Thể loại:
Nhà Lê sơ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Triều Lê sơ)
Nhà Lê sơ hoặc Lê Sơ triều (chữ Nôm: 家黎初, chữ Hán: 初黎朝), là giai đoạn đầu của triều đại nhà Hậu Lê, một triều đại quân chủ chuyên chế trong lịch sử Việt Nam, được thành lập sau khi Thái Tổ Cao hoàng đế Lê Lợi phát động khởi nghĩa Lam Sơn đánh bại quân đội nhà Minh. Ông đổi tên Giao Chỉ (交阯), vốn tồn tại trong thời gian nội thuộc nhà Minh, trở về Đại Việt (大越), quốc hiệu có từ đời Lý Thánh Tông.
Thời Lê Sơ có 10 vị Hoàng đế thuộc 6 thế hệ, đây là thời kỳ các Hoàng đế nhà Lê nắm trọn được quyền hành, cũng là thời kỳ vĩ đại, hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam. Đời Thái Tổ Cao Hoàng và đặc biệt là đời Lê Thái Tông, xã hội được đi vào ổn định, phát triển thịnh vượng một cách mau chóng sau thời kỳ chiến tranh trước đó. Có câu đồng dao sau: “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông; Con bế con dắt, con bồng, con mang…Đời vua Thái Tổ, Thái Tông; Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn”.
Dưới thời Lê Thánh Tông, Đại Việt phát triển cực thịnh về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự. Nước Đại Việt từ trước chưa bao giờ cường thịnh và mạnh mẽ, có sức ảnh hưởng toàn khu vực lớn bằng thời này, thời kỳ này được gọi là Hồng Đức thịnh thế (洪德晟世)[cần dẫn nguồn], tính đến ảnh hưởng các đời sau là Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, là hơn 30 năm.
Lãnh thổ thời đại này tiếp tục được mở rộng ra hơn nữa, cực thịnh gấp mấy lần so với đời nhà Lý và nhà Trần. Cùng với quân sự hùng mạnh, các đời Thái Tông đến Thánh Tông liên tiếp sát nhập lãnh thổ các quốc gia Bồn Man, Chiêm Thành; ngoài việc đối phó với các quốc gia, nền quân sự hùng mạnh khiến triều đình thẳng tay đàn áp các cuộc bạo loạn ở miền thượng, ổn định chính quyền trong thời gian dài. Mặc khác vì để đáp ứng một nền quân sự phát triển mạnh, nền kinh tế được phát triển theo thông qua buôn bán trong nước và thông thương với nước ngoài.
Thời kỳ nhà Hậu Lê bước vào giai đoạn trọng dụng quan lại, khác với nhà Trần bị chi phối bởi người trong hoàng tộc, luôn nắm đại quyền và được kế thừa nhau bằng việc thế tập. Triều đình mở nhiều khoa cử, thay đổi bộ máy chính quyền, không cho hoàng tộc các chức vụ thực quyền mà trọng dụng những người đã đổ khoa để bổ nhiệm, việc hạn chế sự thế tập dòng dõi quan lại giúp chế độ quan liêu hạn chế rất nhiều sự chuyên quyền dòng họ. Văn học Việt Nam được ghi nhận phát triển rực rỡ thời kỳ này, với việc Lê Thánh Tông mở ra Hội Tao Đàn, chính Hoàng đế khuyến khích học thuận trong toàn quốc gia. Danh sử Ngô Sĩ Liên thuộc về triều đại này, đã biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư, tiếp tục nối bước Lê Văn Hưu đời Trần ghi chép giai đoạn lịch sử một cách đầy đủ và hoàn thiện. Nhiều công trình sử liệu, văn học, thiên văn, quan chế…được hoàn thiện trong thời Lê Sơ.
Tồn tại từ năm 1428 đến năm 1527, kéo dài đúng 100 năm, triều đại này bị gián đoạn bởi nhà Mạc do quyền thần Mạc Đăng Dung cướp ngôi và tự lập mình làm Hoàng đế, sau 6 năm được tái lập với tên gọi nhà Lê trung hưng.
Lịch sử
Lê Lợi sáng lập
-
Nhà Lê sơ được thành lập từ kết quả thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn kéo dài 10 năm chống lại sự đô hộ của nhà Minh do Lê Lợi lãnh đạo.
Khi sang đánh nhà Hồ chiếm nước Đại Ngu (1406), nhà Minh đã nhân danh Phù Trần diệt Hồ, nhưng sau đó lại đánh diệt nhà Hậu Trần (1413). Vào cuối cuộc chiến với Lê Lợi, khi bị quân Lam Sơn vây trong thành Đông Quan (Hà Nội), tướng nhà Minh là Vương Thông đề nghị lập lại con cháu họ Trần làm điều kiện giảng hòa. Lê Lợi đã tìm lập Trần Cảo lập làm vua trên danh nghĩa vào cuối năm 1426.
Năm 1427, quân Minh sau 2 trận thua quyết định ở Chi Lăng và Xương Giang phải rút về nước. Lê Lợi đứng tên Trần Cảo là người đang làm vua trên danh nghĩa, sai sứ dâng biểu cho nhà Minh xin được phong. Minh Tuyên Tông biết Lê Lợi không có ý tôn Cảo nhưng vì bị thua mãi nên đồng ý phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc vương (安南國王).
Ít lâu sau Trần Cảo chết[1]. Lê Lợi tự mình lên ngôi, rồi sai sứ sang tâu nhà Minh rằng Trần Cảo bệnh mà chết ngày 10 tháng 1 năm 1428, do đó Lê Lợi có danh chính để làm vua Đại Việt. Minh Tuyên Tông thừa nhận Lê Lợi làm An Nam quốc vương.
Nhà Hậu Lê chính thức thành lập năm 1428, đó là ngày 15 tháng 3. Lê Lợi tự xưng làm Hoàng đế, sử gọi là Lê Thái Tổ. Ông đổi quốc hiệu từ Giao Chỉ (交阯) tồn tại dưới thời nhà Minh trở thành Đại Việt (大越). Ông đóng đô ở Thăng Long, đổi kinh thành Thăng Long trở thành Đông Kinh (東京), Tây Đô thành Tây Kinh (西京), Tây Kinh về sau đều gọi là Lam Kinh (藍京).
Thái Tổ chia nước ra làm 5 đạo: Đông Đạo, Tây Đạo, Nam Đạo, Bắc Đạo và Hải Tây Đạo, trong đó Hải Tây đạo gồm cả Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa. Mỗi đạo đặt một vệ quân, mỗi Vệ đặt chức Tổng quản, lại có chức Hành khiển để giữ sổ sách về việc quân-dân. Còn như các xã-thôn thì cứ xã nào có hơn 100 người trở lên, gọi là đại xã, đặt ba người xã quan; xã nào có 50 người trở lên, gọi là trung xã, đặt hai xã quan; xã nào có 10 người trở lên gọi là tiểu xã, đặt một người xã quan để coi việc trong xã. Kinh tế nhanh chóng được khôi phục, ông ra Quân điền chế, khiến mọi tầng lớp đều có ruộng, sự phục hưng đồng đều dần đi lên. Dù mới chiến loạn nhưng Thái Tổ hết sức quan tâm ngay đến giáo dục, ông cho mở lại Quốc Tử Giám, cho con cháu các quan viên và những người thường dân có khả năng vào học tập; mở nhà học và đặt thầy dạy nho học ở các phủ và các lộ.
Năm 1432, tù trưởng Đèo Cát Hãn nổi dậy, Thái Tổ sai Quốc vương Lê Tư Tề trấn áp. Tư Tề là con trưởng của Thái Tổ, vốn là người dũng mãnh, thiện chiến, ngay từ khi còn khởi binh lam Sơn đã không ít lần lập được công lao, phong làm Quốc vương (國王). Nay khi cầm binh dẹp loạn, nhanh chóng họ Đèo phải ra hàng. Bấy giờ Thái Tổ hay đau ốm, mọi việc đều do Quốc vương xử lý.
Thái Tổ lên ngôi chưa lâu, nhưng ra tay sát hại những công thần quan trọng như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, những đại tướng quân có công trong việc thành lập nhà Lê. Bấy giờ trong triều chưa định ai làm người kế ngôi, con trai thứ 2 Lê Nguyên Long vốn là Lương quận công (良郡公), được phong làm Hoàng thái tử, Quốc vương Tư Tề lại là người quen việc trị nước. Bọn đại thần Lê Sát, Lê Ngân, Lê Khôi ủng hộ Lương quận công, trong khi các tướng Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn ủng hộ Quốc vương. Cuối cùng vào năm 1433, Thái Tổ giáng Quốc vương làm Quận vương (郡王), đưa Nguyên Long quyền kế thừa đại thống.
Có thuyết cho rằng: Thái Tổ vốn nghi kị họ Trần, thấy Nguyên Đán là người tôn thất nên diệt trừ đi, lại cho rằng Quốc vương cùng phe với Nguyên Đán nên Quốc vương cũng vì thế mất lòng Thái Tổ. Sau vụ việc giáng Quốc vương, sử thần chỉ ghi ngắn gọn mắc chứng điên cuồng, giết bừa các tỳ thiếp, nên không làm vừa ý Thái Tổ.
Năm 1433, Thái Tổ hoàng đế Lê Lợi băng hà, thọ 49 tuổi, trị vì được 5 năm. Ông được truy thụy hiệu là Cao Hoàng Đế (高皇帝), nên còn được gọi là Thái Tổ Cao hoàng đế (太祖高皇帝), hay Cao Hoàng (高皇).
Thái tử Nguyên Long lên kế vị, tức Lê Thái Tông. Hoàng đế lên ngôi khi chỉ 11 tuổi, tuy còn nhỏ nhưng ông mau chóng tỏ ra là người thông minh khác thường.
Thái Tông chuyên chính và đảng tranh
Vì hoàng đế còn nhỏ tuổi, bên cạnh ông có Đại tư đồ Lê Sát (黎察) được ban quyền phụ chính. Lê Sát xuất thân từ võ tướng, là người Lam Sơn, tính tình nóng nảy, nhiều việc xử lý quá khắt khe, làm bừa và không cân nhắc. Quan đồng tri Bắc đạo là Bùi Ư Đài xin chọn những bậc kỳ lão vào cung giúp can gián ấu đế và đặt chức sư phó để chỉ huy trăm quan. Lê Sát thấy ý định đó đụng chạm đến quyền lớn đang trong tay mình, nên sai bắt Ư Đài tống giam, kết tội ly gián vua tôi. Dù Thái Tông không đồng tình nhưng Lê Sát vẫn tâu đi tâu lại 4 lần, ép Thái Tông khép tội Ư Đài. Thái Tông bất đắc dĩ phải lưu đày Ư Đài, nhưng từ đó càng ngày càng ghét Lê Sát.
Năm 1437, Thái Tông ra chiếu chỉ: “Lê Sát tự chuyên giữ quyền bính, ghen người tài, giết Nhân Chú để tự ra oai của mình, truất Trịnh Khả để người ta phục, bãi chức của Ư Đài khiến đình thần không ai dám nói, đuổi Cầm Hổ ra nơi biên thùy để gián quan phải ngậm miệng. Xem những việc làm ấy đều không phải là đạo làm tôi. Nay muốn khép vào luật hình để tỏ rõ phép nước, song vì là đại thần cố mệnh, có công với nhà nước, đặc cách khoan tha, nhưng phải bãi chức tước”. Sau đó Thái Tông bắt giam người cùng phe Lê Sát là Đặng Đắc, cho Bùi Ư Đài được phục chức, triệu Bùi Cầm Hổ về kinh, cử Tư khấu Lê Ngân thay Lê Sát chấp chính.
Tháng 7, năm đó, Thái Tông ra lệnh phế truất con gái ông là Nguyên phi Lê Ngọc Dao (黎玉瑤) làm dân thường, rồi ra chiếu kết tội Lê Sát và những người cùng cánh, định xử chém đầu rao ở chợ. Tuy nhiên, do là công thần nên Lê Ngân và Bùi Cầm Hổ khuyên Thái Tông không nên chém, chỉ ban thuốc tự tử, Thái Tông nghe theo.
Trừ được Lê Sát, Thái Tông càng khắt khe trong số các công thần, trong tâm có ý trừ Tư khấu Lê Ngân. Bấy giờ Lê Nhật Lệ (黎日厲), con gái của Lê Ngân được phong làm Huệ phi (惠妃) nhưng không được sủng hạnh, Lê Ngân sai người phù thủy làm lễ ở nhà, đúc tượng vàng Quan Thế Âm để mong con gái được yêu thương. Thái Tông nghe đến, sai người vào nhà ông tra khảo, bắt được bọn phù thủy yếm và tượng vàng. Lê Ngân hoảng hốt vào triều, tâu sớ giải bầy, nhưng Thái Tông quyết xử tử, ban cho ông tự vẫn tại nhà như Lê Sát trước đây. Tuy nhiên cũng như Lê Sát, cả nhà ông chỉ bị lưu đày, con trai Lê Nho Tông bị buộc làm lính giữ cửa, không được trọng dụng.
Dẹp được quyền thần, Thái Tông chuyên tâm vào chính sự. Năm 1438, Thái Tông chỉnh đốn việc thi cử các đạo. Lệ cứ 5 năm một lần thi hương, 6 năm một lần thi hội. Phép thi thì kỳ thứ nhất làm một bài kinh nghĩa, bốn bài tứ thư nghĩa, mỗi bài phải 300 chữ trở lên; kỳ thứ hai làm bài chiếu, bài chế và bài biểu; kỳ thứ ba làm bài thi phú; kỳ thứ tư làm một bài văn sách phải 1.000 chữ trở lên. Lại cho mở khoa cử, chọn tiến sĩ, ai đỗ đều được khắc tên vào bia đá Văn miếu, lệ khắc tên vào bia bắt đầu từ đây.
Năm 1439, Thái Tông thân chinh dẫn quân đi đánh các châu Phục Lễ (Lai Châu ngày nay). Bấy giờ bọn tù trưởng man di họ Cầm quấy nhiễu biên giới, nước Ai Lao nghe theo cũng cử 3 vạn quân theo chúng cướp phá. Thái Tông đích thân dẫn 6 quân đi đánh, thắng lợi rực rỡ. Năm 1441, phản tặc tên Thượng Nghiễm làm loạn ở châu Thuận Mỗi, Nghiễm trước cậy vào Ai Lao nhiều lần làm loạn, Thái Tông đã từng cất binh nhưng do dâng phương vật nên tha về. Đến nay Thái Tông đem quân đến bắt sống được 1 viên tướng Ai Lao và vợ cọn; lại bắt được các con trai của Nghiễm, Nghiễm bèn ra hàng. Thái Tông dâng tú báo thắng trận ở Thái Miếu.
Bấy giờ, sau khi Lê Thái Tổ mất, văn vật, chế độ, sách vở, lễ nhạc đều được khôi phục, điển chương văn vật rực rỡ. Các nước Trảo Oa (Java), Xiêm La, Tam Phật Tề [2], Chiêm Thành, Mãn Lạt Gia (Malacca) vượt biển sang cống, bên trong bọn phản nghịch đều được dẹp yên, giáng đòn phạt đến nỗi không gượng dậy được. Thái Tông lúc đó chưa đầy 20 tuổi, nếu không phải nói thiên tư trời ban thì còn từ nào đủ hình dung.
Năm 1442, ngày 4 tháng 8, Thái Tông đi thăm trại Vải (Lệ Chi viên, nay thuộc huyện Gia Lương, Hà Bắc), thuộc khu dinh thự của Hành khiển Nguyễn Trãi, bỗng nhiên băng hà, khi đó hoàng đế chỉ tròn 20 tuổi. Việc này dẫn đến vụ án Lệ Chi Viên nổi tiếng trong lịch sử, triều đình kết tội Hành khiển Nguyễn Trãi và thị thiếp là Nguyễn Thị Lộ, vì khi Thái Tông băng Thị Lộ đã luôn hầu bên cạnh, bấy giờ cho rằng Thị Lộ giết hoàng đế. Án đưa ra là tru di tam tộc, giết đến 3 họ của Nguyễn Trãi.
Thái Tông được truy thụy hiệu là Văn Hoàng Đế (文皇帝), về sau đều gọi là Thái Tông Văn hoàng đế (太宗文皇帝).
Ngày 12 tháng 8, Thái tử Lê Bang Cơ (黎邦基) lên kế vị, tức Lê Nhân Tông. Nhân Tông lên ngôi còn nhỏ tuổi, mẫu thân là Nguyễn Thần phi được tôn làm Hoàng thái hậu, buông rèm nhiếp chính.
Sự biến Diên Ninh
Nhân Tông hoàng đế lên ngôi còn thơ ấu, Nguyễn Thái hậu cùng các đại thần Nguyễn Xí, Lê Thụ, Trịnh Khả phụ chính cho Tân đế. Lúc này niên hiệu được đổi thành Thái Hòa (大和).
Thái hậu coi việc, dùng phép sẵng từ đời trước, kinh tế, văn hóa tiếp tục được đi lên. Bấy giờ, Chúa Chiêm Thành là Bí Cai hai lần mang quân vây Hóa Châu. Tuy triều đình đã mấy lần phát binh, quân Chiêm vẫn chưa bỏ thói gây hấn. Vào năm 1446, Thái hậu sai Trịnh Khả, Lê Thụ, Lê Khắc Phục đi đánh, Bí Cai ra hàng, các tướng lập cháu Bí Cai là Ma Ha Quý Lai làm chúa Chiêm. Với chiến thắng huy hoàng này, quân Đại Việt tóm gọn được các cung phi của Bí Cai mà đem về kinh thành Đông Kinh.
Vào năm 1448, quốc gia Bồn Man (盆蠻) chịu nội thuộc vào Đại Việt. Thái hậu sáp nhập Bồn Man, trở thành châu Quy Hợp (歸合) của Nhà nước Đại Việt. Ngoài ra, cũng trong những năm tháng Thái hậu chấp chính, Triều đình ban lệnh cho đào sông Bình Lỗ ở Thái Nguyên, mang lại thuận lợi cho việc giao thông vận tải.
Vào năm 1449, Quý Lai bị Quý Do cướp ngôi. Quý Do sai sứ sang triều cống Đại Việt, nhưng Thái hậu từ chối không tiếp nhận lễ vật và phán: “Tôi giết vua, em giết anh là tội đại ác xưa nay, trẫm không nhận đồ dâng”. Sau khi buộc sứ phải mang trả lại lễ vật về Chiêm, Thái hậu truyền lệnh cho Đồng tri hữu tri sự Nguyễn Hữu Quang, Điện trung thị ngự sử Trình Ngự đem thư sang Chiêm Thành, với nội dung như sau: “Sự thực của các ngươi như thế nào thì phải sang trình bày cho rõ”.
Tháng 11, năm Quý Dậu (1453), Nhân Tông lên 12 tuổi, có thể tự coi chính sự, Thái hậu trả lại quyền chính cho ông rồi lui về ở cung riêng. Khi tự mình ra coi chính sự, Nhân Tông xuống lệnh đại xá, và đổi niên hiệu là Diên Ninh (延寧). Năm 1454 trở thành năm Diên Ninh thứ nhất.
Nhân Tông tỏ ra là người độ lượng với các công thần khai quốc có tội bị xử tử trước đây, từ thời Thái Tổ Cao hoàng đế, Thái Tông Văn hoàng đế đến khi Nguyễn Thái hậu chấp chính. Ngay khi ra cầm chính sự, ông ra nhiều chiếu chỉ biểu dương công lao của họ, hoặc trả lại của cải, ruộng đất cho con cháu họ. Ông khôi phục lại quan tước và ban cho con cháu Trịnh Khả (bị xử tử năm 1451) 100 mẫu ruộng; cấp 100 mẫu ruộng cho con cháu Lê Sát và Lê Ngân (bị xử tử năm 1437); trả lại điền sản trước đây cho con cháu Phạm Văn Xảo (bị xử tử năm 1430) và Trần Nguyên Hãn (bị xử tử năm 1429). Ông biểu dương công lao sự nghiệp của Nguyễn Trãi (bị xử tử năm 1442): Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp yên giặc loạn, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng.
Ân đức của Nhân Tông nổi danh đương thời, ông chủ trương không quá hà khắc hình luật, trọng giáo dục, văn học, chế độ hiến chương triều đình, là người hiền minh sáng suốt, tuổi còn nhỏ mà là vị minh quân khó ai bì. Tuy hiền đức là vậy nhưng ông lại có kết cục bi thảm khi bị chính người anh lớn là Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân giết chết.
Lê Nghi Dân (黎宜民) – tước phong bấy giờ là Lạng Sơn vương (諒山王) – con trai trưởng của Thái Tông Văn hoàng đế, mẹ là Dương chiêu nghi (楊昭儀). Dương thị vốn là sủng phi của Thái Tông, về sau hành xử lỗ mãn mà bị phế làm thứ nhân. Nghi Dân trước đây mẹ được sủng ái nên được lập làm Hoàng thái tử, sau do mẹ thất sủng nên cũng bị phế, bị biếm đến vùng Lạng Sơn. Nhân Tông vốn nhân từ, đối đãi với anh em rất hậu, nên đối với Nghi Dân không phòng bị gì, đến đây bị Nghi Dân sai người lẻn vào cung và giết chết. Nguyễn Thái hậu cũng bị đem ra xử chết vào ngày hôm sau.
Theo một số nhà sử học, cũng như thần tích và các chuyện chép rải rác trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhân Tông vốn không phải con của Thái Tông Văn hoàng đế. Mẹ ông Nguyễn Thái hậu được cho là đã tư thông với Lê Nguyên Sơn, một người trong tôn thất họ Lê, chi dưới của Tuyên Tổ hoàng đế Lê Khoáng, tức tổ phụ của Thái Tông[3]. Rất có thể trong quá trình trưởng thành, Nghi Dân đã được nghe nói về lời đồn này và quyết tâm đoạt ngôi của Nhân Tông.
Lạng Sơn vương Nghi Dân lên ngôi vào ngày 7 tháng 10, năm 1459, đặt niên hiệu là Thiên Hưng (天興). Tuy giết hại Nhân Tông nhưng Thiên Hưng Đế lại tha cho những người em khác, ông cải phong Lê Khắc Xương (黎克昌) từ Tân Bình vương (賓平王) thành Cung vương (恭王); Lê Tư Thành từ Bình Nguyên vương (平原王) thành Gia vương (嘉王).
Tháng 5, năm 1460, các tể tướng đại thần là Đỗ Bí, Lê Ngang, Lê Thụ, Lê Ê bí mật bàn việc lật đổ Thiên Hưng. Việc đó bị lộ, cả mấy người đều bị bắt giết. Thiên Hưng thay đổi nhiều pháp chế của đời trước, dùng những người thân tín của mình vào triều nên nhiều cựu thần không bằng lòng.
Tháng 6 năm đó, các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Niệm, Lê Nhân Quý, Trịnh Văn Sái, Nguyễn Đức Trung…cùng bàn nhau làm binh biến lần nữa. Ngày 6 tháng 6, có buổi chầu sớm. Khi tan chầu, những người định làm binh biến ngồi ngoài cửa Sùng Vũ nơi Nghị sự đường. Nguyễn Xí phát động lệnh dẫn quân vào giết các bề tôi tin cẩn của Thiên Hưng là Phạm Đồn, Phan Ban ở Nghị sự đường. Lê Nhân Thuận chém chết Trần Lăng, giữ chặt quân cấm binh, đóng các cửa thành. Hơn 100 người phe cánh của Thiên Hưng bị giết.
Thiên Hưng Đế bị bắt, truất làm Lệ Đức hầu (厲德侯) và bị thắt cổ chết khi mới 22 tuổi.
Bấy giờ, các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Nguyễn Đức Trung đều nhất trí đưa Gia vương Tư Thành lên ngôi, kế thừa hoàng vị. Nhưng Nhập nội Thiếu úy Lê Lăng lại mời Cung vương, khi các đại thần đến mời Cung vương thì Vương nhất quyết từ chối, vì vậy Gia vương được tôn lên ngôi vị.
Ngày 26 tháng 6, năm 1460, Gia vương Lê Tư Thành lên ngôi, sử gọi là Lê Thánh Tông, lấy niên hiệu là Quang Thuận (光順). Năm đó, ông chỉ mới 18 tuổi. Ông chỉ định Nguyễn Xí và Đinh Liệt vào các chức quan cao nhất của triều đình, nắm giữ binh quyền. Từ đây, Đại Việt bước vào thời kỳ cực thịnh do Thánh Tông hoàng đế trị vì.
Hồng Đức thịnh thế
-
Lê Thánh Tông – Sùng Thiên Quảng Vận Cao Minh Đạt Hiếu Thuần Hoàng Đế (崇天廣運高明達孝淳皇帝) – là vị hoàng đế tài giỏi nhất trong triều đại thời Lê Sơ, cũng như xét toàn bộ lịch sử Việt Nam.
Lên nắm chính quyền, ông chủ trương làm việc siêng năng, làm gương cho các quan lại. ông sửa sang bộ máy chính quyền, chia làm Lục bộ một cách đầy đủ. Về cơ cấu chính quyền các cấp, ông đã tiến hành xóa bỏ hệ thống tổ chức hành chính cũ thời Lê Thái Tổ từ 5 đạo đổi thành 13 đạo (thừa tuyên). Thánh Tông ra chỉ dụ, các quan chỉ được làm việc tối đa đến tuổi 65 và ông bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có công – công thần. Ông tôn trọng việc chọn quan phải là người có tài và đức.
Về kinh tế, Thánh Tông chủ trương các chính sách: sửa đổi luật thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, mở đồn điền,kêu gọi người phiêu tán về quê,đặt ra luật quân điền chia đều ruộng đất cho mọi người. Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển Đại Việt của Thánh Tông đã được kiểm chứng qua các bài chiếu, chỉ dụ do ông trực tiếp chấp bút và ban bố, như Chiếu khuyến nông, Chiếu lập đồn điền, Chiếu định quan chế…và các chiếu thư khác. Các ngành nghề thủ công nghiệp và xây dựng dưới thời trị vì của Lê Thánh Tông cũng phát triển rực rỡ. Nghề in và làm giấy ở Đại Việt đạt một trình độ cao của thế giới thời bấy giờ. Số lượng sách in thời này khá đồ sộ. Đặc biệt nhất thời kỳ này là thành tựu trong công nghệ chế tạo vũ khí và đồ sắt chiếm ưu thế. Đồ gốm, sứ thời Lê Sơ phát triển đạt được độ tinh xảo và hoa văn đẹp, nay càng rực rỡ hơn dưới thời Thánh Tông. Việc giao thương buôn bán đã chắp cánh cho đồ gốm thời này đi xa và hiện nay bộ sư tập về đồ gốm Lê Sơ cũng rất phong phú. Thương mại và giao dịch buôn bán với các lân bang phát triển mạnh, cùng với bước chân viễn chinh xa xôi của đội quân đế chế Đại Việt. Để tạo thuận tiên cho việc mua bán Lê Thánh Tông đã từng khuyến dụ các quan rằng: “Trong dân gian hễ có dân là có chợ để lưu thông hàng hoá, mở đường giao dịch cho dân. Các xã chưa có chợ có thể lập thêm chợ mới. Những ngày họp chợ mới không được trùng hay trước ngày họp chợ cũ để tránh tình trạng tranh giành khách hàng của nhau”.
Bên cạnh phát triển kinh tế, về văn hóa, giáo dục cũng được phát triển mạnh. Thánh Tông tiếp tục đẩy cao Nho giáo, tránh để Phật giáo lộng hành như đời nhà Lý, sửa sang nhiều chế độ đãi ngộ hiền tài. Ông cho Ngô Sỹ Liên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư, góp phần lớn lao trong việc chép sử, ngoài ra còn có Nhà toán học Lương Thế Vinh với Đại thành Toán pháp, Phan Phu Tiên với Việt âm thi tập, Đại Việt sử ký tục biên, Bản thảo thực vật toát yếu (Tóm lược sách bản thảo thực vật), tri thức thời đại này đã lên đến đỉnh cao, rực rỡ hơn các triều đại trước. Thánh Tông bắt đầu cho phép tôn vinh việc học bằng các cuộc lễ xướng danh (lễ đọc tên người thi đậu), lễ vinh quy bái tổ (lễ đón rước người thi đậu về làng) và nhất là lệ khắc tên và lý lịch tiến sĩ vào bia đá Văn Miếu. Vì thế khuyến khích mọi tầng lớp cư dân đua nhau học hành để tên tuổi được ghi vào bảng vàng, để gia môn được vinh dự và để làng quê được vinh hiển. Bên cạnh đó, bản thân Thánh Tông là một người hay chữ, ông tự xưng làm Thiên Nam động chủ (天南洞主), viết nhiều bài thơ, rất nhiều bài được lưu truyền trong dân gian và trong giới tri thức. Đặc biệt tuyển tập Thánh Tông di thảo đã để lại giá trị lớn trong dòng truyện ký. Thánh Tông cho thành lập Tao đàn Nhị thập bát Tú, xưng làm Tao Đàn nguyên súy (騷壇元帥), cùng với Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Thái Thuận là những trụ cột văn chương nổi tiếng dưới thời Lê Sơ.
Năm 1470, Thánh Tông đổi niên hiệu thành Hồng Đức (洪德), về sau người ta đều gọi niên hiệu này của ông khi nói về một triều đại đầy thịnh vượng và cực thịnh, gọi là Hồng Đức thịnh thế (洪德晟世). trên thực tế sự cực thịnh này kéo dài cả về đến thời cháu nội ông là Lê Túc Tông. Bản thân Thánh Tông được gọi là Hồng Đức Đế (洪德帝).
Bên cạnh là một nhà văn hóa, Thánh Tông còn chủ trương mở rộng lãnh thổ Đại Việt, ông là vị hoàng đế mở mang bờ cõi nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử Việt Nam khi Tây tiến đánh qua các tiểu quốc, cường quốc phía tây như Lan Xang, Bồn Man, những nước giúp đỡ họ Cầm làm loạn ở vùng đất thuộc Lai Châu ngày nay. Bên cạnh đó, sau sự kiện năm 1471, Chiêm Thành vốn là kình địch của Đại Việt, từ một cường quốc trở nên suy yếu trầm trọng, kinh đô Đồ Bàn bị phá hủy, hơn 30.000 người bị bắt, trong đó chúa Chiêm Trà Toàn đã bị tử trận cùng hơn 40.000 quân Chiêm. Sau khi Trà Toàn bị bắt, em là Trà Toại trốn vào núi, sai người sang cầu cứu nhà Minh và xin phong vương. Được tin, Thánh Tông sai Kỳ quận công Lê Niệm đem 3 vạn quân vào đánh, Trà Toại bị bắt giải về kinh. Về sau, Minh Hiến Tông sai sứ sang bảo Thánh Tông phải trả đất cho Chiêm Thành, nhưng ông nhất quyết không chịu. Sau chiến thắng, Thánh Tông thực hiện chính sách mới, bình định và Việt hóa dân chúng người Chiêm Thành và sát nhập lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành (từ đèo Hải Vân tới bắc Phú Yên ngày nay) vào Đại Việt. Tháng 6 năm 1471, lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành được lập thành thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa. Tới đây, Thánh Tông đưa thừa tuyên Quảng Nam vào Thiên hạ bản đồ, đất nước Đại Việt tổng cộng 13 thừa tuyên.
Ngày 30 tháng 1, năm 1497, Thánh Tông mất, thọ 55 tuổi, cai trị được 37 năm, thụy hiệu là Thuần Hoàng Đế (淳皇帝), nên được gọi là Thánh Tông Thuần hoàng đế (聖宗淳皇帝). Con trưởng là Lê Tranh (黎鏳) kế vị, sử gọi là Lê Hiến Tông. Ông đổi niên hiệu Cảnh Thống (景統).
Hiến Tông là bậc minh quân như phụ hoàng, tiếp tục đường lối trị vì của Thánh Tông nhưng chủ trương ổn định và phát triển, đẩy mạnh chính quyền sau một thời gian chiến tranh và để dần thu phục những người bản địa của các vùng đất mà Thánh Tông đã chiếm được. Các sử gia đều nhìn nhận Hiến Tông là vị hoàng đế giỏi. Tuy nhiên, ông chỉ cai trị được 7 năm thì qua đời, đó là vào ngày 24 tháng 5, năm 1504. Thái tử Lê Thuần (黎㵮) kế vị, tức Lê Túc Tông. Túc Tông được nhận xét là thông minh hơn người, từ nhỏ được Hiến Tông yêu quý và chọn làm Thái tử dù không phải là con trưởng. Tuy nhiên chưa được 1 năm thì Túc Tông yểu mệnh qua đời vào ngày 30 tháng 12, năm 1504, nối ngôi chỉ vừa 6 tháng.
Trước khi qua đời, Túc Tông nhận thấy trong số hoàng thất, anh trai mình là Lê Tuấn (黎晭) có khả năng nhất, nên chỉ định làm người kế vị. Huy Gia Thái hoàng thái hậu Nguyễn thị, mẹ của Hiến Tông, bà nội của Túc Tông và Lê Tuấn lại phản đối. Bà cho rằng Lê Tuấn là con của hạng tỳ thiếp hèn mọn, nên nhân cách không cao quý, không thể kế thừa ngôi chính thống, bà bèn chọn một tôn thất trong họ là Lã Côi vương (không rõ tên) làm người kế vị. Tuy nhiên, mẹ nuôi của Lê Tuấn là Nguyễn Kính phi và đại thần Nguyễn Nhữ Vy đã mưu kế trong cung, lừa Thái hậu ra khỏi thành đi đón Lã Côi vương, còn bọn họ trong cung mau chóng truyền chỉ lập Lê Tuấn kế vị.
Ngày 18 tháng 12, năm 1505, Lê Tuấn lên ngôi, đặt niên hiệu là Đoan Khánh (端慶), sử gọi là Lê Uy Mục. Từ đây lịch sử nhà Lê Sơ rôi vào một thời kỳ khủng hoàng vì sự man rợ của vị hoàng đế này.
Uy Mục bạo đế
Lê Uy Mục, tên thật Lê Tuấn (黎濬), con trai thứ 2 của Hiến Tông Duệ hoàng đế, mẹ là Nguyễn Thị Cận Nguyễn Cận, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn. Ngày 8 tháng 12, năm 1488, Nguyễn Thị Cận sinh ra Lê Tuấn rồi chết do bệnh hậu sản, Nguyễn Kính phi lúc đó là chị em tốt với Hoàng hậu, bèn nhận Tuấn về làm con.
Bấy giờ, Hiến Tông có con trưởng là An vương Lê Tuân (黎洵), con thứ 2 là Uy Mục và con thứ 3 chính là Lê Túc Tông. Mẹ của An vương là Mai chiêu nghi, chỉ là thị thiếp nên dù là con trưởng của Hiến Tông nhưng An vương khó được xét làm người kế thừa, hơn nữa lúc nhỏ An vương phạm tội bất hiếu với mẹ, nên Hiến Tông càng không đoái hoài. Trong khi đó, mẹ của Túc Tông là chính thất, Trang Thuận Duệ hoàng hậu Nguyễn Hoàn, bản chất Túc Tông lại là người nhân hiếu, thông minh, ngôi Thái tử sớm thuộc về Túc Tông. Khi Hiến Tông qua đời năm 1504, Nguyễn Kính phi muốn đưa Uy Mục lên ngôi, đem tiền vàng hối lộ cho Thượng thư Đàm Văn Lễ, Văn Lễ không nhận mà quyết lập Túc Tông, Uy Mục từ đấy sinh hận.
Ngày 22 tháng 3, năm đầu niên hiệu Đoan Khánh, Uy Mục cho người trong đêm giết chếtbà nội là Thái hoàng thái hậu Nguyễn Thị Hằng, vì Uy Mục căm giận Thái hậu xỉ nhục mẹ của mình, và việc bà không chịu lập Uy Mục lên ngôi. Ngày 5 tháng 6, cũng năm ấy, Uy Mục sai cách chức Lễ bộ thượng thư Đàm Văn lễ và Đô ngự sử Nguyễn Quang Bật, bấy giờ 2 người là những người không thừa nhận ngôi vị của Uy Mục, bị cách chức đày về Thừa tuyên Quảng Nam. Nhưng Uy Mục nghe lời Nguyễn Nhữ Vy, trên đường đi lén sai người giết chết cả 2 người, về sau lại giết Nhữ Vy. Uy Mục còn ra lệnh cho giết hết những người Chiêm Thành bị bắt làm gia nô trong các điền trang của các thế gia, công thần. Ông từ khi lên ngôi, đêm nào cũng cùng với cung nhân uống rượu, rồi đến khi say thì giết đi rất tàn bạo. Phó sứ thần Nhà Minh là Hứa Thiên Tích (許天錫) sang, trông thấy Uy Mục, làm thơ gọi Uy Mục là Quỷ vương (鬼王):
Sự tàn bạo của Uy Mục đã gây nên một làn sóng bất bình trong hàng ngũ quan lại, tông thất. Quyền hành trong triều rơi vào tay họ ngoại của hoàng đế[4]. Bấy giờ, uy quyền thuộc về họ ngoại, phía đông thì làng Hoa Lăng (quê của Nguyễn Kính phi), phía tây thì làng Nhân Mục (quê của Trần hoàng hậu), phía bắc thì làng Phù Chẩn (quê của Chiêu Nhân thái hậu) đều chuyên cậy quyền thế, vùi dập các quan, kẻ thì vì ý riêng mà giết hại sinh dân, kẻ thì dùng ngón kín mà yêu sách tiền của. Muôn dân ta oán mà hoàng đế vẫn không chừa, lại mang lòng ngờ vực, đố kỵ. Các quan người nào ngày trước không lập mình, thì thường giết đi. Lại ngầm sai nội nhân Nguyễn Đình Khoa dò xét cả 26 thân vương là các chú và anh em của ông. Trong đó, Kinh vương Lê Kiện là chú đã chạy trốn không biết đi đâu, chỉ có Giản Tu công Lê Oanh là con của Kiến vương Lê Tân, chú ruột của hoàng đế, thì bị giam vào ngục nhưng trốn thoát được. Do vậy, mọi người đều cảm thấy nguy đến thân mình, càng nghĩ đến việc nổi loạn.
Tháng 11, năm 1509, Giản Tu công giả xưng anh ruột của mình là Cẩm Giang Vương Lê Sùng (黎漴), dựng cờ ở Lam Kinh và đưa quân về Đông Kinh. Uy Mục bèn bắt giết Lê Sùng và mẹ của Lê Oanh là Trịnh Thị Tuyên. Giản Tu công vào chiếm kinh thành bắt được và bức Uy Mục tự tử ngày 1 tháng 12 năm 1510. Giản Tu công hận Uy Mục giết hại gia đình mình, chưa nguôi giận, sai người dùng súng lớn, để xác Uy Mục vào miệng súng, cho nổ tan hết hài cốt, chỉ lấy ít tro tàn về chôn tại An Lăng (安陵) ở quê mẹ ông tại làng Phù Chẩn.
Vì sự tàn bạo độc ác, Uy Mục bị giáng làm Mẫn Lệ công (愍厲公), tuy nhiên về sau Chiêu Tông Thần Hoàng lên kế vị đã truy phong ông thành thụy hiệu Uy Mục hoàng đế (威穆皇帝), còn được gọi là Uy Mục Bạo Đế (威穆暴帝).
Ngày 4 tháng 12, năm 1509, Giản Tu công lên ngôi, tức Lê Tương Dực.
Hồng Thuận trung hưng và sự suy trị
Lê Tương Dực, tên thật là Lê Oanh (黎瀠), con trai thứ 2 của Kiến vương Lê Tân, là cháu nội của Thánh Tông Thuần Hoàng, dưới thời Lê Hiến Tông được ban phong hiệu Giản Tu công (簡修公). Khi Lê Uy Mục nghi ngờ tôn thất, bắt giam ông trong ngục, ông đã tìm kế thoát ra, gặp được Nghĩa quận công Nguyễn Văn Lang hiện đang ẩn dật tại Lam Kinh. Hai người tập hợp lực lượng, thảo chiếu dấy binh và tiến vào Đông Kinh vào năm 1509. Ông đặt niên hiệu là Hồng Thuận (洪順), bắt đầu thời kỳ trung hưng ngắn ngủi sao sự náo loạn dưới thời Uy Mục Đế.
Trong những năm đầu cầm quyền, Tương Dực Đế cũng có vài đóng góp thể hiện sự cố gắng vực dậy đất nước đã suy tàn, nhất là trong lĩnh vực khoa cử. Năm 1511, ông tổ chức kỳ thi Hội, đến kỳ thi Đình thì ông đích thân ra đề văn hỏi về đạo trị quốc. Ông cho trùng tu Quốc Tử Giám, dựng lại bia tiến sĩ tỏ rõ sự khuyến khích hiền tài. Đông các đại học sĩ Đỗ Nhạc đã soạn bài ký ở Quốc Tử giám ca ngợi công đức của Tương Dực Đế, đánh giá là người đủ tài đức để tiếp nối cơ nghiệp của Thuần Hoàng khi xưa. Bấy giờ, Lại bộ tả thị lang Lương Đắc Bằng dân kế trị nước, đại ý khuyên rằng sửa sang văn chiếu điển lệ; tỏ lòng hiếu để cho người trong nước thuận theo; rời xa sắc dục; không dùng lời nịnh; không tùy tiện trao thưởng quan tước; cân nhắc bổ nhiệm quan lại chân chính công bằng; tiết kiệm chi tiêu để khuyến khích sự liêm chính; khen người tiết nghĩa để trọng đạo cương thường; cấm hối hộ bỏ trừng thói tham ô; sửa sang võ bị để thủ thế hùng cường; lựa chọn ngôn quan để trọng dụng lời thật; nới nhẹ việc phu để xót thương dân chúng; hiệu lệnh tín thực để nắm ý chí thiên hạ; luật pháp chế độ phải thận trọng để mở nền thịnh trị thái bình. Bấy giờ Tương Dực Đế đều cho là lời hay, luôn nghe theo, chẳng mấy chốc mở ra thời kỳ trung hưng thịnh vượng dưới thời cai trị của ông.
Năm 1510, Tương Dực sai quan Binh bộ Thượng thư là Vũ Quỳnh soạn bộ Đại Việt thông giám thông khảo, gọi tắt là Đại Việt thông giám hay Việt giám thông khảo. Đại Việt thông giám gồm 26 quyển, chia thành Ngoại kỷ chép từ Hồng Bàng đến hết nhà Ngô, Bản kỷ từ Đinh Tiên Hoàng đến đầu thời Thái Tổ Cao hoàng đế. Tương Dực còn sai Lê Tung soạn bài tổng luận về bộ sử ấy. Theo Phan Huy Chú, bộ sách này được Lê Nại đánh giá là quy mô và đúng với kinh, trúng với sử.
Năm 1511, người làng Quang Bị, huyện Bất Bạt là Trần Tuân nổi loại ở vùng Sơn Tây. Bấy giờ, nhân dân các phố xá ở kinh thành náo động, đều đem vợ con về quê quán, đường phố không còn một ai đi lại. Tương Dực Đế sai Mỹ Huệ hầu Trịnh Duy Sản chỉ huy quan quân đi đánh Trần Tuân. Bấy giờ, quân của Tuân đã bức sát đến huyện Từ Liêm (Quốc Oai), quan quân bại trận, lui về đóng ở các xứ Đông Ngạc, Nhật Chiêu. Về sau, Trịnh Duy Sản lập đại công, phá tan được cuộc nổi loạn, được phong tước Nguyên quận công (原郡公).
Năm 1516, Tương Dực Đế cho đắp thành rộng cả ngàn trượng chắn ngang sông Tô Lịch. Để thể hiện uy quyền đế vương, ông sai một người thợ là Vũ Như Tô xây điện 100 nóc, xây Cửu Trùng Đài. Quân dân làm trong mấy năm trời không xong, hao tổn tiền của, chết hại nhiều người. Bỏ bê việc nước, chỉ ngày ngày du ngoạn Tây Hồ, Tương Dực nghĩ ra nhiều trò quái lạ. Bấy giờ, có Trần Cảo thấy lời sấm ở phía Đông có khí thiên tử, bèn gầy dựng thế lực làm phản tại vùng Hải Dương, Đông Triều, Thủy Đường, tự xưng làm Đế Thích, chiêu mộ quân sĩ hơn 1 vạn người. Tương Dực Đế đích thân xuất chinh đi đánh giặc, ngự ở trên điện ra lệnh điều động các tướng. Sau quân triều đình sang đánh, Trần Cảo lui về đóng ở Trâu Sơn, thuộc phủ Từ Sơn. Tương Dực sai An Hòa hầu là Nguyễn Hoằng Dụ sang đóng quân ở Bồ Đề để chống giữ.
Nguyên quận công Trịnh Duy Sản, bấy giờ có công lao dẹp loạn Trần Tuân, đem lòng oán hận Tương Dực Đế đã từng phạt mình bằng roi trước đây. Duy Sản nghe lời Thái sư Lê Quảng Độ và kẻ hầu là Trình Trí Sâm, âm mưu giết Tương Dực Đế và lập người mới, trở thành quyền thần. Ngày 7 tháng 4 năm đó, Duy Sản xông vào cung tìm và giết chết Tương Dực Đế, giết luôn nhiều quan nội thị theo hầu cận. Bấy giờ cho rằng Duy Sản là kẻ đại nghịch, sự đại loạn cuối đời Lê Sơ đều do y bắt đầu mà ra.
Lê Tương Dực bị giáng làm Linh Ẩn vương (靈隱王), về sau được truy phong làm Tương Dực hoàng đế (襄翼皇帝), táng ở Nguyên Lăng (元陵). Bấy giờ Khâm Đức hoàng hậu nghe tin hoàng đế qua đời, bèn than khóc, nhảy vào điện Mục Thanh đang cháy để chết theo. Người quân sĩ cũng đem xác bà an táng cùng Tương Dực trong Nguyên lăng.
Chính quyền tàn vong
Sau khi giết Tương Dực Đế, Nguyên quận công Trịnh Duy Sản bèn tính lập con trưởng của Mục Ý vương là Lê Quang Trị, nhưng Vũ Tá hầu Phùng Mại lại muốn lập con trưởng của Cẩm Giang vương là Lê Y (黎椅). Bấy giờ Tường quận công Phùng Dĩnh sai lực sĩ giết chết Mại, rồi lập Quang Trị lên. Nhưng chưa được 3 ngày, Trịnh Duy Đại đã đem Quang Trị về Tây Kinh. Bọn đại thần Trịnh Duy Sản bấy giờ lại đón Lê Y lên ngôi, tức Chiêu Tông Thần hoàng đế.
Bấy giờ, An Hoà hầu Nguyễn Hoằng Dụ đóng quân ở Bồ Đề, nghe tin Trịnh Duy Sản làm việc thí nghịch, liền nổi giận đem quân vượt sông, đốt phá phố xá ở kinh thành, bọn Trần Cảo ùa vào thì thành thất thủ, Thái sư Lê Quảng Độ ra hàng. Trịnh Duy Sản cùng triều đình đưa Chiêu Tông về Tây Kinh. Khi cửa thành bỏ hoang, dân chúng vào thành tranh nhau lấy vàng bạc, châu báu, bạch đàn, xạ hương, lụa là tơ gai đầy trong dân gian; sách vở, hồ tiêu, hương liệu các thứ vứt bỏ trên đường phố cao đến 2 tấc, không thể kể xiết. Người mạnh khoẻ tranh cướp vàng bạc, có người lấy được đến 400 trăm lạng, người yếu cũng được đến hơn 200 lạng. Cung khuyết, kho tàng do vậy mà hết sạch.
Chiếm được kinh thành, Trần Cảo xưng làm Thiên Ứng Đế (天應帝), ra cung điện bàn việc triều đình, dùng Lê Quảng Độ coi việc. Lúc này Thiết Sơn bá Trần Chân, con nuôi của Nguyên quận công Trịnh Duy Sản, tập hợp quân sĩ hơn 6000 người ở chợ Hoàng Hoa (chợ Ngọc Hà ngày nay). Cảo xua Phan Ất đi trấn áp, 2 bên đánh nhau quyết liệt, Trần Chân do không có tiếp viện bèn lui về cố thủ. Bấy giờ Chiêu Tông từ Tây Kinh, hiệu triệu quân 3 phủ [5], sai các Nguyên quận công Trịnh Duy Sản, An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ, Bình Phú hầu Nguyễn Văn Lự (em của Nguyễn Văn Lang), Vĩnh Hưng hầu Trịnh Tuy đem quân thuỷ bộ cùng tiến thẳng đến Đông Kinh. Đồng thời gửi hịch cho các phủ huyện.
Ngày 23 tháng 3, năm 1516, tại Đông Kinh xảy ra trận chiến ác liệt giữa các thế lực phò Chiêu Tông và Trần Cảo. Cảo liên tục dùng súng, hỏa khí bắn ra để chặn quân triều đình, Nguyên quận công Trịnh Duy Sản, An Tín bá Trịnh Hy, Vĩnh Hưng hầu Trịnh Tuy ra sức chống lại, hết sức dũng mãnh, khiến Cảo phải gắng đóng cửa thành cố thủ. Đến khi thế trận nguy khốn, Cảo mở cửa thành chạy qua sông Đuống, chạy lên Lạng Nguyên.
Ngày 27 tháng 3, Chiêu Tông chính thức đặt niên hiệu là Quang Thiệu (光紹). Bấy giờ Trịnh Duy Đại giữ Quang trị ở Tây Kinh, nghe đến Chiêu Tông đã chiếm được Đông Kinh, bèn giết Quang Trị và những người em để chạy về Chiêu Tông. Tặc thần Lê Quảng Độ do đầu hàng Trần Cảo bị giết, cùng năm Nguyên quận công Trịnh Duy Sản do đánh tàn dư của Trần Cảo bị tử trận.
Năm 1517, An Hoà hầu Nguyễn Hoằng Dụ có hiềm khích với Vĩnh Hưng bá Trịnh Tuy, đóng quân chống nhau. Hoằng Dụ đóng quân ở phường Đông Hà, Tuy đóng quân ở ngoài thành Đại La chống giữ nhau, kinh thành trở thành chiến trường của 2 bên. Bấy giờ tướng Trần Chân có ân tình với họ Trịnh, thấy Nguyễn Hoằng Dụ đánh Trịnh Tuy bèn đem quân định cứu, đợi khi Hoằng Dụ vào chầu Chiêu Tông thì xông ra bắt. Khi ấy Hoằng Dụ đến cửa Đại Hưng, ngờ có quân của Trần Chân bèn đi thuyền chạy ra Thanh Hóa. Trần Chân gửi thư cho Trấn thủ Sơn Nam là Mạc Đăng Dung khuyên bắt Hoằng Dụ, nhưng Đăng Dung không nghe theo. Năm ấy, trong nước đói to, xác người chết đói nằm gối lên nhau. Những nơi trải qua binh lửa như Đông Triều, Giáp Sơn ở Hải Dương; Yên Phong, Tiên Du, Đông Ngàn ở Kinh Bắc là càng đói dữ. Trần Chân sau khi đuổi được Hoằng Dụ, tiện tay chiếm giữ Kinh thành.
Năm 1518, Chiêu Tông ra lệnh giết chết Thiết Sơn bá Trần Chân, cùng bè đảng hơn 6 người. Bấy giờ, quyền thế Trần Chân rất lớn, Vũ Xuyên hầu Mạc Đăng Dung còn phải kết thông gia. Trong kinh sư có kẻ hiếu sự làm câu ca rằng: “Trần hữu nhất nhân, vi thiên hạ quân, thố đầu hổ vĩ, tế thế an dân” (Có một người họ Trần, làm vua thiên hạ, đầu thỏ đuôi hổ, trị nước yên dân); Thọ quốc công Trịnh Hựu cùng với Thuỵ quân công Ngô Bính bàn với nhau rằng: Một người họ Trần tức làm Trần Chân, đầu thỏ đuôi hổ tức là cuối năm Dần đầu năm Mão, sợ rằng vào năm ấy sẽ có biến loạn, họ khuyên Chiêu Tông sớm trừ đi. Trần Chân bị xử trảm, bêu đầu, đệ tử của Chân là Nguyễn Kính, Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Áng, Nguyễn Hiêu, Cao Xuân Thì họp binh với nhau ở chùa Yên Lãng [6], đánh sát vào kinh thành. Chiêu Tông nghe tin, đang đem trốn vào Gia Lâm. Bấy giờ, Vĩnh Hưng hầu Trịnh Tuy đóng quân ở xứ Sơn Nam có hơn 1 vạn người, nghe tin quan gia chạy ra ngoài, quân lính tan cả. Thế là quân Sơn Tây[7] thả sức cướp phá, trong thành sạch không, Kinh sư thành bãi săn bắn, đánh cá. Chiêu Tông cho gọi Nguyễn Hoằng Dụ ra đánh bọn Nguyễn Kính. Nhưng Hoằng Dụ lưỡng lự không đi.
Để xoa dịu phe cánh Nguyễn Kính, Chiêu Tông sai giết những người dèm pha Trần Chân trước đây, nhưng Kính vẫn tụ tập cướp phá như trước. Mạc Đăng Dung khuyên Chiêu Tông về Bảo Châu (huyện Từ Liêm), nhưng nội thần Đỗ Nhạc và Nguyễn Dư can ngăn, Đăng Dung đem giết cả 2, đưa Chiêu Tông cùng em là Lê Xuân về Bảo Châu. Sau khi Chiêu Tông rời Đông Kinh, Vĩnh Hưng bá Trịnh Tuy cùng bọn giặc Sơn Tây lập Lê Bảng (黎榜), con của Tĩnh Tu công Lê Lộc (静修公黎禄) lên ngôi, đổi thành Đại Đức Đế (大德帝). Được nửa năm lại phế Bảng mà lập Lê Do (黎槱), đổi thành Thiên Hiến Đế (天宪帝). Cả 2 đều là cháu 4 đời của Cung vương Lê Khắc Xương (黎克昌), con thứ 2 của Thái Tông Văn Hoàng.
Mạc Đăng Dung soán vị
Chiêu Tông triệu thông gia của Trần Chân là Vĩnh Xuyên bá Mạc Đăng Dung [8] đang trấn thủ Hải Dương và An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ đem quân đánh bọn Nguyễn Kính, Nguyễn Áng. Hoằng Dụ thua to, quân chết rất nhiều. Hoằng Dụ chạy xuống thuyền, tự liệu không đánh được, liền bãi binh lui về, chỉ để một mình Mạc Đăng Dung ở lại cầm cự với bọn Nguyễn Áng.
Năm 1519, Vĩnh Hưng bá Trịnh Tuy đánh úp Chiêu Tông ở dinh Bồ Đề, bị thua, phải đem Lê Do về Yên Lãng, Yên Lạc (Vĩnh Phú ngày nay). Tháng 7 năm ấy, Mạc Đăng Dung dẹp được Lê Do, bắt giết Do và Nguyễn Sư. Trịnh Tuy bỏ chạy về Tây Kinh, Nguyễn Kính đầu hàng. Cấp phong cho Đăng Dung làm Minh quận công (明郡公).
Năm 1521, Mạc Đăng Dung lại được phong làm Nhân quốc công (仁國公), lĩnh quản binh lực thủy bộ của 13 đạo, lại phong làm Thái phó. Tháng 8, Đăng Dung lãnh quân đến vùng Kinh Bắc, dẹp được Trần Cung, con của Trần Cảo. Lúc này quyền thế của Mạc Đăng Dung rất lớn, kiểm soát toàn bộ triều đình. Dung đem con gái nuôi vào cung hầu, tiếng là chầu hầu, thực ra là để dò xét, coi giữ. Lại cho con trưởng là Mạc Đăng Doanh làm Dục Mỹ hầu (煜美侯), trông coi điện Kim Quang. Đăng Dung đi bộ thì lọng phượng giát vàng, đi thuỷ thì thuyền rồng giây kéo, ra vào cung cấm, không kiêng sợ gì. Lại giết bọn thị vệ Nguyễn Cấu, Đô lực sĩ Minh Sơn bá Nguyễn Thọ và Đàm Cử.
Ngày 27 tháng 7, năm Quang Thiệu thứ 7 (1522), Chiêu Tông chạy ra huyện Minh Nghĩa ở Sơn Tây (vùng đất nay thuộc tỉnh Hà Tây), lúc đó ông mưu ngầm với bọn Phạm Hiến, Phạm Thứ, sai người đem mật chiếu vào Tây Kinh bảo Trịnh Tuy nghênh viện. Hôm sau Đăng Dung nghe tin, cho người đuổi theo nhưng Chiêu Tông quyết chống lại, chạy vào thành Tây Kinh. Trong kinh thành, Mạc Đăng Dung cùng Thái sư Lượng quốc công Lê Phụ và các công hầu lập em của Chiêu Tông là Lê Xuân lên ngôi. Ngày 1 tháng 8, Mạc Đăng Dung cùng Lê Phụ tôn Lê Xuân lên, tức Lê Cung Hoàng, tuyên bố phế truất Chiêu Tông, gọi là Quang Thiệu Đế (光紹帝). Cung Hoàng lên ngôi, đặt niên hiệu là Thống Nguyên (統元), trong nước lúc đấy tồn tại 2 vị hoàng đế. Cung Hoàng bị Đăng Dung dời đến Hồng Thị, thuộc Hải Dương tạm trú ẩn; ngay khi nghe tin ấy Chiêu Tông ngự về Đông Kinh, thiết lập lại triều đình.
Bấy giờ các xứ Tây, Nam, Bắc thì Chiêu Tông đều lấy được cả, thanh thế lớn. Sau đó, Trịnh Tuy đem quân phủ Thanh Hóa vào chầu, Chiêu Tông nghe lời nịnh mà chém thuộc tướng của Tuy, nên Tuy sinh lòng hận thù. Ngày 18 tháng 10, Trịnh Tuy bắt Chiêu Tông về Thanh Hóa, Tây Kinh, cả nước đều thất vọng. Ngày 18 tháng 12, Mạc Đăng Dung sau khi dẹp phản loạn Giang Văn Dụ, đuổi khỏi kinh thành, đưa Cung Hoàng từ Hồng Thị về kinh sư.
Năm 1523, sau khi Trịnh Tuy đem Chiêu Tông về Thanh Hóa, quân lực Chiêu Tông bị giảm đáng kể, Đăng Dung liên tiếp sai Sơn Đông hầu Mạc Quyết, Quỳnh Khê hầu Vũ Hộ, Dương Xuyên hầu Vũ Như Quế đi đánh Trịnh Tuy ở Thanh Hoa, phá tan quân Tuy. Tuy liền dời Chiêu Tông lên châu Lang Chánh. Năm đó Đang Dung giáng Chiêu Tông làm Đà Dương vương (陀陽王).
Năm 1525, Cung Hoàng phong Mạc Đăng Dung thêm thành Bình chương quốc trọng sự, đem quân đánh Trịnh Tuy, Tuy thua trận bỏ chạy rồi chết. Đang Dung bắt được Chiêu Tông ở động An Nhân. Về đến kinh sư, Đăng Dung giam Chiêu Tông ở phường Đông Hà. Nghe tin Chiêu Tông bị bắt, các quần thần Phúc Lương hầu Hà Phi Chuẩn, Nghiêm Bá Kỳ, Đàm Thận Huy đều bị truy lùng và giết chết, bấy giờ triều đình đều nằm trong tay Mạc Đăng Dung. Ngày 18 tháng 12, năm 1526, Đang Dung bí mật sai Bái Khê bá Phạm Kim Bảng giết Chiêu Tông ở nơi bị giam, đem xác về chôn ở Vĩnh Hưng lăng.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung bắt Cung Hoàng nhường ngôi, lập ra nhà Mạc. Bấy giờ, thần dân trong Kinh đều theo Mạc Đăng Dung và đều đón Đăng Dung vào Kinh.
Nhận định
Giống như Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, nhà Hậu Lê lên cầm quyền ở Việt Nam nhờ công đánh đuổi người phương Bắc để giành lại nước. Nhưng khác với thế hệ trước, nhờ có cơ sở vững chắc 470 năm liên tục (938 – 1407) do các triều đại Ngô – Đinh – Tiền Lê – Lý – Trần trước đó tạo dựng nên thành quả đánh ngoại xâm của nhà Hậu Lê được giữ gìn trong thời gian dài. Nước Đại Việt thời nhà Hậu Lê tồn tại được 360 năm (1428 – 1788).
Tai hoạ người Minh gây ra, từ cổ xưa chưa bao giờ có. Thái Tổ Cao hoàng đế đem quân một lữ diệt được giặc mạnh trăm vạn quân, trong hơn 10 năm mà thiên hạ đại định, việc ấy cũng đã khó rồi. Lại còn đích thân đem sáu quân, đánh dẹp bốn cõi, bình được Mường Lễ, Cẩu Hiểm, dẹp được Thái Nguyên, Tuyên Quang; Chiêm Thành phải phục tùng, Ai Lao phải khiếp sợ. Công đức lớn lao, không ai hơn được. Nhưng làm nhiều chuyện chém giết, có nhiều điều bất nhân. Thái Tông hoàng đế trọng đạo sùng nho, mở khoa thi chọn người tài, dùng người hiền nghe lời can, kính trời, chăm dân, cũng là bậc vua siêng năng. Nhưng say đắm tửu sắc, khi chết không được vẹn toàn. Nhân Tông hoàng đế trong tuổi ấu thơ, giữ vận phong hanh, mẫu hậu nắm quyền, trong cõi yên tĩnh. Nhưng không may gặp biến, rất đáng xót thương. Thánh Tông hoàng đế đương lúc trong nhà có hoạn nạn, mọi người cùng suy tôn lên giữ ngôi cao, sửa làm trăm việc. Lập phủ vệ, định quân chế, chấn hưng lễ nhạc, chọn dùng người liêm khiết tài năng, đánh dẹp Bắc phương, mở mang bờ cõi. Trà Toàn chịu bắt, Lão Qua tan vỡ, nước Lưu Cầu xe thây, giặc Cầm Công chạy chết, bốn rợ thần phục, tám cõi hướng theo, trong khoảng 38 năm, thiên hạ yên trị. Sao mà phồn thịnh vậy! Hiến Tông để lòng mưu trị mà ở ngôi không lâu, Túc Tông tôn sư trọng đạo mà ít tuổi, chết yểu. Nối theo thì Mẫn Lệ bạo ngược vô đạo, Linh Ân cướp nước giết vua, Đà Dương Vương thì nội loạn bị cưỡng bức, Cung Hoàng Đế thì ngôi trời đã chuyển dời, còn làm gì được nữa!
Nhà Lê, kể từ vua Thái-tổ cho đến vua Cung-hoàng vừa một trăm năm (1428-1527), được 10 ông vua. Nhưng trong bấy nhiêu ông, trừ vua Thái-tổ ra, thì chỉ có vua Thánh-tông và vua Hiến-tông là đã lớn tuổi mới lên ngôi, còn thì ông nào lên làm vua cũng còn trẻ tuổi cả. Vì thế cho nên việc triều-chính mỗi ngày một suy-kém, lại có những ông vua hoang-dâm, làm lắm điều tàn-bạo để đến nổi trong nước xảy ra nhiều sự biến loạn. Vậy vận nhà Lê phải lúc trung-suy, nhưng công-đức vua Thái-tổ và vua Thánh-tông làm cho lòng người không quên nhà Lê, cho nên dầu nhà Mạc có cướp ngôi cũng không được lâu bền, và về sau họ Trịnh tuy có chuyên-quyền nhưng cũng chỉ giữ ngôi chúa, chứ không dám cướp ngôi vua.
Xây dựng quốc gia
Bộ máy hành chính
-
Lê Thái Tổ chia nước ra làm 5 đạo, đạo mới đặt gọi là Hải Tây đạo, gồm cả Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa. Trong các đạo, đạo nào cũng có quan Hành khiển để giữ sổ sách về việc quân-dân.
Dưới đạo là phủ huyện (miền núi gọi là châu), xã, thôn. Đến thời vua Lê Thánh Tông đổi chia làm 5 đạo thành 13 đạo thừa tuyên thay chức An phủ sứ đứng đầu ở mỗi đạo bằng 3 ti phụ trách ba mặt hoạt động khác nhau ở mỗi đạo thừa tuyên. Dưới đạo thừa tuyên có phủ, châu, huyện, xã, thôn.
Bộ máy chính quyền phong kiến được hoàn thiện dần và đến thời Lê Thánh Tông thì được các nhà nghiên cứu đánh giá là hoàn chỉnh nhất. Đứng đầu triều đình là Hoàng đế, thứ dưới là hệ thống quan liêu chặt chẽ. Để tập trung quyền lực vào Hoàng đế, Lê Thánh Tông bãi bỏ một số chức vụ cao cấp nhất như Tướng quốc, Đại tổng quản, Đại hành khiển…Hoàng đế trực tiếp nắm mọi quyền hành kể cả chức tổng chỉ huy quân đội.
Đời Lê Thái Tổ chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Lê Thánh Tông tổ chức thành sáu bộ:
- Lại bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước;
- Lễ bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người coi giữ đình, chùa, miếu mạo;
- Hộ bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và lương, bổng của quan, binh;
- Binh bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp;
- Hình bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, đày, kiện cáo;
- Công bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền.
Dưới thời Lê Thánh Tông, các quan chỉ được làm việc tối đa đến tuổi 65 và ông bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có công – công thần. Ông tôn trọng việc chọn quan phải là người có tài và đức.
Kinh tế
-
Đĩa gốm men lam trang trí rồng thế kỷ 15
Nông nghiệp
Hai mươi năm dưới ách thống trị của phong kiến nhà Minh, đời sống nhân dân Đại Việt rất cực khổ[9]. Để nhanh chóng phục hồi và phát triển nông nghiệp, Lê Thái Tổ cho 25 vạn lính (trong tổng số 35 vạn) về quê làm ruộng ngay sau chiến tranh. Còn lại 10 vạn người được chia làm 5 phiên thay nhau về quê sản xuất. Nhà Lê kêu gọi dân phiêu tán về quê làm ruộng, đặt ra một số chức quan chuyên lo về nông nghiệp như Khuyến nông sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ và định lại chính sách chia ruộng đất công làng xã gọi là phép quân điền; cấm giết trâu bò bừa bãi cấm điều động dân phu trong mùa cấy gặt.
Nhà Lê còn đẩy mạnh việc lập đồn điền và khẩn hoang nhằm khai thác những vùng đất mới. Nhờ những chính sách tích cực, nông nghiệp đã đảm bảo tương đối đời sống nhân dân trong nước. Nhân dân thời Lê có câu thơ:
- Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
- Lúa tốt đầy đồng trâu chẳng buồn ăn
Thủ công nghiệp
Nhờ sự quan tâm đến việc phát triển thương nghiệp nên nền nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Các nghề thủ công như: Dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng cũng phát triển. Kinh đô Đông Kinh sầm uất, nhộn nhịp tồn tại phát triển đến tận ngày nay. Phường Yên Thái làm giấy, phường Nghi Tàm dệt vải lụa, phường Hà Tân nung vôi, phường Hàng Đào nhuộm điều, phường Ngũ Xá đúc đồng, phường gạch và gốm sứ Bát Tràng và nhiều phường khác.
Các ngành nghề thủ công truyền thống như ở các làng xã như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn sắt, làm đồ gốm v.v… ngày càng phát triển. Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời. Đông Kinh là nơi tập trung nhiều ngành nghề thủ công nhất.
Các công xưởng do nhà nước quản lí gọi là Cục Bách tác sản xuất đồ dùng cho nhà vua, vũ khí, đóng thuyền, đúc tiền đồng…; các nghề khai mỏ đồng, sắt, vàng được đẩy mạnh.
Thương mại
Triều đình khuyến khích lập chợ mới họp chợ ban hành những điều luật cụ thể quy định việc thành lập chợ và họp chợ.
Việc buôn bán với nước ngoài được duy trì. Thuyền bè các nước láng giềng qua lại buôn bán ở một số cửa khẩu như Vân Đồn, Vạn Ninh (Quảng Ninh), Hội Thống (Hà Tĩnh) và một số địa điểm ở Lạng Sơn, Tuyên Quang được kiểm soát chặt chẽ. Các sản phẩm sành sứ, vải lụa, lâm sảm quý là những thứ hàng được thương nhân nước ngoài ưa chuộng.
Tuy nhiên, cùng với thủ công nghiệp, thương mại vẫn bị nhà nước ức chế. Thời nhà Lê chính quyền dùng chính sách bế quan tỏa cảng. Nhà Lê hạn chế ngoại thương hơn cả nhà Lý, nhà Trần. Các tàu ngoại quốc tới buôn bán đều phải đậu ở Vân Đồn. Dân buôn muốn đi buôn bán thì phải có giấy phép, về cũng phải có giấy phép. Quan lại vô cớ tới Vân Đồn, dân chúng tự tiện đón tàu vào buôn bán cũng đều bị xử tội[10].
Giáo dục
-
Ngay sau khi lên ngôi, Thái Tổ hoàng đế cho dựng lại Quốc Tử Giám ở Đông Kinh, mở trường học các lộ mở khoa thi và cho phép người nào có học đều được dự thi. Đa số dân đều có thể đi học đi thi trừ những kẻ phạm tội và làm nghề ca hát.
Ở các đạo phủ có trường công. Nhà nước tuyển chọn người giỏi có đạo đức để làm thầy giáo. Nội dung học tập thi cử là sách của nhà Nho. Thời Lê sơ (1428-1527) tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 989 tiến sĩ 20 trạng nguyên. Riêng thời Lê Thánh Tông, tổ chức được 12 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 501 tiến sĩ 9 trạng nguyên.
Học chế thời Lê mở rộng hơn các thời trước, không cấm con em nhà thường dân đi học như thời nhà Lý, nhà Trần. Tài liệu học tập thì gồm mấy bộ Tứ Thư, Ngũ Kinh tinh tuý, Bắc sử (Sử Trung Quốc). Phương pháp giáo dục chỉ có 2 nguyên tắc chủ chốt là trừng phạt bằng roi vọt và học thuộc lòng. Ngoài ra còn nguyên tắc lặp lại tư tưởng cổ nhân và biểu diễn bằng những câu sáo rỗng[11].
Lê Thánh Tông khởi xướng và cho lập bia tiến sĩ lần đầu tiên ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám vào năm 1484, các đời vua sau này tiếp tục bổ sung thêm các tấm bia vinh danh mới. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn, Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Đàn bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông là Tao Đàn chủ soái. Việc thi cử và học tập thường xuyên và rất nhiều tiến sĩ và trạng nguyên đỗ đạt và thành danh.
Thời Lê sơ, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn; Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế. Phật giáo bị đẩy lui xuống sinh hoạt ở các làng xã, trong khi đó Nho giáo lại được coi trọng và lên ngôi, đặc biệt là khu vực triều đình và giới nho học. Đó là đặc điểm chính của thời kỳ này. Mặt khác do trước đó chịu sự tận diệt của nhà Minh nên nhiều chùa chiền, cung điện và các phật tử phát triển rực rỡ ở các triều đại nhà Lý, nhà Trần đã bị xóa bỏ.
Hệ thống Nho giáo này do phong kiến nhà Lê bắt chước theo nhà Minh của Trung Quốc. Người học tuyệt đối không ai được phát huy ý kiến riêng của mình, cấm chỉ tự do tư tưởng. Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh cho rằng kiểu người điển hình do phương pháp giáo dục này đào tạo là người hủ nho hoàn toàn trung thành với chế độ quân chủ nhà Lê[12].
Luật pháp
-
Về luật pháp, Bộ Quốc triều hình luật của nhà Hậu Lê đã được hoàn thiện trong thời Lê Thánh Tông, nên còn được gọi là Luật Hồng Đức. Với bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khởi và thuộc loại sớm trên thế giới. Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm của nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc biên soạn, ban hành luật pháp, nhằm thể chế hoá một nhà nước phong kiến Đại Việt, với truyền thống nhân nghĩa, lấy dân làm gốc.
Nội dung chính của bộ luật là bảo vệ quyền lợi của vua hoàng tộc; bảo vệ quyền lợi của quan lại và giai cấp thống trị địa chủ phong kiến. Đặc biệt bộ luật có những điều luật bảo vệ chủ quyền quốc gia, khuyến khích phát triển kinh tế, gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ một số quyền lợi của phụ nữ[13].
Xã hội
Trong xã hội, giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số dân cư sống chủ yếu ở nông thôn. Họ có rất ít hoặc không có ruộng đất phải cày ruộng đất công nộp tô thuế đi phục dịch cho nhà nước (đi lính đi phu…) hoặc phải cày cấy ruộng thuê của địa chủ quan lại và phải nộp một phần hoa lợi (gọi là tô) cho chủ ruộng.
Nông dân là giai cấp bị bóc lột nghèo khổ trong xã hội. Tầng lớp thương nhân thợ thủ công ngày càng đông hơn họ phải nộp thuế cho nhà nước và không được xã hội phong kiến coi trọng.
Nô tì là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội bao gồm cả người Việt người Hoa dân tộc ít người. Pháp luật nhà Lê hạn chế nghiêm ngặt việc bàn mình làm nô hoặc bức dân tự do làm nô tì. Nhờ vậy số lượng nô tì giảm dần[14]
Nhờ chính sách khuyến nông, cuộc sống của nhân dân được ổn định dân số ngày càng tăng. Nhiều làng mới được thành lập. Các nhà nghiên cứu Việt Nam tự nhận Đại Việt đã trở thành một quốc gia có uy thế trong khu vực Đông Nam Á[15]..
Văn học, khoa học, nghệ thuật
-
- Văn học chữ Hán tiếp tục chiếm ưu thế có hàng loạt tập văn thơ nổi tiếng. Văn học chữ Nôm giữ một vị trí quan trọng. Văn thơ chữ Hán có những tác phẩm nổi tiếng như: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Quỳnh uyển cửu ca… Văn thơ chữ Nôm có Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn v.v…[15]. Ngoài ra văn học thời Lê Sơ suất hiện 1 bộ phận tác giả chuyên sử dụng văn học làm công cụ chỉ để ca ngợi nhà vua. Phần lớn các tác phẩm loại này được viết với lời lẽ rất trau chuốt, ý tứ cẩu kỳ và tình cảm giả tạo[16].
- Sử học có tác phẩm: Đại Việt sử kí (10 quyển) của Phan Phu Tiên, Đại Việt sử kí toàn thư (15 quyển) của Ngô Sĩ Liên, Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi, Đại Việt thông giám của Vũ Quỳnh, Việt giám thông khảo tổng luận của Lê Tung, Hoàng triều quan chế…
- Địa lí học có sách Hồng Đức bản đồ Dư địa chí An Nam hình thăng dồ, Dư địa chí của Nguyễn Trãi.
- Y học có công trình Bản thảo thực vật toát yếu của Phan Phu Tiên và Bảo anh lương phương của Nguyễn Trực
- Toán học có các tác phẩm Đại thành toán pháp của Lương Thế Vinh, Lập thành toán pháp của Vũ Hữu.
- Ngoài ra thời Lê Sơ cũng cho biên soạn Điển lệ là loại sách tổng hợp thành tựu của nhiều ngành. Bộ Thiên Nam dư hạ tập gồm 100 quyển của Lê Thánh Tông cũng là 1 ví dụ cụ thể.
- Nghệ thuật sân khấu như ca múa nhạc, chèo, tuồng được phục hồi nhanh chóng và phát triển nhất là chèo tuồng. Âm nhạc cung đình được hình thành từ thời Lê Thái Tông.
- Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời Lê Sơ biểu hiện rõ rệt và đặc sắc ở các công trình lăng tẩm cung điện tại Lam Kinh, những đồ vật còn xót lại cho thấy tay nghề tinh xảo, tư duy quy mô lớn của nghệ nhân đương thời. Hiện nay còn lại một số dấu vết của Lam Kinh ở Thanh Hóa như nền cột bậc thềm một số con vật bằng đá. Cung điện Lam kinh xây dựng trên một khu đất hình chữ nhật dài 314 mét rộng 254 mét, có tường thành bao bọc dày 1m. Trong các bia đá, nổi tiếng nhất là bia Vĩnh Lăng (viết về Lê Thái Tổ).
Tổ chức quân đội
-
Hoàng đế Lê Thánh Tông ra sắc chỉ đầu tiên là chỉnh đốn lại quân đội, đôn đốc và thực hiện các bước để tăng cường các khả năng chiến đấu của các vệ quân năm đạo. Việc canh phòng và cảnh giác về vấn đề biên cương rất chặt chẽ và cẩn thận nên triều đình nhà Minh rất tôn trọng và có phần e ngại. Lê Thánh Tông cải tổ quân đội mạnh mẽ về mặt tổ chức, trước đó quân đội chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ có vệ, sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhiều ti, vệ.
Ngoài tổ chức quân thường trực, Lê Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương gọi là chế độ Ngụ binh ư nông: khi đất nước có giặc ngoại xâm thì tất cả quân lính đều tại ngũ chiến đấu cùng toàn dân; khi hoà bình thì thay phiên nhau về làm ruộng. Ban hành 43 điều quân chính là luật quân đội Lê Thánh Tông ban hành cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất nghiêm ngặt, có sức chiến đấu cao.
Quân đội có hai bộ phận chính: quân ở triều đình và quân ở các địa phương; bao gồm bộ binh, thuỷ binh, tượng binh, kỵ binh. Vũ khí quân sự dưới thời Lê Thánh Tông đã có những tiến bộ vượt bậc; gồm súng hỏa mai, đao, kiếm, giáo, mác, cung, tên, hỏa đồng, hỏa pháo. Được trang bị hết sức đầy đủ, hùng mạnh.
Hằng năm quân lính được luyện tập võ nghệ chiến trận. Vùng biên giới đều có bố trí quân đội mạnh canh phòng và bảo vệ không để xâm lấn.
Mở rộng lãnh thổ
Đánh Chiêm Thành
-
Chúa Chiêm Thành là Trà Toàn bỏ tiến cống nhà Lê, thường xâm lấn biên giới phía nam Đại Việt. Năm 1470, Trà Toàn sai sứ thần sang cầu viện nhà Minh, thân hành đem 10 vạn quân thủy, bộ cùng voi ngựa đến đánh úp Hóa Châu. Viên tướng trấn giữ Hóa Châu Phạm Văn Hiển chống không nổi, phải đóng cửa thành chống giữ, cho người phi ngựa đem văn thư cáo cấp về Đông Kinh.
Tháng 10 năm ấy, Lê Thánh Tông sai sứ đem việc Chiêm Thành đánh úp biên giới sang báo cáo với nhà Minh,[17] và thân chinh cầm 200.000 quân tiến vào đất Chiêm Thành. Tháng 3 năm 1471, kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành thất thủ. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, hơn 30.000 người Chiêm bị bắt, trong đó có chúa Trà Toàn. 40.000 lính Chiêm Thành đã tử trận.
Bấy giờ 1 tướng Chiêm là Bô Trì Trì chạy về đất Phan Lung, cử sứ sang cống và xin xưng thần với Đại Việt. Theo Việt Nam Sử Lược, Thánh Tông có ý muốn làm cho Chiêm Thành yếu đi, mới chia đất Chiêm ra làm 3 nước, phong 3 quốc vương: 1 nước gọi Chiêm Thành, 1 nước nữa là Hóa Anh và 1 nước nữa là Nam Phan.[18]
Sau khi Trà Toàn bị bắt, em là Trà Toại trốn vào núi, sai người sang cầu cứu nhà Minh và xin phong vương. Được tin, Lê Thánh Tông sai Kỳ quận công Lê Niệm đem 3 vạn quân vào đánh, Trà Toại bị bắt giải về kinh. Về sau, Minh Hiến Tông sai sứ sang bảo Thánh Tông phải trả đất cho Chiêm Thành, nhưng ông nhất quyết không chịu.[17]
Sau chiến thắng, Lê Thánh Tông thực hiện chính sách mới, bình định và Việt hóa dân chúng người Chiêm Thành và sát nhập lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành (từ đèo Hải Vân tới bắc Phú Yên ngày nay) vào Đại Việt. Tháng 6 năm 1471, lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành được lập thành thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa.
Đánh Bồn Man, dẹp Lão Qua
-
Bồn Man, lãnh thổ gồm miền tây Nghệ An, tỉnh Huaphanh và tỉnh Sơn La ngày nay, trước đây đã xin nội thuộc Đại Việt, đổi thành châu Quy Hợp dưới quyền các tù trưởng họ Cầm, sau đó đổi thành phủ Trấn Ninh, và đặt quan phủ huyện để trị vì. Nay Cầm Công, với sự giúp đỡ của người Lão Qua, bèn đánh đuổi quân Đại Việt, rồi ra quân chống giữ với quan quân.
Năm 1479, có tù trưởng xứ Bồn Man là Cầm Công làm phản, xúi giục người Lão Qua cầm binh quấy nhiễu miền tây Đại Việt.[19].
Lê Thánh Tông sai Thái uý Lê Thọ Vực cùng các tướng Trịnh Công Lộ, Lê Đình Ngạn, Lê Lộng và Lê Nhân Hiếu chia quân làm 5 đạo đi từ Nghệ An, Thanh Hóa và Hưng Hóa đánh đuổi quân Lão Qua tới sông Kim Sa giáp với Miến Điện[20]. Quân Đại Việt toàn thắng.[21].
Lê Thánh Tông bèn ngự giá thân chinh, nhưng khi tới Phù Liệt, được tin quân Đại Việt thắng Lão Qua thì rút về và cử Kỳ quận công Lê Niệm đem quân đi đánh. Kết quả là những người Bồn Man ra hàng, tù trưởng là Cầm Công cũng tử trận.
Sau đó, Thánh Tông phong người họ Cầm Công là Cầm Đông làm Tuyên Úy Đại Sứ và đặt lại quan cai trị như trước, đặt vùng đất mới này là xứ Trấn Ninh.
Ngoại giao
Với Trung Quốc
Đến thời Lê Thánh Tông, quân Đại Việt hùng mạnh, đi đánh Lào, Chiêm nên gây được nhiều thanh thế, nhà Minh cũng phải lấy lễ nghĩa mà đãi Đại Việt, quan hệ giữa hai nước vẫn được hoà bình.[21].
-
Đại Việt bấy giờ có lệ xưng thần với nhà Minh, nhưng các vua Lê vẫn phòng bị mặt bắc. Thỉnh thoảng hai bên vẫn xảy ra những vụ lấn cướp biên giới qua lại, có những thổ dân sang quấy nhiễu, thì lập tức vua Lê cho quan quân lên dẹp yên và cho sứ sang Trung Quốc để phân giải mọi sự cho minh bạch. Suốt từ thời Lê Thái Tông đến Lê Thánh Tông, trong gần 50 năm liên tục xảy ra những vụ tranh chấp vùng biên giới tây bắc hoặc đông bắc, nhưng cuối cùng không xảy ra chiến tranh.
Lê Thánh Tông thường bảo với triều thần:
“ |
Ta phải giữ gìn cho cẩn thận, đừng dể ai lấy mất 1 phân núi, 1 tấc sông do vua Thái Tổ để lại. |
” |
Với các nước Đông Nam Á
Sau khi Đại Việt đánh hạ Chiêm Thành, nhiều vương quốc láng giềng phía Tây bắt đầu cử sứ thần đến thông hiếu. Quan điểm của Vua Lê Thánh Tông là vừa tiếp đãi, vừa dè chừng họ. Năm 1485, nhà vua ra lệnh vệ Cẩm y phải nghiêm ngặt tiếp rước và canh giữ, đề phòng các sứ giả Chiêm Thành, Lão Qua (Lan Xang), Xiêm La (các quốc gia thuộc Thái Lan), Trảo Oa, Lộ Lạc (Malakka) dò xét nội tình Đại Việt.
Các Hoàng đế nhà Lê sơ
Danh sách
Miếu hiệu |
Thụy hiệu |
Tên húy |
Năm |
Niên hiệu |
Lăng |
Thái Tổ |
Thống Thiên Khải Vận Thánh Đức Thần
Công Duệ Văn Anh Vũ Khoan Minh Dũng
Trí Hoàng Nghĩa Chí Minh Đại Hiếu Cao hoàng đế |
Lê Lợi |
1428–1433 |
Thuận Thiên |
Vĩnh Lăng |
Thái Tông |
Kế Thiên Thể Đạo Hiển Đức Thánh Công
Khâm Minh Văn Tư Anh Duệ Triết Chiêu
Hiến Kiến Trung Văn hoàng đế |
Lê Nguyên Long |
1433–1442 |
Thiệu Bình (1434-1439)
Đại Bảo (1440-1442) |
Hựu Lăng |
Nhân Tông |
Khâm Văn Nhân Hiếu Tuyên Minh
Thông Duệ Tuyên hoàng đế |
Lê Bang Cơ |
1442–1459 |
Thái Hòa (1443-1453)
Diên Ninh (1454-1459) |
Nguyên Lăng |
|
Giáng làm Lệ Đức hầu |
Lê Nghi Dân |
1459–1460 |
Thiên Hưng (1459-1460) |
Không có |
Thánh Tông |
Sùng Thiên Quảng Vận Cao Minh Quang Chính
Chí Đức Đại Công Thánh Văn Thần Vũ
Đạt Hiếu Thuần hoàng đế |
Lê Tư Thành
(Lê Hạo) |
1460–1497 |
Quang Thuận (1460-1469)
Hồng Đức (1470-1497) |
Chiêu Lăng |
Hiến Tông |
Thể Thiên Ngưng Đạo Mậu Đức Chí
Chiêu Văn Thiệu Vũ Tuyên Triết Khâm
Thành Chương Hiếu Duệ hoàng đế |
Lê Sanh[22]
(Lê Tăng)[23]
(Lê Huy)[23] |
1497–1504 |
Cảnh Thống |
Dụ Lăng |
Túc Tông |
Chiêu Nghĩa Hiển Nhân Ôn Cung Uyên Mặc
Đôn Hiếu Doãn Cung Khâm hoàng đế |
Lê Thuần |
1504 |
Thái Trinh |
Kinh Lăng |
|
Uy Mục Đế |
Lê Tuấn
(Lê Huyên) |
1505–1509 |
Thái Trinh
Đoan Khánh |
An Lăng |
|
Tương Dực Đế |
Lê Oanh |
1510–1516 |
Hồng Thuận |
Nguyên Lăng |
|
|
Lê Quang Trị[24] |
1516 |
|
|
Chiêu Tông |
Thần hoàng đế |
Lê Y
(Lê Huệ) |
1516–1522 |
Quang Thiệu |
Vĩnh Hưng |
|
|
Lê Bảng |
1518–1519 |
Đại Đức |
|
|
|
Lê Do |
1519 |
Thiên Hiến |
|
|
Cung hoàng đế |
Lê Xuân
(Lê Lự) |
1522–1527 |
Thống Nguyên |
Hoa Dương |
Liệt kê
Các hoàng hậu
Chú thích
- ^ Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục dẫn 2 thuyết: 1. Trần Cảo tự sát. 2. Trần Cảo tự biết mình không có công lao gì, mọi người không phục, bèn lén vượt biển, trốn đến ải Cổ Lộng. Lê Lợi sai người đuổi theo, giết chết
- ^ tên Trung Quốc chỉ một vương quốc trung đại Palem bang ở Sumatra, người ta cũng thường đồng nhất Tam phật Tề với vương quốc Srivijaya (Thất Lợi Phật Thệ) được biết đến từ cuối thế kỷ VII ở vùng này.
- ^ Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ, sách đã dẫn, tr 1083
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 14
- ^ tức là các phủ Thiệu Thiên (sau là Thiệu Hoá), Hà Trung và Tĩnh Gia thuộc trấn Thanh Hoa (nay là tỉnh Thanh Hoá).
- ^ Yên Lãng: nay là chùa Láng ở quận Đống Đa, Hà Nội.
- ^ Quân Sơn Tây: chỉ quân của bọn Nguyễn Kính, Hoàng Duy Nhạc.
- ^ Con Đăng Dung là Đăng Doanh lấy con gái Trần Chân
- ^ Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, tr 81
- ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 332
- ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 338
- ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 338-339
- ^ MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ CƠ BẢN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ CƠ BẢN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG “QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT”
- ^ ĐẠI VIỆT THẾ KỈ XV- THỜI LÊ SƠ trên website của Đảng Cộng sản Việt Nam
- ^ a ă Đại Việt thế kỉ XV – Thời Lê Sơ, dẫn từ Nguyễn Quang Ngọc (2006), Tiến trình Lịch sử Việt Nam – Chương IV: Việt Nam thế kỷ XV; NXB Giáo Dục, Hà Nội, Tr.116 – 130
- ^ Dịch giả Nguyễn Khắc Thuần. Tủ sách Đại học Khoa học xã hội và nhân văn. Năm 1997. Tr.195 – 130
- ^ a ă Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, tr. 101
- ^ Việt Nam Sử Lược, sách đã dẫn, tr. 101
- ^ Lão Qua, tức Luang Prabang, là đất Thượng Lào ở về phía Tây Bắc Việt bấy giờ. Còn được gọi là nước Nam Chướng. Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, tr. 101
- ^ Theo địa dư Trung Quốc, sông Kim Sa là khúc trên sông Trường Giang. Sông này chảy qua tỉnh Tây Khương và Tứ Xuyên. Đây có lẽ nhà chép sử lẫn với khúc sông Lan Thương trên sông Mê Kông
- ^ a ă Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, tr. 102
- ^ Theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim
- ^ a ă Theo Đại Việt sử ký toàn thư
- ^ Nguyễn Khắc Thuần, Việt sử giai thoại – Tập 5, tr 123
Xem thêm
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nhà Mạc
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nhà Mạc (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung ,sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, Vua Quỷ Vua Lợn ớn hèn, đã ép vua Lê Cung Hoàng nhà Hậu Lê nhường ngôi tháng 6 năm 1527 và chấm dứt khi vua Mạc Mậu Hợp bị quân đội Lê-Trịnh do Trịnh Tùng chỉ huy đánh bại vào cuối năm 1592– tổng cộng thời gian tồn tại chính thức của triều đại là gần 66 năm.
Tuy nhiên, giai đoạn sau đó hậu duệ nhà Mạc như Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan, Mạc Kính Vũ vẫn còn tiếp tục chống lại nhà Hậu Lê thời kỳ trung hưng đến tận năm 1677[1] tại khu vực Cao Bằng.
Thời kỳ 1527-1592 trong lịch sử Việt Nam còn được gọi là thời kỳ Nam-Bắc triều, do chính quyền nhà Mạc chỉ thực sự có quyền lực từ địa phận Ninh Bình ngày nay trở ra, còn từ Thanh Hóa trở vào là thế lực lấy danh nghĩa gây dựng lại nhà Lê từ năm 1533.
Nội chiến Lê-Mạc
- Bài chính: Chiến tranh Lê-Mạc.
Sau khi nhà Mạc nắm quyền, đã có một số hoạt động chống đối như cầu viện nhà Minh hoặc nổi dậy nhưng đều không thành. Chỉ đến khi nhà Hậu Lê tái lập thì chiến tranh quy mô mới thực sự bắt đầu.
Nguyễn Kim khởi nghĩa, họ Vũ cát cứ
Năm 1529, một võ tướng cũ của nhà Lê là Nguyễn Kim không thần phục nhà Mạc, bỏ chạy vào miền núi Thanh Hoá và sang Ai Lao (Lào), tập hợp lực lượng chống nhà Mạc. Năm 1533, Kim tìm một người tên là Lê Duy Ninh là con của vua Lê Chiêu Tông đưa lên ngôi trên đất Sầm Châu (Ai Lao), tức là vua Lê Trang Tông. Tuy nhiên các nhà sử học nghi ngờ Duy Ninh không phải là con của vua Chiêu Tông vì tuổi của Duy Ninh và Lê Chiêu Tông chênh nhau quá ít [2]
Từ khi Trang Tông lên ngôi, nhiều sĩ phu, tướng lĩnh bắt đầu tập hợp bên Nguyễn Kim để chống nhà Mạc. Năm 1540, Mạc Thái Tông chết. Thượng hoàng Mạc Đăng Dung lập cháu nội là Phúc Hải lên ngôi, tức là Mạc Hiến Tông. Năm sau, thượng hoàng Đăng Dung chết.
Năm 1543, quân nhà Lê về nước đánh chiếm Tây đô (Thanh Hoá). Hoạn quan nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu hàng. Năm 1545, Chấp Nhất dâng dưa độc cho Nguyễn Kim, Kim ăn vào chết. Chấp Nhất bỏ trốn về nhà Mạc. Con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền chỉ huy quân đội.
Ở phía tây bắc, vùng Hưng Hoá (Tuyên Quang), anh em Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên (Chúa Bầu) là thủ lĩnh trong vùng cát cứ không thần phục nhà Mạc. Nhà Mạc vài lần mang quân đánh nhưng không diệt được họ Vũ, sau lại phải đối phó với nhiều biến cố khác nên buộc phải để họ Vũ cát cứ. Họ Vũ sai người liên lạc theo về nhà Lê trung hưng.
Phụ chính Mạc Kính Điển
-
Năm 1546, Mạc Hiến Tông chết, con là Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là Mạc Tuyên Tông, chú là Khiêm vương Mạc Kính Điển làm phụ chính. Trong triều xảy ra biến loạn. Tướng Phạm Tử Nghi muốn lập con Mạc Thái Tổ là Hoằng vương Mạc Chính Trung đã trưởng thành nhưng không được nên cùng Chính Trung khởi binh nổi loạn. Phạm Tử Nghi nhiều lần muốn đánh chiếm Đông Kinh không thành, bèn đem Chính Trung ra chiếm cứ Yên Quảng (Quảng Ninh), cướp phá Hải Dương và đánh phá sang Trung Quốc khiến nhà Minh lo ngại. Đến năm 1551 Mạc Kính Điển dẹp được Phạm Tử Nghi. Tử Nghi bị chém, Chính Trung bỏ chạy và bị giết. Có thuyết nói Tử Nghi chết về tay người Minh.
Năm 1550, Thái tể Lê Bá Ly quyền thế quá lớn, có phần hống hách, hai sủng thần là Phạm Quỳnh, Phạm Dao[3] cậy thế vua Mạc vây đánh. Bá Ly cùng thông gia là Nguyễn Thiến mang gia quyến gồm các tướng Nguyễn Quyện, Nguyễn Khải Khang, Lê Khắc Thận chạy vào Thanh Hóa hàng theo nhà Lê. Tuy nhiên sau vài năm, khi Nguyễn Thiến và Lê Bá Ly chết, các con là Nguyễn Quyện, Lê Khắc Thận lại về theo nhà Mạc và Nguyễn Quyện trở thành danh tướng nhà Mạc.
Năm 1562, Mạc Tuyên tông mất, con là Mạc Mậu Hợp mới 2 tuổi lên nối ngôi. Việc chính sự đều do Khiêm vương Kính Điển điều hành.
Bấy giờ nhà Lê chiếm lại được Thanh Hóa và Nghệ An. Năm 1558, con thứ Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm hại như anh cả Nguyễn Uông nên xin vào trấn thủ Thuận Hoá. Năm 1570, Trịnh Kiểm lại giao cho Hoàng trấn thủ nốt Quảng Nam. Năm 1572, Hoàng dùng kế giết được tướng Mạc là Mạc Lập Bạo vào đánh. Nhà Mạc mất hẳn phía nam và chỉ còn kiểm soát Bắc Bộ.
Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, hai con Trịnh Cối, Trịnh Tùng tranh ngôi. Trịnh Cối thua phải sang đầu hàng nhà Mạc. Tuy nhiên Trịnh Tùng là người thay thế xứng đáng của Trịnh Kiểm nên vẫn duy trì được thế cân bằng với nhà Mạc.
Trong suốt những năm 1545-1580 là giai đoạn hai bên giằng co, khi thì Trịnh Kiểm và sau này là Trịnh Tùng dẫn quân ra đánh Sơn Nam, Ninh Bình, Sơn Tây, Thăng Long, khi thì Mạc Kính Điển cho quân tấn công Thanh Hóa – Nghệ An. Mạc Kính Điển nhiều lần phải mang vua Mạc qua sông tránh sang Kim Thành (Hải Dương) nhưng quân Lê vẫn không vào được Thăng Long. Hai bên khi được khi thua. Cuộc chiến giằng co nổi lên tên tuổi các tướng Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu bên Lê, Nguyễn Quyện bên Mạc.
Tháng 10 năm 1580, Mạc Kính Điển mất, em là Mạc Đôn Nhượng lên thay làm phụ chính. Lực lượng quân đội nhà Mạc suy yếu đi nhiều vì thiếu đi người chỉ huy có tầm cỡ và uy tín.
Mất Thăng Long
Mạc Mậu Hợp từ nhỏ lên ngôi, khi lớn vẫn dựa vào các hoàng thân phụ chính, không chú trọng việc chính sự. Sau khi Mạc Kính Điển chết, việc trong ngoài đều trông chờ vào Mạc Đôn Nhượng cùng các tướng Nguyễn Quyện, Mạc Ngọc Liễn[4], Bùi Văn Khuê. Uy thế quân Mạc suy sút nhiều và thường bị thua trận.
Năm 1591, Trịnh Tùng đem quân bắc tiến áp sát thành Thăng Long. Đầu năm 1592, Mạc Mậu Hợp chạy sang Gia Lâm, thống suất thủy quân để làm thanh thế trên sông Nhị Hà cho các tướng giữ thành Thăng Long. Trịnh Tùng thúc quân tổng tiến công. Các tướng Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên tan vỡ bỏ chạy. Phục binh của Nguyễn Quyện ở cầu Dền không kịp nổi dậy đã bị giết. Nguyễn Quyện bị bắt[5], hai con tử trận. Quân Mạc chết rất nhiều.
Trịnh Tùng rút quân chủ lực về. Mạc Mậu Hợp thu tàn quân án ngữ sông Nhị Hà, lại ham sắc đẹp của vợ tướng Bùi Văn Khuê là Nguyễn thị Niên[6] nên muốn giết Khuê. Tháng 8 năm 1592, Khuê biết chuyện bèn đem quân hàng Lê, hợp binh với Trịnh Tùng đại phá quân Mạc.
Tháng 11 năm 1592, Trịnh Tùng lại tiến đánh Thăng Long. Mậu Hợp thua chạy về Kim Thành (Hải Dương). Thấy thế nguy cấp, Mậu Hợp lập con là Toàn lên ngôi, tự mình làm tướng thống suất quân đội. Sau các cuộc chiến đẫm máu tại khu vực các phủ Nam Sách, Hạ Hồng, Kinh Môn trong tháng 11 và 12 thì quân đội nhà Mạc chịu tổn thất cực kỳ nặng nề. Mạc Mậu Hợp phải bỏ trốn đến huyện Phượng Nhãn, bị bắt sống sau đó ít ngày và bị hành hình.
Tàn dư
Dù Mạc Mậu Hợp và sau đó là Mạc Toàn bị bắt và bị giết thì thế lực của nhà Mạc chưa bị tiêu diệt hết. Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, cho đến đầu thế kỷ 17 thì các vùng như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng vẫn thuộc quyền quản lý của nhiều người như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan là thân thuộc của nhà Mạc (thuộc chi Mạc Kính Điển). Tại các khu vực này chiến trận vẫn tiếp diễn trong nhiều năm và nhân dân vẫn tiếp tục chịu cảnh lầm than, đồng ruộng bị bỏ hoang.
Nhà Minh, vì muốn duy trì thế Nam Bắc triều ở Việt Nam có lợi cho họ nên can thiệp để họ Mạc được cát cứ ở Cao Bằng. Khi nhà Minh mất (1644), các vua Nam Minh – tàn dư nhà Minh – vẫn ủng hộ họ Mạc. Họ Mạc nối nhau trấn giữ ở đây trong nhiều năm, đến con Kính Khoan là Kính Vũ. Mãi đến khi nhà Minh mất hẳn (1662) về tay nhà Thanh, họ Trịnh mới ra tay dẹp họ Mạc. Tới năm 1677, việc trấn giữ Cao Bằng của họ Mạc mới chấm dứt.
Những người họ Mạc bị đổi sang họ khác. Về sau, nhân khi chính sự Đàng Ngoài dưới thời Trịnh Giang rối ren, năm 1739, hậu duệ của họ Mạc là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển lại nổi dậy khởi nghĩa chống Trịnh trong vài năm[7].
Thành nhà Mạc
Đây là các kiến trúc quân sự nhà Mạc.
- Thành Nhà Mạc Lạng Sơn hiện nằm trong khu vực phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, dấu tích còn lại gồm 2 đoạn tường xây bằng đá giữa hẻm núi. Hiện nay di tích thành Nhà Mạc ở Lạng Sơn đã được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia và được đầu tư, tôn tạo đưa vào phục vụ du khách du lịch tham quan.[8]
- Thành nhà Mạc nằm ở trung tâm thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang hiện nay. Theo sử sách ghi lại thành được xây vào năm 1592 đời nhà Mạc, và được sửa chữa vào thời đầu nhà Nguyễn (thế kỷ 19). Thành được xây theo kiểu hình vuông, mỗi cạnh dài 275m, cao 3,5m và dày 0,8m; mỗi mặt thành có một cửa hình bán nguyệt với kiến trúc theo lối phòng thủ quân sự.[9]. Thành đã được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia và đang có nguy cơ xóa sổ.
- Thành nhà Mạc ở tỉnh Cao Bằng là thành Nà Lự: khi nhà Mạc chạy lên Cao Bằng (1594-1677), trong 83 năm, ba đời vua Mạc đóng đô ở Cao Bình đã cho tu sửa, xây thành cao lên, có cổng thành kiên cố để phòng thủ, đề phòng triều đình vua Lê – chúa Trịnh lên thôn tính. Nhưng có khả năng thành này xây từ nhà Đường 618-802.[10]
- Thành nhà Mạc ở tỉnh Ninh Bình là thành Bình Sơn, thuộc xã Mai Sơn, Yên Mô, Ninh Bình. Thành hiện còn đoạn dài khoảng 1 km, gần quốc lộ 1A.[11]
- Ở xã Cao Xá, Lâm Thao, Phú Thọ nhân dân vẫn truyền tục câu nói: “Hăm mốt tháng chạp, gió đổ thành Mạc. Hăm hai tháng chạp, gió đổ thành Dung” để nói về thành Nhà Mạc xây dựng dở chừng thì bị mưa bão làm sụp đổ không thể xây dựng thành Thành được. Hiện nay, thường thường hàng năm vào những ngày “hăm mốt, hăm hai tháng chạp” ở Cao Xá vẫn thường có mưa bão. “Đầu Thành” là từ địa phương ở Cao Xá vẫn dùng để nói về địa điểm đoạn đầu thành Nhà Mạc xây ở thôn Dục Mỹ. Hiện nay các dấu tích của Thành Nhà Mạc ở Cao Xá hầu như không còn vì một thời kỳ nhân dân ở đây khai thác đất làm đường xá, xây dựng nhà ở.
Ngoại giao
-
Giai đoạn 1528-1541
Rút kinh nghiệm từ thất bại của nhà Hồ do việc cướp ngôi nhà Trần, ngay sau khi giành ngôi nhà Lê, Mạc Thái Tổ đã chủ động tìm giải pháp thương lượng với nhà Minh. Tháng 2 năm 1528, ông sai sứ sang nhà Minh “xin được tạm coi việc nước vì con cháu họ Lê không còn ai thừa tự”. Nhà Minh tạm thời chưa có phản ứng nào đáng kể vì nội bộ cũng chưa hoàn toàn nhất trí về cách phản ứng với tình hình Đại Việt[12].
Ngoài việc đi sứ, Mạc Thái Tổ còn sai người đút lót, tranh thủ sự đồng tình của các quan vùng biên giới của nhà Minh. Năm 1529, anh em Trịnh Ngung, Trịnh Ngang sang tố cáo nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê và cầu viện nhà Minh nhưng bị sự ngăn cản của các quan trấn thủ vùng biên của nhà Minh, do đó ý định của hai anh em họ Trịnh không thực hiện được[13].
Sau khi lập lập Lê Trang Tông lên ngôi, Nguyễn Kim sai Trịnh Duy Liêu vượt biển sang Trung Quốc xin cầu viện nhà Minh đánh nhà Mạc. Chúa Bầu Vũ Văn Uyên ở Tuyên Quang cũng sai người sang tố cáo việc nhà Mạc cướp ngôi. Năm 1537, Minh Thế Tông giao quân cho Mao Bá Ôn chuẩn bị tiến xuống phía nam. Nhà Mạc ở vào tình thế “lưỡng đầu thọ địch”.
Các nhà sử học đánh giá rằng: trên thực tế, Minh Thế Tông không hoàn toàn có ý định dụng binh đánh Đại Việt vì ở Trung Quốc khi đó cũng gặp những khó khăn[14]: một số khởi nghĩa nông dân nổ ra ở Hoa Bắc, “nuỵ khấu” người Nhật gây rối dọc vùng ven biển Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, được sự thông đồng của các phú thương người Hoa vừa buôn bán vừa cướp bóc; người Bồ Đào Nha bắt đầu nhòm ngó Áo Môn.
Chính vì vậy, vua Minh theo chủ trương phô trương thanh thế bên ngoài, kích động cuộc nội chiến giữa nhà Hậu Lê và nhà Mạc và ép nhà Mạc hàng phục. Ý định chống cự quân Minh của nhà Mạc sớm tiêu tan vì không hề nắm bắt được những khó khăn mà nhà Minh đang phải đương đầu[15]. Tháng 2 năm 1539, nhà Mạc dâng biểu sang nhà Minh xin hàng.
Nhà Minh sai Mao Bá Ôn và Cừu Loan tiến áp sát biên giới, lấy danh nghĩa chỉ nhằm trừng phạt cha con Mạc Đăng Dung nhằm phân hoá người Đại Việt. Để tránh đổ máu, Mạc Đăng Dung chấp nhận đầu hàng.
Ngày 3 tháng 11 âm lịch năm 1540, Mạc Đăng Dung cùng các bầy tôi Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khanh, Đặng Văn Trị lên cửa ải. Ông tự trói mình đến dâng biểu xin hàng quân Minh. Trong biểu xin hàng, Mạc Đăng Dung nhấn mạnh 3 vấn đề[16]:
- Thoái thác việc họ Mạc sang Yên Kinh (Bắc Kinh)
- Giao nộp đất, gồm 2 đô Như Tích, Chiêm Lãng và 4 động Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát
- Xin ấn tín để được thừa nhận sự cai trị ở An Nam.
Mao Bá Ôn và Cừu Loan nhận biểu của Mạc Đăng Dung bèn lui binh, tâu lên Minh Thế Tông. Vua Minh hạ lệnh:
- Lệnh cho Phiên ty Quảng Tây hằng năm cấp lịch Đại Thống cho nhà Mạc, quy định lệ 3 năm cống 1 lần
- Nhận và nhập 2 đô Như Tích, Chiêm Lãng và 4 động Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát vào Khâm châu của Trung Quốc
- Hạ An Nam quốc xuống An Nam Đô thống sứ ty, đúc ấn và ban cho nhà Mạc.
Tuy nhiên sau này ấn của nhà Minh mang sang thì Mạc Thái Tổ đã qua đời, Mạc Hiến Tông tiếp nhận.
Giai đoạn 1542-1592
Tuy đạt được mục tiêu bảo vệ toàn vẹn quốc gia, nhưng về mặt ngoại giao, vị thế của nhà Mạc so với các triều trước không bằng: danh hiệu Đô thống sứ ty là vị thế nội thần chứ không phải ngoại thần.
Sang thời Mạc Mậu Hợp, thái bảo Giáp Trưng từng dâng sớ xin triều đình bàn lại vì “việc đó là nhục nước”. Tuy nhiên sau khi bàn luận, Mạc Mậu Hợp do dự không quyết định.
Năm 1542 bắt đầu đánh dấu mốc bình thường hoá trong quan hệ Mạc-Minh. Đồ tiến cống từ giữa thời Mạc đổi ra lư hương, bình hoa bằng vàng bạc, nặng bằng người vàng[17].
Năm 1548, đoàn sứ do Lê Quang Bí dẫn đầu sang cầu phong cho vua mới là Mạc Tuyên Tông bị nghi ngờ giả mạo đã bị giữ lại. Lê Quang Bí bị giữ tới 19 năm tại Trung Quốc, năm 1566 mới được trở về. Khi đó Tuyên Tông đã mất, vua mới là Mạc Mậu Hợp khen ngợi và phong làm Tô quận công, ví như Tô Vũ nhà Hán đi sứ Hung Nô.
Thời Mạc Mậu Hợp, nhà Mạc đã suy yếu, thường thất thế trước quân Nam triều nhà Lê. Nhà Mạc dùng chính sách tăng cường ngoại giao, cống nạp cho nhà Minh để tranh thủ sự ủng hộ khi bị thất thế, duy trì lệ tiến cống 6 năm 1 lần[18].
Năm 1592, họ Mạc rút chạy lên Cao Bằng. Nhà Hậu Lê xin cầu phong của nhà Minh. Sau lần hội khám năm 1597, nhà Minh vẫn chỉ phong cho Lê Thế Tông làm An Nam đô thống sứ ty như phong cho nhà Mạc trước đây. Đồng thời, nhà Minh dùng uy thế “thiên triều” ép họ Trịnh cắt đất Cao Bằng cho họ Mạc cát cứ trong nhiều năm, tới năm 1677 mới chấm dứt.
Tổ chức quân đội
-
Nhà Mạc rất chú trọng xây dựng lực lượng quân đội đủ mạnh để bảo vệ chính quyền. Trong cả nước, quân đội nhà Mạc được chia ra 4 vệ:
- Binh lính Hải Dương thuộc vệ Hưng Quốc
- Binh lính Kinh Bắc thuộc vệ Kim Ngô
- Binh lính Sơn Tây thuộc vệ Cẩm Y
- Binh lính Sơn Nam thuộc vệ Chiêu Vũ
Toàn bộ quân đội nhà Mạc lúc đông đảo nhất có 12 vạn quân[19].
Để khuyến khích tinh thần chiến đấu của quân sĩ trong thời chiến, nhà Mạc có những ưu đãi cho lực lượng quân đội. Chính sách này đã giúp nhà Mạc tạo nên một đội ngũ quân sĩ khá đông đảo và trung thành để bảo vệ quyền lợi triều đình[20].
Kinh tế
-
Mạc Thái Tổ đã đưa ra một số quy chế về ruộng đất bao gồm: binh điền, lộc điền, quân điền, dựa trên các quy chế đã có từ thời Hồng Đức (Lê Thánh Tông) hay việc cho đúc tiền Thông Bảo.
Thời kỳ Mạc Thái Tông trị vì có thể coi là thời kỳ đỉnh cao của nhà Mạc. Lúc đó nhà Lê chưa trung hưng, toàn cõi do nhà Mạc cai quản, cảnh thịnh trị được các sử gia nhà Lê – triều đại đối địch với nhà Mạc – soạn Đại Việt sử ký toàn thư, phải ghi nhận: “đêm ngủ không đóng cửa, ngoài đường không ai nhặt của rơi”[21].
Nhưng từ khi Nguyễn Kim nổi dậy, chiến tranh nổ ra, đất nước bị tàn phá, kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chiến tranh liên miên đã làm cho đời sống của người dân trở nên đói nghèo hơn. Ví dụ năm 1572, sau khi nhiều phen bị nạn binh đao thì tại Nghệ An lại phát dịch. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục có viết rằng: Các huyện, đồng ruộng bỏ hoang nhân dân đói khổ. Dịch lệ lại phát sinh, người chết đến quá nửa. Nhân dân xiêu giạt, hoặc tan tác vào Nam, ra Bắc. Trong cõi Nghệ An đìu hiu vắng tanh.
Nhìn tổng thể, nhà Mạc có tư duy kinh tế cởi mở, sớm nhìn thấy xu thế tiến bộ của thủ công nghiệp, thương mại và kinh tế hàng hóa; điều đó khác hẳn với chính sách bảo thủ của nhà Lê. Nhà Mạc cai trị trong 65 năm đã đưa vùng đông bắc giàu mạnh lên, về ngoại thương đã vươn tới thị trường các nước châu Á. Tuy nhiên, kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp theo phương thức tiểu nông, tàn dư của phương thức sản xuất Á Đông cùng chế độ gia trưởng với nền kinh tế manh mún, khiến mầm mống tư bản chủ nghĩa chớm nảy sinh đã không phát triển được[22].
Văn học nghệ thuật
-
Văn học nhà Mạc chia làm 3 thể loại chính:
- Hiến chương: tiêu biểu là Giáp Hải (tác phẩm Ứng đáp bang giao)
- Thơ ca: tiêu biểu là Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hà Nhậm Đại, Nguyễn Giản Thanh, Phạm Thiện, Hoàng Sĩ Khải, Nguyễn Hàng. Thể loại thơ vịnh thời Mạc khá phát triển với những chủ đề mới, thay cho thể loại ca tụng triều đình phổ biến dưới triều Lê Thánh Tông là mảng thơ phú điền viên, ẩn dật với thiên nhiên.
- Truyện kí: tiêu biểu là Dương Văn An (tác phẩm Ô châu cận lục) và Nguyễn Dữ (tác phẩm Truyền kỳ mạn lục).
Nghệ thuật thời Mạc chủ yếu là trong lĩnh vực kiến trúc và trang trí, thể hiện ở những công trình xây dựng trong cung đình, chùa chiền và tại các làng xã.
Công trình cung đình quan trọng thời Mạc chủ yếu ở Dương Kinh ([di tích hiện tại ở Cổ Trai, huyện Kiến Thụy, Thành phố Hải Phòng) – quê hương nhà Mạc như điện Phúc Huy, điện Hưng Quốc, điện Sùng Đức. Công trình xây và tu bổ chùa thời Mạc tại các địa phương gồm có: Hải Phòng 27 chùa; Hải Dương và Hưng Yên 36 chùa; Hà Tây cũ 28 chùa.
Từ thời Mạc, đình làng được dùng làm nơi sinh hoạt cộng đồng làng xã. Hai ngôi đình nổi tiếng nhất thời kỳ này là đình Đông Lỗ và đình Tây Đằng. Nghệ thuật kiến trúc và trang trí thời Mạc được đánh giá là đã tạo một bước ngoặt lớn trong lịch sử nghệ thuật Việt Nam[23].
Tôn giáo tín ngưỡng
-
Nhà Mạc vẫn theo pháp độ cũ của nhà Lê từ hệ tư tưởng đến mô hình thiết chế nhà nước, lấy Tống nho làm tư tưởng cai trị chính[24], tuy nhiên không hạn chế các tôn giáo khác như đạo Phật, đạo Giáo như nhà Lê Sơ. Các quan lại và người trong hoàng tộc nhà Mạc đã cúng tiến nhiều đất cho nhà chùa và xây cất, tu bổ nhiều chùa.
Việc truyền đạo Thiên chúa vào Đại Việt bắt đầu được xúc tiến từ năm 1533 thời Mạc Hiến Tông nhưng chưa thu được kết quả. Năm 1581 thời Mạc Mậu Hợp, các nhà truyền giáo lại đến, nhưng vì ngôn ngữ bất đồng nên cuối cùng giáo đoàn phải trở về Ma Cao[25].
Thi cử và chính sách dùng người
Thi cử
-
Nhà Mạc rất chú trọng tới nhân tài từ tuyển chọn qua đường thi cử. Tuy chiến tranh, nhưng nhà Mạc cũng chú ý đào tạo và xây dựng hệ thống quan lại thông qua 22 kỳ khoa cử với chu kỳ ba năm một lần, bắt đầu từ năm 1529 và chấm dứt năm 1592. Chẳng hạn năm 1535, nhà Mạc mở khoa thi Hội, lấy Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bùi Khắc Đốc, Nguyễn Thừa Hưu đỗ tiến sĩ cập đệ; Nguyễn Di Lượng cùng 6 người khác đỗ tiến sĩ xuất thân; Nguyễn Trùng Quang cùng 21 người khác đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
Một ghi nhận nữa là tận năm 1592, khi chiến sự bên bờ nam sông Hồng diễn ra ác liệt trước cuộc tổng tấn công của quân Lê Trịnh, vua Mạc Mậu Hợp vẫn tổ chức thi ở Bồ Đề bên kia sông theo đúng định kỳ để lấy được 18 tiến sĩ. Trong 65 năm tồn tại ở Thăng Long, nhà Mạc mở 21 kỳ thi Hội, lấy đỗ 485 Tiến sĩ và 13/46 trạng nguyên[26] trong 800 năm thi cử Nho học thời phong kiến Việt Nam.
Khi rút lên Cao Bằng, họ Mạc vẫn tổ chức thi cử để lấy người hiền tài. Có một kỳ thi người đỗ đầu là một phụ nữ tên là Nguyễn Thị Duệ[27] tức Nguyễn thị Du
Cách trân trọng nhân tài của nhà Mạc được tác giả Nguyễn Bá Trác thế kỷ 19, tác giả Hoàng Việt Giáp tý niên biểu nhắc tới mấy chữ dư âm: “Mạc thị sùng Nho” – Họ Mạc sùng đạo Nho.
Người cựu triều
Trong sách “Nhà Mạc và vấn đề nguỵ triều trong sử sách”[28], các nhà nghiên cứu ghi nhận nhà Mạc đã mạnh dạn sử dụng quan lại cũ của nhà Lê, điển hình là 4 trạng nguyên đỗ thời Lê sơ: Nguyễn Giản Thanh, Hoàng Văn Tán, Ngô Miễn Thiệu, Trần Tất Văn.
Ngoài ra, trong quá trình “bình định thiên hạ”, Mạc Thái Tổ đã “thu phục” nhiều tướng lĩnh giỏi của nhà Lê như Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Vũ Hộ, Phạm Gia Mô… những người đắc lực giúp ông mở ra nhà Mạc.
Cởi bỏ thù hằn
Không chỉ dám dùng người cựu triều thù địch, nhà Mạc còn dám trọng dụng cả những người từng theo địch trở về. Điều này được các nhà chuyên môn đánh giá rất cao.
Vụ ly khai của hai nhà thông gia Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến năm 1550 kéo theo một loạt con em của hai họ này, cũng đều là đại thần nhà Mạc như Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn, Nguyễn Khải Khang, Lê Khắc Thận. Nhưng tới năm 1558, khi hai cha già họ Lê và họ Nguyễn qua đời, Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn trở về theo Mạc và được trọng dụng không chút nghi ngờ. Miễn được gả công chúa làm phò mã, Quyện trở thành cha vợ vua (Mậu Hợp) rồi sau đó liên tiếp lập công đánh bại quân Lê Trịnh, thành danh tướng Bắc triều. Kết quả đó lôi kéo Lê Khắc Thận, dù đã làm tới thái phó của Lê Trịnh vẫn vượt luỹ về Mạc năm 1572.
Thật hiếm triều đại nào có chính sách dùng người cởi mở, bao dung trong thời kỳ loạn lạc như nhà Mạc, nếu so sánh những sự kiện trên với các triều đại khác. Sự bao dung của nhà Lý, nhà Trần với vài thủ lĩnh nổi dậy chỉ là cách đối phó để giữ miền biên xa xôi, không dùng với tướng sĩ “người miền xuôi” đã phản. Hậu Trần Giản Định Đế nghi ngờ Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân từng phục vụ nhà Hồ và hàng quân Minh nên giết 2 tướng giỏi; Lê Thái Tổ giết hết các người Việt từng theo phục vụ quân Minh[29]; Lê Thánh Tông giết đại thần Lê Lăng vì từng ủng hộ Lê Khắc Xương lên ngôi… Có lẽ nhà Mạc đã học được tấm gương của Tề Hoàn Công thời Xuân Thu dám dùng Quản Trọng, dù từng có cái thù bắn tên vào đai áo[30].
Chính sách dùng người của nhà Mạc còn được đời sau ca ngợi. Sách Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ cuối thời Lê trung hưng ghi: “cái đức chính của thời Minh Đức (niên hiệu của Mạc Thái Tổ) và Đại Chính (niên hiệu của Mạc Thái Tông) nhà Mạc vẫn còn cố kết ở lòng người chưa quên. Vậy nên thời vận đã về nhà Lê mà lòng người hướng theo nhà Mạc vẫn chưa hết…”[31].
Nhận định
Giành quyền
Nhà Hậu Lê suy thoái, triều chính rối ren đánh giết lẫn nhau, các vua quỷ Uy Mục đế, vua lợn Tương Dực đế và Chiêu Tông đều không đủ năng lực cầm quyền, các quyền thần họ Trịnh, họ Nguyễn đều chứa chấp mưu đồ riêng, nông dân nổi dậy khởi nghĩa. Mạc Đăng Dung đã xuất hiện trong bối cảnh đó và chỉ trong chưa đầy 10 năm ông đã dẹp yên tình hình nước Đại Việt. Việc nhà Mạc thay thế một nhà Hậu Lê không còn đủ năng lực và bị thiên hạ chán ghét là tất yếu của lịch sử. Nếu dòng họ Mạc không nổi dậy thì các dòng họ thế tộc khác cũng làm điều tương tự trong bối cảnh lúc đó[32]. Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng sự thay thế nhà Lê của Mạc Đăng Dung là “hợp với đời và đạo”[33].
Nội trị
Thời kỳ thịnh trị của Mạc Thái Tông cho thấy năng lực trị nước của nhà Mạc không kém nhà Lê. Đời sống nhân dân no đủ, xã hội ổn định, không gây những xáo trộn như khi nhà Hồ thay nhà Trần. Những lực lượng chống đối nhà Mạc chính là những thế lực cũ thân nhà Lê. Theo sử sách, thời Mạc không có một cuộc khởi nghĩa nông dân nào. Điều đó cho thấy nhà Mạc được lòng dân. Sách Đại Việt Thông sử của Lê Quý Đôn phải thừa nhận Thái Tổ Mạc Đăng Dung “được lòng người hướng về”. Sau khi Hiến Tông qua đời, các vua Mạc lên thay đều là ấu chúa, biến loạn trong ngoài rất nhiều nhưng nhà Mạc vẫn đứng vững. Ngoài năng lực của người phụ chính, hẳn phải có nền tảng là sự ủng hộ của nhân dân Bắc Bộ lúc đó. Việc họ Mạc tiếp tục cát cứ tại Cao Bằng, ngoài sự can thiệp của nhà Minh, nếu không được lòng người thì không thể tồn tại tới 80 năm[34].
Đặc biệt, nhà Mạc rất coi trọng việc phát hiện nhân tài, do đó dù chiến tranh liên miên nhưng các kỳ thi vẫn tổ chức khá đều đặn. Ngay cả khi cát cứ trên Cao Bằng, việc thi cử vẫn còn duy trì.
Một đặc điểm nữa là cả 5 đời vua nhà Mạc không có nạn quyền thần trong thời gian cai trị, dù nhà Mạc khởi nghiệp từ một quyền thần trong triều Lê. Đó là điều mà các triều đại Ngô, Đinh, Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam đều gặp phải. Do đó thời Mạc không có việc phế lập, khuynh loát trong cung đình. Duy nhất vụ “bất đồng chính kiến” trong việc lập người thừa kế (Mạc Phúc Nguyên và Chính Trung) năm 1546 – 1551 đã bị đánh dẹp.
Ngoại giao
Về ngoại giao, một số nhà sử học lên án hành động tự trói mình, tạ tội, đầu hàng nhà Minh của Mạc Đăng Dung ở biên giới năm 1540, vì điều đó làm mất thể diện của nước Đại Việt. Nhưng cũng có người cho rằng trong bối cảnh lúc đó, việc này là bắt buộc không còn lựa chọn khác. Ở Thanh Hoá, nhà Lê đánh ra, tại Tuyên Quang, chúa Bầu họ Vũ chưa dẹp được. Phía bắc, nhà Minh uy hiếp. Kẻ thù nguy hiểm nhất chính là người phương Bắc. Có lẽ Mạc Đăng Dung không muốn lặp lại thảm kịch của nhà Hồ sau khi thay ngôi nhà Trần nên buộc phải hành động như vậy, vì nếu đối đầu, nhà Mạc chắc chắn sẽ thất bại. Các nhà nghiên cứu ủng hộ quan điểm này còn cho rằng, chính vì hổ thẹn và suy sụp sau hành động này mà Mạc Đăng Dung, vốn đã cao tuổi, nên ốm và mất không lâu sau đó. Sự nhẫn nhục của Mạc Đăng Dung không những trực tiếp cứu nhà Mạc mà còn gián tiếp cứu nhà Lê trung hưng, bởi nếu nhà Mạc bị nhà Minh diệt như nhà Hồ thì nhà Lê cũng sẽ bị nhà Minh diệt như nhà Hậu Trần[35].
Sau khi thất thế, nhà Mạc tiếp tục dựa vào ảnh hưởng của nhà Minh để tồn tại ở Cao Bằng, nhưng tuyệt nhiên không mượn quân nhà Minh. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, đại thần Mạc Ngọc Liễn (vốn là người khác họ được cải họ vua) trước khi mất tại Trung Quốc đã dặn lại vua tôi họ Mạc rằng:
- “Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng… Dân ta là dân vô tội mà để phải mắc nạn binh đao, sao lại nỡ thế!… Nếu thấy quân họ đến thì ta nên tránh, chớ có đánh nhau, nên cẩn thận mà giữ là hơn. Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”[36].
Các đời sau họ Mạc đã làm đúng như Mạc Ngọc Liễn dặn lại. Thua trận, phải rời khỏi ngôi cai trị nhưng không cố giành giật lại bằng mọi giá, điều đó nhà Mạc hơn nhà Hậu Lê, nhà Nguyễn sau này.
Chính thống
Nhà Mạc cuối cùng bị mất ngôi khi nhà Lê hồi phục nhờ sức quyền thần nên các sử gia của triều đại thắng trận ra sức hạ thấp nhà Mạc trong sử sách.Do sự chi phối quan điểm của nhà Lê và nhà nguyễn, Nhà Mạc bị gọi là “ngụy triều”. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào những gì nhà Mạc đã làm, đây thực sự là một vương triều tuy thời gian tồn tại ngắn, nhưng có vai trò tích cực nhất định trong lịch sử Việt Nam. Nhà Lê dù thắng trận nhưng về thực chất thì không còn, cơ nghiệp nhà Lê trung hưng thực ra là cơ nghiệp họ Trịnh.
Giáo sư sử học Văn Tạo trong bài viết “Nhà Mạc và vấn đề ngụy triều” đã vạch rõ: Họ Trịnh và họ Nguyễn lấy tiếng là giúp nhà Lê nhưng thực ra là lo làm lợi cho mình. Họ Trịnh phù Lê nhưng lại phế truất và giết các vua Lê. Họ Nguyễn phù Lê nhưng chỉ lo phát triển cơ đồ riêng và cái cớ chống họ Trịnh. Giáo sư Tạo nhấn mạnh: “Mạc là ngụy công khai, Trịnh Nguyễn là ngụy giấu mặt”[37].
Cách nói “nguỵ” cũng chỉ là theo quan điểm của các sử gia thời phong kiến. Các nhà sử học ngày nay đã thay đổi quan điểm này và nhà Mạc đã được nhìn nhận như một triều đại bình đẳng với các triều đại “chính thống” khác.
Nguyên nhân thất bại
Lực lượng chống đối nhà Mạc, cụ thể là lực lượng nhân danh nhà Lê, những người ủng hộ nhà Lê còn mạnh. Vấn đề chính thống chỉ có một vai trò nhất định, vì Nam triều hay Bắc triều đều có lý lẽ của mình. Bắc triều dù là người đi cướp ngôi, nhưng từ Lê Uy Mục, nhân dân đã chán ghét nhà Lê. Nam triều dù đã mất uy tín nhưng với một bộ phận nhân dân, nhất là vùng “căn bản” quê hương nhà Lê (Thanh Hoá) trở vào còn nhớ công lao đánh quân Minh của nhà Lê. Do đó, khi yếu tố chính trị không đóng vai trò quyết định thì vấn đề nhân sự sẽ quyết định.
Theo giáo sư Văn Tạo, về chính trị và kinh tế, tuy nhà Mạc đã khiến đất nước giàu mạnh lên trong thời kỳ đầu, nhưng địa bàn hoạt động của nhà Mạc bị bó hẹp, kẹp giữa một bên là nước lớn Trung Quốc, một bên là Nam triều trỗi dậy cùng tư tưởng “hoài Lê”, không có điều kiện mở rộng như các chúa Nguyễn ở phía Nam sau này[38].
Bản thân các tập đoàn chống Mạc đã có những chính sách phù hợp và lực lượng nhân sự đủ tài năng để đối phó với nhà Mạc nên trong một thời gian dài Nam triều đứng vững trước các cuộc tấn công của nhà Mạc. Thời hậu kỳ (sau khi Mạc Kính Điển chết), nhà Mạc không còn lực lượng nhân sự đủ mạnh, nhất là vua Mạc Mậu Hợp không đủ năng lực và phạm phải sai lầm nên đã thất bại về quân sự. Trong cuộc chiến trường kỳ đó, khi đã thất bại về quân sự thì chính trị của nhà Mạc cũng trở nên yếu thế trước khẩu hiệu “phù Lê” và nhà Mạc thành kẻ bại trận cuối cùng[39].
Các vua nhà Mạc
Lưu ý:
- Mạc Toàn thực sự không còn quyền lực gì.
- Một số tài liệu liệt kê cả Mạc Kính Chỉ (niên hiệu Bảo Định và Khanh Hựu [40] 1592-1593), Mạc Kính Cung (niên hiệu Kiền Thống 1593-1594), Mạc Kính Khoan (niên hiệu Long Thái 1594-1628) và Mạc Kính Vũ (Mạc Kính Hoàn, niên hiệu Thuận Đức 1628-1677).
Thế phả vua Mạc
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
1
Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung)
1526 – 1529 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
2
Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh)
1530 – 1540 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3
Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải)
1541 – 1546 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
4
Mạc Tuyên Tông (Mạc Phúc Nguyên)
1547 – 1561 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
5
Mạc Mục Tông hay Mạc Anh Tổ (Mạc Mậu Hợp)
1562 – 1592 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
6
Mạc Cảnh Tông (Mạc Toàn)
1592 – 1592 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
7Mạc Mẫn Tông(Mạc Kính Chỉ)
1592 – 1593 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
8Mạc Đại Tông(Mạc Kính Cung)
1593 – 1621 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
9Mạc Quang Tổ(Mạc Kính Khoan)
1621 – 1638 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
10Mạc Minh Tông(Mạc Kính Vũ)
1638 – 1677 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
11Mạc Quý Tông(Mạc Kính Hẻ hay Mạc Nguyên Thanh)
1677 – 1681 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
12Mạc Đức Tông(Mạc Kính Tiêu hay Mạc Kính Quang)
1681 – 1683 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Các quan lại, tướng lĩnh
Xem thêm
Tham khảo
- Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
- Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 4, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
- Nhiều tác giả (1995), Nhà Mạc và vấn đề nguỵ triều trong sử sách, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin
- Văn Tạo (2006), Mười cuộc cải cách, đổi mới lớn trong lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học sư phạm
- Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục
- Đại Việt Sử ký Toàn thư
- Nguyễn Huy Thức, Lê Văn Bảy (2006), Lê triều dã sử, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin
- Viện Sử học (1996), Vương triều Mạc, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
Chú thích
- ^ Năm 1667 Mạc Kính Hoàn chạy sang nhà Thanh, nhưng sau đó lại trở lại và chỉ bị tiêu diệt hoàn toàn vào năm 1677
- ^ Vua Chiêu tông sinh năm 1506, Duy Ninh sinh năm 1514. Cha chỉ hơn con có 8 tuổi nên có nhiều khả năng Nguyễn Kim tìm người nào đó trá xưng là con vua Chiêu Tông để có danh nghĩa đánh nhà Mạc. Vì vậy sau này nhà Minh lấy lý do đó để chần chừ trong việc thừa nhận nhà Lê trung hưng
- ^ Vợ Phạm Quỳnh, mẹ Phạm Dao là nhũ mẫu của Mạc Kính Điển
- ^ Ngọc Liễn là con công thần Nguyễn Kính, được cải sang họ Mạc
- ^ Sau Quyện giả cách muốn hàng Trịnh, nhưng cùng con là Tín định cùng các tướng cũ mưu phản Trịnh. Việc bại lộ, bị giết trong ngục
- ^ Nguyễn thị Niên và vợ Mậu Hợp đều là con gái lão tướng Nguyễn Quyện. Thị Niên có em làm vợ vua nên hay vào cung. Mậu Hợp thấy Niên đẹp nên muốn chiếm lấy
- ^ Nguyễn Huy Thức, Lê Văn Bảy, sách đã dẫn, tr 76
- ^ Thành Nhà Mạc
- ^ Thành nhà Mạc có nguy cơ bị “xoá sổ”
- ^ Thành Nà Lữ và Thành Phục Hoà xây dựng từ bao giờ? (14:10, 18/07/2006)
- ^ Yên Mô có bốn tòa thành
- ^ Nhiều tác giả, sách đã dẫn, tr 105
- ^ Nhiều tác giả, sách đã dẫn, tr 104
- ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tập 3, tr 433-434
- ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tập 3, tr 438
- ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tập 3, tr 442
- ^ Nhiều tác giả, sách đã dẫn, tr 116-117
- ^ Viện sử học, sách đã dẫn, tập 3, tr 447
- ^ Viện sử học (2007), sách đã dẫn, tr 555
- ^ Viện sử học (1996), sách đã dẫn, tr 52
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 16
- ^ Văn Tạo, sách đã dẫn, tr 182
- ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 515
- ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tập 3, tr 508
- ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tập 4, tr 554
- ^ Bài Giáo dục Nho học và thi cử ở Đông Kinh dưới thời Mạc (đăng trên Tạp chí Hán Nôm, Số 6 (79); Tr.51-57), của Đinh Khắc Thuân
- ^ Nhiều tác giả, sách đã dẫn, tr 187
- ^ Nhiều tác giả, đây theo bài tiểu luận “Chính sách dùng người của nhà Mạc” của tác giả Ngô Đăng Lợi – Chủ tịch Hội sử học Hải Phòng
- ^ Điển hình là Trần Phong, Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung
- ^ Tề Hoàn công và anh là công tử Củ tranh ngôi. Quản Trọng ủng hộ Củ, bắn trúng đai áo Tề Hoàn Công. Sau Củ bị giết, nước Lỗ “dẫn độ” Quản Trọng về, Hoàn công không giết mà dùng làm tướng quốc, dựng nên nghiệp bá chủ
- ^ Nhiều tác giả, sách đã dẫn, tr 140
- ^ Nhiều tác giả, sách đã dẫn, tr 60-61
- ^ Nhiều tác giả, sách đã dẫn, tr 26
- ^ Nhiều tác giả, sách đã dẫn, tr 62-63
- ^ Nhiều tác giả, sách đã dẫn, tr 109-110
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 17
- ^ Nhiều tác giả, sách đã dẫn, tr 47-49
- ^ Văn Tạo, sách đã dẫn, tr 183
- ^ Nhiều tác giả, sách đã dẫn, tr 81-82
- ^ Niên hiệu Bảo Định và Khanh Hựu của Mạc Kính Chỉ lấy theo Đại Việt Sử ký Toàn thư. Theo zh:莫朝 thì niên hiệu này là 康佑 tức Khang Hữu. Đại Việt Sử ký Toàn thư không công nhận Mạc Kính Chỉ và những người kế vị là vua.
Liên kết ngoài
Thể loại:
Trận Prokhorovka
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận Prokhorovka là một trận đánh diễn ra giữa Tập đoàn quân xe tăng 4 của Đức Quốc Xã với Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5, Quân đoàn xe tăng 2, Quân đoàn cơ giới cận vệ 2 của Quân đội Liên Xô, diễn ra tại làng Prokhorovka cách Moskva 450 kilomet về phía nam như một phần của Trận Vòng cung Kursk trong mặt trận Xô-Đức của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Nó là một trong những trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử quân sự thế giới. Tổng cộng hai bên đã đưa vào trận 1.464 xe tăng và pháo tự hành.[6]
Ngày 5 tháng 7 năm 1943 Bộ tư lệnh Tối cao các lực lượng vũ trang Đức Quốc Xã đã phát động Chiến dịch Thành trì (Untrenchmen Zitadelle) với mục tiêu hủy diệt khối quân Liên Xô đang đóng tại “chỗ lồi” Kursk. Nếu thành công, phát xít Đức hy vọng sẽ lấy lại được quyền chủ động chiến lược, vốn đã bị mất sau thảm họa Stalingrad. Tham gia chiến dịch Thành trì là 5 tập đoàn quân Đức có nhiệm vụ chọc thủng trận tuyến Hồng quân ở hai cánh Nam và Bắc của Vòng cung Kursk nhằm thực hiện hai đòn vu hồi bao vây Hồng quân tại “chỗ lồi” Kursk.
Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Liên bang Xô viết Stavka, đã đoán biết trước kế hoạch tấn công của phát xít Đức, vì vậy họ tích cực chuẩn bị các phòng tuyến dày đặc nhằm ngăn quân Đức theo nguyên tắc chiến tranh chiều sâu. Lúc này, Nguyên soái G. K. Zhukov thuyết phục I. V. Stalin rằng Hồng quân Xô Viết không nên tấn công mà cần phải tổ chức phòng ngự và tiêu hao lực lượng Đức tiến công vào Vòng cung Kursk. Khi phát xít Đức đã thấm mệt sau các đợt tiến công vất vả thì Hồng quân sẽ tung những lực lượng dự bị chiến lược ra đập tan các mũi tấn công đã mỏi mệt của phát xít Đức.
Trong Trận Kursk, cánh bắc của quân Đức tại khu vực gần Orel đã nhanh chóng bị chặn đứng và ngay sau đó, Hồng quân mở Chiến dịch Kutuzov đẩy lui mũi phía Bắc của phát xít Đức. Ở cánh nam, mọi việc diễn ra thuận lợi hơn cho quân Đức khi các lực lượng thiết giáp Đức và các đơn vị SS đã chọc thủng trận tuyến Hồng quân và tiến gần tới làng Prokhorovka. Lúc này, Hồng quân Xô Viết quyết định phải tung một phần lực lượng dự bị – sớm hơn so với dự kiến – ra để chặn mũi tiến công của phát xít Đức. Và trận đấu xe tăng với quy mô lớn nhất trong lịch sử quân sự đã diễn ra vào ngày 12 tháng 7 năm 1943 tại làng Prokhorovka.
Trận đánh này là một giai đoạn mấu chốt trong toàn bộ quá trình thực hiện kế hoạch hợp vây Hồng quân tại “chỗ lồi” Kursk. Đỉnh điểm và kết quả của trận đánh có thể được xem là hệ quả của một sự ganh đua quyết liệt giữa hai phe tham chiến. Phát xít Đức đã giành được một vài mục tiêu chiến thuật, nhưng thất bại hoàn toàn trong việc đạt được mục tiêu chiến lược của họ. Còn Hồng quân Xô Viết thất bại trong quá trình phản công đẩy lui mũi tấn công của phát xít Đức, nhưng đã thành công trong việc bảo vệ trận địa và ngăn không cho quân Đức chọc thủng phòng tuyến. Cuối trận, cả hai phe đều chịu tổn thất nặng; mặc dù tổn thất của Hồng quân cao hơn nhưng nền công nghiệp quốc phòng cũng như nguồn nhân lực và vật lực dự trữ chiến lược to lớn của Liên Xô dư sức bù đắp những thiệt hại đó; trong khi đó phát xít Đức đã mệt lả và không còn lực lượng dự bị để có thể phát triển tiến công được nữa. Thất bại tại vòng cung Kursk đã đặt dấu chấm hết cho mọi cơ hội giúp phát xít Đức giành lại thế chủ động chiến lược tại Mặt trận Xô-Đức: quân Đức càng lúc càng lún sâu vào thế phòng ngự bị động cho đến hết chiến tranh.[2]
Bối cảnh
-
Mùa đông 1942-1943, Tập đoàn quân số 6 của phát xít Đức đã bị hủy diệt trong trận Stalingrad. Kết quả của ba chiến dịch lớn diễn ra trong khoảng thời gian đó: Chiến dịch Sao Thiên Vương, Chiến dịch Bão Mùa đông và Chiến dịch Sao Thổ cũng đe dọa nghiêm trọng đến các cụm tập đoàn quân phía nam của Đức. Nếu Hồng quân Xô Viết thành công hơn nữa, có lẽ toàn bộ các Tập đoàn quân này đã bị tiêu diệt. Nhưng dù sao, phần lớn lãnh thổ khu vực Kavkaz cũng đã không còn bóng của người lính Đức nào. Hồng quân chỉ tổn thất có 7 vạn người để đuổi quân Đức ra khỏi Kavkaz.[7] Được khích lệ bởi chiến thắng, Tổng tư lệnh Tối cao I. V. Stalin đã hạ lệnh cho Hồng quân tiến thẳng tới Rostov nhằm cắt đứt và hợp vây toàn bộ Cụm Tập đoàn quân Nam.
Hồng quân nhanh chóng chọc thủng phòng tuyến quân Đức nhưng trận tuyến của họ đã bị kéo căng quá mức. Thống chế Đức Erich von Manstein nhanh chóng nhận ra điểm yếu này, và ông ngay lập tức mở Chiến dịch Donets đánh thẳng vào cạnh sườn bị kéo căng của Hồng quân. Với kịch bản tương tự như ở Chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya một năm về trước, cánh Nam của Hồng quân đã bị đánh sập, các mũi tấn công của Hồng quân đã bị bao vây và hủy diệt. Sau đó phát xít Đức đã lấy lại được Kharkov vào ngày 14 tháng 3 năm 1943 và đẩy Hồng quân về phía Bắc sông Đông. Kết quả của chiến dịch Donets là một “chỗ lồi” có chiều dài 150 dặm tính từ Bắc xuống Nam. Trong trận này, phát xít Đức bắt được 9 nghìn tù binh và ước tính rằng Hồng quân có 23 nghìn binh sĩ tử trận. Các tài liệu của Hồng quân đưa ra con số thương vong tổng cộng là 45 nghìn người chết, mất tích, bị thương và bị bắt.[7]
Diễn biến trận chiến tại Vòng cung lửa Kursk. Trận Prokhorovka diễn ra ở mặt Nam của vòng cung.
Sau đó, phát xít Đức nhân đà thắng lợi ào vào chiếm Belgorod. Tuy nhiên do không đủ quân lực, quân Đức phải dừng cuộc tấn công và Hồng quân vẫn giữ được Kursk. Sức kháng cự của Hồng quân sau Kharkov càng lúc càng mạnh hơn và quân Đức khó có thể tiến xa hơn được nữa. Mặt trận trở nên ổn định vì cả hai phe đều mệt lả, không đủ sức để tấn công đối phương và “chỗ lồi” tại Kursk trên mặt trận Xô-Đức được hình thành.
Lúc này, lãnh đạo Đức Quốc Xã Adolf Hitler cùng Bộ Tổng tư lệnh Tối cao của ông quyết định chọn cung lồi Kursk làm mục tiêu của đợt tấn công chiến lược kế tiếp của phát xít Đức; với mục đích nhằm hủy diệt lực lượng dự bị chiến dịch và chiến lược của Hồng quân Xô Viết, lấy lại thế cân bằng trên mặt trận đồng thời đoạt lại luôn quyền chủ động chiến lược[8] mà phát xít Đức đã để mất sau thảm họa Stalingrad.
Về phía mình, các thông tin tình báo đã giúp Hồng quân Xô Viết nhận rõ mục tiêu kế tiếp của phát xít Đức vào mùa hè năm 1943. Lúc này, Hồng quân không còn phải tổ chức phòng ngự chiến lược trên toàn mặt trận như hồi ở Moskva năm 1941, vì vậy họ đã có thể xây dựng một hệ thống phòng thủ dày đặc nhiều tầng nhiều lớp – có khi sâu tới 100 cây số – để chặn quân Đức. Lực lượng của Hồng quân tại Vòng cung Kursk bao gồm 10 phương diện quân tương đương 40 tập đoàn quân hỗn hợp và 5 tập đoàn quân xe tăng bố trí trên một mặt trận dài 2.000 cây số và sâu 600-700 cây số.[9] Kế hoạch của Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Liên Xô Stavka là tổ chức phòng ngự tích cực tại “chỗ lồi” Kursk nhằm tiêu hao các mũi tấn công của phát xít Đức khi chúng phải vất vả vượt qua các phòng tuyến dày đặc của Hồng quân với sự phối hợp của nhiều binh chủng khác nhau trong việc tác chiến phòng ngự. Sau khi phát xít Đức đã thấm mệt, Hồng quân sẽ tung các đơn vị dự bị chiến lược ra và đập tan các mũi tấn công mệt mỏi của đối thủ.
Quân lực hai bên
-
Quân đội Đức Quốc Xã
Lực lượng Đức trong trận Prokhorovka chủ yếu bao gồm 6 sư đoàn xe tăng và 1 sư đoàn cơ giới, trong đó có 3 sư đoàn xe tăng SS vốn đã chịu nhiều thiệt hại nặng từ những ngày đầu của trận Kursk. Đến ngày 11 tháng 7, Sư đoàn xe tăng 1 SS Adolf Hitler ngày 11 tháng 7 còn 92 xe tăng, Sư đoàn xe tăng 2 SS Đế chế còn 94 xe tăng, Sư đoàn xe tăng 3 SS Đầu lâu còn 105 xe tăng, Sư đoàn xe tăng 3 (Quân đoàn xe tăng 48) còn 50 xe tăng, Sư đoàn cơ giới “Đại Đức” (Quân đoàn xe tăng 48) còn 123 xe tăng, Sư đoàn xe tăng 6 (Quân đoàn xe tăng 3) còn 48 xe tăng, Sư đoàn xe tăng 7 (Quân đoàn xe tăng 3) còn 66 xe tăng. Tổng số xe tăng kiểu Tiger I của bảy sư đoàn này là 145 chiếc.[6]
Các tài liệu Liên Xô cho rằng phát xít Đức tung 500–700 xe tăng trong trận này.[10] Theo các nguồn của Đức thống kê được, có 294 xe tăng trong ngày 11 tháng 7, nằm trong biên chế các sư đoàn xe tăng SS số 1, số 2 và số 3 với số lượng lần lượt là 77, 95 và 122 chiếc, sang ngày 12 con số tương ứng là: không rõ, 103 và 121 chiếc, ngày 13 còn 70, 107 và 74 chiếc, đến ngày 14 là 78, 115 và 73 chiếc, và ngày 15 giảm xuống 85, 99 và 77 chiếc. Số liệu cuối cùng được ghi nhận vào ngày 16 là 96, 103 và 96 chiếc.[10] Riêng Quân đoàn xe tăng 2 SS có 494 xe tăng trước khi bước vào trận đánh, nhưng đến ngày 13 tháng 7 chỉ còn đúng 200 chiếc tức 40% biên chế ban đầu.[11] Ngoài ra, các tài liệu của Đức cũng không thống kê được số xe tăng của sư đoàn cơ giới “Đại Đức”, sư đoàn xe tăng 3 (Quân đoàn xe tăng 48 và các sư đoàn xe tăng 6, 7 của Quân đoàn xe tăng 3.[12]
Không quân Đức Luftwaffe tham gia trong trận này bao gồm Tập đoàn quân không quân số 8 với 966 máy bay sử dụng được trong ngày 5 tháng 7 năm 1943.[13] Số lượt bay giảm nhiều so với tuần trước đó. Từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 7, Cục trưởng Cục quân nhu Không quân Đức báo cáo rằng họ chỉ mất 41 máy bay. Thiệt hại trong giai đoạn 8-11 tháng 7 không được thống kê rõ ràng, nhưng chắc chắn rằng đã có 220 máy bay bị phá hủy và phá hỏng ở mặt Nam vòng cung Kursk tính từ ngày 5 đến ngày 31 tháng 7 năm 1943.[13]
Quân đội Liên Xô
Lực lượng chủ yếu của quân đội Liên Xô tại Prokhorovka là Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5. Tổng số xe tăng và pháo tự hành của quân đội Liên Xô đến ngày 11 tháng 7 tham gia trận này có 877 chiếc; gồm 522 chiếc của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5, 140 chiếc của Quân đoàn xe tăng cận vệ 2, 49 chiếc của Quân đoàn xe tăng 2. Một phần lớn là những xe tăng hạng nhẹ như T-70 (188 chiếc) và xe tăng Churchill MK-3 (31 chiếc). Ngoài ra còn có 48 pháo tự hành chống tăng SU-122 và SU-76 và 18 xe tăng hạng nặng KV-1. Tuy nhiên, một số tài liệu cho rằng không có khẩu SU-152 hay SU-85 nào được tung vào trận chiến.[6]
Tuyến phòng thủ thứ nhất của Hồng quân do Quân đoàn xe tăng cận vệ số 2 và các quân đoàn xe tăng 29, 18 trấn thủ. Các lực lượng dự bị bao gồm Quân đoàn bộ binh cơ giới số 5 và Quân đoàn xe tăng số 2 – vốn đã chịu nhiều thiệt hại. Quân đoàn xe tăng số 18 bố trí 144 xe tăng trong ngày 11 tháng 7, còn quân đoàn số 29 có trong tay 212 xe tăng và pháo tự hành. Tính tổng cộng số xe tăng và pháo tự hành của Hồng quân có thể lên tới con số 500. Ngoài ra, Tập đoàn xe tăng cận vệ số 1 cũng tham gia tấn công một phần binh lực của quân đoàn thiết giáp số 48 (Đức); nhưng họ không được tính vào quân số Liên Xô tham chiến tại Prokhorovka. Một tài liệu khác đưa ra con số 294-429 xe thiết giáp Đức và 616-870 xe thiết giáp Liên Xô tham gia trận Prokhorovka.[14]
Lực lượng Không quân Xô Viết trong trận này tập trung kém. Tập đoàn quân không quân số 2 – mặc dù đã chịu nhiều thiệt hại trong những ngày đầu tiên – có trong tay 472 máy bay còn sử dụng được, trong đó có 266 máy bay tiêm kích, 160 máy bay ném bom và 90 chiếc máy bay Ilyushin Il-2 Shturmoviks. Tập đoàn quân không quân số 17 cũng tham gia vào trận chiến. Tập đoàn quân này cũng đã phải chịu tỷ lệ thiệt hại khá cao nhưng vẫn có thể huy động chừng 300 chiếc. Như vậy sức mạnh không quân của 2 bên là khá tương đương và cần phải được sử dụng thật thận trọng.[15]
Các diễn biến trước trận Prokhorovka
Mũi đột kích đến Prokhorovka của quân Đức
Sau nhiều lần trì hoãn tiến công để chuẩn bị binh lực, chiến dịch tấn công vào vòng cung Kursk của quân Đức chính thức mở màn vào ngày 5 tháng 7 năm 1943. Tập đoàn quân thiết giáp số 4 của Thượng tướng Hermann Hoth do Quân đoàn thiết giáp SS số 2 làm tiên phong đã tấn công tuyến phòng ngự dài từ 10-15 dặm của Liên Xô với các bãi mìn, bộ binh cố thủ trong chiến hào và hỏa lực súng chống tăng bố trí dày đặc trên một trận địa pakfront đã được chuẩn bị kỹ càng. Mũi tấn công của Hoth đã tiến sâu được 35 cây số vào tuyến phòng ngự thứ ba của Hồng quân nhưng sau đó bị Tập đoàn quân xe tăng số 1 (Liên Xô) chặn đứng.
Trong các ngày 5–11 tháng 7 năm 1943 sư đoàn thiết giáp SS số 2 của Đức đã có nhiều nỗ lực trong việc chia cắt các Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1 và Tập đoàn quân số 69 của Hồng quân. Quân Đức tiến hết sức chật vật nhưng họ đã chọc thủng được phòng tuyến của Hồng quân Xô Viết. Phát xít Đức tự nhận là đã phá hủy được 1 nghìn xe tăng Liên Xô tính từ ngày 5 tháng 7, còn quân đoàn thiết giáp số 48 cho rằng họ đã tiêu diệt 1.300 binh sĩ và bắt sống 7 nghìn binh sĩ Hồng quân, thu giữ và phá hủy 170 xe tăng, 180 súng cối hạng nặng cùng một số lượng lớn pháo binh và súng chống tăng.[16]
Quân đoàn SS số 2 đã chọc thủng tuyến phòng thủ thứ 3 của Hồng quân tại Prokhorovka. Họ quyết định nhanh chóng khai thác chiến quả này vào ngay ngày hôm sau.[16] Tuy nhiên phát xít Đức đã sai lầm khi cho rằng lực lượng dự bị của Hồng quân đã bị tiêu diệt. Họ không biết rằng Phương diện quân Thảo nguyên của tướng I. S. Konev, một lực lượng dự bị mạnh của Hồng quân đã sẵn sàng được tung vào mặt trận. Trước tình hình mặt trận bị chọc thủng vào ngày 11 tháng 7, mặc dù có sự phản đối của Konev, Nguyên soái G. K. Zhukov đã cho phép Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Liên Xô STAVKA tung Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 của tướng Pavel Alekseyyevich Rotmistrov và Tập đoàn quân cận vệ số 5 thuộc Phương diện quân Thảo nguyên vào mặt trận để bịt lỗ hổng. Sư đoàn súng trường cận vệ số 42 cũng ngay lập tức được huy động. Đêm 11 tháng 7, các lực lượng này của Hồng quân đã đến Prokhorovka[17] và chuẩn bị sẵn sàng để đón đánh quân Đức.
Kế hoạch tấn công của phát xít Đức
Kế hoạch của phát xít Đức tại Prokhorovka là chọc thủng trận tuyến của Hồng quân ở mặt nam của vòng cung Kursk và hội quân với mũi tiến công phía Bắc, hoàn tất việc khép vòng vây đối với khối quân Liên Xô tại Kursk. Đợt tấn công sẽ diễn ra đồng thời với mũi tiến công của quân đoàn thiết giáp số 48 nhằm vào sông Psyol ở phía Tây Nam. Nhà ga Prokhorovka được chọn làm mục tiêu chủ đạo của đòn tấn công vì Đức định dùng khu vực này làm bàn đạp cho Tập đoàn quân thiết giáp số 4 thọc vào hậu phương của Hồng quân và hoàn tất việc khép chặt vòng vây.
Kế hoạch phản công của Hồng quân Xô Viết
Pháo tự hành SU-85, loại pháo tự hành chống tăng chủ yếu của Quân đội Liên Xô trong chiến dịch
Tình hình chiến trận tại mặt nam của Kursk trở nên đặc biệt căng thẳng vào ngày 11 và 12 tháng 7. Mũi tiến công của quân đoàn thiết giáp SS số 2 đã tiến được tới nhà ga Prokhorovka và đe dọa bao vây Tập đoàn quân xe tăng số 1 của Hồng quân. Nhà ga này lại nằm ngay khu vực trung tâm phòng tuyến của Phương diện quân Voronezh. Ngày 11 tháng 7 năm 1943 Nguyên soái G. K. Zhukov hạ lệnh điều ngay 5 tập đoàn quân – trong đó có 2 tập đoàn quân của lực lượng dự bị là Phương diện quân Thảo nguyên – vào khu vực Prokhorovka nhằm mở cuộc phản công chặn đứng mũi đột phá của phát xít Đức vào ngày 12 tháng 7.[18] Các tập đoàn quân này cùng với Tập đoàn quân xe tăng số 1 của Thiếu tướng Mikhail Efimovich Katukov có nhiệm vụ tấn công, cắt đứt, bao vây và tiêu diệt mũi đột phá của quân Đức tiến tới Prokhorovka. Mục tiêu của tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 là quân đoàn SS còn các tập đoàn quân còn lại nhằm vào Quân đoàn thiết giáp số 48 và Quân đoàn số 52.
Kế hoạch tấn công của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 có một thiếu sót lớn là họ bỏ qua sự yểm hộ cần thiết của pháo binh, chỉ đơn thuần dựa vào tốc độ cao để bù đắp cho yếu thế về giáp trụ và hỏa lực; thêm vào đó mũi tấn công chính nhằm ngay vào khu vực mà các hầm hào chống tăng do chính Hồng quân đào lại phần nào làm lợi cho xe tăng Đức. Thêm vào đó, phần lớn lực lượng của Không quân Xô Viết tại Kursk chủ yếu tập trung ở mạn Bắc của vòng cung; nói cách khác Không quân Đức Luftwaffe chiếm ưu thế tuyệt đối tại Prokhorovka. Hệ thống liên lạc không đối đất yếu kém của Hồng quân cũng góp phần làm tình hình thêm tồi tệ và dẫn đến việc các máy bay Đức gây cho Hồng quân nhiều thiệt hại ngay từ những giờ phút đầu tiên của trận đánh.[19]
Trận đánh
Chiến sự vào buổi sáng
Lúc 6 giờ 50 phút sáng ngày 12 tháng 7 năm 1943, quân đoàn SS số 2 bắt đầu tấn công. Ngay lúc đó, Hồng quân Xô Viết cũng mở đợt tấn công vào quân Đức. Phi cơ của hai phía cũng lao vào quần nhau trong một trận không chiến dữ dội. Quân đoàn SS số 2 báo cáo về việc “không quân đối phương hoạt động rất tích cực […] lúc 7 giờ 10 phút”.[15] Lần đầu tiên trong chiến dịch Kursk, số lần bay của các phi cơ Xô Viết vượt qua số lần bay của phát xít Đức ở mặt Nam vòng cung Kursk: các tập đoàn quân không quân số 17 và số 2 của Liên Xô thực thi cả thảy 893 lần bay trong khi Tập đoàn quân không quân số 8 của Đức thực hiện 654 lần.[20]
Tư lệnh Tập đoàn quân không quân số 8 Đức, tướng Hans Seidemann đã ra lệnh cho các đơn vị không quân Đức phải tập trung vào nhiệm vụ yểm hộ cho quân đoàn SS số 2. Còn quân đoàn thiết giáp số 48 ở phía Bắc chỉ nhận được sự yểm hộ rời rạc của các không đoàn Jagdgeschwader 3 và Jagdgeschwader 52.[20] Diễn biến của các trận không chiến là một yếu tố quan trọng quyết định kết quả các đợt tấn công của những đơn vị tăng thiết giáp của hai bên dưới mặt đất. Do nhận được sự yểm hộ không đầy đủ của không quân, quân đoàn thiết giáp số 48 nhanh chóng trở thành mục tiêu dễ ngắm của không quân Xô Viết và họ bị buộc phải chuyển sang trạng thái phòng ngự. Sư đoàn thiết giáp số 11 báo cáo: “Không quân Đức có thực thi một số hoạt động nhưng phía Liên Xô thì nhiều hơn hẳn, bao gồm cả các đợt không kích của các máy bay ném bom bổ nhào”.[20]
Nhằm tăng thêm sức ép, quân đoàn xe tăng số 10 và Tập đoàn quân xe tăng số 1 của Liên Xô đã được tung vào mặt trận nhằm vào quân đoàn thiết giáp số 48 (Đức).[20] Tuy nhiên, không quân Đức cũng tổ chức một số đợt phản công nhằm vào các đơn vị Hồng quân tại khu vực này. Các oanh tạc cơ Heinkel He 111 đã gây nhiều thiệt hại cho tập đoàn quân số 69 và Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5. Do sự yếu kém của các lực lượng không quân tiêm kích mà không có thiệt hại nào của hai phe được ghi nhận trong ngày 12 tháng 7.[20] Sự kém hoạt động của không quân Đức đã khiến cho đợt tấn công của quân đoàn thiết giáp số 48 bị thất bại, và Quân đoàn SS số 2 đã phải lao vào quần nhau với Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 4 mà không có cuộc tấn công hỗ trợ nào. Cả hai lực lượng này liên tiếp tung ra nhiều đợt công kích dữ dội vào nhau.[20]
Kế hoạch của tướng Paul Hausser là cho sư đoàn Đầu lâu tấn công vào phía Bắc sống Psyol nhằm mở rộng bàn đạp mà quân Đức vừa mới giành được ở đây. Sư đoàn “Đế chế” và sư đoàn cận vệ “Adolf Hitler” không tham gia trận đánh và giữ nguyên trạng thái phòng ngự cho đến khi sư đoàn Đầu lâu báo tin thắng lợi.
Đợt tấn công của Hồng quân bắt đầu vào 9 giờ 15 phút sáng. Tướng Rotmistrov tung 430 xe tăng và pháo tự hành vào chính diện mặt trận, theo sau là 70 xe tăng khác.[21] Đợt tấn công vỗ mặt này nhanh chóng trở thành một thảm họa đối với Hồng quân Xô Viết vì một lượng lớn máy bay ném bom bổ nhào Junkers Ju 87 “Stuka”, tiêm kích mang bom Focke-Wulf Fw 190 và máy bay cường kích chống tăng Henschel Hs 129 trang bị các khẩu BK 37 Bordkanone 37 ly của không quân Đức đã nhanh chóng có mặt tại chiến trường và cơn cuồng phong hỏa lực của các máy bay này ngay lập tức chụp lên đầu các xe tăng Liên Xô.[21] Hỏa lực của pháo binh và xe tăng Đức càng khiến tình hình thêm tồi tệ và rõ ràng, đòn tấn công vỗ mặt này thất bại nhanh chóng. Chiến trường bị bao phủ bởi một làn khói dày dặc bốc lên từ các xe tăng Liên Xô bị bắn hỏng, gây khó khăn cho cả 2 bên trong việc quan sát. Thêm vào đó, lực lượng tăng thiết giáp Liên Xô do không lường được sẽ gặp phải sức kháng cự quyết liệt của quân Đức đã sơ ý bố trí các thùng nhiên liệu ngay tại khoang máy – điều này đã khiến các xe tăng Liên Xô dễ dàng bị phá hủy bởi các khẩu pháo 37 ly.[21] Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn xe tăng số 31 của Quân đoàn xe tăng số 29 đã báo cáo như sau: “Chúng tôi đã chịu nhiều thiệt hại về xe tăng trước hỏa lực pháo binh và không quân của quân địch. Lúc 10 giờ 30 phút xe tăng của chúng tôi đã đến được nông trường quốc doanh “Komsomolets” nhưng do không quân địch liên tục oanh kích mà chúng tôi không thể tiến xa hơn nữa và phải chuyển sang trạng thái phòng ngự”.[21] Tổng cộng Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5, (các quân đoàn xe tăng 18, 29) và Quân đoàn xe tăng 2 của Hồng quân đã để mất 341 xe tăng trong đợt tấn công đầy thảm họa vào buổi sáng.[22]
Một trong những nguyên nhân dẫn đến những thiệt hại nặng nề của Hồng quân chính là hệ thống liên lạc giữa các lực lượng trên không và lực lượng mặt đất tỏ ra không hiệu quả.[23] Không quân Xô Viết không phản ứng đủ nhanh để ngăn chặn các hành động bất ngờ của đối phương. Hơn nữa, các tập đoàn quân không quân số 2 và số 17 bị hút vào hướng tấn công của Quân đoàn xe tăng 48 (Đức) mà sao nhãng việc yểm hộ cho các lực lượng mặt đất tại nơi Quân đoàn xe tăng 2 SS tấn công, điều này khiến các lực lượng không quân của phát xít Đức rảnh tay tiêu diệt xe tăng Liên Xô.[21] Chỉ huy của quân đoàn xe tăng số 31 báo cáo: “Lực lượng không quân yểm hộ cho chúng tôi hoàn toàn vắng mặt mặt tại chiến trường cho tới tận lúc 1 giờ chiều”.[23] Còn tư lệnh Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5, tướng P. A. Rotmistrov thì than phiền: “Không quân địch cứ tự do bay lượn trên đầu đội hình quân ta suốt cả trận đánh; trong khi đó máy bay của ta – nhất là các máy bay tiêm kích – hoàn toàn không đủ“.[23]
Cuộc chiến giằng co vẫn diễn ra ác liệt trên toàn bộ khu vực tam giác Prokhorovka – Vasilyevka – Storozhevoye kéo dài đến quá trưa với những thiệt hại nặng nề cho cả hai bên nhưng không đi đến kết quả ngã ngũ. Riêng thị trấn Vaslievka đã qua ba lần giành giật giữa hai bên. Làng Bogorodetskoe cũng hai lần chuyển từ tay quân đội Liên Xô sang tay quân Đức và ngược lại chỉ trong hơn 4 giờ. Trên khúc cong của sông Psyol đã có hàng trăm xe tăng bị cháy của cả hai bên phải lao xuống nước để dập lửa. Khi các xe tăng đều cạn kiện nhiên liệu và đạn dược, thì làng Prokhorovka đã trở thành một đấu trường đẫm máu cho các pháo thủ và lái xe tăng của hai bên chiến đấu với nhau bằng súng ngắn, lưỡi lê, dao găm và thậm chí sử dụng cả nắm đấm.[24] Trong trận này, không quân Đức xuất kích hơn 600 phi vụ, trong đó có hơn 400 phi vụ cường kích của máy bay Ju-87 nhằm vào các xe tăng Liên Xô. Các tập đoàn quân không quân 5 và 16 (Liên Xô) cũng đã thực hiện không dưới 1.000 phi vụ, trong đó có hơn 600 phi vụ cường kích IL-2. Có khoảng 50 chiếc IL-2 và tổ lái đã xuất kích từ 7 đến 9 phi vụ trong ngày.[25]
Chiến sự vào buổi chiều
13 giờ chiều, tướng Herman Hoth ra lệnh cho tướng Dietrich von Choltitz, tư lệnh Quân đoàn xe tăng 48 tung Sư đoàn xe tăng 3 có 57 xe tăng Tiger I và 44 xe tăng Pz-IV là lực lượng dự bị chiến dịch cuối cùng vào trận hòng xoay chuyển tình thế. Tuy nhiên, tướng von Choltitz đã hành động quá chậm chạp, mãi đền 14 giờ mới đưa được chủ lực của sư đoàn ra tuyến xuất phát.[26] Trước đó, lúc 13 giờ 30 phút, Quân đoàn xe tăng 10, lực lượng dự bị của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 (Liên Xô) vừa cơ động từ Stary Oskol xuống đã tập kết đầy đủ ở bờ Bắc sông Psyol. Lúc 14 giờ, Quân đoàn này vượt sông đánh tạt sườn Sư đoàn xe tăng 3 (Đức)[27]. Từ nhà ga Aleksandrovka, phía Đông Bắc Prokhorovka 2 km, Nikolai Fyodorovich Vatutin cũng huy động Quân đoàn cơ giới cận vệ 5 và tập trung các xe tăng còn hoạt động được phản công vào các sư đoàn xe tăng Đức đã kiệt sức. Lần này, đội hình xe tăng của Liên Xô không chỉ có xe tăng hạng trung và hạng nhẹ, mà đã có thêm sự hỗ trợ từ các xe tăng hạng nặng IS-1 có vỏ giáp và hỏa lực mạnh hơn hẳn. Các xe tăng Tiger I không thể chịu đựng được hỏa lực bắn thẳng bằng đạn sabot УБР-365П từ pháo nòng dài 85 mm trên xe tăng IS-1 của Liên Xô và phải tháo lui, để lại trên chiến trường hơn 50 chiếc Tiger và PZ-IV. Phía Liên Xô tổn thất 17 chiếc IS-1 và hơn 30 chiếc T-34 do hỏa lực của máy bay cường kích Ju-87, xe tăng và pháo chống tăng Đức.[6]
Lực lượng dự bị của Quân đoàn Xe tăng Cận vệ số 5 đã phải điều xuống phía nam để chống lại cuộc tấn công của Quân đoàn Panzer III. Do mất đi những lực lượng này mà hy vọng đánh bại hoàn toàn quân đoàn Panzer SS II ngay trong buổi sáng đã tiêu tan. Tuy nhiên quân Đức cũng hoàn toàn thất bại trong việc khai thác lỗ thủng mà họ đạt được trong ngày 11 tháng 7. Bất chấp tổn thất nặng nề, các lực lượng xe tăng Liên Xô vẫn giữ vững được trận tuyến. Lúc này Hồng quân đã thay đổi chiến thuật, các trận đấu tăng chủ yếu diễn ra trong những không gian chật hẹp nhằm hạn chế thương vong như trong buổi sáng ngày 12 tháng 7.[24] Trận đấu tăng cuối cùng kéo dài suốt buổi chiều cho đến sẩm tối, khi binh sĩ cả hai bên đều đã kiệt sức, các xe tăng còn sống sót đều cạn dầu và hầu như hết nhẵn đạn dược.[28] Tướng N. F. Vatutin phải hủy bỏ cuộc phản công dự định vào sáng hôm sau vì không còn một quân đoàn xe tăng nào còn đủ cơ số đạn. Trừ quân đoàn xe tăng 10, không một lữ đoàn xe tăng nào còn lại đến 1/3 số xe tăng trong biên chế.[29]
Sáng sớm ngày 13 tháng 7, các sư đoàn xe tăng Đức bị trọng thương và kiệt sức đã rút hết ra khỏi chiến trường. 8 giờ 30 phút, Nguyên soái Zhukov đi thị sát cánh đồng Prokhorovka. Trong suốt chuyến thị sát, ông không nói một câu nào. Tướng Rotmistrov đi tháp tùng Zhukov sau này cho biết ông chưa bao giờ thấy nguyên soái lặng người đi như thế. Còn nguyên soái A. M. Vasilevsky thì bảo rằng kết quả trận đánh để lại cho ông một ấn tượng suốt đời.[30]
Thiệt hại
Đài kỷ niệm chiến thắng của Quân đội Liên Xô trên cánh đồng Prokhorovka.
Bergstrom cho rằng tổn thất của Hồng quân là 5.500 binh sĩ còn của phát xít Đức là 850 quân SS. Không rõ số thiệt hại về xe tăng, nhưng chừng 300 xe tăng và xe bọc thép của Liên Xô và 70-80 xe tăng, xe bọc thép của quân đoàn SS số 2 bị loại khỏi vòng chiến trong đợt tấn công của phát xít Đức[23], và nhiều tài liệu phương Tây coi đây là các con số tổn thất của 2 bên. Tuy nhiên, các số liệu có căn cứ của Viện Dupuy (Hoa Kỳ) và Hãng Rantek (Nga) đã chỉ ra rằng nhiều nhà nghiên cứu mắc sai lầm khi họ dựa vào hầu hết các tài liệu của Đức Quốc Xã vốn chỉ ghi lại được thông tin về Quân đoàn xe tăng 2 SS mà quên rằng tham gia trận đánh này còn có 1 sư đoàn xe tăng và 1 sư đoàn cơ giới của Quân đoàn xe tăng 48 cùng 2 sư đoàn xe tăng của Quân đoàn xe tăng 3; không gian diễn ra trận đánh không chỉ ở trong khu vực thị trấn hẹp Prokhorovka mà còn bao trùm cả một khu vực rộng lớn trong tam giác Prokhorovka – Vasilyevka – Storrozhevye.[6]
Nhà nghiên cứu người Anh Alexander Bevin cho rằng quân đội Đức Quốc Xã tổn thất khoảng 300 xe tăng, còn quân đội Liên Xô mất hơn 400 chiếc.[28] Ý kiến của Bevin được một số nhà nghiên cứu Anh và Hoa Kỳ ủng hộ.[31] Trước đó, chính phía Liên Xô cũng công bố số lượng thiệt hại của quân Đức là 300 xe tăng và pháo tự hành, phía Liên Xô mất khoảng 450 xe thiết giáp các loại.[32] Năm 2007, phía Nga cũng đưa ra con số thiệt hại khoảng 300 xe tăng cho phía Đức Quốc Xã và khoảng 400 xe tăng cho phía Liên Xô.[24] Với các kết quả tổng hợp đầy đủ nhất mà Viện Dupuy (Hoa Kỳ) phối hợp với hãng Rantek (Nga), Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) mất 310 xe tăng, ít hơn phía Liên Xô nhưng tương đương 52,2% số xe tăng và pháo tự hành lúc khởi trận; Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 cùng hai đơn vị phối hợp là Quân đoàn xe tăng 2 và Quân đoàn xe tăng cận vệ 2 mất 388 chiếc nhưng chỉ chiếm 44% tổng số xe tăng và pháo tự hành trước khi bắt đầu trận đánh. Thống kê này tương đối phù hợp với sự thừa nhận của trung tướng xe tăng Liên Xô P. A. Rodmistrov trong báo cáo ngày 14 tháng 7 rằng Quân đoàn đoàn xe tăng 29 mất 60% số xe tăng, Quân đoàn xe tăng 18 mất 30% số xe tăng; tổn thất của Quân đoàn cơ giới cận vệ 5 không đáng kể.[33]
Tuy vậy, số lượng xe tăng của quân đội Liên Xô vẫn còn rất dồi dào do nhận được nguồn bổ sung ngay sau trận đánh, do đó nếu quân Đức cứ tác chiến theo kiểu 4 đổi 5 như trong trận Prokhorovka thì rốt cuộc Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) sẽ hết nhẵn xe tăng. Việc này hiển nhiên đến nỗi thiếu tướng Friedrich Wilhelm von Mellenthin, tham mưu trưởng các lực lượng xe tăng của Cụm tập đoàn quân Nam đã cho rằng, trận Prokhorovka là một trận thua không đáng có của Đức.[26] Bản thân phía Đức không đưa ra con số thiệt hại tổng quát nhưng thừa nhận cuộc tấn công đã hoàn toàn thất bại.[26]
Không chỉ thiệt hại nặng về xe tăng và binh lính, quân đội Đức Quốc Xã còn có thêm thiệt hại đáng kể về sĩ quan chỉ huy cao cấp. Sáng 13 tháng 7, trong khi rút quân, trung tướng Walther von Hünersdorff, chỉ huy Sư đoàn xe tăng 6 (Đức) đã bị một vết thương nhẹ ở đầu do đạn tiểu liên. Đến chiều hôm ấy, sư đoàn xe tăng 6 lại bị không quân Liên Xô oanh tạc và lần này Walther von Hünersdorff tiếp tục bị thương nặng vào đầu, được đưa về bệnh viện Kharkov cứu chữa nhưng không qua khỏi và đã chết ngày 17 tháng 7 năm 1943.[34]
Kết quả
Trong khi thương vong của cả hai phe còn nhiều tranh cãi thì kết quả của trận đánh lại quá rõ ràng. Cả Hồng quân Xô Viết và phát xít Đức đều không đạt được mục tiêu chiến thuật của mình: Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 của Hồng quân đã không thể tiêu diệt được mũi tấn công của phát xít Đức là Quân đoàn thiết giáp SS số 2 hay đánh chiếm những vị trí chiến thuật trong nhiệm vụ của họ; còn lực lượng SS của Đức cũng không tài nào chọc thủng nổi phòng tuyến của Hồng quân dù chịu nhiều thiệt hại nặng. Cả hai đơn vị trên đều chịu tổn thất nặng dù họ vẫn tiếp tục tham gia các chiến dịch vào ngày hôm sau. Có ý kiến cho rằng lẽ ra tổn thất của Hồng quân đã không cao như thế nếu như họ bố trí các xe tăng ở tư thế phòng ngự nhằm tiêu hao sinh lực tấn công của Đức thay vì lao thẳng vào đội hình quân Đức một cách liều lĩnh và thiếu chuẩn bị. Tướng I. S. Konev đã chỉ trích nặng nề về sai lầm này và cho rằng Đại bản doanh đã không tôn trọng quyền quyết định sử dụng các lực lượng xe tăng thuộc Phương diện quân Thảo Nguyên.[35]
Mặt khác, cuộc tấn công dữ dội và bất ngờ của các đơn vị dự bị mạnh của Hồng quân cũng như việc Tập đoàn quân số 9 của Đức phải dừng bước tại cánh bắc vòng cung Kursk trước Chiến dịch Kutuzov đã khiến Adolf Hitler quyết định đình chỉ toàn bộ Chiến dịch Thành trì – dù điều này khiến ông ta “ớn đến tận cổ họng”. Một đợt tấn công đồng thời của Hồng quân Xô Viết nhằm vào Tập đoàn quân số 6 trên sông Mius phía Nam Kharkov đã khiến phát xít Đức phải rút bớt quân về đây. Cuộc tấn công của liên quân Anh-Mỹ vào Sicilia trong đêm 9-10 tháng 7 năm 1943 cũng làm quân Đức phải rút nhiều đơn vị mạnh của mình sang chiến trường Địa Trung Hải và điều này cũng làm tiêu tan luôn mọi hy vọng đạt được thắng lợi ở vòng cung lửa Kursk.
Bất chấp kết quả chiến thuật như thế nào, trận Prokhorovka là một chiến thắng thực sự ở cấp độ chiến dịch cũng như về cả phương diện tinh thần; phát xít Đức cứ ngỡ là họ đã chọc thủng trận tuyến Hồng quân và chỉ còn gặp những ổ kháng cự nhỏ với vài khẩu đội pháo chống tăng – nhưng đối thủ của họ lại là một đội quân hàng trăm chiếc xe tăng và còn hàng trăm chiếc khác đang chờ họ phía sau. Rõ ràng trong trận Prokhorovka quân Đức đã không thể đánh bại được Hồng quân Xô Viết và điều này đã ảnh hưởng tai hại đến các kế hoạch và chiến lược của phát xít Đức sau đó.[36]
Và cũng quá rõ ràng, ưu thế về chất lượng, trình độ sĩ quan chỉ huy cùng với binh sĩ của Đức đã mất hết sau thất bại tại vòng cung Kursk. Các chỉ huy Hồng quân – với những kinh nghiệm vô giá tích lũy được và với sự tự tin sau những thành công to lớn – đã bắt đầu mở những chiến dịch tấn quy mô lớn nhằm quét sạch đối phương ra khỏi lãnh thổ Liên bang Xô viết.[37] Từ sau trận Kursk quyền chủ động chiến lược đã hoàn toàn nằm trong tay Hồng quân Liên Xô.
Chú thích
- ^ Overy 1997, trg 208.
- ^ a ă Overy 1997, trg 210.
- ^ a ă Glantz & House 1995, trg 166.
- ^ Frieser, Karl-Heinz. “Die Schlacht im Kursker Bogen” trong Die Ostfront 1943/44 – Der Krieg im Osten und an den Nebenfronten của Das Deutsche Reich und der Zweite Weltkrieg, vol. viii. Stuttgart: Deutsche Verlags-Anstalt, 2007, trg 132.
- ^ Healy, Mark (1992). Kursk 1943: Tide Turns in the East. London: Osprey. ISBN 978-1-85532-211-0.
- ^ a ă â b c d Dữ liệu về trận Kursk của Viện Dupuy (Hoa Kỳ) và Hãng Rantek (Nga)
- ^ a ă Bellamy 2007, trang 556.
- ^ Glantz 1991, trg 122.
- ^ Glantz 1991, trg 127.
- ^ a ă Zetterling & Frankson 2000, trg 101.
- ^ Zetterling & Frankson 2000, trang 103.
- ^ Bernard Muller HillebrandБ. sự sụp đổ của quân đội Đức Quốc xã. Izograf. Moskva. 2002. Bảng 54 (Мюллер-Гиллебранд. Сухопутная армия Германии 1933—1945 гг. «Изографус», Москва, 2002. Таблица 54)
- ^ a ă Bergström 2007, trang 120.
- ^ Zetterling & Frankson 2000, trang 107.
- ^ a ă Bergström 2007, trang 78.
- ^ a ă Dunn 1997, trang 153.
- ^ Glantz 1995, trg 166-167.
- ^ Glantz & House 1995, trang 166-167.
- ^ Bergström 2007, trang 79-80.
- ^ a ă â b c d Bergstrom 2007, trang 79.
- ^ a ă â b c Bergstrom 2007, trang 80.
- ^ Glantz & House 1995, trang 167.
- ^ a ă â b Bergstrom 2007, trang 81.
- ^ a ă â Замулин Валерий Николаевич, Засекреченная Курская битва. — М.: Яуза; Эксмо, 2007. – Мясорубка на реке Псёл: пехота против танков
- ^ Тимохович Иван Васильевич, Советская авиация в битве под Курском. — М.: Воениздат, 1959
- ^ a ă â Friedrich Wilhelm von Mellenthin, Panzer battles 1939-1945: A study of the employment of armour in the second world war. — 2nd edition, enlarged. — London, 1956.
- ^ Nik Cornish, Image of Kursk-History’s Greatest tank battles, trang 46-49
- ^ a ă Alexander Bevin, How Hitler Could Have Won World War II: The Fatal Errors That Lead to Nazi Defeat. — London, Times Books, 2000
- ^ Замулин Валерий Николаевич, Засекреченная Курская битва. — М.: Яуза; Эксмо, 2007. – Глава 1: Сражение за Прохоровку началось
- ^ Уткин Анатолий Иванович, Вторая мировая война. — М.: Алгоритм, 2002
- ^ Zetterling, Niklas and Anders Frankson. Kursk 1943: A Statistical Analysis. London: Frank Cass, 2000. ISBN 0-7146-5052-8 trang 102, 107-109.
- ^ The Soviet General Staff. The Battle for Kursk, 1943 (xuất bản lần đầu năm 1944), trang 222, 228.
- ^ Ротмистров Павел Алексеевич, Стальная гвардия. — М.: Воениздат, 1984. – Глава 4: Танки против танков
- ^ Veit Scherzer: Die Ritterkreuzträger 1939-1945, Scherzers Militaer-Verlag, Ranis, Jena, 2007, trg 409, ISBN 978-3-938845-17-2
- ^ Конев Иван Степанович, Сорок пятый. — М.: Воениздат, 1970
- ^ Jonathan P. Kluger. REVISITING A “LOST VICTORY” AT KURSK. Louisiana State University. 1995. United States Military Academy, 2003.
- ^ Голованов Александр Евгеньевич, Дальняя бомбардировочная… — М.: ООО «Дельта НБ», 2004. – Десять сталинских ударов
Tài liệu tham khảo
- Bellamy, Chris. Absolute War; Soviet Russia in the Second World War. Pan Books. (2007). ISBN 978-0-330-48808-2
- Bergström, Christer (2007). Kursk – The Air Battle: July 1943. Chervron/Ian Allen. ISBN 978-1-903223-88-8.
- Cross, Robin. Citadel: The Battle of Kursk, Barnes & Noble Edition. (1998).ISBN 978-1-56619-581-2
- Dunn, Walter (1997). Kursk: Hitler’s Gamble, 1943. Greenwood Press Ltd. ISBN 978-0-275-95733-9.
- Glantz, David M. & House, Jonathan. When Titans Clashed; How the Red Army Stopped Hitler. University of Kansas Press. (1995). ISBN 978-0700608990-7
- Glantz, David M. Soviet Military Operational Art; Pursuit of Deep Battle. Frank Cass. (1991). ISBN 0-7146-4077-8
- Glantz, David M. & House, Jonathan. The Battle of Kursk. University Press of Kansas. (1999). ISBN 0-7006-1335-8
- Healy, Mark. (1992). Kursk 1943: Tide Turns in the East. Osprey Publishers, London. ISBN 978-1-85532-211-0
- Overy, Richard. Russia’s War.Pengiun Books. (1997). ISBN 0-14-027169-4
- Zetterling, Niklas and Anders Frankson. Kursk 1943: A Statistical Analysis, London: Frank Cass, (2000). ISBN 0-7146-5052-8
Liên kết ngoài
Tư liệu
- Kursk Reconsidered: Germany’s Lost Victory trên trang Historynet.com.
- Review of Kursk 1943: A Statistical Analysis bản so sánh chi tiết về kế hoạch trận đánh với tư liệu lấy từ các tác phẩm “Kursk: Hitler’s Gamble, 1943″ của Walter Dunn, “Decision in the Ukraine” của George Nipe, “The Battle of Kursk” của David Glantz – Jonathan House và “The Battle for Kursk, 1943″ của Bộ Tổng tham mưu Hồng quân Liên Xô.
- Олейников Г.А. Прохоровское сражение (июль 1943). — СПб.: Нестор, 1998., [1] bản phân tích trận Prokhorovka (tiếng Nga)
- Валерий Замулин. Прохоровка — неизвестное сражение великой войны. М.: АСТ: АСТ МОСКВА: ХРАНИТЕЛЬ, 2006 ISBN 5-17-039548-5 – tài liệu miêu tả các cuộc hành quân và tiến công của quân Đức và Liên Xô trong trận đánh dựa trên các tài liệu của Nga và Đức, với đầy đủ thông số của Hồng quân Xô Viết (tiếng Nga)
Bản đồ tư liệu quân sự
Thể loại:
Vụ án phố Ôn Như Hầu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vụ án phố Ôn Như Hầu là vụ án xảy ra tại Hà Nội năm 1946. Sở Công an Bắc Bộ điều tra và thu thập được nhiều chứng cứ chứng tỏ Việt Nam Quốc dân Đảng âm mưu đảo chính nhằm lật đổ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,[1][2] từ đó đã lập Chuyên án số 7 phố Ôn Như Hầu phá vỡ âm mưu này.[3] Tuy nhiên Việt Nam Quốc dân Đảng và một số sử gia phương Tây cho rằng đây là một vụ việc do Việt Minh dựng lên nhằm triệt hạ đối thủ chính trị của mình là Việt Nam Quốc dân Đảng.[4][5]
Lịch sử
Theo những kết quả điều tra và những kiến giải của Công an Nhân dân Việt Nam trong thời điểm đó, những tổ chức thực hiện kế hoạch đảo chính này do Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng thuộc Mặt trận Quốc dân Đảng Việt Nam phối hợp với thực dân Pháp, dự định tiến hành vào ngày 14/7/1946. Cụ thể hơn, kế hoạch của Việt Quốc và Việt Cách là dự định nhân ngày Quốc khánh nước Pháp (14/7), khi quân đội Pháp sẽ diễu binh trên một số đường phố lớn ở Hà Nội, người của Quốc dân Đảng sẽ ném lựu đạn vào quân Pháp, từ đó tạo cớ cho phía Pháp tấn công bao vây các cơ quan trung ương, bắt cán bộ lãnh đạo và nhân viên Chính phủ, lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhân dịp đó Quốc dân Đảng sẽ tuyên bố đảo chính, lập Chính phủ mới.[6][7] Do lực lượng công an đã điều tra, thu thập thông tin nên sớm phát hiện âm mưu của Việt Quốc, Việt Cách. Ngày 12/7/1946 lực lượng công an nhân dân đã tiến hành khám xét trụ sở bí mật của Quốc dân Đảng ở số nhà 132 phố Duvigneau (nay là phố Bùi Thị Xuân). Cùng ngày, công an tấn công một loạt cơ sở khác của Quốc dân Đảng ở Hà Nội, trong đó có nhà số 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội). Tiếp sau Hà Nội, lực lượng công an nhân dân đã tiến hành khám xét các cơ sở của Việt Quốc, Việt Cách ở Hải Phòng và một số tỉnh khác ở miền Bắc. Trong quá trình khám xét trụ sở của Việt Quốc, Việt Cách, công an đã thu được nhiều vũ khí, truyền đơn, tài liệu, giấy bạc giả, dụng cụ tra tấn… Việc phá vụ án này có ý nghĩa to lớn góp phần củng cố chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới còn non trẻ, để từ đó chuẩn bị bước vào cuộc chiến tranh chống lại sự tái xâm lược của thực dân Pháp trong giai đoạn 1946 – 1954.[7]
Còn theo quan điểm của phía Việt Nam Quốc dân Đảng[8] và các nhà sử học như Cecil B. Currey (Hoa Kỳ),[9] thì kế hoạch này không có thật và đây một vụ việc do phía Việt Minh, dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp, dựng lên nhằm triệt hạ đối thủ chính trị của mình là Việt Nam Quốc dân Đảng. Một số học giả khác như Gisèle Luce Bousquet và Pierre Brocheux (Pháp)[10] thì cho rằng đến nay chưa ai biết sự thật vụ việc này như thế nào.
Bối cảnh
Tháng 8 năm 1945, ngay sau khi Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh, Việt Minh thực hiện cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám giành chính quyền trên cả nước, buộc lực lượng quân quản Nhật và chính quyền các địa phương của Đế quốc Việt Nam bàn giao quyền lực. Các đảng phái khác theo chủ nghĩa quốc gia như Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng… cũng nổi dậy ở một số nơi.[11][cần số trang] Đế quốc Việt Nam không chống lại các lực lượng này mà chấp nhận chuyển giao quyền lực trong hòa bình.[cần dẫn nguồn] Thời điểm này, Việt Minh có những xung đột quân sự với Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng tại một số địa phương ở miền Bắc.[11] Sau khi Việt Minh giành chính quyền từ tay chính quyền Đế quốc Việt Nam thân Nhật tại nhiều địa phương, vua Bảo Đại cũng buộc phải thoái vị; ngày 2 tháng 9 năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại quảng trường Ba Đình.
Khi 20 vạn quân Trung Hoa Quốc dân Đảng (quân Tưởng Giới Thạch) vào Việt Nam giải giáp vũ khí quân Nhật theo sự phân công của phe đồng minh, bộ phận hải ngoại ở Trung Quốc của Việt Nam Quốc dân đảng cũng theo quân Tưởng về Việt Nam.[12] Lực lượng quân đội Trung Hoa Dân Quốc mang theo kế hoạch “Diệt Cộng cầm Hồ” của Tưởng Giới Thạch, nhằm ủng hộ các đảng phái quốc gia thành lập một chính phủ thân Trung Hoa Quốc dân Đảng tại Việt Nam.[13] Để tránh xung đột với 20 vạn quân Tưởng, trong khi không đủ sức nắm toàn bộ chính quyền, Chính phủ Cách mạng Lâm thời đồng ý thiết lập một chính phủ liên hiệp lâm thời, trong đó có sự tham gia của Việt Nam Quốc dân Đảng được quân Tưởng hậu thuẫn.
Hai phe tự xưng là đối lập trong Chính phủ là Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội (Việt Cách) không tham gia bầu cử. Qua trung gian của tướng Trương Phát Khuê (tư lệnh quân đội Trung hoa Quốc dân đảng tại Việt Nam), Chính phủ Cách mạng Lâm thời tạm thời hòa giải với các lực lượng khác. Trong kỳ họp thứ nhất Quốc hội đã đồng ý nhượng thêm 70 ghế và 4 bộ (Ngoại giao, Kinh tế, Xã hội và Canh nông) mà không thông qua bầu cử cho các phái này theo thỏa thuận ngày 24 tháng 12 năm 1945 giữa Chính phủ Cách mạng Lâm thời và hai lực lượng này tại Đại sứ quán Trung Hoa. Nhận định về việc này, Võ Nguyên Giáp cho rằng Việt Quốc và Việt Cách hiểu rõ một cuộc tuyển cử công bằng sẽ không có lợi cho họ[14]
Trên thực tế khi cuộc bầu cử Quốc hội khóa I diễn ra, các đảng này còn phát động tẩy chay bầu cử với tuyên truyền rằng: trúng cử chỉ là Việt Minh cộng sản… chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được[15] đồng thời tổ chức các cuộc tuần hành, bắc loa hô hào kêu gọi tẩy chay bầu cử.[15] Theo báo Sự thật thì Việt Quốc, Việt Cách thậm chí bắt cóc, giết những ứng cử viên, đảng viên cộng sản, cán bộ Việt Minh (tiêu biểu là Trần Đình Long[16]) hay thủ tiêu những người cùng tổ chức có cảm tình với Chính phủ.[17] Ngay trong ngày bỏ phiếu vẫn có các sự việc chống đối xảy ra: Trong ngày tổng tuyển cử, Việt Nam Quốc dân Đảng mang tiểu liên đến Ngũ Xã ngăn không cho đặt hòm phiếu, cấm người dân treo cờ. Người dân Ngũ Xã kéo sang khu phố Nguyễn Thái Học gần đó để bỏ phiếu.[18]
Tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký kết hiệp định với Pháp, cho phép quân Pháp tiến ra miền Bắc Việt Nam, thay thế quân Trung Quốc Quốc dân Đảng, vốn là lực lượng ủng hộ Việt Nam quốc dân Đảng. Ngày 31 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng rời Việt Nam đến Paris để thương lượng về tình hình Việt Nam, Võ Nguyên Giáp ở lại lãnh đạo lực lượng Việt Minh.[19] Ngày 29-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 82-SL về việc ủy nhiệm Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay Chủ tịch Chính phủ đi vắng, ký công văn hàng ngày và chủ toạ họp Hội đồng Chính phủ.[20] Theo Sắc lệnh số 23/SL của Chính phủ ngày 21 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Công an vụ là cơ quan thuộc Bộ Nội vụ, như vậy theo quy định luật pháp thì thẩm quyền chỉ đạo lực lượng công an nằm trong tay của phó chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng.
Sự hiện diện của quân Trung Quốc đã bảo đảm sự tồn tại của Việt Nam quốc dân Đảng và Đồng Minh hội, nhưng họ không thể cạnh tranh được với Việt Minh trên phương diện lãnh đạo, cảm tình của nhân dân và tuyên truyền tập hợp quần chúng. Ngày 19 tháng 6, báo Cứu Quốc của Việt Minh đăng một bài xã luận lên án mạnh mẽ “bọn phản động phá hoại” hiệp định ngày 6 tháng 3. Ngay sau khi quân đội Tưởng Giới Thạch rút về nước, Võ Nguyên Giáp hối hả hành động ngay. Mục tiêu rải khắp nơi: Việt Quốc, Việt Cách, Đồng minh hội (được Tưởng Giới Thạch ủng hộ), Đại Việt (thân Nhật Bản), những người Trotskyist, lực lượng chính trị mang tên “chiến sĩ Công giáo“… Võ Nguyên Giáp tiêu diệt tất cả các đảng phái này bằng lực lượng công an và quân đội do Việt Minh kiểm soát với sự giúp đỡ của nhà cầm quyền Pháp. Ông cũng sử dụng các sỹ quan Nhật Bản tình nguyện phục vụ Việt Minh do có chung mục tiêu “chống bọn da trắng” và một số vũ khí do Pháp cung cấp cho chiến dịch này.[4] Một trong những sự kiện nổi tiếng nhất trong chiến dịch tiêu diệt các đảng phái đối lập là vụ án phố Ôn Như Hầu.
Lực lượng trinh sát thuộc Nha Công an đã điều tra Việt Quốc, Việt Cách; phát hiện các tổ chức này câu kết với Pháp dự định lật đổ chính phủ, bắt cóc, tra tấn, giết người, tàng trữ vũ khí, in truyền đơn chống chính phủ… Sau khi báo cáo và được sự đồng ý của Trường Chinh, Hội trưởng Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, đã tiến hành bao vậy, khám xét tại các trụ sở của Việt Quốc, Việt Cách.[1]
Việt Nam Quốc dân Đảng và sử gia người Mỹ Cecil B. Currey cho rằng: với sự trợ giúp của quân Pháp, chính Võ Nguyên Giáp là người đã chỉ huy lực lượng công an và quân đội khám xét và bắt giữ các thành phần chống đối.[4][5] Theo nhà sử học người Mỹ Cecil B. Currey, ngày 15 tháng 6, Võ Nguyên Giáp bắt đầu chỉ huy lực lượng an ninh khám xét các tổ chức có thể đe dọa đến Chính phủ.[19] Còn theo sử gia Trần Trọng Kim thì khi được hỏi về công việc, bộ trưởng Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng đã nói với ông: “Bây giờ việc gì cũng do địa phương tự trị cả, thành ra không có việc gì mấy, và khi có việc gì, thì họ làm sẵn xong cả rồi, tôi chỉ có vài chữ ký mà thôi“.[21] Theo Nguyễn Duy Thanh thì “Bộ trưởng Bộ Cứu tế Xã hội chẳng hạn chẳng có việc gì làm, đi xin việc ở một nhà máy của Nhà nước. Sắc lệnh đầu tiên và cuối cùng của Bộ trưởng Nội vụ buộc phải ký là quy định mọi công dân ra khỏi nhà phải mang theo giấy thông hành.“.[22]
Hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng
Sau khi 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch kéo vào Việt Nam, đội quân này đi tới đâu là giải tán chính quyền Việt Minh tới đó và trao lại quyền quản lý cho các thành viên Việt Nam Quốc dân đảng. Theo Võ Nguyên Giáp kể lại: “Bọn chúng (Việt Nam Quốc dân đảng) đã sống ở nước ngoài (Trung Quốc) quá lâu, vốn không còn liên hệ gì với trong nước. Chúng đội lốt chủ nghĩa quốc gia nhưng chính là một bọn phản động lệ thuộc vào Trung Hoa Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch và sức mạnh quân sự của chúng chỉ để nhặt nhạnh chút cơm thừa canh cặn”. Thiếu tá Mỹ thuộc OSS và là bạn của tướng Giáp, Al Patti cũng cùng quan điểm. Sau khi thảo luận với các đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng, ông cho rằng họ không biết phải làm gì để đáp ứng nhu cầu của nhân dân, không một ai có khái niệm về công việc sẽ làm mà chỉ chăm chăm mục tiêu “chia sẻ quyền lực với Việt Minh”. Ông ta nhận xét: “Họ (Việt Nam Quốc dân Đảng) là những kẻ lạc hướng về chính trị, có lẽ vì sống quá lâu ở Trung Quốc”.[23] Còn theo sử gia Trần Trọng Kim Việt Quốc, Việt Cách tuy có thế lực nhờ quân đội Trung Hoa Dân Quốc hỗ trợ, nhưng không thống nhất và không có kỷ luật chặt chẽ,[24] tuyên truyền nhiều mà không làm được việc gì đáng kể.[25]
Trong khi giải giáp vũ khí của quân Nhật tại phía Bắc vĩ tuyến 16, quân Trung Hoa Dân Quốc đã chuyển giao cho Việt Nam Quốc dân đảng và các đảng phái đối lập với Việt Minh hàng tấn vũ khí thu gom được của Nhật. Với số vũ khí này và được Trung Hoa Dân Quốc “bật đèn xanh”, Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng đã tổ chức các đội vũ trang mang tên “Thần lôi đoàn”, “Thiết huyết đoàn”, “Hùm xám”… Các đội vũ trang này đã tổ chức nhiều vụ cướp có vũ trang, bắt cóc, tống tiền, tổ chức ám sát những người theo Việt Minh và cả những người trung lập như ông Ba Viên rồi tuyên truyền đổ lỗi cho Việt Minh đã không đảm bảo được an ninh trật tự ở Hà nội và một số đô thị ở Bắc Bộ.[3]
Điều tệ hại nhất theo quan điểm của Việt Minh là quân Trung Hoa Dân Quốc gây sức ép để thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng được nắm những ghế quan trọng trong chính phủ.[26] Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 và cuộc bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946, Việt Nam Quốc dân đảng được giữ hơn 40 ghế trong số 70 ghế đại biểu không phải qua bầu cử trong Quốc hội khóa I và có một số thành viên chủ chốt tham gia lãnh đạo Quốc hội và Chính phủ do Quốc hội khóa I bầu ra như Nguyễn Hải Thần (Phó chủ tịch Quốc hội), Trương Đình Tri (Bộ trưởng Y tế). Tuy nhiên chức trách các Bộ cũng thay đổi. Bộ trưởng Quốc phòng trở thành người lo về tài chính mà không được xem xét danh sách nhân sự, quân số, súng đạn còn các Bộ trưởng khác của các đảng phái Quốc gia chẳng có chức trách cụ thể gì, không bao giờ được tham dự bất cứ buổi họp nào của nội các.[22] Theo hồi ký Những năm tháng không thể nào quên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, do không bằng lòng với vị trí có được, Việt Nam Quốc dân Đảng tìm cách lật đổ Việt Minh để cùng với các đảng phái Việt Cách, Đại Việt… chiếm chính quyền.[27]
Theo Việt Minh, đầu tháng 6 năm 1946, Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức cho Nghiêm Xuân Chi (đảng viên Việt Quốc) ám sát một số lãnh đạo của Việt Minh như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh và ông Bồ Xuân Luật, một người cũ của Việt Cách nay đứng về phe Việt Minh. Vụ ám sát được bố trí tại Nhà Thủy tọa, cạnh Hồ Gươm, đối diện với nhà số 8 đường Vua Lê (nay là phố Lê Thái Tổ) một trong những nơi ăn nghỉ của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi Nghiêm Xuân Chi chưa kịp ra tay thì đã bị tổ trinh sát của Sở Công an Bắc Bộ do Nguyễn Bá Hùng chỉ huy khống chế. Khám người Nghiêm Xuân Chi, Công an Bắc bộ thu được hai khẩu súng ngắn với 12 viên đạn trong ổ đạn. Mỗi khẩu đều có một viên đã lên nòng. Tại trụ sở Công an Bắc bộ (số 87 đường Gamberta, nay là phố Trần Hưng Đạo), Nghiêm Xuân Chi khai nhận đã được các lãnh tụ Việt Nam Quốc dân đảng giao nhiệm ám sát một số lãnh đạo Việt Minh[28]
Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn, sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại: “Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại… Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn”. Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá các cuộc biểu tình này. Khi có lộn xộn, lính Trung Quốc bắn chỉ thiên, xông vào giải tán đám biểu tình để vãn hồi trị an. Việt Nam Quốc dân Đảng hoảng hốt khi người Trung Hoa không giúp được gì nhiều trong việc chống lại Việt Minh như họ mong đợi. Ông Nguyễn Duy Thanh, một người theo chủ nghĩa quốc gia buồn rầu nhớ lại: “Không có Trung Hoa ủng hộ, những đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia chẳng thể đối phó được với những người Cộng sản”[29]
Trước những hoạt động gây mất trật tự an ninh tại Hà Nội và một số thành phố ở Bắc Bộ, Sở Công an Bắc Bộ đã lập chuyên án mà sau này được lấy tên công khai là Chuyên án số 7 phố Ôn Như Hầu.[3]
Diễn biến
Theo Công An nhân dân Việt Nam
Chỉ đạo phá án
Theo lời kể của Đại tá Trần Tấn Nghĩa (lúc đó là Đội trưởng Đội trinh sát đặc biệt của Sở Công an Bắc Bộ), cuối tháng 6/1946, Nha Công an Trung ương nhận được nguồn tin của cơ sở phát hiện được âm mưu của thực dân Pháp câu kết với Quốc dân Đảng đang chuẩn bị thực hiện âm mưu đảo chính chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.[1] Sau khi xin ý kiến trung ương về âm mưu của Quốc dân Đảng, Trường Chinh, Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc bấy giờ lấy tên gọi mới là Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương) đã cho ý kiến chỉ đạo phải tập trung trấn áp bọn phản cách mạng, nhưng phải có đủ chứng cứ. Nha Công an Trung ương cử trinh sát điều tra và thu thập được nhiều chứng cứ chứng minh các hành vi tội ác của Quốc dân Đảng. Cụ thể là Quốc dân Đảng đang ráo riết in tài liệu, truyền đơn phản động, bắt giết cán bộ… để thực hiện âm mưu đảo chính.[1] Một cuộc họp của Nha Công an kéo dài đến 12h đêm ngày 11/7/1946 đã đi đến quyết định phải bí mật, bất ngờ tập kích các trụ sở của chúng ở số 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều), số 132 phố Duvigneau (nay là phố Bùi Thị Xuân và số 80 phố Quán Thánh.[1][30]
Chỉ đạo trực tiếp lực lượng công an phá vụ án này là các ông Lê Giản (Giám đốc Nha công an Trung ương[31]), Nguyễn Tuấn Thức (Giám đốc Sở Công an Bắc Bộ) và Nguyễn Tạo (Trưởng nha Điệp báo Công an Trung ương).[32] Lực lượng công an xung phong tổ chức khám xét căn nhà nhằm phá vỡ âm mưu câu kết của Đại Việt và Việt Nam Quốc dân Đảng với quân đội Pháp. Âm mưu của hai đảng này nhằm khi quân Pháp diễu binh mừng Quốc khánh Pháp ngày 14 tháng 7, sẽ ném lựu đạn vào đoàn lính da đen duyệt binh, sau đó Pháp sẽ vu cho chính quyền Việt Nam tấn công quân Pháp, tạo cớ cho Pháp bao vây các cơ quan trung ương, bắt cán bộ lãnh đạo và nhân viên chính phủ, lật đổ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhân dịp đó Đại Việt và Quốc dân Đảng sẽ tuyên bố đảo chính, lập chính phủ mới.[7][33]
Khám xét trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng tại số 7 Ôn Như Hầu
Ngày 12/7/1946, vào khoảng bảy giờ sáng, Đội trinh sát đặc biệt ngồi trên chiếc ôtô hòm từ Sở Công an Bắc Bộ (Công an Hà Nội bây giờ) theo đường Trần Bình Trọng đến Ôn Như Hầu. Theo kế hoạch, Trần Tấn Nghĩa mang theo mệnh lệnh sự vụ để thực hiện nhiệm vụ bắt, khám xét những người có mặt tại trụ sở số 7 phố Ôn Như Hầu can tội tống tiền, bắt cóc người đưa về Sở Công an Bắc Bộ. Khi Đội trinh sát đặc biệt đến thì lực lượng Công an xung phong và tự vệ chiến đấu đã bao vây trụ sở. Trần Tấn Nghĩa xuống xe và ra hiệu cho toàn đội trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Việc đầu tiên là cắt dây điện thoại để không lực lượng Quốc dân Đảng liên lạc với nhau. Trần Tấn Nghĩa tiến sát đến cổng (lúc đó có khoảng một tiểu đội lính gác vũ khí đầy đủ và trên hành lang cũng có nhiều lính có vũ khí) gọi người bên trong mở cổng, đón tiếp Sở Công an Bắc Bộ đến nói chuyện với chỉ huy.[1]
Phan Kích Nam tiếp Trần Tấn Nghĩa. Trần Tấn Nghĩa xưng tên, chức vụ, nói rõ đến bắt, khám xét đưa những người có mặt ở số 7 Ôn Như Hầu về Sở Công an Bắc bộ để xét hỏi, vì có nhiều đơn tố cáo hành động bắt cóc, tống tiền. Phan Kích Nam từ chối đi theo Trần Tấn Nghĩa với lý do là Đại biểu Quốc hội nên có quyền bất khả xâm phạm. Trong khi đó người ký lệnh bắt Phan Kích Nam là Phó chủ sự của Việt Minh.[1] Hơn nữa đây là trụ sở một Đảng nên không thể tùy tiện khám xét. Phải có ý kiến của Hồ Chí Minh thì mới có thể bắt ông được. Trần Tấn Nghĩa rút lui.
Lần thứ hai, Trần Tấn Nghĩa đến số 7 phố Ôn Như Hầu. Theo kế hoạch đã được cấp trên chấp thuận, Trần Tấn Nghĩa sẽ mời Phan Kích Nam về trụ sở công an trước, rồi sau đó thực hiện khám xét và bắt lực lượng Quốc đân đảng còn lại. Phan Kích Nam tiếp Trần Tấn Nghĩa và khuyên Trần Tấn Nghĩa quay về báo cáo với cấp trên rằng công an không có quyền bắt ông.[34] Sau đó Trần Tấn Nghĩa ra về.
Lần thứ ba Trần Tấn Nghĩa quay lại số 7 Ôn Như Hầu khoảng 10h30, một vệ sĩ chờ sẵn để đưa ông vào gặp Phan Kích Nam. Khi vào Trần Tấn Nghĩa chủ động tháo thắt lưng đeo súng đặt trên bàn. Phan Kích Nam rót nước mời ông. Một lát, Trần Tấn Nghĩa tỏ ra buồn bực và đứng dậy cáo biệt, rút lui, vờ quên súng ở bàn. Phan Kích Nam vội vàng cầm súng của ông theo và bảo: “Này chú em, chú quên súng này”. Nhanh như cắt, Trần Tấn Nghĩa rút khẩu colt được giấu dưới áo khoác, chĩa thẳng nòng súng vào đầu Phan Kích Nam và dõng dạc quát: “Đứng im, động đậy tao bắn vỡ sọ” và bằng động tác nhanh gọn, lấy mu bàn tay trái chặt vào gáy Phan Kích Nam. Phan Kích Nam lảo đảo rồi khuỵ xuống. Trần Tấn Nghĩa bẻ quặt tay Phan Kích Nam ra đằng sau và ra lệnh tất cả phải bỏ súng, không được chống cự. Phan Kích Nam phải làm theo lệnh của Trần Tấn Nghĩa. Sau đó Trần Tấn Nghĩa lệnh cho đội trinh sát và các lực lượng khác theo đúng kế hoạch xông vào bắt xích tay tất cả người của Quốc dân Đảng về Sở Công an Bắc Bộ.[1]
Kết quả khám xét số 7 Ôn Như Hầu
Khi khám xét số 7 – Ôn Như Hầu ngày 12 tháng 7, Công an Bắc Bộ thu được 8 súng ngắn, 5 súng trường và 1 trung liên Nhật, dụng cụ tra tấn, thuốc mê và đào được 6 xác người chôn đứng trong vườn chuối sau nhà. Tuy nhiên, trụ sở hành chính của Việt Nam Quốc dân đảng tại số 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều) chỉ là bình phong để che đậy hai căn cứ quan trọng hơn của Việt Nam Quốc dân đảng trong nội thành Hà Nội khi đó là nhà số 132 phố Duvigneau (nay là phố Bùi Thị Xuân) và nhà số 80 phố Quán Thánh. Cuộc bắt, khám xét tại 132 – Duvigneau và 80 Quán Thánh diễn ra cùng thời điểm với vụ bắt, khám xét ở số 7 – Ôn Như Hầu. Tại nhà số 132 phố Duvigneau, Nha Công an Bắc Bộ thu giữ nhiều tang vật gồm 6 máy in tipo với các “bát chữ” còn nguyên vẹn nội dung; 11 mặt đá in lito đã khắc chữ; trên 3 tạ truyền đơn, khẩu hiệu; tài liệu chống Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa in xong còn chưa kịp chuyển đi; 18,6 kg tiền giả (gồm cả giấy bạc Quan Kim và giấy bạc Đông Dương); 12 khẩu súng ngắn, 8 khẩu tiểu liên, 17 súng trường, 3 trung liên FM và 13 quả lựu đạn Nhật. Khám xét tại nhà số 80 phố Quán Thánh, Công an Bắc Bộ thu được 9 súng ngắn, 21 súng trường, 2 trung liên Nhật, 11 quả lựu đạn các loại, hai thùng tài liệu, truyền đơn chống chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quân Pháp tại Hà Nội đã điều xe tăng đến can thiệp vào vụ bắt, khám xét tại 80 phố Quán Thánh nhưng Việt Minh đã tiến hành đàm phán trên cơ sở Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1945. Trưa ngày 12 tháng 7, xe tăng và quân Pháp rút khỏi phố Quán Thánh.[35]
Ngoài ra lực lượng công an đã tìm ra một máy làm tiền giả và một căn phòng với bức tường đẫm máu và nhiều dụng cụ tra tấn. Trong khu vườn sau nhà đã khai quật được bảy xác chết, một số đã bị chặt chân tay. Hai người bị bắt cóc tống tiền được cứu kịp thời trước khi bị giết. Trong lúc công an đang tiếp tục tìm kiếm, một người mang kiếm Nhật đi vào và la hét ông chính là lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân Đảng và là một đại biểu Quốc hội và nói rằng không ai có quyền đụng chạm ông. Một trong những người bị bắt cóc trỏ ngón tay vào ông ta và cho rằng hắn chính là kẻ đã bắt cóc ông.[36] Ngay sau đó mấy ngày, lực lượng công an đã tổ chức triển lãm công khai các vật chứng tại căn nhà.
Khám xét trụ sở đảng Đại Việt tại số 132 Duvigneau
Cũng trong ngày 12/7/1946, một tiểu đội công an do Lê Hữu Qua chỉ huy[37] bao vây khám xét trụ sở của đảng Đại Việt tại số 132 Duvigneau, do phát hiện Đại Việt cấu kết với Pháp âm mưu tiến hành đảo chính chính quyền cách mạng đúng vào ngày quốc khánh Pháp 14/7/1946.[38] Khi thực hiện cuộc bao vây khám xét này, lực lượng công an chưa có chứng cứ cụ thể và chưa có lệnh của cấp trên. Nhưng vẫn thực hiện bao vây khám xét để các thành viên Đại Việt không có thời gian rút vào bí mật và tẩu tán truyền đơn, hiệu triệu lật đổ chính quyền. Lực lượng công an tiến hành đột kích bất ngờ vào lúc sáng sớm khiến lính canh và các đảng viên Đại Việt không kịp có hành động phản ứng.[37] Tại trụ sở của Đại Việt, lực lượng công an đã tìm thấy nhiều truyền đơn, hiệu triệu chưa kịp tẩu tán cùng nhiều súng ống, lựu đạn.[38]
Các sự kiện có liên quan
Ngày 13 tháng 7, tướng Morlière, tư lệnh các lực lượng Pháp tại Hà nội đã cử sĩ quan tùy tùng đến trụ sở chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Bắc Bộ Phủ thông báo việc người Pháp rút đề nghị tổ chức cuộc diễu binh của quân Pháp tại Hà Nội do nhận thấy không bảo đảm an toàn. Tại dây, viên tùy tùng của tướng Morlière được đại diện Chính phủ Việt Nam thông báo rằng Việt Minh sẽ tổ chức cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội và một số con phố quanh Hồ Gươm để chào mừng kỷ niệm ngày Cách mạng Pháp 14-7-1789. Tất cả những chứng cứ, tang vật, truyền đơn, khẩu hiệu, ảnh chụp những xác chết, những hố chôn người… mà Công an Bắc Bộ thu tập được trong Vụ án phố Ôn Như Hầu đều được trưng bày cho toàn thể nhân dân Hà Nội được biết trong cuộc mít tinh diễu hành này.[28]
Theo Việt Nam quốc dân Đảng và một số học giả nước ngoài
Sau nhiều lần bị Việt Minh tấn công, Việt Nam Quốc dân Đảng đã rút lui về phía bắc, nhưng vẫn giữ một trụ sở bí mật ở Hà Nội tại số 7 (theo lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng Hoàng Văn Đào là số 9) phố Ôn Như Hầu (tên tiếng Pháp là rue Bonifacy,[39] nay số 7 phố Nguyễn Gia Thiều). Trước kia căn nhà này được quân đội Trung Quốc sử dụng, nhưng đã được trao cho Việt Nam Quốc dân Đảng.[40] Tầng một tòa nhà này là nơi huấn luyện chính trị cho những đảng viên nòng cốt của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Tầng hai là Văn phòng Tiểu ban Tuyên truyền và Giáo dục Ðệ Thất Chiến Khu Việt Nam Quốc Dân Đảng được dời từ Quảng Ngãi về Hà Nội.[5]
Cuối tháng 6 tại Hà Nội, các thành viên Việt Quốc họp để thảo luận về việc có nên thừa nhận sự lãnh đạo của Việt Minh, rút lui về biên giới hay tổ chức đảo chính lật đổ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong khi đó, Trương Tử Anh, đảng trưởng Đại Việt Quốc dân Đảng là đồng minh của Việt Quốc, đang lên kế hoạch cho một cuộc đảo chính có thể bắt đầu bằng việc tấn công lính Pháp để gây rối loạn. Người Pháp lại có ý định diễu binh quanh hồ Hoàn Kiếm để kỷ niệm Quốc khánh Pháp (14/7/1789) khiến lực lượng an ninh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lo ngại sự kiện này có thể trở thành mục tiêu của các đảng phái đối lập với Việt Minh. Võ Nguyên Giáp hỏi ý kiến của chỉ huy quân Pháp tại Bắc Kỳ, đại tá Jean Crépin về thái độ của Pháp nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tăng cường trấn áp Việt Quốc và Việt Cách thì được ông này trả lời Pháp sẽ không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[41]
Theo David G. Marr, sáng sớm ngày 12/7/1946, công an tấn công một khu nhà và được cho là đã phát hiện một bản kế hoạch có chữ ký của Trương Tử Anh, theo đó Đại Việt sẽ quăng lựu đạn vào lính Pháp gốc Phi trong ngày diễu binh của quân đội Pháp, tiếp đó quân đội Đại Việt hoặc quân đội Pháp sẽ bắt giữ những lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cuối cùng Trương Tử Anh sẽ công bố thành lập chính phủ mới. Lê Giản, Giám đốc Nha Công an Bắc bộ, đưa tài liệu này cho Quyền chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng. Tài liệu này là một bản dự thảo do Trương Tử Anh viết tay chỉ để sử dụng trong Đại Việt Quốc dân Đảng. Lê Giản không cung cấp được bằng chứng về sự thông đồng của Pháp với Đại Việt Quốc dân Đảng trong kế hoạch đảo chính ngày 14/7/1946 ngoài việc Sainteny tiếp tục muốn tổ chức diễu binh vào ngày đó. Huỳnh Thúc Kháng đọc rồi nói “Tiêu diệt chúng! Quét sạch toàn bộ! Lũ phản bội! Đồ chó má!“. Lê Giản tìm Võ Nguyên Giáp và được Giáp chỉ thị tấn công tất cả các văn phòng của Việt Quốc ở Hà Nội và các tỉnh.[41]
Bắt đầu từ 7h sáng ngày 12/7/1946, lực lượng công an được sự hỗ trợ của dân quân bao vây thêm 7 tòa nhà tại Hà Nội. Hơn 100 người bị bắt và một số người biến mất không dấu vết. Tại nhà số 7 phố Ôn Như Hầu, công an tìm thấy một tù nhân bị trói, dụng cụ tra tấn và 7 xác chết được chôn sơ sài ở sân sau. Sau đó hàng trăm người đến xem mà không bị ngăn cản. Họ quan sát, khóc lóc hoặc lớn tiếng lên án Việt Nam Quốc dân Đảng.[41]
Nhà nước sau đó thông báo sự việc với báo chí. Các cuộc tấn công được gọi tắt là “Vụ án phố Ôn Như Hầu”. Các báo của Việt Minh và các đảng phái thân Việt Minh đều tường thuật vụ án này. Các báo đưa tin công an đã phá tan âm mưu chống chính phủ, đã bắt những kẻ tiến hành những vụ bắt cóc tống tiền, ám sát, bán nước, in truyền đơn chống chính phủ, làm bạc giả… Tuy nhiên Việt Quốc đã không bị kể tên trong một số bài báo.[41]
Theo Hoàng Văn Đào, Võ Nguyên Giáp được một nhân viên an ninh báo cáo rằng khi anh ta bị bắt tại trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng tại phố Ôn Như Hầu đã nghe được tin ngày 14/7/1946 Việt Nam Quốc dân Đảng sẽ ám sát những đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Pháp mời tham dự lễ duyệt binh mừng Quốc khánh Pháp. Võ Nguyên Giáp đã đem chuyện này báo cho người Pháp biết sau đó tổ chức tấn công Việt Nam Quốc dân Đảng.[5] Khoảng 8 giờ tối ngày 12 tháng 7, lực lượng công an theo chỉ đạo của Trường Chinh, lúc này là Hội trưởng Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương,[42] đã tổ chức khám xét căn nhà này và tìm thấy hố chôn tập thể và phòng tra tấn.[40]
Theo Hoàng Văn Đào, đây là những binh sĩ Trung Hoa Dân Quốc chết và được Trung Quốc chôn trong sân ngôi nhà trước khi được Việt Nam Quốc dân Đảng sử dụng làm văn phòng.[5] Còn theo nhà sử học quân sự người Mỹ Cecil B. Currey trong quyển tiểu sử Võ Nguyên Giáp Victory at any Cost cho rằng việc này là do chính Võ Nguyên Giáp dựng lên. Sau khi chiếm lấy căn nhà, Võ Nguyên Giáp đã cho người xây dựng căn phòng tra tấn, đào lên xác chết trong mộ và đặt vào trong căn nhà, rồi tuyên bố đã khám phá ra hố chôn tập thể của người bị Việt Nam Quốc dân Đảng dã man giết chết.[4] Currey cũng cho rằng, nhiều xác chết thực ra chính là thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng bị lực lượng an ninh của Võ Nguyên Giáp giết chết.[4] Tóm lại, Hoàng Văn Đào và Currey cho rằng số 7 Ôn Như Hầu chỉ là nơi làm việc bình thường của Việt Nam Quốc dân Đảng, lực lượng công an dưới sự chỉ đạo của Võ Nguyên Giáp đã tấn công nơi này trong lúc Việt Nam Quốc dân Đảng không đề phòng sau đó dựng hiện trường giả để có cớ tiêu diệt Việt Nam Quốc dân Đảng.[4][5]
Hoàng Văn Đào thừa nhận Việt Nam Quốc Dân Đảng đã từng bắt cóc giết người, nhưng sẽ không bao giờ hành hình 7 người rồi chôn xác ngay tại trụ sở; họ có thể dễ dàng đeo các tảng đá lớn vào xác chết rồi ném xuống Hồ Thiền Quang ở gần đó.[43]
Đánh giá
Đối với lực lượng Công an nhân dân Việt Nam, đây là thắng lợi lớn trong công tác bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, bảo vệ nhân dân, góp phần quan trọng trong việc chuẩn bị bước vào cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954).
Ngoài các ý kiến, tư liệu chính thống, còn có các ý kiến, tài liệu trái chiều của Việt Quốc, Việt Cách và các nhà nghiên cứu nước ngoài.
Soạn giả Mỹ Arthur J. Dommen coi vụ án này tương tự như những sự kiện trong cuộc cách mạng Nga. Theo ông, vào mùa hè năm 1918, khi dân chúng đã mất tin tưởng về sự lãnh đạo của khối Bolshevik, Ban chấp hành Trung ương Đảng Xã hội Cách mạng Cánh tả (Menshevik) quyết định dùng khủng bố và ám sát giới chức cao cấp của nước Đức nhằm làm chấm dứt Hòa ước Brest-Litovsk, tương tự như kế hoạch của Việt Nam Quốc Dân đảng tấn công và ám sát quan chức Pháp nhằm làm chấm dứt Hiệp định sơ bộ. Lenin đã dùng vụ ám sát đại sứ Đức Wilhelm von Mirbach do nhóm Menshevik thực hiện làm lý do để ra tay tiêu diệt mầm mống đối thủ, giống như Việt Minh đã lợi dụng vụ này để loại trừ một đối thủ chính trị là Việt Nam Quốc Dân Đảng.[44]
Nhà sử học Mỹ Cecil B. Currey thì đánh giá: Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh tất cả các đảng phái phải đoàn kết trong mặt trận dân tộc Liên Việt, nhưng đa số các đảng phái đối lập từ chối vì cho rằng những vị trí then chốt đều thuộc về Việt Minh. là một người Marxist-Leninist trung thành, Võ Nguyên Giáp đã quyết định rằng Việt Minh phải hoàn toàn điều khiển bộ máy chính quyền, và “vụ án phố Ôn Như Hầu đã mở nhiều con mắt của những người không tin vào màu đỏ (biểu tượng của phong trào cộng sản) của Việt Minh.”.[9]
Nhà sử học Mỹ David G. Marr nhận định Vụ án phố Ôn Như Hầu chưa bao giờ được nghiên cứu nghiêm túc. Ghi chép nội bộ của Lê Giản về vụ án khiến người ta đặt câu hỏi liệu công an và một số lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương có sử dụng bằng chứng Trương Tử Anh âm mưu đảo chính như cái cớ tấn công và triệt hạ Việt Quốc qua đó ngăn cản Pháp thảo luận với Việt Quốc và tăng cường quyền kiểm soát của Đảng Cộng sản Đông Dương với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Vệ quốc quân không? Nếu thật sự Pháp muốn đảo chính (họ đã cân nhắc và hoãn nhiều lần) thì không cần phải dựa vào Trương Tử Anh khơi ngòi, càng không cho Anh thành lập chính phủ. Công an cố tình lập lờ giữa Đại Việt Quốc Dân Đảng do Trương Tử Anh lãnh đạo và Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Tưởng Tam và Vũ Hồng Khanh lãnh đạo khi nhắm vào tòa soạn Báo Việt Nam và các trụ sở khác của Việt Nam Quốc dân Đảng. Sau cuộc tấn công, có người trong chính quyền đã cố gắng hạn chế những lời lên án công khai Việt Quốc để tuyên truyền về Mặt trận Thống nhất. Việt Quốc trên danh nghĩa vẫn nằm trong mặt trận. Ngoại trừ một vài đảng viên Việt Quốc hợp tác với Việt Minh, mọi công dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ đó trở đi đều sợ hãi khi bị cho là đảng viên Việt Quốc. Việt Quốc đồng nghĩa với tội phản quốc.[41]
Ảnh hưởng
Vụ án phố Ôn Như Hầu đã thay đổi ý kiến của một số người về vai trò của Việt Minh và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Hoàng Xuân Hãn lúc đầu bào chữa cho Việt Nam Quốc Dân Đảng, cho rằng những người bị tra tấn là người giàu, và những người tra tấn là thành viên Trung Hoa Quốc Dân Đảng đóng giả làm Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhưng sau khi được đưa bằng chứng là trong các xác chết có cả Việt Minh, ông lại cho rằng họ là gián điệp.[45] Ông cũng buộc tội Việt Minh đã sát hại Việt Nam Quốc Dân Đảng.[cần dẫn nguồn]
Ngày 16/7/1946, trong một cuộc họp báo, chủ tịch Huỳnh Thúc Kháng phát biểu: “Đoàn kết là cần, nhưng không thể vin vào đoàn kết để làm điều phi pháp… Những kẻ bắt cóc, tống tiền, ám sát thì phải đưa ra trước pháp luật nghiêm trị… Đây không phải vấn đề đảng phái, việc khám xét vừa rồi là việc phải làm để bảo vệ trật tự trị an”.[46] Theo Gisele Bousquet, do không có chứng cớ buộc tội Việt Nam Quốc Dân Đảng, Huỳnh Thúc Kháng đã thay đổi thái độ đối với Việt Nam Quốc Dân Đảng sau vụ này,[40] ông chẳng những cảm thấy ghê tởm đối với vụ án Ôn Như Hầu, mà còn đối với việc Việt Minh lợi dụng việc này để trả thù thành viên Quốc Dân Đảng sau này[45]
Ngày 20/7/1946, Ủy ban Hành chính Bắc Bộ dù không nhắc đến Việt Quốc đã thông báo đến các tỉnh rằng gần đây công an đã phát hiện được việc tống tiền, bắt cóc và làm tiền giả. Tất cả đều phải bị điều tra và truy tố. Ủy ban hướng dẫn các địa phương không để việc bắt bớ và giam giữ các phần tử phản động biến thành khủng bố. Các Ủy ban Hành chính địa phương giờ đã được chấp thuận cho việc bắt giữ các đảng viên Việt Quốc đã bị phát hiện hay còn tình nghi, tuy nhiên họ không săn lùng và hành quyết ngay lập tức. Trong những tháng sau đó, hàng ngàn người bị bắt, bị thẩm vấn. Hàng trăm người bị tống giam, bị đưa đến các trại cải tạo; hàng trăm người khác bị cách chức. Cán bộ phòng chính trị ở công an các tỉnh bắt những kẻ tình nghi, thẩm vấn, bắt ký vào lời khai, sau đó đề bạt lên chính quyền tỉnh là thả, xét xử hay biệt giam những người này.[41]
Chú thích
- ^ a ă â b c d đ e Vụ án Ôn Như Hầu qua lời kể của Đại tá Trần Tấn Nghĩa, Công An Nhân dân 28/8/2005
- ^ Phạm Văn Quyền (chủ biên). 60 năm Công an nhân dân Việt Nam. NXB Công an nhân dân. Hà Nội. 2006. Trang 105-106.
- ^ a ă â Phạm Văn Quyền (chủ biên). 60 năm Công an nhân dân Việt Nam. NXB Công an nhân dân. 2006. trang 104.
- ^ a ă â b c d Cecil B. Currey, Victory at Any Cost: The Genius of Viet Nam’s Gen. NXB thế giới. trang 196-197
- ^ a ă â b c d Viet Nam Quoc Dan Dang: A Contemporary History of a National Struggle: 1927-1954, Hoàng Văn Đào, trang 309, RoseDog Books
- ^ Những chặng đường lịch sử vẻ vang của lực lượng An ninh Nhân dân
- ^ a ă â Báo quân đội nhân dân điện tử – Tiếng vang vụ án Ôn Như Hầu
- ^ Hoàng Văn Đào, Viet Nam Quoc Dan Dang: A Contemporary History of a National Struggle: 1927-1954, Dorrance Publishing, 2008, tr. 309
- ^ a ă Currey, tr. 127
- ^ Gisèle Luce Bousquet, Pierre Brocheux, Viêt Nam Exposé: French Scholarship on Twentieth-century Vietnamese Society, University of Michigan Press, 2002; tr. 236
- ^ a ă Chiến khu Trần Hưng Đạo, Chương 3 – Chiến khu Trần Hưng Đạo trong tổng khởi nghĩa tháng 8 và những tháng đầu bảo vệ chính quyền cách mạng (8/1945-10/1945), Bộ tư lệnh quân khu 3, Nxb Quân đội nhân dân, 1993
- ^ Việt Nam Quốc dân đảng trong thời kỳ thoái trào và biến chất (1930-1954), Nguyễn Văn Khánh, Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 6/410(2010), Viện sử học Việt Nam
- ^ Đại từ điển Bách Khoa
- ^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên“, NXB Trẻ, lưu chiểu tháng 5 năm 2009, trang 99.
- ^ a ă Mãi mãi ghi nhớ Quốc hội khoá I (17/05/2011)
- ^ Theo báo Sự thật, số 14 (20-23/1/1946), thì những người bắt cóc Trần Đình Long mặc quần áo Tàu, nói tiếng Việt. Một ủy viên tuyên truyền UBND tỉnh Yên Bái tên Nguyễn Văn Phúc cũng đã bị bắt cóc, về sau người vợ của ông Phúc đến gặp Nguyễn Hải Thần, và được ông đưa đến gặp Vũ Hồng Khanh để xin thả chồng mình. Ông Vũ Hồng Khanh từ chối và nói buột miệng “Ngay đến ông Long gần đây tôi còn chưa cho thả nữa là”.
- ^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên“, NXB Trẻ, lưu chiểu tháng 5 năm 2009, trang 103.
- ^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, NXB Trẻ, lưu chiểu tháng 5 năm 2009, trang 113.
- ^ a ă Cecil B. Currey, Victory at Any Cost: The Genius of Viet Nam’s Gen. Vo Nguyen Giap, Potomac Books, tr. 125
- ^ III – TỔNG TUYỂN CỬ – THÀNH LẬP CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP KHÁNG CHIẾN
- ^ Một cơn gió bụi, Chương 6 Chính phủ Việt Nam và tình thế trong nước, Trần Trọng Kim
- ^ a ă Cecil B. Currey. Chiến thắng bằng mọi giá. trang 177, NXB Thế giới, 2013
- ^ Cecil B. Currey. CHiến thắng bằng mọi giá. NXB Thế giới. Trang 174
- ^ Một Cơn Gió Bụi, Chương 6: Chính phủ Việt Nam và tình thế trong nước, Trần Trọng Kim
- ^ Một Cơn Gió Bụi, Chương 9: Đi sang Tàu, Trần Trọng Kim
- ^ Cecil B. Currey. Chiến thắng bằng mọi giá. NXB Thế giới. Trang 175
- ^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, NXB Trẻ, 2009. Trang 288-289
- ^ a ă Nguyễn Trọng Khuê (chủ biên). Những trang sử vẻ vang của Công an nhân dân Việt Nam (1945-2005). NXB Công an nhân dân. Hà Nội. 2005. trang 14-16
- ^ Cecil B. Currey. CHiến thắng bằng mọi giá. NXB Thế giới. Trang 177 -178
- ^ Phạm Văn Quyền (chủ biên). 60 năm Công an nhân dân Việt Nam. NXB Công an nhân dân. Hà Nội. 2006. trang 104-106
- ^ Quá trình trưởng thành của lực lượng CAND Việt Nam qua những dấu mốc lịch sử, TS. Bùi Văn Thịnh, Trưởng Bộ môn NVCS – Học viện CSND
- ^ Con trai “ông tiên thuốc nam” phá vụ án Ôn Như Hầu
- ^ Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Tổng tập Hồi ký, Những năm tháng không thể nào quên, NXB Trẻ, 2009, trang 290
- ^ Vụ án Ôn Như Hầu qua lời kể của Đại tá Trần Tấn Nghĩa, Công An Nhân dân 28/8/2005, Trích: Hắn thấy tôi dễ bảo, tỏ vẻ ngoan ngoãn nên mang nước giải khát mời tôi uống và uống cùng. Khuyên tôi quay về báo cáo, hắn nói: “Không ổn đâu. Chú mày cứ nói lại với mấy ông như vậy. Rút lui thôi. Nếu manh động sẽ ăn đạn và sẽ lĩnh trách nhiệm với Quốc hội. Đừng có đến đây nữa”.
- ^ Phạm Văn Quyền (chủ biên). 60 năm Công an nhân dân Việt Nam. NXB Công an nhân dân. Hà Nội. 2006. trang 105-107.
- ^ Giáp tr. 268
- ^ a ă Vụ án phố Ôn Như Hầu, thiếu tướng Lê Hữu Qua, Báo Nhân Dân, ngày 19/8/2005
- ^ a ă Con trai “ông tiên thuốc nam” phá vụ án Ôn Như Hầu, PHÁP LÝ Online
- ^ Boudarel, Georges. Hanoi: city of the rising dragon. Boston: Rowman & Littlefields Publishers, 2002. tr 95
- ^ a ă â Bousquet, tr. 236
- ^ a ă â b c d David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 424-425, California: University of California Press, 2013
- ^ Vụ án Ôn Như Hầu qua lời kể của Đại tá Trần Tấn Nghĩa, Báo Công an Nhân dân Điện tử, 8:40, 28/08/2005, Trích: “Theo ông kể, cuối tháng 6/1946, Nha Công an Trung ương nhận được nguồn tin của cơ sở phát hiện được âm mưu của thực dân Pháp câu kết với bọn phản động Quốc dân Đảng đang chuẩn bị thực hiện âm mưu đảo chính chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau khi xin ý kiến trung ương về âm mưu thâm độc này, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí Thư đảng ta lúc bấy giờ đã cho ý kiến chỉ đạo phải tập trung trấn áp bọn phản cách mạng, nhưng phải có đủ chứng cứ.“
- ^ Georges Boudarel, Nguyễn Văn Ký (2002). Hanoi: City of the Rising Dragon. Rowman & Littlefield. tr. 95.
- ^ Arthur J. Dommen (2001). The Indochinese Experience of the French and the Americans: Nationalism and Communism in Cambodia, Laos, and Vietnam. Indiana University Press. tr. 168–169.
- ^ a ă Bousquet, tr. 237
- ^ Võ Nguyên Giáp – Tổng tập hồi ký. NXB Quân đội nhân dân. Trang 292
Tham khảo
|
Tham chiến |
|
|
Diễn biến |
Nguyên
nhân
|
|
|
1945-1947
|
|
|
1948-1950
|
|
|
1950-1954
|
|
|
|
Chính trị
Ngoại giao |
Ngoại giao
|
|
|
Chính trị
|
|
|
Phong trào
quần chúng
|
|
|
|
Khác |
Chiến lược
quân sự
|
|
|
Ném bom
|
|
|
|
|
|
Tội ác
|
|
|
Hậu quả
|
|
|
|
|
|