này cũng gần nghĩa như chữ Minh Lễ là tên làng, nên các cụ đặt ở gian giữa Đình*

Bức hoành phi bên phải: Tự sự khổng minh ( Việc tế tự phải nghiêm túc như ánh sáng xuyên qua một lỗ nhỏ từ trên mái nhà xuống, nghĩa là rất thành kính)* Bức hoành phi bên trái: Gia hội hợp lễ (Tổ chức các cuộc họp, lễ hội phải đúng theo lễ nghĩa). Ở đây có một vấn đề rất tế nhị nhưng cũng rất quan trọng là: để bảo vệ lấy tên làng mãi mãi đến muôn đời sau, các cụ đã thông qua các bức hoành phi để kín đáo dùng những chữ ghép lại thành tên làng:Lấy chữ “Minh” ở bức hoành phi bên phải ghép với chữ “Lễ” ở bức hoành phi bên trái ghép lại thành Minh Lễ là tên làng đã có từ xưa)* Để chắc chắn hơn nữa, các cụ lại dùng một câu đối ở mặt tiền chính giữa để giữ lấy tên làng: Xa thư cộng đạo văn minh xiển / Hương hỏa thiên thu điển lễ tồn (Những nền nếp đều thống nhất quy về một mối, làm cho ánh sáng văn minh thêm chói lọi. Việc hương khói (thờ phụng) hàng năm vẫn theo điển lễ vẫn còn ( không sai chạy)). Cũng như các bức hoành phi trên, tại câu đối này, lấy chữ thứ 6 của vế 1 ( Minh) ghép với chữ thứ 6 của vế 2 ( Lễ) thành tên làng Minh Lễ.

Ở đây với một trình độ Hán học uyên thâm, các cụ đã sử dụng những từ nguyên rất chính xác để nhắc nhở hậu thế. Xa thư: Xa đồng quỹ,thư đồng văn: Xe thì khoảng cách giữa hai bánh bằng nhau, sách thì viết một thứ chữ. Cho nên ta càng rõ thêm: Giang sơn thống nhất về một mối, nền văn minh sáng tỏ ra. Hương khói ngàn năm cúng tế theo điển lễ vẫn còn.

Vì có tên làng nên hai câu này cũng được viết ở chính giữa mặt tiền của Đình. Kính quý thần khả vị tri hỉ / Bảo hữu dân thượng hữu chế tai (Biết kính quý Thần, có thể nói là thông minh, đã là biết vậy /.Bảo vệ cho người dân lành còn là trách nhiệm (quy chế, chế độ) nữa. Bảo vệ dân đen mà còn hạn chế nữa hay sao !)

Trên đây chỉ xin trích dịch một số nội dung trong các bức hoành phi và câu đối ở Đình làng Minh Lễ từ xa xưa. Giới thiệu một số nội dung các bức hoành phi và câu đối ở Đình làng, người viết bài này chỉ mong đem đến một phần nào những suy nghĩ và ước mong của người xưa đã gửi gắm vào những bức hoành phi và câu đối, để mong quê hương – làng Minh Lễ mãi mãi trường tồn cùng núi sông đất Việt.

Mặc dù đã cố gắng với nhiều công sức, song trình độ có hạn, kính mong được sự góp ý của quý vị độc giả, nhất là các vị con em xã nhà.

Thượng tuần tháng Nhâm Dần, năm Nhâm Ngọ.
H.H.S (Tạp chí Nhật Lệ năm 2001)

“THỜI LỬA ĐẠN” là tập hồi ký của nhà giáo Hoàng Hữu Thanh, bí danh Nam Sơn sinh ngày 18 tháng 9 năm 1929 tại làng Minh Lệ, xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, trú quán số nhà 12, đường Đặng Dung, tiểu khu 10, phường Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Cụ mất năm 2018. Cụ Hoàng Hữu Thanh nguyên là đại đội trưởng đội thiếu niên du kích Minh Lệ huyền thoại, người trinh sát gan dạ, người chỉ huy tài năng năm xưa của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Cụ cũng là  thầy giáo ưu tú của  Trường Sư phạm 10+3 Quảng Bình thời lửa đạn chống Pháp  và chống Mỹ. Cụ đã được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng Ba;  Huân chương chống Mĩ cứu nước hạng Nhất; Hai huân chương chiến công hạng Ba; Huy chương vì sự nghiệp giáo dục Việt Nam. Tác phẩm “Thời lửa đạn” là tự truyện đầy ắp thông tin chân thực và sống động về  làng Minh Lệ trong khoảng  từ năm 1940 đến năm 1975. Đây cũng là những phác thảo rất quý về gia phả, dòng họ, địa chí, văn hóa và  quê hương đất và người. Thầy giáo già Hoàng Hữu Thanh, vị trưởng bối đáng kính làng Minh Lệ đã làm được nghĩa cử to lớn vinh danh quê hương nghèo khó, ân tình, anh hùng, địa linh nhân kiệt và vinh danh những thế hệ cầm súng bảo vệ xóm làng. Ông đã kịp lưu lại một mảnh ký ức lớn, rất quý, truyền thần về làng Minh Lệ đất và người. Trang văn của thầy Hoàng Hữu Thanh chắc chắn sẽ có nhiều người và nhiều thế hệ đọc lại. Nhà thơ nhà báo Phan Văn Khuyến nhận xét:” Nhờ năng khiếu bẩm sinh và được học tập, rèn luyện trong ngành sư phạm nhiều năm nên lời văn của thầy Hoàng Hữu Thanh thật trong sáng, giản dị, diễn đạt chính xác các sự kiện cần nói, bố cục súc tích gọn gàng. Tuy là ghi chép theo lối hồi kí nhưng nhờ thực tế nên trong tập hồi kí này có nhiều trang viết rất hay, …Làng Minh Lệ quê tôi “Thời lửa đạn” thân thiết trong lòng tôi. “Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần “Thời lửa đạn” do có cha mẹ và gia đình mình hiển hiện chân thực trong đó. Tôi đã rất xúc động vì nhớ lại tuổi thơ gian khó của người học trò nghèo cha mẹ mất sớm năm xưa trong Bài ca Trường Quảng Trạch “Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất. Lại cha già giặc giết hôm qua. Tình thầy, tình bạn, tình cha. Ấy là ân nghĩa thiết tha mặn nồng”.

Nguyễn Khải trong “Tôi viết vậy thì tôi tồn tại” đã nói: “Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”. Tại tự truyện “Thượng đế thì cười” , Nguyễn Khải cũng đã trích dẫn “Con người suy nghĩ còn Thượng đế thì cười” (Ngạn ngữ Do Thái, theo lời dẫn của Milan Kundera trong Diễn văn Zérusalem – Nguyên Ngọc dịch)

QUẢNG BÌNH ĐẤT MẸ ƠN NGƯỜI
Hoàng Kim

Quảng Bình đất Mẹ ơn Người
Tổ tiên cát bụi nhiều đời thành quê
Đinh ninh như một lời thề
Trọn đời trung hiếu để về dâng hương

Lòng son trung chính biết ơn
Quê hương chung đúc khí thiêng Quảng Bình
Về quê kính nhớ Tổ tiên
Mừng vui giữa chốn bạn hiền người thân

Đất trời ngày mới thanh tân
Thung dung thăm hỏi ân cần níu chân.
Đường xuân như một dòng sông
Việt Nam thống nhất thác ghềnh đến nơi.

Hồn chính khí bốc lên ánh sáng
Sáng choang ngọc đá giữa hoang tàn’.
Tâm nhân văn lắng đọng tinh hoa
Hoa Đất Hoa Người trong cõi Bụt

Nhớ Cậu Hoàng Thúc Tấn
Kính thượng thọ Cậu
Hoàng Kim

Mai trắng tóc Người cũng trắng trong
Đường trần lên thấu đỉnh cao phong
Hoàng gia Mạc tộc ngời tâm đức
Lối hẹp đường cong chẳng thẹn lòng

NHỚ CẬU HOÀNG THANH LUẬN
Hoàng Kim

Nhớ cậu đường xa về tảo mộ
Tổ Hoàng gốc cũ quý người thân
Cầu thương cầu hiếu tình quê vẹn
Mến cháu con xa Liệu nghĩa gần.

Kính chúc cậu mợ và gia đình vui khỏe.
Quảng Bình đất Mẹ ơn Người

BAN MAI ĐỨNG TRƯỚC BIỂN
Hoàng Kim

Ban mai đứng trước biển
Đảo Yến trong mắt ai
Thăm thẳm một tầm nhìn
Vị tướng của lòng dân.

Chùm ảnh về quê hương
GẶP BẠN Ở QUÊ NHÀ

Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây cp nht mi ngày

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter