Thể loại:
Charlie Chaplin
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Charles Spencer Chaplin (16 tháng 4 năm 1889 – 25 tháng 12 năm 1977), thường được biết đến với tên Charlie Chaplin (hay Vua hề Sác-lô) là một diễn viên, đạo diễn phim hài người Anh trở nên nổi tiếng trong kỷ nguyên phim câm. Chaplin trở thành một hình tượng toàn cầu thông qua nhân vật Tramp (Gã lang thang), thường được xem là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử ngành công nghiệp điện ảnh.[2] Sự nghiệp của ông kéo dài trên 75 năm, từ tuổi thơ trong kỷ nguyên Victoria cho đến một năm trước khi qua đời ở tuổi 88, đem lại nhiều lời tán dương cũng như tranh cãi.
Tuổi thơ của Chaplin ở London cực kỳ khổ cực và nghèo đói. Cha bỏ mặc gia đình, để mẹ ông chật vật kiếm tiền, ông đã hai lần bị gửi vào trại tế bần trước khi lên 9. Năm Chaplin 14 tuổi mẹ ông phải vào trại tâm thần. Chaplin bắt đầu trình diễn khi còn nhỏ tuổi, lưu diễn ở các rạp hát và sau đó trở thành một diễn viên sân khấu, một nghệ sĩ hài. Ở tuổi 19 ông gia nhập công ty danh tiếng Fred Karno, và có chuyến đi đầu tiên tới Hoa Kỳ, nơi phát triển sự nghiệp của ông.
Chaplin bắt đầu tham gia đóng phim, và trình làng với phim Making a Living (1914) của Keystone Studios. Chaplin sớm hình thành nhân vật Tramp và tạo nên một lượng người hâm mộ lớn. Ông trở thành đạo diễn cho các bộ phim mình đóng, và ngày càng thành thục trong vai trò này khi chuyển tới các tập đoàn Essanay, Mutual, và First National. Tới năm 1918, Chaplin đã trở thành một trong những nhân vật nổi danh nhất trên thế giới.
Năm 1919, Chaplin đồng sáng lập công ty United Artists để kiểm soát hoàn toàn quy trình sản xuất phim của riêng mình. Phim thời lượng dài đầu tiên của ông là The Kid (1921), rồi đến A Woman of Paris (1923), The Gold Rush (1925), and The Circus (1928). Ông từ chối chuyển sang làm phim có tiếng vào những năm 1930, thay vào đó tiếp tục sản xuất các phim câm City Lights (1931) và Modern Times (1936). Ông trở nên ngày càng quan tâm tới chính trị và phim tiếp đó của ông The Great Dictator (1940), nhắm vào đả kích Adolf Hitler.
Những năm 1940 là một thập niên đầy những tranh cãi đối với Chaplin, và danh tiếng của ông bị ảnh hưởng nặng nề. Ông bị cáo buộc là có cảm tình với cộng sản, trong khi những vấn đề xoay quanh hôn nhân với những phụ nữ ít tuổi hơn nhiều và nghĩa vụ làm cha của những đứa con với những phụ nữ này gây ra một loạt vụ bê bối. FBI mở một cuộc điều tra, và Chaplin buộc phải rời Hoa Kỳ để tới Thụy Sĩ định cư. Ông từ bỏ nhân vật Tramp trong các phim về sau, bao gồm Monsieur Verdoux (1947), Limelight (1952), A King in New York (1957), và A Countess from Hong Kong (1967).
Chaplin đã viết, đạo diễn, sản xuất, biên tập, diễn xuất và sáng tác nhạc cho hầu hết các phim ông tham gia. Ông là người cầu toàn, và sự độc lập tài chính cho phép ông dành nhiều năm để phát triển và sản xuất một bộ phim. Những bộ phim của ông thường đặc trưng bởi tính pha trò kết hợp với tính cảm động, thể hiện trong cuộc đấu tranh của Tramp chống lại sự thù địch bên ngoài. Nhiều phim chứa những chủ đề chính trị và xã hội, cũng như những yếu tố tự truyện. Năm 1972, như một phần của sự tái công nhận giá trị sự nghiệp của ông, Chaplin nhận giải Oscar danh dự cho “tác động không thể đo đếm được của ông trong việc đưa điện ảnh thành hình thức nghệ thuật của thế kỷ này”. Ông tiếp tục được đánh giá cao tới tận ngày nay, với những tác phẩm như The Gold Rush, City Lights, Modern Times, và The Great Dictator được xếp vào danh sách những bộ phim xuất sắc nhất của mọi thời đại.
Tiểu sử
Tuổi trẻ (1889-1913)
Tuổi thơ nghèo khó
Bà Hannah Chaplin, mẹ của Chaplin
Charles Spencer Chaplin sinh ngày 16 tháng 4 năm 1889. Ông là đứa con duy nhất của cặp vợ chồng ca sĩ Charles Chaplin (bố) và Hannah Hill. Không có giấy tờ khai sinh nhưng Chaplin tin rằng mình sinh ra ở Phố Đông, Walworth, thuộc Nam London.[3][chú thích 1] Cha mẹ ông cưới nhau 4 năm trước đó, và Hannah từ trước đã có một đứa con ngoài giá thú tên là Sydney.[7][chú thích 2] Vào lúc Chaplin ra đời, cha mẹ họ đều là những nghệ sĩ rạp hát. Hannah, con gái một người làm giày,[8] đã có một sự nghiệp ngắn ngủi và ít thành công dưới nghệ danh Lily Harley,[9] trong khi Charles (cha), vốn là con trai một người hàng thịt,[10] là một ca sĩ nổi danh.[11] Hai người ly thân từ khoảng năm 1891.[12] Năm 1892, Hannah có một đứa con thứ ba – George Wheeler Dryden – với nghệ sĩ rạp hát Leo Dryden. Đứa trẻ được Dryden đem về nuôi khi mới 6 tháng tuổi và chỉ tiếp xúc với Chaplin 30 năm sau đó.[13]
Tuổi thơ Chaplin chất chứa khó khăn và nghèo đói, làm cho đường công danh về sau của ông trở thành “câu chuyện từ nghèo đói tới giàu sang kịch tính nhất từng biết tới”, theo người viết tiểu sử David Robinson.[14] Những năm đầu đời, Chaplin sống với mẹ và anh trai Sydney ở quận Kennington của London. Hannah không có kế sinh nhai nào ngoài việc chăm sóc trẻ em và may áo, còn Chaplin (cha) thì không chu cấp gì cho con trai.[15] Khi hoàn cảnh khốn khó quá, Chaplin, lúc đó lên 7 tuổi, bị gửi vào một trại tế bần.[chú thích 3] Hội đồng đưa cậu vào Trường quận Trung tâm London dành cho những người bần cùng, thời gian mà Chaplin nhắc lại như “một sự tồn tại trơ trọi”.[17] Cậu được đoàn tụ với mẹ 18 tháng sau, trước khi Hannah phải đưa cả nhà vào lại trại tế bần tháng 7 năm 1898. Hai đứa trẻ được gửi tới trường Norwood, một cơ sở dành cho trẻ em bần cùng khác.[18]
“Tôi hầu như không hề hay biết đến một cuộc khủng hoảng bởi vì chúng tôi sống trong một cuộc khủng hoảng triền miên; và là một cậu bé, tôi không đếm xỉa đến những rắc rối muộn phiền bằng cách quên chúng đi.”[19]
– Chaplin nói về tuổi thơ mình
Tháng 9 năm 1898, mẹ Chaplin phải vào trại tâm thần Cane Hill-bà đã trở nên loạn trí có lẽ là do nhiễm bệnh giang mai và kém dinh dưỡng.[20] Trong hai tháng Hannah ở đó, Chaplin và anh trai Sydney đến sống với người cha mà trước đó họ ít khi biết tới.[21] Charles (cha) khi đó đã trở thành một người nghiên rượu nặng, và đã đối xử bạo ngược với hai đứa con đến nỗi đại diện Hiệp hội Chống Ngược đãi Trẻ em Quốc gia phải tới làm việc.[22] Cha Chaplin chết 2 năm sau đó ở tuổi 38 do bệnh xơ gan.[23]
Bệnh của Hannah sau đó thuyên giảm ít nhiều,[22] nhưng tới tháng 5 năm 1903 lại tái phát. Chaplin, khi đó 14 tuổi, phải đưa mẹ tới bệnh viện, sau đó bà lại bị bệnh viện trả về Cane Hill.[24] Cậu sống một mình trong vài ngày, buộc phải đi tìm thức ăn và thỉnh thoảng ngủ ngoài đường, cho tới khi Sydney – đã đăng lính vào Hải quân hai năm trước đó – trở về.[25] Hannah được đưa ra khỏi trại tâm thần 8 tháng sau đó,[26] nhưng tới tháng 3 năm 1905 bà phát bệnh trở lại, lần này vĩnh viễn. Chaplin sau này kể lại: “Chúng tôi chẳng thể làm gì ngoài chấp nhận số phận của người mẹ bất hạnh“. Hannah sống trong trạng thái cần người thường trực trông nom cho tới khi qua đời vào năm 1928.[27]
Nghệ sĩ trẻ tuổi
Giữa khoảng thời gian ở trong trường dành cho trẻ bần cùng và chăm sóc mẹ lâm bệnh thần kinh, Chaplin bắt đầu biểu diễn. Theo ông nhớ thì lần đầu tiên xuất hiện nghiệp dư là năm 5 tuổi, khi Chaplin thay thế mẹ mình một đêm diễn ở Aldershot.[chú thích 4] Đó chỉ là một sự kiện riêng lẻ và đột xuất, nhưng tới khi lên 9, nhờ vào sự cổ vũ của người mẹ, Chaplin ngày càng hứng thú với việc trình diễn. Về sau ông viết lại: ” [bà] đã truyền cho tôi cảm giác rằng tôi có tài năng nào đó”.[29] Nhờ những quan hệ của người cha,[30] Chaplin được nhận vào một đoàn clog-dancing (nhảy đeo guốc đập nhịp) có tên The Eight Lancashire Lads (“Tám anh chàng xứ Lancashire”), theo đoàn đi biểu diễn ở các rạp hát nước Anh trong suốt những năm 1899 và 1900.[chú thích 5] Chaplin làm việc chăm chỉ, và tiết mục này khá ăn khách vào lúc đó, nhưng cậu không thỏa mãn với nhóm nhảy và ước muốn sản xuất một tiết mục hài kịch.[32]
Trong mấy năm lưu diễn với đoàn, mẹ Chaplin bảo đảm cho cậu vẫn có thể tới lớp,[33] nhưng ở tuổi 13 cậu đã bỏ học.[34] Chaplin tự kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau, trong khi vẫn ấp ủ tham vọng trở thành diễn viên.[35] Năm lên 14, ít lâu sau khi mẹ tái phát bệnh, cậu đăng kí vào một hãng sân khấu ở West End của London. Người quản lý nhận thấy triển vọng ở Chaplin, và lập tức cho cậu vai diễn đầu tiên, một đứa trẻ bán báo trong vở Jim, a Romance of Cockayne của H. A. Saintsbury.[36] Vở kịch khai diễn vào tháng 7 năm 1903, nhưng không thành công và phải ngừng diễn sau hai tuần; tuy nhiên nhiều bài phê bình đã ghi nhận vai của Chaplin là vai diễn hài hước duy nhất trong toàn bộ vở kịch.[37] Saintsbury giúp cho Chaplin được tham gia vào vở Sherlock Holmes do Charles Frohman dàn dựng, trong đó cậu sắm vai cậu bé hầu phòng Billy trong ba chuyến lưu diễn toàn quốc.[38] Vai của cậu được đón nhận nồng nhiệt tới mức cậu được đưa về London để diễn vai này cùng với William Gillette, đồng tác giả và là diễn viên đầu tiên thủ vai Holmes.[chú thích 6] Chaplin về sau nhắc lại: “Chuyện diễn ra như thể ở thiên đường vậy“.[40] Vào lúc 16 tuổi, Chaplin đã sắm vai trong vở kịch do West End dàn dựng ở Nhà hát Công tước York từ tháng 10 tới tháng 12 năm 1905.[41] Cậu hoàn thành chuyến lưu diễn cuối cùng cho vở Sherlock Holmes vào đầu năm 1906, trước khi rời vở diễn hơn hai năm rưỡi.[42]
Tờ quảng cáo từ chuyến lưu diễn Hoa Kỳ của Chaplin cùng với công ty hài kịch
Fred Karno, 1913
Hài kịch
Chaplin sớm tìm thấy việc làm trong một công ty mới, và tiếp tục lưu diễn cùng anh trai – Sydney bấy giờ cũng theo đuổi sự nghiệp diễn xuất – trong một vở kịch vui ngắn mang tên Repairs.[43] Tháng 5 năm 1906, Chaplin tham gia tiết mục dành cho giới trẻ Casey’s Circus,[44] mà anh phát triển các tiểu đoạn khôi hài ăn khách và sớm trở thành ngôi sao của buổi diễn. Vào thời điểm tiết mục hoàn thành lưu diễn tháng 7 năm 1907, chàng trai 18 tuổi đã trở thành một nghệ sĩ hài thực thụ.[45] Tuy vậy anh vẫn nỗ lực tìm thêm công việc, và có thử một tiết mục solo nhưng thất bại.[chú thích 7]
Trong khi đó, Sydney Chaplin gia nhập công ty hài kịch danh tiếng Fred Karno năm 1906, và tới năm 1908 đã trở thành một diễn viên trụ cột của công ty.[47] Tháng 2 năm đó, Sydney xin được một kỳ diễn thử hai tuần cho em trai. Karno ban đầu lo lắng, xem Chaplin là “một anh chàng nhợt nhạt, yếu ớt, có vẻ ủ rũ”, “trông quá nhút nhát để làm được điều gì tử tế trong rạp hát.”[48] Nhưng Chaplin đã để lại ấn tượng ngay trong đêm đầu tiên tại nhà hát London Coliseum và nhanh chóng nhận được hợp đồng làm việc.[49] Chaplin bắt đầu bằng việc đóng một loạt vai nhỏ, dần tiến tới những vai chính trong năm 1909.[50] Tháng 4 năm 1910, anh nhận đảm đương đoản kịch mới, Jimmy the Fearless (“Jimmy Can đảm”). Thành công vang dội của nó khiến báo chí tập trung chú ý đáng kể vào Chaplin.[51]
Karno chọn ngôi sao mới trẻ tuổi Chaplin tham gia vào một bộ phận của hát lưu diễn tại hệ thống rạp kịch vui của Bắc Mỹ.[52] Chaplin dẫn dắt vở diễn và gây ấn tượng cho những nhà phê bình, họ mô tả anh như “một trong những nghệ sĩ kịch câm vĩ đại nhất từng thấy ở đây”.[53] Vai thành công nhất của anh là một gã say rượu gọi là “Inebriate Swell” (“Swell Nát rượu”) được nhiều người ghi nhận.[54] Chuyến lưu diễn kéo dài 21 tháng, và nhóm diễn trở lại Anh tháng 6 năm 1912.[55] Chaplin sau này kể lại rằng anh “có một cảm giác bất an, cảm tưởng như mình chìm vào sự tầm thường về trí tuệ”, và do đó anh đã rất mừng rỡ khi một chuyến lưu diễn mới bắt đầu vào tháng 10.[56]
Khởi nghiệp điện ảnh (1914-1917)
Keystone
Chaplin (trái) trong vai diễn điện ảnh đầu tiên, phim
Making a Living (1914)
Sau sáu tháng trong chuyến đi Mỹ lần hai, Chaplin được mời gia nhập Công ty New York Motion Picture. Một đại diện hãng từng xem anh diễn xuất cho rằng Chaplin có thể thay thế cho Fred Mace, một ngôi sao thuộc Hãng phim Keyston đang có ý định ra đi.[57] Chaplin từng cho rằng các phim hài của Keystone là “một đống hỗn tạp lộn xộn”, nhưng thích hoạt động trong ngành điện ảnh và tự nhủ rằng: “Ngoài ra, nó còn có nghĩa là một cuộc đời mới”[58] Anh gặp gỡ với đại diện công ty, và kí một hợp đồng với mức lương 150 đô la/tuần vào tháng 9 năm 1913.[59]
Chaplin đến Los Angeles, trụ sở hãng phim Keystone vào đầu tháng 12 năm 1913.[60] Quản lý của anh là Mack Sennett, người ban đầu lo ngại là chàng trai 24 tuổi này trông quá trẻ.[61] Anh mất một thời gian làm quen với phim trường cho tới cuối tháng 1 năm sau, trong thời gian đó Chaplin tìm cách học quy trình làm phim.[62] Bộ phim một cuộn Making a Living (“Kiếm sống”) đánh dấu sự ra mắt của anh với làng điện ảnh, khởi chiếu từ ngày 2 tháng 2 năm 1914. Bản thân Chaplin rất ghét bộ phim, nhưng một bài bình luận đã nhận ra ở anh có tố chất của “một nghệ sĩ hài bậc nhất”.[63] Lần thứ hai xuất hiện trước máy quay, anh chọn lựa trang phục mà sau này đã biểu trưng nhận diện cho mình. Về sau Chaplin mô tả quá trình này trong tiểu sử tự thuật:
Tôi muốn mọi thứ phải mâu thuẫn: quần thùng thình, áo chật, mũ nhỏ và giày to… Tôi thêm vào một bộ ria mép nhỏ mà theo tôi suy luận đã làm tăng thêm tuổi mà không cần phải hóa trang nét mặt của mình. Tôi không có ý tưởng nào về nhân vật này. Nhưng vào lúc tôi vận trang phục, quần áo và trang điểm, tôi đã cảm thấy phải diễn nhân vật này ra sao. Tôi bắt đầu cảm nhận được nhân vật, và tới lúc tôi bước lên sân khấu nhân vật này đã ra đời một cách trọn vẹn.[64][chú thích 8]
Bộ phim đó là Mabel’s Strange Predicament (“Mối nguy khốn lạ lùng của Mabel”), nhưng tên nhân vật “Tramp” (“Gã Lang thang”, tức “Sác-lô”)[chú thích 9]chỉ ra mắt khán giả trong Kid Auto Races at Venice (“Đua xe Trẻ em ở Venice”) – được quay sau Mabel’s Strange Predicament nhưng lại công chiếu trước 2 ngày.[67] Chaplin tiếp nhận nhân vật này làm bộ mặt trên màn bạc của mình, và tìm cách đưa ra những gợi ý cho những phim mà anh tham gia. Tuy nhiên, những gợi ý của Chaplin không được các đạo diễn chấp nhận.[68] Trong đợt quay phim thứ 11, Mabel at the Wheel (“Mabel trên xe hơi”), anh đã đối đầu với đạo diễn Mabel Normand và chút nữa thì bị chấm dứt hợp đồng. Sennett đã giữ Chaplin lại, khi ông nhận được những đặt hàng từ các chủ rạp chiếu phim yêu cầu có thêm các phim có Chaplin đóng. Sennett cũng cho phép Chaplin tự đạo diễn bộ phim tiếp đó của mình sau khi Chaplin hứa trả 1500 đô la nếu bộ phim thất bại.[69]
Caught in the Rain (“Bị tóm dưới mưa”), phát hành ngày 4 tháng 5 năm 1914, là tập phim đầu tiên Chaplin tự đạo diễn và gặt hái thành công vang dội.[70] Kể từ đó anh đạo diễn hầu hết mọi phim ngắn mà anh thủ vai cho Keystone,[71] với nhịp độ lên tới gần mỗi tuần một phim,[72] một thời kỳ mà sau này Chaplin nhắc lại như thời gian phấn khích nhất trong sự nghiệp của mình.[73] Các bộ phim của Chaplin giới thiệu đều là một dạng phim hài với tiết tấu chậm hơn các phim hài thông thường của Keystone,[67] và với các bộ phim này anh bắt đầu có được số lượng người hâm mộ đáng kể.[74] Tháng 11 năm 1914, anh nhận một vai phụ trong một phim truyện hài (có độ dài tương đối) đầu tiên, Tillie’s Punctured Romance (“Mối tình tan vỡ của Tillie”), do Sennett đạo diễn và có sự góp mặt của Marie Dressler. Phim này rất thành công về mặt thương mại và giúp tăng cường danh tiếng của anh.[75] Tuy nhiên khi hợp đồng của Chaplin đến kì gia hạn, anh đòi lương tăng lên 1 ngàn đô/tuần – con số này bị Sennett cho là quá lớn và từ chối.[76]
Essanay
Sau đó, Công ty Sản xuất Phim Essanay chuyển tới Chaplin lời đề nghị hấp dẫn hơn với lương 1250 đô la/tuần cùng với khoản tiền thưởng kí hợp đồng 10 nghìn đô la. Anh gia nhập hãng phim này cuối tháng 12 năm 1914,[77] và ở Essanay Chaplin bắt đầu thành lập một công ty cổ phần bao gồm các diễn viên chuyên nghiệp, bao gồm Leo White, Bud Jamison, Paddy McGuire và Billy Armstrong. Anh cũng thuê một diễn viên đóng cặp – Edna Purviance, người mà Chaplin bị thu hút bởi vẻ đẹp khi gặp lần đầu ở một quán cà phê. Edna xuất hiện trong 35 bộ phim cùng với Chaplin trong vòng hơn 8 năm;[78] cặp diễn này cũng có một quan hệ tình cảm kéo dài tới năm 1917.[79]
Chaplin có quyền kiểm soát đáng kể các tựa phim anh thực hiện, và bắt đầu dành nhiều thời gian và sự chú ý hơn cho mỗi phim.[80] Từ phim thứ hai A Night Out (“Một đêm ngoài phố”) tới phim thứ ba The Champion (“Nhà vô địch”) có một khoảng cách dài một tháng,[81] và 7 phim cuối trong tổng số 14 phim Chaplin làm ở Essanay cũng có nhịp độ chậm tương tự.[82] Chaplin cũng bắt đầu thay đổi các đặc trưng nhân vật của mình, do anh đã từng nhận những chỉ trích thời còn ở Keystone rằng nhân vật của anh có tính cách “hèn hạ, thô lỗ và hung ác”.[83] Nhân vật Chaplin đóng đã trở nên hiền lành và lãng mạn hơn;[84] The Tramp (“Gã lang thang”, tháng 4 năm 1915) được xem như một bước ngoặt trong sự phát triển cá tính nhân vật của Chaplin.[85] Việc sử dụng nội dung tình cảm trong phim hài tiếp tục phát triển trong The Bank (“Ngân hàng”), trong đó Chaplin tạo ra một kết thúc buồn. Robinson ghi nhận rằng đây là một sự cách tân trong thể loại phim hài, và đánh dấu thời điểm những nhà phê bình nghiêm túc bắt đầu đánh giá cao các tác phẩm của Chaplin.[86] Ở Essanay, theo nhà nghiên cứu điện ảnh Simon Louvish, Chaplin “tìm thấy chủ đề và bối cảnh định hình nên thế giới của Tramp.”[87]
Vào năm 1915, Chaplin đã trở thành một hiện tượng văn hóa. Các cửa hàng đầy ắp những thứ đồ ăn theo phim Chaplin, anh xuất hiện trong sách truyện tranh, cột truyện tranh trên báo, và trong một vài bài hát.[88] Tháng 7 năm đó, một phóng viên làm cho tờ Motion Picture Magazine viết rằng “Chaplinitis” (tạm dịch: “trào lưu Chaplin”) đã lan tràn khắp nước Mỹ.[89] Khi danh tiếng của Chaplin phát triển tới tầm quốc tế, anh trở thành ngôi sao toàn cầu đầu tiên của công nghiệp điện ảnh.[90] Khi hợp đồng với Essanay kết thúc tháng 12 năm 1915,[91][chú thích 10] Chaplin – hiểu rõ sự nổi tiếng của mình – yêu cầu nhận được tiền thưởng kí kết 150 nghìn đô la từ hãng phim tiếp theo. Anh nhận được một số đề nghị khác nhau, bao gồm của Universal, Fox, và Vitagraph, tuy nhiên điều kiện hấp dẫn nhất đến từ Mutual Film Corporation với mức lương 10 nghìn đô la/tuần.[93]
Mutual
Tới 1916, Chaplin đã trở thành một hiện tượng quốc tế. Ảnh chụp anh với sản phẩm ăn theo mình, khoảng năm 1918.
Giá trị hợp đồng giữa Chaplin với Mutual, với con số cuối cùng sau thương lượng lên tới 670 nghìn đô một năm,[94] theo Robinson đã đưa Chaplin – lúc ấy mới 26 tuổi – trở thành một trong những người nhận lương cao nhất thế giới.[95] Lương cao làm công chúng sửng sốt và báo chí đăng tin rầm rộ.[96] John R. Freuler, chủ tịch hãng phim, giải thích: “Chúng tôi có khả năng trả Mr. Chaplin khoản tiền lớn đó bởi vì công chúng muốn Chaplin và sẽ bỏ tiền ra để xem anh ấy.“[97]
Mutual cho Chaplin một xưởng phim riêng ở Los Angeles để làm việc, bắt đầu mở cửa vào tháng 3 năm 1916.[98] Chaplin mời thêm hai thành viên quan trọng vào công ty cổ phần của mình, Albert Austin và Eric Campbell,[99] và sản xuất một loạt phim hai cuộn: The Floorwalker (“Người coi cửa hiệu”), The Fireman(“Lính cứu hỏa”), The Vagabond (“Ma cà bông”), One A.M. (“Một giờ sáng”) và The Count (“Bá tước”).[100] Để quay The Pawnshop (“Tiệm cầm đồ”) ông tuyển diễn viên Henry Bergman, người sẽ cộng tác với Chaplin trong 30 năm.[101] Behind the Screen (“Phía sau màn ảnh”) và The Rink (“Sân trượt băng”) hoàn thành đợt sản xuất năm 1916 của Chaplin. Hợp đồng với Mutual đòi hòi anh 4 tuần phải ra một phim 2 cuộn, và anh đã đảm bảo tiến độ đó. Kể từ năm mới 1917, Chaplin bắt đầu đòi hỏi có nhiều thời gian hơn.[102] Anh chỉ làm 3 phim cho Mutual trong 10 tháng đầu năm 1917: Easy Street, The Cure (“Phương thuốc”), The Immigrant (“Người nhập cư”) và The Adventurer (“Nhà thám hiểm”)[103] Với sự chuẩn bị công phu, các phim này được đánh giá bởi những chuyên gia nghiên cứu Chaplin là thuộc vào những tác phẩm xuất sắc nhất của Chaplin.[104][105] Về sau này, Chaplin gọi những năm ở Mutual là thời kỳ hạnh phúc nhất trong sự nghiệp của ông.[106]
Báo chí Anh lên án Chaplin đã không tham gia chiến đấu trong Thế chiến thứ nhất.[107] Chaplin bào chữa rằng ông sẽ chiến đấu cho nước Anh nếu được triệu tập và đã đăng lính cho quân đội Hoa Kỳ, nhưng không có quân đội quốc gia nào tuyển ông.[chú thích 11] Bất chấp sự chỉ trích trên Chaplin vẫn được quân đội yêu thích,[109] và danh tiếng của ông tiếp tục lớn lên ở quy mô quốc tế. Harper’s Weekly tường thuật rằng cái tên Charlie Chaplin là “một phần của ngôn ngữ chung của hầu như mọi quốc gia”, và hình ảnh Tramp “quen thuộc ở khắp nơi“.[110] Năm 1917, những người bắt chước Chaplin chuyên nghiệp hết sức phổ biến tới mức ông buộc phải kiện ra tòa để bảo về bản quyền,[111] và người ta nói rằng 9 trên 10 người dự các bữa tiệc hóa trang ăn mặc theo Tramp.[112] Cũng năm đó, một nghiên cứu của Hội Nghiên cứu Tâm linh Boston kết luận rằng Chaplin là “một sự ám ảnh của Mỹ“.[112] Nữ diễn viên Minnie Maddern Fiske viết rằng “ngày càng có nhiều những người có văn hóa và khuynh hướng nghệ thuật bắt đầu xem anh hề trẻ người Anh, Charlie Chaplin, như một nghệ sĩ xuất chúng, một thiên tài hài kịch“.[110]
First National (1918-1922)
Bìa tựa phim
A Dog’s Life (1918). Chính vào thời gian này mà Chaplin bắt đầu nhận diện The Tramp là “một loại
Pierrot“, hay một anh hề buồn.
Mutual kiên nhẫn với tốc độ sản xuất phim chậm dần của Chaplin, và hợp đồng giữa họ kết thúc một cách thân ái. Mối quan tâm chính của ông trong việc tìm một hãng phân phối mới là quyền tự chủ; Sydney Chaplin, khi đó làm người quản lý kinh doanh cho em mình, nói với báo chí, “Charlie [phải] được cung cấp toàn bộ thời gian mà cậu ấy cần và đủ tiền để sản xuất [phim] theo cách mà cậu ấy muốn… Chất lượng chứ không phải số lượng là cái mà chúng tôi theo đuổi.“[113] Vào tháng 6 năm 1917, Chaplin kí hợp đồng hoàn thành 8 phim cho First National Exhibitors’ Circuit để nhận 1 triệu đô la.[114] Ông lựa chọn tự mình xây xưởng phim, dựng trên mảnh đất rộng 5 mẫu ngoài Sunset Boulevard (Los Angeles), với các trang thiết bị tối tân thời bấy giờ.[115] Xưởng phim hoàn thành tháng 1 năm 1918,[116] và Chaplin có toàn quyền tự do làm phim của mình.[117]
A Dog’s Life (“Đời một con chó”) công chiếu tháng 4 năm 1918, là phim đầu tiên dưới hợp đồng mới. Trong phim này, Chaplin đã thể hiện sự quan tâm lớn hơn với việc xây dựng cốt truyện, và cách thể hiện Tramp như “một loại Pierrot“.[118] Louis Delluc mô tả phim là “công trình hoàn toàn mang tính nghệ thuật đầu tiên của điện ảnh“.[119] Chaplin sau đó bước vào đợt vận động Trái phiếu Tự do lần 3, lưu diễn khắp Hoa Kỳ trong 1 tháng để gây tiền cho Đồng Minh trong Thế chiến thứ nhất.[120] Ông cũng sản xuất một phim ngắn có nội dung tuyên truyền, tặng cho chính phủ để gây quỹ, mang tên The Bond (“Công trái”).[121] Phim tiếp theo,Shoulder Arms, dựa trên bối cảnh chiến tranh, đặt nhân vật Tramp vào chiến hào. Các bạn đồng nghiệp cảnh báo ông về việc làm một bộ phim hài về chủ đề chiến tranh, nhưng về sau ông nhắc lại: “Dù có nguy hiểm hay không, ý tưởng đó vẫn làm tôi thích thú.“[122] Ông dành bốn tháng để quay bộ phim dài 45 phút, phát hành tháng 10 năm 1918 và gặt hái thành công lớn.[123]
United Artists, Mildred Harris, và The Kid
Sau khi phát hành Shoulder Arms, Chaplin đòi nhiều tiền hơn nhưng First National từ chối. Bất bình với điều đó cũng như sự thiếu quan tâm của hãng với chất lượng phim, và lo lắng về những tin đồn về việc hãng sáp nhập với Famous Players-Lasky, Chaplin quyết định hợp tác với Douglas Fairbanks, Mary Pickford, và D. W. Griffith để lập nên một công ty phân phối mới – United Artists, ra đời vào tháng 1 năm 1919.[124][125] Sự kiện này có tính cách mạng trong công nghiệp điện ảnh, vì nó cho phép 4 thành viên – đều là những nghệ sĩ đầy sáng tạo – cấp tiền cho phim của riêng họ và có toàn quyền kiểm soát.[126] Chaplin hăm hở khởi đầu công ty mới và muốn thanh toán hợp đồng với First National. Hãng từ chối và đòi ông phải hoàn thành sáu phim còn nợ.[127]
The Kid (1921), diễn cùng
Jackie Coogan, kết hợp giữa hài kịch và chính kịch và là phim đầu tiên của Chaplin vượt qua độ dài 1 tiếng.
Trước khi cho ra đời United Artists, Chaplin kết hôn lần thứ nhất. Diễn viên 17 tuổi Mildred Harris tiết lộ rằng cô có thai với ông, và tháng 9 năm 1918 Chaplin tổ chức đám cưới không ồn ào để tránh lùm xùm.[128] Ít lâu sau, ông phát hiện ra tin có bầu của Mildred là giả.[129] Chaplin không lấy gì làm hạnh phúc với mối hôn nhân này, ông cảm thấy nó cản trở năng lực sáng tạo của mình, khiến ông chật vật trong việc sản xuất phim Sunnyside.[130] Harris khi đó đã có mang thật, và ngày 7 tháng 7 năm 1919 sinh một đứa con trai. Đứa trẻ mang tên Norman Spencer Chaplin bị dị hình và chết chỉ sau 3 ngày.[131] Hôn nhân giữa họ chấm dứt tháng 4 năm 1920; Chaplin giải thích trong tiểu sử của ông rằng họ “bị ép buộc phải cưới nhau một cách không thể nào hàn gắn được”.[132]
Sự kiện đứa con chết yểu đã ảnh hưởng tới công việc của ông: ông dự định làm một phim chuyển nhân vật Tramp sang một người chăm sóc một cậu bé.[133] Phục vụ cho mục đích này, Chaplin cũng muốn làm thứ gì đó khác ngoài hài kịch thuần túy, và để, theo lời của Louvish, “ghi dấu ấn của mình lên một thế giới đã thay đổi.”[134] The Kid (“Đứa trẻ”) khởi quay vào tháng 8 năm 1919, với sự diễn xuất của cậu bé 4 tuổi Jackie Coogan.[135] Ngoài dự định của Chaplin, nó trở thành một dự án lớn, do đó để xoa dịu First National, ông tạm hoãn phim này và làm một phim ngắn A Day’s Pleasure (“Hạnh phúc một ngày”) với tốc độ nhanh.[136] The Kid tốn mất 9 tháng để hoàn thành, kéo dài tới tháng 5 năm 1920, và với thời lượng 68 phút là là phim dài nhất của Chaplin tính cho tới thời điểm đó.[137] Đụng chạm đến các vấn đề nghèo đói và chia cắt cha-con, The Kid được cho là mang dấu ấn tuổi thơ của chính Chaplin[117] và là một trong những phim sớm nhất biết kết hợp giữa các yếu tố hài kịch và chính kịch.[138] Phim được phát hành tháng 1 năm 1921 và thành công ngay lập tức, và tới năm 1924 phim này đã được công chiếu tại trên 50 quốc gia.[139]
Chaplin dành 5 tháng cho phim tiếp theo, một bộ phim 2 cuộn The Idle Class (“Tầng lớp vô công rồi nghề”).[126] Sau khi phim khởi chiếu tháng 9 năm 1921, ông quyết định về thăm Anh sau gần một thập kỷ.[140] Sau đó ông làm việc để hoàn thành nốt hợp đồng với First National, cho ra mắt Pay Day (“Ngày lĩnh lương”) tháng 2 năm 1922. The Pilgrim (“Người hành hương”)– phim ngắn cuối cùng của ông – bị trì hoãn do bất đồng trong việc phân phối với hãng phim, và chỉ phát hành một năm sau đó.[141]
Phim câm thời lượng dài (1923-1938)
A Woman of Paris và The Gold Rush
Sau khi hoàn thành hợp đồng với First National, Chaplin có toàn quyền tự do làm phim đầu tiên với tư cách một nhà sản xuất độc lập. Tháng 11 năm 1922 ông bắt đầu khởi quay A Woman of Paris (“Một người phụ nữ ở Paris”), một phim chính kịch lãng mạn về những cặp tình nhân bất hạnh.[142] Chaplin mong muốn phim sẽ đưa Edna Purviance thành một ngôi sao,[143] và không tự mình xuất hiện trong phim trừ một cảnh cameo không được ghi danh trong phim.[144] Ông muốn phim có một cảm giác hiện thực hơn, và chỉ đạo dàn diễn viên phải có diễn xuất giản dị. Thực tế thì, như ông giải thích, “các diễn viên cố che giấu cảm xúc của họ hơn là tìm cách biểu đạt chúng“.[145] A Woman of Paris khởi chiếu tháng 12 năm 1923 và nhận được khen ngợi về cách tiếp cận cảm xúc tinh tế, một sự cách tân vào thời bấy giờ.[146] Tuy nhiên công chúng không mấy hứng thú với một bộ phim của Chaplin mà lại không có ông trong đó, và điều này làm giảm trầm trọng doanh thu của bộ phim.[147] Chaplin bị tổn thương vì thất bại này – từ lâu ông đã mong muốn làm một phim chính kịch và lấy làm tự hào khi hoàn thành bộ phim – ông đã cho ngưng chiếu A Woman of Paris một cách sớm nhất có thể.[148]
The Tramp buộc phải gặm giày của mình, trong một cảnh nổi tiếng của
The Gold Rush (1925)
Chaplin quay lại với thể loại hài kịch trong dự án tiếp theo. Ông đòi hỏi thật cao và tự nói với mình: “Phim tiếp theo phải là phải là một anh hùng ca vĩ đại nhất!“[149] Lấy cảm hứng từ một bức ảnh chụp Cơn sốt vàng Klondike năm 1898, và sau đó là một câu chuyện về Donner Party của những năm 1846–47, ông tạo nên cái mà Geoffrey Macnab gọi là “một hài kịch hùng tráng sinh ra từ một chủ đề tàn nhẫn.”[150] Trong The Gold Rush (“Cơn sốt vàng”), Tramp là một người đào vàng chiến đấu với những khó khăn nguy hiểm và tìm kiếm ái tình. Với Georgia Hale trong vai trò nữ diễn viên đóng cặp mới, Chaplin bắt đầu quay phim từ tháng 2 năm 1924.[151] Phim được dàn dựng công phu và tốn gần 1 triệu đô la,[152] bao gồm cảnh quay thực địa ở dãi núi Truckee với 600 vai diễn quần chúng, những cảnh dựng tốn kém cùng những hiệu ứng đặc biệt.[153] Cảnh quay cuối cùng chỉ thực hiện vào tháng 5 năm 1925, sau 15 tháng quay ròng rã.[154]
Chaplin cảm thấy The Gold Rush là phim hay nhất ông sản xuất được tới thời điểm đó.[155] Phim khởi chiếu vào tháng 8 năm 1925 và trở thành một trong những phim có doanh thu cao nhất trong kỉ nguyên phim câm với lợi nhuận 5 triệu đô la.[156] Phim có những cảnh kinh điển của Chaplin, như Tramp ăn giày của mình hay “Vũ điệu Ổ bánh mì”.[157] Macnab gọi nó là “tinh túy của phim Chaplin” và chính Chaplin sau này có nói rằng đây là tác phẩm mà ông muốn được công chúng nhớ đến mình nhiều nhất thông qua nó.[158]
Lita Grey và The Circus
Lita Grey, vợ thứ hai của Chaplin (ảnh chụp hai năm sau khi họ đã ly dị)
Trong khi làm phim Gold Rush, Chaplin kết hôn lần thứ hai. Không khác gì lần trước, Lita Grey là một diễn viên trẻ tuổi, ban đầu được chọn để tham gia vào phim, thông báo là có bầu khiến Chaplin buộc phải kết hôn. Cô mới 16 và ông đã 35, nghĩa là Chaplin có thể mắc tội cưỡng dâm theo luật California.[159] Ông sắp xếp một đám cưới kín đáo ở Mexico ngày 24 tháng 11 năm 1924.[160] Cuộc hôn nhân này của ông mang lại hai con trai sau này đều làm diễn viên; con trai đầu của hai người, cũng lấy tên Charles Spencer Chaplin, sinh ra ngày 5 tháng 5 năm 1925, mất năm 1968; và Sydney Earl Chaplin sinh ngày 30 tháng 3 năm 1926.[161] Phim Limelight năm 1952 có sự diễn xuất của cả 3 cha con. Bộ phim năm 1967 A Countess from Hong Kong có sự diễn xuất của Charlie Chaplin với Sydney Earl Chaplin và cô con gái Geraldine Chaplin sinh năm 1944 của bà vợ thứ tư.
Đó là một cuộc hôn nhân không hạnh phúc, và Chaplin tìm cách làm thêm giờ ở xưởng phim để tránh phải gặp vợ mình.[162] Tháng 11 năm 1926, Grey đem hai con rời khỏi gia đình.[163] Tiếp đó là một cuộc ly hôn cay đắng, trong đó Grey đệ đơn cáo buộc Chaplin tội không chung thủy, lạm dụng, và nuôi dưỡng “những ham muốn tình dục đồi bại” – và những chi tiết này lộ ra với truyền thông.[164][chú thích 12] Chaplin đã rơi vào một cơn suy sụp tâm thần, khi câu chuyện được công khai trên báo chí với các tít lớn và các nhóm đòi cấm chiếu phim của ông được thành lập trên khắp Hoa Kỳ.[166] Với mong muốn kết thúc nhanh chóng vụ kiện mà không có thêm bê bối nào, các luật sư của Chaplin đồng ý dàn xếp với khoản tiền là 600 nghìn đô trả cho Lita – khoản đền bù ly hôn lớn nhất cho tới thời điểm đó ở tòa án Hoa Kỳ.[167] Lượng người hâm mộ của ông đủ mạnh để giúp vượt qua cơn sóng gió này và sự kiện sớm rơi vào quên lãng, nhưng cá nhân Chaplin vẫn bị ảnh hưởng sâu sắc.[168]
Trước khi vụ kiện đưa ra tòa, Chaplin bắt đầu một phim mới, The Circus (“Rạp xiếc“).[169] Ông dựng một câu chuyện quanh ý tưởng đu dây trong khi bị lũ khỉ quấy rối, và biến Tramp một ngôi sao tình cờ của rạp xiếc.[170] Việc quay phim bị tạm dừng 10 tháng trong khi ông giải quyết chuyện ly hôn,[171] và nó thường được xem là một sản phẩm có trục trặc.[172] Cuối cùng được hoàn thành vào tháng 10 năm 1927, The Circus phát hành vào tháng 1 năm 1928 và nhận được phản hồi tích cực.[173] Tại lễ trao giải thưởng Viện Hàn lâm Điện ảnh lần thứ nhất (giải Oscar sau này), Chaplin nhận được một chiếc cúp đặc biệt “Dành tặng cho tính linh hoạt và thiên tài trong diễn xuất, viết kịch bản, đạo diễn và sản xuất The Circus.”[174] Bất chấp thành công của nó, ông mãi mãi gắn ấn tượng bộ phim này với áp lực trong lúc sản xuất nó: ông tránh nhắc tới nó trong tiểu sử của mình, và đã rất vất vả khi ông ghi âm thanh cho bộ phim này trong những năm về sau.[175]
City Lights
“Tôi quyết tâm tiếp tục làm phim câm… Tôi là một diễn viên phim câm và trong môi trường đó tôi là độc nhất và, nói không hề khiêm tốn giả tạo: tôi là bậc thầy.”[176]
—Chaplin giải thích sự bất chấp đối với phim có lời trong những năm 1930
Vào thời điểm The Circus được phát hành, Hollywood đã chứng kiến sự xuất hiện của phim có lời thoại. Chaplin chế giễu thể loại phim mới này cùng những hạn chế kĩ thuật thu âm của thời đó, tin rằng những “thứ lắm lời” này thiếu tính nghệ thuật của phim câm.[177] Ông cũng nghi ngại việc thay đổi công thức đã đem lại thành công cho ông tới thời điểm đó,[178] và sợ rằng đưa vào nhân vật Tramp với giọng nói sẽ làm hạn chế tính hấp dẫn quốc tế của nhân vật.[179] Do đó ông từ chối xu thế này của Hollywood và bắt đầu làm một phim câm mới. Dù vậy Chaplin vẫn lo lắng về quyết định này và tiếp tục ở trong trạng thái đó suốt trong quá trình làm phim.[179]
City Lights (1931), được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Chaplin
Trước khi việc quay phim bắt đầu vào cuối năm 1928, Chaplin đã dành gần một năm để sáng tác cốt truyện.[180] City Lights (“Những ngọn đèn thành phố”) kể về tình yêu của Tramp dành cho một cô gái mù bán hoa (do Virginia Cherrill thủ vai) và nỗ lực của Tramp để kiếm tiền phẫu thuật mắt cho cô gái. Bộ phim là kết quả của một quá trình sản xuất đầy thách thức kéo dài 21 tháng,[181] mà sau này Chaplin thú nhận rằng ông đã “đẩy bản thân vào một trạng thái tâm thần kích động đòi hỏi sự hoàn hảo“.[182] Một lợi ích mà Chaplin thấy trong phim có tiếng là cơ hội ghi âm một bản nhạc cho bộ phim, mà ông có tham gia sáng tác một phần.[182][183]
Chaplin hoàn thành việc biên tập City Lights vào tháng 12 năm 1930, khi đó phim câm đã trở thành thứ lỗi thời.[184] Một buổi chiếu thử trước một công chúng không được biết trước nội dung phim đã không thành công,[185] nhưng lần chiếu thử cho báo chí đã đem lại những lời phê bình tích cực. Một phóng viên viết, “Không ai trên thế giới ngoài Charlie Chaplin có thể làm nên nó. Ông là người duy nhất có thứ đặc biệt gọi là “sự hấp dẫn khán giả” với đủ chất lượng để thách thức xu hướng phổ biến nghiêng về phim có lời.”[186] Khi được phát hành rộng rãi vào tháng 1 năm 1931, City Lights trở thành thành công lớn cả về tài chính và danh tiếng – doanh thu của bộ phim cuối cùng vượt 3 triệu đô la.[187] Viện phim Anh gọi nó là thành tựu xuất sắc nhất của Chaplin, còn nhà phê bình James Agee ca ngợi cảnh cuối phim là “chi tiết diễn xuất vĩ đại nhất và thời điểm tột đỉnh của điện ảnh“.[188][189]
Du hành, Paulette Goddard, và Modern Times
City Lights thành công, nhưng Chaplin không chắc mình có có thể làm một phim tiếp nữa mà không có hội thoại. Ông vẫn cảm thấy âm thanh sẽ không hòa hợp tốt trong phim của mình, nhưng cũng “bị ám ảnh bởi một nỗi sợ gây nản lòng về việc bị coi là lỗi thời.“[190] Trong trạng thái bất an này, đầu năm 1931 ông quyết định có một kì nghỉ ngắn, nhưng cuối cùng nó thành một cuộc du hành trong suốt 16 tháng.[191][chú thích 13] Trong tự truyện của mình, Chaplin nhớ lại rằng vào thời điểm quay lại Los Angeles, ông thấy “bối rối và không có kế hoạch gì trong đầu, mệt mỏi và cảm nhận một sự cô đơn tột cùng“. Có lúc ông đã cân nhắc tới việc giải nghệ và tới sống ở Trung Quốc.[194]
Modern Times (1936), được Jérôme Larcher mô tả như “sự suy tưởng tàn nhẫn về sự tự động hóa cái cá nhân”
[195]
Sự cô đơn của Chaplin nhẹ bớt khi ông gặp nữ diễn viên 21 tuổi Paulette Goddard vào tháng 7 năm 1932, và cặp đôi bắt đầu một mối quan hệ tình cảm tốt đẹp.[196] Nhưng ông vẫn chưa sẵn sàng để làm phim, và tập trung vào viết một loạt ký sự du hành (được xuất bản dưới tên Woman’s Home Companion).[197] Chuyến đi trở thành một trải nghiệm đầy hào hứng cho Chaplin, bao gồm các buổi gặp gỡ với những nhà tư tưởng lỗi lạc đương thời, khiến ông ngày càng quan tâm tới các sự kiện trên thế giới.[198] Hoàn cảnh người lao động ở Mỹ làm Chaplin bận tâm, và ông lo ngại rằng chủ nghĩa tư bản và máy móc tại những công xưởng sẽ gia tăng tỉ lệ thất nghiệp. Chính những lo ngại này đã khuyến khích Chaplin phát triển một tựa phim mới.[199]
Modern Times (“Thời đại tân kỳ”) được Chaplin giới thiệu là “một màn trào phúng về những giai đoạn nhất định trong đời sống công nghiệp của chúng ta.“[200] Phim có sự góp mặt của Goddard bên cạnh Tramp trong đó họ trải qua thời Đại Khủng hoảng, và bộ phim quay mất cả thảy 10 tháng rưỡi.[201] Chaplin dự định dùng hội thoại, nhưng đổi ý trong lúc đang đóng thử. Giống như City Lights, Modern Times sử dụng hiệu ứng âm thanh, nhưng hầu như không có tiếng nói mà chỉ toàn âm nhạc.[202] Một ca khúc gồm những tiếng lắp bắp ghép lại mà Chaplin lồng tiếng trong phim là giọng nói duy nhất của Tramp trong phim ảnh.[203] Sau khi ghi âm phần nhạc, Chaplin phát hành Modern Times vào tháng 2 năm 1936.[204] Đó là phim đầu tiên trong 15 năm bao hàm những ám chỉ về chính trị và chủ nghĩa hiện thực xã hội,[205] một yếu tố thu hút sự quan tâm đáng kể của báo chí mặc dù Chaplin cố gắng hạ thấp vấn đề.[206] Phim kiếm được ít doanh thu hơn các phim trước và nhận những phê bình khác nhau, trong đó vài người không thích tính cách chính trị hóa.[207] Ngày nay, Modern Times được Viện phim Anh xem như một trong những “phim thời lượng dài vĩ đại nhất” của Chaplin,”[188] trong khi David Robinson cho rằng nó thể hiện nhà làm phim ở “đỉnh cao vô song như là người sáng tạo của hài kịch tạo hình.”[208]
Sau khi phát hành Modern Times, Chaplin cùng Goddard khởi hành cho một chuyến đi dài ngày ở Viễn Đông.[209] Cặp đôi từ chối bình luận về mối quan hệ của họ, và người ta không rõ họ có phải là vợ chồng hay chưa.[210] Ít lâu về sau, Chaplin tiết lộ rằng hai người đã lấy nhau ở Quảng Châu, Trung Quốc, trong chuyến đi này.[211] Tới năm 1938 họ không sống với nhau, vì cả hai đều tập trung hết sức cho công việc riêng; Goddard cuối cùng ly dị Chaplin tại Mexico năm 1942, nói rằng họ không hợp nhau và đã sống ly thân được hơn 1 năm.[212]
Tranh cãi và danh tiếng suy giảm (1939-1952)
The Great Dictator
Những năm 1940 chứng kiến Chaplin đối diện với một loạt tranh cãi cả trong công việc lẫn đời tư, làm thay đổi vận mệnh và ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự nổi tiếng của ông ở Hoa Kỳ. Cuộc tranh cãi đầu tiên đến từ việc ông mạnh dạn thể hiện niềm tin chính trị của mình. Sự trỗi dậy của của chủ nghĩa dân tộc quân phiệt của chính trị thế giới những năm 1930 đã làm ông buồn bực,[213] và Chaplin cảm thấy mình không thể nào đặt những vấn đề đó ra ngoài tác phẩm của mình.[214] Những nét tương đồng giữa ông và Adolf Hitler được nhiều người ghi nhận từ lâu: hai người sinh cách nhau có 4 ngày, cả hai vươn lên từ nghèo khổ trở thành nổi tiếng thế giới, và nhà độc tài người Đức có kiểu ria mép bàn chải giống nhân vật Tramp. Chính sự tương đồng về vẻ ngoài này đã cung cấp ngữ cảnh cho cốt truyện của phim tiếp theo của Chaplin, The Great Dictator (“Nhà độc tài vĩ đại“) nhằm đả kích trực tiếp Hitler và công kích chủ nghĩa phát xít.[215]
Chaplin dành 2 năm để phát triển kịch bản,[216] và bắt đầu quay vào tháng 9 năm 1939 – chỉ 6 ngày sau khi nước Anh tuyên chiến với Đức.[217] Ông chấp nhận sử dụng đối thoại có tiếng, một phần vì nhận thấy không còn lựa chọn nào khác, nhưng cũng bởi vì ông thấy đó là cách tốt hơn để truyền tải một thông điệp chính trị.[218] Làm một hài kịch về Hitler khi đó được xem là gây tranh cãi lớn, nhưng sự độc lập tài chính của Chaplin cho phép ông bất chấp các rủi ro.[219] “Tôi quyết tâm làm phim này,” sau này ông viết, “bởi vì Hitler phải bị cười nhạo.”[220][chú thích 14] Chaplin thay thế Tramp (vẫn mặc trang phục tương tự) bằng “A Jewish Barber” (Một anh thợ cạo Do Thái), ám chỉ tới niềm tin của đảng Nazi rằng Chaplin là một người Do Thái.[chú thích 15] Trong một màn trình diễn kép ông cũng đóng nhà độc tài “Adenoid Hynkel”, nhại theo Hitler.[222]
The Great Dictator mất một năm sản xuất, và phát hành vào tháng 10 năm 1940.[223] Có một lượng quảng cáo khổng lồ xung quanh bộ phim, khiến cho một nhà phê bình trên tờ New York Times gọi nó là “bộ phim được trông đợi nhiều nhất của năm”, và thực tế nó trở thành phim có doanh thu lớn nhất của cả một thời đại.[224] Tuy nhiên phần kết phim không được ưa thích và gây tranh cãi.[225] Chaplin kết thúc phim với một diễn văn dài 6 phút trong đó ông nhìn thẳng vào máy quay và hùng hồn tuyên bố những niềm tin cá nhân của mình.[226] Charles J. Maland xem sự truyền giảng công khai này là điểm khởi đầu cho sự suy giảm danh tiếng của Chaplin. Ông viết, “Từ đây, không người hâm mộ phim nào có thể phân tách những ám chỉ chính trị khỏi hình ảnh ngôi sao [của Chaplin]”.[227] The Great Dictator nhận 5 đề cử giải Oscar, trong đó có Phim xuất sắc nhất, Kịch bản gốc xuất sắc nhất và Diễn viên nam xuất sắc nhất, nhưng không giành được giải nào.[228]
Rắc rối pháp lý và đám cưới với Oona O’Neill
Vào giữa những năm 1940, Chaplin vướng vào một chuỗi các phiên tòa ngốn gần hết thời gian của ông và ảnh hưởng đáng kể tới hình ảnh công chúng của Chaplin.[229] Rắc rối nảy sinh từ mối quan hệ của ông với một nữ diễn viên nhiều tham vọng tên Joan Barry, người mà ông chung sống một cách ngắt quãng giữa tháng 6 năm 1941 và mùa thu năm 1942.[230] Barry, người mắc chứng ám ảnh hoang tưởng và hai lần bị bắt sau khi họ đã chia tay,[chú thích 16] tái xuất hiện năm sau đó và thông báo rằng cô đang mang đứa con của Chaplin trong bụng. Chaplin bác bỏ tuyên bố này và Barry đâm đơn kiện ra tòa đòi ông có trách nhiệm làm cha.[231]
Giám đốc FBI J. Edgar Hoover, người từ lâu đã nghi ngờ về khuynh hướng chính trị của Chaplin, đã sử dụng cơ hội này để tạo ra những bình luận tiêu cực về ông trên truyền thông. Như một phần của chiến dịch bôi nhọ nhằm phá hoại hình ảnh của Chaplin,[232] FBI đưa tên ông vào 4 cáo trạng liên quan tới vụ Barry. Nghiêm trọng nhất trong số đó là cáo buộc vi phạm Đạo luật Mann cấm chuyên chở phụ nữ qua biên giới các bang vì mục đích tình dục.[chú thích 17] Sử gia Otto Friedrich gọi điều này là một “sự cáo buộc ngớ ngẩn” từ một “đạo luật cổ lỗ sĩ”,[235] nhưng nếu Chaplin bị quy tội, ông sẽ phải đối mặt với án tù lên đến 23 năm.[236] Ba cáo buộc không đủ bằng chứng để đưa ra tòa, nhưng phiên tòa xét theo Đạo luật Mann bắt đầu vào tháng 3 năm 1944. Chaplin được tha bổng sau 2 tuần.[233] Tin tức về vụ kiện thường lên trang đầu các báo, với tờ Newsweek gọi đây là “bê bối quan hệ công chúng lớn nhất kể từ vụ xử tội sát nhân của Fatty Arbuckle năm 1921.”[237]
Vợ thứ 4 của Chaplin
Oona O’Neill, bạn đời từ năm 1943 tới cuối đời và có 8 đứa con với ông.
Đứa con của Barry, Carole Ann, sinh ra vào tháng 10 năm 1944 và đơn kiện được gửi tới tòa vào tháng 2 năm 1945. Sau hai phiên xử gay go, trong đó luật sư bên nguyên cáo buộc ông có “đạo đức đê tiện”, tòa tuyên Chaplin là cha đứa trẻ và đòi ông phải chi tiền chu cấp cho đứa trẻ cho đến khi Carole Ann sang tuổi 21, bất chấp bằng chứng y học về xét nghiệm máu cho thấy Chaplin không thể là cha đứa trẻ.[chú thích 18] FBI gây ảnh hưởng lên cách báo chí đưa tin về vụ kiện, và cung cấp thông tin cho một cây viết chuyên những tin giật gân tên là Hedda Hopper, nhằm mô tả Chaplin theo cách mang nặng tính phê phán.[239]
Tranh cãi bao quanh Chaplin càng tăng khi chỉ 2 tuần sau khi vụ kiện được công bố, Chaplin thông báo đám cưới với người được ông bảo trợ mới nhất, Oona O’Neill – con gái của nhà soạn kịch người Mỹ Eugene O’Neill.[240] Chaplin, bấy giờ 54 tuổi, quen O’Neill 7 tháng trước đó qua một người tuyển diễn viên.[chú thích 19] Trong tự truyện, Chaplin mô tả cuộc gặp gỡ với O’Neill là “sự kiện hạnh phúc nhất của đời tôi”, và nói rằng mình đã tìm thấy “tình yêu hoàn hảo”.[243] Con trai của Chaplin, Charles, nói rằng Oona “tôn thờ” Chaplin.[244] Hai người sống với nhau cho đến khi Chaplin mất, và họ sinh 8 người con trong vòng 18 năm: Geraldine Leigh (sinh tháng 7 năm 1944), Michael John (sinh tháng 3 năm 1946), Josephine Hannah (sinh tháng 3 năm 1949), Victoria (sinh tháng 5 năm 1951), Eugene Anthony (sinh tháng 8 năm 1953), Jane Cecil (sinh tháng 5 năm 1957), Annette Emily (sinh tháng 12 năm 1959), và Christopher James (sinh tháng 7 năm 1962).[245]
Monsieur Verdoux và cáo buộc theo cộng sản
Monsieur Verdoux (1947), một
hài kịch đen về một kẻ giết người hàng loạt, đánh dấu một bước chuyển quan trọng đối với Chaplin. Vào thời điểm phát hành ông đã không được yêu thích đến nỗi nó thất bại thảm hại ở Hoa Kỳ.
Chaplin cho rằng các vụ xử liên quan tới Joan Barry đã “làm tê liệt sức sáng tạo” của ông, và phải mất một thời gian sau đó ông mới quay lại làm việc.[246] Tháng 4 năm 1946, cuối cùng ông bắt tay vào quay một dự án phim mà ông phát triển kể từ năm 1942.[247] Monsieur Verdoux (“Quý ông Verdoux”) là một hài kịch đen (humour noir), một câu chuyện về một nhân viên ngân hàng người Pháp sau khi bị mất việc bắt đầu kết hôn và mưu sát những góa phụ giàu có để có tiền nuôi gia đình. Chaplin có được cảm hứng từ Orson Welles, người muốn ông sắm vai trong một bộ phim về sát thủ hàng loạt người Pháp Henri Désiré Landru. Chaplin quyết định rằng ý tưởng đó sẽ “làm nên một hài kịch tuyệt vời”,[248] và trả Welles 5000 đô la cho ý tưởng này.[249]
Một lần nữa Chaplin không ngần ngại bộc lộ rõ quan điểm chính trị của mình trong Monsieur Verdoux, chỉ trích chủ nghĩa tư bản và lập luận rằng thế giới hiện đại khuyến khích giết người hàng loạt thông qua chiến tranh và vũ khí hủy diệt hàng loạt.[250] Vì điều này, bộ phim gây tranh cãi khi nó được phát hành tháng 4 năm 1947;[251] Chaplin bị người hâm mộ la ó trong buổi chiếu ra mắt, và có người đòi cấm chiếu phim của ông.[252] Monsieur Verdoux là phim đầu tiên mà Chaplin phát hành thất bại cả về mặt doanh thu lẫn phản hồi của giới phê bình ở Hoa Kỳ.[253] Ở nước ngoài bộ phim thành công hơn,[254] và kịch bản của Chaplin vẫn được đề cử (dù không giành được giải) trong mùa giải Oscar năm đó.[255] Bản thân ông lấy làm tự hào về bộ phim, và viết trong tự truyện của mình rằng, “Monsieur Verdoux là phim khéo léo và xuất chúng nhất tôi từng làm.”[256]
Phản ứng tiêu cực với Monsieur Verdoux chủ yếu là kết quả của sự thay đổi của hình ảnh Chaplin trong công chúng.[257] Cùng với sự tổn hại thanh danh do vụ bê bối với Joan Barry, ông còn bị công khai cáo buộc là một người cộng sản.[258] Các hoạt động chính trị của ông ngày càng sôi nổi trong Thế chiến thứ hai, khi ông vận động mở Mặt trận thứ hai để giúp Liên Xô và hỗ trợ một số nhóm hữu ái Xô-Mỹ.[259] Chaplin tham dự các hoạt động có mặt viên chức ngoại giao Xô-viết ở Los Angeles.[260] Trong không khí chính trị những năm 1940 ở Hoa Kỳ, những hoạt động như vậy khiến cho Chaplin bị xem, như Larcher viết, “là cấp tiến một cách nguy hiểm và trái đạo đức.“[261] FBI đòi trục xuất ông ra khỏi Hoa Kỳ,[262] và đầu năm 1947 họ bắt đầu tung ra một cuộc điều tra chính thức.[263][chú thích 20]
Chaplin phủ nhận mình là một người cộng sản, thay vào đó ông tự gọi mình là “một lái buôn hòa bình” (peacemonger), [chú thích 21] nhưng ông cảm thấy nỗ lực của chính phủ Mỹ nhằm đàn áp ý thức hệ là một sự vi phạm không thể dung thứ các quyền tự do dân sự.[266] Không chịu im lặng về vấn đề này, ông công khai phản đối những phiên tòa xử các thành viên Đảng Cộng sản Hoa Kỳ và những hoạt động của Ủy ban Hạ viện về Các hoạt động phi-Mỹ (House Committee on Un-American Activities, tức HUAC).[267] Chaplin nhận được trát đòi có mặt trước HUAC, nhưng không bị bắt phải điều trần.[268] Khi những hoạt động của ông được báo chí lan truyền, và nỗi sợ Chiến tranh Lạnh lớn dần, câu hỏi bắt đầu đặt ra về việc ông không nhận được tư cách là công dân Hoa Kỳ.[269] Nhiều người kêu gọi trục xuất Chaplin; Dân biểu John E. Rankin của Mississippi nói trước Quốc hội vào tháng 6 năm 1947: “Chính việc hắn sống tại Hollywood là phương hại tới cơ cấu đạo đức Mỹ. [Nếu hắn bị trục xuất] … có thể tránh được việc những thước phim đáng ghê tởm của hắn lọt vào mắt thanh niên nước Mỹ. Hắn nên bị trục xuất và loại bỏ ngay lập tức.“[270]
Limelight và lệnh cấm ở Hoa Kỳ
Limelight (1952) là một phim nghiêm túc và có tính tự truyện của Chaplin: nhân vật Cavero, một cựu ngôi sao rạp hát (mô tả ở đây như một “nghệ sĩ hài lang thang”) phải đối mặt với danh tiếng sụp đổ.
Mặc dù Chaplin vẫn hoạt động tích chính trị tích cực những năm sau sự thất bại của Monsieur Verdoux,[chú thích 22] bộ phim tiếp theo của ông, về một nghệ sĩ hài kịch bị lãng quên và một nữ vũ công ba lê ở London thời Edward không có bóng dáng chính trị nào. Limelight (“Ánh đèn sân khấu”) mang đậm tính tự truyện, không chỉ nhắc tới tuổi thơ của Chaplin và đời sống bố mẹ ông, mà còn cả sự đánh mất tên tuổi ở Hoa Kỳ.[272] Dàn diễn viên bao gồm nhiều thành viên trong gia đình ông, bao gồm 5 đứa con lớn tuổi nhất của ông cùng người em cùng mẹ khác cha của ông, Wheeler Dryden.[273]
Sau ba năm chuẩn bị kịch bản, vào tháng 11 năm 1951, phim bắt đầu khởi quay.[274][chú thích 23] Phim có giọng điệu nghiêm túc hơn bất cứ phim nào trước đây của ông, và Chaplin thường xuyên sử dụng từ “melancholy” (“u sầu”) khi giải thích kế hoạch phim với diễn viên đóng cùng Claire Bloom.[276] Limelight cũng đáng chú ý vì sự góp mặt của Buster Keaton, người Chaplin mời vào vai bạn diễn trong một cảnh phim câm. Đây là lần duy nhất hai nhà làm phim hài lớn nhất của thời đại hợp tác với nhau trên màn ảnh.[277]
Chaplin quyết định khởi chiếu bộ phim đầu tiên ở London, vì đây là nơi đặt bối cảnh phim.[278] Khi rời Los Angeles ông đã nói ra linh tính rằng mình sẽ không quay trở lại Hoa Kỳ.[279] Ở New York, ông lên tàu RMS Queen Elizabeth cùng với gia đình ngày 18 tháng 9 năm 1952.[280] Ngay ngày hôm sau, Tổng Chưởng lý James P. McGranery thu hồi giấy phép tái nhập cảnh của Chaplin và tuyên bố rằng ông phải thực hiện một cuộc phỏng vấn về quan điểm chính trị và các hành vi đạo đức rồi mới được quay lại Hoa Kỳ.[280] Mặc dù McGranery nói với báo chí rằng ông có “một vụ tố tụng khá thú vị chống lại Chaplin“, theo Maland kết luận, dựa trên hồ sơ của FBI công bố vào những năm 1980, chính phủ Hoa Kỳ không có bằng chứng thực sự nào để ngăn cản Chaplin quay lại. Nếu ông đâm đơn xin quay lại, hẳn ông đã có thể nhận được giấy phép.[281] Tuy nhiên, khi Chaplin nhận được điện tín thông báo tin này, ông quyết định cắt đứt mối quan hệ với Hoa Kỳ:
“Việc tôi có quay trở lại cái đất nước bất hạnh đó không chẳng có mấy hệ lụy với tôi. Tôi muốn nói với họ rằng tôi càng sớm thoát khỏi cái bầu không khí bao vây thù địch đó thì càng tốt, rằng tôi đã chán ngấy những thứ xúc phạm và khoa trương của nước Mỹ”[282]
Do tất cả tài sản của ông vẫn còn lại ở Hoa Kỳ, Chaplin kiềm chế không nói bất cứ điều gì tiêu cực thêm về sự kiện này với báo chí.[283] Dù vụ bê bối vẫn trở thành tin sốt dẻo[284] nhưng Chaplin và phim của ông vẫn được chào đón nồng nhiệt ở châu Âu.[280] Trong khi đó ở Hoa Kỳ sự thù địch đối với ông vẫn tiếp tục, và mặc dù Limelight nhận được một vài lời phê bình tích cực, hầu hết các hệ thống rạp chiếu phim tẩy chay phim này.[285] Phản ánh điều này, Maland viết rằng sự suy sụp của Chaplin, từ một mức độ danh tiếng “chưa từng có tiền lệ“, “có lẽ là [sự tàn lụi] kịch tính nhất trong lịch sử các ngôi sao điện ảnh ở Hoa Kỳ“.[286]
Những năm ở châu Âu (1953-1977)
Chuyển tới Thụy Sĩ và A King in New York
“Tôi đã thành đối tượng của những lời dối trá và tuyên truyền bởi những nhóm phản động hùng mạnh, những kẻ bằng ảnh hưởng và sự trợ giúp của những tờ báo lá cải Mỹ, đã tạo nên một bầu không khí thiếu lành mạnh trong đó những cá nhân với đầu óc tự do có thể bị phân biệt đối xử và truy bức. Dưới những điều kiện đó tôi thấy hầu như không thể nào có thể tiếp tục sự nghiệp điện ảnh của mình, và do đó tôi từ bỏ nơi cư trú của mình ở Hoa Kỳ.”[287]
— Tuyên bố báo chí của Chaplin về quyết định không tìm cách tái nhập cảnh Hoa Kỳ
Chaplin không quay lại Hoa Kỳ mà gửi gắm cho vợ giải quyết các vụ việc.[chú thích 24] Hai người quyết định di cư tới Thụy Sĩ, và tháng 1 năm 1953 cả gia đình chuyển tới điền trang mới mà họ sẽ sống suốt phần đời còn lại: Manoir de Ban, một cơ ngơi rộng 37 mẫu nhìn ra Hồ Genève ở Corsier-sur-Vevey.[289][chú thích 25] Chaplin rao bán biệt thự ở Beverly Hills cùng xưởng phim vào tháng 3, và chính thức chấm dứt đăng ký tái nhập cảnh vào tháng 4. Năm sau, vợ ông từ bỏ quyền công dân Hoa Kỳ và nhập quốc tịch Anh.[291] Chaplin cắt đứt mối liên hệ nghề nghiệp cuối cùng với Hoa Kỳ vào năm 1955 khi ông bán nốt phần cổ phiếu còn lại của ông United Artists. Hãng này đã đứng trước những khó khăn tài chính kể từ đầu những năm 40.[292]
Chaplin vẫn là một nhân vật gây tranh cãi trong suốt những năm 1950, đặc biệt sau khi ông nhận Giải thưởng Hòa bình Quốc tế của Hội đồng Hòa bình Thế giới (do phe Liên Xô kiểm soát), cũng như sau các cuộc gặp với Chu Ân Lai và Nikita Khrushchev.[293] Ông bắt đầu phát triển bộ phim đầu tiên ở châu Âu, A King in New York (“Một vị vua ở New York”) từ năm 1954.[294] Trong phim ông xuất hiện như một vị vua lưu đày tìm kiếm tị nạn ở Hoa Kỳ, thể hiện một vài trải nghiệm gần đây của chính mình trong kịch bản. Con trai ông, Michael, đóng vai một cậu bé mà cha mẹ là đối tượng điều tra của FBI, trong khi nhân vật của Chaplin đối diện với những cáo buộc theo chủ nghĩa cộng sản.[295] Trào phúng chính trị chế nhạo HUAC và công kích những yếu tố của văn hóa thập niên 1950-bao gồm chủ nghĩa tiêu dùng, phẫu thuật thẩm mỹ và phim màn ảnh rộng.[296] Trong một bài phê bình, nhà viết kịch John Osborne gọi đây là phim “cay đắng nhất” và “có tính cá nhân công khai nhất” của Chaplin.[297]
Chaplin thành lập một hãng sản xuất phim mới, Attica, và sử dụng Hãng phim Shepperton để quay phim.[294] Việc quay phim ở Anh gặp nhiều khó khăn, vì ông quen với xưởng phim của riêng mình ở Hollywood cùng dàn nhân sự quen thuộc, và không còn có thời gian sản xuất không giới hạn nữa. Theo Robinson, điều này để lại ảnh hưởng tiêu cực lên chất lượng của bộ phim.[298] A King in New York phát hành tháng 9 năm 1957, và nhận được những lời khen chê trái ngược.[299] Chaplin cấm các phóng viên Hoa Kỳ trong buổi khởi chiếu ở Paris, và quyết định không phát hành phim ở Hoa Kỳ. Điều này đã ảnh hưởng nặng nề tới doanh thu của bộ phim, mặc dù nó ít nhiều thành công về mặt thương mại ở châu Âu.[300] A King in New York chỉ được chiếu ở Mỹ từ năm 1973.[301]
Những tác phẩm cuối cùng và danh tiếng trở lại
Chaplin cùng với vợ Oona và 6 người con trong bức ảnh năm 1961
Vào hai thập niên cuối sự nghiệp, Chaplin tập trung vào việc biên tập lại và ghi âm thanh các phim cũ để tái phát hành, cùng với tìm cách bảo đảm quyền sở hữu và phân phối chúng.[302] Trong một cuộc phỏng vấn năm 1959, nhân dịp sinh nhật lần thứ 70, Chaplin khẳng định rằng vẫn có “chỗ cho Con người Nhỏ bé trong kỉ nguyên nguyên tử”.[303][chú thích 26] Sản phẩm làm lại đầu tiên mang tên The Chaplin Revue (1959), bao gồm phiên bản mới của A Dog’s Life, Shoulder Arms, và The Pilgrim.[303]
Ở Hoa Kỳ, bầu không khí chính trị bắt đầu thay đổi và sự quan tâm một lần nữa hướng vào phim của Chaplin thay vì những quan điểm của ông.[302] Tháng 6 năm 1962, The New York Times viết một xã luận khẳng định rằng “chúng tôi không tin rằng nền Cộng hòa sẽ bị nguy hiểm nếu anh chàng lang thang bé nhỏ bị quên lãng của ngày hôm qua được phép thả bước xuống tàu hay lên máy bay vào một cảng của nước Mỹ“.[304] Cùng tháng đó, Chaplin nhận bằng danh dự Tiến sĩ Văn chương từ các trường Đại học Oxford và Durham.[305] Tháng 11 năm 1963, Rạp hát Plaza ở New York bắt đầu chiếu một sê-ri trong một năm toàn phim Chaplin, bao gồm cả Monsieur Verdoux và Limelight, và nhận được những phê bình xuất sắc từ giới phê bình Mỹ.[306] Tháng 9 năm 1964 chứng kiến việc phát hành hồi ký của Chaplin mang tên “My Autobiography” (“Tự truyện của tôi”), mà ông đã bắt tay vào viết từ năm 1957.[307] Cuốn sách dài 500 trang, tập trung vào những năm đầu đời và đời sống cá nhân của ông, trở thành sách bán chạy trên toàn cầu, bất chấp những chỉ trích rằng nó thiếu những thông tin liên quan tới sự nghiệp làm phim của ông.[308]
Ít lâu sau khi công bố hồi ký, Chaplin bắt đầu thực hiện A Countess from Hong Kong (“Một nữ bá tước từ Hồng Kông”, 1967), một hài kịch lãng mạn dựa trên một kịch bản mà ông viết dành cho Paulette Goddard vào những năm 1930.[309] Đặt bối cảnh trên một tàu biển, phim có sự góp mặt của Marlon Brando trong vai một đại sứ Mỹ và Sophia Loren trong vai người đi lậu vé tìm thấy trong cabin của ông.[309] Phim này khác với những tác phẩm trước đây ở nhiều điểm. Nó là phim đầu tiên sử dụng Technicolor và định dạng màn ảnh rộng, trong khi ông tập trung vào công tác đạo diễn và xuất hiện trên màn ảnh chỉ trong một vai phụ như một người phục vụ trên tàu bị say sóng.[310] Ông cũng kí hợp đồng với Universal Pictures và bổ nhiệm trợ lý của mình, Jerome Epstein, làm nhà sản xuất.[311] A Countess from Hong Kong khởi chiếu tháng 1 năm 1967, nhận được những phê bình bất lợi và cuối cùng thất bại ở phòng vé.[312][313] Chaplin bị phản ứng tiêu cực về phim này làm tổn thương sâu sắc, và bộ phim này rốt cuộc là bộ phim cuối cùng của ông.[312]
Chaplin hứng chịu một chuỗi các cơn đột quỵ ngắn vào cuối những năm 1960, đánh dấu sự bắt đầu quá trình sức khỏe ông suy yếu từ từ.[314] Bất chấp những trở ngại, ông sớm trở lại viết một kịch bản phim mới, The Freak (“Quái vật”), một câu truyện về một cô gái có cánh xuất hiện ở Nam Mỹ, mà ông dự định để dành cho con gái của mình Victoria.[314] Sức khỏe mong manh của ông ngăn cản dự án trở thành hiện thực.[315] Đầu những năm 1970, Chaplin tập trung vào việc tái phát hành các phim cũ, bao gồm The Kid và The Circus.[316] Năm 1971, ông nhận Bắc Đẩu Bội tinh hạng hai tại Liên hoan Phim Cannes.[317] Năm sau đó, ông nhận được một giải thưởng ghi nhận đặc biệt trong Liên hoan Phim Venice.[318]
Năm 1972, Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh dành tặng Chaplin một Giải thưởng danh dự, mà Robinson xem là một dấu hiệu rằng nước Mỹ “muốn thực hiện những đổi thay”. Chaplin ban đầu ngập ngừng về việc có nên chấp nhận, nhưng cuối cùng đã quyết định trở lại Hoa Kỳ lần đầu tiên trong 20 năm.[317] Chuyến thăm thu hút một lượng lớn tin bài từ truyền thông, và ở đêm trao giải Oscar năm đó ông nhận được công chúng hiện diện đứng dậy vỗ tay 12 phút liên tục, đó là tràng pháo tay lâu nhất trong lịch sử giải Oscar.[319][320] Xúc động lộ ra ngoài vẻ mặt, Chaplin nhận giải thưởng đề “dành cho tác động không thể đo đếm được của ông trong việc đưa điện ảnh thành hình thức nghệ thuật của thế kỉ này”.[321]
Mộ của Chaplin tại Corsier-sur-Vevey, Switzerland
Mặc dù Chaplin vẫn có kế hoạch cho những dự án phim tương lai, tới giữa những năm 1970 ông đã rất yếu.[322] Ông chịu thêm vài lần đột quỵ nữa, khiến ông bắt đầu giao tiếp khó khăn và buộc phải dùng tới xe lăn.[323][324] Những dự án cuối cùng của ông bao gồm việc dựng một tiểu sử bằng ảnh, My Life in Pictures (1974) và ghi âm A Woman of Paris để phát hành năm 1976.[325] Ông cũng xuất hiện trong một phim tài liệu về cuộc đời mình, The Gentleman Tramp (1975), do Richard Patterson đạo diễn.[326] Trong danh sách Vinh danh nhân dịp năm mới 1975, Chaplin được Nữ hoàng Elizabeth II ban tước hiệp sĩ.[325][chú thích 27].[328]
Qua đời
Tới tháng 10 năm 1977, sức khỏe Chaplin đã suy yếu đến độ ông cần đến người thường trực chăm sóc.[329] Vào sáng sớm ngày 25 tháng 12 (lễ Giáng Sinh) năm 1977, ông mất tại nhà sau khi mắc cơn đột quỵ trong lúc ngủ, thọ 88 tuổi.[324]
Đám tang được tổ chức vào ngày 27 tháng 12 theo nghi lễ Anh giáo, quy mô nhỏ và riêng tư, theo nguyện vọng của ông.[chú thích 28] Thi hài ông được mai táng ở nghĩa trang Corsier-sur-Vevey.[329] Trong số các lời phúng điếu từ giới làm phim, đạo diễn René Clair viết, “Ông là một tượng đài của điện ảnh, của tất cả quốc gia và mọi thời đại… món quà đẹp đẽ nhất điện ảnh đã dành cho chúng ta.”[331] Diễn viên Bob Hope tuyên bố, “Chúng ta may mắn được sống trong thời đại của ông.”[332]
Ngày 1 tháng 3 năm 1978, quan tài của Chaplin bị đào lấy cắp bởi hai người di cư không việc làm, Roman Wardas, từ Ba Lan, và Gantcho Ganev, từ Bulgaria. Thi thể bị giữ làm con tin để đòi tiền chuộc từ Oona Chaplin. Hai tay đào trộm mộ bị bắt trong một chiến dịch lớn của cảnh sát vào tháng 5, sau đó quan tài của Chaplin được tìm thấy bị chôn trên một cánh đồng ở làng Noville gần đó. Thi hài được đem táng lại tại nghĩa trang Corsier và vây kín bằng bê tông cốt thép.[333][334] Câu chuyện về vụ thi hài của ông bị đánh cắp này đã được dựng thành phim “Cái giá của sự nổi tiếng” (nguyên văn tiêu đề tiếng Pháp La Rançon de la gloire), với kịch bản của Xavier Beauvois và Etienne Comar, đạo diễn Xavier Beauvois. Phim có sự tham gia diễn xuất của người con trai vua hề, Eugene Chaplin.[335][336][337]
Sự nghiệp làm phim
Ảnh hưởng
Chaplin tin rằng người đầu tiên ảnh hưởng tới sự nghiệp của ông chính là mẹ ông. Khi ông còn bé bà thường làm trò cho con xem bằng cách ngồi bên cửa sổ và bắt chước cử chỉ người qua đường. “Chính là nhờ quan sát bà mà tôi học được không chỉ cách thể hiện cảm xúc bằng tay và nét mặt, mà cả cách quan sát và nghiên cứu con người.”[338] Những năm đầu, việc Chaplin diễn ở rạp hát cho phép ông quan sát các nghệ sĩ hài sân khấu làm việc,và ông cũng dự các buổi diễn kịch câm tại Nhà hát Hoàng gia, Ngõ Drury (London), nơi ông nghiên cứu nghệ thuật diễn hài từ các nghệ sĩ như Dan Leno.[339] Những năm làm việc cho công ty Fred Karno đã có tác động hình thành nên vai trò diễn viên và nhà làm phim của Chaplin. Simon Louvish viết rằng công ty chính là “sân tập” của ông,[340] và đây chính là nơi Chaplin học được cách thay đổi tiết tấu trong hài kịch của mình.[341] Quan niệm kết hợp giữa tính cảm động và tính gây cười ông đã học được từ Karno,[chú thích 29] người cùng sử dụng những yếu tố phi lý sẽ trở thành quen thuộc trong các màn hài hước của Chaplin sau này.[341][342] Chaplin đã dựa trên các tác phẩm của nhà hài kịch người Pháp Max Linder, mà ông hết sức ngưỡng mộ để đúc rút ra các phong cách cho riêng mình.[343] Trong quá trình phát triển hình tượng và trang phục, ông có vẻ đã lấy cảm hứng từ khung cảnh kịch vui Mỹ trong đó những nhân vật lang thang là khá phổ biến.[344]
Phương pháp
Một bức ảnh chụp Xưởng phim Charlie Chaplin năm 1922. Đây là nơi sản xuất tất cả các phim của Chaplin những năm 1918-1952.
Chaplin không bao giờ nói về phương pháp làm phim của mình, trừ vài lời lướt qua, nói rằng tiết lộ như vậy chẳng khác nào một nhà ảo thuật đi kể mánh màn ảo thuật của chính mình.[345] Khi ông còn sống người ta ít biết về quy trình làm việc của ông,[346] nhưng những nghiên cứu từ các sử gia điện ảnh – đặc biệt là những phát hiện của Kevin Brownlow and David Gill trình bày trong bộ phim tài liệu ba phần Unknown Chaplin (1983) – đã tiết lộ phương pháp làm việc độc nhất vô nhị của ông.[347]
Trước khi ông bắt đầu làm phim có hội thoại đầu tiên là The Great Dictator, Chaplin không bao giờ quay với một kịch bản hoàn thành đầy đủ.[348] Nhiều phim thời kỳ đầu của ông chỉ bắt đầu với một tiêu đề rất mơ hồ – chẳng hạn “Charlie bước vào một spa chăm sóc sức khỏe” hay “Charlie làm việc trong một cửa hàng cầm đồ.”[349] Sau đó ông bắt đầu xây dựng các bối cảnh và làm việc với công ty cung ứng của mình để ứng biến các tiết tấu vui cùng những “diễn xuất” xung quanh chúng, hầu như luôn tạo ra ý tưởng mới liên tục trong phim.[347] Vì các ý tưởng được chấp nhận hoặc bác bỏ liên tục, một cấu trúc lời thoại sẽ dần dần hình thành, thường xuyên khiến Chaplin phải quay lại một cảnh đã được hoàn thành trước đó để khiến nó không bị mâu thuẫn với toàn bộ cốt truyện.[350] Kể từ A Woman of Paris trở đi Chaplin bắt đầu quá trình làm phim với cốt truyện đã được chuẩn bị trước,[351] nhưng Robinson viết rằng mọi phim của Chaplin cho tới Modern Times vẫn “trải qua vô số biến hóa và hoán đổi trước khi cốt truyện có được kết cấu hoàn chỉnh cuối cùng.”[352]
Sản xuất phim theo lối này đòi hỏi Chaplin tốn nhiều thời gian để hoàn thành các tựa phim hơn hầu hết mọi nhà làm phim đương thời.[353] Nếu một lúc nào ông cảm thấy thiếu ý tưởng thì ông thường tạm nghỉ quay, những đợt nghỉ quay này có thể kéo dài vài ngày, trong khi ông vẫn bắt xưởng phim phải sẵn sàng làm việc ngay khi cảm hứng của mình trở lại.[354] Cuối cùng, tính cầu toàn khắt khe của Chaplin càng trì hoãn quá trình làm phim hơn nữa.[355] Theo một người bạn của ông là Ivor Montagu, “không có gì khác, chỉ có sự hoàn hảo mới chấp nhận được” đối với Chaplin.[356] Vì trong phần lớn sự nghiệp ông dùng tiền của chính mình để làm phim, Chaplin được hoàn toàn tự do làm theo ý mình mình và thoải mái quay bao nhiêu cảnh tùy thích.[357] Số cảnh quay thường khá thừa thãi, chẳng hạn trong The Kid trung bình mỗi cảnh quay cuối cùng chấp nhận được là kết quả của 53 lần quay đi quay lại.[358] Với The Immigrant, một phim dài 20 phút, Chaplin quay tới tầm 12 nghìn mét phim– đủ cho cả một bộ phim thời lượng dài thông thường.[359]
“Không nhà làm phim nào từng thống trị mọi khía cạnh của tác phẩm một cách hoàn toàn như thế, làm tất cả mọi công việc. Giá mà ông có thể, hẳn Chaplin đã đóng mọi vai và (như con trai ông Sydney nhận xét một cách hài hước nhưng sâu sắc) khâu mọi bộ trang phục.”[345]
Mô tả phương pháp làm việc của chính mình là một “sự kiên trì tuyệt đối tới độ điên rồ”,[360] việc sản xuất một bộ phim hoàn toàn chiếm hết thời gian của Chaplin.[361] Robinson viết rằng ngay cả trong những năm về sau, các tác phẩm tiếp tục “là ưu tiên cao hơn mọi thứ và mọi người khác” đối với Chaplin.[362] Sự kết hợp của sự ứng biến câu chuyện và tính chu toàn không bao giờ suy suyển – dẫn đến nhiều ngày nỗ lực và hàng nghìn thước phim bị vứt bỏ, cùng với nó là chi phí khổng lồ – thường xuyên khiến Chaplin bị mệt mỏi. Vào những lúc thất vọng, ông thường lớn tiếng mắng nhiếc diễn viên và đoàn làm phim của mình.[363]
Chaplin có toàn quyền kiểm soát các phim mình làm,[345] tới mức ông thường diễn mẫu cho các diễn viên của ông và đòi hỏi họ phải bắt chước ông một cách chính xác.[364] Ông cũng tự tay biên tập tất cả các phim của mình, rà soát qua những lượng lớn các thước phim đã quay để tạo nên chính xác bộ phim mà ông mong muốn.[365] Vì sự độc lập hoàn toàn này, sử gia điện ảnh Andrew Sarris đã xem ông như là một trong những nhà làm phim-“tác giả” (“auteur”) đầu tiên.[366] Tuy nhiên Chaplin cũng nhận nhiều sự giúp đỡ, đáng chú ý là từ nhà quay phim lâu năm của ông Roland Totheroh, anh trai ông Sydney Chaplin, và một loạt trợ lý đạo diễn như Harry Crocker và Charles Reisner.[367]
Phong cách và chủ đề
Một số cảnh từ
The Kid (1921), thể hiện sự trộn lẫn giữa tính pha trò, tính cảm động, và bình luận xã hội
Trong khi phong cách hài kịch của Chaplin thường được định nghĩa rộng rãi là pha trò (tiếng Anh: “slapstick”),[368] nó được xem là có chừng mực và khá thông minh,[369] điều mà sử gia điện ảnh Philip Kemp mô tả là sự kết hợp giữa “hài kịch câm, dáng điệu ba lê và các trò gây cười dựa vào bối cảnh đáng suy nghĩ”.[370] Chaplin tách mình ra khỏi lối diễn hài thông thường bằng việc kéo chậm lại nhịp điệu và rút đi nét hài hước của mỗi cảnh, tập trung nhiều hơn vào phát triển quan hệ giữa người xem đối với nhân vật.[67][371] Không giống hài kịch thông thường, Robinson khẳng định rằng những thời điểm hài hước trong phim Chaplin đặt trọng tâm vào thái độ của nhân vật Tramp với những thứ xảy ra với anh ta: tính hài hước không đến từ việc Tramp vấp vào cái cây, mà từ cách anh nhấc cái mũ ra để xin lỗi cái cây.[67] Dan Kamin viết rằng “trường phái kiểu cách kỳ quặc” và “lối xử sự nghiêm túc trong những hành động khôi hài” là những đặc trưng quan trọng khác trong hài kịch của Chaplin,[372] trong khi những biến đổi sự vật mang tính siêu thực và việc sử dụng các kỹ xảo máy quay cũng là những đặc điểm thường gặp trong phim Chaplin.[373]
Các phim câm của Chaplin thông thường đi theo mô-típ mô tả những nỗ lực của nhân vật Tramp để tồn tại trong một thế giới thù địch.[374] Nhân vật sống trong cảnh nghèo nàn và thường xuyên bị đối xử tệ bạc, những vẫn luôn tử tế và lạc quan;[375] thách thức vị trí xã hội của mình, anh ta tìm cách muốn được người ta xem là một quý ông lịch lãm.[376] Như Chaplin từng nói vào năm 1925, “Điểm chung của Anh chàng Bé nhỏ là dù cho đời sống anh ta có khổ cực đến đâu, dù cho người đời có thành công trong việc hành hạ anh ta đến mấy, anh ta vẫn là một con người đầy phẩm cách.”[377] Tramp thách thức các nhân vật quyền lực[378] và “cho đi những gì anh ta có”,[377] khiến cho Robinson cùng Louvish xem nhân vật này như một đại diện cho những con người bị thiệt thòi – một kẻ bình thường như bất cứ ai, trở thành một người cứu rỗi anh hùng”.[379] Hansmeyer ghi nhận rằng một số phim của Chaplin giống nhau ở chỗ kết thúc với cảnh “Tramp không nhà cửa và cô đơn [bước đi] một cách lạc quan… về phía mặt trời lặn… để tiếp tục cuộc hành trình của mình”.[380]
“Thật là nghịch lý rằng bi kịch thường kích thích tinh thần chế nhạo.. chế nhạo, theo tôi giả định, là một thái độ đáng coi thường; chúng ta phải cười vào mặt sự bất hạnh vô phương của chúng ta chống lại những thế lực của tự nhiên – hoặc là thành phát điên.”[381]
—Chaplin giải thích tại sao ông thường biến những tình huống đau thương thành trò khôi hài
Sự trộn lẫn tính cảm động và pha trò là một đặc trưng nổi tiếng trong các tác phẩm của Chaplin,[382] và Larcher ghi nhận danh tiếng của ông trong việc “khiến người xem cười ra nước mắt”.[383] Tính cảm động trong phim của ông đến từ nhiều nguồn khác nhau, theo Louvish nhận diện là từ “những thất bại cá nhân, sự cứng nhắc của xã hội, thảm họa kinh tế, và những yếu tố khác.”[384] Chaplin đôi khi dựa trên các sự kiện bi thương khi tạo nên phim của mình, như trường hợp bộ phim The Gold Rush (1925) của ông đã chịu ảnh hưởng từ số phận của Donner Party.[381] Constance B. Kuriyama đã chỉ ra những chủ đề nghiêm túc ngầm ẩn trong các hài kịch ban đầu của ông, như tính tham lam (The Gold Rush) và sự mất mát (The Kid).[385] Chaplin cũng đã đả động tới những chủ đề gây tranh cãi: nhập cư (The Immigrant, 1917); con hoang (The Kid, 1921); và sử dụng thuốc kích thích (Easy Street, 1917).[371] Ông thường khám phá các chủ đề này một cách mỉa mai, tạo dựng hài kịch từ sự đau khổ.[386]
Bình luận xã hội là một đặc điểm của phim Charlin ngay từ giai đoạn đầu sự nghiệp, khi ông minh họa những người thua thiệt trong xã hội với sự thương cảm và tô đậm những nỗi cơ cực của người nghèo.[387] Sau đó, ông tỏ ra quan tâm đặc biệt đến kinh tế học và cảm thấy bắt buộc phải thể hiện những quan điểm của mình trong các bộ phim,[388] và Chaplin bắt đầu kết hợp những thông điệp mang tính chính trị trong phim của ông.[389] Modern Times (1936) thể hiện những người thợ trong xí nghiệp làm việc dưới những điều kiện thảm hại, The Great Dictator (1940) chế nhạo cả Adolf Hitler lẫn Benito Mussolini và kết thúc với một diễn văn lên án chủ nghĩa dân tộc, Monsieur Verdoux (1947) lân án chiến tranh và chủ nghĩa tư bản, còn A King in New York (1957) tấn công chủ nghĩa McCarthy.[390]
Một vài phim của Chaplin cũng tích hợp các yếu tố tự truyện, và nhà phân tâm học Sigmund Freud tin rằng Chaplin “luôn tái hiện chính mình sống lại thời niên thiếu vất vả của ông”.[391] The Kid được cho là phản ánh nỗi đau của Chaplin khi bị gửi vào trại trẻ mồ côi từ lúc nhỏ,[391] trong khi các nhân vật chính trong Limelight (1952) rõ ràng mượn những yếu tố từ cuộc đời cha mẹ ông,[392] còn A King in New York phản ánh trải nghiệm bị người đời xa lánh ở Hoa Kỳ của Chaplin.[393] Nhiều cảnh quay của ông, đặc biệt là những cảnh đường phố, có sự tương đồng mạnh mẽ với phố Kennington, nơi ông lớn lên. Stephen M. Weissman lập luận rằng mối quan hệ căng thẳng giữa Chaplin và người mẹ mắc bệnh tâm thần thường xuyên được phản ánh trong các nhân vật nữ của ông cũng như giải thích tại sao nhân vật Tramp luôn mong muốn cứu vớt họ.[391]
Về cấu trúc các phim của Chaplin, học giả Gerald Mast xem chúng bao gồm những cảnh kịch vui ngắn, gắn lại với nhau bởi cùng chủ đề và bối cảnh, hơn là có một cốt truyện thống nhất chặt chẽ.[394] Về mặt hình ảnh, phim của ông đơn giản và thường tiết kiệm, không hoành tráng,[395] có những cảnh trông như thể được dựng trên một sân khấu.[396] Cách tiếp cận của ông đối với việc quay phim được đạo diễn nghệ thuật Eugène Lourié mô tả: “Chaplin không nghĩ về những hình ảnh “nghệ thuật” khi ông đang quay. Ông tin rằng hành động là điều chủ yếu. Máy quay ở đó chỉ là để chụp được hành động của diễn viên”.[397] Trong tự truyện của mình, Chaplin cũng viết, “Tính đơn giản là tuyệt vời nhất… các hiệu ứng hoa mỹ kéo chậm hành động, chúng gây chán ngán và chẳng có gì thú vị… Máy quay không nên can thiệp quá sâu.”[398] Kể từ thập niên 1940, cách tiếp cận này đã dẫn đến những chỉ trích là “lỗi thời”,[399] trong khi nhà nghiên cứu điện ảnh Donald McCaffrey lại xem đó đó là một dấu hiệu rằng Chaplin chưa bao giờ hoàn toàn hiểu điện ảnh như là một môi trường (tách biệt với sân khấu).[400] Tuy nhiên Kamin bình luận rằng tài năng hài kịch của Chaplin sẽ không đủ để người ta thấy buồn cười mãi bên màn ảnh nếu ông không có “khả năng nhận thức và chỉ đạo những cảnh quay đặc thù cho môi trường điện ảnh”.[401]
Soạn nhạc
Chaplin có sự đam mê dành cho âm nhạc từ nhỏ, và ông đã tự học chơi piano, violin và cello.[402] Ông coi trọng kết hợp âm nhạc vào phim,[173] và kể từ A Woman of Paris trở đi ông ngày càng quan tâm tới mảng này.[403] Với sự ra đời của công nghệ âm thanh, Chaplin bắt đầu sử dụng một bản ghi dàn nhạc đồng bộ – do chính ông sáng tác – cho City Lights (1931). Kể từ đó ông sáng tác các bản nhạc cho tất cả những phim của mình, và từ cuối những năm 1950 tới cuối đời, ông dành thời gian để ghi âm nhạc cho tất cả các phim câm thời lượng dài và cả các phim ngắn trước kia của ông.[404]
Vì Chaplin không được học về nhạc, ông không thể đọc khuôn nhạc và cần sự giúp đỡ của những nhà soạn nhạc chuyên nghiệp, như David Raksin, Raymond Rasch và Eric James, khi soạn các bài nhạc. Mặc dù vài nhà phê bình tuyên bố rằng việc ghi nhận công lao cho các nhạc phim của ông phải dành cho những nhạc sĩ làm việc với ông, bản thân Raksin – người cộng tác với ông trong Modern Times – đã nhấn mạnh khả năng sáng tạo và sự tham gia tích cực của Chaplin vào quá trình sáng tác.[405] Quá trình này, đôi khi kéo dài hàng tháng, bắt đầu với việc Chaplin mô tả cho các nhà soạn nhạc chính xác cái ông muốn và tự ông hát hoặc chơi các giai điệu mà ông ứng tấu trên piano.[405] Những giai điệu này được phát triển thông qua sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhạc sĩ và Chaplin.[405] Theo sử gia điện ảnh Jeffrey Vance, “mặc dù ông phụ thuộc vào các đồng sự trong việc sắp xếp phối khí phức tạp và biến tấu, ý tưởng âm nhạc là của ông, và không có nốt nhạc nào trong các bản ghi âm của Chaplin lại không có sự đồng ý của chính ông.”[404]
Chaplin đã sáng tác ba ca khúc nổi tiếng. “Smile“, ban đầu viết cho Modern Times (1936) và về sau đặt lời bởi John Turner (nhà thơ) và Geoffrey Parsons, đã trở thành ca khúc hit cho Nat King Cole vào năm 1954.[404] Để dành cho Limelight, Chaplin viết ra “Terry’s Theme”, từng nổi tiếng với sự trình bày của Jimmy Young dưới tên “Eternally” (1952).[406] Cuối cùng, “This Is My Song“, do Petula Clark trình bày trong phim A Countess from Hong Kong (1967), vươn lên số 1 trong các bảng xếp hạng ở Anh và nhiều nước châu Âu.[407] Chaplin cũng nhận được giải Oscar duy nhất (không tính các giải danh dự) cho sáng tác nhạc, đó là ca khúc chủ đề cho Limelight giật Giải Oscar cho nhạc phim hay nhất năm 1973 sau khi phim được tái phát hành.[404][chú thích 30]
Di sản
Chaplin hình thành nhân vật Tramp năm 1915, được xem là “biểu tượng phổ biến nhất” của điện ảnh
[409]
Năm 1998, nhà phê bình điện ảnh Andrew Sarris gọi Chaplin “có lẽ là nghệ sĩ đơn lẻ quan trọng nhất mà nền điện ảnh từng sinh ra, và chắc chắn là nghệ sĩ trình diễn phi thường nhất và hẳn vẫn là biểu tượng phổ biến nhất của nó”.[409] Ông được Viện Phim Anh mô tả là “một nhân vật xuất chúng tột bậc của văn hóa thế giới”,[410] và tạp chí Time xếp ông vào danh sách 100 nhân vật quan trọng nhất thế kỷ 20 vì “tiếng cười [mà ông đem lại] cho hàng triệu người” và bởi ông “ít nhiều đã sáng tạo nên tính ghi nhận toàn cầu và giúp chuyển đổi một nền công nghiệp [điện ảnh] trở thành một môn nghệ thuật”.[411]
Hình ảnh nhân vật Tramp đã trở thành một phần của lịch sử văn hóa;[412] theo Simon Louvish, nhân vật này có thể nhận ra được với cả những người chưa từng xem một phim của Chaplin, và ở những nơi mà phim của ông chưa từng được chiếu.[413] Nhà phê bình Leonard Maltin đã viết về đặc tính “độc nhất” và “bất hủ” của Tramp, và khẳng định rằng không một nghệ sĩ hài nào có thể so bì với ông về “tầm ảnh hưởng toàn thế giới”.[414] Ca ngợi nhân vật Tramp, Richard Schickel gợi ý rằng các phim Chaplin với Tramp chứa đựng “những biểu hiện hùng hồn nhất, giàu tính hài hước nhất của tinh thần nhân văn” trong lịch sử điện ảnh.[415] Những vật kỷ niệm liên hệ với nhân vật vẫn tạo ra những vụ đấu giá giá trị lớn: năm 2006 một chiếc mũ quả dưa và một cây gậy trúc từng thuộc về phục trang của Tramp được bán với giá 140 nghìn đô la tại một cuộc đấu giá ở Los Angeles.[416]
Với tư cách nhà làm phim, Chaplin được xem như một nhà tiên phong và một trong những nhân vật quan trọng nhất của điện ảnh nửa đầu thế kỉ 20.[2] Người ta vẫn thường ghi nhận ông như một trong những nghệ sĩ đầu tiên của môi trường nghệ thuật này[417] Sử gia điện ảnh Mark Cousins viết rằng Chaplin “đã thay đổi không chỉ hình tượng về điện ảnh, mà cả tính xã hội học và cú pháp của nó” và khẳng định rằng Chaplin quan trọng với sự phát triển của thể loại hài kịch cũng như D.W. Griffith quan trọng đối với chính kịch.[418] Ông là người đầu tiên phổ biến các phim hài thời lượng dài và làm chậm lại nhịp độ diễn xuất, thêm vào tính cảm động và sự tinh tế.[419][420] Mặc dầu các tác phẩm của ông thường được xếp vào thể loại pha trò, các phim chính kịch của Chaplin như A Woman of Paris (1923) có ảnh hưởng quan trọng lên phim The Marriage Circle (1924) của Ernst Lubitsch và do đó đóng một phần vào sự phát triển của “hài kịch tinh xảo”.[421] Theo David Robinson, những cải tiến của Chaplin “nhanh chóng được đồng hóa thành một phần của công nghệ làm phim.”[422] Các nhà làm phim dẫn Chaplin ra như một nguồn ảnh hưởng đối với họ: Federico Fellini, người gọi Chaplin là “một kiểu Adam, mà từ đó tất cả chúng ta sinh ra”),[332] Jacques Tati (“Không có ông ấy tôi sẽ không bao giờ làm một bộ phim nào”),[332] René Clair (“Ông đã gây cảm ứng cho hầu như mọi nhà làm phim”),[331] Michael Powell,[423] Billy Wilder,[424] và Richard Attenborough.[425] Andrei Tarkovsky ca ngợi Chaplin là “con người duy nhất đã đi vào lịch sử điện ảnh mà không có một chút nghi ngờ nào. Những phim ông để lại không bao giờ trở nên cũ kỹ cả.”[426]
Chaplin cũng ảnh hưởng mạnh mẽ lên các nghệ sĩ hài sau này. Marcel Marceau nói rằng ông có được cảm hứng trở thành một nghệ sĩ diễn kịch sau khi xem Chaplin,[420] trong khi diễn viên Raj Kapoor xây dựng nhân vật màn ảnh của mình dựa trên nhân vật Tramp.[424] Mark Cousins cũng nhận ra phong cách hài kịch của Chaplin trong nhân vật Pháp Monsieur Hulot và nhân vật Ý Totò.[424] Trong các lĩnh vực khác, Chaplin cũng gợi cảm hứng cho các nhân vật hoạt hình Mèo Felix[427] và Chuột Mickey,[428] và có ảnh hưởng cả với phong trào nghệ thuật Dada.[429] Là một trong những thành viên thành lập United Artists, Chaplin cũng có một vai trò trong sự phát triển của công nghiệp phim ảnh. Gerald Mast viết rằng mặc dù UA chưa bao giờ trở thành một công ty hàng đầu như MGM hay Paramount Pictures, ý tưởng về các đạo diễn có thể tự sản xuất phim của mình đã “đi trước thời đại nhiều năm”.[430]
Trong thế kỉ 21, một vài phim của Chaplin vẫn được xem là những tác phẩm kinh điển và xếp vào hàng những phim xuất sắc nhất mọi thời đại. Trong cuộc thăm dò của Sight & Sound năm 2012, nhằm chọn ra “top 10″ số phiếu từ các nhà phê bình phim và đạo diễn để chọn các phim được ca ngợi nhiều nhất của mỗi nhóm, người ta thấy City Lights hiện diện trong top 50 của các nhà phê bình, Modern Times trong top 100, còn The Great Dictator và The Gold Rush trong top 250.[431] Các phim top 100 do các đạo diễn bầu chọn bao gồm Modern Times ở vị trí thứ 22, City Lights thứ 30, và The Gold Rush thứ 91.[432] Tất cả các phim thời lượng dài của Chaplin đều dành ít nhất 1 phiếu.[433] Năm 2007, Viện Phim Mỹ xướng danh City Lights ở vị trí thứ 11 trong danh sách 100 phim Mỹ hay nhất mọi thời đại, trong khi The Gold Rush và Modern Times cũng nằm trong top 100.[434] Các sách về Chaplin tiếp tục xuất bản đều đặn, và ông là một chủ đề phổ biến của những học giả về truyền thông và nhà sưu tập phim.[435] Nhiều phim Chaplin được tái phát hành dưới dạng DVD và Blu-Ray.[436]
Tưởng niệm và ghi danh
Có một số địa danh dành để tưởng niệm Chaplin. Tại thành phố quê hương ông, Bảo tàng Phim London có một triển lãm thường trực về cuộc đời và sự nghiệp của ông mang tên Charlie Chaplin – Người London Vĩ đại, bắt đầu mở cửa từ năm 2010.[437] Một bức tượng Chaplin trong mẫu nhân vật Tramp được đặt ở Quảng trường Leicester, do John Doubleday tạc và khánh thành năm 1981.[438] Thành phố cũng có một con đường mang tên ông, “Charlie Chaplin Walk” ở trung tâm London, trên đó có rạp chiếu phim IMAX London của Viện Phim Anh.[439]
Căn nhà Chaplin sống những năm cuối đời, Manoir de Ban ở Corsier-sur-Vevey, Thụy Sĩ, đang trong quá trình chuyển đổi thành một bảo tàng về ông, và sẽ mở cửa năm 2016.[440] Thị trấn Vevey gần đó có một công viên mang tên ông năm 1980 và dựng một bức tượng tại đây năm 1982.[438] Năm 2011, hai bức tranh tường lớn minh họa Chaplin trên hai tòa nhà 14 tầng cũng được khánh thành ở Vevey.[441] Chaplin cũng được thị trấn Waterville ở Ireland, nơi gia đình ông nghỉ hè vài năm, vinh danh. Một bức tượng được dựng lên tại thị trấn vào năm 1998,[442] và từ năm 2011 thị trấn này là nơi tổ chức Liên hoan Phim Hài kịch Charlie Chaplin, thành lập để tưởng niệm di sản củaChaplin cũng như là nơi trình diễn cho những tài năng hài kịch mới.[443]
Một tiểu hành tinh do nhà thiên văn Liên Xô Lyudmila Karachkina phát hiện năm 1981 được đặt theo tên ông, 3623 Chaplin.[444] Trong suốt những năm 1980, hình ảnh Tramp được IBM sử dụng để quảng cáo máy tính cá nhân.[445] Kỉ niệm 100 năm ngày sinh Chaplin năm 1989 đánh dấu một loạt sự kiện trên khắp thế giới,[chú thích 31] và ngày 15 tháng 4 năm 2011, một ngày trước sinh nhật lần thứ 122 của ông, Google đăng video đặc biệt trên Google Doodle của các trang chủ thế giới cũng như các trang tên miền quốc gia.[449] Nhiều quốc gia khác trên khắp các châu lục đã vinh danh Chaplin trên các con tem bưu chính.[450]
Con cái của Chaplin lập nên một công ty mang tên Association Chaplin để quản lý di sản của ông, công ty này sở hữu bản quyền về hình ảnh, tên gọi và hầu hết các phim làm sau năm 1918 của ông.[451] Nơi lưu trữ chính của công ty đặt tại Cineteca di Bologna bao gồm 83630 hình ảnh, 118 kịch bản, 976 bản thảo, 7756 lá thư, và hàng nghìn tài liệu khác.[452] Tàng thư ảnh, bao gồm khoảng 10 nghìn bức ảnh về cuộc đời và sự nghiệp của Chaplin, được đặt tại Bảo tàng Elysée tại Lausanne, Thụy Sĩ.[453] Viện Phim Anh cũng đã thành lập Quỹ Nghiên cứu Charles Chaplin, và Hội thảo quốc tế Charles Chaplin lần thứ nhất được tổ chức lại London tháng 7 năm 2005.[454]
Tái hiện
Chaplin là chủ đề của một bộ phim tiểu sử, Chaplin (1992, do Richard Attenborough đạo diễn với Robert Downey, Jr. thủ vai chính).[455] Chaplin cũng là một nhân vật trong The Cat’s Meow (2001), do Eddie Izzard thủ vai, và The Scarlett O’Hara War (1980), do Clive Revill.[456][457] Một sê-ri truyền hình về tuổi thơ của Chaplin, Young Charlie Chaplin, phát trên PBS năm 1989 được đề cử Giải Emmy cho Chương trình Thiếu nhi Xuất sắc.[458] Những năm tuổi trẻ của ông ở Luân Đôn là đề tài cho một chương trình năm 1970 của BBC Tommy Steele in Search of Charlie Chaplin, do ca sĩ kiêm diễn viên Tommy Steele giới thiệu.[459]
Cuộc đời Chaplin cũng là đề tài cho các tác phẩm sân khấu. Thomas Meehan và Christopher Curtis sáng tác một nhạc kịch, Limelight: The Story of Charlie Chaplin, biểu diễn lần đầu tại La Jolla Playhouse ở San Diego năm 2010.[460] Nó được chuyển thể cho Rạp hát Broadway hai năm sau, đổi tên thành Chaplin – A Musical.[461] Chaplin được diễn viên Robert McClure thể hiện trong cả hai phiên bản. Năm 2013, hai vở kịch về Chaplin khởi chiếu ở Phần Lan: Chaplin tại Svenska Teatern,[462] và Kulkuri (The Tramp) tại Tampere Workers’ Theatre.[463] Chaplin cũng là nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết Sunnyside (2009) của Glen David Gold, đặt vào bối cảnh Thế chiến thứ nhất.[464]
Giải thưởng và vinh dự
Ngôi sao của Chaplin trên
Đại lộ Danh vọng Hollywood, tại số 6755 Đại lộ Hollywood. Mặc dù dự án bắt đầu năm 1958, Chaplin chỉ nhận được ngôi sao vào năm 1970 do những quan điểm chính trị cua mình.
Chaplin đã nhận nhiều giải thưởng và vinh dự, đặc biệt là vào những năm cuối đời. Vào dịp năm mới năm 1975, ông nhận tước hiệp sĩ (KBE) Đế chế Anh.[465] Ông cũng nhận các bằng tiến sĩ văn chương danh dự từ Đại học Oxford và Đại học Durham trong cùng năm 1962.[305] Năm 1965 ông cùng Ingmar Bergman đồng nhận giải Giải Erasmus[466] và vào năm 1971 ông nhận Bắc Đẩu Bội tinh từ Chính phủ Pháp.[467]
Từ công nghiệp điện ảnh, ông nhận một giải Giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venice năm 1972,[468][469] và Giải Thành tựu Trọn đời từ Hiệp hội Phim Trung tâm Lincoln cùng năm, giải thứ hai từ sau trở đi dành riêng cho các nhà làm phim và đổi tên thành Giải Chaplin.[470] Chaplin cũng nhận được một ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood năm 1970, vinh dự này bị nhiều lần bị trì hoãn do các quan điểm chính trị của ông.[471]
Chaplin nhận 3 Giải Oscar: một Giải Danh dự cho phim The Circus” năm 1929,[174] một giải Danh dự khác cho cống hiến không ngừng cho điện ảnh nói chung năm 1972,[321] và một giải cho Nhạc phim xuất sắc nhất năm 1973 cho Limelight (chia giải với Ray Rasch và Larry Russell).[404] Ông cũng nhận được các đề cử cho các hạng mục Nam diễn viên xuất sắc nhất, Kịch bản gốc xuất sắc nhất, và Phim xuất sắc nhất (với tư cách nhà sản xuất) từ phim The Great Dictator, và nhận được một đề cử Kịch bản gốc xuất sắc nhất cho Monsieur Verdoux.[472]
Vai diễn trong The Great Dictator năm 1940 cũng mang đến cho ông Giải cho nam diễn viên xuất sắc nhất của Hội phê bình phim New York.[473]
Sáu trong số các phim của Chaplin được chọn để bảo quản trong Viện lưu trữ phim quốc gia (Hoa Kỳ) của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: The Immigrant (1917), The Kid (1921), The Gold Rush (1925), City Lights (1931), Modern Times (1936), và The Great Dictator (1940).[474]
Danh sách phim
-
- Các phim thời lượng dài mà ông đạo diễn
- Phim về Charlie Chaplin
Điện ảnh Mỹ và Pháp còn có khá nhiều phim lấy đề tài khai thác từ cuộc sống của ông, trong đó có những phim tài liệu quay chính bản thân ông:
Gia đình Chaplin
Cha (Charles Chaplin, Sr.) và mẹ Charlie Chaplin (Hannah Chaplin) chỉ có một người con trai chung duy nhất. Ông có hai người anh em trai cùng mẹ khác cha là Sydney John “Syd” Chaplin (16/3/1985 – 16/4/1965) và George Dryden Wheeler, Jr. (31/8/1892 – 30/9/1957). Sydney Chaplin có 2 vợ nhưng không có con. Wheeler Dryden có 1 con trai duy nhất là Spencer Dryden (7/4/1938 – 11/11/2005).
Charlie Chaplin kết hôn 4 lần, có 11 người con trong đó 6 trai, 5 gái. Ngoại trừ người vợ cuối không tham gia, hầu hết các vợ, con của ông đều là diễn viên.
- Nữ diễn viên người Mỹ Mildred Harris (29/11/1901 – 20/7/1944) cuộc hôn nhân đầu tiên của 2 người kéo dài 2 năm (23/10/1918 – 11/1920), có duy nhất một người con trai sinh tháng 7 năm 1919 nhưng chết yểu khi chỉ 3 ngày tuổi – Norman Spencer Chaplin. Mildred Harris sau đó kết hôn với hai người khác: Everett Terrence McGovern (1924 – 1929), có 1 con trai, và cầu thủ bóng bầu dục Mỹ, William P. Fleckenstein (1934 – 1944).
- Nữ diễn viên người Mỹ Lillita Louise MacMurray (15/4/1908 – 29/12/1995) cuộc hôn nhân kéo dài hơn 3 năm để lại 2 người con trai. Sau khi ly dị, Lita Grey còn lấy 3 người nữa nhưng không có con.
- Nam diễn viên phim Columbus Discovers Kraehwinkel Charles Spencer Chaplin Jr. (5/5/1925 – 20/3/1968) có 1 con gái Susan Maree Chaplin sinh tháng 5 năm 1959. Susan có 4 người con với Scott Newton.[479]
- Nam diễn viên phim Land of the Pharaohs Sydney Earl Chaplin (30/3/1926 – 3/3/2009) có 2 vợ và 1 con trai Stephan Chaplin sinh 1960.[480]
- Nữ diễn viên người Mỹ Paulette Goddard (3/7/1910 – 23/4/1990) từ 6/1936 đến 6/1949. Paulette Goddard không có con mặc dù trước và sau Charlie Chaplin, bà còn có 3 cuộc hôn nhân nữa. Trong cuộc hôn nhân với Oliver Burgess Meredith (5/1944 – 6/1949), bà đã từng có thai nhưng bị sẩy do thai ngoài tử cung.[481]
- Oona O’Neill Chaplin (14/5/1925 – 27/9/1991) là cuộc hôn nhân thứ tư và là cuối cùng (16/6/1944 – 25/12/1977) với 8 người con, 3 trai và 5 gái.
- Con gái lớn, nữ diễn viên phim The Orphanage Geraldine Leigh Chaplin sinh 31/7/1944 có 1 con trai với Carlos Saura Atarés là Shane Saura (sinh 1974) và con gái Oona Castilla Chaplin (sinh 4/6/1986) với Patricio Castilla.[482]
- Con trai Michael John Chaplin (sinh 7/3/1946) có 2 vợ và 7 con.[483][484]
- Con gái Josephine Hannah Chaplin (sinh 28/3/1949) có 3 người con với 3 người đàn ông khác nhau.[485]
- Con gái Victoria Chaplin (sinh 19/5/1951) có 1 con gái và 1 con trai.[486]
- Con trai Eugene Anthony Chaplin (sinh 23/8/1953) có 6 người con.
- Con gái Jane Cecil Chaplin sinh 1957 có 2 con trai.[487]
- Con gái Annette Emily Chaplin sinh 1959.
- Con trai Christopher James Chaplin (sinh 6/7/1962).
Chú thích
- ^ Một cuộc điều tra của MI5 năm 1952 không tìm thấy bất cứ giấy tờ liên quan tới việc khai sinh Chaplin.[4] Người viết tiểu sử Chaplin, David Robinson ghi nhận rằng không có gì ngạc nhiên khi cha mẹ ông không đăng ký khai sinh: “Đối với những nghệ sĩ rạp hát, thường xuyên di chuyển (nếu họ may mắn) từ thành phố này tới thành phố khác, rất dễ để họ trì hoãn và cuối cùng quên hẳn việc chính thức hóa này, và thời đó hình phạt (cho việc không khai sinh) không nghiêm khắc hoặc không được thực thi nghiêm túc.”[3] Năm 2011 một lá thư gửi tới Chaplin trong những năm 1970 lần đầu hé lộ rằng ông có thể đã sinh ra trên một chiếc xe ngựa của người Di-gan ở Black Patch Park thuộc Smethwick, Staffordshire. Con trai của Chaplin là Michael cho rằng thông tin trong bức thư phải có ý nghĩa như thế nào với Chaplin thì ông mới cất giữ nó như vậy.[5] Về ngày sinh, Chaplin tin rằng nó là 16 tháng 4,nhưng một thông báo trên ấn bản 11 tháng 5 năm 1889 của The Magnet khẳng định rằng ngày đó phải là 15 tháng 4.[6]
- ^ Sydney sinh khi Hannah Chaplin mới 19 tuổi. Người ta không biết chắc cha đẻ của Sydney là ai, nhưng Hannah tuyên bố đó là một người đàn ông mạng họ Hawkes.[8]
- ^ Hannah bị ốm tháng 5 năm 1896 và phải nhập viện. Hội đồng Southwark quyết định rằng cần phải gửi đứa trẻ tới trại tế bần “do sự vắng mặt của người cha và sự thiếu thốn ốm đau của người mẹ”.[16]
- ^ Theo Chaplin, khi Hannah bị la ó phải rời sân khấu, ông bầu bèn chọn cậu – vì cậu đứng ngay trong cánh gà – tiếp tục đóng thay. Ông nhớ rằng mình đã trình diễn tự tin, nhận được nhiều tiếng cười và ngợi khen từ khán giả.[28]
- ^ The Eight Lancashire Lads còn tiếp tục lưu diễn cho tới 1908; người ta chưa kiểm chứng được thời điểm nào Chaplin rời nhóm này nhưng A. J. Marriot tin rằng vào tháng 12 năm 1900.[31]
- ^ William Gillette cùng viết vở kịch Sherlock Holmes với Arthur Conan Doyle, và tham gia đóng vai này kể từ khi nó bắt đầu khởi chiếu ở New York năm 1899. Ông tới London năm 1905 để xuất hiện trong một vở kịch mới, Clarice. Vở này ít khách, và Gillette viết một tác phẩm nối tiếp mang tên The Painful Predicament of Sherlock Holmes. Chaplin tới London ban đầu chính là để tham gia vở kịch ngắn này. Sau ba đêm diễn, Gillette quyết định ngừng Clarice và thay bằng Sherlock Holmes. Chaplin làm Gillette đặc biệt hài lòng trong The Painful Predicament dến mực ông tiếp tục được thủ vai Billy trong toàn vở kịch chính.[39]
- ^ Chaplin thử tạo nên một “diễn viên hài Do Thái”, nhưng tiết mục ít được đón nhận và phải dừng chỉ sau một lần diễn.[46]
- ^ Robinson ghi nhận rằng “điều này không hẳn đúng lắm: nhân vật cần mất một năm hoặc hơn để tiến hóa tới những chiều kích đầy đủ của nó và ngay cả sau đó – vốn chính là sức mạnh đặc biệt của nó – sẽ tiếp tục tiến hóa trong toàn bộ phần còn lại sự nghiệp của ông”.[65]
- ^ Trong tiếng Pháp, Charlot (nói gọn của Charles/Charlie) được dùng làm tên gọi Tramp[66]. Các tựa phim của Chaplin cũng có tên rất khác so với tên gốc khi dịch sang tiếng Pháp, chẳng hạn “One A.M” thành “Charlot rentre tard” (Sác-lô về trễ), hay “Kid Auto Races at Venice” thành “Charlot est content de lui” (Sác-lô hài lòng về anh ta). Tiếng Việt mượn chữ này và dùng “Sác-lô” để chỉ không phân biệt nhân vật (Tramp) và con người đời thực (Chaplin)
- ^ Sau khi rời Essanay, Chaplin vướng vào một tranh cãi pháp lý với công ty này kéo dài tới tận năm 1922. Nó xảy ra khi khi Essanay kéo dài phim cuối cùng của ông ở đây, Burlesque on Carmen, từ phim hai cuộn thành phim truyện mà không tham khảo ý kiến của ông, bằng cách thêm các đoạn ông cắt bỏ cùng những đoạn mới do Leo White quay. Khi phim ra mắt tháng 4 năm 1916, Chaplin nộp đơn xin lệnh cấm của tòa án để ngăn cản phân phối phim, nhưng vụ kiện bị tòa bác. Đáp trả, Essanay cáo buộc Chaplin đã phá vỡ hợp đồng, mà theo họ đã được sửa đổi tháng 7 năm 1915 bao gồm một điều khoản theo đó ông đồng ý ‘giúp đỡ trong việc sản xuất’ mười phim hai cuộn thực hiện trước tháng 1 năm 1916 để đổi lại nhận được 10 nghìn đô tiền thưởng cho mỗi phim. Ông sản xuất được 5 phim cho tới thời điểm rời công ty, và Essanay kiện đòi ông đền bù 500 nghìn đô la. Thêm vào đó, Essanay cũng biên tập một phim nữa, Triple Trouble (1918), từ các cảnh phim Chaplin cắt bỏ của một dự án chưa hoàn thành mang tên Life, cũng như cảnh mới do White thực hiện.[92]
- ^ Đại sứ quán Anh ở Hoa Kỳ đưa ra tuyên bố rằng: “[Chaplin] cũng có giá trị với nước Anh với việc kiếm những khoản tiển lớn và đăng ký mua công phiếu chiến tranh, không kém gì với việc anh ta nằm trên chiến hào.”[108]
- ^ Trong hồi ký của mình, Lita Grey sau này nói rằng phần nhiều những cáo buộc của cô bị “mở rộng hoặc bị bóp méo một cách khéo léo và gây sốc” bởi các luật sư của bà.[165]
- ^ Chaplin rời Hoa Kỳ ngày 31 tháng 1 năm 1931, và quay lại ngày 10 tháng 6 năm 1932.[192] Ông dành nhiều tháng để du lịch khắp Tây Âu, bao gồm những chặng nghỉ ở Pháp và Thụy Sĩ, và đột nhiên quyết định tới thăm Nhật Bản.[193]
- ^ Chaplin sau này nói rằng nếu ông biết mức độ tàn ác của các hành vi do Đảng Nazi gây ra thì ông đã không làm bộ phim; “Giá mà tôi biết những điều khủng khiếp thực sự về những trại tập trung Đức, tôi đã không thể làm The Great Dictator; tôi không thể nào biến thành truyện cười từ sự điên rồ sát nhân của bọn Nazi.”[216]
- ^ Những phỏng đoán về nguồn gốc chủng tộc của Chaplin tồn tại từ những buổi đầu tiên ông mới nổi danh, và người ta thường tường thuật rằng ong là một người Do Thái. Nghiên cứu đã cho thấy không có bằng chứng nào về điều này, và khi một phóng viên hỏi Chaplin năm 1915 rằng tin đồn đó có đúng không, Chaplin trả lời, “Tôi không có cái vận hạnh đó.” Đảng Nazi tin rằng ông là người Do Thái và cấm The Gold Rush với cớ này. Chaplin đáp lại bằng cách đóng vai một người Do Thái trong The Great Dictator và tuyên bố, “Tôi làm phim này vì những người Do Thái trên thế giới.”[221]
- ^ Tháng 12 năm 1942, Barry đột nhập vào nhà Chaplin với một khẩu súng ngắn và đe dọa tự tử trong khi chĩa súng vào ông. Tình trạng này kéo dài tới tận sáng hôm sau, cuối cùng Chaplin cũng tước được súng từ tay cô. Barry đột nhập vào nhà Chaplin lần thứ hai cũng vào tháng đó, và ông báo cảnh sát bắt cô. Sau đó Barry còn bị khởi tố vì sống vô gia cư tháng 1 năm 1943 – Barry không thể trả hóa đơn khách sạn, và đi lang thang trên các con phố Beverly Hills sau khi uống quá nhiều thuốc an thần.[231]
- ^ Theo bên công tố, Chaplin đã vi phạm đạo luật này khi ông trả tiền cho chuyến đi của Barry tới New York tháng 10 năm 1942, khi ông cũng tới thăm thành phố. Cả Chaplin và Barry đồng ý rằng họ đã gặp nhau trong thời gian ngắn ngủi ở đây và, theo Barry, đã có quan hệ tình dục với nhau.[233] Chaplin tuyên bố rằng lần cuối ông thân mật với Barry là tháng 5 năm 1942.[234]
- ^ Carol Ann có nhóm máu B, Barry nhóm máu A, còn Chaplin nhóm máu O. Ở California thời điểm đó, phép thử máu chưa được công nhận làm bằng chứng trong các phiên xử.[238]
- ^ Chaplin và O’Neill gặp nhau ngày 30 tháng 10 năm 1942 và kết hôn ngày 16 tháng 6 năm 1943 tại Carpinteria, California.[241] Được tin này Eugene O’Neill từ con.[242]
- ^ Chaplin đã thu hút sự chú ý của FBI từ lâu, hồ sơ của họ đề cập tới ông lần đầu tiên là năm 1922. J. Edgar Hoover lần đầu tiên yêu cầu một Thẻ Chỉ mục An ninh của ông từ tháng 9 năm 1946, nhưng văn phòng Los Angeles office đáp ứng chậm chạp và chỉ bắt đầu điều tra tích cực từ mùa xuân năm sau.[263] FBI cũng yêu cầu nhận được trợ giúp từ MI5, đặc biệt là trong việc điều tra những tuyên bố sai sự thực Chaplin không sinh ở Anh mà ở Pháp hoặc thậm chí Đông Âu, và rằng tên thật của ông là một Israel Thornstein nào đó. MI5 không tìm thấy bất kỳ bằng chứng rằng Chaplin tham gia vào Đảng Cộng sản.[264]
- ^ Nhại từ warmonger thường dùng để lên án nước Mỹ buôn vũ khí cho cả hai phe[265]
- ^ Tháng 11 năm 1947, Chaplin yêu cầu Pablo Picasso tổ chức một cuộc biểu tình ngoài tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Paris để phản đối thủ tục trục xuất Hanns Eisler, và tháng 12 năm đó, ông tham gia vào một thỉnh nguyện thư đòi chấp dứt quá trình trục xuất. Năm 1948, Chaplin ủng hộ chiến dịch tranh cử tổng thống bất thành của Henry A. Wallace; và năm 1949 ông ủng hộ hai hội nghị hòa bình và kí vào thỉnh nguyện phản đối cuộc Bạo loạn Peekskill.[271]
- ^ Cahplin ban đầu ấp ủ Limelight như một tiểu thuyết mà ông đã viết nhưng không định dành đẻ công bố.[275]
- ^ Trước khi rời Mỹ, Chaplin đã viết giấy bảo đảm cho vợ quyền xử lý tài sản của ông.[288]
- ^ Robinson phỏng đoán rằng Thụy Sĩ có thể được chọn vì nó “có vẻ là nhiều thuận lợi nhất xét từ góc độ tài chính.”[290]
- ^ Little Man (“Con người Nhỏ bé” ám chỉ vóc dáng của nhân vật Tramp, nhại lại quả bom nguyên tử đầu tiên tên Little Boy
- ^ Danh hiệu này đã hai lần được đề xuất vào các năm 1931 và 1956, nhưng bị phủ quyết sau khi báo cáo Văn phòng Đối ngoại (tức Bộ Ngoại giao) Anh nêu lên quan ngại về những quan điểm chính trị và đời sống cá nhân của Chaplin. Họ sợ rằng hành động ban tước sẽ làm hủy hại danh tiếng của hệ thống ban tước Anh cũng như quan hệ với Hoa Kỳ.[327]
- ^ Mặc dù yêu cầu tang lễ theo Anh giáo, Chaplin dường như tin vào thuyết bất khả tri. Trong tự truyện của mình ông viết, “Tôi không phải người tin đạo theo nghĩa giáo lý… Tôi không tin cũng không phải bác bỏ đức tin vào bất cứ thứ gì… Đức tin của tôi thuộc về thứ chưa biết, trong đó chúng ta không hiểu được bằng lý trí; tôi tin rằng… trong địa hạt của thứ chưa biết có một sức mạnh vô hạn của điều thiện.”[330]
- ^ Stan Laurel, bạn diễn chung với Chaplin ở công ty nhớ lại rằng các kịch vui ngắn của Karno thường chèn vào “một chút tình cảm vào chính giữa lúc chuyển cảnh hài hước.”[341]
- ^ Mặc dù phim đã được phát hành năm 1952, nó không hiện diện ở Los Angeles đủ một tuần theo tiêu chuẩn đề cử do cấm vận, cho tới năm 1972.[408]
- ^ Vào ngày kỉ niệm 16 tháng 4, City Lights được chiếu lại tại Nhà hát Dominion ở London, chính là nơi đã khởi chiếu phim này ở Anh vào năm 1931.[446] Tại Hollywood, người ta chiếu lại phiên bản phục dựng của How to Make Movies tại xưởng phim cũ của ông, và ở Nhật Bản, một buổi hòa nhạc tổ chức để vinh danh ông. Các buổi triển lãm tác phẩm của ông diễn ra năm đó tại Rạp chiếu phim Quốc gia London,[447] the Munich Stadtmuseum[447] và Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở New York, nơi cũng có một triển lãm ảnh, hiện vật dành riêng cho ông mang tên, Chaplin: A Centennial Celebration.[448]
Tham khảo
- ^ A Woman of Paris: A Drama of Fate (1923)
- ^ a ă Cousins, trang 72; Kemp, trang 8, 22; Gunning, trang 41, Sarris, trang 139, Hansmeyer, trang 3.
- ^ a ă Robinson, trang 10.
- ^ “MI5 files: Was Chaplin really a Frenchman and called Thornstein?”. The Telegraph. Ngày 17 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Charlie Chaplin was ‘born into a Midland gipsy family’”. Express and Star. Ngày 18 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2012.
- ^ Robinson, trang xxiv.
- ^ Robinson, trang 3–4, 19.
- ^ a ă Robinson, trang 3.
- ^ Robinson, trang 5–7.
- ^ Weissman (2009), trang 10.
- ^ Robinson, trang 9–10, 12.
- ^ Robinson, trang 13.
- ^ Robinson, trang 15.
- ^ Robinson, trang xv.
- ^ Robinson, trang 16.
- ^ Robinson, trang 19.
- ^ Chaplin, trang 29.
- ^ Robinson, trang 24–26.
- ^ Chaplin, trang 10.
- ^ Weissman (2009), trang 49–50.
- ^ Chaplin, trang 15, 33.
- ^ a ă Robinson, trang 27.
- ^ Robinson, trang 36.
- ^ Robinson, trang 40.
- ^ Weissman (2009), trang 6; Chaplin, trang 71–74; Robinson, trang 35.
- ^ Robinson, trang 41.
- ^ Chaplin, trang 88; Robinson, trang 55–56.
- ^ Robinson, trang 17; Chaplin, trang 18.
- ^ Chaplin, trang 41.
- ^ Marriot, trang 4.
- ^ Marriot, trang 213.
- ^ Chaplin, trang 44.
- ^ Louvish, trang 19.
- ^ Robinson, trang 39.
- ^ Chaplin, trang 76.
- ^ Robinson, trang 44–46.
- ^ Marriot, trang 42–44; Robinson, trang. 46–47; Louvish, trang 26.
- ^ Robinson, trang 45, 49–51, 53, 58.
- ^ Robinson, trang 59–60.
- ^ Chaplin, trang 89.
- ^ Marriot, trang 217.
- ^ Robinson, p. 63.
- ^ Robinson, trang 63–64.
- ^ Marriot, trang 71.
- ^ Robinson, trang 64–68; Chaplin, trang 94.
- ^ Robinson, trang 68; Marriot, trang 81–84.
- ^ Robinson, trang 71; Kamin, trang 12; Marriot, trang 85.
- ^ Robinson, trang 76.
- ^ Robinson, trang 76–77.
- ^ Marriot, trang 103, 109.
- ^ Marriot, trang 126–128; Robinson, trang 84–85.
- ^ Robinson, trang 88.
- ^ Robinson, trang 91–92.
- ^ Robinson, trang 82; Brownlow, trang 98.
- ^ Robinson, trang 95.
- ^ Chaplin, trang 133–134; Robinson trang 96.
- ^ Robinson, trang 102.
- ^ Chaplin, trang 138–139.
- ^ Robinson, trang 103; Chaplin, trang 139.
- ^ Robinson, trang 107.
- ^ Chaplin, trang 141.
- ^ Robinson, trang 108.
- ^ Robinson, trang 110.
- ^ Chaplin, trang 145.
- ^ Robinson, trang 114.
- ^ Robinson, trang cdxxix
- ^ a ă â b Robinson, trang 113.
- ^ Robinson, trang 120.
- ^ Robinson, trang 121.
- ^ Robinson, trang 123.
- ^ Maland (1989), trang 5.
- ^ Kamin, trang xi.
- ^ Chaplin, trang 153.
- ^ Robinson, trang 125; Maland (1989), trang 8–9.
- ^ Robinson, trang 127–128.
- ^ Robinson, trang 131.
- ^ Robinson, p. 135.
- ^ Robinson, trang 138–139.
- ^ Robinson, trang 141, 219.
- ^ Neibaur, trang 23; Chaplin, trang 165; Robinson, trang 140, 143.
- ^ Robinson, trang 143.
- ^ Maland (1989), trang 20
- ^ Maland (1989), trang 6, 14–18.
- ^ Maland (1989), trang 21–24.
- ^ Robinson, trang 142; Neibaur, trang 23–24.
- ^ Robinson, trang 146.
- ^ Louvish, trang 87.
- ^ Robinson, trang 152–153; Kamin, trang xi; Maland (1989), trang 10.
- ^ Maland (1989), trang 8.
- ^ Louvish, trang 74; Sklar, trang 72.
- ^ Robinson, trang 149.
- ^ Robinson, trang 149–152.
- ^ Robinson, trang 156.
- ^ “C. Chaplin, Millionaire-Elect”. Photoplay Magazine (Chicago, Illinois, USA: Photoplay Publishing Co) IX (6): 58. Tháng 5 năm 1916.
- ^ Robinson, trang 160.
- ^ Larcher, trang 29.
- ^ Robinson, trang 159.
- ^ Robinson, trang 164.
- ^ Robinson, trang 165–166.
- ^ Robinson, trang 169–173.
- ^ Robinson, trang 175.
- ^ Robinson, trang 179–180.
- ^ Robinson, trang 191.
- ^ “”The Happiest Days of My Life”: Mutual”. Charlie Chaplin. British Film Institute. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2012.
- ^ Brownlow, trang 45; Robinson, trang 191; Louvish, trang 104.
- ^ Chaplin, trang 188.
- ^ Robinson, trang 185.
- ^ Robinson, trang 186.
- ^ Robinson, trang 187.
- ^ a ă Robinson, trang 210.
- ^ Robinson, trang 215–216.
- ^ a ă Robinson, trang 213.
- ^ Robinson, trang 221.
- ^ Schickel, trang 8.
- ^ Chaplin, trang 203; Robinson, trang 225–226.
- ^ Robinson, trang 228.
- ^ a ă “Independence Won: First National”. Charlie Chaplin. British Film Institute. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
- ^ Chaplin, trang 208.
- ^ Robinson, trang 229.
- ^ Robinson, trang 237, 241.
- ^ Robinson, trang 244.
- ^ Chaplin, tr 218.
- ^ Robinson, trang 241–245.
- ^ Chaplin, trang 219–220; Balio, trang 12.
- ^ Robinson, trang 267.
- ^ a ă Robinson, trang 269.
- ^ Chaplin, trang 223.
- ^ Robinson, trang 246.
- ^ Robinson, trang 248.
- ^ Robinson, trang 246–249; Louvish, trang 141.
- ^ Robinson, trang 251.
- ^ Chaplin, trang 235; Robinson, trang 259.
- ^ Robinson, trang 252; Louvish, trang 148.
- ^ Louvish, trang 146.
- ^ Robinson, trang 253.
- ^ Chaplin, trang 255–253.
- ^ Robinson, trang 261.
- ^ Chaplin, trang 233–234.
- ^ Robinson, trang 265.
- ^ Robinson, trang 282.
- ^ Robinson, trang 295–300.
- ^ Robinson, trang 310.
- ^ Robinson, trang 302.
- ^ Robinson, trang 311–312.
- ^ Robinson, trang 319–321.
- ^ Robinson, trang 318–321.
- ^ Louvish, trang 193.
- ^ Robinson, trang 302, 322.
- ^ Louvish, trang 195.
- ^ Kemp, trang 64; Chaplin, trang 299.
- ^ Robinson, trang 337.
- ^ Robinson, trang 358.
- ^ Robinson, trang 340–345.
- ^ Robinson, trang 354.
- ^ Robinson, trang 357.
- ^ Robinson, trang 358; Kemp, trang 63.
- ^ Kemp, trang 63–64; Robinson, trang 339, 353; Louvish, trang 200; Schickel, trang 19.
- ^ Kemp, trang 64.
- ^ Robinson, trang 346.
- ^ Robinson, trang 348.
- ^ Robinson, trang 355, 368.
- ^ Robinson, trang 350. 368.
- ^ Robinson, trang 371.
- ^ Louvish, trang 220; Robinson, trang 372–374.
- ^ Maland (1989), trang 96.
- ^ Robinson, trang 372–374; Lovish, trang 220–221.
- ^ Robinson, trang 378.
- ^ Maland (1989), trang 99–105; Robinson, trang 383.
- ^ Robinson, trang 360.
- ^ Robinson, trang 361.
- ^ Robinson, trang 371, 381.
- ^ Louvish, trang 215.
- ^ a ă Robinson,trp. 382.
- ^ a ă The Circus. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
- ^ Brownlow, trang 73; Louvish, trang 224.
- ^ Chaplin, trang 322.
- ^ Robinson, trang 389; Chaplin, trang 321.
- ^ Robinson, trang 465; Chaplin, trang 322; Maland (2007), trang 29.
- ^ a ă Robinson, trang 389; Maland (2007), trang 29.
- ^ Robinson, trang 398; Maland (2007), trang 33–34 và trang 41.
- ^ Robinson, trang 409, ghi rằng ngày kết thúc quay là 22 tháng 9 năm 1930.
- ^ a ă Chaplin, trang 324.
- ^ “Chaplin as a composer”. CharlieChaplin.com.
- ^ Robinson, trang 410.
- ^ Chaplin, trang 325.
- ^ Robinson, trang 413.
- ^ Maland (2007), trang 108–110; Chaplin, trang 328; Robinson, trang 415.
- ^ a ă “United Artists and the Great Features”. Charlie Chaplin. British Film Institute. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2012.
- ^ Maland (2007), trang 10–11.
- ^ Chaplin, trang 360.
- ^ Louvish, trang 243; Robinson, trang 420.
- ^ Robinson, trang 664–666.
- ^ Robinson, trang 429–441.
- ^ Chaplin, trang 372, 375.
- ^ Larcher, trang 64.
- ^ Robinson, trang 453; Maland (1989), trang 147.
- ^ Robinson, trang 451.
- ^ Louvish, trang 256.
- ^ Larcher, trang 63; Robinson, trang 457–458.
- ^ Louvish, trang 257.
- ^ Robinson, trang 465.
- ^ Robinson, trang 466.
- ^ Robinson, trang 468.
- ^ Robinson, trang 469–472, trang 474.
- ^ Maland (1989), trang 150.
- ^ Maland (1989), trang 144–147.
- ^ Maland (1989), trang 157; Robinson, trang 473.
- ^ Schneider, trang 125.
- ^ Robinson, trang 479.
- ^ Robinson, trang 469.
- ^ Robinson, trang 483.
- ^ Robinson, trang 509–510.
- ^ Robinson, trang 485; Maland (1989), trang 159.
- ^ Chaplin, trang 386.
- ^ Schickel, trang 28; Maland (1989), trang 165, 170; Louvish, trang 271; Robinson, trang 490; Larcher, trang 67; Kemp, trang 158.
- ^ a ă Chaplin, trang 388.
- ^ Robinson, trang 496.
- ^ Maland (1989), trang 165.
- ^ Maland (1989), trang 164.
- ^ Chaplin, trang 387.
- ^ Robinson, trang 154–155.
- ^ Maland (1989), trang 172–173.
- ^ Robinson, trang 505, 507.
- ^ Maland (1989), trang 169; 178–179.
- ^ Maland (1989), trang 176; Schickel, trang 30–31.
- ^ Louvish, trang 282; Robinson, trang 504.
- ^ Maland (1989), trang 178–179.
- ^ “The Great Dictator”. Encyclopaedia Britannica. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2013.
- ^ Maland (1989), trang 197–198.
- ^ Maland (1989), trang 200.
- ^ a ă Maland (1989), trang 198–201.
- ^ Nowell-Smith, trang 85.
- ^ a ă Maland (1989), trang 204–205.
- ^ Robinson, trang 523–524.
- ^ Friedrich, trang 190, 393.
- ^ Maland (1989), trang 215.
- ^ Maland (1989), trang 214–215.
- ^ Maland (1989), trang 205–206.
- ^ Frost, trang 74–88; Maland (1989), trang 207–213; Sbardellati và Shaw, trang 508; Friedrich, trang 393.
- ^ Louvish, trang 135.
- ^ Chaplin, trang 423–444; Robinson trang 670.
- ^ Sheaffer, trang 623,658.
- ^ Chaplin, trang 423, 477.
- ^ Robinson, trang 519.
- ^ Robinson, tr. 671–675.
- ^ Chaplin, trang 426.
- ^ Robinson, trang 520.
- ^ Chaplin, trang 412.
- ^ Robinson, trang 519–520.
- ^ Louvish, trang 304; Sbardellati và Shaw, trang 501
- ^ Louvish, trang 296–297; Robinson, trang 538–543; Larcher, trang 77.
- ^ Louvish, trang 296–297; Sbardellati và Shaw, trang 503.
- ^ Maland (1989), trang 235–245; 250.
- ^ Maland (1989), trang 250.
- ^ Louvish, trang 297.
- ^ Chaplin, trang 444.
- ^ Maland (1989), trang 251.
- ^ Robinson, trang 538–539; Friedrich, trang 287.
- ^ Maland (1989), trang 253.
- ^ Maland (1989), trang 221–226, 253–254.
- ^ Larcher, trang 75; Sbardellati và Shaw, trang 506; Louvish, trang xiii.
- ^ Sbardellati, trang 152.
- ^ a ă Maland (1989), trang 265–266.
- ^ Norton-Taylor, Richard (ngày 17 tháng 2 năm 2012). “MI5 spied on Charlie Chaplin after the FBI asked for help to banish him from US”. The Guardian. London. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2012.
- ^ Louvish, trang xiv; Chaplin, trang 458; Louvish trang 310; Maland (1989), trang 238.
- ^ Robinson, trang 544.
- ^ Maland (1989), trang 255–256.
- ^ Friedrich, trang 286; Maland (1989), trang 261.
- ^ Larcher, trang 80; Sbardellati và Shaw, trang 510; Louvish, trang xiii; Robinson, trang 545.
- ^ Robinson, trang 545.
- ^ Maland (1989), trang 256–257.
- ^ Maland (1989), trang 288–290; Robinson, trang 551–552; Louvish, trang 312.
- ^ Maland (1989), trang 293.
- ^ Louvish, trang 317.
- ^ Robinson, trang 549–570.
- ^ Robinson, trang 562.
- ^ Robinson, trang 567–568.
- ^ Louvish, trang 326.
- ^ Robinson, trang 570.
- ^ a ă â Maland (1989), trang 280.
- ^ Maland (1989), trang 280–287; Sbardellati and Shaw, trang 520–521.
- ^ Chaplin, trang 455.
- ^ Robinson, trang 573.
- ^ Louvish, trang 330.
- ^ Maland (1989), trang 295–298; 307–311.
- ^ Maland (1989), trang 189.
- ^ Larcher, trang 89.
- ^ Robinson, trang 580.
- ^ Robinson, trang 580–581.
- ^ Robinson, trang 581.
- ^ Robinson, trang 584, 674.
- ^ Lynn, tr. 466–467; Robinson, trang 584; Balio, trang 17–21.
- ^ Maland (1989), trang 318; Robinson, trang 584.
- ^ a ă Robinson, trang 585.
- ^ Louvish, trang xiv–xv.
- ^ Louvish, trang 341; Maland (1989), trang 320–321; Robinson, trang 588–589; Larcher, trang 89–90.
- ^ Robinson, trang 587–589.
- ^ Epstein, trang 137; Robinson, trang 587.
- ^ Lynn, trang 506; Louvish, trang 342; Maland (1989), trang 322.
- ^ Robinson, trang 591.
- ^ Louvish, trang 347.
- ^ a ă Maland (1989), trang 326.
- ^ a ă Robinson, trang 594–595.
- ^ Lynn, trang 507–508.
- ^ a ă Robinson, trang 598–599.
- ^ Lynn, trang 509; Maland (1989), trang 330.
- ^ Robinson, trang 602–605.
- ^ Robinson, trang 605–607; Lynn, trang 510–512.
- ^ a ă Robinson, trang 608–609.
- ^ Robinson, trang 612.
- ^ Robinson, trang 607.
- ^ a ă Epstein, trang 192–196.
- ^ Lynn, trang 518; Maland (1989), trang 335.
- ^ a ă Robinson, trang 619.
- ^ Epstein, trang 203.
- ^ Robinson, trang 620–621.
- ^ a ă Robinson, trang 621.
- ^ Robinson, trang 625.
- ^ “Charlie Chaplin prepares for return to United States after two decades”. A&E Television Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2010.
- ^ Maland (1989), trang 347
- ^ a ă â Robinson, trang 623–625.
- ^ Robinson, pp. 627–628.
- ^ Robinson, trang 626.
- ^ a ă Thomas, David (ngày 26 tháng 12 năm 2002). “When Chaplin Played Father”. The Telegraph. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2012.
- ^ a ă Robinson, trang 626–628.
- ^ Lynn, trang 534–536.
- ^ Reynolds, Paul (ngày 21 tháng 7 năm 2002). “Chaplin knighthood blocked”. BBC. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2010.
- ^ London Gazette: số 46444, tr. 8, ngày 31 tháng 12 năm 1974. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2014.
- ^ a ă Robinson, trang 629.
- ^ Chaplin, trang 287.
- ^ a ă Robinson, trang 631.
- ^ a ă â Robinson, trang 632.
- ^ “Yasser Arafat: 10 other people who have been exhumed”. BBC. Ngày 27 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ Robinson, trang 629–631.
- ^ La rançon de la gloire (2014) tại Internet Movie Database
- ^ Chuyện kẻ trộm ăn cắp thi thể Charlie Chaplin trở thành… phim hài Bích Ngọc, báo Dân Trí cập nhật 19/10/2014 – 15:32
- ^ La Rançon de la gloire de Xavier Beauvois, Why Not Productions, Sélection officielle en compétition Festival de Venise 2014
- ^ Robinson, trang 18.
- ^ Robinson, trang 71–72; Chaplin, trang 47–48; Weissman (2009), trang 82–83, 88.
- ^ Louvish, trang 38.
- ^ a ă â Robinson, trang 86–87.
- ^ A round-table Chaplin Interview in 1952, first broadcast on BBC Radio on ngày 15 tháng 10 năm 1952. (In Norwegian)
- ^ Lynn, trang 99–100; Brownlow trang 22; Louvish, trang 122.
- ^ Louvish, trang 48–49.
- ^ a ă â Robinson, trang 606.
- ^ Brownlow, trang 7.
- ^ a ă Louvish, trang 103; Robinson, trang 168.
- ^ Robinson, trang 173, 197, 310, 489.
- ^ Robinson, trang 169.
- ^ Louvish, trang 168; Robinson, trang 166–170, tr. 489–490; Brownlow, trang 187.
- ^ Louvish, trang 182.
- ^ Robinson, trang 460.
- ^ Louvish, trang 228.
- ^ Robinson, trang 234–235; Cousins, trang 71.
- ^ Robinson, trang 172, 177, 235, 311, 381, 399; Brownlow, trang 59, 75, 82, 92, 147.
- ^ Brownlow, trang 82.
- ^ Robinson, trang 235, 311, 223; Brownlow, trang 82.
- ^ Robinson, trang 746; Maland (1989), trang 359.
- ^ Robinson, trang 201; Brownlow, trang 192.
- ^ Louvish, trang 225.
- ^ Brownlow, trang 157; Robinson, trang 121, 469.
- ^ Robinson, trang 600.
- ^ Robinson, trang 371, 362, 469, 613; Brownlow, trang 56, 136; Schickel, trang 8.
- ^ Bloom, trang 101; Brownlow, trang 59, 98, 138, 154; Robinson, trang 614.
- ^ Robinson, trang 140, 235, 236.
- ^ Maland (1989), trang 353.
- ^ “Chaplin’s writing and directing collaborators”. British Film Institute. Truy cập 24 tháng 10 năm 2014.
- ^ Robinson, trang 212.
- ^ Brownlow, trang 30.
- ^ Kemp, trang 63.
- ^ a ă Mast, trang 83–92.
- ^ Kamin, trang 6–7.
- ^ Mast, trang 83–92; Kamin, trang 33–34.
- ^ Louvish, trang 60.
- ^ Kemp, trang 63; Robinson, trang 211, 352; Hansmeyer, trang 4.
- ^ Robinson, trang 203.
- ^ a ă Weissman (2009), trang 47.
- ^ Dale, trang 17.
- ^ Robinson, trang 455, 485; Louvish, trang 138.
- ^ Hansmeyer, trang 4.
- ^ a ă Robinson, trang 334–335.
- ^ Dale, trang 9, 19, 20; Louvish, trang 203.
- ^ Larcher, trang 75.
- ^ Louvish, trang 204.
- ^ Kuriyama, trang 31.
- ^ Louvish, trang 137, 145.
- ^ Robinson, trang 599.
- ^ Robinson, trang 456.
- ^ Maland (1989), trang 159.
- ^ Larcher, trang 62–89.
- ^ a ă â Weissmann (1999), trang 439–445.
- ^ Bloom, trang 107.
- ^ Robinson, trang 588–589.
- ^ Mast, trang 123–128.
- ^ Louvish, trang 298; Robinson, trang 592.
- ^ Epstein, trang 84–85; Mast, trang 83–92; Louvish, trang 185.
- ^ Robinson, trang 565.
- ^ Chaplin, trang 250.
- ^ Brownlow, trang 91; Louvish, trang 298, Kamin, trang 35.
- ^ McCaffrey, trang 82–95.
- ^ Kamin, trang 29.
- ^ Robinson, p. 411; Louvish, trang 17–18.
- ^ Robinson, trang 411.
- ^ a ă â b c Vance, Jeffrey (ngày 4 tháng 8 năm 2003). “Chaplin the Composer: An Excerpt from Chaplin: Genius of the Cinema”. Variety Special Advertising Supplement, trang 20–21.
- ^ a ă â Raksin và Berg, trang 47–50.
- ^ Kamin, trang 198.
- ^ Hennessy, Mike (ngày 22 tháng 4 năm 1967). “Chaplin’s ‘Song’ Catches Fire in Europe”. Billboard, trang 60.
- ^ Weston, Jay (ngày 10 tháng 4 năm 2012). “Charlie Chaplin’s Limelight at the Academy After 60 Years”. The Huffington Post. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2013.
- ^ a ă Sarris, trang 139.
- ^ “Charlie Chaplin”. Charlie Chaplin. British Film Institute. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2012.
- ^ Quittner, Joshua (ngày 8 tháng 6 năm 1998). “TIME 100: Charlie Chaplin”. Time Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2013.
- ^ Hansmeyer, trang 3.
- ^ Louvish, trang xvii.
- ^ “Chaplin – First, Last, And Always”. Indiewire. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2012.
- ^ Schickel, trang 41.
- ^ “Record price for Chaplin hat set”. BBC. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2012.
- ^ Schickel, trang 3–4; Cousins, trang 36; Robinson, trang 209–211; Kamin, trang xiv.
- ^ Cousins, trang 70
- ^ Schickel, trang 7, 13.
- ^ a ă Presented by Paul Merton, directed by Tom Cholmondeley (ngày 1 tháng 6 năm 2006). “Charlie Chaplin” (bằng). Silent Clowns. British Broadcasting Corporation. BBC Four.
- ^ Thompson, trang 398–399; Robinson, trang 321, Louvish, trang 185.
- ^ Robinson, trang 321.
- ^ Brownlow, trang 77.
- ^ a ă â Mark Cousins (ngày 10 tháng 9 năm 2011). “Episode 2″ (bằng). The Story of Film: An Odyssey. Event occurs at 27:51–28:35. Channel 4. More4.
- ^ “Attenborough introduction”. Charlie Chaplin. British Film Institute. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2013.
- ^ Lasica, Tom (tháng 3 năm 1993). “Tarkovsky’s Choice”. Sight & Sound (British Film Institute) 3 (3). Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2014.
- ^ Canemaker, trang 38, 78.
- ^ Jackson, trang 439–444.
- ^ Simmons, trang 8–11.
- ^ Mast, trang 100.
- ^ “The Greatest Films Poll: Critics Top 250 Films”. Sight & Sound. British Film Institute. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2013.
- ^ “Directors’ Top 100 Films”. British Film Institute. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2013.
- ^ “The Greatest Films Poll: All Films”. Sight & Sound. British Film Institute. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2013.
- ^ “AFI’s 100 Years… 100 Movies – 10th Anniversary Edition”. American Film Institute. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2013.
- ^ Louvish, trang xvi; Maland ptr. xi, 359, 370.
- ^ “DVDs, United States”. Charlie Chaplin. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2013. “DVDs, United Kingdom”. Charlie Chaplin. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2013.
- ^ “London Film Museum: About Us”. London Film Museum. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2012.
- ^ a ă Robinson, trang 677.
- ^ “Welcome to IMAX United Kingdom”. IMAX. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2013.
- ^ “Chaplin’s World: The Modern Times Museum”. Chaplin Museum Development SA. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2013.
- ^ “Vevey: les tours “Chaplin” ont été inaugurées”. RTS.ch. Ngày 8 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2012. (In French)
- ^ “Charlie Chaplin”. VisitWaterville.ie. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2012.
- ^ “The Story”. Charlie Chaplin Comedy Film Festival. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2012.
- ^ Schmadel, trang 305.
- ^ Maland (1989), trang 362–370.
- ^ Kamin, Dan (ngày 17 tháng 4 năm 1989). “Charlie Chaplin’s 100th Birthday Gala a Royal Bash in London”. The Pittsburgh Post-Gazette (US). Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2012.
- ^ a ă “Chaplin’s Back in The Big Time”. New Sunday Times. Ngày 16 tháng 4 năm 1989. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2012.
- ^ “The museum of modern art honors charles chaplin’s contributions to cinema”. The Museum of Modern Art Press Release. Tháng 3 năm 1989. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Google doodles a video honouring Charlie Chaplin”. IBN Live. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2011.
- ^ “Charlie Chaplin Stamps”. Blogger. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2013.
- ^ “Association Chaplin”. Association Chaplin. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2013. “Interview with Kate Guyonvarch”. Lisa K. Stein. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2013.
- ^ “Charlie Chaplin Archive”. Cineteca Bologna. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2013.
- ^ “Chaplin at the Musée de l’Elysée”. Musée de l’Elysée. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2013.
- ^ “The BFI Charles Chaplin Conference July 2005”. Charlie Chaplin. British Film Institute. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2013.
- ^ “Robert Downey, Jr. profile, Finding Your Roots”. PBS. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2013.
- ^ “The Cat’s Meow – Cast”. Movies – The New York Times. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
- ^ “The Scarlett O’Hara War – Cast”. Movies – The New York Times. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Young Charlie Chaplin Wonderworks”. Emmys. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2013.
- ^ IMDB entry
- ^ “Limelight – The Story of Charlie Chaplin”. La Jolla Playhouse. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
- ^ “Chaplin – A Musical”. Barrymore Theatre. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.[liên kết hỏng]
- ^ “Ohjelmisto: Chaplin”. Svenska Teatern. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2013.
- ^ “Kulkuri”. Tampereen Työväen Teatteri. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2013.
- ^ Ness, Patrick (ngày 27 tháng 6 năm 2009). “Looking for the Little Tramp”. The Guardian. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012. ISBN 978-0-307-27068-9
- ^ “Comic genius Chaplin is knighted”. BBC. Ngày 4 tháng 3 năm 1975. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2010.
- ^ Robinson, trang 610.
- ^ “Tribute to Charlie Chaplin”. Festival de Cannes. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
- ^ La Biennale di Venezia – Charlie Chaplin awarded
- ^ Robinson, re. 625–626.
- ^ “40 Years Ago–The Birth of the Chaplin Award”. Lincoln Center Film Society. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
- ^ Williams, trang 311.
- ^ “The 13th Academy Awards 1941”. Academy of Motion Picture Arts and Sciences. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
- ^ Awards – New York Film Critics Circle – NYFCC 1940 Awards
- ^ “National Film Registry”. Library of Congress. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2013.
- ^ The 1st Academy Awards Memorable Moments | Oscars
- ^ 1940 Awards Best Actor
- ^ 1973 | Oscars
- ^ Film | Fellowship in 1976
- ^ In Memory of Hazel Magness — Fuller Funeral Services, Pine Bluff, AR – Susan Maree’s children
- ^ “Obituary: Sydney Chaplin”. The Guardian. Ngày 10 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2012.
- ^ Paulette Goddard American National Biography Online tháng 2 năm 2000
- ^ “Les Héritiers de Charlot”. Illustre. Ngày 1 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2012.
- ^ Patrice Chaplin, trang 45
- ^ “Tracy Chaplin se bat bien mieux que Charlot, son grand-père”. 24 Heures. Ngày 20 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2012.
- ^ “Interviewing Chaplin’s grandson, Charly Sistovaris”. TheLittleFellow.Org. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2012.
- ^ Aurélia Thierree, BFI Film & TV database. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2009.
- ^ Jane Chaplin at Internet Movie Database
Thư mục
- Balio, Tino (1979). “Charles Chaplin, Entrepreneur: A United Artist”. Journal of the University Film Association (University of Illinois Press) 31 (1): 11–21.
- Bloom, Claire (1982). Limelight and after: the education of an actress. London: Weidenfeld & Nicolson. ISBN 0-297-78051-4.
- Brownlow, Kevin (2010 [First published 2005]). The Search for Charlie Chaplin. London: UKA Press. ISBN 978-1-905796-24-3.
- Canemaker, John (1996). Felix: The Twisted Tale of the World’s Most Famous Cat. Cambridge, MA: Da Capo Press. ISBN 0-306-80731-9.
- Chaplin, Charles (2003 [First published 1964]). My Autobiography. London: Penguin Classics. ISBN 0-14-101147-5.
- Cousins, Mark (2004). The Story of Film: An Odyssey. London: Pavilion Books. ISBN 978-1-86205-574-2.
- Dale, Alan S. (2000). Comedy is a Man in Trouble: Slapstick in American Movies. Minneapolis, MN: University of Minnesota Press. ISBN 0-8166-3658-3.
- Epstein, Jerry (1988). Remembering Charlie. London: Bloomsbury. ISBN 0-7475-0266-8.
- Friedrich, Otto (1986). City of Nets: A Portrait of Hollywood in the 1940’s. Berkeley, CA: University of California Press. ISBN 978-0-520-20949-7.
- Frost, Jennifer (2007). “’Good Riddance to Bad Company’: Hedda Hopper, Hollywood Gossip, and the Campaign against Charlie Chaplin, 1940–1952”. Australasian Journal of American Studies (Australia and New Zealand American Studies Association) 26 (2): 74–88.
- Gunning, Tom (1990). “Chaplin and American Culture: The Evolution of a Star Image by Charles J. Maland”. Film Quarterly (University of California Press) 43 (3): 41–43. doi:10.2307/1212638.
- Hansmeyer, Christian (1999). Charlie Chaplin’s Techniques for the Creation of Comic Effect in his Films. Portsmouth: University of Portsmouth. ISBN 978-3-638-78719-2.
- Jackson, Kathy Merlock (2003). “Mickey and the Tramp: Walt Disney’s Debt to Charlie Chaplin”. The Journal of American Culture 26 (1): 439–444. doi:10.1111/1542-734X.00104.
- Kamin, Dan (2011 [First published 2008]). The Comedy of Charlie Chaplin: Artistry in Motion. Lanham, MD: Scarecrow Press. ISBN 978-0-8108-7780-1.
- Kemp, Philip (ed.) (2011). Cinema: The Whole Story. London: Thames & Hudson. ISBN 978-0-500-28947-1.
- Kuriyama, Constance B. (1992). “Chaplin’s Impure Comedy: The Art of Survival”. Film Quarterly (University of California Press) 45 (3): 26–38. doi:10.2307/1213221.
- Larcher, Jérôme (2011). Masters of Cinema: Charlie Chaplin. London: Cahiers du Cinéma. ISBN 978-2-86642-606-4.
- Louvish, Simon (2010 [First published 2009]). Chaplin: The Tramp’s Odyssey. London: Faber and Faber. ISBN 978-0-571-23769-2.
- Lynn, Kenneth S. (1997). Charlie Chaplin and His Times. New York, NY: Simon & Schuster. ISBN 0-684-80851-X.
- Maland, Charles J. (1989). Chaplin and American Culture. Princeton, NJ: Princeton University Press. ISBN 0-691-02860-5.
- Maland, Charles J. (2007). City Lights. London: British Film Institute. ISBN 978-1-84457-175-8.
- Marriot, A. J. (2005). Chaplin: Stage by Stage. Hitchin, Herts: Marriot Publishing. ISBN 978-0-9521308-1-9.
- Mast, Gerald (1985 [First published 1981]). A Short History of the Movies: Third Edition. Oxford: Oxford University Press. ISBN 0-19-281462-1.
- McCaffrey, Donald W. (ed.) (1971). Focus on Chaplin. Englewood Cliffs, NJ: Prentice Hall. ISBN 0-13-128207-7.
- Neibaur, James L. (2000). “Chaplin at Essanay: Artist in Transition”. Film Quarterly (University of California Press) 54 (1): 23–25. doi:10.2307/1213798.
- Nowell-Smith, Geoffrey (ed.) (1997). Oxford History of World Cinema. Oxford: Oxford University Press. ISBN 978-0-19-874242-5.
- Raksin, David; Berg, Charles M. (1979). “Music Composed by Charles Chaplin: Auteur or Collaborateur?”. Journal of the University Film Association (University of Illinois Press) 31 (1): 47–50.
- Robinson, David (1986 [First published 1985]). Chaplin: His Life and Art. London: Paladin. ISBN 0-586-08544-0.
- Sarris, Andrew (1998). You Ain’t Heard Nothin’ Yet: The American Talking Film – History and Memory, 1927–1949. New York City, NY: Oxford University Press. ISBN 978-0-19-503883-5.
- Sbardellati, John (2012). J. Edgar Hoover Goes to the Movies: The FBI and the Origins of Hollywood’s Cold War. Ithaca, NY: Cornell University Press. ISBN 978-0-8014-5008-2.
- Sbardellati, John and Shaw, Tony, John (2003). “Booting a Tramp: Charlie Chaplin, the FBI, and the Construction of the Subversive Image in Red Scare America”. Pacific Historical Review (University of California Press) 72 (4): 495–530. doi:10.1525/phr.2003.72.4.495.
- Schickel, Richard (ed.) (2006). The Essential Chaplin – Perspectives on the Life and Art of the Great Comedian. Chicago, IL: Ivan R. Dee. ISBN 1-56663-682-5.
- Schmadel, Lutz D. (2003). Dictionary of Minor Planet Names (ấn bản 5). New York City, NY: Springer Verlag. tr. 305. ISBN 978-3-540-00238-3.
- Schneider, Steven Jay (ed.) (2009). 1001 Movies You Must See Before You Die. London: Quintessence. ISBN 978-1-84403-680-6.
- Sheaffer, Louis (1973). O’Neill: Son and Artist. Boston and Toronto: Little, Brown & Company. ISBN 0-316-78336-6.
- Simmons, Sherwin (2001). “Chaplin Smiles on the Wall: Berlin Dada and Wish-Images of Popular Culture”. New German Critique (Duke University Press) (84): 3–34. doi:10.2307/827796.
- Sklar, Robert (2001). Film: An International History of the Medium (Second edition). Upper Saddle River, NJ: Prentice Hall. ISBN 978-0-13-034049-8.
- Thompson, Kristin (2001). “Lubitsch, Acting and the Silent Romantic Comedy”. Film History (Indiana University Press) 13 (4): 390–408. doi:10.2979/FIL.2001.13.4.390.
- Weissman, Stephen M. (1999). “Charlie Chaplin’s Film Heroines”. Film History (Indiana University Press) 8 (4): 439–445.
- Weissman, Stephen M. (2009). Chaplin: A Life. London: JR Books. ISBN 978-1-906779-50-4.
- Williams, Gregory Paul (2006). The Story of Hollywood: An Illustrated History. Los Angeles, CA: B L Press. ISBN 978-0-9776299-0-9.
Liên kết ngoài
Thể loại:
Vladimir Ilyich Lenin
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vladimir Ilyich Lenin
Владимир Ильич Ленин |

Lê-nin năm 1920 |
Chủ tịch Hội đồng Dân ủy Liên Xô |
Nhiệm kỳ |
30 tháng 12 năm 1922 – 21 tháng 1 năm 1924 |
Kế nhiệm |
Alexey Rykov |
Chủ tịch Hội đồng Dân ủy Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga |
Nhiệm kỳ |
8 tháng 11 năm 1917 – 21 tháng 1 năm 1924 |
Kế nhiệm |
Alexey Rykov |
Lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô |
Nhiệm kỳ |
17 tháng 11 năm 1903 – 21 tháng 1 năm 1924 |
Kế nhiệm |
Joseph Stalin |
Tiểu sử |
|
Đảng |
Đảng Cộng sản Liên Xô |
Sinh |
22 tháng 4 năm 1870
Simbirsk, Đế quốc Nga |
Mất |
21 tháng 1 năm 1924 (53 tuổi)
Gorki, Liên Xô |
Quốc tịch |
Liên Xô |
Tôn giáo |
Không |
Hôn nhân |
Nadezhda Krupskaya (Наде́жда Константи́новна Кру́пская) |
Chữ kí |
 |
Vladimir Ilyich Lenin (tiếng Nga: Влади́мир Ильи́ч Ле́нин, phiên âm tiếng Viêt: Vla-đi-mia I-lích Lê-nin), tên khai sinh là Vladimir Ilyich Ulyanov (tiếng Nga: Влади́мир Ильи́ч Улья́нов), còn thường được gọi với tên V. I. Lenin hay N. Lenin, có các bí danh: V.Ilin, K.Tulin, Karpov…; sinh ngày 22 tháng 4 năm 1870, mất ngày 21 tháng 1 năm 1924; là một lãnh tụ của phong trào cách mạng vô sản Nga, là người phát triển học thuyết của Karl Marx (1818 – 1883) và Friedrich Engels.
Ông sinh tại làng Gorki, Simbirsk, nay là Ulyanovsk. Tên họ thật là Vladimir Ilyich Ulyanov. Lenin là người tổ chức Đảng Cộng sản Liên Xô và thành lập nước Nga Xô Viết.
Ông được coi là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất đến lịch sử thế giới.[1][2]
Ông mất tháng 1 năm 1924, thi hài được lưu giữ trong lăng Lênin trên Quảng trường Đỏ, Moskva.
Tuổi trẻ
Vladimir IlyichUlyanov (Lenin) khoảng năm 1887
Lenin sinh tại Simbirsk, Nga (hiện là Ulyanovsk), là con trai thứ ba trong gia đình tương đối đầm ấm[3] của vợ chồng Ilya Nikolaevich Ulyanov (1831–1886), một viên chức dân sự Nga làm việc để mở rộng dân chủ và giáo dục đại chúng miễn phí ở Nga, và Maria Alexandrovna Ulyanova (1835–1916), một người theo chủ nghĩa tự do. Lênin là người có dòng máu lai từ thời tổ tiên. Là người Nga nhưng ông có dòng máu của người Kalmyk qua ông nội, của người Đức Volga qua bà ngoại (là một người theo thuyết Luther), và của người Do Thái qua ông ngoại (người đã cải theo Ki-tô giáo). Lênin được rửa tội trong Nhà thờ Chính Thống giáo Nga.
Lenin nổi tiếng học giỏi tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạp. Hai bi kịch đã xảy ra trong thời niên thiếu của ông. Lần đầu khi cha ông qua đời vì xuất huyết não năm 1886. Tháng 5 năm 1887 anh cả của ông là Aleksandr Ilyich Ulyanov – một người theo phái “Dân ý”[4] – bị treo cổ vì tham gia vào một âm mưu ám sát Nga hoàng Aleksandr III. Sự kiện này đã làm Lenin trở thành người cấp tiến. Tiểu sử chính thức của ông thời Xô Viết coi sự kiện này có ảnh hưởng lớn tới các quá trình cách mạng của ông. Một bức tranh nổi tiếng của Belousov, Chúng ta sẽ đi theo một con đường khác, được in lại hàng triệu bản trong những cuốn sách thời Xô Viết, mô tả cậu bé Lenin và mẹ đang buồn bã khi mất người anh trai. Câu nói “Chúng ta sẽ theo một con đường khác” có nghĩa là Lenin đã lựa chọn chủ nghĩa Marx để tiếp cận tới cách mạng nhân dân, thay vì những phương pháp vô chính phủ cá nhân. Khi Lênin bắt đầu quan tâm tới chủ nghĩa Marx, ông tham gia vào các cuộc phản kháng của sinh viên và cuối năm đó bị bắt. Sau đó ông bị đuổi khỏi Đại học Kazan. Ông tiếp tục học tập một mình và tới năm 1891 đã có giấy phép hành nghề luật.
Tháng 7 năm 1898, ông cưới Nadezhda Krupskaya, một người hoạt động xã hội[5].
Cách mạng
Sau khi tốt nghiệp
Lenin, tháng 12 năm 1895 (ảnh lúc bị bắt)
Ngay khi tốt nghiệp, Lênin vào làm trợ lý cho một luật sư. Ông làm việc nhiều năm tại Samara, Nga, sau đó vào năm 1893 chuyển tới kinh đô Sankt-Peterburg. Thay vì tìm kiếm một công việc hợp pháp ổn định, ông ngày càng tham gia sâu vào các hoạt động tuyên truyền cách mạng và nghiên cứu chủ nghĩa Marx. Ngày 7 tháng 12 năm 1895, ông bị nhà chức trách bắt giam 14 tháng sau đó trục xuất tới một làng tại Shushenskoye ở Xibia.
Tháng 4 năm 1899, ông xuất bản cuốn sách Sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản tại Nga[6], một cuốn sách khá đồ sộ.[7] Năm 1900, thời kỳ đi đày chấm dứt. Ông đi du lịch nước Nga và những nơi khác ở châu Âu. Lenin đã sống tại Zürich, Genève, München, Praha, Viên và Luân Đôn và trong khi bị đi đày ông đã sáng lập tờ báo Iskra. Ông cũng viết một số bài báo và cuốn sách về phong trào cách mạng. Trong giai đoạn này, ông đã bắt đầu sử dụng nhiều bí danh, cuối cùng lấy tên Lenin.
Ông hoạt động trong Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (RSDLP; РСДРП trong tiếng Nga), và vào năm 1903 ông lãnh đạo phái Bolshevik sau một sự chia rẽ với những người Menshevik, điều này xảy ra một phần từ cuốn sách nhỏ của ông Điều cần làm?[8] Năm 1906 ông được bầu làm Chủ tịch RSDLP. Năm 1907 ông tới Phần Lan vì những lý do an ninh. Ông tiếp tục đi du lịch châu Âu và tham gia vào nhiều cuộc gặp gỡ cũng như các hoạt động xã hội, gồm cả Hội thảo Đảng Praha năm 1912 và Hội thảo Zimmerwald năm 1915. Khi Inessa Armand rời Nga sang sống tại Paris, bà đã gặp Lênin và những người Bolshevik khác đang bị trục xuất, và được cho là đã trở thành một người cộng tác của Lenin trong thời gian đó. Sau đó Lenin đi sang Thụy Sĩ.
Richard Pipes cho rằng Lenin đã phân tích Công xã Paris và kết luận phong trào này thất bại vì “sự khoan hồng quá mức – đúng ra Công xã phải tiêu diệt những kẻ thù của mình”.[9] Tuy nhiên, cả câu trích dẫn, như Lenin đã nói trong một bài phát biểu đã được chuyển tới một cuộc gặp gỡ quốc tế tại Genève ngày 18 tháng 3 năm 1908, nhân ngày lễ kỷ niệm Công xã như sau: “Dù giai cấp vô sản xã hội đã bị chia rẽ thành nhiều phe, Công xã là một ví dụ cụ thể về sự đoàn kết để khi có nó giai cấp vô sản có thể hoàn thành các nhiệm vụ dân chủ mà giai cấp tư sản chỉ có thể tuyên bố ra. Không cần có một điều luật phức tạp đặc thù nào cả, một cách đơn giản, rõ ràng, giai cấp vô sản, khi đã nắm quyền lực, sẽ tiến hành dân chủ hóa hệ thống xã hội, xóa bỏ quan liêu và khiến cho mọi chức vụ nhà nước đều thông qua bầu cử. Hai sai lầm đã tiêu diệt thành quả của một chiến thắng vẻ vang. Giai cấp vô sản đã dừng lại nửa chừng; thay vì tiếp tục ‘chiếm đoạt của những kẻ chiếm đoạt,’ họ đã cho phép mình đi chệch hướng bởi những mơ ước về một sự công bằng tuyệt đối trong một đất nước thống nhất bởi một mục tiêu quốc gia; những định chế, như ngân hàng, đã không bị nắm giữ…. Sai lầm thứ hai là sự khoan dung quá đáng của giai cấp vô sản: đúng ra họ phải tiêu diệt các kẻ thù, nhưng thay vào đó họ lại gắng sức dùng đạo đức để gây ảnh hưởng tới chúng; họ đã bỏ qua tầm quan trọng của hoạt động quân sự thuần túy trong một cuộc nội chiến và thay vì tiếp tục tiến bước mạnh mẽ tới Versailles và giành lấy chiến thắng ở Paris, họ đã trì hoãn và do vậy cho phép chính phủ Versailles tập hợp các lực lượng của mình, chuẩn bị trước cho những sự kiện đẫm máu trong tuần lễ tháng 5.”[10]
Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ năm 1914, và các đảng Dân chủ Xã hội lớn tại châu Âu (khi đó họ tự coi họ là theo chủ nghĩa Mác), gồm cả những người có uy tín như Karl Kautsky, ủng hộ những nỗ lực chiến tranh của chính quyền nước mình, Lenin đã rất sửng sốt, đầu tiên từ chối tin rằng những người của Đảng Dân chủ Xã hội Đức đã bỏ phiếu ủng hộ chiến tranh. Điều này khiến ông bị chia rẽ lần cuối cùng với Đệ Nhị Quốc Tế, gồm các đảng đó.
Khác với quan điểm chung của người Mác-xít coi cách mạng ở Đức là quan trọng hơn ở Nga, ngày 17 tháng 10 năm 1914, Lenin viếtt: “Chủ nghĩa Nga Hoàng còn trăm lần xấu hơn chủ nghĩa Đức Hoàng.”. Ông lên án chủ nghĩa tư bản cả hai bên đã gây ra cuộc chiến, nhất là chủ nghĩa đế quốc Anh – Pháp.[11][12]
Sau Cách mạng Tháng Hai (1917)

Sau khi Cách mạng Tháng Hai năm 1917 giành thắng lợi tại Nga và Nga hoàng Nikolai II thoái vị, Lênin biết rằng ông cần sớm trở lại nước Nga. Nhưng ông đã bị cô lập tại Thụy Sĩ trung lập khi Chiến tranh thế giới thứ nhất đang ở giai đoạn cao trào và không thể dễ dàng đi qua châu Âu. Tuy nhiên, Fritz Platten, một người cộng sản Thụy Sĩ đã tìm cách đàm phán với Chính phủ Đế quốc Đức để Lenin và những người của ông có thể đi bằng tàu hỏa kín qua nước Đức. Mọi người tin rằng chính Hoàng đế (Kaiser) Wilhelm II của Đức đã hy vọng Lenin sẽ gây ra tình trạng bất ổn chính trị ở Nga giúp ông chấm dứt chiến tranh tại Mặt trận phía Đông. Khi còn ở trên lãnh thổ Đức, Lênin không được phép ra khỏi đoàn tàu. Khi đã qua Đức, Lenin tiếp tục đi phà tới Thụy Điển và chặng đường xuyên Scandinavia còn lại đã được những người cộng sản Thụy Sĩ là Otto Grimlund và Ture Nerman thu xếp.
Theo báo Công an Nhân dân, có người cho rằng sự nghiệp cách mạng của ông đã nhận được sự giúp đỡ về tài chính từ đế quốc Đức. Họ cho rằng Lenin đã nhận được tiền bạc từ tay một nhà tư sản Đức tên là Parvus[13]. Thậm chí, sách The Return of the Kings của tác gỉa Thomas Purcell còn khẳng định Đức hoàng mong muốn tiêu diệt các Nga hoàng hùng mạnh và ủng hộ Lenin vì nhiều lý do, chẳng hạn Đức hoàng hy vọng Lenin sẽ hỗ trợ cho Đức trong cuộc chiến trên Mặt trận phía Tây sau khi Cách mạng thắng lợi và Mặt trận phía Đông chấm dứt. Cũng theo đó, nếu Đức hoàng không hỗ trợ Lenin thì có lẽ cuộc cách mạng vô sản sẽ thất bại[14]. Tuy nhiên, nghiên cứu của nhà sử học nổi tiếng người Nga Vladlen Loginov không có những tình tiết này. Theo ghi nhận trên giấy tờ, trong các năm 1915 – 1917, có đến ba lần Parvus tìm cách bắt liên lạc với Lenin, với mong muốn đưa tiền cho nhà cách mạng này. Thế nhưng, Parvus đã không thành công trong cả ba lần tìm cách bắt liên lạc nêu trên. Lenin đã phản hồi:[13]
“ |
Cách mạng cần được thực hiện bằng những bàn tay trong sạch. |
” |
—V. I. Lenin |
Lênin cải trang đeo tóc giả và cạo nhẵn râu ở Phần Lan 11 tháng 8 năm 1917
Còn theo cuốn Lenin: A Revolutionary Life của tác giả Christopher Read, một cựu đảng viên Bolshevik là Grigorii Alexinsky đã tung tin các lãnh đạo Bolshevik, nhất là Lenin, là gián điệp của Đức. Nhiều người tin đây là thật, cũng như những câu chuyện phóng đại về “chuyến tàu đã định” cho Lenin qua Đức trong hành trình từ Thụy Sĩ về nước. Thực sự, dù người Đức có thể đã đút lót cho một số người Bolshevik, chắc hẳn Lenin không phải là gián điệp của Đức và không nhận lệnh từ Berlin. Người Đức và người Bolshevik đều mong muốn nỗ lực chiến tranh của Nga hoàng suy sụp, nhưng vì những lý do khác nhau. Lênin muốn nước Nga là bàn đạp của cách mạng, vậy không thể nào chung ý với Đức hoàng.[15]
Ngày 16 tháng 4 năm 1917, Lênin quay trở về thủ đô Petrograd và nhận vai trò lãnh đạo bên trong phong trào Bolshevik, xuất bản Luận cương tháng 4[16]. Luận cương tháng 4 kêu gọi kiên quyết phản đối chính phủ lâm thời. Ban đầu vì có sự không rõ ràng trong cánh tả Lenin giữ khoảng cách với đảng của ông. Tuy nhiên, lập trường kiên quyết này có nghĩa rằng những người Bolshevik đã trở thành lãnh đạo của quần chúng bởi vì họ không còn ảo tưởng ở chính phủ lâm thời, và nhờ sự xa hoa của phe đối lập những người Bolshevik đã không còn phải chịu trách nhiệm về bất cứ hậu của nào của việc áp dụng những chính sách của họ[17].
Trong khi ấy, Kerenskii và những người đối lập khác trong Bolshevik buộc tội Lenin là một điệp viên ăn lương của Đức. Trước lời buộc tội đó, một lãnh đạo khác là Lev Davidovich Trotsky đã có một bài phát biểu mang tính quyết định ngày 17 tháng 7, cho rằng:
“ |
Một không khí không thể chịu đựng nổi đang diễn ra, trong đó cả các bạn và tôi đều bị sốc. Người ta đang tung ra những lời buộc tội bẩn thỉu nhằm vào Lênin và Zinoviev… Lenin đã đấu tranh vì cách mạng trong ba mươi năm. Tôi đã chiến đấu hai mươi năm chống lại sự áp bức con người. Và chúng ta không thể là gì khác ngoài việc nuôi dưỡng lòng căm thù với chủ nghĩa quân phiệt Đức… Tôi từng bị một tòa án tại Đức kết án tám tháng tù vì tội đấu tranh chống chủ nghĩa quân phiệt Đức. Điều này tất cả mọi người đều biết. Đừng ai trong phòng này nói rằng chúng ta là những kẻ làm thuê của Đức. |
” |
—Lev Davidovich Trotsky[18] |
Sau cuộc nổi dậy của công nhân
Sau cuộc nổi dậy bất thành của công nhân vào tháng 7, Lenin bỏ trốn tới Phần Lan. Ngày 24 tháng 10 theo lịch cũ Nga, tức ngày 6 tháng 11 năm 1917, ông viết: “Chính phủ sắp sụp đổ. Chúng ta phải giáng cho nó đòn chí mạng bằng mọi giá. Trì hoãn hành động là chết“. Cùng tháng, ông rời Phần Lan và trở lại nước Nga[19][20], phát động một cuộc cách mạng vũ trang với khẩu hiệu “Tất cả quyền lực về tay Xô Viết!” chống lại Chính phủ Lâm thời của Kerensky. Các ý tưởng về chính phủ của ông đã được thể hiện trong bài tiểu luận “Quốc gia và Cách mạng” [21], kêu gọi thành lập một hình thức chính phủ mới dựa trên các hội đồng công nhân hay các Xô viết. Trong tác phẩm này, ông cũng cho rằng, trên nguyên tắc, những người công nhân bình thường có thể điều hành một nhà máy hay một chính phủ. Dù ông nhấn mạnh rằng, để điều hành một quốc gia, người công nhân phải “học chủ nghĩa cộng sản.” Ông còn nhấn mạnh thêm rằng một thành viên chính phủ phải nhận đồng lương không được cao hơn lương một người công nhân tầm trung bình.
Chủ tịch chính phủ
Được bầu cử
Ngày 8 tháng 11, Lênin được Đại hội Xô viết Nga bầu làm Chủ tịch Hội đồng Dân ủy. Lênin nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đưa điện tới mọi vùng nước Nga và hiện đại hóa công, nông nghiệp. Ông rất quan tâm tới việc tạo ra một hệ thống chăm sóc sức khỏe miễn phí và toàn diện cho mọi người dân, giải phóng phụ nữ và dạy cho những người dân mù chữ Nga biết đọc, viết. Nhưng trước hết, chính phủ Bolshevik mới cần đưa nước Nga ra khỏi Thế chiến thứ nhất.
Đối mặt với mối đe dọa xâm lăng từ nước Đức, Lenin cho rằng Nga cần ngay lập tức ký kết một hiệp ước hòa bình. Những lãnh tụ Bolshevik khác, như Bukharin, ủng hộ tiếp tục tham chiến, coi đó là một biện pháp mang cách mạng tới nước Đức. Lev Davidovich Trotsky, người chỉ đạo các cuộc đàm phán, ủng hộ một lập trường trung gian, “Không Chiến tranh, Không Hòa bình”, kêu gọi chỉ ký hiệp ước hòa bình với điều kiện không một phần đất chiếm thêm được của bất kỳ bên nào được hợp nhất với lãnh thổ nước đó. Sau khi những cuộc đàm phán thất bại, Đức tấn công chiếm giữ nhiều vùng rộng lớn phía tây nước Nga. Sau các sự kiện mang tính bước ngoặt này, lập trường của Lenin được đa số ban lãnh đạo Bolshevik ủng hộ. Ngày 3 tháng 3 năm 1918, Lenin rút Nga ra khỏi Thế chiến thứ nhất khi đồng ý ký kết Hiệp ước Brest-Litovsk, theo đó nước Nga mất một phần lớn lãnh thổ tại Châu Âu. Đây được xem là thời điểm tệ nhất của lịch sử Nga trong vòng 200 năm, song với một đất nước bị tàn phá thì Lênin không còn cách nào khác ngoài việc chấp nhận những điều khoản ô nhục[22].
Sau khi những người Bolshevik thất bại trong cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến Nga, cùng với sự hậu thuẫn mạnh mẽ của đại đa số công nhân ở hai thành phố lớn là Petrograd và Moskva, họ đã sử dụng lực lượng Hồng vệ binh buộc cuộc họp lần thứ nhất của Quốc hội phải ngừng lại ngày 19 tháng 1[23]. Sau đó, những người Bolshevik đã tổ chức ra một tổ chức Phản-Quốc hội, Đại hội Xô viết thứ ba, cho phép họ và các đồng minh có được hơn 90% số ghế[24], cho rằng “chuyên chính vô sản” trước tiên là một đạo luật của chính giai cấp vô sản: “Tất nhiên, những người cho rằng có thể lấp đầy hố sâu ngăn cách giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, hay những người tưởng tượng rằng điều đó có thể thuyết phục đa số nhân dân rằng nó có thể xảy ra thông qua trung gian của Quốc hội Lập hiến – những người tin vào câu chuyện ngụ ngôn của tầng lớp tư sản dân chủ, có thể vô tình tin tưởng điều đó, nhưng hãy đừng để họ phàn nàn nếu cuộc sống lật tẩy câu chuyện ngụ ngôn này,” [25] và nói thêm rằng “lý do lớn nhất tại sao ‘những người xã hội chủ nghĩa’ (như, những người dân chủ tiểu tư sản) của Quốc tế Thứ hai không hiểu được sự chuyên chính vô sản là bởi họ không hiểu được rằng quyền lực nhà nước nằm trong tay một tầng lớp, tầng lớp vô sản, có thể và phải trở thành một phương tiện cho phe chiến thắng của tầng lớp vô sản của đông đảo nhân dân vô sản, một phương tiện để giành chiến thắng của tầng lớp đó trước giai cấp tư sản và những đảng tiểu tư sản.”[23]
Những người Bolshevik đã thành lập một chính phủ liên minh với Đảng Xã hội Cách mạng Nga cánh tả. Tuy nhiên, liên minh của họ đã tan vỡ sau khi Cách mạng Xã hội chủ nghĩa phản đối hiệp ước Brest-Litovsk, và họ gia nhập cùng với các đảng khác tìm cách lật đổ chính phủ Xô viết. Tình hình diễn biến theo chiều hướng xấu, các đảng không Bolshevik (gồm một số phái xã hội chủ nghĩa) tích cực tìm cách lật đổ chính phủ Bolshevik. Lênin phản ứng lại cách hành động đó bằng cách ngăn chặn các hoạt động của họ và bỏ tù một số thành viên các đảng đối lập.
Ủng hộ
Dù Lenin đã ủng hộ và giúp đỡ thành lập một chế độ “Dân chủ Xô viết,” những người phản đối Lenin thuộc cánh hữu, như Kautsky, và thuộc cánh tả như Kollontai, vẫn cho rằng ông thủ tiêu sự giải phóng giai cấp vô sản và nền dân chủ (quyền kiểm soát của công nhân thông qua các Xô Viết hay các hội đồng công nhân). Có người cho rằng đây là hành động mở đường cho chủ nghĩa Stalin sau này. Dù nhiều cơ quan và chính sách do Stalin lập ra và sử dụng như cảnh sát mật, trại lao động, và việc hành quyết các đối thủ chính trị vốn bị chỉ trích nặng nề cũng đã được sử dụng dưới tới cầm quyền của Lenin, các kỹ thuật đó cũng thường được chế độ Nga hoàng sử dụng từ lâu trước thời Lenin, và cũng từ lâu đã là các phương tiện tiêu chuẩn để đối phó với bất đồng chính trị ở nước Nga. Tuy nhiên, theo Stephane Courtois mức độ sử dụng có khác nhau; số tù nhân chính trị bị hành quyết trong vài tháng đầu cầm quyền của phái Bolshevik lớn gấp ba lần con số đó trong 90 năm cầm quyền của chế độ Nga hoàng.[26] Tuy nhiên, “thực tế” này, hiện vẫn đang bị tranh cãi. Cũng cần nhớ rằng tỷ lệ các hoàn cảnh dẫn tới những phản ứng của người Bolshevik cũng khác rất xa: một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi một cuộc chiến tranh thế giới, một quần chúng thất học sau giai đoạn quân chủ chuyên chế, một lực lượng đối lập sẵn sàng hy sinh để lật đổ chính quyền Bolshevik,… Hơn nữa, Trotsky tuyên bố rằng một “con sông máu” chia tách Lenin khỏi những hành động của Stalin bởi vì Stalin đã hành quyết nhiều đồng chí cũ của Lênin cũng như những người ủng hộ họ, trong nhóm Đối lập cánh Tả. Trong số này có cả chính Trotsky.
Quan điểm của những người theo chủ nghĩa Lenin về cách mạng đòi hỏi một bộ máy cán bộ cách mạng chuyên nghiệp vừa có nhiệm vụ chỉ huy đại chúng trong cuộc đấu tranh giành quyền lực và tập trung hóa kinh tế cũng như quyền lực hành chính vào tay một đất nước của công nhân. Từ mùa xuân năm 1918, Lenin đã vận động đặt những cá nhân có trách nhiệm vào cương vị đứng đầu mỗi nhà máy, trái ngược lại hầu hết các quan điểm về sự tự quản của công nhân, nhưng hoàn toàn cần thiết cho hiệu quả sản xuất và về mặt chuyên môn. Như S.A. Smith đã viết: “Tới cuối cuộc nội chiến, không có nhiều nhà máy hoạt động theo những hình thức dân chủ trong quản lý công nghiệp như kiểu các hội đồng nhà máy từng được cổ động trong năm 1917, nhưng chính phủ cho rằng điều này không phải là vấn đề bởi vì nền công nghiệp đã dựa trên sự sở hữu của một quốc gia công nhân.” Trong cuộc nội chiến, dân chủ không phải được tập trung bên trong đảng Bolshevik và sau này là Bộ Chính trị của Đảng cộng sản Liên xô.
Để bảo vệ chính phủ Bolshevik mới thành lập trước những kẻ phản cách mạng, chính quyền của Lenin đã tạo ra lực lượng cảnh sát mật, Cheka, ngay sau cuộc cách mạng. Những người Bolshevik đã lập kế hoạch tổ chức một phiên tòa xét xử Hoàng đế Nikolai II vì những tội ác chống lại nhân dân Nga, nhưng vào tháng 8 năm 1918 khi Bạch vệ tiến về Yekaterinburg (nơi gia đình Nikolai II đang bị cầm giữ), Sverdlov đã nhanh chóng ra quyết định hành quyết Nikolai II và cả gia đình để quân Bạch vệ không thể giải thoát cho họ. Sau này Sverdlov đã thông báo với Lenin về vụ hành quyết, Lenin đồng ý rằng đó là một quyết định đúng đắn, bởi vì những người Bolshevik không muốn để Hoàng gia trở thành một biểu tượng của Bạch vệ. Tuy nhiên, có những nhà sử học người Nga đã cho biết, ông không tán thành với việc những người Bolshevik hành hình Nikolai II, vì ông cho rằng sau khi chế độ quân chủ không còn nữa, Nga hoàng nên được đưa ra tòa án để xét xử. Cháu gái Lenin – Olga Ulianova cũng nói: “Bác Volodya làm cách mạng Bolshevic không phải để giết vua Nga. Lenin chỉ muốn thay thế hệ thống tư bản chủ nghĩa ở nước Nga bằng chế độ xã hội chủ nghĩa”.[27]
Lenin trong văn phòng ở điện Kremli, năm 1918
Vụ ám sát và phản ứng của chính phủ
Ngày 30 tháng 8 năm 1918, Fanya Kaplan, một thành viên của Đảng Xã hội Cách mạng Nga, tiếp cận Vladimir Ilyich Lenin sau khi ông tham dự một buổi mít-tinh và đang quay ra xe hơi. Kaplan gọi tên Lenin, ông quay lại trả lời. Bà ngay lập tức bắn ba phát, hai phát trúng Lenin ở khuỷu tay và lưng. Lenin được đưa về căn hộ tại Kremli, từ chối tới bệnh viện bởi ông tin rằng những kẻ ám sát khác đang rình rập ở đó. Các bác sĩ được triệu tới, nhưng cho rằng sẽ là quá nguy hiểm nếu lấy viên đạn ra. Sau này Lenin đã hồi phục dù sức khỏe của ông bắt đầu giảm sút từ thời điểm đó. Mọi người cho rằng vụ ám sát có liên quan tới những cơn đột quỵ sau này của ông.
Chính phủ Bolshevik phản ứng lại vụ ám sát, và những sự tập hợp nỗ lực chống cộng từ các đối thủ của họ bằng cái họ gọi là Khủng bố Đỏ. Hàng chục nghìn người bị coi là kẻ thù của cách mạng, nhiều người bị hành quyết hay tống vào các trại lao động vì có âm mưu chống lại chính phủ Bolshevik.[28]
Theo Orlando Figes, Lenin luôn ủng hộ “sự khủng bố số đông chống lại những kẻ thù cách mạng” và luôn bày tỏ quan điểm rằng nhà nước vô sản là một hệ thống bạo lực được tổ chức chống lại những tổ chức của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên theo Figes, trong khi được những người Bolsheviks khuyến khích, sự khủng bố có gốc rễ trong sự giận dữ của nhân dân chống lại tầng lớp ưu thế. (A Peoples Tragedy, trang 524-525) Vào cuối năm 1918 khi Kamenev và Bukharin tìm cách kìm chế những “sự thái quá” của Cheka, chính Lenin là người đã đứng ra bảo vệ tổ chức này. (Figes trang 649) Tuy nhiên, mức độ của cái gọi là “những sự thái quá,” cũng như những lý do của Lenin ẩn giấu sau sự bảo vệ đó không hề được nêu tên.
Tháng 3 năm 1919, Lenin và các lãnh đạo Bolshevik khác gặp gỡ với các nhà cách mạng xã hội chủ nghĩa từ khắp nơi trên thế giới và lập ra Quốc tế Cộng sản. Các thành viên của Quốc tế Cộng sản, gồm Lenin và cả những người Bolshevik ngừng quan hệ với phong trào xã hội chủ nghĩa ở tầm vóc rộng lớn hơn. Từ đó trở về sau, họ sẽ được gọi là những người cộng sản. Tại Nga, Đảng Bolshevik được đổi tên thành “Đảng Cộng sản Nga (bolshevik)”, (sau này thành Đảng Cộng sản Liên Xô).
Trong lúc ấy cuộc nội chiến lan tràn khắp nước Nga. Nhiều phong trào chính trị và những người ủng hộ họ đứng lên cầm vũ khí nhằm lật đổ chính phủ Xô viết. Dù có nhiều phe cánh tham gia cuộc nội chiến, hai lực lượng chính là Hồng quân (bolshevik) và Bạch vệ (phe ủng hộ chế độ quân chủ). Các cường quốc bên ngoài như Pháp, Anh, Hoa Kỳ và Nhật Bản cũng can thiệp vào cuộc chiến tranh này (đứng bên phía Bạch vệ). Cuối cùng, đội quân được tổ chức tốt và có hiệu quả hơn là Hồng quân, do Trotsky chỉ huy, đã giành chiến thắng, đánh bại các lực lượng Bạch vệ và đồng minh của họ năm 1920. Tuy nhiên, những cuộc chiến ở tầm nhỏ hơn vẫn tiếp tục trong nhiều năm nữa.
Những tháng cuối năm 1919, các chiến thắng giành được trước Bạch vệ khiến Lenin tin rằng đã tới thời điểm mở rộng cách mạng sang phía tây, bằng vũ lực nếu cần thiết. Khi nền Cộng hòa Ba Lan thứ hai mới được thành lập bắt đầu đòi lại những vùng lãnh thổ đã bị nước Nga sáp nhập trong vụ phân chia Ba Lan vào cuối thế kỷ 18, họ đã xung đột với các lực lượng Bolshevik để giành quyền kiểm soát các vùng này, dẫn tới sự bùng nổ Chiến tranh Ba Lan-Xô viết năm 1919. Với sự phát triển của cách mạng tại Đức và Liên đoàn Spartacus, Lenin coi đó là thời điểm và địa điểm chín muồi nhất để “thăm dò Châu Âu bằng những lưỡi lê Hồng quân.” Lenin coi Ba Lan là cây cầu nối mà Hồng quân có thể dùng để kết nối cách mạng Nga với những người ủng hộ Cách mạng Đức, và hỗ trợ các phong trào cộng sản ở Tây Âu. Tuy nhiên sự thất bại của nước Nga Xô viết trong cuộc chiến tranh Ba Lan-Xô viết khiến các kế hoạch đó bị hủy bỏ.
Lenin là người chỉ trích mạnh mẽ chủ nghĩa đế quốc. Năm 1917 ông tuyên bố quyền tự quyết và phân chia các dân tộc quốc gia và đàn áp các quốc gia vô điều kiện, thường được coi là các quốc gia trước kia thuộc quyền kiểm soát của chủ nghĩa tư bản đế quốc. Tuy nhiên, khi cuộc Nội chiến Nga chấm dứt, ông đã dùng các lực lượng quân sự để đồng hóa các quốc gia mới giành độc lập là Armenia, Gruzia và Azerbaijan, cho rằng sự sáp nhập các quốc gia đó vào đất nước Xô viết sẽ che chở họ khỏi những tham vọng của chủ nghĩa đế quốc.[29] Điều này cho phép các quốc gia đó được chấp nhận thành một phần của Liên bang Xô viết hơn là đơn giản buộc họ trở thành một phần lãnh thổ Nga, hành động này sẽ bị coi là hành động đế quốc.
Sau nhiều năm chiến tranh kéo dài, chính sách cộng sản thời chiến của Bolshevik, cộng với Nạn đói năm 1921 tại Nga và sự bao vây từ các chính phủ tư bản thù địch làm đa phần đất nước bị tàn phá. Đã có nhiều cuộc nổi dậy của nông dân, vụ lớn nhất là cuộc Nổi dậy Tambov. Sau một cuộc khởi nghĩa của những thủy thủ tại Kronstadt vào tháng 3 năm 1921, Lenin đã thay thế chính sách Cộng sản thời chiến bằng Chính sách kinh tế mới (NEP) hay còn gợi là cộng sản thời bình, trong một nỗ lực thắng lợi nhằm tái xây dựng công nghiệp và đặc biệt là nông nghiệp.
Đấu tranh chống chủ nghĩa bài Do Thái
Sau cuộc cách mạng, V. I. Lenin rất chú tâm đấu tranh chống Chủ nghĩa bài Do Thái, khi ấy vẫn đang tồn tại ở nước Nga như một di sản từ thời Nga hoàng. Trong một bài phát biểu trên radio năm 1919, ông nói:
“ |
Cảnh sát của chế độ Nga hoàng, cùng với những tên địa chủ và bọn tư bản, đã tổ chức các cuộc tàn sát người Do Thái. Cái lũ địa chủ và tư bản đã tìm cách hướng sự căm thù của công nhân và người nông dân, những tầng lớp nghèo khổ, về phía người Do Thái…. Chỉ những người dốt nát nhất và những người bị áp bức mới có thể tin vào những lời nói dối và những câu báng bổ do chúng tuyên truyền về người Do Thái…. Người Do Thái không phải là kẻ thù của nhân dân lao động. Những kẻ thù của công nhân là bọn tư bản trên thế giới. Trong số những người Do Thái có những người dân lao động, và họ là đa số. Họ là những người anh em của chúng ta, giống như chúng ta, họ cũng bị bọn tư bản bóc lột; họ là những đồng chí của chúng ta trong cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội…. Thật đáng hổ thẹn cho hành động hành hạ người Do Thái của chế độ Nga hoàng. Thật đáng hổ thẹn cho những kẻ gây lòng hận thù với người Do Thái, những kẻ gây sự chia rẽ giữa các quốc gia. |
” |
—Vladimir Ilyich Lenin[30] |
Qua đời
Sức khỏe Lênin đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng sau những căng thẳng trong cuộc cách mạng và nội chiến. Vụ ám sát ông càng làm tình trạng thêm tồi tệ. Viên đạn vẫn nằm trong cổ ông, quá gần xương sống để có thể lấy ra trong tình trạng kỹ thuật y tế thời ấy. Tháng 5 năm 1922, Lenin bị đột quỵ lần đầu tiên. Ông bị tê liệt nửa người bên phải và dần giảm bớt ảnh hưởng trong chính phủ. Sau vụ đột quỵ thứ hai vào tháng 12 năm ấy, ông hầu như từ bỏ các hoạt động chính trị. Tháng 3 năm 1923, ông bị đột quỵ lần thứ ba và phải nằm liệt giường trong cả phần đời còn lại, thậm chí không thể nói được.
Sau lần đột quỵ đầu tiên, Lenin đã đọc cho thư ký ghi lại một số tài liệu về Chính phủ và vợ ông. Nổi tiếng nhất trong số đó là bản Di chúc của Lenin, trong đó cùng với nhiều sự kiện khác ông đã chỉ trích những nhà lãnh đạo cộng sản hàng đầu, đặc biệt là Joseph Stalin. Về Stalin, người từng là tổng thư ký Đảng cộng sản từ tháng 4 năm 1922, Lenin nói rằng Stlain có “quyền lực vô hạn tập trung trong tay” và đề xuất rằng “các đồng chí nghĩ cách lật đổ Stalin ra khỏi vị trí ấy.” Ngay khi Lênin qua đời, vợ ông đã gửi bản Di chúc tới ủy ban trung ương, nó được đọc trước Đại hội lần thứ 13 của Đảng cộng sản vào tháng 5 năm 1924. Tuy nhiên, vì di chúc chỉ trích tất cả những nhân vật có ảnh hưởng nhiều nhất trong ủy bản trung ương: Zinoviev, Kamenev, Bukharin và Stalin, ủy ban đã quyết định không công bố nó ra đại chúng. Ủy ban trung ương cho rằng di chúc là hậu quả của tình trạng tâm thần bất ổn của Lenin trong những năm cuối đời, và vì thế, những lời phán xét cuối cùng của ông không đáng tin cậy. Việc không đếm xỉa tới những ý kiến của Lenin sau này thường được cho là một sai lầm nghiêm trọng.
Di chúc của Lenin (Lenin’s Testament) được Max Eastman xuất bản chính thức lần đầu tiên năm 1926 tại Hoa Kỳ.
Lãnh tụ Vladimir Ilich Lenin qua đời ngày 21 tháng 1, 1924 ở tuổi 53. Lý do chính thức dẫn tới cái chết của Lenin được công bố bởi Liên Xô là xơ cứng động mạch não, hay cơn đột quỵ lần thứ tư. Tuy nhiên, vào năm 2004 một nhóm bác sĩ Do Thái đã công bố một bài báo, dựa theo các triệu chứng ghi trong hồ sơ bệnh án của Liên Xô, họ đưa ra giả thuyết rằng Lenin đã mắc bệnh hơn 10 năm trước khi qua đời, nguyên nhân bởi bệnh giang mai[31][32]. Nhà sử học Helen Rappaport sau khi khảo sát các tài liệu và hồ sơ bệnh án của Lênin cũng đặt ra giả thuyết rằng ông đã chết vì bệnh giang mai, lây truyền từ một cô gái giang hồ ở Paris[33]. Giả thiết này vẫn tiếp tục tồn tại cho tới nay, nhưng không ai từ các nước phương Tây có thể chứng minh nó vì chỉ có các bác sĩ chuyên trách của Nga được phép khám nghiệm thi hài Lenin. Giả thuyết này rất có thể là không đúng, vì nếu Lenin bị giang mai thì vợ của Người là Nadezhda Krupskaya cũng sẽ bị lây giang mai, mà thực tế Nadezhda Krupskaya không bị giang mai. 12/2014[cần dẫn nguồn]
Thành phố Petrograd đã được đổi tên thành Leningrad ba ngày sau khi Lenin qua đời để vinh danh ông; cái tên này giữ nguyên cho tới khi Liên bang Xô viết sụp đổ năm 1991, khi nó lấy lại tên cũ là Sankt-Peterburg.
Thời gian đầu thập kỷ 1920 phong trào vũ trụ luận ở Nga khá sôi động và đã có ý tưởng bảo quản lạnh xác Lenin nhằm tái sinh trong tương lai. Những phương tiện cần thiết đã được mua về từ nước ngoài, nhưng vì một số lý do kế hoạch này không được thực hiện. Thay vào đó xác ông được ướp và đặt trong Lăng Lenin tại Moskva ngày 27 tháng 1, 1924.
Sau khi mất
Lăng Lenin trên Quảng trường Đỏ, Moskva
Thi hài Vladimir Lenin được bảo quản trong Lăng Lenin ở Moskva. Vì vai trò duy nhất của Lenin trong việc tạo lập nhà nước cộng sản đầu tiên, và dù ông đã bày tỏ ý muốn chỉ một thời gian ngắn trước khi qua đời rằng không nên xây dựng một đài tưởng niệm nào dành cho mình, chế độ Xô viết đã tôn vinh ông như một vị thánh tôn giáo. Đôi khi các ngôi nhà Xô Viết treo hình hoặc đặt tượng Lenin[34]. Tới thập kỷ 1980 hầu như mọi thành phố lớn ở Liên bang Xô viết đều có tượng Lenin ở quảng trường trung tâm, hoặc một phố Lenin hay một quảng trường Lenin gần trung tâm, và thường là 20 hay nhiều hơn nữa các bức tượng nhỏ hay tượng bán thân ông trên toàn lãnh thổ. Trẻ em được kể các câu chuyện về “ông Lenin” từ khi chúng còn ở nhà trẻ. Ngoài ra, không ít đường phố, công trình xây dựng, xí nghiệp, nông trại ở Liên Xô được đặt tên là Lenin, chưa kể một tàu phá băng Liên Xô còn được đặt cho cái tên này[34].
Cứ mỗi năm có hàng trăm bài viết và sách viết về ông được xuất bản và thu hút cả người trẻ lẫn già. Rất nhiều vở kịch và phim ảnh nói về cuộc đời Lenin[34]. Từ khi Liên bang Xô viết tan rã, mức độ tôn sùng Lenin tại các nước cộng hòa hậu Xô viết đã giảm sút đáng kể, nhưng ông vẫn được nhiều thế hệ lớn lên trong giai đoạn Xô viết coi là một nhân vật có tầm ảnh hưởng quan trọng.[35] Đa số các bức tượng Lenin đã bị hạ bệ ở Đông Âu, nhưng nhiều bức khác vẫn tại vị ở Nga. Thành phố lớn nhất của nước Nga[34], Leningrad đã trở về với cái tên nguyên thủy của mình, Sankt-Peterburg, nhưng vùng xung quanh vẫn mang tên ông. Các công dân Ulyanovsk, nơi sinh Lenin, vẫn bác bỏ mọi ý định quay trở về cái tên cũ là Simbirsk. Tại Moskva, tượng Lenin vẫn đứng ở các cổng của hệ thống tàu điện ngầm, cũng như quảng trường Lenin vẫn giữ nguyên tên gọi. Trong cuộc bình chọn Những nhân vật vĩ đại nhất trong Lịch sử Nga với hơn 40 triệu người Nga tham gia năm 2008, Lênin đứng ở vị trí thứ 6.[36]
Việc mai táng thi hài Lenin vẫn là chủ đề gây tranh cãi trong 16 năm qua ở nước Nga. Ở thủ đô Hà Nội, Việt Nam, tượng ông được đặt tại một công viên cùng tên.[37]
Cái tên “Lenin”
“Lenin” là một trong những bí danh cách mạng của ông, và sau khi ông nắm quyền thì trở thành tên chính thức: Vladimir Ilyich Ulyanov trở thành Vladimir Ilyich Lenin. Thỉnh thoảng ông được báo chí phương Tây gọi là “Nikolai Lenin”[38], nhưng người dân Liên Xô không bao giờ nghe tới cái tên này.
Đã có rất nhiều giả thuyết về nguồn gốc biệt hiệu đó, và Lenin cũng chưa từng kể rõ tại sao ông lại lựa chọn nó. Bản thân Lênin cũng đã từng viết một cuốn sách về các biệt danh hoạt động cách mạng của ông nhưng trong cuốn sách không hề có đề cập đến bí danh Lenin-cái tên được kí nhiều nhất trong các văn kiện của ông. Đã có nhiều giả thuyết về cái tên Lênin này. Có giả thuyết cho rằng cái tên Lenin là của một cụ già đã chết, sau khi cụ qua đời Ulyanov đã lấy cái tên này làm bí danh cho mình.
Có lẽ biệt hiệu này liên quan tới con sông Lena, tương tự như một nhân vật theo chủ nghĩa Marx nổi tiếng khác ở Nga, Georgi Plekhanov, người lấy biệt hiệu là Volgin theo tên con sông Volga. Có ý kiến cho rằng Lenin lựa chọn sông Lena vì đây là một con sông dài hơn và chảy theo hướng đối diện, nhưng trong cuộc đời mình Lênin không phản đối Plekhanov. Tuy nhiên, chắc chắn rằng nó không liên quan tới vụ hành quyết Lena, vì biệt hiệu đó đã ra đời trước sự kiện này.
Tượng và tên thành phố
Tượng Lenin bên ngoài trạm Finland,
Saint Petersburg. Từ năm 1924 cho tới 1991 thành phố được gọi là Leningrad.
Trong suốt thời đại Xô Viết, nhiều bức tượng của Lenin được dựng lên khắp Đông Âu. Mặc dù rất nhiều bức tượng đã bị hạ xuống, một số vẫn còn tồn tại, và một vài cái lại được dựng mới[39] Năm 2012, các nhà luật gia của đảng đối lập Dân chủ Cấp tiến Nga đã đưa ra một dự luật, mỗi vùng nên trưng cầu dân ý quyết định là có muốn giữ các tượng Lenin ở vùng mình không, một trong những lý do là tiền bảo trì. Dự luật này cũng được một số đại biểu của đảng cầm quyền Thống nhất Nga hoan nghênh, nhưng nó bị đảng Cộng sản Nga phản đối dữ dội.[40]
Nhiều nơi cũng được đặt tên Lenin để tưởng nhớ. Thành phố Saint Petersburg, nơi mà cách mạng tháng hai cũng như tháng mười bắt đầu, được đổi tên là Leningrad vào năm 1924, 4 ngày sau khi Lenin chết. Vào năm 1991, sau một cuọc bầu cử sôi nổi giữa đảng Cộng sản và đảng Cấp tiến, chính phủ Leningrad đổi tên thành phố trở lại là Saint Petersburg trong khi vùng xung quanh (Leningrad Oblast) vẫn giữ tên;[41]. Tương tự như vậy, Gyumri ở Armenia đã được đổi thành Leninakan từ năm 1924 cho tới 1990, Khujand ở Tajikistan Leninabad từ 1936 cho tới 1991.
Sự kiểm duyệt tác phẩm của Lenin tại Liên bang Xô viết
Những ghi chép của Lenin đã được kiểm duyệt kỹ lưỡng thời Xô viết sau khi ông qua đời. Đầu thập kỷ 1930, dưới thời Stalin, có một giáo điều rằng Lênin và Ủy ban trung ương không bao giờ sai lầm. Vì thế, cần phải bỏ mọi bằng chứng về những sự bất đồng giữa hai bên, bởi vì trong trường hợp đó không thể cả hai bên cùng đúng. Trotsky từng là một người chỉ trích mạnh mẽ việc này, hành động mà ông coi là một hình thức sùng bái cá nhân bởi một người bình thường luôn có thể và chắc chắn đã từng phạm những sai lầm.[42] Sau này, thậm chí lần xuất bản thứ năm tại Liên Xô của tác phẩm Lênin toàn tập (xuất bản với 55 cuốn dày trong giai đoạn 1958 và 1965) cũng bỏ đi những phần trái với giáo điều hay thể hiện những điều được cho là không tốt ở tác giả[43].
Nhận định
nhỏ|phải|200px|Tượng Lenin trên phố Boyarka, Kiev, Ukraina Sau khi mất, ông vẫn được coi là vị anh hùng lớn nhất của nhân dân Xô Viết[34]. Lenin được xem là một nhà dân tộc chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa quốc tế Nga; ông khao khát xây dựng một nước Nga hiện đại và hùng mạnh, đó sẽ là hình mẫu trong quan hệ quốc tế. Chủ nghĩa cộng sản Nga cũng chính là hình mẫu của chủ nghĩa cộng sản quốc tế[22]. Ở nước ngoài, ông trở thành một biểu tượng của “tính chất Nga” thế kỷ 20.[3]
Tại một số quốc gia, có sự mâu thuẫn trong việc đánh giá vai trò của Lenin. Khi di dời một bức tượng Lenin vào ngày 14/10/2012, Thị trưởng thủ đô Ulaanbaatar của Mông Cổ, ông Bat-Uul Erdene đã lên án Lenin và các đồng chí của ông là “những kẻ sát nhân”.[44] Ngược lại, nhiều người Mông Cổ vẫn tôn kính Lenin bởi ông đã ủng hộ Mông Cổ trong cuộc chiến giành độc lập khỏi Trung Quốc vào năm 1921, và sau đó Liên Xô còn giúp Mông Cổ một lần nữa trong Thế chiến thứ 2 khi Nhật Bản xâm lược Mông Cổ[45]
Trong hồi ký Ngôi nhà Bến Ngự và con đò sông Hương, nhà báo Tạ Quang Đạm (em giáo sư Tạ Quang Bửu) đã kể lại rằng trên tường căn nhà tranh 3 gian – nơi ở và cũng là nơi nhà Cách mạng Việt Nam Phan Bội Châu dạy học – có treo nhiều tranh ảnh, trong đó ấn tượng nhất là bức chân dung Lenin được treo trang trọng trên bức tường mặt trước gần sát trần nhà. Có lẽ là một bức họa vẽ theo một bức tượng kiểu huy hiệu. Dưới chân dung có hai chữ Hán: Liệt Ninh (Lenin).[46] Phan Bội Châu còn viết “Lược truyện Liệt Ninh, vĩ nhân của nước Nga đỏ” viết in trên Binh sự tạp chí, Hàng Châu, Trung Quốc năm 1921.[47]
Alexandra Kolontai (1872-1952) – nhà ngoại giao nổi tiếng của Liên Xô (cũ) – đánh giá về ông:[48]
“ |
Có những cá nhân – hiếm thấy trong lịch sử loài người – là sản phẩm của một chuyển biến lớn lao đã chín muồi, đã tô đẹp cho cả một thời đại. Trong số những người vĩ đại về tinh thần và ý chí đó là Vladimir Ilich Lenin… Như ở một tiêu điểm, Người đã tập hợp vào trong mình tất cả những cái gì của Cách mạng là nghị lực, là hùng mạnh, không ủy mị trong phá bỏ cái cũ và rất kiên quyết trong xây dựng cái mới. |
” |
—Alexandra Kolontai |
Theo nhận định của văn hào Nga Maksim Gorky, tràn ngập trong đời sống và công việc của Lenin là “tinh thần hy sinh khắc khổ, thường thấy ở người cách mạng trí thức Nga trung thực, tin tưởng sắt đá vào khả năng thiết lập sự công bằng trên trái đất, tinh thần anh hùng của con người đã từ bỏ mọi niềm sung sướng trên đời để hiến mình cho hoạt động gian khổ vì hạnh phúc của mọi người”.[48]
Văn hào Nga Maksim Gorky cũng cho rằng tư tưởng của Lenin “giống như cái kim địa bàn, bao giờ cũng chỉ về lợi ích giai cấp của nhân dân lao động… Điều đặc biệt vĩ đại ở Lenin chính là lòng căm thù quyết liệt, không bao giờ tắt trước sự bất hạnh của mọi người, niềm tin chói lọi của đồng chí rằng sự bất hạnh không phải là nền tảng không thể tiêu diệt được của cuộc đời, trái lại nó là điều xấu xa, nhơ nhuốc mà mọi người có thể và cần phải quét sạch đi”.[48]
Tác giả “Người Xôviết chúng tôi” là nhà văn Boris Polevoi đã ghi nhận:[48]
“ |
Là người gan dạ và chính trực, đồng chí bao giờ cũng nhìn thẳng vào sự thật. Dù sự thật đôi khi cay đắng và thậm chí khủng khiếp đến thế nào đi nữa, đồng chí cũng không bao giờ giấu giếm mọi người xung quanh, không bao giờ giấu giếm đông đảo đám đông. |
” |
—Boris Polevoi |
Trong bốn ngày khi mà thi hài Lenin được quàn trong Điện Kremlin, hơn 900.000 người đã tới đưa tang ông. Một trong những chính khách bày tỏ lời chia buồn đến Liên Xô là Thủ tướng Trung Quốc, nhà cách mạng Tôn Trung Sơn, ông đã nói[49]:
- “Qua các thời đại của lịch sử thế giới, hàng ngàn nhà lãnh đạo và học giả đã xuất hiện và nói những lời hùng hồn, nhưng đó vẫn chỉ là những lời nói. Người, Lenin, là một ngoại lệ. Người không chỉ nói và dạy cho chúng ta, mà Người đã thực sự biến lời nói thành hành động. Người đã khai sinh ra một quốc gia mới. Người cho chúng ta thấy con đường của cuộc đấu tranh chung… Người, một vĩ nhân, sẽ sống mãi trong ký ức của những người bị áp bức qua hàng thế kỷ.”
Tạp chí Time nêu tên Lenin là một trong 100 nhân vật quan trọng nhất của thế kỷ 20, và là một trong 25 biểu tượng chính trị hàng đầu qua mọi thời đại; với đề tựa rằng “trong nhiều thập kỷ, những cuộc nổi dậy của chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm rung chuyển thế giới trong khi thi hài của Lenin nằm yên nghỉ tại Quảng trường Đỏ”.
Tại bài viết trong Encyclopedia Britannica (Bách khoa toàn thư Anh quốc) được viết bởi giáo sư của Đại học Bắc Illinois, Albert Resis viết[50]:
- “Nếu cuộc cách mạng Bolshevik là – như một số người đã gọi nó – là sự kiện chính trị quan trọng nhất của thế kỷ 20, thì sau đó Lenin, dù được coi là có vai trò tốt hay xấu, luôn được coi là nhà lãnh đạo chính trị quan trọng nhất của thế kỷ. Không chỉ trong giới học thuật của Liên Xô cũ, mà ngay cả trong số nhiều học giả không đi theo chủ nghĩa cộng sản, ông đã được coi là nhân vật vĩ đại trên cả 2 phương diện: nhà lãnh đạo cách mạng và chính khách cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử, cũng như là nhà tư tưởng cách mạng lớn nhất kể từ Karl Marx“
Xem thêm
Những câu nói nổi tiếng
- Người Cộng sản phải có một cái đầu lạnh và một trái tim hồng! [51]
- Các thầy, cô giáo và Hồng quân đều là những thành trì của Cách mạng!
- Chúng ta không ngốc, nhưng hãy giả bộ như những thằng ngốc!
- Một nhà văn nếu như không tưởng tượng mình là thằng ngốc thì sẽ không thể miêu tả về thằng ngốc được!
- Học, học nữa, học mãi!
Tài liệu tham khảo
- ^ Tạp chí Time số 14|Vol. 151 ngày 13 tháng 4 năm 1998. 100 người nổi bật của thế kỷ
- ^ Lê Thùy Chi. 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất đến lịch sử thế giới. NXB Văn hóa – Thông tin. Hà Nội. 2007. Mục từ thú 86: Lê Nin
- ^ a ă Christopher Read. Lenin: A Revolutionary Life. tr. 4.
- ^ “Lịch sử nước Nga thời kỳ TBCN sau CM tháng 10”.
- ^ Lenin: A Biography. Robert Service. ISBN 0-330-49139-3.
- ^ “Vladimir Ilyich Lenin: The Development of Capitalism in Russia”.
- ^ Tiểu sử V.I Lênin (1870-1924) – Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
- ^ Joe Fineberg and George Hanna (1999). “Vladimir Ilyich Lenin: What Is To Be Done?” 1. Lenin’s Selected Works. tr. 119-271.
- ^ Cách mạng Nga 1899-1919. tr. 789-795.
- ^ “V. I. Lenin: Lessons of the Commune”. Zagranichnaya Gazeta. 23 thàng 3, 1908.
- ^ Robert G. Wesson. Lenin’s Legacy: The Story of the Cpsu. tr. 44.
- ^ “7”. Phần 2. Người cách mạng chuyên nghiệp.
- ^ a ă Kỷ niệm 90 năm cách mạng Tháng 10 Nga vĩ đại từ (7/11/1917-7/11/2007): Những điều mới biết về Lênin
- ^ Thomas Purcell. The Return of the Kings.
- ^ Christopher Read. Lenin: A Revolutionary Life. tr. 161.
- ^ “Vladimir Ilyich Lenin: The Tasks of the Proletariat in the Present Revolution”.
- ^ Christopher Read. Từ chế độ Nga hoàng tới Xô viết. tr. 151–153.
- ^ “The Month of the Great Slander”. Leon Trotsky: The History of the Russian Revolution.
- ^ Karl G. Heinze. Baltic Sagas: Events and Personalities that Changed the World!. tr. 242.
- ^ Marvin Perry, Matthew Berg, James Krukones. Sources of European History Since 1900. tr. 103.
- ^ “Lenin: The State and Revolution”. Lenin Internet Archive.
- ^ a ă Marvin Perry, Myrna Chase, Margaret Jacob, James R. Jacob, Theodore H. Von Laue. Western Civilization: Ideas, Politics, and Society: From the 1600s 2. tr. 738-739.
- ^ a ă “V. I. Lenin: The Constituent Assembly Elections and The Dictatorship of the Proletariat”. 19 tháng 12, 1919.
- ^ “Lenin and the First Communist Revolutions, IV”.
- ^ “V. I. Lenin: Third All-Russia Congress Of Soviets Of Workers’, Soldiers’ And Peasants’ Deputies”.
- ^ Stephane Courtois, et. al (1999). The Black Book of Communism. Harvard University Press. ISBN 0-674-07608-7.
- ^ “Có một Lenin khác…”. 2008.
- ^ Source List and Detailed Death Tolls for the Twentieth Century Hemoclysm
- ^ “V.I. Lenin: The Revolutionary Proletariat and the Right of Nations to Self-Determination”.
- ^ V. I. Lenin: Anti-Jewish Pogroms
- ^ V. Lerner, Y. Finkelstein, E. Witztum (2004). The Enigma of Lenin’s (1870–1924) malady 11 ((6)). European Journal of Neurology. tr. 371-6. doi:10.1111/j.1468-1331.2004.00839.x.
- ^ “A Retrospective Diagnosis Says Lenin Had Syphilis”. C. J. Chivers. The New York Times. 22 tháng 6 2004. Truy cập 9 tháng 5 2013.
- ^ “Vladimir Lenin died from syphilis, new research claims”. Telegraph. 22 tháng 10, 2009.
- ^ a ă â b c Abraham Resnick. Lenin: Founder of the Soviet Union. tr. 9.
- ^ “Flight From Freedom: What Russians Think and Want”.
- ^ Имя Россия
- ^ Lenin để lại nhiều chỉ dẫn quý báu về xây dựng CNXH hiện thực – Thứ Bảy, 17/04/2010 08:55
- ^ “Soviets in Action”.
- ^ Two Lenin monuments opened in Luhansk Oblast, UNIAN (ngày 22 tháng 4 năm 2008)
- ^ “All monuments of Lenin to be removed from Russian cities”, RT (ngày 20 tháng 11 năm 2012)
- ^ Maryland Government, St Petersburg/Leningrad Oblast
- ^ “Leon Trotsky: The History of the Russian Revolution”.
- ^ Orlando Figes (27 thàng 10, 1996). Censored by His Own Regime Censored by His Own Regime. New York Times. tr. 204.
- ^ “Thủ đô Mông Cổ kéo đổ tượng Lenin”. BBC. 14 tháng 10, 2012.
- ^ “Last stand for Ulaanbaatar’s Lenin statue”. Australia Network News. Truy cập 11 tháng 2 năm 2015.
- ^ Phan Bội Châu, người đầu tiên treo ảnh Lê-nin ở Việt Nam, Nguyễn Khắc Phê, Ông già Bến Ngự” – NXB Thuận Hóa, 1987
- ^ PHAN BỘI CHÂU – NHÀ VĂN HÓA, Nguyễn Đình Chú, Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV – ĐHQG Tp. HCM
- ^ a ă â b “Lãnh tụ Xôviết Vladimir Ilich Lênin: Một người Nga chân chính”. CAND.com. 12 thàng 6, 2008.
- ^ Gorin, Vadim, Lenin: A Biography (1983) Progress Publishers, pp. 469–70
- ^ “Vladimir Ilich Lenin biography – prime minister of Union of Soviet Socialist Republics”. Encyclopedia Britannica. Truy cập 11 tháng 2 năm 2015.
- ^ V.I. Lênin nói về tư cách, đạo đức của người cán bộ, Đảng viên Cộng sản
Đọc thêm
- Leon Trotsky, Lenin
- Robert Service, Lenin: A Biography
- Revolution at the Gates: A Selection of Writings from February to October 1917 by V. I. Lenin, Slavoj Zizek (Editor), Verso Books, ISBN 1-85984-661-0
- Louis Fischer, The Life of Lenin, ISBN B00005W8VC (This is an Amazon.com number; many other options are available through ABE)
- Leszek Kolakowski, Main Currents of Marxism
- John Gooding, Socialism In Russia: Lenin and His Legacy, 1890–1991
- Anton Pannekoek, Lenin as Philosopher
- Dmitri Volkogonov, Lenin: A New Biography
- Robert Tucker, “The Lenin Anthology”
- Lenin Internet Archive Biography includes interviews with Lenin and essays on the leader
Liên kết ngoài
Tiếng Việt
Tiếng Anh
Những tác phẩm lựa chọn
Thể loại:
Mahatma Gandhi
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mahātmā Gāndhī (2 tháng 10 năm 1869 – 30 tháng 1 năm 1948), nguyên tên đầy đủ là Mohandas Karamchand Gandhi (Devanagari: मोहनदास करमचन्द गांधी; Gujarati: મોહનદાસ કરમચંદ ગાંધી), là anh hùng dân tộc Ấn Độ, đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của hàng triệu người dân. Trong suốt cuộc đời, ông phản đối tất cả các hình thức khủng bố bạo lực và thay vào đó, chỉ áp dụng những tiêu chuẩn đạo đức tối cao. Nguyên lí bất bạo lực (còn gọi là bất hại) được ông đề xướng với tên Chấp trì chân lí (sa. satyāgraha) đã ảnh hưởng đến các phong trào đấu tranh bất bạo động trong và ngoài nước cho đến ngày nay, bao gồm phong trào Vận động Quyền công dân tại Hoa Kỳ (American Civil Rights Movement) được dẫn đầu bởi Martin Luther King, Jr..
Từ lúc lãnh đạo cuộc đấu tranh giành tự do và đứng đầu đảng Quốc dân Đại hội Ấn Độ (Indian National Congress) năm 1918, ông được hàng triệu dân Ấn Độ gọi một cách tôn kính là Mahātmā, nghĩa là “Linh hồn lớn”, “Vĩ nhân” hoặc “Đại nhân”. Danh hiệu có gốc tiếng Phạn này được triết gia và người đoạt giải Nobel văn chương Rabindranath Tagore dùng lần đầu khi đón chào Gandhi tại Mumbai (hay Bombay) ngày 9 tháng 1 năm 1915. Mặc dù Gandhi không hài lòng với những cách gọi tôn vinh nhưng đến ngày nay, danh hiệu Mahātmā Gāndhī vẫn thường được dùng hơn tên Mohandas Gāndhī trên thế giới. Ngoài việc được xem là một trong những môn đồ Ấn Độ giáo và những nhà lãnh đạo Ấn Độ vĩ đại nhất, ông còn được nhiều người Ấn tôn kính như một Quốc phụ (gọi theo tiếng Hindi là Bapu). Ngày sinh của ông, 2 tháng 10, là ngày lễ quốc gia của Ấn Độ. Năm 2007, Liên Hiệp Quốc ra nghị quyết lấy ngày 2 tháng 10 là Ngày Quốc tế Bất Bạo động.”[1][2]
Bằng phương tiện bất hợp tác, Gandhi đã dẫn khởi nền độc lập Ấn Độ, đưa nước mình thoát sự đô hộ của Anh, khích lệ những người dân bị đô hộ khác phấn đấu cho nền độc lập của nước nhà và đả đảo triệt để Đế quốc Anh. Nguyên lí Chấp trì chân lí của Gandhi (có gốc tiếng Phạn: satya là “chân lí” và ā-graha là “nắm lấy”, “nắm chặt”), cũng thường được dịch là “con đường chân thật”, “truy tầm chân lí”, đã cảm kích những người chủ trương hành động giành tự do như Đạt-lại Lạt-maĐăng-châu Gia-mục-thố (Tenzin Gyatso), Lech Wałęsa, Stephen Biko, Aung San Suu Kyi và Nelson Mandela. Tuy nhiên, không phải tất cả những nhà lãnh đạo nêu trên đều theo nguyên tắc bất bạo lực và bất kháng cự khắt khe của Gandhi.
Gandhi thường nói là nguyên tắc của ông đơn giản, lấy từ niềm tin truyền thống của Ấn Độ giáo: Chân lí (satya) và bất bạo lực (ahiṃsā). Chính ông nói rằng: “Tôi chẳng có gì mới mẻ để dạy đời. Chân lí và bất bạo lực đều có từ xưa nay”.
Thời niên thiếu
Gandi, bên trái, năm 13 tuổi
Mohandas Karamchand Gandhi[3] sinh trong một gia đình Ấn Độ giáo thuộc cộng đồng Modh (một nhóm thương gia ở Gujarat), tại Porbandar, bang Gujarat, Ấn Độ vào năm 1869.[4] Ông là con của Karamchand Gandhi, một người giữ chức “diwan” (có thể gọi là “Tổng bộ trưởng”) của Porbandar, và bà Putlibai, người vợ thứ tư của Karamchand, theo Ấn Độ giáo phái thờ thần Tì-thấp-nô (sa. vaiṣṇava). Nữ thủ tướng Ấn Độ sau này, Indira Gandhi, và con trai của bà, Rajiv Gandhi, không bà con gì với Gandhi.
Lớn lên với một bà mẹ sùng tín Tì-thấp-nô trong một môi trường được ảnh hưởng bởi những người theo Kì-na giáo tại Gujarat, Gandhi sớm cảm nhận nguyên tắc bất hại, ăn chay, phương pháp nhịn ăn để thanh lọc tâm thức cũng như sự khoan dung lẫn nhau của các tín đồ và tông phái. Ông sinh ra trong giai cấp thứ ba của xã hội Ấn là Phệ-xá (sa. vaiśya, giai cấp thương gia). Tháng 5 năm 1882, vào tuổi 13, ông cưới cô Kasturba Makharji, 14 tuổi, qua một sự mai mối.[5] Hai ông bà sau có bốn con trai: Harilal Gandhi, sinh năm 1888; Manilal Gandhi, sinh năm 1892; Ramdas Gandhi; sinh năm 1897 và Devdas Gandhi, sinh năm 1900.[5]
Gandhi là một sinh viên trung bình tại Porbandar và sau đó là tại Rajkot. Ông đậu khoá thi vào Đại học Mumbai năm 1887 với số điểm vừa đủ, và vào học viện Samaldas tại Bhavnagar. Tuy nhiên, ông không lưu ở đây lâu vì gia đình muốn ông trở thành luật sư để giữ truyền thống nắm quyền cao tại Gujarat.[6] Không cảm thấy thú vị tại học viện Samaldas, Gandhi liền nắm thời cơ du học nước Anh, một nước được ông xem là “quốc gia của những triết gia và thi nhân, trung tâm đích thực của nền văn minh”.
Gandi khi còn là sinh viên ở London
Vào tuổi 19, Gandhi vào Đại học College London (một trường thuộc Đại học London) học ngành luật. Trong thời gian tại London, thủ đô của đế quốc, ông chịu ảnh hưởng của lời nguyện với bà mẹ trước mặt một vị tăng Kì-na giáo là Becharji, đó là giữ giới luật Ấn Độ giáo không ăn thịt và uống rượu sau khi rời Ấn Độ. Mặc dù đã thử bắt chước văn minh người Anh, ví dụ như học nhảy, nhưng Gandhi không ăn được thịt cừu và cải bắp bà chủ nhà trọ nấu cho mình.[7] Bà chỉ ông đến một trong những tiệm chay hiếm hoi tại London thời đó.[8] Nhưng thay vì đơn thuần làm toại nguyện bà mẹ, ông đọc sách và đổi sang ăn chay ngay trên phương diện tri thức. Ông vào “Hội người ăn chay”, được cử làm uỷ viên ban chấp hành và lập ra một nhánh địa phương của nó. Về sau, ông cho rằng công việc này đã giúp ông thu thập những kinh nghiệm giá trị trong việc quản lí và duy trì một tổ chức. Một số người ăn chay ông đã gặp là thành viên của hiệp hội Thần Trí học (hoặc Thông Thiên học), được bà Helena Petrovna Blavatsky thành lập vào năm 1875 để hỗ trợ tình người năm châu. Những nhà Thần Trí học này chuyên tâm nghiên cứu kinh điển Phật giáo và Ấn Độ giáo. Họ khuyến khích Gandhi đọc Chí Tôn ca.[8] Mặc dù từ trước đây không tỏ vẻ hứng thú về tôn giáo, ông bắt đầu đọc những tác phẩm nói về Ấn Độ giáo, Kitô giáo, Phật giáo và các tôn giáo khác.
Ông trở về Ấn Độ sau khi được phép làm luật sư vào tháng 6 năm 1891, và khi trở về ông mới biết mẹ mình đã qua đời, và gia đình đã giấu kín chuyện này.[8] Thành tựu của ông trong việc mở văn phòng luật sư tại Mumbai chỉ hạn chế vì thời đó có rất nhiều người làm nghề này và Gandhi không phải là một luật sư năng nổ tại pháp tòa. Ông nộp đơn xin dạy bán thời gian tại trường trung học Mumbai, nhưng bị từ chối. Cuối cùng, ông trở về Rajkot sống một cuộc sống khiêm tốn bằng cách soạn lời thỉnh nguyện cho những người tố tụng, nhưng rồi cũng phải đình chỉ công việc này vì xung đột với một quan viên người Anh. Trong tự truyện của mình, Gandhi miêu tả sự kiện này như một sự cố gắng du thuyết không kết quả vì lợi ích của người anh trai. Dưới bầu không khí này (1893), ông chấp nhận một hợp đồng lâu dài của một công ty Ấn Độ, nhậm chức tại Natal, Nam Phi.[9]
Phong trào vận động quyền công dân tại Nam Phi
Vào thời điểm này, Gandhi là một người trầm tính, khiêm cung không chú tâm về chính trị. Ông đọc báo lần đầu tiên năm lên 18 và thường run sợ khi bước ra tòa thuyết trình. Nam Phi đã biến đổi ông một cách sâu sắc khi ông chứng kiến sự hạ nhục và đàn áp mà cộng đồng Ấn Độ thường phải chịu đựng nơi đây. Vào một ngày, khi quan tòa thành phố Durban yêu cầu Gandhi gỡ khăn xếp (turban) trên đầu, ông từ chối và hùng hồn bước ra khỏi tòa. Một bước ngoặt trong cuộc đời thường được các truyện kí thừa nhận – có thể xem là chất xúc tác cho chủ nghĩa hành động của ông – xảy ra ít lâu sau, khi ông bắt đầu một cuộc hành trình đến Pretoria.[10] Ông bị vất ra khỏi xe lửa tại Pietermaritzburg sau khi từ chối chuyển từ toa xe hạng nhất đến toa hạng ba, vốn thường được những người da màu sử dụng mặc dù đã mua vé hạng nhất.[11] Không lâu sau, trong cuộc hành trình bằng xe ngựa, ông bị người lái xe đánh vì từ khước nhường chỗ cho một du khách châu Âu.[12] Ông cũng kham chịu nhiều khổ đau khác như bị loại ra nhiều khách sạn vì chỉ màu da của mình. Kinh nghiệm này khiến Gandhi quan sát kĩ hơn những thống khổ người đồng hương phải chịu đựng tại Nam Phi trong thời gian ông làm việc tại Pretoria.[13] Chính trong thời gian tại Nam Phi, qua sự chứng kiến tận mắt chế độ kì thị chủng tộc, thành kiến và bất công, Gandhi bắt đầu thám vấn địa vị trong xã hội của những người đồng hương và của chính mình.
Khi hợp đồng làm việc chấm dứt, Gandhi thu xếp trở về Ấn Độ. Tuy nhiên, trong buổi tiệc tiễn đưa tại Durban, ông tình cờ đọc một bài báo nói về một dự thảo pháp luật được Hội đồng lập pháp Natal đề nghị nhằm loại bỏ quyền bầu cử của người di dân Ấn Độ. Khi đưa việc này ra thảo luận với những người đồng hương, họ than không đủ kiến thức để phản đối dự thảo và khẩn khoản yêu cầu Gandhi ở lại giúp họ. Ông phổ biến một số kiến nghị đến cả hai, Viện Lập Pháp Natal và chính quyền Anh để phản đối dự thảo. Mặc dù không ngăn được việc dự thảo này được duyệt, cuộc đấu tranh của ông đã thành công trong việc soi rọi những điểm bất bình của người Ấn tại Nam Phi. Những người hỗ trợ thuyết phục ông lưu lại Durban để tiếp tục đấu tranh chống sự bất công được áp dụng đối với người Ấn tại đây. Ông lập Hội nghị Ấn Độ tại Natal năm 1894 và chính mình giữ vai bí thư. Qua tổ chức này, ông đã chuyển hóa cộng đồng người Ấn tại Nam Phi thành một lực lượng chính trị hỗn tạp, làm tràn ngập chính quyền cũng như báo chí với những lời trần thuật về sự bất mãn của người Ấn và những bằng chứng của sự kì thị nơi người Anh tại Nam Phi.
Năm 1896, Gandhi trở về Ấn Độ với mục đích mang vợ con sang Nam Phi. Năm 1897, khi trở lại Nam Phi, ông bị một nhóm bạo lực da trắng tấn công và tìm cách sát hại bằng tư hình. Như một dấu hiệu đầu tiên của thước đo nội tâm ảnh hưởng đến những cuộc đấu tranh sau này, Gandhi khước từ việc tố cáo bất cứ cá nhân nào của nhóm bạo lực, nói rằng việc không tìm sự bồi thường tại tòa án dựa trên cơ sở lỗi lầm cá nhân là một trong những nguyên tắc chính của ông.
Khi Chiến tranh Nam Phi bắt đầu, Gandhi chủ trương là người Ấn phải hỗ trợ chiến tranh để hợp pháp hóa yêu cầu trở thành công dân chính thức. Ông tổ chức một nhóm tình nguyện cứu thương gồm 300 người Ấn Độ và 800 người làm mướn. Tuy nhiên, sau khi chiến tranh kết thúc, tình trạng của người Ấn tại Nam Phi không khả quan hơn, vẫn tiếp tục sa đoạ. Năm 1906, chính quyền Transvaal công bố một pháp án mới, bắt người Ấn Độ của thuộc địa phải kí chứng. Tại một cuộc biểu tình lớn được tổ chức tại Johannesburg vào tháng 9 ngay trong năm đó, Gandhi lần đầu áp dụng nguyên tắc Chấp trì chân lí và đấu tranh bất bạo lực, khuyên các người đồng hương phản bác luật mới và chịu đựng hình phạt để thực hiện việc này thay vì phản kháng bằng phương tiện bạo lực. Dự án này được áp dụng, dẫn đến một cuộc tranh đấu kéo dài 7 năm với hơn 7000 người Ấn bị bắt giam (trong đó có Gandhi, bị bắt bỏ tù nhiều lần), đánh đập, thậm chí bị bắn vì đình công, từ chối không kí chứng, đốt giấy kí chứng hoặc tham gia những cuộc kháng cự bất bạo động khác. Mặc dù chính quyền thành công trong việc đàn áp những người Ấn phản đối, tiếng thét gào của công chúng trước những phương pháp tàn bạo được áp dụng bởi chính quyền Nam Phi cho những người phản đối yên lặng hòa bình này cuối cùng đã bắt buộc tướng Jan Christian Smuts luận bàn một phương án thoả hiệp với Gandhi.
Trong những năm sống tại Nam Phi, Gandhi đã lấy cảm hứng từ quyển Chí Tôn ca cũng như những tác phẩm của Lev Nikolayevich Tolstoy (đặc biệt là quyển “Thiên đường nằm trong Bạn”), người đã trải qua một sự chuyển biến tôn giáo sâu sắc với niềm tin vào một dạng “chủ nghĩa vô chính phủ” của Kitô giáo. Gandhi dịch bài “Thư gửi đến một môn đồ Ấn Độ giáo” (A Letter to a Hindu) của Tolstoi, được viết vào năm 1908 để phản ứng những đồng hương Ấn Độ theo chủ nghĩa dân tộc một cách hung bạo. Hai người viết thư cho nhau cho đến khi Tolstoi mất vào năm 1910. Bức thư của Tolstoi dùng triết học Ấn Độ có nguồn từ các Phệ-đà và những lời khuyên của Hắc thiên để hướng đến phong trào chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ đang tiến triển. Gandhi cũng bị ảnh hưởng lớn qua tiểu luận nổi danh của Henry David Thoreau là “Sự không phục tòng của công chúng”. Những năm lưu trú tại Nam Phi với tư cách một người chủ trương hành động chuyên về xã hội chính trị chính là thời kì những khái niệm và kĩ thuật của phương pháp bất hợp tác và phản đối bất bạo lực được phát triển. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu, ông quyết định trở về Ấn Độ, mang theo tất cả những gì ông đã học được từ những kinh nghiệm tại Nam Phi.
Phong trào đấu tranh giành độc lập Ấn Độ
-
Như đã thực hiện trong cuộc chiến Nam Phi, Gandhi khuyến khích việc ủng hộ người Anh trong cuộc chiến (Thế chiến thứ nhất) và chủ động khích lệ người Ấn tham gia quân đội. Khác với quan niệm của nhiều người khác, cách biện luận duy lí của ông cho trường hợp này là quyền công dân đầy đủ, tự do và quyền lợi trong Đế quốc Anh, và như vậy thì việc giúp nó phòng vệ không có gì sai. Ông thuyết trình trước Quốc dân Đại hội Ấn Độ, nhưng phần lớn là chính ông được hướng dẫn vào những chủ đề Ấn Độ, chính trị và công chúng Ấn qua Gopal Krishna Gokhale, nhà lãnh đạo được tôn trọng nhất của đảng Quốc dân Đại hội bấy giờ.
Champaran và Kheda
Những thành tích lớn đầu tiên của Gandhi xảy ra vào năm 1918 với cuộc kích động tại Champaran và phong trào Chấp trì chân lí tại Kheda mặc dù ông chỉ thực hiện trên mặt danh nghĩa trong trường hợp thứ hai và người chính chủ đạo là Sardar Vallabhbhai Patel, cánh tay phải của Gandhi. Tại Champaran, một khu vực nằm trong tiểu bang Bihar, ông tổ chức cuộc kháng cự cùng với hơn 10.000 nông dân không có đất, nông nô và những nông gia nghèo khổ có số lượng đất không đáng kể. Họ bị ép buộc phải trồng indigo và những nông sản bán được trên thị trường thay vì gieo trồng những loại cung cấp thực phẩm cần thiết cho sự sinh tồn của họ. Bị đàn áp bởi dân binh của điền chủ (phần lớn là người Anh), họ được trả công rất ít nên cuộc sống rất vất vả cơ hàn. Thôn làng của họ rất dơ bẩn, thiếu vệ sinh. Những vấn đề như uống rượu, kì thị dân ti tiện (untouchable) và khăn che (purdah) ngày càng lan tràn. Giờ đây, ngay trước một cuộc chống đói kinh hoàng, thực dân Anh lại đưa ra một loại thuế tàn ác, cứ y vào sự gia tăng theo chu kì mà thu thuế. Tình thế rất tuyệt vọng và tại Kheda, bang Gujarat thì sự việc nhìn chung cũng không khác.
Gandhi lập một Già-lam tại đó, tổ chức một nhóm người bao gồm người giúp cố cựu và người mới từ địa phương. Ông tổ chức một công trình nghiên cứu để có được một tổng quan về các thôn làng, xem xét những sự tàn bạo và những tình tiết thống khổ bao gồm những trạng thái thoái hóa của cuộc sống nói chung. Lập cơ sở trên lòng tự tin của người làng, Gandhi bắt đầu chỉnh lí các thôn xóm, lập trường học và bệnh viện, khuyến khích chủ làng xoá bỏ những việc hủ nát như phân biệt tiện dân, bắt phụ nữ mang khăn che và áp chế họ.
Nhưng cuộc phát động có tổ chức đầu tiên của Gandhi xảy ra khi ông bị cảnh sát bắt giam với lí do gây bạo động và được yêu cầu rời địa phương này. Hàng trăm nghìn người biểu tình chống đối, vây quanh nhà giam, các trạm cảnh sát và quan tòa đòi trả tự do lại cho ông, một sự việc pháp tòa không muốn nhưng sau cũng phải thực hiện. Gandhi đứng đầu những cuộc biểu tình có tổ chức chống lại điền chủ, và họ, dưới sự lãnh đạo của chính quyền Anh, đã kí một hiệp định đảm bảo trả lương cao hơn và kiểm soát việc cho nông dân nghèo địa phương thuê đất, xoá bỏ việc tăng thuế cũng như việc thu thuế đến khi nạn đói chấm dứt. Chính trong thời gian kích động này, Gandhi được quần chúng tôn xưng là Bapu (người cha già dân tộc) và Mahātmā (tâm hồn vĩ đại). Tại Kheda, Patel đại diện các nông gia trong những cuộc thương lượng với chính quyền Anh với kết quả là họ tạm dừng thu thuế, đảm bảo trợ cấp. Tất cả những người bị tù đều được thả ra. Danh tiếng Gandhi từ đây như một ngọn lửa lan truyền khắp nước và ông đã trở thành năng lực ảnh hưởng nhất định trong phong trào chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ.
Phát động phong trào bất hợp tác
Dự thảo pháp luật Rowlatt được duyệt năm 1919, cho phép chính phủ bắt giam những người bị vu khống gây loạn mà không cần đưa ra tòa duyệt. Gandhi và đảng Quốc dân Đại hội tổ chức những cuộc biểu tình lớn phản đối và đình công, và tất cả những cuộc phản đối này đều được tổ chức rất hòa bình trên khắp nước. Tất cả những thành phố và thị xã lớn đều đóng cửa; các hoạt động cơ quan chính phủ đều phải được quân đội đảm nhiệm. Hàng nghìn người bị bắt giam, lệnh giới nghiêm được áp dụng ở nhiều vùng của Ấn Độ. Tại Punjab, cuộc đại tàn sát ở Amritsar với 379 người dân bị giết bởi quân đội Anh và Ấn Độ đã gây chấn thương nặng nề cho đất nước, gia tăng phẫn oán nơi quần chúng cũng như những hành vi bạo lực.
Gandhi phê bình cả hai, hành vi của người Anh và bạo lực phục thù của người Ấn. Ông viết một bài phân ưu cùng với những nạn nhân Anh và lên án những cuộc bạo động. Bài này ban đầu bị phản đối trong đảng, nhưng được chấp thuận sau một bài thuyết giảng của Gandhi mà trong đó, ông đề cao nguyên tắc là tất cả những hành vi bạo lực đều có hại, không thể được biện minh[14]. Người Ấn không mang tội vì sự kì thị của người Anh, và không nên trừng phạt công dân Anh vô tội.
Nhưng sau cuộc tàn sát lớn và bạo lực này, Gandhi nhận thức được là không chỉ người Ấn chưa được chuẩn bị cho việc kháng cự số đông, mà sự cai trị của người Anh đích thật tàn ác và nó có bản chất là đàn áp. Gandhi giờ đây chú tâm đến việc giành quyền tự trị và quyền quản lí tất cả những cơ quan chính quyền Ấn Độ, vươn đến trạng thái tự chủ (svarāj), nghĩa là sự tự chủ toàn vẹn về mặt cá nhân, tâm linh và chính trị.
Tháng 4 năm 1920, Gandhi được bầu làm chủ tịch hội Liên hiệp Tự trị Toàn Ấn Độ (All India Home Rule League). Ông được trao uy quyền chấp hành trong đảng Quốc dân Đại hội tháng 12 năm 1921. Dưới sự lãnh đạo của Gandhi, Quốc dân Đại hội được tổ chức lại với một hiến pháp mới có mục đích là tự chủ. Ai cũng có thể trở thành đảng viên sau khi đóng một lệ phí trên danh nghĩa. Một tổ chức có giai cấp của các uỷ ban được thành lập nhằm cải thiện kỉ luật và kiểm soát những phong trào từ trước đến giờ không có định hình và khuếch tán, chuyển biến đảng từ một tổ chức tinh duệ số ít thành một đảng lớn với sức lôi cuốn toàn quốc. Gandhi mở rộng mặt trận bất bạo lực, bao gồm chính sách “bản quốc” (svadeshi) – nghĩa là tẩy chay những sản phẩm ngoại lai, đặc biệt là những sản phẩm Anh. Liên hệ với chính sách này là sự ủng hộ việc mang y phục tự dệt ở nhà, được gọi là khadi, của ông, khuyên tất cả các người Ấn ăn mặc như vậy thay vì dùng đồ vải của người Anh. Gandhi khuyến cáo toàn dân, nam cũng như nữ, mỗi ngày dành chút thời gian để dệt vải ủng hộ phong trào đấu tranh giành độc lập[15]. Đây là chiến thuật nhằm khắc sâu kỉ luật và sự cống hiến để loại trừ những người không có thiện ý và những người hoài bão, và bao gồm phụ nữ vào phong trào ở một thời điểm mà nhiều người cho rằng, những việc làm như vậy không đáng trọng cho phụ nữ.
Thêm vào việc tẩy chay các sản phẩm Anh, Gandhi cũng khuyến khích dân chúng tẩy chay các cơ quan giáo dục và pháp tòa Anh, từ chức không làm cho chính quyền, từ chối không đóng thuế và huỷ bỏ những danh hiệu, huy chương Anh. Chương trình mới này đã đạt được sức lôi cuốn và thành công rộng lớn, gia lực cho người Ấn chưa từng có từ xưa nay. Nhưng khi phong trào vừa đạt đỉnh điểm thì đã chấm dứt một cách đột ngột vì một cuộc xung đột bạo lực tại thị xã Chauri Chaura, bang Uttar Pradesh vào tháng 2 năm 1922. Lo ngại phong trào sẽ quay về phương tiện bạo lực và tin chắc rằng sự việc này có thể lật đổ tất cả những công trình của mình, Gandhi liền huỷ bỏ chiến dịch bất phục tòng[16]. Giờ đây, như một người đã phô bày nhược điểm của mình, Gandhi bị bắt bỏ tù ngày 10 tháng 3 năm 1922, bị đưa ra tòa vì lí do gây loạn và kết án sáu năm tù. Đây không phải lần đầu Gandhi vị bỏ tù nhưng là lần bị giam cầm lâu nhất. Bắt đầu từ ngày 18 tháng 3 năm 1922, ông ngồi tù khoảng hai năm và được thả tháng 2 năm 1924 sau một ca mổ viêm ruột thừa.
Không có nhân cách hùng mạnh của Gandhi để kiềm chế các người đồng sự, đảng Quốc dân Đại hội bắt đầu tan vỡ, phân thành hai phái trong thời gian ông ngồi tù. Một phái được dẫn đầu bởi Chitta Ranjan Das và Motilal Nehru, ủng hộ việc đảng tham dự cơ quan lập pháp. Phái thứ hai được dẫn đầu mởi Chakravarti Rajagopalachari và Sardar Vallabhbhai Patel, phản đối việc này. Thêm vào đó là việc hợp tác giữa tín đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo mạnh mẽ trong những chiến dịch bất bạo động giờ đây sa sút. Gandhi tìm cách bắc cầu nối những điểm sai biệt này bằng nhiều phương tiện, bao gồm một cuộc tuyệt thực ba tuần mùa thu năm 1924, nhưng chỉ với kết quả hạn chế[17].
Những năm 1930: Hội đồng Simon, Chấp trì chân lí muối
Gandhi trong cuộc hành trình Chấp trì chân lí Muối năm 1930
Trong hầu hết những năm thuộc thập niên 1920–30, Gandhi đứng bên ngoài ánh đèn công chúng. Ông chú trọng đến việc giải quyết cái nêm giữa đảng Swaraj và Quốc dân Đại hội, và khai mở các phương pháp chống kì thị dân vô giai cấp, uống rượu, thiếu học và nghèo đói. Ông trở về địa vị hàng đầu vào năm 1928. Một năm trước đó, chính quyền Anh đề cử một hội đồng cải cách hiến pháp dưới sự lãnh đạo của Sir John Simon mà không có tên một người Ấn nào trong hội đồng. Kết quả của việc này là sự tẩy chay hội đồng của các đảng Ấn Độ. Gandhi thúc đẩy một nghị quyết thông qua Quốc dân Đại hội Calcutta vào tháng 12 năm 1928, kêu gọi chính quyền Anh đảm bảo địa vị chủ quyền (dominion status) trong vòng một năm hoặc là sẽ đối đầu một chiến dịch bất bạo lực mới với mục đích giành độc lập hoàn toàn cho đất nước.
Ngày 26 tháng 1 năm 1930 được Quốc dân Đại hội Ấn Độ – lúc đó đang hội họp tại Lahore – đề cao là ngày kỉ niệm độc lập Ấn Độ. Nó được tưởng niệm bởi hầu hết tất cả những tổ chức chính trị Ấn Độ khác, những tổ chức nỗ lực giành độc lập đất nước hoặc tiến đến việc trao quyền xã hội chính trị cho những cộng đồng khác nhau.
Như đã tuyên bố trước đây, vào tháng ba năm 1930, ông phát động một chiến dịch Chấp trì chân lí phản đối thuế muối, được nhấn mạnh bởi cuộc Hành trình muối (Salt March) đến Dandi nổi tiếng kéo dài từ 21 tháng 3 đến 6 tháng 4 năm 1930. Ông đi bộ 400 km từ Ahmedabad đến Dandi để lấy muối cho riêng mình. Hàng nghìn dân chúng Ấn Độ tham gia cuộc hành trình đến bờ biển này. Hành trình muối này là một trong những chiến dịch thành công nhất của ông với kết quả là hơn 60.000 người bị bắt giam. Chính quyền, được đại diện qua Lord Irwin, quyết định thương lượng với Gandhi.
Hiệp ước Gandhi-Irwin được đóng dấu tháng 3 năm 1931. Trong đó, chính quyền Anh đồng ý thả tất cả những tù nhân chính trị để bù cho việc đình chỉ cuộc vận động bất phục tòng. Thêm vào đó, Gandhi được mời sang Anh tham dự hội nghị bàn tròn (Round Table Conference) tại Luân Đôn với tư cách người đại diện duy nhất của Quốc dân Đại hội Ấn Độ. Hội nghị này là một thất vọng cho Gandhi cũng như những người theo chủ nghĩa dân tộc bởi vì nó chỉ lưu ý đến những tiểu vương cũng như những nhóm thiểu số Ấn Độ hơn là một sự phó truyền quyền lực (transfer of power). Ngoài ra, người thừa kế Lord Irwin là Lord Willingdon đã bắt đầu một chiến dịch mới để đàn áp những đại biểu chủ nghĩa dân tộc.
Một lần nữa, Gandhi bị bắt giam, và chính quyền tìm cách đập tan ảnh hưởng của ông bằng cách cách li hoàn toàn ông và các người đi theo ủng hộ. Chiến lược này không hiệu quả. Năm 1932, qua chiến dịch của B. R. Ambedkar – lãnh tụ của những người Dalit – chính quyền đảm bảo cho dân ti tiện Dalit những khu bầu cử riêng trong hiến pháp mới. Để phản đối việc này, Gandhi bắt đầu một cuộc tuyệt thực 6 ngày vào tháng 9 năm 1932, thành công trong việc buộc chính quyền tiếp nhận một hệ thống công bằng hơn qua sự thương lượng qua trung gian là ông Palwankar Baloo, vốn là một người Dalit chơi ngoạn bản cầu (cricketer), sau trở thành nhà chính trị. Đây cũng là khởi điểm của một chiến dịch mới của Gandhi với mục đích cải thiện cuộc sống của dân ti tiện, những người được ông gọi là Harijan, “con của trời Hari”. Ngày 8 tháng 5 năm 1933, Gandhi bắt đầu một cuộc tuyệt thực 21 ngày để phản đối sự đàn áp của người Anh tại Ấn Độ[18]. Mùa hè năm 1934, ông ba lần bị mưu hại không thành công.
Khi đảng Quốc dân Đại hội Ấn Độ tranh luận về tuyển cử và chấp nhận quyền chính trị dưới kế hoạch liên bang, Gandhi quyết định rời đảng. Ông hoàn toàn không chống đối phương án này của đảng nhưng cảm thấy rằng nếu ông rút lui thì hình tượng của ông đối với thường dân Ấn Độ sẽ ngưng đè nén toàn thể hội viên của đảng vốn có bản chất đa dạng: thành viên theo chủ nghĩa cộng sản, xã hội, công đoàn, sinh viên, tôn giáo bảo thủ, kinh doanh và quyền sở hữu. Gandhi cũng không muốn mình là mục tiêu của sự tuyên truyền của chính quyền Anh khi lãnh đạo một đảng đã có lần tạm thời thừa nhận sự phù hợp chính trị với chính quyền Anh.
Gandhi trở về địa vị lãnh đạo năm 1936 khi Jawaharlal Nehru nắm chức chủ tịch và Quốc dân Đại hội đang họp tại Lucknow. Mặc dù Gandhi mong muốn sự tập trung tuyệt đối vào việc giành độc lập, không chú tâm vào việc suy đoán về chính quyền Ấn Độ tương lai, nhưng ông không ngăn được việc Quốc dân Đại hội chọn chủ nghĩa xã hội là mục tiêu.
Gandhi cũng phê bình Subhas Chandra Bose và việc ông thăng tiến, nhậm chức chủ tịch vào năm 1938. Trong khi một số sử gia cho rằng đây là một cuộc tranh quyền giữa hai nhà lãnh đạo lớn thì Gandhi cơ bản phản đối việc Bose không thừa nhận nguyên tắc bất bạo lực cũng như dân quyền, hai điểm được Gandhi xem là nền tảng cho cuộc đấu tranh. Nguyện vọng phát động một cuộc khởi nghĩa khắp nơi chống chính quyền Anh của Bose không hàm dung việc chuẩn bị không dùng bạo lực của những người tham gia và trong năm đầu giữ quyền chủ tịch, Bose tập trung vào việc đưa những người thân cận lên nắm những chức quan trọng.
Bose được nhậm chức lần thứ hai mặc dù bị Gandhi chỉ trích, nhưng rời Quốc dân Đại hội khi tất cả những thành viên chức cao khác từ chức hàng loạt để phản đối việc ông từ bỏ những nguyên tắc Gandhi đã đưa vào trong những năm đầu thập niên 1920[19]. Năm 1938-1939, tất cả những ứng cử viên của Quốc dân Đại hội từ chức khi Quốc hội phản đối sự sáp nhập Ấn Độ một mặt vào Thế chiến thứ hai mà không tham vấn những đại biểu được bầu.
Gandhi tiếp tục cuộc đấu tranh chống sự kì thị dân Dalit, khuyến khích việc dệt tay và các ngành kĩ nghệ tại gia khác. Ông cũng cố gắng kiến lập một hệ thống giáo dục mới thích hợp cho những vùng thôn dã. Gandhi sống giản dị trong những năm này trong một thôn làng trung tâm Ấn Độ với tên Sevagram. Ngày 3 tháng 3 năm 1939, ông lại tuyệt thực một lần nữa.
“Làm hay chết”: Thế chiến thứ hai và “Rời Ấn Độ”
Thế chiến thứ hai bùng nổ năm 1939 khi Đức quốc xã xâm lấn Ba Lan. Gandhi hoàn toàn đồng cảm với nạn nhân của sự xâm chiếm này. Sau khi cân nhắc kĩ cùng những người đồng nghiệp trong Quốc hội, ông công bố rằng Ấn Độ không thể tham gia một cuộc chiến với mục đích bề ngoài là giành tự do dân chủ trong khi chính tự do dân chủ này bị phủ nhận tại Ấn Độ. Gandhi nói rằng ông sẽ hỗ trợ người Anh nếu họ cho ông thấy cách áp dụng mục đích của cuộc chiến tại Ấn Độ sau chiến tranh. Phản ứng của chính quyền Anh hoàn toàn phủ định. Họ bắt đầu tạo sự căng thẳng giữa môn đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Khi chiến tranh tiến hành, Gandhi nâng cao yêu cầu, thảo một nghị quyết kêu gọi người Anh “Rời Ấn Độ” (Quit India)[20].
Đây là sự phản đối quyết định nhất, cực lực nhất của Gandhi và đảng Quốc dân Đại hội với mục tiêu xác nhận việc người Anh rời nước Ấn. Gandhi bị một số người trong Quốc hội và một số nhóm chính trị khác – thuộc cả hai mặt, theo Anh và chống Anh – chỉ trích. Một số người cho rằng, đối lập người Anh trong thời đoạn chiến đấu sinh tử của họ là một việc phi đạo đức trong khi một số người khác lại cho rằng Gandhi chưa thực hiện đủ yêu cầu. Nhiều đảng chính trị phản đối lời kêu gọi của Gandhi. Ngoài sức khoẻ và tuổi tác ra, đây có lẽ là bước tiến dẫn cuối cùng của Gandhi.
Nó đã dẫn khởi một cuộc vận động đấu tranh giành độc lập Ấn Độ lớn nhất cho đến bây giờ – với sự bắt giam số đông và bạo lực ở một mức độ chưa từng có.[21] Hàng nghìn người kháng cự bị sát hại hoặc bị thương dưới nòng súng cảnh sát, và hàng trăm nghìn người đấu tranh giành độc lập bị bắt giam. Gandhi và những người hỗ trợ ông nói rõ rằng họ sẽ không giúp người Anh trong thế chiến nếu Ấn Độ không được đảm bảo tự do ngay lập tức. Gandhi thậm chí nói rằng không thể đình chỉ cuộc vận động trong thời điểm này ngay trong trường hợp những hành vi bạo lực cá nhân xảy ra. Ông cho rằng, tình trạng “vô chính phủ có tổ chức” xung quanh ông “nguy hiểm hơn là vô chính phủ thật sự”. Ông yêu cầu tất cả những thành viên Quốc hội và dân chúng duy trì kỉ luật hòa bình và “làm hay chết” vì tự do tuyệt đối.
Gandhi và toàn bộ ban chấp hành Quốc hội bị bắt giam ngày 9 tháng 8 năm 1942 tại Mumbai bởi lực lượng quân đội nước Anh. Gandhi bị giam hai năm trong điện Aga Khan tại Pune. Tại đây, Gandhi trải qua những nỗi khổ lớn nhất của cuộc đời, đó là cái chết của vợ Kasturbai chỉ vài tháng sau khi Mahadev Desai – người thư kí được ông xem như con trai – chết vì bị nhồi máu cơ tim vào tuổi 42. Gandhi được thả trước khi chiến tranh chấm dứt vì sức khoẻ sa sút và một ca mổ cần thiết. Chính quyền Anh không muốn ông chết trong tù vì đây là một sự kiện có thể làm lòng căm phẫn của công chúng vượt khỏi tầm kiểm soát.
Mặc dù sự đàn áp tàn nhẫn này mang đến một trạng thái trật tự tương đối tại Ấn Độ cuối năm 1943, nhưng phong trào “Rời Ấn Độ” đã thành công với những mục tiêu của nó. Khi chiến tranh chấm dứt, người Anh đã đưa ra những dấu hiệu rõ ràng là quyền cai trị sẽ được chuyển đến tay Ấn Độ. Gandhi đình chỉ cuộc đấu tranh, những người lãnh đạo Quốc hội và khoảng 100.000 người tù chính trị được thả. Sau 90 năm phấn đấu, tự do giờ đây nằm trong tầm tay Ấn Độ.
Tự do và sự phân chia Ấn Độ
-
Gandhi khuyên Quốc hội từ khước những đề nghị trong kế hoạch của phái đoàn chính phủ Anh năm 1946 vì ông rất nghi ngờ việc chia quyền với Liên minh Hồi giáo (Muslim League) cũng như sự phân chia và hạ giảm chính quyền trung ương có thể xảy ra. Gandhi cảnh cáo sự tập hợp được đề nghị dành cho những liên bang có số đông người Hồi. Tuy nhiên, đây là một trong những lần ít ỏi mà Quốc hội không nghe lời Gandhi (nhưng không đặt câu hỏi về quyền lãnh đạo) vì những người cầm đầu không những muốn lập chính quyền nhanh như có thể khi người Anh trao quyền lại, mà còn muốn ngăn cản Mohammed Ali Jinnah và Liên minh Hồi giáo đạt vị trí ngang hàng với đảng Quốc dân Đại hội, vốn có bản chất dân tộc và hiện thế hơn.
Trong thời gian 1946-1947, hơn 5000 dân bị sát hại. Liên minh được ủng hộ mạnh ở những bang có nhiều người theo Hồi giáo như Punjab, Bengal, Sindh, NWFP (North-West Frontier Province, Pakistan) và Baluchistan. Kế hoạch phân chia được ban lãnh đạo Quốc hội thừa nhận là phương pháp duy nhất để ngăn cản một cuộc nội chiến lớn giữa môn đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo.
Những nhà lãnh đạo cố cựu của Quốc hội biết rõ Gandhi sẽ phản đối cực lực sự phân chia, nhưng họ cũng thừa biết là Quốc hội không tiến bước nếu không có sự thoả thuận của ông vì sự hỗ trợ trong đảng và toàn quốc dành cho Gandhi rất sâu rộng. Những người bạn đồng nghiệp thân cận nhất của ông đã chấp nhận việc phân chia như phương án giải đáp tốt nhất, và Sardar Patel cố gắng thuyết phục Gandhi đây là con đường duy nhất để tránh cuộc nội chiến. Gandhi cuối cùng xuôi lòng, tán đồng bước thực hiện này.
Gandhi có ảnh hưởng lớn trong các cộng đồng Ấn Độ giáo và Hồi giáo tại Ấn Độ. Tương truyền chỉ sự hiện diện của ông thôi cũng đủ chấm dứt các cuộc bạo động. Ông phản đối kịch liệt tất cả những kế hoạch phân chia Ấn Độ thành hai quốc gia độc lập. Liên minh Hồi giáo luận cứ rằng thiểu số người Hồi giáo sẽ bị bức áp một cách có hệ thống bởi phần lớn môn đồ Ấn Độ giáo trong một quốc gia Ấn Độ thống nhất, và một quốc gia riêng cho người theo Hồi giáo là một giải pháp hợp lí. Tuy nhiên, nhiều người Hồi giáo ở trung tâm Ấn Độ – vốn chung sống với người Ấn giáo, đạo Sikhs, Phật giáo, Kì-na giáo, đạo Parsi, Kitô giáo và đạo Do Thái – lại muốn một quốc gia Ấn Độ thống nhất. Nhưng Jinnah ra lệnh hỗ trợ rộng rãi các vùng Tây Punjab, Sindh, NWFP và Đông Bengal, tất cả những vùng đã hợp thành dạng Pakistan và Bangladesh ngày nay. Xứ sở mới của người theo Hồi giáo được kiến lập từ các vùng Đông và Tây Ấn Độ. Ban đầu nó được gọi là Tây và Đông Pakistan, và giờ đây tương ưng với Pakistan và Bangladesh. Ngày trao quyền chính trị, Gandhi không ăn mừng độc lập cùng với công chúng Ấn Độ mà chỉ đơn độc tại Kolkata, đau buồn về sự phân chia và tiếp tục công việc nhằm chấm dứt bạo lực.
Đời sống cá nhân trong thời kì đấu tranh
Gandhi và vợ Kasturba đi khắp nước và lưu trú ở những Già-lam ở Gujarat và Maharashtra hoặc tại nhà những người bạn và những người hâm mộ. Những lần đến Delhi, họ ngụ tại tòa nhà Birla (Birla House) được cấp bởi người bạn thân là Ghanshyamdas Birla. Một thời Gandhi trú tại chung cư Bhangi (Bhangi Colony), trung tâm của sự việc chống kì thị giai cấp của ông.
Gandhi là một người say mê viết thư, luôn thử nghiệm các cách điều chế ăn uống, trau dồi nhận thức tôn giáo và triết học, nhưng chủ yếu là tư duy về các sự kiện chính trị. Ông cũng đã chỉ đạo những công việc trong một Già-lam và chỉ dẫn các môn đệ trong những vấn đề cá nhân.
Bị ám sát
Ngày 30 tháng 1 năm 1948, trên đường đến một nơi thờ tụng, Gandhi bị bắn chết bởi Nathuram Godse tại tòa nhà Birla ở New Delhi. Godse là một môn đồ Ấn giáo cực đoan được người đương thời cho là có mối quan hệ với cánh cực hữu của các tổ chức Ấn Độ giáo như Hindu Mahasabha. Tổ chức này cho Gandhi là người chịu trách nhiệm cho việc chính quyền suy nhược vì đã khăng khăng bắt buộc nộp một khoản tiền cho Pakistan. Godse và người cùng âm mưu là Narayan Apte sau bị đưa ra tòa kết án, và bị xử tử ngày 15 tháng 11 năm 1949. Vinayak Damodar Savarkar, chủ tịch của Hindu Mahasabha, một nhà cách mạng và môn đồ Ấn giáo cực đoan bị tố cáo là người nắm đầu dây của mưu đồ này, nhưng sau được giải tội vì thiếu bằng chứng.
Tương truyền câu nói trước khi chết của Gandhi là “Ô kìa Rama!” (Hey Ram!) và nó được xem là câu tôn kính hướng đến thần Rama, là một dấu hiệu gợi cảm tâm linh Gandhi cũng như lí tưởng đạt sự thống nhất với hòa bình vĩnh hằng của ông. Câu này được khắc vào đài tưởng niệm của ông tại New Delhi. Có người nghi vấn về tính có thật của câu này nhưng một số người đã chứng kiến và xác nhận ông đã nói như thế[22]. Một vài nguồn ghi lại những lời cuối của ông là “He Ram, He Ram” hoặc “Rama, Rama”, và nó cũng tường thuật rằng ông lăn xuống đất, chắp hai tay trước ngực ở tư thế chào.
Nguyên tắc: Chấp trì chân lí
-
Như đã nói trong phần dẫn nhập, nguyên tắc chính của Gandhi là Satyāgraha, “Chấp trì chân lí” và người thực hiện việc này được gọi là một Satyāgrahī. Trong nhiều bài viết, Gandhi định nghĩa Chấp trì chân lí như sau (Collected Works of Mahatma Gandhi [CWMG], Vol. 16, p. 9-10):
- Chấp trì chân lí là gì? Chấp trì chân lí không phải là năng lực thể chất. Người chấp trì chân lí không tổn thương đối thủ; ông ta không tìm cách huỷ diệt người ấy. Một người chấp trì chân lí không bao giờ dùng súng. Không có lòng sân ác hoặc bất cứ tâm bất thiện nào khác khi ứng dụng chấp trì chân lí.
- Chấp trì chân lí là một năng lực tâm linh thanh tịnh. Chân lí chính là thể chất của linh hồn. Đây là nguyên do vì sao năng lực này được gọi là chấp trì chân lí. Linh hồn bao gồm trí huệ. Ngọn lửa của lòng từ bi bùng cháy trong nó. Nếu một ai đó tổn thương ta vì vô minh thì ta thắng họ bằng tình thương. Bất hại là pháp tối cao (sa.ahiṃsā paramo dharmaḥ). Nó chính là sự chứng minh của năng lực tình thương. Bất hại là trạng thái ngủ. Khi tỉnh thức thì nó là tình thương. Được chỉ đạo bởi tình thương, thế giới tiến bước…
Theo Gandhi thì nguyên tắc Chấp trì chân lí nên đi xa hơn, ảnh hưởng nhiều hơn những dạng kháng cự xưa nay như Kháng cự thụ động, bất phục tòng của công chúng và bất hợp tác. Chấp trì chân lí bao gồm cả ba dạng này, nhưng lại tiến xa hơn (Harijan, 21.07.1940):
- Theo nghĩa thường gặp thì chấp trì chân lí có nghĩa là thế lực của chân lí (truth force)…. Bạo lực là sự phủ nhận năng lực tâm linh to lớn này, một năng lực chỉ có thể được sử dụng hoặc phát triển bởi những người hoàn toàn lìa xa bạo lực. Nó là một năng lực có thể được áp dụng bởi cá nhân hoặc cộng đồng, và nó cũng có thể được ứng dụng trong lãnh vực chính trị hoặc tại gia…. Tính năng có thể được áp dụng mọi nơi của nó chính là sự biểu hiện của tính trường tồn cũng như vô địch của nó. Nó có thể được áp dụng bởi đàn ông, đàn bà và trẻ em…. Những người tự thấy mình yếu hèn không thể dùng năng lực này được. Chỉ những người nhận thức được một cái gì đó của con người siêu việt bản năng thô bạo trong mình và năng lực thứ hai này luôn quy hướng về nó thì những người này mới có thể là những người kháng cự thụ động hữu hiệu.
Lúc đầu, Gandhi xem Chấp trì chân lí như là kháng cự thụ động, nhưng sau ông từ khước cách dùng này, bởi vì đối với ông, “thụ động” chỉ đến một trạng thái thừa nhận định mệnh, một cách thầm nhận những gì bất công và như vậy, nó hạ thấp năng lực nằm trong từ “kháng cự”. Theo Gandhi, kháng cự đòi hỏi một tư thái anh hùng và năng nỗ hơn là trạng thái thụ động hoặc khoan nhượng.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là đặc điểm nào đưa Chấp trì chân lí lên cao hơn ba dạng kia? Ba thành phần chính của nguyên tắc Chấp trì chân lí sẽ làm sáng tỏ sự việc, đó là Chân lí (sa. satya), Bất hại (sa. ahiṃsā) và Khổ hạnh (sa. tapas)
Chân lí
Gandhi phân biệt hai loại chân lí, chân lí tương đối và chân lí tuyệt đối. Trong trường hợp Chấp trì chân lí thì chân lí tương đối đóng vai trò chính. Trong phần dẫn nhập của Tự truyện, Gandhi ghi như sau:
- Nhưng đối với tôi, chân lí là một nguyên tắc căn bản bao gồm nhiều nguyên tắc khác. Chân lí này không chỉ là sự chân thật trong lời nói, mà cũng là sự chân thật trong tư duy, và cũng không chỉ là chân lí tương đối của khái niệm của chúng ta, mà là chân lí tuyệt đối, chân lí vĩnh hằng, và đó là Thượng đế. Có rất nhiều cách định nghĩa Thượng đế bởi vì Ngài có rất nhiều cách thể hiện. Chúng chinh phục tôi với sự kinh ngạc và kính trọng và tôi tê liệt trong một khoảnh khắc. Nhưng tôi chỉ tôn kính Thượng đế như chân lí. Tôi chưa tìm thấy Ngài, nhưng tôi tìm Ngài. Tôi sẵn sàng cống hiến những gì quý báu nhất của tôi để đi tìm. Ngay cả trường hợp sự cống hiến này đòi hỏi ngay sinh mệnh của tôi thì tôi hi vọng là sẽ sẵn lòng hiến dâng nó. Nhưng khi nào tôi chưa trực chứng chân lí tuyệt đối thì cho đến khi ấy, tôi phải nắm giữ chân lí tương đối như tôi hiểu nó. Trong thời gian này thì chân lí tương đối phải là ngọn đèn, tấm mộc và vật che chở của tôi.
Trong nguyên tắc Chấp trì chân lí, chân lí tương đối – mang khái niệm thực dụng để tìm chân lí – quan trọng hơn các khái niệm về Thượng đế, Brahman hoặc chân lí tuyệt đối. Trong khi khái niệm chân lí tuyệt đối của Gandhi bị ảnh hưởng về mặt siêu hình thì mặt khác, khái niệm chân lí tương đối, như cơ sở của chấp trì chân lí, lại rất khoa học và chính xác. Chỉ qua sự áp dụng và thực nghiệm ta mới biết được lập trường nào đứng gần chân lí tuyệt đối hơn.
Nhưng, để không bị tấm màn vô minh và huyễn giác mê hoặc, người ta phải giữ những giới luật nhất định. Chúng được hàm dung trong hai thành phần khác của Chấp trì chân lí, là Bất hại và Khổ hạnh.
Bất hại
Bất hại cũng được hiểu là Bất bạo động. Theo Gandhi, chỉ một con đường dẫn đến chân lí, và con đường này mang tên Bất hại. Theo ông, chỉ nguyên tắc bất hại mới hòa hợp với quy luật vũ trụ là Dharma. Nguyên tắc bất hại toàn hảo đòi hỏi một niềm tin vào tính nhất thể của sự sống.
Theo nguyên tắc Chấp trì chân lí, sinh mệnh của toàn thể được đặt cao hơn sinh mệnh của cá nhân và như vậy, nó đòi hỏi một tấm lòng vị tha và vô uý. Để đạt được đẳng cấp này, người ta phải tu luyện thân tâm, cụ thể là thực hiện các phép tu khổ hạnh.
Khổ hạnh
Tapas – được dịch là Khổ hạnh ở đây – có nguyên nghĩa theo Ấn Độ giáo là “sự nóng”, một “ngọn lửa” có thể đốt cháy các nghiệp trước đây. Thuật ngữ này sau được dùng để chỉ sự hành hạ thể xác, tuyệt dục, lãnh đạm đối với các cảm nhận khổ lạc,… Tuy nhiên, dạng Khổ hạnh Gandhi đề cao không phải là dạng ẩn lánh vào rừng mà là dạng hết lòng phục vụ những người xung quanh, trong xã hội (CWMG, Vol. 73, S. 43-44).
- Đây là một thử nghiệm mới. Bất bạo lực chưa được áp dụng trong chính trị. Bất bạo lực cũng đã được áp dụng thời xưa. Nhưng nó lúc nào cũng là việc làm của một cá nhân. Những người như thế sau này ẩn tránh trong núi hoặc sống đơn độc trong các thôn làng. Họ không lưu tâm đến hạnh phúc chung. Tôi đã bắt đầu một phong trào mới. Bất bạo lực, nếu chỉ giới hạn ở một cá nhân thôi thì chẳng phải là pháp tối cao. Tôi không kính phục một người thực hiện bất bạo lực trong một hang động. Bất bạo lực như vậy chẳng có sở dụng gì cho tôi. Tôi tin vào một dạng bất bạo lực có thể được thực hiện trong thế gian với những hiện thực rõ ràng. Tôi chẳng lưu tâm đến sự giải thoát của một người thực hiện bất bạo lực sau khi từ khước thế gian. Tôi chẳng để ý đến một sự giải thoát cá nhân loại trừ những người khác ra. Người ta có thể đạt giải thoát qua việc phục vụ người khác. Đây chính là lí do tôi đến đây để thuyết giảng sự việc cho quý vị.
Năng lực của một tâm thức chấp nhận khổ đau với chủ ý có khả năng dung hòa bạo lực. Giữ chặt chân lí mình cho là đúng có thể gây khổ đau nhiều dạng, ví như mất mát của cải, mang thương tích, thậm chí tử vong. Nhưng Gandhi lại đòi hỏi ở những người đi theo mình một sự kham khổ tuyệt đối vì ông quan niệm rằng, mức độ khổ đau chính là thước đo chiều sâu tình thương của người chấp trì chân lí dành cho đối thủ cũng như của tính chất nghiêm trọng của niềm tin của ông ấy (CWMG, Vol. 17, trang 374).
Ăn chay
Mặc dù có thử ăn thịt lúc còn nhỏ nhưng Gandhi sau này trở thành một người ăn chay tuyệt đối. Ông viết sách về chủ đề này trong thời gian du học tại Luân Đôn, sau khi gặp người tranh đấu cho việc ăn chay là Henry Stephens Salt ở những cuộc hội họp của Hội người ăn chay. Nguyên tắc ăn chay có truyền thống lâu đời trong các tôn giáo Ấn Độ như Ấn Độ giáo, Kì-na giáo và Phật giáo, và trong tiểu bang của Gandhi, Gujarat, phần lớn môn đồ Ấn giáo đều ăn chay. Ông thử nhiều cách ăn và kết luận rằng, ăn chay đủ cung cấp chất dinh dưỡng tối thiểu cho thân thể. Tuy nhiên, cách ăn của ông cũng linh hoạt và ông cũng không ngần ngại khi ăn trứng như bài viết “chìa khoá sức khoẻ” (Key to Health) năm 1948 cho thấy. Ông thường nhịn ăn lâu ngày, dùng nhịn ăn như một vũ khí chính trị. Ông từ chối không ăn cho đến chết hoặc cho đến khi những yêu cầu của ông được thực hiện.
Sống tuyệt dục
Gandhi sống tuyệt dục từ năm 36 tuổi. Quyết định này của ông bị ảnh hưởng mạnh bởi khái niệm Phạm hạnh (sa. brahmacarya) trong các tôn giáo Ấn Độ, tức là sự thanh tịnh của tâm linh và hành động, có mối liên hệ trực tiếp với việc tu khổ hạnh (sa. tapas) được nhắc bên trên. Tuy vậy, Gandhi không tin đây là một việc mỗi người nên làm. Trong Tự truyện, ông có nhắc lại cuộc phấn đấu chống lại sự thôi thúc tính dục và những cuộc ghen tuông vì bà Kasturba. Ông cho rằng, sống tuyệt dục là trách nhiệm riêng của ông để có thể phát triển lòng từ bi thay vì đam mê nhục dục.
Im lặng
Gandhi giữ giới không nói một ngày trong tuần. Ông tin là không nói sẽ mang đến sự an tĩnh nội tâm. Giới không nói bắt nguồn từ truyền thống Ấn giáo, mouna “tịnh khẩu” và śānti “tịch tĩnh”. Trong những ngày này, ông trao đổi với những người xung quanh bằng cách viết trên giấy. Từ năm 37 tuổi, hơn ba năm liền ông không đọc báo vì cho rằng, trạng thái huyên náo của sự kiện thế giới làm tâm ông hỗn loạn hơn là hỗn loạn nội tâm sẵn có.
Y phục
Trở về Ấn Độ sau khi làm luật sư thành công tại Nam Phi, ông từ khước mặc y phục phương Tây – cách ăn mặc được ông liên tưởng đến phú quý và thành công. Ông ăn mặc để người nghèo nhất Ấn Độ cũng có thể chấp nhận. Gandhi khuyến khích việc mặc y phục tự dệt (khadi). Ông và môn đệ dệt vải từ sợi chỉ tự se và khuyến khích người khác cũng làm như thế. Mặc dù công nhân Ấn Độ thường ngồi không vì thất nghiệp, họ vẫn mua quần áo sản xuất bởi người Anh. Gandhi cho rằng, nếu người Ấn tự sản xuất vải, họ sẽ gây một chấn động kinh tế cho các tổ chức Anh tại Ấn Độ. Qua sự việc này, biểu tượng bánh xe se chỉ sau này được đưa vào lá cờ của Quốc dân Đại hội Ấn Độ.
Tôn giáo
Mặc dù sinh ra trong một gia đình Ấn Độ giáo, Gandhi vẫn giữ thái độ phê phán phần lớn các tôn giáo, bao gồm cả Ấn Độ giáo. Trong Tự truyện, ông ghi như sau:
- Như vậy, nếu tôi không thừa nhận Thiên chúa giáo là toàn hảo hoặc vĩ đại nhất thì tôi cũng chẳng tin Ấn Độ giáo được như vậy. Những nhược điểm của Ấn Độ giáo đập ngay vào mắt tôi. Nếu kì thị người ti tiện (untouchability) là một thành phần của Ấn Độ giáo thì nó là thành phần hủ nát hoặc là một cục bướu. Tôi không thể hiểu lí do tồn tại của đa số phe phái và giai cấp xã hội. Thế nào là ý nghĩa của câu nói “Phệ-đà là những lời cảm hứng của Thượng đế”? Nếu chúng được truyền cảm, thì tại sao Thánh kinh và Koran lại không? Khi các người bạn Thiên chúa giáo tìm cách thuyết phục cải đạo, các người bạn Hồi giáo cũng làm như vậy. Abdullah Sheth liên tục khuyến dụ tôi nghiên cứu Hồi giáo và dĩ nhiên là ông ta luôn có những gì để nói về cái đẹp của nó.
Và ông cũng nói thêm:
- Khi mất cơ sở đạo đức, chúng ta mất lòng thành tín. Không có gì ta có thể gọi là Đạo đức siêu việt tôn giáo. Con người không thể giả dối, ác hại hoặc phóng dật rồi sau đó xác định là có Thượng đế bên cạnh.
Nhưng Gandhi phê phán tính đạo đức giả trong tôn giáo có tổ chức hơn là những nguyên tắc cơ bản của chúng. Ông nói như sau về Ấn Độ giáo:
- Ấn Độ giáo, như tôi hiểu, làm tôi mãn nguyện hoàn toàn, vun đầy thể chất của tôi…. khi hoài nghi lai vãng, khi thất vọng đối diện tôi, và khi tôi không còn thấy một tia sáng nào ở chân trời, lúc đó tôi mở quyển Chí tôn ca, tìm đọc một câu an ủi; và ngay lập tức, tôi có được một nụ cười ngay trong nỗi lo bức bách. Cuộc đời tôi đầy những thảm kịch và nếu chúng không để lại hiệu quả hiển nhiên không thể tẩy đi được nơi tôi thì đó kết quả của những lời dạy trong Chí tôn ca.
Quan niệm Jihad của Hồi giáo cũng có thể được hiểu là một cuộc đấu tranh bất bạo động hoặc Chấp trì chân lí như Gandhi đã áp dụng. Ông nói như sau về Hồi giáo:
- Những lời dạy của Muhammad là kho báu trí huệ, không những cho môn đồ Hồi giáo, mà cho toàn nhân loại.
Sau này, khi được hỏi có phải là môn đồ Ấn giáo hay không, ông ứng đáp:
- Đúng, tôi là môn đồ Ấn giáo. Tôi cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo, một tín đồ Hồi giáo, một Phật tử và một môn đồ Do Thái.
Gandhi tin rằng, tinh hoa của mỗi tôn giáo là chân lí và tình thương. Ông bị ảnh hưởng lớn bởi giáo lí bất kháng cự (nonresistance) và “đưa má thứ hai” ra (khi bị đánh một bên má) của Thiên chúa giáo, và ông có lần nói là nếu Thiên chúa giáo được áp dụng như trong Bài giảng trên núi thì ông là một tín đồ Thiên chúa giáo.
Niềm tin
Mặc dù rất kính trọng nhau nhưng Gandhi và Rabindranath Tagore tranh luận dai dẳng nhiều lần và các cuộc tranh luận này là những ví dụ tiêu biểu cho những quan điểm triết học dị biệt giữa hai danh nhân Ấn Độ vĩ đại nhất thời đó. Ngày 15 tháng 1 năm 1934, một cơn động đất xảy ra tại Bihar, gây tử vong và thiệt hại lớn. Gandhi tin chắc rằng sự việc xảy ra vì tội lỗi của những môn đồ Ấn giáo thuộc giai cấp cao, vì họ không cho những kẻ ti tiện vào đền thờ. Tagore phản đối cực lực lập trường của Gandhi, cho rằng, một cơn động đất chỉ có thể xảy ra trên cơ sở năng lực thiên nhiên, không phải vì lí do đạo đức cho dù việc kì thị người vô giai cấp đáng chê trách như thế nào đi nữa.
Tưởng niệm
Gandhi không được giải Nobel bao giờ mặc dù được đề cử năm lần từ 1937 đến 1948. Vài thập niên sau, Hội đồng giải Nobel công bố sự ân hận đã bỏ lỡ thời cơ và họ cũng thừa nhận là những ý kiến bị phân chia bởi tư tưởng dân tộc đã ngăn cản việc trao giải cho Gandhi. Khi Đạt-lại Lạt-ma thứ 14 nhận giải năm 1989, chủ tịch hội cũng đã nói là “đây cũng là một phần cống phẩm để tưởng niệm Gandhi”. Viện bảo tàng điện tử của hiệp hội giải Nobel có một bài về mục này [23].
Tạp chí Time gọi Gandhi là người thứ hai sau Albert Einstein trong mục “Nhân vật thế kỉ” và có một bài viết với những chủ mục viết tường tận của Dalai Lama, Lech Wałęsa, Martin Luther King, Jr. và Nelson Mandela với tên “Những người con của Gandhi” (Children of Gandhi), với mục đích nhận thức ảnh hưởng của Gandhi đến những người lãnh đạo tương lai.
Chính quyền Ấn Độ trao giải Hòa bình Gandhi cho những người phục vụ xã hội, những người lãnh đạo trên thế giới và lãnh đạo công dân xuất sắc. Nelson Mandela, người dẫn đầu cuộc đấu tranh chống kì thị chủng tộc và phân li quốc gia là người ngoài Ấn Độ nổi danh được trao giải này.
Năm 1996, chính phủ Ấn Độ phát hành một loạt tiền giấy có hình Gandhi bào gồm những tờ 5, 10, 20, 50, 100, 500 và 1000 rupee.
Hình tượng trong nghệ thuật
Cách trình bày cuộc đời Gandhi nổi tiếng nhất có lẽ là bộ phim Gandhi (1982), được đạo diễn bởi Richard Attenborough và diễn viên Ben Kingsley (chính ông là người nửa phần Gujarati) trong vai chính. Tuy nhiên, bộ phim sau này bị chỉ trích bởi các học giả hậu thực dân. Họ luận cứ là bộ phim miêu tả Gandhi như một người dùng một tay đưa Ấn Độ đến sự độc lập và bỏ qua những nhân vật quan trọng khác (của cả hai nhóm, tinh duệ và cấp dưới) trong cuộc kháng chiến chống thực dân. Bộ phim The Making of the Mahatma, với Shyam Benegal đạo diễn và Rajat Kapur trong vai chính là một phim nói về 21 năm hoạt động của Gandhi tại Nam Phi.
Philip Glass soạn ca kịch Satyagraha nói về sự nghiệp của Gandhi.
Có nhiều tượng Gandhi nổi tiếng tại Anh, đáng lưu ý nhất là tượng ở Tavistock Gardens, Luân Đôn, gần Đại học College London, nơi ông đã học luật.
Tại Hoa Kỳ, người ta có thể chiêm ngưỡng tượng Gandhi bên ngoài Ferry Building tại San Francisco, tại Hermann Park, Houston Garden Center ở Houston, tại Union Square Park ở Thành phố New York, tại Martin Luther King, Jr. National Historic Site ở Atlanta, bên ngoài Thảo cầm viên Honolulu ở Kapiolani Park, Hawaii, ở Village of Skokie (một vùng bên ngoài Chicago, Illinois), và gần tòa đại sừ Ấn Độ ở khu phố Dupont Circle của Washington, DC.
Thành phố Pietermaritzburg, Nam Phi, nơi Gandhi bị tống ra khỏi toa xe năm 1893, giờ đây có một bức tượng tưởng niệm hình tượng người đấu tranh giành độc lập Ấn Độ, được dựng lên 100 năm sau khi sự kiện xảy ra.
Cũng có những hình tượng Gandhi ở các thành phố khác như Moskva, Paris, Amsterdam, Barcelona, Lisbon, Canberra, San Fernando, Trinidad và Tobago. Chính phủ Ấn Độ tặng tượng Gandhi cho thành phố Winnipeg, tỉnh Manitoba, Canada, để tỏ lòng ủng hộ viện bảo tàng dân quyền tương lai được lập ở đây (Canadian Museum for Human Rights)[24].
Cũng có một bức tượng bán thân to lớn của Gandhi trước thư viện của Đại học Laurentian ở Sudbury, Ontario[25]. Tại St. Louis, một bức tượng bán thân của Gandhi đứng trước International Institute[26].
Phê bình
Nhiều nhà sử học và chú giải đã phê bình Gandhi vì cái nhìn của ông về Adolf Hitler và Chủ nghĩa Đức quốc xã, bao gồm những lời trần thuật là người Do Thái có thể đạt được tình thương của Thượng đế nếu họ sẵn lòng đi đến cái chết như những cảm tử chết vì nghĩa.[27]. Penn và Teller, trong một đoạn của chương trình “Bullshit!” (“Holier than Thou”), đã tấn công Gandhi một phần về tính đạo đức giả qua những lập trường tiền hậu bất nhất trí trong khi thực hiện bất bạo lực, thái độ không thích hợp về phía phụ nữ và những lời nói có bản chất kì thị chủng tộc. Gandhi nói trước công chúng tại Mumbai, 26 tháng 9 năm 1896 (Collected Works, quyển II, trang 74) về người châu Phi như sau:
- Cuộc chiến của chúng ta là một cuộc đấu tranh chống sự suy đồi mà người châu Âu tìm cách áp đặt vào chúng ta. Họ muốn hạ cấp chúng ta thành một Kaffir (tên gọi hạ miệt, chỉ người Phi da đen) thô tục với việc làm là săn bắt, với hoài bão duy nhất là sưu tập một số gia súc nhất định để mua được một người vợ và sau đó sống một cuộc sống lười nhác và loã lộ.
Tagore nhận xét về ông như sau:
Ông ngừng lại ở ngưỡng cửa các căn nhà tồi tàn của hằng ngàn người cùng khốn, y phục của ông y hệt y phục của họ. Ông nói với họ bằng ngôn ngữ của họ. Đó mới thực là một chân lí sinh động chứ không phải chỉ là những lời suông trong sách vở. Vì vậy mà tiếng tôn xưng Mahatma (Thánh) mà dân Ấn tặng ông đã thành tên thực của ông. Ai là người cảm thấy như ông rằng tất cả mọi người Ấn chính là da thịt của mình, máu mủ của mình? Khi tình thương tới gõ cửa Ấn Độ thì cửa đã mở toang chờ sẵn rồi… Nghe tiếng gọi của Gandhi, Ấn Độ xông ngay tới một cảnh vinh quang cao quý mới, như hồi xưa, rất xa xăm, khi Phật Tổ tuyên bố đạo từ bi, thương yêu cả mọi sinh vật.[28]
Xem thêm
Thư mục tham khảo
- M. Blume: Satyagraha. Wahrheit und Gewaltfreiheit, Yoga und Widerstand bei Gandhi. Gladenbach 1987.
- J. Bondurant: Conquest of Violence, Princeton 1958.
- M. Chatterjee: Gandhi’s Religious Thought, London 1983.
- Gandhi: Hind Swaraj in Iyer: Writings (Bd. I, S. 199-264).
- Gandhi: Multimedia, E-book. CD-ROM Version. New Delhi: Publications Division, Ministry of Information and Broadcasting, 1999. (The Collected Works of Mahatma Gandhi).
- Harijan. A journal of applied Gandhiism, New York 1933-54.
- J.L. Garfield: The Satya in Satyagraha.
- R.N. Iyer: The Moral and Political Thought of Mahatma Gandhi, New York 1973.
- J.T.F. Jordens: Gandhi’s Religion. A Homespun Shawl, Basingstoke 1998.
- B. Parekh: Gandhi’s Political Philosophy, Delhi 1995.
- U. Prell: Ziviler Ungehorsam, Berlin 1984.
- G. Richards: The Philosophy of Gandhi, London 1982.
- R.J. Terchek: Gandhi, New Delhi 2001.
- Young India, Ahmedabad 1919-32.
- Gandhi: A Photo biography by Peter Rühe ISBN 0714892793
- The Essential Gandhi: An Anthology of His Writings on His Life, Work, and Ideas by Louis Fischer ISBN 1400030501
- Gandhi: A Life by Yogesh Chadha ISBN 0471350621
- Gandhi (1982), phim của Richard Attenborough.
- Gandhi and India: A Century in Focus by Sofri, Gianni (1995) ISBN 1900624125
- The Kingdom of God is Within You by Leo Tolstoy (1894) ISBN 0803294042
- An Autobiography, or the Story of My Experiments with Truth M.K. Gandhi (1929).
- Patel: A Life by Rajmohan Gandhi.
- Exploring Jo’burg with Gandhi, Lucille Davie.
Chú thích
- ^Chaudhury, Nilova (15 June 2007). “October 2 is global non-violence day”. hindustantimes.com (Hindustan Times). Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2007.
- ^“General Assembly adopts texts on day of non-violence,…”. un.org (United Nations). 15 June 2007. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2007.
- ^Todd & Marty (2012), tr. 8. The name Gandhi means “grocer”, although Mohandas’s father and grandfather were politicians not grocers.
- ^Miller (2002), tr. 9.
- ^ aăMohanty (2011).
- ^Gandhi, (1940). Chapter “Preparation for England”.
- ^Gandhi, Rajmohan (2006), tr. 20–21.
- ^ aăâBrown, (1991).
- ^Tendulkar (1951).
- ^(1969). “The Journal of Modern African Studies“.
- ^Fischer, (2002).
- ^Gandhi, (1940). “Chapter “More Hardships”“.
- ^Parekh, (2001).
- ^R. Gandhi, Patel: A Life, p. 82.
- ^R. Gandhi, Patel: A Life, p. 89.
- ^R. Gandhi, Patel: A Life, p. 105.
- ^R. Gandhi, Patel: A Life, p. 131.
- ^R. Gandhi, Patel: A Life, pp. 230–32.
- ^R. Gandhi, Patel: A Life, pp. 277–81.
- ^R. Gandhi, Patel: A Life, p. 309.
- ^R. Gandhi, Patel: A Life, p. 318.
- ^Vinay Lal. ‘Hey Ram’: The Politics of Gandhi’s Last Words. Humanscape 8, no. 1 (tháng 1 năm 2001): pp. 34–38.
- ^Mahatma Gandhi, the Missing Laureate
- ^MCC ATTENDS UNVEILING OF GANDHI STATUE
- ^Đại học Laurentian
- ^International Institute
- ^Richard Grenier, The Gandhi Nobody Knows
David Lewis Schaefer, What Did Gandhi Do
- ^Lịch sử văn minh Ấn Độ, Will Durant, Người dịch: Nguyễn Hiến Lê, Chương IX, mục VI. MAHATMA GANDHI.
Liên kết ngoài