Chào ngày mới 17 tháng 11


Thác nước Victoria châu Phi trên sông Zambezi, nằmbiên giới Zambia và Zimbabwe

DẠY VÀ HỌC 17 THÁNG 11
Hoàng Long và Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sống #hoangkimlong, #Banmai; #Thungdung, #dayvahoc, #cltvn; #vietnamhoc; Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Long cây lương thực; Con đường Hồ Chí Minh; Quảng Bình với Trường Sơn; Cây Lương thực Việt Nam; #CLTVN; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Con đường lúa gạo Việt; Có một ngày như thế; Dấu xưa thầy bạn quý; Hà Nội mãi trong tim; Thăm trường xưa Hà Bắc; Đến Kiếp Bạc Côn Sơn; Vào Tràng An Bái Đính; Về Nghĩa Lĩnh Đền Hùng; Hồ Ba Bể Bắc Kạn; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Về Việt Bắc nhớ Người; Bản Giốc và Ka Long; Thăm Hoa Lư Cúc Phương; Mái trường bên dòng Gianh; Đất Mẹ vùng di sản; Trường tôi nôi yêu thương; Ban mai chào ngày mới; Bài học lớn muôn đời; Minh triết sống phúc hậu; Thầy bạn là lộc xuânKho báu đỉnh Tuyết Sơn; Cây Lương thực Việt Nam; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Con đường lúa gạo Việt; Có một ngày như thế; Về miền Tây yêu thương; Một niềm tin thắp lửa; Thế giới trong mắt ai; Vầng đá chốn đại ngàn; Đất Quảng hồn sông núi; Nhớ kỷ niệm một thời; Thác nước Victoria di sản kỳ quan thiên nhiên thế giới (hình) do UNESCO công nhận năm 1989 trên sông Zambezi, nằm giữa biên giới Zambia và Zimbabwe tại miền nam châu Phi. Thác nước này được xem là một trong những thác nước lớn nhất và đẹp nhất thế giới được giới thiệu bởi  David Livingstone, nhà truyền giáo và thám hiểm người Scotland châu Âu vào ngày 16 tháng 11 năm 1855.  Ngày 17 tháng 11 năm 1950, Đạt Lai Lạt Ma14 Tenzin Gyatso chính thức xử lý sự vụ chính trị và tôn giáo ở tuổi 15. Đạt Lai Lạt Ma14 là nhà lãnh đạo tôn giáo nổi tiếng thế giới, được coi là một trong ba thánh nhân người châu Á của thế kỷ thứ 20 cùng với cố thi hào Rabindranath Tagore (1861–1941) và Mahātma Gandhi (1869–1948) người Ấn Độ . Ngày 17 tháng 11 năm 1869 ở Ai Cập kênh đào Suez nối Địa Trung Hải với Vịnh đỏ đã được khai thông; Bài viết chọn lọc ngày 17 tháng 11: #hoangkimlong, #Banmai; #Thungdung, #dayvahoc, #cltvn; #vietnamhoc; Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Long cây lương thực; Con đường Hồ Chí Minh; Quảng Bình với Trường Sơn; Cây Lương thực Việt Nam; #CLTVN; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Con đường lúa gạo Việt; Có một ngày như thế; Dấu xưa thầy bạn quý; Hà Nội mãi trong tim; Thăm trường xưa Hà Bắc; Đến Kiếp Bạc Côn Sơn; Vào Tràng An Bái Đính; Về Nghĩa Lĩnh Đền Hùng; Hồ Ba Bể Bắc Kạn; Lên Việt Bắc điểm hẹn; Về Việt Bắc nhớ Người; Bản Giốc và Ka Long; Thăm Hoa Lư Cúc Phương; Mái trường bên dòng Gianh; Đất Mẹ vùng di sản; Trường tôi nôi yêu thương; Ban mai chào ngày mới; Bài học lớn muôn đời; Minh triết sống phúc hậu; Thầy bạn là lộc xuânKho báu đỉnh Tuyết Sơn; Cây Lương thực Việt Nam; Hoa Lúa; Con đường lúa gạo Việt; Có một ngày như thế; Về miền Tây yêu thương; Một niềm tin thắp lửa; Thông tin tại: https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-17-thang-11/; và https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-17-thang-11/

HỒ BA BỂ BẮC KẠN
Hoàng Kim

Lớp 10ATT ĐHNN2 Hà Bắc năm 2022 vừa có chuyến Du lịch sinh thái Việt điểm đến là Hồ Ba Bể Bắc Kạn. Một số ảnh video tuyển chọn và thông tin về điểm du lịch sinh thái này trong hệ thống Vườn Quốc Gia Việt Nam https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vuon-quoc-gia-viet-nam/

NGUYỄN VĂN NGÀ Sinh ngày 25.5.1958. Nơi sinh: Thôn Văn Phái, xã Bạch Thượng, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Nguyên Chủ tịch Hội Nông dân huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Nghỉ hưu tại Tổ dân phố Văn Phái, phường Bạch Thượng, Thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. ĐT: 0984343925

VƯỜN QUỐC GIA VIỆT NAM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
Việt Nam hiện có 35 Vườn Quốc Gia (VQG) Ở vùng núi và trung du phía Bắc có 1) Tam Đảo, 2) Hoàng Liên, 3) Ba Bể, 4) Cao nguyên đá Đồng Văn, 5) Phia Oắc – Phia Đén, 6) Bái Tử Long, 7) Xuân Sơn, 8) Quần thể di tích danh thắng Yên Tử; Ở vùng đồng bằng sông Hồng có 9) Ba Vì, 10) Cúc Phương, 11) Cát Bà, 12) Xuân Thủy; Ở vùng ven biển bắc Trung Bộ có 13) Phong Nha – Kẻ Bàng, 14) Bến En, 15) Pù Mát, 16) Vũ Quang ; Ở vùng ven biển nam Trung Bộ có 17) Bạch Mã, 18) Núi Chúa, 19) Phước Bình; 20) Sông Thanh ; Ở vùng Tây Nguyên có 21) Chư Yang Sin, 22) Bidoup Núi Bà, 23) Chư Mom Ray, 24) Kon Ka Kinh, 25) Yok Đôn; 26) Tà Đùng; Ở vùng Đông Nam Bộ có 27) Cát Tiên, 28) Lò Gò-Xa Mát, 29) Bù Gia Mập,  30) Côn Đảo; Ở vùng Tây Nam Bộ có 31) Mũi Cà Mau, 32) Phú Quốc, 33) Tràm Chim, 34) U Minh Hạ,  35) U Minh Thượng; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vuon-quoc-gia-viet-nam/

Tổng diện tích Vườn Quốc Gia Việt Nam công nhân trước năm 2018 (chưa tính Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử và Tà Đùng, Sông Thanh ) khoảng 10.455,74 km² (trong đó có 620,10 km² là mặt biển), chiếm khoảng 3% tổng diện tích lãnh thổ đất Việt Nam. Riêng Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử là khu di tích lịch sử văn hóa thiên nhiên đặc biệt gắn liền với sự ra đời, hình thành và phát triển của thiền phái Trúc Lâm Việt Nam được kỳ vọng là di sản thế giới liên tỉnh Bắc Giang, Hải Dương và Quảng Ninh đầu tiên ở Việt Nam đã lập hồ sơ trình UNESCO công nhận nhưng tạm thời dừng lại vì những lý do đặc biệt liên quan đến sự bảo đảm an ninh và phát triển bền vững quốc gia.

Vườn Quốc Gia Việt Nam đầu tiên là Vườn Quốc Gia Cúc Phương được công nhận năm 1966 thuộc địa bàn 3 tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa, Hòa Bình. Ba Vườn Quốc Gia Việt Nam mới được công nhận gần đây là: 1) Khu bảo tồn thiên nhiên Phia Oắc – Phia Đén được công nhận năm 2018 quy mô diện tích 10.245,6 ha nằm trên địa bàn 5 xã của huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. 2) Vườn quốc gia Tà Đùng là một vườn quốc gia ở tỉnh Đắk Nông, Việt Nam, được thành lập vào ngày 8 tháng 2 năm 2018, tại Quyết định 185/QĐ-TTg,. với diện tích 20.937,7 ha, 3) Vườn Quốc gia sông Thanh (Quảng Nam) được chuyển đổi Khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh thành Vườn quốc gia Sông Thanh theo Quyết định số 3689/QĐ-UBND, ngày 18/12 của UBND tỉnh Quảng Nam. Lễ công bố Quyết định ngày 23/12/2018, do UBND tỉnh Quảng Nam phối hợp với Dự án Trường Sơn Xanh/USAID Green Annamites tổ chức; 4) Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát mới được sáp nhập Khu rừng Văn hóa – Lịch sử Chàng Riệc vào Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát (đã có trước đây)..Quyết định thành lập do Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh Trần Văn Chiến ký ngày 16/06/2020.

HoangKim, NgocphuongNam ngày đã trả lời : Cảm ơn cô giáo Như Mai, Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, phân hiệu Ninh Thuận, đã đồng cảm bài viết “Vườn Quốc Gia Việt Nam” https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vuon-quoc-gia-viet-nam/. Thông tin này là chuyên mục dạy và học được cập nhật hệ thống theo sự tìm tòi và đúc kết từ sách báo và văn bản pháp lý Nhà nước, nhưng chưa liệt kê đầy đủ. Cảm ơn cô giáo đã gợi ý sự bổ sung thông tin cập nhật tư liệu đối với hai Vườn Quốc Gia Tà Đùng, Đăk Nong, công nhận năm 2018, và Vườn Quốc Gia Sông Thanh, Quảng Nam, công nhận tháng 12/2020.

CatTien

Thiên nhiên là bà mẹ của cuộc sống. Đến với thiên nhiên, chúng ta được tắm mình trong nguồn năng lượng vô tận của trời xanh, cây xanh, gió mát và không khí  an lành. Ngắm di vật cổ ở Nam Cát Tiên, đối thoại với lịch sử văn hóa của một vùng đất, ta hiểu được tường tận nhiều điều. Vườn Quốc gia Việt Nam là một pho sách mở cần được khám phá, khai mở, bảo tồn và phát triển. Đó là một nguồn năng lượng dồi dào và mạch viết vô tận. Đặc biệt là khi kết nối hòa quyện được những di sản vô giá của dân tộc với các di sản lịch sử địa lý văn hóa du lịch của toàn thế giới. Dưới đây là tóm tắt giới thiệu về Di sản 33 Vườn Quốc gia Việt Nam.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 33 Quần thể di tích danh thắng Yên Tử (ảnh tư liệu HK, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

33. Quần thể di tích danh thắng Yên Tử là quần thể liên tỉnh Quảng Ninh Bắc Giang Hải Dương đặc biệt nổi tiếng lần đầu tiên ở Việt Nam được đệ trình Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO xem xét, công nhận là Di sản Thế giới, nhung tạm thời dừng lại vì những lý do đặc biệt liên quan đến sự bảo đảm an ninh và phát triển bền vững quốc gia. Núi Yên Tử nối 99 ngọn núi Nham Biền tới Tam Đảo của vòng cung Đông Triều “Trường thành chắn Bắc” với bề dày dãy núi non đặc biệt hiểm trở khoảng 400 km núi đá che chắn mặt Bắc của thủ đô Hà Nội non sông Việt. “Trăm năm tích đức tu hành. Chưa lên Yên Tử chưa thành quả tu”(Non thiêng Yên Tử, ảnh Hoàng Kim).

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 1 VQG Tam Đảo (ảnh tư liệu VQG Tam Đảo, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

1. Vườn quốc gia Tam Đảo là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm trọn trên dãy núi Tam Đảo, một dãy núi lớn dài trên 80 km, rộng 10–15 km chạy theo hướng Tây Bắc Đông Nam. Vườn trải rộng trên ba tỉnh Vĩnh Phúc (huyện Tam Đảo), Thái Nguyên (huyện Đại Từ) và Tuyên Quang (huyện Sơn Dương), cách Hà Nội khoảng 75 km về phía Bắc.Tọa độ địa lý của Vườn quốc gia Tam Đảo: 21°21′-21°42′ vĩ Bắc và 105°23′-105°44′ kinh Đông. Ngày 6 tháng 3 năm 1986, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 136/TTg về việc phê duyệt “Dự án khả thi đầu tư xây dựng Vườn quốc gia Tam Đảo”. Ngày 15 tháng 5 năm 1996 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có quyết định số 601 NN-TCCB/QĐ về việc thành lập Vườn quốc gia Tam Đảo trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.\

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 2 VQG Hoàng Liên (ảnh tư liệu VQG Hoàng Liên, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

2. Vườn quốc gia Hoàng Liên là một vườn quốc gia Việt Nam được thành lập năm 2002, nằm ở độ cao từ 1.000-3000m so với mặt biển trên dãy Hoàng Liên Sơn thuộc địa bàn các huyện Than Uyên, Phong Thổ tỉnh Lai Châu và Sa Pa của tỉnh Lào Cai. Tọa độ địa lý của vườn từ 22°07′-22°23′ độ vĩ Bắc và 103°00′-104°00′ độ kinh Đông. Trước khi được công nhận là vườn quốc gia, khu vực này là một khu bảo tồn thiên nhiên mang tên Khu Bảo tồn Thiên nhiên Hoàng Liên – Sa Pa từ năm 1996. Vườn quốc gia Hoàng Liên được thành lập theo Quyết định số 90/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 12 tháng 7 năm 2002, về việc chuyển Khu Bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên-Sa Pa thành Vườn quốc gia Hoàng Liên. Vườn quốc gia Hoàng Liên được chọn là một Trung tâm đa dạng của các loài thực vật trong Chương trình bảo tồn các loàì thực vật của Hiệp hội Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới (IUCN). Vườn cũng được Quỹ môi trường toàn cầu được xếp vào loại A, cao cấp nhất về giá trị đa dạng sinh học của Việt Nam. Năm 2006, Vườn quốc gia Hoàng Liên được công nhận là Vườn di sản ASEAN.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 3 VQG Ba Bể (ảnh tư liệu VQG Ba Bể, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

3. Vườn quốc gia Ba Bể là một vườn quốc gia, rừng đặc dụng, khu du lịch sinh thái của Việt Nam, nằm trên địa phận tỉnh Bắc Kạn, với trung tâm là hồ Ba Bể. Vườn quốc gia Ba Bể được thành lập theo Quyết định số 83/TTg ngày 10 tháng 11 năm năm 1992 của Thủ tướng Chính phủ. Vườn quốc gia Ba Bể nằm trên địa bàn 5 xã Nam Mẫu, Khang Ninh, Cao Thương, Quảng Khê, Cao Trĩ thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, có tọa độ là 105°36′55″ kinh đông, 22°24′19″ vĩ bắc. Vườn quốc gia này Hà Nội 250 km về phía bắc, thuộc địa bàn huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn và cách thành phố Bắc Kạn 50 km. Vườn quốc gia Ba Bể là một điểm du lịch sinh thái lý tưởng với phong cảnh kỳ thú và sự đa dạng sinh học. Năm 2004, Ba Bể đã được công nhận là một di sản thiên nhiên của ASEAN. Trước đó, đây từng là Khu danh lam thắng cảnh và Di tích lịch sử, là Khu rừng cấm hồ Ba Bể. Vườn Quốc gia Ba Bể được thành lập theo quyết định số 83/TTg ngày 10/11/1992 của Chính phủ với diện tích 7.610 ha, trong đó có 3.226 ha là phân khu bảo vệ nghiêm ngặt và hơn 300 ha diện tích mặt hồ. Những nghiên cứu khoa học khẳng định đây là khu vực giàu có về đa dạng sinh học, có nhiều nét đặc trưng của hệ sinh thái điển hình rừng thường xanh trên núi đá vôi và hồ trên núi, rừng thường xanh đất thấp. Trung tâm của vườn là hồ Ba Bể với chiều dài tới 8 km và chiều rộng 800 m, nằm trên độ cao 178 m, là “hồ tự nhiên trên núi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ở Việt Nam”. Nằm trên vùng núi đá vôi, vốn có rất nhiều hang động caxtơ….mà hồ vẫn tồn tại với cảnh đẹp mê người là điều diệu kì, hấp dẫn mà thiên nhiên ban tặng. Vườn Quốc gia Ba Bể có 1.281 loài thực vật thuộc 162 họ, 672 chi, trong đó có nhiều loài thực vật quý hiếm có giá trị được ghi vào Sách Đỏ của Việt Nam và Thế giới.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 4 VQG Bái Tử Long (ảnh tư liệu VQG Bái Tử Long, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

4. Vườn quốc gia Bái Tử Long là một khu bảo tồn sinh quyển cấp quốc gia tại khu vực vịnh Bái Tử Long huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh Việt Nam. Vườn được thành lập theo quyết định 85/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 1 tháng 6 năm 2001. Vườn quốc gia Bái Tử Long nằm trong vùng có tọa độ địa lý là: 20°55’05” ÷ 21°15’10” vĩ độ Bắc và 107°30’10” ÷ 107°46’20” kinh độ Đông. Diện tích tự nhiên của vườn bao gồm diện tích đất đai của tất cả các đảo nằm trong khu vực tọa độ trên, kèm theo các vùng biển vùng quanh các đảo này với bề rộng 1 km tính từ đường bờ biển các đảo đó, tổng diện tích là 15.783 ha. Các đảo thuộc vườn quốc gia bao gồm: Ba Mùn, Trà Ngọ Lớn, Trà Ngọ Nhỏ, Sậu Nam, Sậu Động, Đông Ma, Hòn Chính, Lò Hố, Máng Hà Nam, Máng Hà Bắc, Di To, Chầy Cháy, Đá Ẩy, Soi Nhụ,…, và các đảo nhỏ trong vùng tọa độ nêu trên.

05VQGXuanSon
Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 5 VQG Xuân Sơn (ảnh tư liệu VQG Xuân Sơn, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

5. Vườn quốc gia Xuân Sơn là một vườn quốc gia nằm trên địa bàn huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Vườn quốc gia Xuân Sơn với kiểu địa hình núi đá vôi đặc trưng, được chuyển từ khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Sơn thành vườn quốc gia theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 49/2002/QĐ-TTg ngày 17 tháng 4 năm 2002. Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, cách thành phố Việt Trì 80 km, Hà Nội 120 km, có tọa độ địa lý: Từ 21°03′ đến 21°12′ vĩ bắc và từ 104°51′ đến 105°01′ kinh đông, phạm vi ranh giới được xác định: Phía Đông giáp các xã Tân Phú, Minh Đài, Long Cốc, huyện Tân Sơn. Phía Tây giáp huyện Phù Yên (tỉnh Sơn La), huyện Đà Bắc (tỉnh Hoà Bình). Phía Nam giáp huyện Đà Bắc (tỉnh Hoà Bình). Phía Bắc giáp xã Thu Cúc, huyện Tân Sơn. Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm trên hệ thống núi đá vôi có độ cao từ 700 đến 1.300 m. Trong khu vực có rất nhiều hang đá. Vườn quốc gia Xuân Sơn có diện tích vùng đệm 18.369 ha, trong đó diện tích vùng lõi là 15.048 ha khu vực bảo vệ nghiêm ngặt là 11.148 ha, Điểm đặc trưng của Xuân Sơn là vườn quốc gia duy nhất có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi (2.432 ha). Xuân Sơn được đánh giá là rừng có đa dạng sinh thái phong phú, đa dạng sinh học cao, đa dạng địa hình kiến tạo nên đa dạng cảnh quan.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 6 VQG Ba Vì (ảnh tư liệu VQG Ba Vì, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

6. Vườn quốc gia Ba Vì là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm trên khu vực dãy núi Ba Vì thuộc huyện Ba Vì (Hà Nội) và hai huyện Lương Sơn, Kỳ Sơn tỉnh Hòa Bình với diện tích 10.814,6 ha, có toạ độ địa lý: từ 20 độ 55′ đến 21 độ 07′ vĩ bắc và 105 độ 18′ đến 105 độ 30′ kinh đông, cách trung tâm Hà Nội 50 km về phía tây, và cách Sơn Tây, Hà Nội 15 km, được thành lập năm 1991 theo quyết định số 17-CT ngày 16 tháng 01 năm 1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam. Vườn quốc gia Ba Vì từ đầu thế kỉ 20, đã là địa danh nổi tiếng về sự đa dạng hệ sinh thái và phong cảnh đẹp, khí hậu mát mẻ. Vườn quốc gia này nằm trong dãy núi cao chạy dọc theo hướng đông bắc – tây nam với đỉnh Vua cao 1.296 m, đỉnh Tản Viên cao 1.227m, đỉnh Ngọc Hoa cao 1.131 m. Về động vật, có 45 loài thú, 115 loài chim, 61 loài bò sát và 27 loài ếch nhái, trong đó có nhiều loài quý hiếm có tên trong Sách đỏ Việt Nam và thế giới như gà lôi trắng, khỉ, báo, gấu, sóc bay, v.v. Hiện tại, người ta đã biết trên 1.000 loài thực vật, trong số đó có khoảng 200 loài cây dược liệu, nhiều loài quý như bách xanh, thông, dẻ, lát hoa.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 7 VQG Cúc Phương (ảnh tư liệu VQG Cúc Phương, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

7. Vườn Quốc gia Cúc Phương (hay rừng Cúc Phương) là một khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng đặc dụng nằm trên địa phận ranh giới 3 khu vực Tây Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ thuộc ba tỉnh: Ninh Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa. Vườn quốc gia này có hệ động thực vật phong phú đa dạng mang đặc trưng rừng mưa nhiệt đới. Nhiều loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao được phát hiện và bảo tồn tại đây. Đây cũng là vườn quốc gia đầu tiên tại Việt Nam. Vườn quốc gia Cúc Phương là một địa điểm khảo cổ. Các di vật của người tiền sử có niên đại khoảng 12.000 năm đã được phát hiện như mồ mả, rìu đá, mũi tên đá, dao bằng vỏ sò, dụng cụ xay nghiền… trong một số hang động ở đây chứng tỏ con người đã từng sinh sống tại khu vực này từ 7.000 đến 12.000 năm trước. Năm 1960, rừng Cúc Phương được công nhận là khu bảo tồn rừng và được thành lập theo Quyết định 72/TTg ngày 7 tháng 7 năm 1962 với diện tích 20.000 ha đánh dấu sự ra đời khu bảo vệ đầu tiên của Việt Nam. Quyết định số 18/QĐ-LN ngày 8 tháng 1 năm 1966 chuyển hạng lâm trường Cúc Phương thành VQG Cúc Phương. Quyết định số 139/CT ngày 09/5/1998 của Chính phủ thành lập Vườn quốc gia Cúc Phương. Vườn thuộc địa giới hành chính của ba tỉnh: Ninh Bình (hầu hết xã Cúc Phương, một phần xã Kỳ Phú, Văn Phương, Yên Quang của huyện Nho Quan), Thanh Hóa (phần lớn núi đá vôi, núi đất, thung lũng các xã Thạch Lâm, Thạch Yên, Thành Mỹ, Thành Yên của huyện Thạch Thành), Hoà Bình (toàn bộ rừng núi đá vôi các xã Lạc Thịnh, Yên Lạc, Phú Lai, Yên Trị, Ngọc Lương của huyện Yên Thủy, xã Yên Nghiệp, Ân Nghĩa thuộc huyện Lạc Sơn). Vườn quốc gia Cúc Phương được xác định là 1 trong 7 trung tâm đa dạng thực vật bậc nhất của Việt Nam, là địa điểm du lịch đặc biệt nổi tiếng về sinh thái, môi trường, thu hút trên hàng trăm nghìn lượt du khách tham quan hàng năm.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 8 VQG Cát Bà (ảnh tư liệu VQG Cát Bà, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

8. Vườn quốc gia Cát Bà là khu rừng đặc dụng của Việt Nam, khu dự trữ sinh quyển thế giới. Vườn quốc gia Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, Hải Phòng. VQG Cát Bà thành lập ngày 31/3/1986 theo quyết định số 79/CP của Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam (nay là chính phủ). Gồm các hệ sinh thái biển, hệ sinh thái rừng trên cạn, hệ sinh thái rừng ngập mặn. VQG Cát Bà nằm cách trung tâm thành phố Hải Phòng 30 hải lý về phía đông, có tọa độ địa lý: 20°44′50″-20°55′29″ vĩ độ bắc,106°54′20″-107°10′05″ kinh độ đông.  Bắc giáp xã Gia Luận. Đông giáp vịnh Hạ Long. Tây giáp thị trấn Cát Bà và các xã Xuân Đám, Trân Châu, Hiền Hào. Tổng diện tích tự nhiên của vườn là 16.196,8 ha. Trong đó có 10.931,7 ha là rừng núi và 5.265,1 ha là mặt nước biển. Địa hình toàn bộ VQG Cát Bà gồm một vùng núi non hiểm trở có độ cao <500 m, trong đó đa phần là nằm trong khoảng 50–200 m. Đảo Cát Bà chủ yếu núi đá vôi xen kẽ nhiều thung lũng hẹp chạy dài theo hướng Đông Bắc -Tây Nam.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 9 VQG Xuân Thủy (ảnh tư liệu VQG Xuân Thủy, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

9. Vườn quốc gia Xuân Thủy là một vùng bãi bồi rộng lớn nằm ở phía Nam cửa Sông Hồng, cách Hà Nội khoảng 150 km về hướng Đông Nam, có tổng diện tích tự nhiên là 7.100 ha. Phú sa màu mỡ của Sông Hồng và biển đã tạo dựng nên khu đất ngập nước với nhiều loài động thực vật hoang dã và các loài chim di cư quý hiếm. Từ tháng 01/1989 Xuân Thủy đã là vùng đất ngập nước đầu tiên của Đông Nam Á tham gia Công ước quốc tế RAMSAR (Công ước bảo tồn các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế đặc biệt như là nơi cư trú của những loài chim nước – Ramsar, Iran, 1971). Đến tháng 01/2003, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định sô 01/2003/QĐ-TTg chính thức nâng hạng Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Xuân Thủy thành Vườn quốc gia Xuân Thủy, với  mục tiêu nhiệm vụ chính là: * Bảo tồn hệ sinh thái đất ngập nước điển hình của vùng cửa Sông Hồng, các loài động vật, thực vật đặc trưng của hệ sinh thái đất ngập nước, đặc biệt là các loài thủy sinh và các loài chim nước, chim di trú. * Phục vụ cho nghiên cứu khoa học, giáo dục môi trường và phát triển du lịch sinh thái. * Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phục vụ cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và giáo dục môi trường, phát triển du lịch sinh thái, góp phần phát triển kinh tế xã hội, tạo công ăn việc làm cho cộng đồng dân cư địa phương. Tháng 12/2004, UNESCO tiếp tục công nhận Vườn quốc gia Xuân Thủy trở thành vùng lõi của Khu dự trữ sinh quyển thế giới khu vực ven biển liên tỉnh đồng bằng châu thổ Sông Hồng.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 10 VQG Phong Nha Kẻ Bàng (ảnh tư liệu HK, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

10. Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất, địa mạo được UNESCO công nhận lần 1 năm 2003, Di sản thiên nhiên thế giới với tiêu chí đa dạng sinh học, sinh thái được UNESCO công nhận lần 2 vào ngày 3 tháng 7 năm 2015 là một vườn quốc gia Việt Nam tại huyện Bố Trạch, và Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam. Vườn quốc gia này giáp khu bảo tồn thiên nhiên Hin Namno ở tỉnh Khammouan, Lào về phía tây, cách Biển Đông 42 km về phía đông kể từ biên giới của hai quốc gia. Phong Nha-Kẻ Bàng nằm ở một khu vực núi đá vôi rộng khoảng 200.000 ha thuộc lãnh thổ Việt Nam, khu vực lãnh thổ Lào tiếp giáp vườn quốc gia này cũng có diện tích núi đá vôi khoảng 200.000 ha. Diện tích vùng lõi của vườn quốc gia là 85.754 ha và một vùng đệm rộng 195.400 ha. Tháng 8 năm 2013, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định mở rộng vườn quốc gia này lên 1233,26 km2. Vườn quốc gia này được thiết lập để bảo vệ một trong hai vùng carxtơ lớn nhất thế giới với khoảng 300 hang động và bảo tồn hệ sinh thái bắc Trường Sơn ở khu vực Bắc Trung Bộ Việt Nam. Đặc trưng của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang động, các sông ngầm và hệ động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ thế giới. Các hang động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn 80 km nhưng các nhà thám hiểm hang động Anh và Việt Nam mới chỉ thám hiểm 20 km, trong đó 17 km ở khu vực Phong Nha và 3 km ở khu vực Kẻ Bàng.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 10 Hang Động Sơn Đoòng (ảnh tư liệu HK, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

Tháng 4 năm 2009, một đoàn thám hiểm thuộc Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh đã phát hiện và công bố hang Sơn Đoòng là hang động có kích thước lớn nhất thế giới (dài trên năm km, cao 200m, và rộng 150m), lớn hơn nhiều so với hang Deer ở Vườn quốc gia Gunung Mulu ở Sarawak, Malaysia, lớn gấp 4 đến 5 lần so với Phong Nha. Trong đợt khảo sát này, đoàn thám hiểm cũng tìm thấy nhiều hang động khác. Kiến tạo carxtơ của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được hình thành từ 400 triệu năm trước, từ thời kỳ Đại Cổ Sinh do đó là carxtơ cổ nhất ở châu Á. Trải qua nhiều thay đổi lớn về địa tầng và địa mạo, địa hình khu vực này hết sức phức tạp. Phong Nha-Kẻ Bàng phô diễn các bằng chứng ấn tượng về lịch sử Trái Đất, giúp nghiên cứu lịch sử hiểu được lịch sử địa chất và địa hình của khu vực. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng là một trong những mẫu hình riêng biệt và đẹp về sự kiến tạo carxtơ phức tạp ở Đông Nam Á.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 11 VQG Bến En (ảnh tư liệu VQG Bến En, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

11. Vườn quốc gia Bến En là một vườn quốc gia thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam, được thành lập theo quyết định số 33 ngày 27 tháng 1 năm 1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam. Vườn quốc gia Bến En  thuộc huyện Như Thanh và huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa, cách thành phố Thanh Hóa khoảng 36 km về phía tây nam. Tọa độ từ 19°31′ tới 19°43′ vĩ bắc và 105°25′ tới 105°38′ kinh đông. Tổng diện tích là 14.735 ha, trong đó rừng nguyên sinh là 8.544 ha. Vườn quốc gia Bến En diện tích 3000 ha, có địa hình nhiều đồi núi,  sông, suối và hồ Mực trên núi với 21 đảo nổi ở giữa, Vườn có nhiều loài sinh vật quý, với 1389 loài thực vật (lim xanh, lát hoa, chò chỉ, trai lý, bù hương…), có 1004 loài động vật,66 loài thú (với 29 loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam như: sói đỏ, gấu ngựa, vượn đen, phượng hoàng đất, gà tiền mặt vàng…) với cảnh quan thiên nhiên kỳ thú tuyệt đẹp.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 12 VQG Pù Mát (ảnh tư liệu VQG Pù Mát, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

12. Vườn quốc gia Pù Mát là một khu rừng đặc dụng ở phía tây tỉnh Nghệ An. Tiếng Thái, Pù Mát có nghĩa là những con dốc cao, được thành lập theo quyết định số 174/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 08/11/2001 về việc chuyển hạng Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Mát thành Vườn quốc gia. Vườn quốc gia Pù Mát hiện được xác định là vùng lõi của khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An do UNESCO công nhận năm 2007. Vị trí địa lý từ 18°46′ đến 19°12′ vĩ bắc và từ 104°24′ đến 104°56′ kinh độ đông. Tổng diện tích của Vườn quốc gia Pù Mát là 94.804 ha, trải rộng trên 3 huyện Tương Dương, Con Cuông và Anh Sơn của tỉnh Nghệ An. Vùng đệm của Vườn quốc gia Pù Mát có diện tích 86.000 ha. Độ cao biến động của rừng Pù Mát là từ 200 – 1.814 m trong đó đỉnh Pù Mát cao nhất: 1.814m. Sự đa dạng sinh học phong phú với trên 1.144 loài thực vật có mạch , 3 loài thú đặc hữu Đông Dương, 259 loài chim, với nhiều loài quý hiếm.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 13 VQG Vũ Quang (ảnh tư liệu VQG Vũ Quang, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

13. Vườn quốc gia Vũ Quang (còn gọi với tên: Vườn quốc gia Vụ Quang) là một vườn quốc gia thuộc tỉnh Hà Tĩnh, nơi có nhiều loài sinh vật đặc hữu chỉ có ở Việt Nam, được thành lập theo quyết định số 102/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 30 tháng 7 năm 2002. Vị trí địa lý Vườn quốc gia Vũ Quang nằm ở phía tây bắc tỉnh Hà Tĩnh, cách thành phố Hà Tĩnh 75 km. Phía đông giáp xã Hoà Hải (huyện Hương Khê). Phía tây giáp xã Sơn Kim (huyện Hương Sơn). Phía nam giáp biên giới Việt Nam Lào. Phía bắc giáp xã Sơn Tây (huyện Hương Sơn), và các xã Hương Đại, Hương Minh (huyện Vũ Quang). Tọa độ địa lý từ 18°09′ đến 18°26′ vĩ bắc; từ 105°16′ đến 105°33′ kinh đông. Tổng diện tích: 55.028,9 ha.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 14 VQG Bạch Mã (ảnh tư liệu VQG Bạch Mã, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

14. Vườn quốc gia Bạch Mã là một vườn quốc gia thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế và huyện Đông Giang thuộc tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Huế 40 km, được thành lập theo quyết định số 214-CT ngày 15 tháng 7 năm 1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam. Vị trí địa lý tại tọa độ 16°05′ tới 16°15′ vĩ bắc và 107°43′ tới 107°53′ kinh đông. Vườn Quốc gia Bạch Mã có diện tích 37.487 ha, nằm trên 3 huyện Phú Lộc và Nam Đông thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế và huyện Đông Giang thuộc tỉnh Quảng Nam. Đỉnh Bạch Mã là đỉnh núi cao nhất của vườn với độ cao 1.450 m so với mực nước biển . Vườn Quốc gia Bạch Mã có tính đa dạng sinh học cao. Thực vật ở đây gồm 2147 loài, trong đó có một số loài hiếm và có giá trị như hoàng đàn giả, trầm hương. Động vật đã ghi nhận được 1.493 loài, đặc biệt có một số loài thú mới được phát hiện ở Việt Nam như sao la, 894 loài côn trùng của 580 chi và nằm trong 125 họ và 17 bộ.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 15 VQG Núi Chúa (ảnh tư liệu VQG Núi Chúa, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

15. Vườn quốc gia Núi Chúa là một vườn quốc gia tại huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam được thành lập vào năm 2003 theo Quyết định số 134/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 9 tháng 7 năm 2003. Vị  trí địa lý ở toạ độ từ 11°35’25” đến 11°48’38” vĩ bắc và 109°4’5″ đến 109°14’15” kinh đông, giới hạn phía bắc là ranh giới giáp tỉnh Khánh Hòa, nhưng nếu dựa trên địa hình tự nhiên cả quần thể vùng núi thì ranh giới phía bắc phải đến 11°52’27” tại Mũi Xốp thuộc Hòn Một ngay cửa vịnh Cam Ranh, như vậy chiều bắc nam sẽ là khoảng 33 km và tổng chiều dài đường bờ biển sẽ đến 57 km. Khu vực Núi Chúa có ba mặt giáp biển, phía bắc là phần dưới của vịnh Cam Ranh thuộc xã Cam Lập thành phố Cam Ranh tỉnh Khánh Hòa, phía đông và nam là biển Đông với các xã Vĩnh Hải và Nhơn Hải thuộc huyện Ninh Hải, phía nam là đầm Nại, phía tây giới hạn bằng quốc lộ 1A.  Núi Chúa-Phan Rang dạng địa hình lòng chảo, ngăn cách ở phía bắc, tây và nam là các khối núi có địa hình cao trên 500m cho đến trên 1000m, cao nhất là đỉnh núi Cô Tuy có độ cao 1.039m. Ở hai đầu phía bắc và nam bị chặn lại bởi các khối núi ăn lan ra biển có cao độ trung bình 500-700m, giữa là đồng bằng nhỏ Phan Rang, bao bọc xung quanh bởi các khối núi cao. Vườn Quốc gia Núi Chúa có 9 tháng khô, 4 tháng hạn và 2 tháng kiệt và được xếp vào loại khô hạn nhất ở Việt Nam, với lượng mưa trung bình năm dưới 700mm, có những năm dưới 500mm. Đây là vùng đặc biệt để nghiên cứu sinh vật và môi trường vùng khô hạn và bán khô hạn.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 16 VQG Bidoup Núi Bà (ảnh tư liệu VQG Bidoup Núi Bà, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

16. Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà nằm trên địa bàn huyện Lạc Dương và huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng, cách thành phố Đà Lạt 50 km theo tỉnh lộ 723. Tháng 06/2015, tại Paris (Pháp), kỳ họp lần thứ 27 của Hội đồng Điều phối quốc tế chương trình Con người và sinh quyển của UNESCO đã công nhận là Langbiang là Khu dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam (đây là Khu dự trữ sinh quyển thế giới thứ 9 tại Việt Nam, đầu tiên tại Tây Nguyên). Ngày 29/12/2015, trong khuôn khổ Festival Hoa Đà Lạt tại Đà Lạt (Lâm Đồng), đại diện tổ chức UNESCO tại Việt Nam đã trao quyết định công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới. Khu dự trữ này có diện tích hơn 275.000 ha gồm rừng nguyên sinh rộng lớn và vùng lõi là Vườn quốc gia Bidoup Núi Bà (66.000ha). Nơi đây là một trong những trung tâm chim đặc hữu của thế giới và là một trong bốn trung tâm đa dạng sinh học của Việt Nam (cùng với Khu vực núi cao Hoàng Liên Sơn ở phía Bắc, khu vực núi cao Ngọc Linh ở miền Trung, khu vực rừng mưa ở Bắc Trung bộ). Giá trị bảo tồn đa dạng sinh học sinh của khu dự trữ sinh quyển Langbiang thể hiện ở sự có mặt của 1.945 loài thực vật, trong đó có 96 loài đặc hữu; 153 loài động, thực vật nằm trong sách đỏ Việt Nam và 154 loài động, thực vật có tên trong Danh lục đỏ IUCN (sách về tình trạng bảo tồn và đa dạng của các loài động, thực vật trên thế giới). Trong đó có một số loài động vật quý hiếm như: Vượn đen má hung, Voọc chà vá chân đen, Gấu chó, Bò tót, Sơn dương…

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 17 VQG Phước Bình (ảnh tư liệu VQG Phước Bình, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)


17. Vườn quốc gia Phước Bình thuộc xã Phước Bình, huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận. Thành lập theo Quyết định số 822/QĐ-TTg ngày 8 tháng 6 năm 2006 do phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký quyết định chuyển Khu bảo tồn thiên nhiên Phước Bình thành Vườn quốc gia Phước Bình trong hệ thống các khu rừng đặc dụng của Việt Nam. Vườn có tổng diện tích 19.814 ha. Tọa độ: Từ 11°58′32″ tới 12°10′00″ vĩ bắc và 108°41′00″ tới 108°49′05″ kinh đông. Vị trí địa lý phía Đông giáp: huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hoà, phía Tây giáp rừng phòng hộ đầu nguồn Thuỷ điện Đa Nhim, tỉnh Lâm Đồng, phía Nam giáp Công ty Lâm nghiệp Tân Tiến, tỉnh Ninh Thuận, phía Bắc giáp Vườn quốc gia Bi Doup – Núi Bà, tỉnh Lâm Đồng và công ty Lâm sản Khánh Hoà tỉnh Khánh Hoà.  Vườn quốc gia Phước Bình đồng thời cùng với Vườn quốc gia BiDoup – Núi Bà ở Lâm Đồng để tạo thành một vùng bảo tồn thiên nhiên rộng lớn của hệ sinh thái rừng vùng núi cao đa dạng sinh học ở Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Bảo tồn sinh cảnh rừng tự nhiên tiêu biểu, độc đáo của hệ sinh thái rừng vùng núi cao với các kiểu rừng kín thường xanh, rừng mưa ẩm nhiệt đới; rừng hỗn hợp cây lá rộng và cây lá kim á nhiệt đới; rừng lá kim; rừng thưa cây họ dầu tiêu biểu cho kiểu rừng khô hạn của tỉnh Ninh Thuận. Ngoài ra, vườn còn có nhiệm vụ góp phần nâng cao năng lực phòng hộ đầu nguồn nước cho hệ thống sông Cái của tỉnh Ninh Thuận nhằm phục vụ các hoạt động sản xuất và đời sống, phát triển kinh tế – xã hội của vùng Nam Trung Bộ. Vườn quốc gia Phước Bình có 1.225 loài thực vật và 327 loài động vật quý hiếm.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 18 VQG Chư Mom Ray (ảnh tư liệu VQG Chư Mom Ray, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

18. Vườn quốc gia Chư Mom Ray, nguyên là khu bảo tồn thiên nhiên Chư Mom Ray, thuộc tỉnh Kon Tum, là một vườn quốc gia trong hệ thống các khu rừng đặc dụng của Việt Nam. Được thành lập theo quyết định của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số 103/2002/QĐ-TTg ngày 30 tháng 7 năm 2002. Vườn quốc gia Chư Mom Ray nằm ở phía bắc Tây Nguyên và phía tây của tỉnh Kon Tum, trên địa phận của 2 huyện Sa Thầy và Ngọc Hồi. Phía bắc giáp địa giới hành chính các xã Bờ Y, Sa Loong (thuộc huyện Ngọc Hồi). Phía nam giáp địa giới hành chính các xã Mô Rai, Ya Xiêr (thuộc huyện Sa Thầy). Phía đông giáp địa giới hành chính các xã: Rơ Kơi, Sa Nhơn và thị trấn Sa Thầy. Phía tây giáp biên giới Việt Nam – Campuchia–Lào. Tọa độ địa lý: từ 14°18′ đến 14°38′ vĩ bắc, và từ 107°29′ đến 107°47′ kinh đông. Tổng diện tích: 56.621 ha. Vùng đệm của vườn quốc gia Chư Mom Ray có diện tích 188.749 ha bao gồm các xã: Bờ Y, Sa Loong (thuộc huyện Ngọc Hồi); Rơ Kơi, Sa Nhơn, Sa Sơn, Mô Rai, Ya Xiêr, thị trấn Sa Thầy (thuộc huyện Sa Thầy), tỉnh Kon Tum. Vườn quốc gia Chư Mom Ray là vùng lõi của khu vực núi cao Ngọc Linh ở miền Trung thuộc Khu dự trữ sinh quyển thế giới. Nơi đây được đánh giá có vốn rừng phong phú, đa dạng sinh học cao và có nhiều nguồn gen quý bậc nhất của Việt Nam và là Vườn Quốc gia duy nhất của Việt Nam tiếp giáp với hai nước bạn Lào và Campuchia. Năm 2004, Vườn Quốc gia Chư Mom Ray đã được Hiệp hội các nước Đông Nam Á công nhận là Di sản ASEAN. Theo thống kê, Vườn Quốc gia Chư Mom Ray có gần 1.500 loài thực vật thuộc 154 họ và 551 chi, trong đó có 131 loài được xác định là quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng như: phong lan, ngành hạt trần, các loài họ dầu, lớp tuế… Bên cạnh đó, có khoảng 2.000 loài thực vật quý hiếm khác như: kim giao, thông tre, trắc, cẩm lai… Động vật ở đây cũng rất đa dạng với khoảng 452 loài, trong đó có 115 loài thú, 276 loài chim, 44 loài bò sát và 17 loài lưỡng cư, trong đó có khoảng 114 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam và thế giới. Đặc biệt, cánh đồng cỏ – thung lũng Ja Book, với diện tích rộng hơn 9.000ha thuộc Vườn Quốc gia Chư Mom Ray đã thu hút nhiều loài thú móng guốc và thú ăn thịt quý hiếm như: Trâu rừng, hổ, bò tót, voi, gấu ngựa, beo lửa, mang Trường Sơn… cùng rất nhiều các loài bò sát, lưỡng cư khác tới sinh sống.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 19 VQG Chư Jang Sin  (ảnh tư liệu VQG Chư Jang Sin, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)


19. Vườn quốc gia Chư Yang Sin là một khu rừng đặc dụng của Việt Nam, nằm trên địa bàn các xã Yang Mao, Cư Drăm, Cư Pui, Hoà Phong, Hoà Lễ, Hoà Sơn, Khuê Ngọc Điền thuộc huyện Krông Bông và các xã Yang Tao, Bông Krang, Krông Nô, Đắk Phơi thuộc huyện Lắk, tỉnh Đăk Lăk, tại đây có đỉnh núi Chư Yang Sin (2.442 mét) cao nhất hệ thống núi cao cực Nam Trung Bộ. Vườn quốc gia Chư Yang Sin được thành lập theo quyết định số 92/2002/QĐ-TTg ngày 12 tháng 7 năm 2002 của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Toạ độ địa lý: Từ 120°14′16″ đến 130°30′58″ vĩ bắc; Từ 108°17′47″ đến 108°34′48″ kinh đông; Vị trí địa lý: Phía Đông: dọc sông Krông Bông đến ngã ba suối Ya Brô đến đường phân thuỷ sông Krông Ana. Phía Tây: từ suối Đắk Cao đến ngã ba suối Đắk Kial và đến đường phân thuỷ giữa Đắk Cao và Đắk Phơi. Phía Nam: dọc sông Krông Nô, ranh giới Đăk Lăk và Lâm Đồng. Phía Bắc: bắt đầu từ thác Krông Kmar qua dãy Chư Ju – Chư Jang Bông đến suối Ea Ktuor. Tổng diện tích là: 58.947 ha; Diện tích vùng đệm của Vườn quốc gia Chư Yang Sin là 183.479 ha, nằm trên địa bàn các huyện Lạc Dương, Lâm Hà thuộc tỉnh Lâm Đồng và các huyện Krông Bông, Lắk thuộc tỉnh Đắk Lắk. Vườn quốc gia Chư Yang Sin có 876 loài thực vật (143 loài đặc hữu Việt Nam, 54 có tên trong sách đỏ Việt Nam); 203 loài chim; 46 loài thú được ghi nhận có mặt ở đây.

Vườn Quốc Gia Việt Nam 20 VQG Kon Ka Kinh  (ảnh tư liệu VQG Kon Ka Kinh, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

20. Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm ở cao nguyên Kon Tum, thuộc địa bàn ba huyện Mang Yang, KBang và Đắk Đoa của tỉnh Gia Lai, phần trung tâm nằm ở xã Ayun, huyện Mang Yang, phía đông bắc tỉnh Gia Lai, cách thành phố Pleiku khoảng 50 km về hướng đông bắc. Vườn quốc gia Kon Ka Kinh được thành lập theo Quyết định số 167/2002/QĐ-TTg ngày 25 tháng 11 năm 2002 của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở chuyển đổi và nâng cấp từ Khu bảo tồn thiên nhiên Kon Ka Kinh. Diện tích là 41.780 ha, với tọa độ địa lý từ 14°09′ đến 14°30′ vĩ bắc và từ 108°16′ đến 108°28′ kinh đông. Phía bắc giáp xã Đắk Roong huyện KBang, phía nam giáp xã Hà Ra và một phần xã A Yun, xã Đắk Yă cùng huyện Mang Yang, phía đông giáp các xã Đắk Roong, Kon Pne, Kroong và Lơ Ku huyện KBang, phía tây giáp xã Hà Đông huyện Đắk Đoa.

Kon Ka Kinh Gia Lai (ảnh Hồ Thị Thùy Linh)

Vườn quốc gia Kon Ka Kinh là một khu vực ưu tiên về bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam, khu vực và quốc tế mà trong tương lai nó còn là một địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Ngoài sự đa dạng và phong phú của hệ động thực vật rừng, Vườn quốc gia Kon Ka Kinh đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lưu vực đầu nguồn của các con sông như sông Ba và sông Đắk Pne, cung cấp nước tưới tiêu cho hàng ngàn ha cà phê, hồ tiêu, đất nông nghiệp và cung cấp nước sinh hoạt cho các huyện của tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Phía tây của vườn quốc gia là một phần lưu vực của nhà máy thủy điện Yaly. Vườn quốc gia Kon Ka Kinh đã thống kê được 687 loài thực vật thuộc 459 chi và 140 họ, trong đó có 11 loài đặc hữu, 34 loài quý hiếm, đã được ghi trong sách đỏ Việt Nam và thế giới, 428 loài động vật, trong đó có 223 loài động vật có xương sống sinh sống trên cạn (34 bộ, 74 họ) và 205 loài động vật không xương sống (như bướm) thuộc 10 họ bộ Cánh vẩy

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 20a VQG  Kon Ka Kinh (ảnh tư liệu VQG Kon Ka Kinh, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

21 Vườn quốc gia Yok Đôn là một trong những khu rừng đặc dụng lớn nhất Việt Nam, thuộc 2 tỉnh Đắk Nông và Đăk Lăk.  Vườn quốc gia Yok Đôn nằm trên địa bàn 7 xã thuộc 3 huyện: xã Krông Na, huyện Buôn Đôn, xã Ea Bung, Chư M’Lanh huyện Ea Súp (tỉnh Đăk Lăk) và xã Ea Pô huyện Cư Jút (tỉnh Đăk Nông); Vườn quốc gia Yok Đôn cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 40 km về phía tây bắc, được phê duyệt theo quyết định số 352/CT ngày 29 tháng 10 năm 1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam với mục đích bảo vệ 58.200 ha hệ sinh thái rừng khộp đất thấp. Ngày 24 tháng 6 năm 1992 Bộ Lâm nghiệp ra quyết định 301/TCLĐ thành lập Vườn quốc gia Yok Đôn trực thuộc Bộ Lâm nghiệp. Vườn quốc gia Yok Đôn được mở rộng theo quyết định số 39/ 2002/QĐ -TTg ngày 18 tháng 3 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam. Quy mô diện tích được mở rộng với diện tích 115.545 ha. Toạ độ địa lý: Từ 12°45′ đến 13°10′ vĩ bắc và từ 107°29′30″ đến 107°48′ 30″ kinh đông. Ranh giới của vườn quốc gia này như sau: Phía bắc theo đường tỉnh lộ 1A từ ngã ba Chư M’Lanh qua đồn biên phòng số 2 đến biên giới Việt Nam-Campuchia. Phía tây giáp biên giới Việt Nam-Campuchia. Phía đông theo tỉnh lộ 1A từ ngã ba Chư M’Lanh đến Bản Đôn, ngược dòng sông Serepôk đến giáp ranh giới huyện Cư Jút. Phía nam giáp huyện Cư Jút và cắt đường 6B tại Km 22+500, theo đường 6B đến suối Đăk Dam giáp biên giới Việt Nam-Campuchia. Phía nam giáp huyện Cư Jút và cắt đường 6B tại Km 22+500, theo đường 6B đến suối Đăk Dam giáp biên giới Việt Nam-Campuchia. Vườn nằm trên một vùng tương đối bằng phẳng, với hai ngọn núi nhỏ ở phía nam của sông Serepôk, rừng chủ yếu là rừng tự nhiên, phần lớn là rừng khộp. Yok Đôn cũng là vườn quốc gia duy nhất ở Việt Nam bảo tồn loại rừng đặc biệt này.   Vườn quốc gia Yok Đôn có 63 loài động vật có vú, 196 loài chim, 40 loài bò sát, 13 loài lưỡng cư, 464 loài thực vật, trong đó có voi rừng, trâu rừng và bò tót khổng lồ.

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 21 VQG  Cát Tiên (ảnh tư liệu VQG Cát Tiên, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)


22 Vườn quốc gia Cát Tiên là một khu bảo tồn thiên nhiên, đặc trưng là rừng đất thấp ẩm ướt nhiệt đới, nằm trên địa bàn năm huyện Tân Phú, Vĩnh Cửu (Đồng Nai), Cát Tiên, Bảo Lộc (Lâm Đồng) và Bù Đăng (Bình Phước), cách Thành phố Hồ Chí Minh 150 km về phía bắc. Vườn quốc gia Cát Tiên được thành lập theo quyết định số 01/CT ngày 13 tháng 1 năm 1992 của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở kết nối khu rừng cấm Nam Cát Tiên (được thành lập theo quyết định số 360/TTg, ngày 7 tháng 7 năm 1978 của Thủ tướng chính phủ) và khu bảo tồn thiên nhiên Tây Cát Tiên (được thành lập theo quyết định số 194/CT, ngày 9 tháng 8 năm 1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng). Vườn quốc gia Cát Tiên nằm ở khu vực có toạ độ từ 11°20′50″ tới 11°50′20″ vĩ bắc, và từ 107°09′05″ tới 107°35′20″ kinh đông, trên địa bàn của ba tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai và Bình Phước với tổng diện tích là 71.920 ha. Vùng Nam Cát Tiên  trên địa bàn Tân Phú và Vĩnh Cửu có Bàu Sấu, Bàu Chim, Bàu Cá, Trảng Cò,… tổng diện tích vùng đất ngập nước khoảng 137,60 km² (trong đó 1,5  km² ngập nước thường xuyên, 53,6 km² ngập nước theo mùa, và phần còn lại có độ cao tuyệt đối không quá 125 m). Vùng Tây Cát Tiên trên địa bàn Bù Đăng. Vùng Cát Lộc dành để bảo tồn loài tê giác Java (nay đã tiệt chủng), bò tót, với số lượng khoảng 70-80 con (hiện cũng đang có nguy cơ tuyệt chủng cao do bị săn bắn trộm và mất chỗ ở vì rừng bị chặt phá) nằm trên địa bàn Cát Tiên và Bảo Lộc. Vườn quốc gia Cát Tiên hiện có khoảng 50% diện tích là rừng cây xanh, 40% là rừng tre, 10% là nông trại. Động vật đặc trưng có tê giác Java một sừng, voi châu Á, bò tót, gấu chó, gấu ngựa, trâu rừng, hổ, báo hoa mai, báo gấm, nai…Các loài chim của Cát Tiên cũng phong phú đa dạng: đại bàng đen, vịt trời cánh trắng, chim mỏ sừng lớn… Cát Tiên là nơi cư ngụ của 40 loài nằm trong Sách đỏ thế giới, Cát Tiên còn là địa bàn của 62 loại lan. Vườn quốc gia Cát Tiên phát hiện khảo cổ trong khu vực giữa rừng này cho thấy có một nền văn minh cổ đã tồn tại. Cát Tiên được UNESCO công nhận là “Khu dự trữ sinh quyển thế giới” do sự đa dạng sinh học nhưng thất bại trong bầu chọn là di sản thiên nhiên thế giới

(*) Số thứ tự VQG tóm tắt trong bài này chưa xếp theo danh sách 35 VQG (đã bổ sung),
còn tiếp …

THĂM VÙNG DI SẢN LÀ HẠNH PHÚC LỚN

ANH THÍCH ĐƯA EM VỀ SAPA
Hoàng Kim

Anh thích đưa em về Sa Pa
Nơi núi gặp sông, nơi trời gặp đất
Nơi mây trắng quyện hồn thiêng dân tộc
Suối nước trong veo tình tự bên rừng

Em chợp mắt dưới trời Tam Đảo
Trùng điệp Nham Biền mờ mịt khói sương
Lênh đênh Thần Phù, bâng khuâng Bái Đính
Chìm nổi ba đào chẳng vụng đường tu

Anh thích đưa em đi xa hơn …
Tới những miền rộng mở
Nơi cõi riêng của miền thương nhớ
Khát khao xanh hạnh phúc an lành.

Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh có nhiều thầy bạn giỏi về lĩnh vực Nông Lâm nghiệp. Tôi thật may mắn được làm nhà khoa học xanh, người thầy chiến sĩ nông nghiệp, được sống với ruộng đồng, nông dân và sinh viên, tuy cực mà vui, cuộc đời được trãi nghiệm với phần lớn trong 33 di sản vườn quốc gia quý giá ấy. Đó là hạnh phúc lớn. Tôi thật yêu thích rừng núi suối nguồn và đặc biệt là vườn quốc gia ở Việt Nam dù tôi chỉ người thầy nghề nông. Các con tôi chuyển tải nội dung bài học này để giảng dạy Việt Nam học và ngôn ngữ đối chiếu cho các bạn quốc tế. Thật hạnh phúc khi nghĩ về thầy bạn và những bài thơ  tản văn  viết về núi rừng dòng sông Việt Nam như Dạo chơi non nước ViệtĐất mẹ vùng di sản, Câu cá bên dòng Srepok , Tắm tiên ở Chư Yang Sin, Cát Tiên di sản và huyền thoại … lấy cảm hứng từ các chuyến đi thực tế thú vị này.  Tôi xin lưu một bức ảnh Phong Nha-Kẻ Bàng của quê hương yêu dấu “Nhà mình gần ngã ba sông/ Rào Nan chợ Mới nguồn Son Quảng Bình ở đầu trang;  một bức ảnh Nam Cát Tiên nơi tôi đang sinh sống tại Đồng Nai ở giữa trang, và một bóng nắng Tam Đảo Ba Vì  nhớ về Nghĩa Lĩnh Đền Hùng ở cuối trang, để bắt đầu một ký ức về Việt Nam Tổ quốc tôi.

VƯỜN QUỐC GIA VIỆT NAM
Hoàng Kim


Vườn Quốc gia Việt Nam
Nhớ nhiều thầy bạn quý
Thời gian lưu dấu hiền
Trường tôi nôi yêu thương

Hồn Tổ Quốc ngự giữa rừng sâu thẳm. Rừng điêu tàn là Tổ Quốc suy vong” lời tác giả Bùi Bá .trong bài thơ lời cầu nguyện của rừng do quý thầy Lê Văn Ký, Nguyễn Hữu Đính, Huỳnh Minh Báo, Phan Văn Tự thuật lại đã gợi cảm hứng và lắng đọng tâm huyết chúng tôi để viết bài Vườn Quốc Gia Việt Nam này. Cảm ơn cô giáo Như Mai ngày đã trao đổi : “Thầy Hoàng Kim ơi, em tìm hiểu thông tin trên Wikipedia thì thấy có 2 VQG Tà Đùng (ĐăkNong) (công nhận năm 2018) và VQG Sông Thanh (Quảng Nam)(công nhận tháng 12/2020). Nhưng ở đây không thấy Thầy liệt kê ạ. Thầy cho em hỏi những thông tin này em nên tìm tài liệu ở những trang nào ạ, Em cảm ơn Thầy ạ.”; Cảm ơn thạc sĩ Hồ Thị Trúc Linh ngày 3 7 2022 đã bổ sung hình ảnh và thông tin cho Vườn Quốc Gia Kon Ka Kinh, mà “Về với Tây Nguyên mới” chuyến khảo sát nơi này lần trước, tôi chưa có điều kiện tìm hiểu sâu. Cảm ơn thông tin của anh Võ Công Hậu về Vườn Quốc Gia Côn Đảo; cùng nhiều thầy bạn khác trên nhiều vùng đất nước đã âm thầm hiệu quả tích lũy thông tin quý giá này.

Kon Ka Kinh Gia Lai (ảnh Hồ Thị Thùy Linh)

KON KA KINH GIA LAI
Hoàng Kim

Kon Ka Kinh Kon Ka Kinh
Thăm thẳm Gia Lai bát ngát xanh
Vườn Quốc gia Việt Nam Hồn Việt
Trầm Hương hoa núi nhớ hương rừng

Biển Hồ Chùa Bửu Minh https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bien-ho-chua-buu-minh/

Kon Ka Kinh Gia Lai
Vườn Quốc gia Việt Nam
Đến với Tây Nguyên mới
Kim Notes lắng ghi chú
Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/kon-ka-kinh-gia-lai/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vuon-quoc-gia-viet-nam/

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM

Cây Lương thực Việt Nam #CLTVN chủ yếu có lúa ngô, sắn, khoai. Ẩm thực Việt, nguồn thức ăn đồ uống Việt (Food & Drink) bao gồm gạo ngô, sắn, khoai, cây đậu đỗ thực phẩm, rau hoa quả, thịt, cá, … Dạy và học cây lương thực ngày nay ngày càng đòi hỏi sự hiểu biết chuyên sâu và có sự kết nối liên ngành, nâng cao sự liên kết hiệu quả sản xuất chế biến cung ứng tiêu thụ sản phẩm thành chuỗi giá trị ngành hàng. Mục tiêu nhằm.nâng cao giá trị chất lượng cuộc sống của người dân, tỏa sáng Việt Nam đất nước con người ra Thế giới về giống cây lương thực Việt, thương hiệu Việt, hiệu sách Việt, sinh thái nông nghiệp, ẩm thực, ngôn ngữ, lịch sử văn hóa Việt Nam.

Một số sản phẩm Cây Lương thực Việt Nam thương hiệu Nông Lâm được nghiên cứu phát triển, trồng phổ biến trong sản xuất những năm qua, là lời biết ơn chân thành của các tác giả với Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 65 năm ngày thành lập (19/11/1955-19/11/2020), Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam đường tới IAS 100 năm (1925-2025) với thầy bạn và đông đảo nông dân. Bài viết này giới thiệu một số đúc kết tư liệu liên quan.dạy và học Cây Lương thực Việt Nam giúp bạn đọc tiện theo dõi.

MINH TRIẾT SỐNG PHÚC HẬU
Hoàng Kim


Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.

Bài giảng đầu tiên của Phật

Tứ Diệu đế, Sự khổ: Nguyên nhân, Kết quả và Giải pháp, là bài giảng đầu tiên của Phật (Thích ca Mầu ni Siddhartha Gamtama), nhà hiền triết phương đông cổ đại. Người là hoàng tử Ấn Độ, đã có vợ con xinh đẹp nhưng trăn trở trước sự đau khổ, thiếu hoàn thiện và vô thường (Dukkha) của đời người mà Phật đã xuất gia vào năm hai mươi chín tuổi để đi tìm sự giác ngộ. Người đã dấn thân suốt sáu năm trời, tự mình đi tìm kiếm những vị hiền triết nổi tiếng khắp mọi nơi trong vùng để học hỏi và thực hành những phương pháp khác nhau nhưng vẫn chưa đạt ngộ. Cho đến một buổi chiều ngồi dưới gốc bồ đề, thốt nhiên Người giác ngộ chân lý mầu nhiệm lúc ba mươi lăm tuổi. Sau đó, Người đã có bài giảng đầu tiên cho năm người bạn tu hành. Mười năm sau, Phật thuyết pháp cho mọi hạng người và đến 80 tuổi thì mất ở Kusinara (Uttar Pradesh ngày nay). Học thuyết Phật giáo hiện có trên 500 triệu người noi theo.

Bài giảng đầu tiên của Phật là thấu hiểu sự khổ (dukkha), nguyên nhân (samudaya), kết quả (nirodha) và giải pháp (magga). Tôn giáo được đức Phật đề xuất là vụ nổ Big Bang trong nhận thức, san bằng mọi định kiến và khác hẵn với tất cả các tôn giáo khác trước đó hoặc cùng thời trong lịch sử Ấn Độ cũng như trong lịch sử nhân loại. Phật giáo chủ trương bình đẳng giai cấp, bình đẳng giữa con người có máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, hết thảy các pháp là vô ngã. Mục đích là vô ngã là sự chấm dứt đau khổ và phiền muộn để đạt sự chứng ngộ bất tử, Niết bàn.

Kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn, chứ không phải là con người thần thánh hoặc chân lý tuyệt đối. Vị trí độc đáo của Phật giáo là một học thuyết mang đầy đủ tính cách mạng tư tưởng và cách mạng xã hội. Tiến sĩ triết học Walpola Rahula là giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Ceylan (Pháp) đã tìm tòi văn bản cổ và giới thiệu tài liệu nghiêm túc, đáng tin cậy này (Lời Phật dạy. Lê Diên biên dịch).

Trúc Lâm Yên Tử, Trần Nhân Tông

Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trân (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn và Con Người Hoàn Hảo của dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triêt lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.”

Trần Nhân Tông với 50 năm cuộc đời đã kịp làm được năm việc lớn không ai sánh kịp trong mọi thời đại của tất cả các dân tộc trên toàn thế giới: Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới của thời đó; Vua Phật Việt Nam, tổ sư thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306). Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với thắng tích Trúc Lâm Yên Tử và kiệt tác Trần Nhân Tông còn mãi với thời gian, hoàn thành sư mệnh của bậc chuyển pháp luân, mang sự sống trường tồn vươt qua cái chết; Người Thầy của chiến lược vĩ đại yếu chống mạnh, ít địch nhiều bằng thế đánh tất thắng “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”tạo lập sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt, mở đất phương Nam bằng vương đạo, thuận thời, thuận người; Con người hoàn hảo, đạo đức trí tuệ, kỳ tài trị loạn, đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt tại thời khắc đặc biêt hiểm nghèo, chuyển nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.

Giáo sư sử học Trần Văn Giàu nhận định: “… chưa tìm thấy lịch sử nước nào có một người đặc biệt như Trần Nhân Tông ở Việt Nam. Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắng thần tốc, đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại, đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi. Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm”

Phật giáo Khoa học và Việt Nam

Nhà bác học Anhstanh, cha đẻ của Thuyết tương đối, đã nhận định: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” . “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó” . “Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng” . Cả ba câu này đều được trích từ Những câu nói nổi tiếng của Anhstanh (Collected famous quotes from Albert), và được dẫn lại trong bài Minh triết sống thung dung phúc hậu của Hoàng Kim

Khoa học và thực tiễn giúp ta tìm hiểu những phương pháp thực tế để thể hiện ước mơ, mục đích sống của mình nhằm sống yêu thương, hạnh phúc,vui khỏe và có ích. Đọc rất kỹ lại Ki tô giáo, Hồi giáo,Do Thái giáo,Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, … và chiêm nghiệm thực tiễn , tôi thấm thía câu kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn chứ không phải là con người thần thánh hay chân lý tuyệt đối. Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông có minh triết: Hãy quay về tự thân chứ không tìm ở đâu khác. Luật Hấp Dẫn, Thuyết Tương đối, Thành tựu Khoa học và Thực tiễn giúp ta khai mở nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân con người và thiên nhiên. Đó là ba ngọn núi cao vọi của trí tuệ, là túi khôn của nhân loại. Bí mật Tâm linh (The Meta Secret) giúp ta khám phá sâu sắc các quy luật của vũ trụ liên quan đến Luật Hấp Dẫn đầy quyền năng. Những lời tiên tri của các nhà thông thái ẩn chứa trong Kinh Vệ đà, Lời Phật dạy, Kinh Dịch, Kinh Thánh, Kinh Koran …, cũng như xuyên suốt cuộc đời của những con người vĩ đại trên thế giới đã được nghiên cứu, giải mã dưới ánh sáng khoa học; Bí mật Tâm linh là sự khai mở những nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân mỗi con người đối với đồng loại, các loài vật và thiên nhiên. Suối nguồn chân lý trong di sản văn hóa, lịch sử, giáo dục, kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao của mỗi dân tộc và nhân loại lưu giữ nhiều điều sâu sắc cần đọc lại và suy ngẫm.Qua đèo chợt gặp mai đầu suối. Gốc mai vàng trước ngõ.

Việt Nam là chốn tâm thức thăm thẳm của đạo Bụt (Phật giáo) trãi suốt hàng nghìn năm. Lịch sử Phật giáo Việt Nam theo sách Thiền Uyển tập anh xác nhận là đạo Phật được truyền trực tiếp từ Ấn Độ theo đường biển vào Việt Nam, gồm Giao Chỉ ở phía bắc và Chăm pa ở phía nam, khoảng thế kỉ thứ ba đến thế kỉ thứ hai trước Công nguyên, chứ không phải từ Trung Hoa như một số quan niệm trước đây. Phật giáo đồng hành chung thủy, lâu bền với dân tộc Việt, dẫu trãi nhiều biến cố nhưng được dẫn dắt bởi những nhà dẫn đạo sáng suốt và các đấng minh vương, lương tướng chuộng nhân ái của các thời nên biết thể hiện sự tốt đạo, đẹp đời. Việt Nam là nước biết tiếp thu, chắt lọc tri thức tinh hoa của nhân loại, chuộng sự học, đồng thời biết quay về với tự thân tổng kết thực tiễn, chứ không tìm ở đâu khác.

Phật giáo, Khoa học và Việt Nam là ba học hỏi và nhận thức căn bản của tôi.

Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.

THẦY BẠN LÀ LỘC XUÂN
Hoàng Kim

“Lấy anh em biết ăn gì …” (1)
“Lộc sắn thì chát, lộc si thì già” (2)
Cà phê, khoai nướng và hoa
Hoa Người, Hoa Đất, mình là cây xanh.

Thân chúc sức khỏe hạnh phúc những Thầy bạn là lộc xuân của HK nhân tuần Ngày Nhà giáo Việt Nam. Ghi chú: 1) Hoàng Đình Quang bạn tôi 2) Can Ha . Đọc tiếp tại Thầy bạn là lộc xuân tại đây http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-17-thang-11/

DinhTuyetSon

KHO BÁU ĐỈNH TUYẾT SƠN
Hoàng Kim

Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn bài của Hoàng Kim được chú ý trên trang Nghiên cứu lịch sử ngày 1.8. 2016. Những hé lộ về bí mật kho báu trên núi Tuyết đã giúp tư liệu đánh giá ba vấn đề lớn tồn nghi trong lịch sử: 1) Ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn. 2) Lý Tự Thành và kho báu nhà Minh. 3) Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị?.

Tuyết Sơn phi hồ là bộ tiểu thuyết đầu tiên trong 14 bộ tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Kim Dung, một trong ba văn hào được nhiều người đọc nhất của Trung Quốc đương đại. Kim Dung, Vương Mông, Mạc Ngôn bạn thích ai? câu hỏi này thuộc về sự đánh giá của bạn. Nhưng dẫu bạn thích ai thì Kim Dung vẫn là một trong những ngọn Tuyết Sơn hùng vĩ của nền văn học Trung Hoa và thế giới. Vượt lên mọi sự khen chê, Tuyết Sơn phi hồ là một trong những đỉnh cao văn chương Trung Hoa và Thế Giới được nhiều nhà văn tài năng ao ước chinh phục và đã được chuyển thể nghệ thuật điện ảnh.

Đỉnh Everest và truyện Tuyết Sơn phi hồ

Đỉnh Everest (còn gọi là đỉnh Chomolungma) là nóc nhà cao vọi của thế giới. Đây là đỉnh núi cao nhất Trái Đất với độ cao 8848 mét so với mực nước biển. Đỉnh Everest thuộc biên giới giữa Nepal và Tây Tạng (Trung Quốc) là nơi được nhiều người leo núi mơ ước khám phá. Đỉnh Everest được Andrew Scott Waugh, người Anh, tổng trưởng quan trắc của Ấn Độ đặt tên tiếng Anh là Everest. Ông viết: …”Tôi được Ngài đại tá George Everest quan cấp trên và là người tiền nhiệm đáng kính của tôi, dạy rằng cần đặt cho mỗi đối tượng địa lý bằng tên địa phương hoặc tên riêng thổ ngữ xứ đó. Ngọn núi này có lẽ là ngọn núi cao nhất thế giới, nhưng không có tên địa phương hoặc tên riêng thổ ngữ nào mà chúng tôi biết đến, mà nếu như được biết đến, thì cũng không biết là đến khi nào mới chắc chắn trước khi chúng tôi được cho phép đi xuyên qua Nepal… Tạm thời tôi xin mạn phép đặt tên… một cái tên mà sẽ được biết đến giữa các công dân và trở thành một từ thông dụng giữa các quốc gia văn minh.

Đỉnh Everest tiếng Tây Tạng gọi  là Chomolangma  (Thánh mẫu của vũ trụ), tiếng Trung Quốc gọi là Thánh Mẫu Phong “đỉnh núi của Thánh mẫu” do phiên âm từ tiếng Tây Tạng. Đỉnh Everest tiếng Nepan dịch nghĩa được gọi là “trán trời”.

Bạn có thể tìm thấy danh sách những người lên đến đỉnh của nóc nhà thế giới Edmund Hillary và Tenzing Norgay trở thành những người đầu tiên lên đến đỉnh Everest ngày 29 tháng 5 năm 1953,  Junko Tabei người Nhật là phụ nữ đầu tiên trên đỉnh núi vào 16 tháng 5 năm 1975; Erik Weihenmayer là người mù đầu tiên leo tới đỉnh của Everest ngày 25 tháng 5 năm 2001. Trước ngày 29 tháng 5 năm 1953 và từ ngày đó đến nay đã có nhiều người mạo hiểm chinh phục đỉnh núi Tuyết nhưng nhiều người không trở về.

Mai Lý tuyết sơn (Meili Xue Shan) là dãy núi ở Khu tự trị dân tộc Tạng Địch Khánh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Đỉnh Kawagebo cao 6.740 mét, trên dãy núi trùng điệp này, nằm ở huyên lỵ Đức Khâm, của biên giới Tây Tạng, Địch Khánh và gần biên giới với Myanma . Đỉnh núi Kawagebo tuy thấp hơn đỉnh Everest nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai leo đến tới đỉnh mà không thiệt mạng, do hiểm trở với sáu ngọn núi cao hơn 6000 m tuyết phủ vĩnh cữu.

Tuyết Sơn phi hồ  (Flying Fox of Snowy Mountain) là bộ tiểu thuyết võ hiệp đầu tay của Kim Dung  đăng trên Minh báo năm1959,  Phi hồ ngoại truyện được viết năm 1960 (sau Tuyết Sơn Phi Hồ một năm) kể về điển tích võ học tinh hoa của Hồ Phỉ nhân vật chính truyện. Tuyết Sơn phi hồ là bộ sách đầu tiên và Lộc Đỉnh Ký là bộ sách cuối cùng tâm đắc nhất của Kim Dung. Ông nói rằng ông gửi gắm những điều vi diệu tâm đắc nhất của ông vào hai bộ sách khai tập và kết thúc này. Tôi e rằng những người đọc và hiểu hết những điều thâm hậu của ông là không nhiều.

Tuyết Sơn phi hồ  kể lại câu chuyện tranh giành bảo đao Thiên Long của Sấm Vương  Lý Tự Thành  vào năm Càn Long thứ 48 thời nhà Thanh, thực chất là sự tranh giành kho báu trên đỉnh núi Tuyết.

Nguồn gốc câu chuyện khởi đầu khi Lý Tự Thành thất bại ở Bắc Kinh phải rút về núi Cửu Cung và bị vây. Ông cùng bốn cận vệ thân tín, võ công cao cường là Hồ, Miêu, Phạm, Điền chôn giấu kho báu trên Ngọc Bút Sơn của đỉnh núi Tuyết, bí mật chìa khóa kho báu giấu ở thanh bảo đao Thiên Long và cây trâm của Ngọc Lan. Sau khi ba người Miêu, Phạm, Điền phá vây đi cầu viện binh trở về thì  Lý Tự Thành mất tích, người họ Hồ, ngoại hiệu Phi thiên hồ ly, đã trá hàng Ngô Tam Quế để mưu cứu Lý Tự Thành, nhưng bị ba người em hiểu lầm và ám hại. Ông cam chịu chết mà không chống trả.

Câu chuyện ân oán giữa con cháu họ kéo dài đến năm 48 thời Càn Long nhà Thanh  với Phúc Khang An. Nhân vật võ lâm lẫy lừng danh tiếng Miêu Nhân Phụng “đi khắp thiên hạ không có ai địch thủ” đã chấp nhận quyết đấu với Tuyết Sơn Phi Hồ ngoại hiệu của  Hồ Phỉ trẻ tuổi tài cao danh chấn Tuyết Sơn. Câu chuyện về họ là một khúc ca bi tráng với một thiên tình sử cảm động.

Năm 2007, một đoạn trích trong tác phẩm này đã được đưa vào chương trình sách giáo khoa môn ngữ văn tại Trung Quốc, thay thế AQ chính truyện, đã gây nên nhiều dư luận rất khác nhau.
MaotrennuiTuyet

Trung Quốc đang muốn vẽ lại biểu tượng người Trung Hoa mới thay thế  AQ.

Hình tượng Mao Trạch Đông thời trẻ nay sừng sững trên núi Tuyết khiến người ta liên tưởng trận đấu sinh tử của Hồ Phỉ tuổi trẻ anh hùng nghĩa hiệp và nhân ái trên đỉnh Tuyết Sơn. Mao Trạch Đông có bài thơ Tuyết – Thẩm Viên Xuân – mô tả về núi sông hùng vĩ , đánh giá về hào kiệt các thời của đất nước Trung Hoa và bài thơ Côn Lôn – Niệm Nô Kiều – chính là ngầm ý nói về sự hùng vĩ của Tuyết Sơn và hùng tâm tráng khí cách mạng của ông cải tạo Trung Hoa và Thế Giới

TUYẾT
Mao Trạch Đông

Cõi bắc xinh thay
Nghìn dặm băng dày
Vạn dặm tuyết gieo
Ngắm Trường Thành bát ngát
Trong, ngoài trắng dải
Đại Hà trên, dưới
Bỗng sóng ngừng reo
Núi: rắn bạc vờn
Gò: voi sáp ruổi
Muốn thách trời ai kẻ thấp cao
Khi trời hửng
Ánh hồng lồng ánh bạc
Rất đỗi yêu kiều

Non sông xinh đẹp dường bao
Khiến vô số anh hùng cúi rạp theo
Tiếc Tần hoàng, Hán Vũ
Kém phần văn vẻ
Đường tông, Tống tổ
Thiếu mực phong tao
Khét tiếng một thời
Thành Cát Tư Hãn
Chỉ biết giương cung bắn ó, diều
Xưa đã khuất
Nhìn trời nay hẳn thấy
Nhân vật phong lưu.

(bản dịch của Hoàng Trung Thông, Nam Trân)

Nguyên văn chữ Hán
























Dịch nghĩa

Thấm viên xuân – Tuyết

Bắc quốc phong quang,
Thiên lý băng phong,
Vạn lý tuyết phiêu.
Vọng Trường thành nội ngoại,
Duy dư mãng mãng;
Đại hà thượng hạ,
Đốn thất thao thao.
Sơn vũ ngân xà,
Nguyên trì lạp tượng,
Dục dữ thiên công thí tỷ cao.
Tu tình nhật,
Khán hồng trang tố lý,
Phân ngoại yêu nhiêu.

Giang sơn như thử đa kiều,
Dẫn vô số anh hùng cạnh chiết yêu.
Tích Tần Hoàng Hán Võ,
Lược thâu văn thái;
Đường Tông Tống Tổ,
Tiêu tốn phong tao.
Nhất đại thiên kiêu,
Thành Cát Tư Hãn,
Chỉ thức loan cung xạ đại điêu.
Câu vãng hĩ,
Sổ phong lưu nhân vật,
Hoàn khán kim triêu.

CÔN LÔN
Mao Trạch Đông

Dọc ngang trời đất
Ngút Côn Lôn thấy khắp cõi đời xuân sắc
Cuộn bay rồng ngọc ba trăm vạn
Khuấy cả bầu trời lạnh ngắt
Mùa hạ tuyết tan
Hai sông tràn ngập
Lắm kẻ thành cá tôm
Công tội nghìn năm
Ai đã cùng ngươi chỉ vạch?

Mà nay ta bảo Côn Lôn:
Không cần quá cao, không cần bấy nhiêu tuyết
Sao tựa được trời rút bảo kiếm
Đem ngươi chặt làm ba khúc?
Một gửi Châu Âu
Một tặng Châu Mỹ
Một trả về Đông quốc
Thế giới thái bình
Ấm lạnh chung đều quả đất.

Nguyên văn chữ Hán

















Dịch nghĩa

Niệm nô kiều – Côn Lôn

Hoành không xuất thế,
Mãng Côn Lôn, duyệt tận nhân gian xuân sắc.
Phi khởi ngọc long tam bách vạn,
Giảo đắc chu thiên hàn triệt.
Hạ nhật tiêu dung,
Giang Hà hoành dật,
Nhân hoặc vi ngư miết.
Thiên thu công tội,
Thuỳ nhân tằng dữ bình thuyết?

Nhi kim ngã vị Côn Lôn:
Bất yếu giá cao, bất yếu giá đa tuyết.
An đắc ỷ thiên trừu bảo kiếm,
Bả nhữ tài vi tam tiệt?
Nhất tiệt di Âu,
Nhất tiệt tặng Mỹ,
Nhất tiệt hoàn Đông quốc.
Thái bình thế giới,
Hoàn cầu đồng thử lương nhiệt.

Kho báu trên núi Tuyết

Những hé lộ về bí mật kho báu trên núi Tuyết đã giúp tư liệu đánh giá ba vấn đề lớn tồn nghi trong lịch sử: 1) Ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn. 2) Lý Tự Thành và kho báu nhà Minh 3) Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị?.

1) Ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn

Vua Càn Long sau thất bại nặng nề của nhà Thanh trong chiến tranh với Tây Sơn đã sai danh tướng Phúc Khang An thay thế Tôn Sĩ Nghị làm Tổng đốc Lưỡng Quảng. Phúc Khang An được giao quyền tùy cơ hành xử và phao tin điều động thêm 50 vạn quân để ứng chiến vùng biên giới nhằm hư trương thanh thế. Phúc Khang An nguyên là đặc sứ phụ trách hậu cần cho đội quân của Tôn Sĩ Nghị là người mà vua Càn Long đặc biệt yêu quý và tin cẩn. Phúc Khang An dân gian cho rằng đó là con ngoài giá thú của vua Càn Long với em gái của Hoàng Hậu.

Sự thật là, vua Càn Long đang cố tìm kiếm một thắng lợi ngoại giao với nhà Tây Sơn cho “thập toàn đại công” của ông thay vì tìm kiếm một thắng lợi quân sự vừa rất khó khan trong lúc nhà Thanh đang phải xử lý một vấn đề cơ mật tối quan trọng tại Tây Tang.

Theo chính sử, năm 1789, kho vàng tại tu viện Mật Tông ở Tây Tạng là điểm quan tâm lớn nhất của vua Càn Long vì bị quân Khuếch Nhĩ Khách Mông Cổ dòm ngó chuẩn bị tấn công. Vua Càn Long đã 78 tuổi, ông có tính toán riêng về người kế vị là Hoàng tử Gia Khánh và phúc tướng Phúc Khang An nên việc cơ mật này không thể cử ai khác mà phải chính là Phúc Kháng An đảm nhiệm. Lưỡng Quảng và Đại Việt tuy cũng cần sớm an định, nhưng điểm nóng Cam Túc là bệnh gan ruột làm vua Thanh rất lo nghĩ, trong khi nước Nam ở xa xôi, Nguyễn Huệ anh dũng thiện chiến không thể xem thường nên vua Càn Long lựa ý vỗ về hơn là đem binh thảo phạt.

Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp sớm biết tình thế nên đã đón ý hoặc phân vai mật trao đổi với nhà Tây Sơn. Nguyễn Huệ thấy rõ chỗ yếu của quân Thanh và biết họ đang tìm cách để giảng hòa, trong khi ông cũng đang bận tâm xử lý phía Nam. Do vậy sau khi Nguyễn Huệ thắng trận đã sai mang nhiều vàng bạc hối lộ Phúc Khang An và Tả giang Binh bị đạo Thang Hùng Nghiệp để nghị hòa và cho cháu là Nguyễn Quang Hiển lên cửa ải Nam Quan cầu phong và xin cho Nguyễn Huệ được về Bắc Kinh triều kiến Càn Long. Mưu mẹo này là sự thông đồng giữa hai bên với sự thách giá trả giá bên trong và cách qua mặt vua Lê Chiêu Thống cùng số cựu thần nhà Lê chỉ là sự hợp lý hóa. Bài viết “Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn” là tư liệu quý trong chính sử đề nghị xem kỹ để hiểu rõ.

Lê Chiêu Thống tiếp tục xin nhà Thanh cho quân cứu viện. Nhà Thanh, phần sợ Quang Trung, phần đã ngán ngẩm việc chinh chiến, nên chỉ hứa hão với Chiêu Thống mà không cho quân. Thân vương nhà Thanh là Phúc Khang An hứa giúp quân cho Chiêu Thống, nhưng lại tâu với vua Thanh Càn Long rằng Chiêu Thống không còn muốn trở về nước nữa. Phúc Khang An được hưởng nhiều lợi từ nhà Tây Sơn, nhận rõ tình thế và có dụng ý riêng, nên đã dâng biểu xin hoàng đế Càn Long bãi binh, đồng thời ông cũng chỉ thị cho Thang Hùng Nghiệp gửi mật thư cho Quang Trung gợi ý nên hoà hiếu, tránh binh đao và lập các mẹo mực bang giao để giữ thể diện cho vua Càn Long mà tránh được chiến tranh.

Thư ngoại giao “Trần tình biểu” của vua Quang Trung lúc đầu khá cứng rắn nhưng với sự mưu kế của Thang Hùng Nghiệp nên đã nhẹ đi rất nhiều. Tây Sơn theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, đã nhanh chóng bình thường hóa bang giao với phương Bắc.Nhà Thanh đồng ý hủy bỏ việc động binh để trả thù, và tiếp nhận sứ thần của Tây Sơn. Vua Quang Trung phải dâng biểu “Nộp lòng thành”, nộp cống phẩm. Nhà Thanh đã chịu chấm dứt chiến tranh, nhưng vẫn chưa chịu thừa nhận Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương. Phúc Khang An viết cho vua Quang Trung một bức thư dài báo cho vua Quang Trung biết là vua Càn Long đã ban cho Quang Trung một chuỗi hạt trai, “Ơn trời cao đất dày đến thế là tốt lắm” lại báo cho vua Quang Trung biết rằng: bọn Lê Duy Kỳ đã bị róc tóc, mặc quần áo kiểu người Thanh, đã bị đưa đi an trí ở “ngoại biên” “quyết không cho về nước nữa”. Rồi sau đó Phúc Khang An đòi Tây Sơn phải làm miếu thờ Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống. Lại cho biết là khoảng tháng bảy, tháng tám năm Canh Tuất (1790) nhà Thanh sẽ làm lễ bát tuần vạn thọ vua Càn Long “Có hàng vạn nước vượt biển trèo non đem ngọc xe lễ vật đến chầu“. Phúc Khang An yêu cầu vua Quang Trung đến ngày đó cũng phải “chỉnh trang” sang chầu, và như thế phải khởi hành vào tháng tư năm Canh Tuất (1790)

Đáng chú ý là sau đó, vua Càn Long xuống chỉ cho vua Quang Trung đại ý nói: do quân Thanh vượt biên giới đến Thăng Long, Nguyễn Huệ phải đem quân ra để hỏi Lê Duy Kỳ vì cớ gì cầu cứu thiên binh; vì bị quân Thanh đánh, quân Tây Sơn bất đắc dĩ phải đánh lại; gặp lúc cầu phao đứt, nên quân Thanh bị chết hại nhiều. Trong tờ chỉ Càn Long còn nhận rằng Nguyễn Huệ đã bắt và giết hết những người đã giết Hứa Thế Hanh và Sầm Nghi Đống. Ông còn cho rằng khi quân Thanh vào Thăng Long, ông đã ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị rút quân về nước, vì Sĩ Nghị không tuân lệnh, cho nên có trận đại bại vào đầu năm Kỷ Dậu. Ông lại đòi lập đền thờ Hứa Thế Hanh và Sầm Nghi Đống, và đòi vua Quang Trung phải đích thân sang Yên Kinh triều cận vào dịp Càn Long làm lễ bát tuần vạn thọ năm Canh Tuất. Ông lại nhắc rằng “Lê Duy Kỳ hèn lười, không tài, bỏ ấn trốn đi, chiểu theo pháp luật của Thiên triều phải tội nặng; rằng ông quyết an trí bọn chúng ở Quế Lâm, không bao giờ cho về nước nữa; rằng ông đã ra lệnh cho Phúc Khang An đưa phái đoàn Nguyễn Quang Hiển đến xem chỗ bọn Lê Duy Kỳ ở” Nhưng rồi vua Quang Trung viện cớ là mình chưa được phong vương, sợ có điều bất tiện khi gặp các vị quốc vương các nước ở Yên Kinh. Thế là Càn Long đành phải phong cho Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương để có điều kiện đến Yên Kinh triều cận một cách đàng hoàng.  Vua Càn Long qua Phúc Khang An lại ra điều kiện đòi triều Tây Sơn phải đúc người vàng đem cống như các triều đại trước. Ngô Thì Nhậm đã viết cho Phúc Khang An bức thư, trong đó có đoạn:

Quốc trưởng nước tôi vùng lên từ thủa áo vải, nhân thời biết việc, đối với vua Lê vốn không có danh phận vua tôi. Mất hay còn là do số trời; theo hay bỏ là do lòng người. Quốc trưởng tôi có ý cướp ngôi của nhà Lê đâu mà lại coi như kẻ thoán đoạt. Trước đây Tôn bộ đường đem quân đến, quốc trưởng nước tôi bất đắc dĩ phải đem quân ra ứng chiến, không hề có ý xâm phạm biên cảnh để mang tội. Nay đại nhân theo lệ cũ của Trần, Lê, Mạc bắt cống người vàng, như vậy chẳng hóa ra quốc trưởng nước tôi được nước một cách quang minh chính đại mà lại bị coi như hạng ngụy Mạc hay sao? Như thế thì tấm lòng kính thuận sợ trời thờ nước lớn cũng bị coi như việc nhà Trần bắt Ô Mã Nhi, nhà Lê giết Liễu Thăng hay sao?…Mong đại nhân noi theo mệnh lớn, miễn cho nước tôi lệ đúc người vàng để tiến cống…”

Nguyễn Huệ trong thư này đã nói rõ rằng các vua Việt Nam thời trước sở dĩ phải cống người vàng là để chuộc một tội lỗi nào đó đối với Thiên triều còn Nguyễn Huệ tự coi không có tội gì với nhà Lê và cũng không có tội gì với nhà Thanh nên Tây Sơn không thể đúc người vàng để tiến cống.

Tháng 7 năm 1789, Càn Long ra chỉ dụ phong Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương. Tháng 1 năm 1790, Hoàng đế Quang Trung giả (do Phạm Công Trị, cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu đóng) đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của vua Càn Long. Đoàn sứ bộ Tây Sơn gồm 159 người có giả vương Nguyễn Huệ và Nguyễn Quang Thùy (mà vua Càn Long tưởng là hoàng thái tử của Nguyễn Huệ). Mục đích khác của đoàn sứ là thăm dò thái độ của nhà Thanh đối với vị vua lưu vong Chiêu Thống của nhà Lê. Đại quan nhà Thanh là Phúc Khang An, từng sang chiến trường Đại Việt, đứng sau lưng đoàn sứ bộ, nên nhiều tướng lĩnh nhà Thanh biết người cầm đầu sứ bộ không phải Nguyễn Huệ, nhưng ngại gây hấn nên không nói ra.

Sứ thần Tây Sơn đi đợt đó có Ngô Văn Sở,  Phan Huy Ích (thượng thư, nhà ngoại giao, quê Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh,  tiền bối của nhà sử học Phan Huy Lê, giáo sư nhà giáo nhân dân, là một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử Việt Nam hiện đại, người có ảnh hưởng lớn đến chính sử hiện tại trong sự đánh giá nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn), Vũ Huy Tấn ( Thị lang bộ Công, tước , sau khi đi sứ về ông được phong làm Thượng thư bộ Công, tước Hạo Trạch hầu. Dưới triều Cảnh Thịnh, ông được đặc cách lên hàng Thượng trụ quốc, Thị trung đãi chiếu Thượng thư). Sứ đoàn Tây Sơn lần đó cũng có Nguyễn Nể là anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du và  Đoàn Nguyễn Tuấn là anh vợ Nguyễn Du. Dọc đường đi, đoàn sứ giả có gặp hành tung của một số người họ Nguyễn ở Quảng Tây và sau đó cùng đi lên Yên Kinh. Người đời sau ngờ rằng đó chính là Nguyễn Du và Hà Mỗ.

Đoàn sứ thần Tây Sơn có giả vương Nguyễn Huệ làm thế nào để che mắt sứ đoàn vua Lê Chiêu Thống hiển nhiên có mặt?. Phúc Khang An đã ngầm thông đồng mưu kế với Tây Sơn: “Tìm một người diện mạo giống quốc vương đi thay. Việc này chỉ có Công gia, Thang đại nhân, Vương đại nhân và ta là bốn người biết mà thôi. Nếu sợ Lê Duy Kỳ biết, ta bẩm ngay với Công gia đem 1000 người bọn ấy giữ kỹ không cho ra ngoài, còn ai biết được nữa”. (theo Bang giao tập, ngoại giao nhà Tây Sơn).

Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn thực chất là như vậy!  Người đời sau vốn tin vào “Hoàng Lê Nhất thống chí”, các chứng cứ của Phan Huy Ích và Bang giao tập, mà ít để ý đến bí mật kho báu Tây Tạng, Cam Túc trong sự chuyển giao ngai vàng. Phúc Khang An cần nhanh chóng lập được đại công quản lý Lưỡng Quảng và vỗ yên Đại Việt để tính toán vị thế đối trọng danh chính ngôn thuận với ngôi vua mà vua Càn Long chuyển giao cho Gia Khánh đang đến rất gần. Điều này đã ảnh hưởng sâu sắc tới kế sách, thái độ của vua Càn Long và Phúc Khang An đối với Lê Duy Kỳ.

Lê Duy Kỳ và các cựu thần nhà Lê có đối sách ngoại giao gì? sách Cương mục viết:“Nhà vua căm giận vì bị người Thanh lừa gạt, bèn cùng các bầy tôi là bọn Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng và Lê Thức mười người uống máu ăn thề, làm bài biểu định đưa lên vua Thanh để xin quân cứu viện, nếu không được thì xin được đất hai châu Tuyên Quang và Thái Nguyên để quay về giữ việc thờ cúng tổ tiên hay là cùng nhau lén về Gia Định nương nhờ triều ta (triều Nguyễn Ánh) để dần dà toan tính việc khôi phục, chứ quyết không chịu sống thừa ở đất Bắc.”

Năm 1791, Lê Duy Kỳ thấy không thể mong chờ viện binh của quân Thanh nên đã trở về chiếm đất Tuyên Quang, Cao Bằng dựa vào thế lực của tù trưởng Nùng Phúc Tấn, Hoàng Văn Đồng, liên kết với Trình Cao, Quy Hợp, các vùng Trấn Ninh của Vạn Tượng mưu đánh Nghệ An.  Nguyễn Huệ sai trấn tướng Nguyễn Quang Diệu và đô đốc Nguyễn Văn Uyển đem năm nghìn tinh binh theo đường thượng lộ Nghệ An tiến đánh chiếm được Trấn Ninh, diệt Trịnh Cao, Quy Hợp. Vua nước Vạn Tượng phải bỏ thành mà chạy. Quang Diệu thừa thắng đuổi dài đến tận Xiêm La, chém tướng Vạn Tượng là tả súy Phan Dung và hữu súy Phan Siêu, sau đó kéo quân về Bảo Lộc. Nùng Phúc Tấn và Hoàng Văn Đồng thế cùng không chống đỡ nổi đều bị quân Quang Diệu giết chết. Nguyễn Quýnh em Nguyễn Du quay trở về Hồng Lĩnh khởi nghĩa bị bắt và bị giết năm 1791 tròn 30 tuổi, dinh thự và làng Tiên Điền bị đốt sạch. Vua Lê Chiêu Thống cô thế với các cựu thần trung thành lại phải về Yên Kinh.

Nguyễn Huệ sau khi đã được nhà Thanh phong làm An Nam quốc vương và truy sát đuổi dài tận diệt những mầm mống hồi phục nhà Lê và các cựu thần nhà Lê ứng nghĩa, đã đặt thể chế Hoàng Đế, lập Lê Thị Ngọc Hân làm Bắc Chính cung Hoàng hậu, phong con trưởng là Nguyễn Quan Toản làm thái tử, chọn Nghệ An làm thủ đô với tên Phượng Hoàng trung đô, đắp thành đất ở núi Kỳ Lân, dựng lầu điện, chia cả nước thành các trấn để cai trị, định quan danh, làm sổ ba tịch đinh điền, phát thẻ tín lệnh (tương tự CMND ngày nay) để quan lý hộ tịch hộ khẩu. Về đối ngoại xin mở cửa ải hải quan giao thương với nhà Thanh ở Cao Bằng, Lạng Sơn để dân hai nước họp chợ thông thương, lại xin đặt phái bộ đại diện ở phủ Nam Ninh trong nội địa Trung Quốc, xin cưới công chúa nhà Thanh. Tất cả những điều Nguyễn Huệ đề đạt với vua Càn Long đều được vua Càn Long đồng ý.

Thương thay, Nguyễn Du quyết ý không theo nhà Tây Sơn “Phượng bay cao phi ngô đồng không đỗ. Sỹ ẩn minh phi minh chủ không thờ” do nhìn thấu những bất hòa trong nội tình nhà Tây Sơn và phương thức xử lý đại cục nên không chịu ra làm quan. Vua Càn Long sau này khi Nguyễn Du làm chánh sứ triều Nguyễn đã đích thân tự tay viết bức đại tự tặng Nguyễn Du nay lưu lại ở di tích lịch sử Nguyễn Tiên Điền quả là sâu sắc.

Kim Dung Tuyết Sơn Phi Hồ đã góp phần vén bức màn lịch sử ấy.

2) Lý Tự Thành và kho báu nhà Minh

Phúc Khang An chết. Sấm Vương Lý Tự Thành cùng bốn thủ hạ thân tín lộ diện trong kho báu trên đỉnh núi Tuyết vào năm Càn Long thứ 48 thời nhà Thanh, là những bài học tinh tế của cuộc sống. Lời bình luận xin nhường cho bạn đọc.

3) Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị ?.

Kho báu chôn giấu ở đâu? nguồn tài chính, cổ vật, báu vật của các triều đại, dòng họ giữ ở đâu khi thời thế thay đổi. Núi cao, đảo xa, trung tâm tài chính ổn định là những điểm chính.

Tài liệu Rampa Đức Đạt – lai Lạt – ma tiên tri và tái sinh đã hé mở những bí mật về kho báu Lasha Tây Tạng.

Rampa viết:  “Rampa đi nhiều quốc gia trên thế giới và bùi ngùi nhìn lại đất nước Tây Tạng của mình, tự nhận xét: Bề ngoài Tây Tạng không có nguồn lợi kinh tế nào đáng kể, vì mặt đất cằn cỗi toàn đá cứng, đồng ruộng núi đồi quanh năm tuyết phủ. Nhưng thực ra, trong lòng đất “Tây Tạng cũng có đủ những mỏ vàng, mỏ bạc và uranium”, nhiều không kể xiết “những tượng Phật đúc bằng vàng khối, những đĩa vàng, chén vàng, những xác ướp bọc vàng- tại xứ này vàng không phải là một kim loại hiếm quý – mà là một kim khí linh thiêng”. Người dân bao đời giữ niềm tin mỏ vàng mỏ bạc “là long mạch của quốc gia” nên nếu khai quật sẽ mang lại tai ương không lường trước được. Tài nguyên ẩn kín và vị trí chiến lược của Tây Tạng trên dãy Hymalaya thu hút “lòng tham không đáy” của các quốc gia quen lấy “sự chiếm đoạt tài sản của nước khác” làm tài sản của mình, đã nâng các cuộc xâm lược đẫm máu lên hàng quốc sách (L. Rampa – sđd. tr. 88).

Trung Quốc đang khuấy động Hymalaya – Tây Tạng (tổ sơn) và khuấy nhiễu biển Đông (tổ long), sẽ phải gánh chịu hậu quả khủng khiếp“.

Kim Dung Tuyết Sơn phi hồ là những bài học thú vị.

Bí mật kho báu trên núi Tuyết với ba tồn nghi lớn của lịch sử: Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị? Lý Tự Thành và kho báu đời Minh nay ở đâu? Hệ lụy ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn? Đó là một chuỗi lịch sử lớn cần được nghiên cứu, giải mã thấu đáo. Sự nghiên cứu lịch sử này liên quan rất mật thiết đến Việt Nam: thế Tam Quốc trong thời Nguyễn Du, vua Lê Chiêu Thống bị bán đứng, vua Quang Trung cái chết bí ẩn, Nguyễn Du cuộc đời và thời thế, Nguyễn Du 255 năm nhìn lại.

CON ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH
Hoàng Kim

Vầng đá chốn đại ngàn
Rượu cần nơi bản vắng
Câu cá bên dòng Sêrêpôk
Tắm tiên Chư Yang Sin

Đến với Tây Nguyên mới
Con đường Hồ Chí Minh

xem tiếp Minh triết Hồ Chí Minh https://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-triet-ho-chi-minh/ Thơ viết ngày đại đoàn kết dân tộc. Nhớ lời dặn của Bác. Con đường Hồ Chí Minh https://hoangkimlong.wordpress.com/category/con-duong-ho-chi-minh/

QUẢNG BÌNH VỚI TRƯỜNG SƠN
Hoàng Kim

Quảng Bình đất và người
Quê Mẹ vùng di sản
Hoành Sơn với Linh Giang
Cao Biền trong sử Việt

Quảng Bình với Trường Sơn
Linh Giang sông quê hương
Con đường Hồ Chí Minh
Nam tiến của người Việt

Linh Giang Đình Minh Lệ
Đá Đứng chốn sông thiêng
Bến Lội Đền Bốn Miếu
Nguồn Son nối Phong Nha

Đào Duy Từ còn mãi
Huế có Thiên Thụ Sơn
Lời dặn của Thánh Trần
Ta về với Linh Giang

xem tiếp 16 đường dẫn Quảng Bình với Trường Sơn, câu chuyện vàng kỳ thú, tôi còn nợ chưa xong https://hoangkimlong.wordpress.com/category/quang-binh-voi-truong-son/Con đường Hồ Chí Minh https://hoangkimlong.wordpress.com/category/con-duong-ho-chi-minh/

Video yêu thích

NHẠC THIỀN – TĨNH TÂM – AN NHIÊN TỰ TẠI. – YouTube
Secret Garden – Bí mật vườn thiêng 
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Advertisement