|
|
Thứ bảy, Ngày 17 Tháng 10 Năm 2015
|
|
|
Âm lịch: Ngày 5 Tháng 9 Năm 2015 Ngày Julius: 2457313 |
Bát tự: Giờ Mậu Tí, ngày Bính Dần, tháng Bính Tuất, năm ất Mùi |
|
0:00 |
Giờ: Mậu Tí |
Ngày Hoàng đạo |
Sao: Tư Mệnh |
Giờ Hoàng đạo |
Mậu Tí, Kỷ Sửu, Nhâm Thìn, Qúy Tỵ, ất Mùi, Mậu Tuất |
Giờ Hắc đạo |
Canh Dần, Tân Mão, Giáp Ngọ, Bính Thân, đinh Dậu, Kỷ Hợi |
Năm |
Kim |
Sa trung kim |
Mùa: Mùa thu |
Vượng: Kim
Khắc: Hỏa |
Quý |
Ngày |
Hoả |
Lô trung hỏa |
Lửa trong lò |
Tuổi xung |
Giáp Thân, Nhâm Thân, Nhâm Tuất, Nhâm Thìn |
Tiết khí |
Giữa: Hàn lộ (Mát mẻ) – Sương giáng (Sương mù xuất hiện) |
Sao |
Vị |
|
Ngũ hành |
Thổ |
|
Động vật |
Trĩ |
|
Trực |
Định |
– Tốt cho các việc giao dịch, buôn bán, làm chuồng lục súc, thi ơn huệ.
– Xấu cho các việc xuất hành, thưa kiện, châm chích, an sàng. |
Xuất hành |
Hỷ thần |
Tây Nam |
Tài thần |
chính Đông |
Kê thần |
chính Nam |
Cát tinh |
Tốt |
Kỵ |
Thiên đức |
Tốt mọi việc |
|
Nguyệt Đức |
Tốt mọi việc |
|
Thiên Quan |
Tốt mọi việc |
|
Tam Hợp |
Tốt mọi việc |
|
Sát tinh |
Kỵ |
Ghi chú |
Đại Hao |
Xấu mọi việc |
|
Thụ tử |
Xấu mọi việc |
trừ săn bắn tốt |
Nguyệt Yếm đại hoạ |
Xấu đối với xuất hành, giá thú |
|
Cửu không |
Kỵ xuất hành, cầu tài, khai trương |
|
Lôi công |
Xấu với xây dựng nhà cửa |
|
Mặt trời |
Giờ mọc |
Giờ lặn |
Hà Nội |
05:55 |
17:28 |
TP.Hồ Chí Minh |
05:44 |
17:32 |
|
Thanh Long |
Hoàng đạo |
|
1:00 |
Giờ: Kỷ Sửu |
Minh Đường |
Hoàng đạo |
|
3:00 |
Giờ: Canh Dần |
Thiên Hình |
Hắc đạo |
|
5:00 |
Giờ: Tân Mão |
Chu Tước |
Hắc đạo |
|
7:00 |
Giờ: Nhâm Thìn |
Kinh Quỹ |
Hoàng đạo |
|
9:00 |
Giờ: Qúy Tỵ |
Kim Được |
Hoàng đạo |
|
11:00 |
Giờ: Giáp Ngọ |
Bạch Hổ |
Hắc đạo |
|
13:00 |
Giờ: ất Mùi |
Ngọc Đường |
Hoàng đạo |
|
15:00 |
Giờ: Bính Thân |
Thiên Lao |
Hắc đạo |
|
17:00 |
Giờ: đinh Dậu |
NGuyên Vũ |
Hắc đạo |
|
19:00 |
Giờ: Mậu Tuất |
Tư Mệnh |
Hoàng đạo |
|
21:00 |
Giờ: Kỷ Hợi |
Câu Trận |
Hắc đạo |
|
23:00 |
Giờ: Mậu Tí |
Thanh Long |
Hoàng đạo |
|
|
Lịch vạn niên 2015, ngày 5 tháng 9, năm 2015 – Âm lịch
Xem ngày giờ tốt và hướng xuất hành
Trong một tháng có 2 loại ngày tốt, ngày xấu; trong một ngày lại có 6 giờ tốt, 6 giờ xấu gọi chung là Ngày/giờ Hoàng đạo (tốt) và Ngày/giờ Hắc đạo (xấu). Người Việt Nam từ xưa đều có phong tục chọn ngày tốt và giờ tốt để làm những việc lớn như cưới hỏi, khởi công làm nhà, nhập trạch, ký kết, kinh doanh v.v.v.
Ngày 5 tháng 9, năm 2015 là ngày Hoàng đạo , các giờ tốt trong ngày này là: Mậu Tí, Kỷ Sửu, Nhâm Thìn, Qúy Tỵ, ất Mùi, Mậu Tuất
Trong ngày này, các tuổi xung khắc nên cẩn thận trong chuyện đi lại, xuất hành, nói chuyện và làm các việc đại sự là: Giáp Thân, Nhâm Thân, Nhâm Tuất, Nhâm Thìn
Xuất hành hướng Đông Bắc gặp Hỷ thần: niềm vui, may mắn, thuận lợi. Xuất hành hướng Nam gặp Tài thần: tài lộc, tiền của, giao dịch thuận lợi.
Xem sao tốt và việc nên làm và nên kiêng
Trong Lịch vạn niên, có 12 trực được sắp xếp theo tuần hoàn phân bổ vào từng ngày. Mỗi trực có tính chất riêng, tốt/xấu tùy từng công việc. Ngày 5 tháng 9, năm 2015 là Trực Định: Tốt cho các việc giao dịch, buôn bán, làm chuồng lục súc, thi ơn huệ. Xấu cho các việc xuất hành, thưa kiện, châm chích, an sàng.
Mỗi ngày đều có nhiều sao Tốt (Cát tinh) và sao Xấu (Hung tinh). Các sao Đại cát (rất tốt cho mọi việc) như Thiên đức, Nguyệt đức, Thiên ân, Nguyệt ân. Có những sao Đại hung (rất xấu cho mọi việc) như Kiếp sát, Trùng tang, Thiên cương. Cũng có những sao xấu tùy mọi việc như Cô thần, Quả tú, Nguyệt hư, Không phòng, Xích khẩu… – xấu cho hôn thú, cưới hỏi, đám hỏi nói chung cần tránh. Hoặc ngày có Thiên hỏa, Nguyệt phá, Địa phá… xấu cho khởi công xây dựng, động thổ, sửa chữa nhà cửa nói chung cần tránh.
Khi tính làm việc đại sự, cần kiểm tra ngày Hoàng Đạo, Hắc Đạo. Xem công việc cụ thể nào, để tránh những sao xấu. Chọn các giờ Hoàng đạo để thực hiện (hoặc làm tượng trưng lấy giờ).
Mẹ Têrêsa
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mẹ Teresa (Tiếng Albania: Agnes Gonxha Bojaxhiu, tiếng Macedonia: Агнес Гонџа Бојаџиу, Latinic: Agnes Gondža Bojadžiu; IPA: [‘agnɛs ‘gɔndʒa bɔ’jadʒu]), còn được gọi là Mẹ Teresa Calcutta (26 tháng 8, 1910 – 5 tháng 9, 1997) là nữ tu Công giáo Rôma người Albania, và là nhà sáng lập Dòng Thừa sai Bác Ái ở Kolkata (Calcutta), Ấn Độ năm 1950. Trong hơn bốn mươi năm, bà chăm sóc người nghèo, bệnh tật, trẻ mồ côi, người hấp hối, trong khi hoàn tất nhiệm vụ lãnh đạo dòng tu phát triển khắp Ấn Độ, và đến các quốc gia khác.
Năm 1970, Mẹ Teresa trở nên một nhân vật toàn cầu nổi tiếng với các hoạt động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong hoàn cảnh tuyệt vọng, một phần là nhờ một quyển sách và cuốn phim tư liệu tựa đề Something Beautiful for God của Malcome Muggeridge. Bà được trao Giải Nobel Hòa bình năm 1979 như một sự vinh danh cho các hoạt động nhân đạo của bà.
Dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Teresa tiếp tục phát triển, đến thời điểm bà từ trần, tổ chức từ thiện này đang điều hành 610 cơ sở truyền giáo tại 123 quốc gia, trong đó có các nhà trọ và nhà tình thương có người mắc bệnh HIV/AIDS, cũng như bệnh nhân phong và lao, các bếp ăn từ thiện, các chương trình tư vấn cho gia đình và trẻ em, các trại mồ côi, và trường học.
Mặc dù Teresa được tôn vinh bởi nhiều cá nhân, chính quyền và các tổ chức, bà cũng là mục tiêu của không ít chỉ trích từ những người như Christopher Hitchens, Aroup Chatterjee, và Vishva Hindu Parishad. Thường thì những phê phán này nhắm vào nỗ lực cải đạo trong công tác từ thiện, trong đó có việc rửa tội cho những người sắp chết; lập trường cứng rắn chống phá thai, và niềm tin cho rằng sự nghèo khó sản sinh những lợi ích tâm linh.
Sau khi mất, bà được Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước.[1][2]
Thiếu thời
Agnes Gonxha (tiếng Albania nghĩa là “chồi hồng”) Bojaxhiu chào đời ngày 26 tháng 8 năm 1910 tại Skopje, lúc đó là thủ phủ của tỉnh Kossovo Vilayet thuộc Đế quốc Ottoman; nay là thủ đô Cộng hòa Macedonia.[3] là con út của một gia đình đến từ Shkodër, Albania, cha mẹ của cô là Nikola và Dranafile (tiếng Albania nghĩa là “hoa hồng”) Bojaxhiu. Nikola có hoạt động chính trị tại Albania. Năm 1919, sau một cuộc hội họp ông ngã bệnh và qua đời khi Agnes mới lên tám.[3] Sau khi bố mất, mẹ nuôi dưỡng cô trong đức tin Công giáo Rôma. Theo người viết tiểu sử Teresa, Joan Graff Clucas, từ khi còn thơ ấu, Agnes đã ham thích đọc các câu chuyện về cuộc đời các thừa sai và hoạt động của họ, đến tuổi 12 cô tin rằng nên hiến mình cho đời sống tôn giáo.[4] Năm 18 tuổi, cô gia nhập Dòng Nữ tu Loreto, từ đó cô không bao giờ gặp lại mẹ và chị.[5]
Trước tiên, Agnes đến Tu viện Loreto ở Rathfarnham, Ái Nhĩ Lan để học tiếng Anh, ngôn ngữ dòng Loreto dùng để dạy học tại Ấn Độ.[6] Cô đến Ấn Độ năm 1929, và bắt đầu cuộc đời nữ tu tập sinh tại Darjeeling, gần dãy Himalaya.[7] Ngày 24 tháng 5 năm 1931, cô làm lễ tiên khấn để trở thành nữ tu. Cô chọn tên Teresa theo tên Thérèse de Lisieux, thánh bổn mệnh của các thừa sai.[8] Ngày 14 tháng 5 năm 1937, Teresa khấn trọn đời, khi ấy cô đang dạy học tại trường Loreto ở phía đông Calcutta.[9][10]
Mặc dù bận rộn với nhiệm vụ giảng dạy tại trường, Teresa ngày càng quan tâm đến cuộc sống nghèo khổ nhan nhản chung quanh cô tại Calcutta.[11] Nạn đói năm 1943 mang nhiều điều bất hạnh và chết chóc đến thành phố; rồi các cuộc bạo động giữa người Hindu và người Hồi giáo trong tháng 8 năm 1946 nhấn chìm thành phố này trong nỗi kinh hoàng và sự tuyệt vọng.[12]
Dòng Thừa sai Bác ái
Ngày 10 tháng 9 năm 1946, Teresa trải nghiệm điều mà cô miêu tả là “ơn gọi trong ơn gọi” khi cô đang trên đường đến Tu viện Loreto ở Darjeering cho thời kỳ tĩnh tâm hằng năm. “Tôi phải rời tu viện để giúp đỡ người nghèo và sống chung với họ. Đó là mệnh lệnh. Không chịu tuân theo có nghĩa là đánh đổ đức tin.”[13] Năm 1948, Teresa khởi đầu công tác thừa sai giữa người nghèo, cô thay bộ áo truyền thống của dòng Loreto bằng trang phục chira giản dị bằng vải cotton viền màu lam. Cô nhập tịch Ấn, và đi vào các khu nhà ổ chuột.[14][15] Trước tiên, Teresa mở một trường học ở Motjhil, rồi bắt đầu chăm sóc những người bần cùng đói khát.[16]
Teresa viết trong nhật ký rằng năm đầu tiên cô gặp vô số khó khăn. Vì không có nguồn cung ứng tài chính, cô phải phụ thuộc vào hoạt động quyên góp thực phẩm và nhu yếu phẩm. Trong những tháng đầu, cô phải đấu tranh với sự hoài nghi, đơn độc và sự cám dỗ quay trở lại cuộc sống tiện nghi trong tu viện. Teresa ghi lại trong nhật ký:
Chúa chúng ta muốn tôi phải là một nữ tu tự do ẩn mình dưới sự nghèo khó của thập tự giá. Hôm nay tôi học được một bài học hay. Sự nghèo khổ của người nghèo thật là nghiệt ngã. Trong khi tìm kiếm một ngôi nhà, tay chân tôi đau nhức vì đi bộ. Tôi suy nghĩ, người nghèo còn chịu đựng sự nhức nhối bội phần hơn trong thể xác và linh hồn khi tìm kiếm một chỗ trú thân, thức ăn và sức khỏe. Khi ấy, cuộc sống tiện nghi tại Loreto xuất hiện đầy quyến rũ. ‘Chỉ cần nói một lời, tất cả sẽ trở lại với cô,’ Kẻ cám dỗ cứ tiếp tục nói…. Chúa ôi, đây là sự tự nguyện, vì con yêu Chúa, con muốn ở lại và làm bất cứ điều gì theo Thánh Ý. Con không khóc đâu, dù chỉ một giọt lệ.[17]
Mẹ Teresa,Tranh khắc nổi tại một tòa nhà ở quảng trường Václavské náměstí, Olomouc, (Cộng hòa Séc)
Ngày 7 tháng 10 năm 1950, Vatican chấp thuận cho Teresa khởi đầu một dòng tu sau này trở thành Dòng Thừa sai Bác ái.[18] Sứ mạng của dòng là chăm sóc, theo lời Teresa, “người đói khát, trần truồng, kẻ không nhà, người tàn tật, người mù, bệnh nhân phong, bất cứ ai đang cảm thấy thừa thãi, bị căm ghét, ruồng bỏ trong xã hội, những người đang là gánh nặng của xã hội và bị mọi người xa lánh.” Tiên khởi chỉ là một dòng tu nhỏ với 13 tập sinh ở Calcutta; ngày nay có hơn 4 000 nữ tu điều hành các cô nhi viện, trại điều dưỡng AIDS, và các trung tâm từ thiện trên khắp thế giới. Dòng tu cũng chăm sóc người tị nạn, người khuyết tật, già lão, nghiện rươu, người nghèo và người vô gia cư, nạn nhân lũ lụt, dịch bệnh, và nạn đói.[19]
Năm 1952, Mẹ Teresa mở ngôi nhà đầu tiên chăm sóc người sắp chết. Với sự hỗ trợ từ các viên chức Ấn, bà cho sửa một ngôi đền Ấn giáo hoang phế thành Nhà Kalighat cho người Hấp hối, một trại điều dưỡng miễn phí cho người nghèo. Sau này bà đổi tên thành Kalighat, Nhà Thanh Tâm (Nirmal Hriday).[20] Những người được mang đến đây được chăm sóc y tế và được chết trong nhân phẩm, được chôn cất theo niềm tin tôn giáo của họ; người Hồi giáo được đọc kinh Quran, người Hindu được tẩy rửa bằng nước sông Hằng, và người Công giáo được làm lễ xức dầu thánh.[21] “Một cái chết đẹp”, bà nói, cho những người từng sống kiếp thấp hèn như những con vật, nhưng chết như những thiên thần – được yêu thương và được trọng vọng.”[21] Không lâu sau đó, bà mở một ngôi nhà cho những người mắc bệnh Hansen (phong cùi), đặt tên là Shanti Nagar (Thành phố Hòa bình).[22] Dòng Thừa sai Bác ái cũng thành lập một số cơ sở y tế mở rộng trên khắp Calcutta, cung cấp thuốc men, thực phẩm.
Năm 1955, Teresa mở Nirmala Shishu Bhavan, Nhà Trái tim Vô nhiễm đón tiếp trẻ mồ côi và thanh thiếu niên vô gia cư.[23]
Dòng tu ngày càng thu hút nhiều tập sinh và nhận nhiều đóng góp từ thiện. Đến thập niên 1960, Dòng Thừa sai Bác ái thành lập các nhà điều dưỡng, trại mồ côi, và trại phong trên khắp Ấn Độ, rồi phát triển trên khắp thế giới. Ngôi nhà đầu tiên ngoài Ấn Độ được thành lập ở Venezuela năm 1965 với năm nữ tu.[24] Năm 1968, đến La Mã, Tanzania, và Áo. Trong thập niên 1970, dòng tu thiết lập các ngôi nhà và tổ chức trong hơn mười quốc gia ở châu Á, châu Phi, châu Âu, và Hoa Kỳ.[25]
Tuy nhiên, triết lý hành động của bà gặp phải một số chỉ trích. Trong khi nhìn nhận rằng không có nhiều chứng cứ được đưa ra để chống lại Teresa, David Scott nhận xét rằng bà tự giới hạn mình trong phạm vi hoạt động nhằm cứu sống người khác thay vì nỗ lực giải quyết nạn nghèo đói.[26] Quan điểm của Teresa về sự đau khổ cũng bị phê phán bởi một bài viết đăng trên tuần báo Alberta Report của Canada, vì bà cho rằng sự đau khổ sẽ đem con người đến gần Chúa Giê-xu hơn.[27] Các tạp chí y khoa, nhất là The Lancet và British Medical Journal, tỏ ra quan ngại về cách chăm sóc bệnh nhân thời kỳ cuối tại những nhà dành cho người hấp hối, ghi nhận việc tái sử dụng kim tiêm dưới da, điều kiện sống tồi tệ, trong đó có việc tắm lạnh tất cả người bệnh, và không áp dụng phương pháp chẩn đoán phối hợp.[28]
Nhà báo Christopher Hitchens là một trong số những người phê phán Teresa mạnh mẽ nhất. Ông được giao viết kịch bản và thuyết minh cuốn phim tài liệu Hell’s Angel của Kênh 4 Anh Quốc về Teresa sau khi Aroup Chatterjee khuyến khích thực hiện chương trình này, mặc dù Chatterjee cũng không hài lòng với “các tiếp cận đầy cảm xúc” của cuốn phim.[29] Trong cuốn “The Missionary Position” (1995) của ông, Hitchens chỉ trích Teresa nặng nề hơn.[29]
Chatterjee viết rằng sinh thời Mẹ Teresa và những người viết tiểu sử chính thức của bà từ chối hợp tác với ông trong cuộc điều tra, và bà không thể tự biện hộ trước những phê phán trên báo chí phương Tây. Ông dẫn một bài viết từ tờ The Guardian của Anh đưa ra những “chi tiết phê phán về điều kiện sống tại những trại mồ côi của bà….những cáo buộc về sự vô tâm cũng như những lạm dụng thể xác và tình cảm”, cũng có một phim tài liệu khác, Mother Teresa: Time for Change? phát sóng tại vài nước châu Âu.[29] Trong số những người chỉ trích Teresa còn có Tariq Ali, một thành viên của ban biên tập của tờ New Left Review ở Anh, và một nhà báo điều tra sinh trưởng ở Ái Nhĩ Lan Donald MacIntyre. Do lập trường của mình, cả Chatterjee và Hitchens cũng trở thành những đối tượng bị chỉ trích.
Vào dịp kỷ niêm năm thứ nhất ngày mất của Mẹ Teresa, Tạp chí Stern của Đức cho đăng một bài viết về những cáo buộc liên quan đến các vấn đề tài chính, và việc sử dụng các khoản quyên góp. Các tạp chí y học cũng đưa ra những chỉ trích làm dấy lên các quan điểm khác nhau về những ưu tiên đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân.[28]
Christopher Hitchens, nhân chứng duy nhất được Vatican đề nghị trình bày chứng cứ chống lại việc phong chân phước và phong thánh cho Teresa,[30] lập luận rằng, “bà không có ý định giúp đỡ người khác”, ông cũng cáo buộc bà đã nói dối những người hiến tặng về việc sử dụng những khoản đóng góp của họ. “Nhờ nói chuyện với bà, tôi phát hiện ra rằng bà không làm việc để xóa nghèo,” lời của Hitchens, “Bà làm việc để gia tăng số giáo dân Công giáo. Bà nói, ‘Tôi không phải là nhân viên công tác xã hội. Tôi làm việc không phải vì mục tiêu này. Tôi làm thế là cho Chúa Ki-tô. Tôi làm thế là cho giáo hội.’”[31]
Quốc tế
Năm 1982, khi cuộc bao vây Beirut lên đến đỉnh điểm, Mẹ Teresa đã thành công trong nỗ lực giải cứu 37 trẻ em mắc kẹt trong một bệnh viện giữa mặt trận bằng cách đàm phán cho một cuộc ngừng bắn giữa quân đội Israel và du kích Palestine.[32] Được các nhân viên Hồng Thập Tự hộ tống, bà băng qua trận địa để đến ngôi bệnh viện đổ nát và giải cứu các bệnh nhi[33]
Khi Đông Âu bắt đầu mở cửa vào cuối thập niên 1980, Teresa cho tiến hành hàng chục đề án tại các quốc gia trong vùng. Không hề nao núng khi bị chỉ trích về lập trường cứng rắn của bà về việc chống phá thai và li dị, bà chỉ nói, “Người ta nói gì cũng mặc, bạn chỉ cần cười và tiếp tục công việc của mình.”
Mẹ Teresa đã đến Ethiopia cứu giúp những người bị nạn đói, đến Chernobyl giúp người nạn nhân phóng xạ, và đến với nạn nhân động đất ở Armenia.[34][35][36] Năm 1991, lần đầu tiên bà trở lại quê hương và mở ngôi nhà Dòng Thừa sai Bác ái tại Tirana, Albnia.
Năm 1966, bà điều hành 517 cơ sở từ thiện trên hơn 100 quốc gia.[37] Trải qua nhiều năm, Dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Teresa từ thành phần nhân sự chỉ 12 người đã phát triển đến hàng ngàn người phục vụ “những người nghèo nhất của dân nghèo” tại 450 trung tâm trên khắp thế giới.
Cuối đời
Mẹ Teresa bị cơn đau tim khi đến Rôma năm 1983 trong chuyến viếng thăm Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Sau cơn đau tim thứ hai năm 1989, bà được đặt máy tạo nhịp tim nhân tạo. Năm 1991, sau khi mắc bệnh cúm lúc đang ở Mexico, bệnh tim trở nặng. Bà muốn từ nhiệm khỏi vị trí lãnh đạo Dòng Thừa sai Bác ái, nhưng các nữ tu, trong một cuộc bỏ phiếu kín, yêu cầu bà ở lại. Mẹ Teresa đồng ý tiếp tục công việc lãnh đạo dòng tu.
Tháng 4 năm 1996, bà bị té ngã gãy xương đòn, rồi phải qua lần phẫu thuật tim, sức khỏe bà suy giảm rõ. Ngày 13 tháng 3 năm 1997, Mẹ Teresa từ chức lãnh đạo dòng tu, và từ trần ngày 5 tháng 9 năm 1997.
Tổng Giám mục Calcutta, Henry Sebastian D’Souza, thuật lại rằng ông cho một linh mục đến làm phép đuổi quỷ cho Teresa với sự cho phép của bà trong lần đầu bà vào bệnh viện khi bị đau tim, vì bà nghĩ rằng bà đang bị ma quỷ tấn công.[38]
Vào thời điểm Mẹ Teresa từ trần, dòng tu của bà có hơn 4 000 nữ tu, với sự hỗ trợ của 300 tu sĩ, và hơn 100 000 người tình nguyện. Họ điều hành 610 cơ sở từ thiện tại 123 nước, trong đó có các nhà tế bần, những ngôi nhà mở cho người mắc bệnh HIV/AIDS, người phong cùi, lao, các nhà bếp cung cấp thức ăn, các chương trình tư vấn gia đình và trẻ em, trại mồ côi, và trường học.
Vinh danh
Ấn Độ
Mẹ Teresa được quàng ở Nhà thờ St Thomas, Kolkata trong một tuần trước khi được an táng vào tháng 9 năm 1997. Chính phủ Ấn Độ tuyên bố quốc tang để vinh danh con người từng cứu giúp nhiều người nghèo khổ thuộc các tôn giáo khác nhau trên đất nước Ấn.[39] Trước đó năm 1962, bà được chính phủ Ấn trao giải Padma Shri. Trong những thập niên kế tiếp bà được trao tặng các giải thưởng lớn như Giải Jawaharlal Nehru cho sự Hiểu biết Quốc tế (năm 1972), và năm 1980 là giải thưởng dân sự cao quý nhất Ấn Độ, Bharat Ratna Tuy nhiên, tại Ấn Độ, cũng có những nhận định khác về Teresa. Aroup Chatterjee, một bác sĩ sinh trưởng ở Calcutta nhưng sống ở Luân Đôn và từng làm việc cho Dòng Thừa sai Bác ái, cho rằng Teresa đã quảng bá một hình ảnh tiêu cực về thành phố này.[29]. Đảng Bharatiya Janata (BJP) từng bất đồng với Teresa về những người thuộc đảng cấp Dalit (hạ tiện) theo Cơ Đốc giáo, nhưng khi bà mất, họ đã lên tiếng ca tụng và cử đại diện đến dự tang lễ. Gần đây hơn, nhật báo The Telegraph của Ấn Độ từng gọi Mẹ Teresa là “vị thánh của những người khốn cùng”, lại kêu gọi “Rôma nên điều tra xem có phải bà không chịu làm gì để thay đổi điều kiện sống tồi tệ của người nghèo, mà chỉ lo chăm sóc người bệnh và người hấp hối, và sử dụng họ cho mục tiêu khơi gợi xúc cảm đạo đức.”[40]
Thế giới
Năm 1962, Mẹ Teresa được trao giải Ramon Magsaysay về sự Hiểu biết Quốc tế cho những hoạt động của bà ở Đông và Nam Á, “Ban Quản trị nhìn nhận sự nhận thức sâu sắc và đầy thương cảm của bà dành cho những người nghèo khó ở một xứ sở xa lạ.”[41] Đến đầu thập niên 1970, Mẹ Teresa trở nên một nhân vật nổi tiếng thế giới, phần lớn là do cuốn phim tài liệu Something Beautiful for God do Malcom Muggeridge sản xuất năm 1969, cũng như quyển sách cùng tên của ông xuất bản năm 1971.[42] Khi thực hiện cuốn phim, có những đoạn phim phải quay trong điều kiện ánh sáng không tốt, nhất là tại Nhà dành cho người Hấp hối, đoàn làm phim nghĩ rằng sẽ không thể sử dụng những thước phim này. Tuy nhiên, khi trở về từ Ấn Độ, chúng lại có ánh sáng rất tốt. Muggeridge cho đó là phép lạ do “ánh sáng thần thượng” từ Mẹ Teresa.[43] Những người khác trong đoàn làm phim thì nghĩ rằng đó là nhờ loại phim cực nhạy của Kodak.[44] Về sau, Muggeridge chấp nhận đức tin Công giáo.
Cùng lúc, thế giới Công giáo khởi sự tôn vinh Mẹ Teresa. Năm 1971, Giáo hoàng Phaolô VI trao tặng bà Giải Hòa bình Giáo hoàng Gioan XXIII lần thứ nhất, khen ngợi bà về những gì đã làm cho người nghèo, thể hiện lòng nhân ái Kitô và nỗ lực đấu tranh cho hòa bình.[45] Năm 1976, bà được trao Giải Pacem in Terris.[46] Sau khi mất, giáo hội đẩy mạnh qui trình phong thánh cho Mẹ Teresa, hiện bà đã được phong chân phước.
Các chính phủ và những tổ chức dân sự cũng tìm đến tôn vinh Mẹ Teresa. Vương quốc Anh và Hoa Kỳ nhiều lần trao tặng bà giải thưởng các loại, cao quý nhất là Order of Merit của Anh Quốc năm 1983, và công dân danh dự của Mỹ ngày 16 tháng 11 năm 1996. Quê hương Albania của Mẹ Teresa cũng dành cho bà Huân chương Vàng Nhà nước năm 1994.
Năm 1979, Mẹ Teresa được trao tặng Giải Nobel Hòa bình cho “những hoạt động diễn ra trong sự đấu tranh vượt qua sự nghèo khó và cùng quẫn, là những điều đe dọa hòa bình.” Bà từ chối bữa tiệc mừng truyền thống và yêu cầu gởi số tiền 192 000 USD cho người nghèo ở Ấn Độ,[47] nói rằng những phần thưởng trên thế gian chỉ có giá trị chỉ nào chúng giúp ích những người thiếu thốn trên thế giới. Khi nhận giải thưởng, bà đặt câu hỏi, “Chúng ta có thể làm gì để thăng tiến nền hòa bình thế giới?”, và đưa ra câu trả lời, “Hãy về nhà và yêu chính gia đình mình.” Bài đáp từ của Mẹ Teresa cũng dựa trên chủ đề này, “Khắp nơi trên thế giới, không chỉ ở những nước nghèo, tôi thấy xóa nghèo ở phương Tây còn khó khăn hơn. Khi tôi nhặt một người ngoài đường phố, đang đói khát, tôi cho người ấy một đĩa cơm, một miếng bánh, tôi cảm thấy hài lòng vì đã cứu đói cho người ấy. Nhưng khi một người bị gạt bỏ, cảm thấy mình sống thừa thãi, không được yêu thương, sống trong kinh hãi, con người đang bị gạt ra bên lề xã hội – sự nghèo khổ ấy là khốn khổ hơn, tôi thấy rất khó mà cứu giúp.” Bà cũng chỉ ra rằng phá thai “là kẻ hủy diệt nguy hiểm nhất cho nền hòa bình thế giới”[48]
Các cộng đồng tôn giáo và thế tục đều thương tiếc Mẹ Teresa khi bà tạ thế. Thủ tướng Pakistan Nawaz Sharif nói rằng bà là “một cá nhân độc đáo và hiếm có, đã cống hiến đời mình cho những mục đích cao đẹp. Cuộc đời lâu dài của bà được dành để chăm sóc người nghèo, người bệnh, người bất hạnh đã trở thành một trong những hình mẫu cao quý nhất về lòng tận tụy phục vụ nhân loại.[49] Cựu Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Javier Pérez de Cuéllar nhận xét: “Bà là Liên Hiệp Quốc. Bà là hòa bình của thế giới.”[49]
Đời sống Tâm linh
Khi phân tích các hoạt động và thành quả của bà, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đặt câu hỏi: “Từ đâu mà Mẹ Teresa tìm được sức mạnh và lòng kiên định hầu có thể hoàn toàn hiến mình cho việc phục vụ người khác? Bà tìm thấy nó trong sự cầu nguyện và trong sự tĩnh tâm suy nghiệm hướng về Chúa Giê-su, và Thánh Tâm của Ngài.”[50] Trong cuộc sống riêng tư, Mẹ Teresa trải qua một thời gian dài chịu đựng sự khô héo, cằn cỗi trong tâm linh, sự tinh luyện và thử nghiệm đức tin trong “đêm tối của linh hồn”[51] kéo dài gần năm mươi năm cho đến cuối đời, suốt thời gian ấy “bà không hề cảm nhận gì hết về sự hiện diện của Thiên Chúa”,[52] – “trong lòng cũng như khi tham dự Bí tích Thánh thể” – theo lời của Linh mục Brian Kolodiejchuk, người chịu trách nhiệm trình bày thỉnh cầu và thu thập chứng cứ cho quy trình phong thánh cho Teresa.[52] Bộc lộ những hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa, và nỗi đau dằn xé tâm linh vì thiếu vắng đức tin, bà viết,
“ |
Đức tin của tôi đâu rồi? Tận đáy lòng… chẳng có gì cả ngoài sự trống rỗng và tối tăm… Nếu có Chúa – xin tha tội cho con. Khi tôi cố hướng tâm trí mình đến Thiên đàng thì sự trống rỗng phủ lấp và những ý tưởng ấy dội ngược về như những mũi dao sắc cắt nát linh hồn tôi… Thật khủng khiếp nỗi đau vô hình này – Tôi không có Đức tin chi cả. Tuyệt vọng, trống rỗng, không đức tin, không tình yêu thương, không lòng sốt sắng,… Tôi lao khổ vì điều gì? Nếu không có Thiên Chúa, thì không có linh hồn. Nếu không có linh hồn thì, ôi Giê-su, Ngài cũng không có thật.[53] |
” |
Theo Brian Kolodiejchuk, có thể có một số người giải thích sai điều Teresa muốn nói, đức tin của bà đối với Thiên Chúa không hề sút giảm, trong khi Teresa đánh mất cảm giác kề cận Thiên Chúa, bà không hề tra vấn về sự hiện hữu của ngài.[54] Nhiều vị thánh khác cũng có những trải nghiệm tương tự như trường hợp của Thánh Teresa Lisieux.[54]
Dòng Thời gian
1910 – Ngày 26 tháng 08, Agnes Bojaxhui cô con gái út của Nicola và Drana sinh ra và lớn lên tại Skopje, thủ phủ của Cộng Hòa Albania thuộc Macedonia. Ngày 27 tháng 08, Agnes được chịu phép Thánh Tẩy tại nhà thờ giáo xứ Thánh Tâm Chúa Giê-su và được nhận thánh hiệu A-nê (Gonxha – A-nê).
1918 – Cha của Agnes, ông Nicola qua đời đột ngột. Ông chết vì bị đầu độc sau một cuộc họp chính trị.
1924 – Lazan, anh trai của Agnes lại rời nhà đến học tại một học viện quân sự Úc.
1925 – Linh mục Jambrenkoic trờ thành cha xứ. Agnes tham gia hội tương tế Thành Nữ Đồng Trinh Maria của cha xứ thành lập.
1928 – Agnes cùng mẹ và chị ruột Aga hành hương đến Letnice. Tại đây, cô nhận thấy đã đến lúc đi theo thiên hướng của mình. Tháng 09, cô được dòng Loreto chấp thuận.
1929 – Tháng Giêng, Agnes đến Calcutta, sau đó đi tiếp đến Darjeeling, nơi cô bắt đầu cuộc sống một nữ tu tập sinh.
1931 – Ngày 24 Tháng năm, Agnes làm lế Tiên Khấn (Đây là nghi thức khấn dâng trọn đời cho Chúa tạm thời, với thờ hạn kéo dài sáu năm. Trước khi chính thức Khấn Trọn Đời.) và trở thành Xơ Teresa.
1937 – Ngày 24Tháng Năm, Xơ Teresa Khấn Trọn Đời. Sau đó Xơ trở về Entally. Một quận phía đông Calcutta.
1946 – Ngày 10 Tháng Chín, Nhận được ơn gọi cách riêng của Chúa, Xơ Teresa rời bỏ cuộc sống tu viện và đi đến làm việc và sống với người nghèo trong các khu ổ chuột.
1948 – Tháng Tám, Tòa Thánh chấp thuận cho phép Soeur Teresa tách khỏi dòng Loreto nhưng vẫn là Nữ Tu.
Xơ Teresa chọn bộ áo Sari trắng viền xanh với mong muốn trở nên người phụ nữ nghèo khó nhất tại Ấn Độ, và cũng nói lên khát vọng noi gương Mẹ Maria Đồng Trinh.
Sau đó, Xơ tìm đến Petna, nơi Hội Nữ Tu Truyền Giáo giúp hướng dẫn cho bà một số kỹ năng y tế cơ bản. Bốn tháng sau, Xơ về Calcutta và đến với Nhà Dưỡng Lão của Hội Nữ Tu Bạn Người Nghèo.
1949 – Tháng Hai, Xơ chuyển đến Creek Lane. Tháng Ba, một học trò cũ của Xơ, cô Subashini Das, đến cộng tác, và trở thành người môn đệ đầu tiên. Không lâu sau đó các học trò cũ khác cùng đến tham gia.
1950 – Ngày 07 Tháng Mười, một Thánh Lễ được cữ hành để Kỷ Niệm ngày thành lập Dòng Thừa Sai Bác Ái. Mười Chí Nguyện sinh được nhập tập viện với thời gian kéo dài hai năm.
1953 – Tháng Hai, ngôi nhà số 54a Lower Circular được mở rộng và trở thành Nhà Mẹ của Dòng Thừa Sai Bác Ái. Xơ Teresa trở thành Mẹ Teresa.
Mẹ tiếp tục công việc với lớp người nghèo khổ, người bệnh và tầng lớp người cùng đinh. Mẹ Teresa lien hệ với cảnh sát trưởng và văn phòng y tế Calcutta, xin được một nhà trọ hành hương cũ, và Mẹ đã biến nơi đó thành Nirmal Hriday.
1957 – Tháng Chín, Phòng khám chữa bệnh phong hủi lưu động bắt đầu hoạt động.
1960 – Một trung tâm đầu tiên bên ngoài Calcutta đưa vào hoạt động tại Ranchi.
1962 – Mẹ Teresa là người đầu tiên không phải người Ấn Độ được nhận giải thưởng uy tín Padma Shri.
1963 – Hội Anh Em Thừa Sai Bác Ái được thành lập.
1965 – Trung tâm đầu tiên không nằm trên đất Ấn Độ được thành lập tại Venezuela.
Giáo Hoàng Paul VI thăm Bombay. Nhân dịp này, Đức Giáo hoàng tặng Mẹ Teresa chiếc xe Cadillac, và Mẹ đã cho bán đấu giá để lấy tiền cho Hội.
1969 – Chính phủ tặng một khoảnh đất rộng 36 arcre cho Hội và Mẹ đã cho xây cất nhà dành cho người bệnh phong. Đến cuối thập niên 60, tống cộng 25 trung tâm như thế đã được thành lập.
1979 – Mẹ Teresa được trao tặng giải Nobel Hòa Bình.
1980 – Thái tử Charles Anh Quốc thực hiện chuyến viếng thăm đặc biệt Hội Thừa Sai Bác Ái tại Calcutta.
1990 – Bất chấp mong muốn được rút lui của Mẹ, các nữ tu vẫn nhất trí tôn Mẹ Teresa là Mẹ Bề Trên.
1992 – Công nương Diana của Anh Quốc đến thăm Mẹ đang dưỡng bệnh tại Rome.
1994 – Ngày 01 tháng 04 Mẹ Teresa đến Việt Nam, đây là quốc gia thứ 111 có sự hoạt động của Dòng Thừa Sai Bác Ái (Nữ Tử Bác Ái). Hai nhà tại Việt Nam là nhà thứ 501 và 502 của dòng.
1996 – Mẹ Teresa bị các cơn đau tim nặng.
1997 – Mẹ Teresa qua đời ngày 05 tháng 09.
Ấn Độ tổ chức lễ Quốc Tang vào ngày 13 tháng 09. 2003 – Ngày 19 tháng Mười, Giáo hội Công giáo cử hành thánh lễ phong chân phước cho Mẹ Teresa. Nhân đó, Hội đồng Giám mục Ấn Độ, với sự ủng hộ rất đông người trong nước, đã chính thức đề nghị Thủ tướng Ấn Độ lúc bấy giờ là ông Vajpayee tuyên bố ngày 19 tháng 10 năm 2003 là ngày lễ nghĩ của quốc gia.
Chú thích
- ^ Associate Press. (14 tháng 10, 2003). “Full house for Mother Teresa ceremony“. CNN. Truy cập 30 tháng 5, 2007.
- ^ “Blessed Mother Teresa“. (2007). Encyclopædia Britannica. Truy cập 30 tháng 5, 2007.
- ^ a ă , at the time in the Ottoman Empire. Although she was born on 26 tháng 8, 1910, she considered 27 tháng 8, 1910, the day she was baptized, to be her “true birthday.” (2002). “Mother Teresa of Calcutta (1910-1997)“. Vatican News Service. Truy cập 30 tháng 5, 2007. Although some sources state that she was 10 when her father died, in an interview with her brother, the Vatican documents her age at the time as “about eight”.
- ^ Clucas, Joan Graff. (1988). Mother Teresa. New York. Chelsea House Publications, pp. 24. ISBN 1-55546-855-1.
- ^ Sharn, Lori (5 tháng 9, 1997). “Mother Teresa dies at 87“. USA Today. Truy cập 30 tháng 5, 2007
- ^ Clucas, Joan Graff. (1988). Mother Teresa. New York. Chelsea House Publications, pp. 28-29. ISBN 1-55546-855-1.
- ^ Clucas, Joan Graff. (1988). Mother Teresa. New York. Chelsea House Publications, pp. 31. ISBN 1-55546-855-1.
- ^ Sebba, Anne (1997).Mother Teresa: Beyond the Image. New York. Doubleday, p.35. ISBN 0-385-48952-8.
- ^ Clucas, Joan Graff. (1988). Mother Teresa. New York. Chelsea House Publications, pp. 32. ISBN 1-55546-855-1.
- ^ Spink, Kathryn (1997). Mother Teresa: A Complete Authorized Biography. New York. HarperCollins, pp.16. ISBN 0-06-250825-3.
- ^ Spink, Kathryn (1997). Mother Teresa: A Complete Authorized Biography. New York. HarperCollins, pp.18-21. ISBN 0-06-250825-3.
- ^ Spink, Kathryn (1997). Mother Teresa: A Complete Authorized Biography. New York. HarperCollins, pp.18, 21-22. ISBN 0-06-250825-3.
- ^ Clucas, Joan Graff. (1988). Mother Teresa. New York. Chelsea House Publications, pp. 35. ISBN 1-55546-855-1.
- ^ Clucas, Joan Graff. (1988). Mother Teresa. New York. Chelsea House Publications, pp. 39. ISBN 1-55546-855-1.
- ^ “Blessed Mother Teresa”. Encyclopædia Britannica Online. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2007.
- ^ Clucas, Joan Graff. (1988). Mother Teresa. New York. Chelsea House Publications, pp. 48-49. ISBN 1-55546-855-1.
- ^ Spink, Kathryn (1997). Mother Teresa: A Complete Authorized Biography. New York. HarperCollins, pp.37. ISBN 0-06-250825-3.
- ^ Williams, Paul (2002). Mother Teresa. Indianapolis. Alpha Books, p. 62. ISBN 0-02-864278-3.
- ^ Spink, Kathryn (1997). Mother Teresa: A Complete Authorized Biography. New York. HarperCollins, pp.284. ISBN 0-06-250825-3.
- ^ Sebba, Anne (1997).Mother Teresa: Beyond the Image. New York. Doubleday, pp. 58–60. ISBN 0-385-48952-8.
- ^ a ă Spink, Kathryn (1997). Mother Teresa: A Complete Authorized Biography. New York. HarperCollins, pp.55. ISBN 0-06-250825-3.
- ^ Sebba, Anne (1997).Mother Teresa: Beyond the Image. New York. Doubleday, pp. 62-63. ISBN 0-385-48952-8.
- ^ Clucas, Joan Graff. (1988). Mother Teresa. New York. Chelsea House Publications, pp. 58-59. ISBN 1-55546-855-1.
- ^ Spink, Kathryn (1997). Mother Teresa: A Complete Authorized Biography. New York. HarperCollins, pp.82. ISBN 0-06-250825-3.
- ^ Spink, Kathryn (1997). Mother Teresa: A Complete Authorized Biography. New York. HarperCollins, pp.286-287. ISBN 0-06-250825-3.
- ^ Scott, David A Revolution of Love: The Meaning of Mother Teresa Chicago, Loyola Press, 2005. ISBN 0-8294-2031-2 “She deals only with the disease (of poverty), but not with preventing it, but people in the West continue to give her money”
- ^ Byfield, Ted (20 tháng 10, 1997), “If the real world knew the real Mother Teresa there would be a lot less adulation”, Alberta Report/Newsmagazine 24 (45)
- ^ a ă Loudon, Mary. (1996)The Missionary Position: Mother Teresa in Theory and Practice, Book Review, BMJ vol.312, no.7022, 6 tháng 1 năm 2006, pp.64-5. Truy cập 2 tháng 8 2007
- ^ a ă â b Chatterjee, Aroup, Introduction to The Final Verdict
- ^ Hitchens, Christopher (6 tháng 1 1996). “Less than Miraculous”. Free Inquiry Magazine. Volume 24, Number 2.
- ^ The Debate Over Sainthood. (9 tháng 10 2003). CBS News. Truy cập 26 tháng 5 2007.
- ^ CNN Staff, “Mother Teresa: A Profile”, truy cập CNN online on 30 tháng 5, 2007
- ^ Clucas, Joan Graff. (1988). Mother Teresa. New York. Chelsea House Publications, pp. 17. ISBN 1-55546-855-1.
- ^ Cooper, Kenneth J. (14 tháng 9, 1997). “Mother Teresa Laid to Rest After Multi-Faith Tribute“. The Washington Post. Truy cập 30 tháng 5, 2007
- ^ (30 tháng 5, 2007) “A Vocation of Service“. Eternal Word Television Network. Truy cập 2 tháng 8 2007.
- ^ Embassy of India in Armenia Official Website. Describes how Mother Teresa journeyed to Armenia in tháng 12 năm 1988 following the great earthquake. She and her order established an orphanage there. Truy cập 30 tháng 5, 2007.
- ^ Williams, Paul (2002).Mother Teresa. Indianapolis. Alpha Books, pp. 199–204. ISBN 0-02-864278-3.
- ^ Bindra, Satinder (7 tháng 9, 2001). “Archbishop: Mother Teresa underwent exorcism“. CNN Truy cập 30 tháng 5, 2007.
- ^ Associated Press (14 tháng 9, 1997). ““India honors nun with state funeral”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2005.“. Houston Chronicle. Truy cập 30 tháng 5, 2007.
- ^ Victor Banerjee A Canopy most fatal, The Telegraph, Sunday, 8 tháng 9, 2002.
- ^ Ramon Magsaysay Award Foundation (1962) Citation for Mother Teresa
- ^ Mother Teresa’s Crisis of Faith (TIME.com)
- ^ Sebba, Anne (1997). Mother Teresa: Beyond the Image. New York. Doubleday, pp. 80–84. ISBN 0-385-48952-8.
- ^ Alpion, Gezmin (2007). Mother Teresa: Saint or Celebrity?. Routledge Press, pp. 9. ISBN 0-415-39246-2.
- ^ Clucas, Joan Graff. (1988). Mother Teresa. New York. Chelsea House Publications, pp. 81-82. ISBN 1-55546-855-1.
- ^ Quad City Times staff (17 tháng 10, 2005). “Habitat official to receive Pacem in Terris honor“. Peace Corps. Truy cập 26 tháng 5, 2007.
- ^ Locke, Michelle for the Associated Press (March 22, 2007). “Berkeley Nobel laureates donate prize money to charity“. San Francisco Gate. Truy cập 26 tháng 5, 2007
- ^ Mother Teresa (11 tháng 12, 1979). “Nobel Prize Lecture“. NobelPrize.org. Truy cập 25 tháng 5, 2007.
- ^ a ă (16 tháng 10 2006) Online Memorial Tribute to Mother Teresa. ChristianMemorials.com. Truy cập 2 tháng 8 2007.
- ^ John Paul II (20 tháng 10, 2003). “Address Of John Paul II To The Pilgrims Who Had Come To Rome For The Beatification Of Mother Teresa”. Vatican.va. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2007.
- ^ Zaleski, Carol, The Dark Night of Mother Teresa First Things, tháng 5 năm 2003
- ^ a ă David Van Biema (ngày 23 tháng 8 năm 2007). “Mother Teresa’s Crisis of Faith”. TIME.
- ^ Teresa, Mother; Kolodiejchuk, Brian (2007). Mother Teresa: Come Be My Light. New York: Doubleday. ISBN 0385520379.
- ^ a ă New Book Reveals Mother Teresa’s Struggle with Faith Beliefnet, AP 2007
Liên kết ngoài
Thể loại:
Frédéric Chopin
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Frédéric François Chopin [1](phiên âm tiếng Việt: Phơ-rê-đê-rích Phơ-răng-xoa Sô-panh; IPA: [fʁedeʁik fʁɑ̃swa ʃɔpɛ̃]; 1810–1849) là một nhà soạn nhạc người Ba Lan.
Tiểu sử
Chân dung Frédéric François Chopin của họa sĩ Eugène Delacroix năm 1838. Mới đầu bức hình này là một nửa của chân dung đúp có cả ông Chopin và George Sand.
Ông sinh ngày 1 tháng 3[2] năm 1810 tại làng Żelazowa Wola (Ba Lan) dưới tên Fryderyk Franciszek Chopin; bố là Mikołaj Chopin, một nhạc sĩ gốc Pháp, mẹ là Tekla Justyna Krzyzanowska, một người Ba Lan. Tài năng của Chopin nảy nở từ rất sớm, và được so sánh với thần đồng âm nhạc Mozart. Khi mới 7 tuổi, Chopin đã là tác giả của 2 bản polonaise cung Sol thứ và Si giáng trưởng. Ông cũng đã tham gia một số buổi hòa nhạc từ thiện. Những buổi học piano chuyên nghiệp của ông bắt đầu từ năm 1816 đến năm 1822, khi mà tài năng của cậu bé đã vượt qua cả người thầy Wojciech Zywny của mình. Sự phát triển tài năng của Chopin được theo dõi bởi Wilhelm Würfel, giáo sư, nghệ sĩ piano danh tiếng tại Nhạc viện Warszawa, người đã cho cậu một số lời khuyên có giá trị trong biểu diễn đàn piano và organ.
Từ năm 1823 đến năm 1826, Chopin học tại Warsawa Lyceum, nơi bố cậu là một trong những người giảng dạy. Cậu bé đã dành những kì nghỉ ở những căn nhà của gia đình những người bạn học ở nhiều nơi trên khắp đất nước. Nhà soạn nhạc trẻ tuổi đã nghe và ghi lại những bài hát dân ca, tham gia vào những đám cưới của những người nông dân và những lễ hội đồng quê, đồng thời chơi một thứ nhạc cụ dân gian giống như cây đàn contrabass. Và tất cả những hoạt động này đã được cậu bé miêu tả trong những lá thư của mình. Chopin đã trở nên gắn bó với âm nhạc dân gian của vùng đồng bằng Ba Lan, với sự thanh khiết, đặc sắc, giàu tính giai điệu và âm hưởng dân vũ. Khi sáng tác những bản mazurka đầu tiên và một số bản khác sau này, Chopin đã dựa vào nguồn cảm hứng được ông lưu giữ đến cuối đời này.
Mùa thu năm 1826, Chopin bắt đầu học lí thuyết âm nhạc và sáng tác âm nhạc tại trường trung học phổ thông về âm nhạc tại Warszawa, một bộ phận của Nhạc viện Warsawa và Đại học Warsawa. Tuy nhiên, Chopin đã không theo học lớp piano. Nhận thấy tài năng xuất chúng của Chopin, Józef Elsner – nhà soạn nhạc và hiệu trưởng của trường – đã cho phép Chopin tập trung vào piano nhưng vẫn buộc ông học các môn lí thuyết. Chopin, vốn có khả năng trời phú về sáng tác âm nhạc, đã học được ở trường sự kỉ luật và chính xác trong kết cấu tác phẩm, cũng như hiểu được ý nghĩa và logic của từng nốt nhạc. Đây là thời gian ra đời của những tác phẩm có tầm cỡ đầu tiên của Chopin, ví dụ như bản Sonata cung Đô thứ, những khúc biến tấu opus số 2 dựa trên một chủ đề trong vở Don Giovanni của Mozart, bản Rondo á la Krakowiak op. 14 và bản tam tấu cung Sol thứ, opus 8 cho piano, violin và cello. Chopin kết thúc quá trình học tập của mình tại trường phổ thông vào năm 1829 và sau 3 năm học tại trường, Elsner đã viết trong một bản báo cáo: “Chopin, Fryderyk, học sinh năm thứ 3, một tài năng lớn, thiên tài âm nhạc“.
Khi trở về Warszawa, Chopin cống hiến cho sự nghiệp sáng tác và đã viết một số tác phẩm, trong đó có 2 bản concerto cho piano và dàn nhạc cung Fa thứ và Mi thứ. Bản Concerto số 1 đã được gợi cảm hứng rất lớn từ cảm xúc của nhà soạn nhạc đối với Konstancja Gladkowska, sinh viên thanh nhạc tại nhạc viện. Đây cũng là thời kì Chopin cho ra đời những bản nocturne, étude, waltz, mazurka đầu tiên. Trong những tháng cuối cùng trước ngày Chopin dự định ra nước ngoài sinh sống, Chopin đã có một số buổi biểu diễn trước công chúng, chủ yếu là ở Nhà hát quốc gia Warsawa, nơi 2 bản concerto lần đầu tiên được biểu diễn. Vào ngày 11 tháng 10 năm 1830, ông đã có một buổi hòa nhạc chia tay tại Nhà hát quốc gia Warsawa, trong đó ông đã biểu diễn bản concerto cung Mi thứ, và K. Gladkowska đảm nhiệm vai trò ca sĩ. Ngày 2 tháng 11, cùng với người bạn Tytus Woyciechowski, Chopin đã đến nước Áo, với dự định đi tiếp sang Italy.
Mùa thu năm 1831, ông đến Paris. Ở Paris, ông chọn nghề chơi và dạy đàn cùng lúc soạn nhạc, và ông lấy tên tiếng Pháp là Frédéric-François Chopin. Cả cuộc đời, sức khoẻ ông không được tốt. Ông có mối quan hệ gần gũi nhưng đầy trắc trở với nhà văn Pháp George Sand trong suốt 10 năm trước khi ông qua đời do lao phổi ngày 17 tháng 10 năm 1849 tại Paris, thọ 39 tuổi.
Khi Ba Lan bị phát xít xâm chiếm vào năm 1939, những người yêu nước đã tìm cách cất giấu trái tim của Chopin để không bị lọt vào bàn tay nhơ nhuốc của chúng. Mùa thu năm 1949, trái tim được bí mật mang về Ba Lan, trong một chiếc hộp gỗ sồi. Ngày nay trái tim được đặt sau một phiến đá hoa cương tại nhà thờ Holy Cross,Warszawa.
Cái chết và tang lễ
Tháng Sáu năm 1849, Ludwika, chị gái của ông đến Paris cùng với chồng và con gái. Và vào tháng Chín,ông dời đến căn hộ ở Place Vendôme 12 nhờ vào sự giúp đỡ và khoản vay từ Jame Stirling (bạn của ông). Đến sau ngày 15 tháng Mười, tình trạng sức khỏe của ông tiến triển ngày một tồi tệ. Các bạn của ông đến thăm và quyết định ở lại với ông.
Nằm trên giường bệnh, ông nhờ các bạn của ông chơi nhạc cho ông. Ông yêu cầu mọi người hãy để xác của ông được thông thoáng (vì ông sợ mình bị chôn) và đưa trái tim của ông về Warszawa. Ông để lại những ghi chú còn dang dở (Projet de méthode) cho Alkan hoàn thành nó. Vào nửa đêm 17, bác sĩ nghiêng đầu hỏi ông có đau lắm không, Chopin thì thào trả lời: “Không lâu nữa đâu”. Còn vài phút nữa là đến hai giờ sáng, ông âm thầm ra đi. Bên giường bệnh lúc đó có chị gái ông, công chúa Marcelina Czartoryska, Solange con gái của Sand và Thomas Albrecht.
Sự nghiệp sáng tác
Polonaise
18 bản polonaise:
Mazurka
- 4 Mazurka Op. 6, các cung: fa thăng thứ, đô thăng thứ, mi trưởng, mi giáng thứ
- 5 Mazurka Op. 7, các cung: si giáng trưởng, la thứ, fa thứ, la giáng trưởng, đô trưởng
- 4 Mazurka Op. 17, các cung: si giáng trưởng, mi thứ, la giáng trưởng, la thứ
- 4 Mazurka Op. 24, các cung: sol thứ, đô trưởng, la giáng trưởng, si thứ
- 4 Mazurka Op. 30, các cung: đô thứ, si thứ, re giáng trưởng, đô thăng thứ
- 4 Mazurka Op. 33, các cung: sol thăng thứ, đô trưởng, re trưởng, si thứ
- 4 Mazurka Op. 41, các cung: mi thứ, si trưởng, la giáng trưởng, đô thăng thứ
- 3 Mazurka Op. 50, các cung: sol trưởng, la giáng trưởng, đô thăng thứ
- 3 Mazurka op. 56, các cung: si trưởng, đô trưởng, đô thứ
- 3 Mazurka op. 59, các cung: la thứ, la giáng trưởng, fa thăng thứ
- 3 Mazurka op. 63, các cung: si trưởng, fa thứ, đô thăng thứ
- 4 Mazurka op. 67, các cung: sol trưởng, sol thứ, đô trưởng, la thứ
- 4 Mazurka op. 68, các cung: đô trưởng, la thứ, fa trưởng, fa thứ
- Mazurka cung Si giáng trưởng
- Mazurka cung Sol trưởng
- Mazurka cung Re trưởng
- Mazurka cung Đô trưởng
- Mazurka cung Si giáng trưởng
Waltz
17 bản waltz:
- Grande Valse Brillante cung Mi giáng trưởng Op. 18
- Grande Valse Brillante cung La giáng trưởng Op. 34 số 1
- Grande Valse Brillante cung La thứ Op. 34 số 2
- Grande Valse Brillante cung Fa trưởng Op. 34 số 3
- Grande Valse cung La giáng trưởng Op. 42
- Waltz cung Re giáng trưởng Op. 64 số 1
- Waltz cung Đồ thăng thứ Op. 64 số 2
- Waltz cung La giáng trưởng Op. 64 số 3
- Waltz cung La giáng trưởng Op. 69 số 1
- Waltz cung Si thứ Op. 69 số 2
- Waltz cung Sol giáng trưởng Op. 70 số 1
- Waltz cung Fa thứ Op. 70 số 2
- Waltz cung Re giáng trưởng Op. 70 số 3
- Waltz cung Mi thứ Op. posth.
- Waltz cung Mi trưởng Op. posth.
- Waltz cung La giáng trưởng Op. posth.
- Waltz cung Mi giáng trưởng Op. posth.
Rondo
- Rondo cung Đô thứ Op. 1
- Rondo a la Mazur cung Fa trưởng Op. 5
- Rondo cung Mi giáng trưởng Op. 16
- Rondo cung Đô trưởng cho song piano Op. 73
- Rondo cung Đô trưởng Op. posth.
Những khúc biến tấu
- Những khúc biến tấu cung Mi trưởng trên chủ đề bài dân ca Đức Der Schweitzerbub Op. posth.
- Những khúc biến tấu cung Re trưởng trên chủ đề các bài hát của T. Moore Op. posth (bốn tay)
- Những khúc biến tấu cung Si giáng trưởng dựa trên bản La ci darem la mano từ vở Don Juan của Mozart
Op. 2 (cho piano và dàn nhạc)
- Những khúc biến tấu cung La trưởng
- Những khúc biến tấu cung Si giáng trưởng dựa trên bản rondo Je vends des scapulaires từ vở opera Ludovic của Hérold và Halévy
- Những khúc biến tấu cung Mi trưởng từ tập Hexameron trên chủ đề hành khúc từ vở opera Puritans của Bellini
Étude
- 12 Etude Op. 10 các cung: đô trưởng, la thứ, mi trưởng, đô thăng thứ, sol giáng trưởng, mi giáng thứ, đô trưởng, fa trưởng, fa thứ, la giáng trưởng, mi giáng trưởng, đô thứ
- 12 Etude Op. 25 các cung: la giáng trưởng, fa thứ, fa trưởng, la thứ, mi thứ, sol thăng thứ, đô thăng thứ, re giáng trưởng, sol giáng trưởng, si thứ, la thứ, đô thứ
- Trois Nouvelles Etudes các cung: fa thứ, la giáng trưởng, re giáng trưởng
Prelude
- 24 Prelude Op. 28 các cung: đô trưởng, la thứ, sol trưởng, mi thứ, re trưởng, si thứ, la trưởng, fa thăng thứ, mi trưởng, đô thăng thứ, si trưởng, sol thăng thứ, fa thăng trưởng, mi giáng thứ, re giáng trưởng, si giáng thứ, la giáng trưởng, fa thứ, mi giáng trưởng, đô thứ, si giáng trưởng, sol thứ, fa trưởng, re thứ.
- Prelude cung Đô thăng thứ Op. 45
- Prelude cung La giáng trưởng Op. posth
Impromptu
- Impromptu cung La giáng trưởng Op. 29
- Impromptu cung Fa thăng trưởng Op. 36
- Impromptu cung Sol giáng trưởng Op. 51
- Impromptu-Fantasie cung Đô thăng thứ Op. posth. 66
Nocturne (dạ khúc)
- 3 Nocturne Op. 9 các cung: si giáng thứ, mi giáng trưởng, si trưởng
- 3 Nocturne Op.15 các cung: fa trưởng, fa thăng trưởng, son thứ
- 2 Nocturne Op.27 các cung: đô thăng thứ, re giáng trưởng
- 2 Nocturne Op.32 các cung: si trưởng, la giáng trưởng
- 2 Nocturne Op.37 các cung: sonl thứ, sol trưởng
- 2 Nocturne Op.48 các cung: đô thứ, fa thăng thứ
- 2 Nocturne Op.55 các cung: fa thứ, mi giáng trưởng
- 2 Nocturne Op.62 các cung: si trưởng, mi trưởng
- Nocturne cung Mi thứ Op.72 số 1
- Nocturne cung Đô thăng thứ Op.posth.
- Nocturne cung Đô thứ Op.posth.
Ballade
- Ballade cung Sol thứ Op. 23
- Ballade cung Fa trưởng Op. 38
- Ballade cung La giáng trưởng Op. 47
- Ballade cung Fa thứ Op. 52
Scherzo
- Scherzo cung Si thứ Op. 20
- Scherzo cung Si giáng thứ Op. 31
- Scherzo cung Đô thăng thứ Op. 39
- Scherzo cung Mi trưởng Op. 54
Sonata
- Sonata cung Đô thứ Op. 4
- Sonata cung Si giáng thứ Op. 35
- Sonata cung Si thứ Op. 58
- Sonata cung Sol thứ Op. 65 cho piano và cello
Các nhạc phẩm cho piano và dàn nhạc
Những khúc biến tấu cung Si giáng trưởng Op. 2 trên chủ điểm La ci darem la mano từ vở opera Don Juan của Mozart
- Concerto số 1 cung Mi thứ Op. 11
- Fantasy on Polish Airs cung La trưởng Op. 13
- Rondo a la krakowiak cung Fa thứ Op. 14
- Concerto số 2 cung fa thứ Op. 21
- Andante spianato và Grand Polonaise cung Mi giáng trưởng Op. 22
Các bài hát
- Jakież kwiaty, jakie wianki Op. posth.
- Życzenie (A Young Girl’s Wish) Op. 74 số 1
- Gdzie lubi (A Girl’s Desire) Op. 74 số 5
- Czary (Witchcraft) Op. posth.
- Hulanka (A Drinking Song) Op. 74 số 4
- Precz z moich oczu (Out of My Sight) Op. 74 số 6
- Poseł (The Messenger) Op. 74 số 7
- Wojak (The Warrior) Op. 74 số 10
- Piosnka litewska (A Lithuanian Song) Op. 74 số 16
- Smutna rzeka (Sad River) Op. 74 số 3
- Narzeczony (The Betrothed) Op. 74 số 15
- Leci liście z drzewa (Leaves are Falling) Op.74 số 17
- Pierścień (The Ring) Op.74 số 14
- Moja pieszczotka (My Sweetheart) Op. 74 số 12
- Wiosna (Spring Song) Op. 74 số 2
- Śliczny chłopiec (The Handsome Lad) Op. 74 số 8
- Dwojaki koniec (Death’s Divisions) Op. 74 số 11
- Nie ma, czego trzeba (Faded and Vanished) Op. 74 số 13
- Z gór, gdzie dźwigali Op. 74 số 9
Bản mẫu:Books-inline
Các tác phẩm khác
- Trio cung Sol thứ Op. 8 cho piano, violon và cello
- Bolero cung La thứ Op. 19
- Tarantella cung La giáng trưởng Op. 43
- Allegro de Concert cung La trưởng Op. 46
- Fantasy cung Fa thứ Op. 49
- Berceuse cung Re giáng trưởng Op. 57
- Barcarolle cung Fa thăng trưởng Op. 60
- Funeral March cung Đô thứ Op. posth.
- Trois Ecossaises Op. 72 các cung: Re trưởng, Sol trưởng, Re giáng trưởng
- Allegretto Op. posth.
- Grand duo concertant cung Mi trưởng Op. posth. trên chủ đề Meyerbeer’s Robert Le Diable cung Mi trưởng cho piano và cello
- Cantabile cung Si giáng trưởng Op. posth.
- Presto con leggierezza cung La giáng trưởng Op. posth.
- Andantino cung Sol thứ Op. posth.
- Sostenuto cung Mi giáng trưởng Op. posth.
- Moderato cung Mi trưởng Op. posth.
- Largo cung Mi giáng trưởng Op. posth.
Chú thích
- ^ The surname is pronounced [ˈʂɔpɛn̪] (with alternative, phonetic spelling Szopen) by Poles; pronounced [ˈʂɔpɛn]); [ʃɔˈpɛ̃] in French; and usually pronounced /ˈʃoʊpæn/ in English.
- ^ Theo giấy rửa tội còn giữ tại nhà thờ nơi ông sinh ra thì ông sinh ngày 22 tháng 2, nhưng gia đình và chính Chopin thường khẳng định Chopin sinh ngày 1 tháng 3, và ngày 1 tháng 3 cũng được chọn là ngày sinh nhật Chopin ở Ba Lan và nhiều nước trên thế giới.[1]
Tham khảo
- Barcz, Maria (ngày 14 tháng 8 năm 2010). “Etiuda paryska” [Paris Étude]. Gwiazda Polarna (bằng tiếng Polish) 101 (17). tr. 15–16.
- Fryderyk Chopin, Chopin’s Letters, collected by H. Opieński, translated by E.L. Voynich, New York, Dover, 1973.
- Fryderyk Chopin, Selected Correspondence of Fryderyk Chopin, collected by B. Sydow, translated by Arthur Hedley, London, Heinemann, 1962.
- Eigeldinger, Jean-Jacques (1988). Chopin: Pianist and Teacher: As Seen by his Pupils. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-36709-7.
- Eisler, Benita. Chopin’s Funeral. London: Abacus. ISBN 0349116873. OCLC 53392670.
- Arthur Hedley et al., “Chopin, Frédéric (François),” Encyclopædia Britannica, 15th ed., 2005, vol. 3, pp. 263–64
- Jachimecki, Zdzisław (1937). “Chopin, Fryderyk Franciszek”. Polski słownik biograficzny (bằng tiếng Polish) 3. Kraków: Polska Akademia Umiejętności. tr. 420–26.
- Jakubowski, Jan Zygmunt biên tập (1979). Literatura polska od średniowiecza to pozytywizmu [Polish Literature from the Middle Ages to Positivism] (bằng tiếng Polish). Warsaw: Państwowe Wydawnictwo Naukowe. ISBN 83-01-00201-8.
- Łopaciński, Wincenty (1937). “Chopin, Mikołaj”. Polski słownik biograficzny (bằng tiếng Polish) 3. Kraków: Polska Akademia Umiejętnosści. tr. 426–27.
- André Maurois, Leila: the Life of George Sand, translated by Gerard Hopkins, Penguin, 1980 (c. 1953).
- Michałowski, Kornel, and Jim Samson (n.d.), “Chopin, Fryderyk Franciszek“, Grove Music Online (accessed ngày 25 tháng 7 năm 2013). (yêu cầu đăng ký)
- Clare Mulley, The Spy Who Loved: The Secrets and Lives of Christine Granville, Britain’s First Special Agent of World War II, London, Macmillan, 2012, ISBN 978-1-4472-2565-2.
- Siepmann, Jeremy (1995). Chopin: The Reluctant Romantic. London: Victor Gollancz. ISBN 0-575-05692-4.
- Szklener, Artur (2010). “Fryckowe lato: czyli wakacyjne muzykowanie Chopina” [Fritz’s Summers: Chopin’s Musical Vacations]. Magazyn Chopin: Miesięcznik Narodowego Instytutu Fryderyka Chopina (bằng tiếng Polish) (4): 8–9.
- Szulc, Tad (1998). Chopin in Paris: the Life and Times of the Romantic Composer. New York: Scribner. ISBN 0-684-82458-2.
- Adam Zamoyski, Chopin: Prince of the Romantics, London, HarperCollins, 2010, ISBN 978-0-007-35182-4 (e-book edition).
Liên kết ngoài
- The Best of Chopin
- The Best of Chopin
- Frederic Chopin – Nocturne In E Flat Major, Op.9 No.2
- Chopin, Fantaisie Impromptu
- Frédéric Chopin-Tristesse
- Frédéric Chopin – Minute Waltz
- F. CHOPIN:Heroic Polonaise op.53 – M.POLLINI 1975
- Chopin: the Poet of the Piano (Chopin: nhà thơ dương cầm) biên soạn bằng tiếng Anh, bao gồm tiểu sử, hình ảnh, danh mục tác phẩm và đề tặng, file nhạc mp3 và bản nhạc pdf của toàn bộ các tác phẩm, tiểu sử danh sách các nhà dương cầm nổi tiếng chơi Chopin, các liên kết về Chopin, đố nhạc Chopin, trắc nghiệm về cuộc đời và tác phẩm của Chopin, diễn đàn, hỏi đáp, bình chọn tác phẩm yêu thích…
- Classic Cat – Chopin mp3s
|