|
|
Thứ ba, Ngày 2 Tháng 12 Năm 2014
|
|
|
Âm lịch: Ngày 11 Tháng 10 Năm 2014 Ngày Julius: 2456994 |
Bát tự: Giờ Canh Tí, ngày đinh Mùi, tháng ất Hợi, năm Giáp Ngọ |
|
0:00 |
Giờ: Canh Tí |
Ngày Hoàng đạo |
Sao: Minh Đường |
Giờ Hoàng đạo |
Nhâm Dần, Qúy Mão, ất Tỵ, Mậu Thân, Canh Tuất, Tân Hợi |
Giờ Hắc đạo |
Canh Tí, Tân Sửu, Giáp Thìn, Bính Ngọ, đinh Mùi, Kỷ Dậu |
Năm |
Kim |
Sa trung kim |
Mùa: Mùa đông |
Vượng: Thủy
Khắc: Thổ |
Trọng |
Ngày |
Thuỷ |
Thiên hà thủy |
Nước trên trời |
Tuổi xung |
Kỷ Sửu, Tân Sửu |
Tiết khí |
Giữa: Tiểu tuyết (Tuyết xuất hiện) – Đại tuyết (Tuyết dày) |
Sao |
Vĩ |
|
Ngũ hành |
Hỏa |
|
Động vật |
Hổ |
|
Trực |
Thành |
– Tốt cho các việc nhập học, giá thú, may mặc, thượng lương.
– Xấu cho các việc kiện tụng, mai táng, châm chích, di cư. |
Xuất hành |
Hỷ thần |
chính Nam |
Tài thần |
chính Đông |
Kê thần |
(Lên trời) |
Cát tinh |
Tốt |
Kỵ |
Thiên hỷ |
Tốt mọi việc, nhất là hôn thú |
|
Nguyệt Tài |
Tốt cho việc cầu tài lộc, khai trương, xuất hành, di chuyển, giao dịch |
|
Phúc Sinh |
Tốt mọi việc |
|
Tam Hợp |
Tốt mọi việc |
|
Minh đường |
Hoàng Đạo – Tốt mọi việc |
|
Sát tinh |
Kỵ |
Ghi chú |
Vãng vong (Thổ kỵ) |
Kỵ xuất hành, giá thú, cầu tài lộc, động thổ |
|
Cô thần |
Xấu với giá thú |
|
Mặt trời |
Giờ mọc |
Giờ lặn |
Hà Nội |
06:20 |
17:11 |
TP.Hồ Chí Minh |
05:59 |
17:26 |
|
Thiên Hình |
Hắc đạo |
|
1:00 |
Giờ: Tân Sửu |
Chu Tước |
Hắc đạo |
|
3:00 |
Giờ: Nhâm Dần |
Kinh Quỹ |
Hoàng đạo |
|
5:00 |
Giờ: Qúy Mão |
Kim Được |
Hoàng đạo |
|
7:00 |
Giờ: Giáp Thìn |
Bạch Hổ |
Hắc đạo |
|
9:00 |
Giờ: ất Tỵ |
Ngọc Đường |
Hoàng đạo |
|
11:00 |
Giờ: Bính Ngọ |
Thiên Lao |
Hắc đạo |
|
13:00 |
Giờ: đinh Mùi |
NGuyên Vũ |
Hắc đạo |
|
15:00 |
Giờ: Mậu Thân |
Tư Mệnh |
Hoàng đạo |
|
17:00 |
Giờ: Kỷ Dậu |
Câu Trận |
Hắc đạo |
|
19:00 |
Giờ: Canh Tuất |
Thanh Long |
Hoàng đạo |
|
21:00 |
Giờ: Tân Hợi |
Minh Đường |
Hoàng đạo |
|
23:00 |
Giờ: Canh Tí |
Thiên Hình |
Hắc đạo |
|
|
Lịch vạn niên 2014, ngày 11 tháng 10, năm 2014 – Âm lịch
Xem ngày giờ tốt và hướng xuất hành
Trong một tháng có 2 loại ngày tốt, ngày xấu; trong một ngày lại có 6 giờ tốt, 6 giờ xấu gọi chung là Ngày/giờ Hoàng đạo (tốt) và Ngày/giờ Hắc đạo (xấu). Người Việt Nam từ xưa đều có phong tục chọn ngày tốt và giờ tốt để làm những việc lớn như cưới hỏi, khởi công làm nhà, nhập trạch, ký kết, kinh doanh v.v.v.
Ngày 11 tháng 10, năm 2014 là ngày Hoàng đạo , các giờ tốt trong ngày này là: Nhâm Dần, Qúy Mão, ất Tỵ, Mậu Thân, Canh Tuất, Tân Hợi
Trong ngày này, các tuổi xung khắc nên cẩn thận trong chuyện đi lại, xuất hành, nói chuyện và làm các việc đại sự là: Kỷ Sửu, Tân Sửu
Xuất hành hướng Đông Bắc gặp Hỷ thần: niềm vui, may mắn, thuận lợi. Xuất hành hướng Nam gặp Tài thần: tài lộc, tiền của, giao dịch thuận lợi.
Xem sao tốt và việc nên làm và nên kiêng
Trong Lịch vạn niên, có 12 trực được sắp xếp theo tuần hoàn phân bổ vào từng ngày. Mỗi trực có tính chất riêng, tốt/xấu tùy từng công việc. Ngày 11 tháng 10, năm 2014 là Trực Thành: Tốt cho các việc nhập học, giá thú, may mặc, thượng lương. Xấu cho các việc kiện tụng, mai táng, châm chích, di cư.
Mỗi ngày đều có nhiều sao Tốt (Cát tinh) và sao Xấu (Hung tinh). Các sao Đại cát (rất tốt cho mọi việc) như Thiên đức, Nguyệt đức, Thiên ân, Nguyệt ân. Có những sao Đại hung (rất xấu cho mọi việc) như Kiếp sát, Trùng tang, Thiên cương. Cũng có những sao xấu tùy mọi việc như Cô thần, Quả tú, Nguyệt hư, Không phòng, Xích khẩu… – xấu cho hôn thú, cưới hỏi, đám hỏi nói chung cần tránh. Hoặc ngày có Thiên hỏa, Nguyệt phá, Địa phá… xấu cho khởi công xây dựng, động thổ, sửa chữa nhà cửa nói chung cần tránh.
Khi tính làm việc đại sự, cần kiểm tra ngày Hoàng Đạo, Hắc Đạo. Xem công việc cụ thể nào, để tránh những sao xấu. Chọn các giờ Hoàng đạo để thực hiện (hoặc làm tượng trưng lấy giờ).
Nam Kỳ Lục tỉnh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đất Nam Kỳ vào đầu thời nhà Nguyễn, cho đến trước năm 1841.
Nam Kỳ Lục tỉnh (南畿六省) hay Lục tỉnh (六省), là tên gọi miền Nam Việt Nam thời nhà Nguyễn độc lập, tức là khoảng thời gian từ năm 1832 (cải cách hành chính của Minh Mạng) tới năm 1862 (khi Pháp chiếm 3 tỉnh Miền Đông) và năm 1867 (khi Pháp chiếm nốt 3 tỉnh Miền Tây). Đương thời, người Pháp gọi Nam Kỳ Lục Tỉnh bằng cái tên Basse-Cochinchine (tức là vùng Cochinchine “hạ” hay vùng Hạ Đàng Trong).[1]
Sự hình thành Lục tỉnh
Nam Kỳ Lục tỉnh trong bản đồ cổ của nhà Nguyễn, (tên các tỉnh được viết trong khung màu đỏ, từ phải sang trái là tên các tỉnh: Biên Hòa (边和省), Gia Định (嘉定省), Định Tường (定祥省), An Giang (安江省) ở hàng trên, và Vĩnh Long (永隆省), Hà Tiên (河仙省) ở hàng dưới).
Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán (triều Nguyễn), vào năm Mậu Dần (1698) chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập phủ Gia Định. Năm Nhâm Tuất (1802) vua Gia Long đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định; đến năm Mậu Thìn (1808) đổi tên trấn Gia Định ra Gia Định Thành (hay tổng trấn Gia Định) gồm 5 trấn là Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên.
Năm Minh Mạng thứ 13 (Nhâm Thìn, 1832), vua Minh Mạng bãi bỏ Gia Định Thành, đổi các trấn thành tỉnh, chia 5 trấn của Gia Định Thành trước đây thành 6 tỉnh (Lục tỉnh) gồm Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Hai năm sau (Giáp Ngọ, 1834), vùng Lục tỉnh thuộc Gia Định Thành trước đây được gọi chung là Nam Kỳ. Từ đó có tên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh.
Bản đồ Nam Kỳ năm 1838, trích từ An Nam Đại Quốc Họa Đồ của Taberd.
Đó là các tỉnh:
Trong dân gian, còn chia thành ba tỉnh miền Đông gồm Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và ba tỉnh miền Tây gồm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
Địa bạ Nam Kỳ Lục tỉnh 1836
Bản đồ Nam Kỳ Lục Tỉnh giai đoạn ổn định (1841-1862), do người Pháp vẽ năm 1883.
Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), theo lệnh vua, Binh bộ Thượng thư Trương Ðăng Quế và Lại bộ Thượng thư Nguyễn Kim Bảng mang cờ và bài hiệu, dẫn theo các viên dịch, tùy biện vào Nam theo đường thủy, tổ chức việc đo đạc ruộng đất và lập địa bạ ở 6 tỉnh Nam Kỳ. Ðây là cuộc tổng điều tra ruộng đất đầu tiên ở Nam Kỳ có quy mô lớn nhất. Kết quả đã lập được gần 2.000 quyển địa bạ ghi rõ từng sở điền thổ, tên làng thôn, địa phận, địa giới còn được bảo quản đến ngày nay. Theo toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ có tất cả 10 phủ chứa 25 huyện gồm có 135 tổng với 1.637 xã thôn phường. Cụ thể xếp các tỉnh từ Bắc xuống Nam (chưa bao gồm các đạo quan phòng chưa lập thành đơn vị hành chính):
Tỉnh |
Phủ |
Huyện |
Biên Hòa
1 phủ
4 huyện
22 tổng |
Phước Long |
- Bình An (8 tổng): Bình Chánh (Tây, Hạ, Trung, Thượng), An Thủy (Hạ Trung, Thượng, Đông),
- Phước Chánh (6 tổng): Phước Vinh (Hạ, Trung, Thượng), Chánh Mỹ (Hạ, Trung, Thượng),
- Phước An (4 tổng): Phước Hưng (Hạ, Thượng), An Phú (Hạ, Thượng),
- Long Thành (4 tổng): Long Vĩnh (Hạ, Thượng), Thành Tuy (Hạ, Thượng).
|
Gia Định
2 phủ
5 huyện
24 tổng |
Tân Bình |
- Bình Long (6 tổng): Dương Hòa (Hạ, Trung, Thượng), Bình Trị (Hạ, Trung, Thượng),
- Tân Long (6 tổng): Tân Phong (Hạ, Trung, Thượng), Long Hưng (Hạ, Trung, Thượng),
- Tân Hòa (4 tổng): Thạnh Hội, Thạnh Mục, Hòa Đồng, Hòa Lạc.
|
Tân An |
- Thuận An (4 tổng): Bình Cách (Trung, Thượng), Thuận Đạo (Trung, Thượng),
- Phước Lộc (4 tổng): Phước Điền (Trung, Thượng), Lộc Thành (Trung, Thượng).
|
Định Tường
1 phủ
3 huyện
15 tổng |
Kiến An |
- Kiến Hòa (5 tổng): Hòa Hằng, Hòa Hảo, Hòa Thạnh, Thạnh Phong, Thạnh Quang,
- Kiến Hưng (5 tổng): Hưng Long, Hưng Nhượng, Hưng Nhơn, Thuận Bình, Thuận Trị,
- Kiến Đăng (5 tổng): Phong Thạnh, Phong Hòa, Phong Phú, Lợi Trường, Lợi Trinh.
|
Vĩnh Long
3 phủ
6 huyện
45 tổng |
Định Viễn |
- Vĩnh Bình (7 tổng): Bình An, Bình Lễ, Bình Long, Bình Phú, Bình Hưng, Bình Thạnh, Bình Xương,
- Vĩnh Trị (6 tổng): Bình Hòa, Bình Quới, Bình Thới, Bình Trung, Bình Chánh, Bình Khánh.
|
Hoằng An |
- Bảo An (11 tổng): Bảo Phước, Bảo Lộc, Bảo Hựu, Bảo An, Bảo Hòa, Bảo Ngãi, Bảo Định, Bảo Trị, Bảo Thuận, Bảo Khánh, Bảo Thành,
- Tân Minh (11 tổng): Minh Chánh, Minh Huệ, Minh Lý, Minh Đức, Minh Ngãi, Minh Đạo, Minh Hóa, Minh Trị, Minh Đạt, Minh Thuận, Minh Quới.
|
Tân An |
- Tuân Ngãi (5 tổng): Tuân Lễ, Tuân Giáo, Thành Trị, Ngãi Long, Ngãi Hóa,
- Trà Vinh (5 tổng): Trà Bình, Trà Nhiêu, Trà Phú, Vinh Lợi, Vinh Trị.
|
An Giang
2 phủ
4 huyện
18 tổng |
Tuy Biên |
- Tây Xuyên (3 tổng): Châu Phú, Định Thành, Định Phước,
- Đông Xuyên (4 tổng): An Lương, An Phú, An Toàn, An Thành.
|
Tân Thành |
- Vĩnh An (7 tổng): An Hội, An Thạnh, An Thới, An Trường, An Mỹ, An Tĩnh, An Trung,
- Vĩnh Định (4 tổng): Định An, Định Khánh, Định Bảo, Định Thới.
|
Hà Tiên
1 phủ
3 huyện
11 tổng |
Quan Biên |
- Hà Châu (5 tổng): Phú Quốc, Hà Nhuận, Nhuận Đức, Hà Thanh, Thanh Di,
- Kiên Giang (4 tổng): Thanh Giang, Giang Ninh, Kiên Định, Kiên Hảo,
- Long Xuyên (2 tổng): Quảng Xuyên, Long Thủy.
|
Thay đổi hành chính trước khi Pháp xâm lược
Bản đồ Nam Kỳ Lục Tỉnh và tỉnh Bình Thuận năm 1850, thể hiện chi tiết các đơn vị hành chính từ cấp tỉnh, phủ, huyện xuống tới từng tổng.
Năm Ất Sửu (1865), Quốc sử quán triều Nguyễn mới tổ chức biên soạn bộ sách dựa trên cơ sở của bộ Đại Nam nhất thống dư đồ và mãi đến năm 1882, bộ Đại Nam nhất thống chí mới hoàn thành.[3] Dưới đây ghi lại những thay đổi đơn vị hành chính của Lục tỉnh kể từ năm 1832, chép theo Đại Nam nhất thống chí, được cho là soạn từ năm 1864 đến 1875[4] Danh sách các huyện xếp theo năm thành lập.
Tỉnh Biên Hòa
Phủ |
Huyện |
Thay đổi hành chính |
Phước Long
(Dô Sa[1]) |
|
Thành lập năm 1808 với 4 huyện Bình An, Phước Chánh, Phước An và Long Thành. Năm 1837, tách 2 huyện Phước An và Long Thành để lập phủ Phước Tuy. Năm 1838 đặt thêm huyện Nghĩa An, năm 1839 đặt thêm huyện Phước Bình. |
|
Bình An |
Thành lập năm 1808, thuộc phủ Phước Long. Gồm 5 tổng, 56 xã thôn ấp, 2 bang người Hoa. |
|
Phước Chánh |
Thành lập năm 1808, thuộc phủ Phước Long. Năm 1837, tách Phước An và Long Thành để lập phủ Phước Tuy, đồng thời đặt thêm huyện Nghĩa An, đến năm 1838 đặt thêm huyện Phước Bình. Gồm 5 tổng, 89 xã thôn phường và 2 bang người Hoa. |
|
Ngãi An |
Thành lập năm 1837, thuộc phủ Phước Long. Gồm 5 tổng, 51 xã thôn phường. |
|
Phước Bình |
Thành lập năm 1838, thuộc phủ Phước Long. Gồm 5 tổng, 60 xã thôn phường. |
Phước Tuy
(Mô Xoài[1]) |
|
Thành lập năm 1837 với 3 huyện Phước An, Long Thành và Long Khánh. |
|
Long Thành |
Thành lập năm 1808, thuộc phủ Phước Long. Năm 1837 chuyển thuộc phủ Phước Tuy. Gồm 4 tổng, 61 xã thôn. |
|
Phước An |
Thành lập năm 1808, thuộc phủ Phước Long. Năm 1837 chuyển thuộc phủ Phước Tuy. Gồm 4 tổng, 42 xã thôn phường ấp. |
|
Long Khánh |
Thành lập năm 1837, thuộc phủ Phước Tuy. Gồm 6 tổng, 47 xã thôn. |
Tỉnh Gia Định
Phủ |
Huyện |
Thay đổi hành chính |
Tân Bình
(Sài Gòn[1]) |
|
Thành lập năm 1808 với 4 huyện Bình Dương, Tân Long, Thuận An và Phước Lộc. Năm 1832, tách 2 huyện Thuận An và Phước Lộc để lập phủ Tân An. Năm 1841 đặt thêm huyện Bình Long. |
|
Bình Dương |
Thành lập năm 1808, thuộc phủ Tân Bình. Năm 1841, tách một phần để lập huyện Bình Long. Gồm 6 tổng, 105 xã thôn phường ấp. |
|
Tân Long
(Chợ Lớn[1]) |
Thành lập năm 1808, thuộc phủ Tân Bình. Gồm 6 tổng, 109 xã thôn phường ấp. |
|
Bình Long
(Hóc Môn[1]) |
Thành lập năm 1841, thuộc phủ Tân Bình. Gồm 4 tổng, 74 xã thôn. |
Tân An
(Vũng Gù[1]) |
|
Thành lập năm 1832 với 2 huyện Thuận An (sau đổi thành Cửu An) và Phước Lộc. Năm 1851, nhập thêm 2 huyện Tân Hòa và Tân Thạnh. |
|
Cửu An |
Nguyên là huyện Thuận An, thành lập năm 1808, thuộc phủ Tân Bình. Năm 1832 chuyển thuộc phủ Tân An, năm 1837 đổi thành Cửu An. Gồm 4 tổng, 53 thôn. |
|
Phước Lộc
(Cần Giuộc[1]) |
Thành lập năm 1808, thuộc phủ Tân Bình. Năm 1832 chuyển thuộc phủ Tân An và tách một phần để thành lập huyện Tân Hòa. Gồm 6 tổng, 94 xã thôn phường ấp. |
|
Tân Hòa
(Gò Công[1]) |
Thành lập năm 1832, thuộc phủ Kiến An, tỉnh Định Tường. Năm 1841, tách một phần để lập huyện Tân Thạnh, chuyển thuộc phủ Hòa Thạnh, tỉnh Gia Định. Năm 1851, phủ Hòa Thạnh bị bãi bỏ, huyện chuyển thuộc phủ Tân An. Gồm 4 tổng, 35 xã thôn phường. |
|
Tân Thạnh
(Kỳ Son[1]) |
Thành lập năm 1841, thuộc phủ Hòa Thạnh. Năm 1851, phủ Hòa Thạnh bị bãi bỏ, huyện chuyển thuộc phủ Tân An. Gồm 4 tổng, 32 xã thôn phường. |
Tây Ninh |
|
Thành lập năm 1838 với 2 huyện Tân Ninh và Quang Hóa. |
|
Tân Ninh
(Tây Ninh[1]) |
Nguyên là huyện Tây Ninh, thành lập năm 1836, thuộc đạo Quang Phong. Năm 1838, đổi tên thành huyện Tân Ninh, thuộc phủ Tây Ninh. Gồm 2 tổng, 24 xã thôn. |
|
Quang Hóa
(Trảng Bàng[1]) |
Thành lập năm 1836, thuộc đạo Quang Phong. Năm 1838 thuộc phủ Tây Ninh. Gồm 4 tổng, 32 xã thôn. |
Hòa Thạnh |
|
Thành lập năm 1841 với 2 huyện Tân Hòa và Tân Thạnh. Năm 1851, phủ bị bãi bỏ, 2 huyện trực thuộc chuyển thuộc phủ Tân An. |
Tỉnh Định Tường
Phủ |
Huyện |
Thay đổi hành chính |
Kiến An
(chợ Cai Tài[1]) |
|
Thành lập năm 1808 với 3 huyện Kiến Hưng, Kiến Hòa và Kiến Đăng. Năm 1832, đặt thêm huyện Tân Hòa. Năm 1838, tách huyện Kiến Đăng để lập phủ Kiến Tường. Năm 1841, huyện Tân Hòa chuyển thuộc về tỉnh Gia Định. |
|
Kiến Hưng |
Thành lập năm 1808, thuộc phủ Kiến An. Gồm 5 tổng, 75 thôn. |
|
Kiến Hòa |
Thành lập năm 1808, thuộc phủ Kiến An. Năm 1831, tách một phần để thành lập huyện Tân Hòa. Gồm 5 tổng, 82 thôn. |
Kiến Tường
(Cao Lãnh[1]) |
|
Thành lập năm 1838 với 2 huyện Kiến Đăng và Kiến Phong. |
|
Kiến Đăng |
Thành lập năm 1808, thuộc phủ Kiến An. Năm 1838, chuyển thuộc phủ Kiến Tường, tách một phần để thành lập huyện Kiến Phong. Gồm 5 tổng, 51 thôn. |
|
Kiến Phong |
Thành lập năm 1838, thuộc phủ Kiến Tường. Gồm 4 tổng, 36 thôn. |
Tỉnh Vĩnh Long
Phủ |
Huyện |
Thay đổi hành chính |
Định Viễn
(Vĩnh Long[1]) |
|
Thành lập năm 1808 với 3 huyện Vĩnh Bình, Vĩnh An và Tân An. Năm 1813, đặt thêm huyện Vĩnh Định. Năm 1823, tách huyện Tân An để lập phủ Hoằng An. Năm 1832, tách 2 huyện Vĩnh Định và Vĩnh An chuyển thuộc về tỉnh An Giang, đồng thời đặt thêm huyện Vĩnh Trị. |
|
Vĩnh Bình |
Thành lập năm 1808, thuộc phủ Định Viễn. Năm 1832, tách một phần để lập huyện Vĩnh Trị. Gồm 8 tổng, 75 xã thôn. |
|
Vĩnh Trị |
Thành lập năm 1832, thuộc phủ Định Viễn. Năm 1835, tách một phần về các huyện Tuân Nghĩa và Trà Vinh của phủ Lạc Hóa. Gồm 6 tổng, 43 xã thôn. |
Hoằng An |
|
Thành lập năm 1823 với 2 huyện Tân Minh và Bảo An. Năm 1837, đặt thêm huyện Duy Minh, đồng thời tách huyện Bảo An để lập phủ Hoằng Đạo. Năm 1851, phủ bị bãi bỏ, các huyện trực thuộc chuyển thuộc về phủ Hoằng Trị. |
Lạc Hóa
(Chà Văng hay Chà Vinh[1]) |
|
Thành lập năm 1825 với 2 huyện Tuân Nghĩa và Trà Vinh. |
|
Trà Vinh |
Thành lập năm 1825, thuộc phủ Lạc Hóa. Gồm 6 tổng, 70 xã thôn. |
|
Tuân Nghĩa |
Thành lập năm 1825, thuộc phủ Lạc Hóa. Gồm 5 tổng, 76 xã thôn bang. |
Hoằng Trị
(Bến Tre[1]) |
|
Nguyên là phủ Hoằng Đạo, thành lập năm 1837, với 2 huyện Bảo Hựu và Bảo An. Năm 1844, đổi tên thành phủ Hoằng Trị. Năm 1851, nhập thêm 2 huyện Tân Minh và Duy Minh của phủ Hoằng An cũ. |
|
Bảo An |
Thành lập năm 1808, thuộc phủ Định Viễn. Năm 1823, chuyển thuộc phủ Hoằng An. Năm 1837, huyện chuyển thuộc phủ Hoằng Đạo (sau đổi thành phủ Hoằng Trị), đồng thời tách một phần để lập huyện Bảo Hựu. Gồm 5 tổng, 27 xã thôn bang. |
|
Tân Minh |
Thành lập năm 1823, thuộc phủ Hoằng An. Năm 1837, tách một phần để lập huyện Duy Minh. Năm 1851, phủ Hoằng An bị bãi bỏ, huyện chuyển thuộc phủ Hoằng Trị. Gồm 6 tổng, 41 xã thôn bang. |
|
Bảo Hựu |
Thành lập năm 1837, thuộc phủ Hoằng Đạo (sau đổi thành phủ Hoằng Trị). Gồm 6 tổng, 42 xã thôn bang. |
|
Duy Minh |
Thành lập năm 1837, thuộc phủ Hoằng An. Năm 1851, phủ Hoằng An bị bãi bỏ, huyện chuyển thuộc phủ Hoằng Trị. Gồm 5 tổng, 34 xã thôn. |
Tỉnh An Giang
Phủ |
Huyện |
Thay đổi hành chính |
Tuy Biên |
|
Thành lập năm 1832 với 2 huyện Đông Xuyên và Tây Xuyên. Năm 1839, đổi huyện Đông Xuyên thuộc phủ Tân Thành và đặt thêm huyện Phong Phú, đồng thời tách một phần để lập 2 huyện Hà Âm và Hà Dương thuộc phủ Tĩnh Biên, tỉnh Hà Tiên. Năm 1849, nhập thêm 2 huyện Hà Âm và Hà Dương từ phủ Tĩnh Biên cũ. |
|
Tây Xuyên |
Thành lập năm 1832, thuộc phủ Tuy Biên. Năm 1839, nhập thêm một phần của huyện Ngọc Luật, đồng thời tách một phần để lập 2 huyện Hà Âm và Hà Dương. Gồm 3 tổng, 38 xã thôn bang phố. |
|
Hà Âm
(Giang Thành[1]) |
Thành lập năm 1839, thuộc phủ Tĩnh Biên, tỉnh Hà Tiên. Năm 1842, chuyển thuộc phủ An Biên, tỉnh Hà Tiên, đến năm 1844 lại chuyển về phủ Tĩnh Biên, bấy giờ thuộc tỉnh An Giang. Năm 1848, cắt một phần (Chân Sum) trả về cho Cao Miên. Năm 1849, phủ Tĩnh Biên bị bãi bỏ, huyện chuyển thuộc về phủ Tuy Biên. Gồm 2 tổng, 40 xã thôn. |
|
Hà Dương
(Linh Quỳnh[1]) |
Thành lập năm 1839, thuộc phủ Tĩnh Biên, tỉnh Hà Tiên. Năm 1842, phủ Tĩnh Biên chuyển thuộc tỉnh An Giang. Năm 1849, phủ Tĩnh Biên bị bãi bỏ, huyện chuyển thuộc về phủ Tuy Biên. Gồm 4 tổng, 40 xã thôn phường phố. |
|
Phong Phú |
Thành lập năm 1839, thuộc phủ Tuy Biên. Gồm 3 tổng, 31 xã thôn. |
Tân Thành |
|
Thành lập năm 1832 với 2 huyện Vĩnh An và Vĩnh Định. Năm 1839, đổi huyện Vĩnh Định thuộc phủ Ba Xuyên và đặt thêm huyện An Xuyên, nhập thêm huyện Đông Xuyên từ phủ Tuy Biên. |
|
Vĩnh An |
Thành lập năm 1808, thuộc phủ Định Viễn, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1832, chuyển thuộc phủ Tân Thành. Năm 1839, tách một phần để lập huyện An Xuyên. Gồm 4 tổng, 36 xã thôn bang phố. |
|
Đông Xuyên |
Thành lập năm 1832, thuộc phủ Tuy Biên. Năm 1839, chuyển thuộc phủ Tân Thành. Gồm 4 tổng, 33 xã thôn. |
|
An Xuyên |
Thành lập năm 1839, thuộc phủ Tân Thành. Gồm 3 tổng, 25 xã thôn. |
Ba Xuyên |
|
Thành lập năm 1835, với 2 huyện Phong Thạnh và Phong Nhiêu. Năm 1839, nhập thêm huyện Vĩnh Định từ phủ Tân Thành. |
|
Vĩnh Định |
Thành lập năm 1808, thuộc phủ Định Viễn, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1832, chuyển thuộc phủ Tân Thành. Năm 1839, chuyển thuộc phủ Ba Xuyên, đồng thời tách một phần để chia về 2 huyện Phong Thạnh và Phong Nhiêu. Gồm 4 tổng, 19 xã thôn bang. |
|
Phong Nhiêu |
Thành lập năm 1839, thuộc phủ Ba Xuyên. Gồm 3 tổng, 17 xã thôn. |
|
Phong Thạnh |
Thành lập năm 1839, thuộc phủ Ba Xuyên. Gồm 3 tổng, 47 xã thôn bang. |
Tỉnh Hà Tiên
Phủ |
Huyện |
Thay đổi hành chính |
An Biên |
|
Thành lập năm 1825 với 3 huyện Long Xuyên, Kiên Giang và Hà Tiên. Năm 1832, đổi tên thành phủ Quan Biên, đổi huyện Hà Tiên thành Hà Châu. Năm 1834 đổi lại thành phủ An Biên. Năm 1842, nhập thêm huyện Hà Âm từ phủ Tĩnh Biên, đến năm 1844 thì chuyển về lại phủ Tĩnh Biên. |
|
Kiên Giang |
Thành lập năm 1808, thuộc đạo Kiên Giang, năm 1825 chuyển thuộc phủ An Biên. Gồm 4 tổng, 66 xã thôn bang phố. |
|
Long Xuyên |
Thành lập năm 1808, thuộc đạo Long Xuyên, năm 1825 chuyển thuộc phủ An Biên. Gồm 2 tổng, 55 xã thôn bang phố. |
|
Hà Châu |
Nguyên là huyện Hà Tiên, thành lập năm 1825, thuộc phủ An Biên. Năm 1832, đổi tên thành huyện Hà Châu. Năm 1834, tách một phần để thành lập phủ Khai Biên (Vũng Thơm) và Quảng Biên (Cần Bột). Gồm 5 tổng, 63 xã thôn bang phố. |
Khai Biên |
|
Thành lập năm 1834 trên phần đất Vũng Thơm của huyện Hà Châu, nhưng chưa lập huyện. Đến năm 1837 bị hạ xuống thành huyện Khai Biên, tách một phần để lập huyện Kim Trường (sau đổi thành Vĩnh Trường), chuyển thuộc phủ Quảng Biên. |
Quảng Biên |
|
Thành lập năm 1834 trên phần đất Cần Bột của huyện Hà Châu, nhưng chưa lập huyện. Đến năm 1837 lập huyện Kim Trường (sau đổi thành Vĩnh Trường), nhập thêm huyện Khai Biên. Đến thời Thiệu Trị thì bãi bỏ phủ Quảng Biên, cắt đất trả lại cho Cao Miên. |
Tĩnh Biên |
|
Thành lập năm 1839 với 2 huyện Hà Âm và Hà Dương. Năm 1842, huyện Hà Âm chuyển thuộc phủ An Biên, đồng thời phủ Tĩnh Biên chuyển thuộc tỉnh An Giang. Năm 1844 nhập lại huyện Hà Âm. Năm 1848, cắt một phần trả về cho Cao Miên. Năm 1849, phủ Tĩnh Biên bị bãi bỏ, huyện chuyển thuộc về phủ Tuy Biên. |
Người Pháp xóa bỏ Lục tỉnh
Nam Kỳ thuộc Pháp (Basse Cochinchine Francaise) khoảng năm 1881, nhưng vẽ theo hành chính của Nam Kỳ Lục tỉnh nhà Nguyễn (Basse CochinChine) trước năm 1861. Vùng bờ bắc kênh Vĩnh Tế (thuộc các huyện Hà Âm, Tây Xuyên tỉnh An Giang, huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên cũ) và vùng lồi Svay Rieng (trước là vùng rừng Quang Hóa phủ Tây Ninh tỉnh Gia Định, mà Pháp chưa chiếm được vào thời điểm năm 1861-1863) đều bị cắt chuyển sang lãnh thổ vương quốc Campuchia thuộc Pháp.
Từ lúc kiểm soát được tỉnh Gia Định (1862) cho đến khi chiếm được toàn bộ Nam Kỳ (1867), thực dân Pháp vẫn tạm thời duy trì cách phân chia địa giới hành chánh cũ của triều Nguyễn một thời gian. Thời gian này, người Pháp gọi département thay cho phủ, gọi arrondissement thay cho huyện[5] ở những vùng họ chiếm được. Tuy nhiên, do tình trạng thiếu hụt nhân sự, người Pháp không duy trì bộ máy hành chính ở cấp tỉnh và cấp phủ, mà cố duy trình bộ máy hành chính cũ ở cấp huyện, với sự hợp tác của các quan lại cũ đã đầu hàng, dưới sự giám sát của các Thanh tra bản xứ vụ (inspecteur des affaires indigènes) người Pháp. Mỗi thanh tra phải kiêm quản việc giám sát của nhiều huyện hợp lại thành địa bàn của hạt thanh tra (inspection). Toàn cõi Nam Kỳ bấy giờ có 27 hạt thanh tra như thế.
Năm 1867, chính quyền thực dân Pháp cho đổi các địa danh tỉnh và hạt thanh tra theo địa danh đặt lỵ sở tỉnh hoặc hạt thanh tra đó. Các tên gọi mới này chính là tục danh bằng tên Nôm của các thôn xã nơi đặt lỵ sở hạt thanh tra vốn trước đây vào thời nhà Nguyễn độc lập lại không được dùng chính thức trong các văn bản hành chính. Như vậy, cũng kể từ đây, chính quyền thực dân Pháp đã dần dần chính thức hóa các tên gọi địa danh bằng tiếng Nôm này bằng những văn bản hành chính. Mặc dù vẫn duy trì tên gọi của các tỉnh tương tự như thời Nguyễn, nhưng tên tỉnh không còn bất kỳ một ý nghĩa hành chính đặc biệt nào.[6]
Theo Nghị định ngày 7 tháng 6 năm 1871, tổ chức hành chính của Nam Kỳ được thay đổi. Chế độ thanh tra bản xứ vụ và đơn vị hành chính cấp huyện bị bãi bỏ. Các hạt thanh tra được đổi thành hạt tham biện (nhưng lấy tên arrondissement) và thu gọn còn còn 18 hạt. Đứng đầu hạt tham biện là Chánh tham biện (administrateur) [7], với sự giúp việc của 2 hai Phó tham biện và thư ký địa hạt (secrétaire d’arrondissement), còn gọi là Bang biện. Nơi đặt dinh hành chánh của hạt gọi là Tòa tham biện, dân gian quen gọi là Tòa bố. Mọi hoạt động hành chính của các địa hạt đều đặt trực tiếp dưới quyền Thống đốc Nam Kỳ, với trị sở đóng ở Sài Gòn.
Năm 1876, người Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn, gọi là các phân khu hành chính (circonscription administrative), mỗi khu vực lại được chia nhỏ thành các “hạt” hay “tiểu khu” (arrondissement) như sau:
- Khu vực Sài Gòn có 5 tiểu khu: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa và Sài Gòn
- Khu vực Mỹ Tho có 4 tiểu khu: Mỹ Tho, Gò Công, Tân An và Chợ Lớn
- Khu vực Vĩnh Long có 4 tiểu khu: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh và Sa Đéc
- Khu vực Bát Xắc có 6 tiểu khu: Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Cần Thơ và Sóc Trăng.
Số địa hạt tăng lên 19 hạt. Mỗi hạt tổ chức thêm Hội đồng Quản hạt (Conseil d’arrondissement) với các thành viên được bầu vào là người Việt, là cơ quan tư vấn cho Tòa tham biện.
Bản đồ Nam Kỳ thuộc Pháp năm 1884, khu vực nằm giữa đường biên giới với Campuchia (Frontière Franco-Cambodgienne) và với đường biên giới với An Nam (Frontière Franco-Annamite). Vùng lồi Svay Rieng (trong bản đồ ghi chú là K.Svai Teep vẫn nằm trong ranh giới Nam Kỳ thuộc Pháp (ở phía đông đường Frontière Franco-Cambodgienne) mà chưa được cắt cho Campuchia.
Số địa hạt vẫn liên tục biến đổi. Năm 1880, hạt Hai Mươi (20e arrondissement) được thành lập nhưng sang năm sau bị bãi bỏ. Năm 1882, hạt Bạc Liêu được thành lập. Số địa hạt tăng lên thành 20.
Nghị định ngày 16 tháng 1 năm 1899, đổi tên hạt thành tỉnh (province), và từ ngày 1 tháng 1 năm 1900, toàn cõi Nam Kỳ chia thành 20 tỉnh như sau:
- Tỉnh Gia Định (cũ) chia thành năm tỉnh: Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Tây Ninh, Gò Công.
- Tỉnh Biên Hòa (cũ) chia thành ba tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một.
- Tỉnh Định Tường (cũ) đổi thành Mỹ Tho.
- Tỉnh Vĩnh Long (cũ) chia thành ba tỉnh: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh.
- Tỉnh An Giang (cũ) chia thành năm tỉnh: Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Sóc Trăng, Cần Thơ.
- Tỉnh Hà Tiên (cũ) chia thành ba tỉnh: Hà Tiên, Rạch Giá, Bạc Liêu.
Ngoài ra còn có 3 thành phố độc lập là Sài Gòn, Chợ Lớn và Cap Saint Jacques không thuộc hạt nào.
Danh xưng người đứng đầu cũng thay đổi, từ Chánh tham biện đổi thành Chủ tỉnh (chef de la province)[7], Tòa tham biện gọi là Tòa bố.
Đến đầu thập niên 1900, thực dân Pháp phân chia hành chính tỉnh thành các quận (circonscription) hoặc đại lý hành chánh (délégation) dưới quyền chủ quận hay phái viên hành chánh; quận chia ra tổng (canton), đứng đầu là cai tổng (chef de canton). Tổng chia thành xã.[8] Hệ thống hành chính cũ của nhà Nguyễn bị xoá bỏ hoàn toàn trên cõi Nam Kỳ.
Dấu ấn trong văn hóa
Bản đồ Nam Kỳ năm 1872 (thuộc thời Pháp thuộc), nhưng vẫn thể hiện theo hành chính Nam Kỳ Lục Tỉnh của thời kỳ nhà Nguyễn độc lập (1832-1862).
Chia lại đất Nam Kỳ thành 21 tỉnh,[9] có lẽ thực dân Pháp muốn xóa nhòa hai chữ Lục tỉnh trong lòng người Việt, cũng là cách cắt đứt lòng lưu luyến với truyền thống, một thủ đoạn tâm lý bên cạnh các cuộc đàn áp những phong trào yêu nước kháng chiến. Nhưng dân Nam Kỳ vẫn hoài vọng Lục tỉnh. Nên mãi đến năm Mậu Thân (1908) trên tờ báo Lục Tỉnh Tân Văn do ông Gilbert Trần Chánh Chiếu làm chủ bút, vẫn xuất hiện thường xuyên tên Lục Tỉnh, Lục Châu. Mãi đến thập niên 50 và 60, ở miền Nam cũng còn nói, nhắc đến hai chữ Lục tỉnh xa xưa này. Thực dân Pháp bỏ tên Lục tỉnh nhưng còn giữ lại hai chữ Nam Kỳ, gọi là Cochinchine, phân biệt với Bắc Kỳ là Tonkin, Trung Kỳ là Annam. Người Anh, Mỹ cũng gọi Nam Kỳ là Cochinchina. Giới học giả trong và ngoài nước từng đưa ra nhiều cách lý giải khác nhau về xuất xứ tên gọi Cochinchine, nhưng vẫn chưa ngã ngũ.[10]
Bản đồ
-
Bản đồ Nam Kỳ Lục Tỉnh (Basse Cochinchine).
-
Bản đồ hành chính Nam Kỳ Lục tỉnh (Basse Cochinchine) năm 1863.
-
Bản đồ các tỉnh miền đông Nam Kỳ Lục Tỉnh vào năm 1858 trước khi Pháp đánh chiếm Gia Định (Sài Gòn) và Định Tường (Mỹ Tho).
-
-
Ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ năm 1865, thời Pháp xâm chiếm miền Đông.
-
Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1891), trước khi Liên bang Đông Dương được thành lập.
-
Bản đồ hành chính Nam Kỳ thuộc Pháp (Cochinchine Francaise).
-
Bản đồ Đông Nam Á năm 1609, nước Đại Việt được người phương Tây gọi là Cochinchina (tức là Cochin gần Trung Quốc) để phân biệt với địa danh Cochin nằm ở bờ tây nam Ấn Độ.
Đọc thêm
Chú thích
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ Petit cours de Géographie de la Basse-Cochinchine / P.-J.-B. Trương Vĩnh Ký (1875).
- ^ Đại Nam Nhất Thống Chí. Tập V. Phạm Trọng Điềm dịch. Đào Duy Anh hiệu đính (Nxb Thuận Hóa, 1992, trang 122, 133, 200, 201). Tuy nhiên, sử Nguyễn là Quốc triều sử toát yếu (tr. 205) và Nguyễn Đình Đầu (“Địa lý lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh”, trong Đại chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (tập 1). Nxb TP. HCM, 1987, tr. 209) đều cho rằng: “Tháng 5 (âm lịch) năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi khởi binh chiếm thành Phiên An. Tháng 8 (âm lịch) năm đó, vua Minh Mạng cho đổi tỉnh Phiên An thành tỉnh Gia Định”.
- ^ Năm khởi soạn ghi theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 1, tr. 718). Lời giới thiệu (sách đã dẫn, tr. 604) ghi là Giáp Tý (1864).
- ^ Viện Sử học, Đại Nam nhất thống chí, NXB Thuận Hóa, 2006. Tập I, Tr. 10.
- ^ Bulletin de la Société des Études Indochinoises (Nouvelle série, Tome XX). Sài Gòn: 1945, p. 16.
- ^ Annuaire de la Cochinchine Française, năm 1871, tr. 126
- ^ a ă Sơn Nam, Miền Nam Đầu Thế Kỷ XX: Thiên Địa Hội Và Cuộc Minh Tân. 1971, tr. 99.
- ^ Theo Bulletin de la Société des Études Indochinoises (Nouvelle série, Tome XX). Sài Gòn: 1945, p. 16-35; và theo Nguyễn Đình Đầu, “Địa Bàn Thành Phố Qua Các Thời Kỳ”, in trong Địa Chí Văn Hóa Tp.HCM. Nxb Tp.HCM, 1988, tr. 485-486. Theo Đào Văn Hội, Lịch Trình Hành Chánh Nam Phần. Sài Gòn: 1961, Chương IV, tham biện là inspection; viên chức trông coi inspection gọi là inspecteur. Về tên tham biện (administrateur), xem Paulus Hùynh Tịnh Của, Sách Quan Chế. Sài Gòn: Bản in Nhà nước, 1888, tr. 15.
- ^ Sau này, ngày 11 tháng 5 năm 1944, Pháp lập tỉnh thứ 22 là Tân Bình, gồm một phần tỉnh Gia Định và Chợ Lớn nhập lại.
- ^ Để tham khảo, sau đây là cách giải thích của Nguyễn Đình Đầu (“Thay lời giới thiệu”, in trong: Pierre Pegneaux de Béhaine Bá Đa Lộc Bỉ Nhu, Tự Vị An Nam La Tinh. Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu. Nxb Trẻ, 1999, tr: 5-6.): “Chúng ta có thể tóm tắt: địa danh COCINCINA chia ra làm hai phần COCIN và CINA. Cocin nguyên trước là Co Ci, do phiên âm hai tiếng Giao Chỉ mà thành (vì thế Tự Vị An Nam La Tinh mới dịch Người Giao Chỉ là Cocincinenses). Còn Cina thì bởi âm Sin hay Ts’inn và người mình đọc là Tần mà ra. Bên Ấn Độ có một thành phố tên COCHIN, sợ lẫn với Cochi hay Cochin, nên phải ghi rõ “Giao Chỉ (gần) Tần” và chữ Latinh ghi thành COCINCINA (mà người Nhật hay Trung Hoa ghi ra Giao Chỉ Chi Na). Trên các bản đồ Tây phương vẽ Đông Nam Á, từ trước cho tới thế kỷ 17, đều ghi trên địa phận nước ta tên COCINCINA, CAUCHINCHINA, COCHINCHINA, COCHIN-CHINE hoặc dạng tự nào đại khái như thế để nói lên đó là xứ GIAO CHỈ GẦN NƯỚC TẦN. Do đó, ta có thể đoán địa danh ấy đã xuất hiện từ khi nước ta gọi là quận Giao Chỉ bị nhà Tần đô hộ. “Từ đầu thế kỷ 17, hai họ Trịnh–Nguyễn tranh giành quyền lực, phân chia nước ta thành hai vùng cai trị Đàng Trong và Đàng Ngoài, lấy sông Gianh làm ranh giới phân ly. Trên bản đồ cũng như trong văn kiện, người Tây phương gọi Đàng Ngoài là TUNQUYN (hoặc nhiều dạng tương tự như TUMQUYN, TUNKIN, TONGKING, TONKIN…) tức lấy tên thủ đô ĐÔNG KINH để gọi bao quát cả Đàng Ngoài. Còn Đàng Trong thì họ vẫn dùng tên cũ COCINCINA mà gọi. Đàng Trong dưới thời Đắc Lộ (Từ Điển Việt-Bồ-La) rộng từ sông Gianh tới núi Đá Bia ở dinh Phú Yên. Trên một thế kỷ sau – thời của Bỉ Nhu với Tự Vị An Nam La Tinh –, địa danh COCINCINA lại chỉ thêm phần đất phương nam rất rộng lớn. Phần Nam Bộ xưa được mệnh danh là xứ Đồng Nai. Năm 1698, xứ Đồng Nai được thiết lập phủ huyện. Phủ GIA ĐỊNH tồn tại suốt từ đó đến năm 1800 và bao gồm toàn thể đất Nam Bộ. (…) Lại từ sau 1885, khi Pháp đã chiếm hết Việt Nam, Pháp chia cắt nước ta thành ba khúc và mệnh danh: TONKIN là BẮC KỲ ANNAM là TRUNG KỲ COCHINCHINE là NAM KỲ “Cả ba địa danh Đông Kinh, An Nam, Giao Chỉ (gần) Tần đã bị Tây ngữ hóa và đặt tên cho những phần đất chẳng ăn nhằm gì với ý nghĩa của nguyên ngữ.”
Tham khảo
Thể loại:
Chiến tranh Việt–Xiêm (1841-1845)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiến tranh Việt- Xiêm (1841-1845) là cuộc chiến giữa nước Xiêm La dưới thời Rama III và Đại Nam thời Thiệu Trị, diễn ra trên lãnh thổ Campuchia (vùng phía Đông Nam Biển Hồ) và Nam Kỳ (Nam Bộ Việt Nam). Cuộc chiến được chia làm 2 phần chính diễn ra chủ yếu vào các năm 1842 và 1845.
Phần đầu cuộc chiến xảy ra năm Nhâm Dần (1842) bao gồm nhiều trận lớn nhỏ, phần lớn đã xảy ra ở Kiên Giang và An Giang thuộc miền Nam Việt Nam. Theo Bản Triều Bạn Nghịch Liệt Truyện thì đây là cuộc chiến tranh giữ nước quan trọng của người Việt, phải huy động đến năm ngàn quân và súng lớn do những tướng giỏi chỉ huy.[2]
Nguyên nhân
Theo sử gia Phạm Văn Sơn thì:
- Sau chiến thắng năm Giáp Ngọ (1834), uy danh của chính quyền Việt Nam được nổi hơn bao giờ hết, các nước chư hầu càng thêm kính phục. Quốc vương Xiêm La phải cử một sứ bộ qua Huế xin giảng hòa… Mọi việc đáng lẽ tốt đẹp và êm ả, thì trái lại đám quan lại [3] Việt Nam sang Trấn Tây thành (Nam Vang) đã có nhiều hành động lạm quyền, lạm thế và những nhiễu dân. Chẳng bao lâu, họ bắt cả Ngọc Vân công chúa về Gia Định, đem Trà Long (Chakrey Long) và La Kiên đày ra Bắc Việt. Miệt thị hoàng gia, loại trừ cấp lãnh đạo bản địa, trong lúc kẻ thù (Xiêm La) đang rình cạnh nách. Việc này quá tàn bạo, thất nhân tâm, lại lỗi lầm về phương tiện chiến lược và đã đưa đến một hậu quả vô cùng tai hại: Dân Chân Lạp không chịu được sự sĩ nhục liền vùng vậy chống lại chính sách Việt hóa Chân Lạp mà bấy lâu họ đã căm giận. Em Nặc Ông Chân là Nặc Ông Đôn phất cờ khởi nghĩa, người Xiêm tất nhiên chỉ chờ cơ hội này để lợi dụng tình thế. Quan quân của ta phải đánh dẹp liên miên…[4]
Sách Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu kể chi tiết: Vào năm Minh Mạng thứ 16 (1836), nhà vua đã nghe chuẩn tấu của Trương Minh Giảng, lập đất Cao Miên thành quận huyện của Đại Nam, đặt tên là thành Trấn Tây. Năm Minh Mạng 19 (1839) Nặc Ong Yêm (Ang Im, em của Ang Chan II và Ang Duong) đem 9000 dân khmer cùng 70 chiếc thuyền từ Battambang (vùng Thái Lan chiếm đóng) về Trấn Tây (vùng Việt Nam cai quản), định xin triều đình nhà Nguyễn cho được làm vua kế vị Ang Chan II, đã mất mà không có con trai nối ngôi. Trương Minh Giảng muốn giết đi, nhưng Minh Mạng chỉ cho phép bắt Ang Im về Gia Định xét hỏi rồi đưa ra Huế giam. Đến năm Minh Mạng thứ 21 (1841), Trà Long (Chakrey Long), Nhân Vu (Yumreach Hu) và La Kiên đến Huế mừng thọ, thì Minh Mạng lại kể tội và đày ra Hà Nội. Rồi tham tán Trấn Tây là Dưỡng Văn Phong khép cho Ngọc Biện, em gái Ngọc Vân, tội mưu phản trốn sang Xiêm phải xử tử. Trương Minh Giảng đưa Ngọc Vân, Ngọc Thu và Ngọc Nguyên, các con gái Ang Chan II về Gia Định an trí. Nên người Cao Miên thất vọng oán ghét quân Nam.
Trước khi giao chiến
Bản đồ BasseCochinchine (Nam Kỳ Lục tỉnh) và Cambodia (Campuchia) (Địa bàn diễn ra cuộc chiến) trong giai đoạn 1841-1889 (giai đoạn trong và sau cuộc chiến). Cho đến khi Pháp chiếm xong và bảo hộ cả hai xứ Nam Kỳ và Cao Miên, tiến hành hoạch định lại biên giới giữa hai xứ thuộc địa này năm 1889.
Năm 1840, mấy vạn quân Xiêm kéo vào đóng ở U Đông (Oudong)[5], vua Minh Mạng sai tướng Phạm văn Điển và Nguyễn Tiến Lâm mang quân sang đối phó nhưng không kết quả.
Năm 1841, vua Minh Mạng mất, Thiệu Trị vừa lên thay. Thấy tình hình Chân Lạp bất ổn mãi, nên nhân có lời tâu của Tạ Quang Cự xin bỏ đất Chân Lạp, rút quân về giữ An Giang; vua Thiệu Trị liền nghe, truyền cho Trương Minh Giảng rút quân về, nhưng đến An Giang thì viên tướng này mất. Sách Việt Nam sử lược giải thích: Bởi vì việc kinh lý đất Chân Lạp là ở tay ông cả, nay vì có biến loạn, quan quân phải bỏ thành Trấn Tây mà về, ông nghĩ xấu hổ và buồn bực đến nỗi thành bệnh mà chết.[6]
Biết tướng Trương Minh Giảng rút quân về nước, quân Xiêm đưa Nặc Ông Đôn về Nam Vang lên ngôi vua và không bỏ lỡ cơ hội, Phi Nhã Chất Tri (còn gọi là tướng Bodin) dẫn quân sang đánh phục thù.
Diễn biến trận 1842 trên đất Việt Nam
Sách Việt Nam sử lược chép:
- Khi quân của Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn Công Trứ dẹp xong giặc Lâm Sâm ở Nam Kỳ, thì quân Tiêm La (Xiêm La) lại đem binh thuyền sang cùng với quân giặc để đánh phá. Vua bèn sai Lê Văn Đức làm tổng đốc đem binh tướng đi tiễu trừ. Sai Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhân giữ mặt Vĩnh Tế, Phạm Văn Điển và Nguyễn Văn Nhân giữ mặt Hậu Giang. Ba mặt cùng tiến binh lên đánh, quân Tiêm và quân giặc thua to, phải rút về giữ Trấn Tây (Nam Vang). Quan quân đuổi được quân Tiêm La ra ngoài bờ cõi rồi, đặt quân giữ các nơi hiểm yếu để đợi ngày tiến tiễu…[7]
Theo Bản Triều Bạn Nghịch Liệt Truyện của Giá Sơn Kiều Oánh Mậu soạn năm 1901, thì diễn biến của cuộc chiến năm 1842 đại để như sau:
- Tướng Phi Nhã Chất Tri đem quân Xiêm đến dựng đồn lũy ở bờ kênh Vĩnh Tế, rồi qua lại gây sự với những đồn bảo của quân Việt. Quan binh ra bèn chia ra nhiều cánh, đi tiểu trừ, giết và làm bị thương rất đông, chiếm lấy được một loạt bảy đồn ở bờ kênh Vĩnh Tế. Những gián điệp do Xiêm tổ chức ở núi Tượng và núi Cấm nghe tin, bèn chạy trốn. Quân Xiêm toan mở cuộc tấn công khác, nhưng trong nước Xiêm xảy ra việc bất ổn, nên tạm ngưng kế hoạch.
- Năm sau (1842), quân Xiêm đổ bộ lên Hà Tiên, ta chận giặc tại đồn Vĩnh Thông. Tình thế trở nên căng thẳng, quân Xiêm có thêm cánh quân theo sông Tiền, sông Hậu đổ xuống. Tướng Nguyễn Tri Phương lại tâu về triều đình, nhận định rằng mất sông Tiền là mất An Giang, Vĩnh Long, Định Tường, nên ta cần đem binh giữ và phòng bị cẩn mật những đồn Thông Bình (Tuyên Bình), Hùng Ngự (Hồng Ngự), Tân Châu, An Lạc. Chiến thuyền từ Huế, quân sĩ từ Quảng Nam, Quảng Ngãi được đưa gấp vào chiến trường chính.
- Tổng thống Lê Văn Đức đưa quân đến Bảy Núi (An Giang), hợp đồng với quân của quyền Tổng đốc An Hà là Phạm Văn Điển. Ông Điển đóng đồn phòng thủ ở hậu cứ núi Cấm, trong khi Lê Văn Đức và Lê Văn Phú kéo quân đến núi Tượng, thì quân Xiêm hoảng chạy.
- Lê Văn Đức lại kéo quân đến Xà Tón (Tri Tôn, An Giang), vừa gặp Tán lý Tôn Thất Tường tới, liền chia ra 5 đạo, mỗi đạo một ngàn quân, đem súng lớn phá tan đồn lũy quân Xiêm. Nguyễn Tiến Lâm, Nguyễn Tri Phương cùng nhau cũng tấn binh đến núi Cô Tô, đuổi được quân đối phương. Sau đó, Nguyễn Công Trứ lãnh trách nhiệm xây dựng, khuyến khích dân địa phương trở lại canh tác bình thường, nhưng kết quả không khả quan. Quân Xiêm cứ âm mưu trở lại, mặc dầu đã bị đánh đuổi ra khỏi biên giới…[2]
Tháng 2 âm năm Nhâm Dần (1842), quân Xiêm-Lạp chia nhau lập 18 đồn trại từ núi Lộc Giác đến quãng đường bộ ở Chu Nham, một mặt chặn Kim Dữ một mặt giữ Lô Khê, ngày đêm vây hãm tỉnh Hà Tiên. Quân Việt chia nhau phòng bị Hà Tiên: đề đốc Vĩnh Long Đoàn Văn Sách cùng án sát Hà Tiên Đinh Văn Huy đóng giữ pháo đài ở cửa biển Kim Dữ, còn các quan tỉnh Hà Tiên là tuần phủ Lương Văn Liễu, bố chính Trần Văn Thông, lãnh binh Mai Văn Tích, nguyên án sát Hoàng Mẫn Đạt chia nhau đánh giữ tỉnh thành Hà Tiên, đồn Chu Nham và các nơi xung yếu. Quân Xiêm-Lạp vỡ trận, thuyền tan từng mảng trên cửa biển Kim Dữ, tháo chạy về đêm tới vùng biển Quảng Biên. Quân Việt đuổi theo truy kích, thu được nhiều súng lớn, rồi thu quân về giữ các đảo ven bờ vịnh Thái Lan ở Hà Châu, Hà Tiên. Sau đó, Đoàn Văn Sách, Lương Văn Liễu báo tin thắng trận tới vua Thiệu Trị đang ở Hà Nội tuần thú Bắc Kỳ.[8]
Sau đó cũng trong tháng 2, ở mặt tỉnh An Giang, tuần phủ Nguyễn Công Trứ, đề đốc Nguyễn Công Nhàn tâu rằng: Tại dải sông Vĩnh Tế, bên hữu ngạn từ Vĩnh Thông đến Tiên Nông, bên tả ngạn từ Vĩnh Lạc đến Tĩnh Biên, hơn 20000 quân Xiêm Lạp đóng đồn trại liên tiếp, thừa dịp thì kéo sang phía Hậu Giang tiến đánh Đa Phúc, Cần Thăng, thậm chí tiến tới vây bức Tân Châu, An Lạc ở Tiền Giang. Quân Việt ở đây không đủ phòng giữ, liền xin triều đình thêm viện từ cánh quân Đoàn Văn Sách ở Hà Tiên. Vua không cho, thay vì thế cử Tôn Thất Nghị đem quân tiếp viện cho An Giang. Đến tháng 3 âm lịch, sau khi đánh dẹp xong mặt sông Hậu Giang, tổng đốc Phạm Văn Điển đem binh thuyền đến quân thứ Hà Âm (sông Vĩnh Tế) hội quân với Nguyễn Công Nhàn, Nguyễn Lương Nhàn ở mặt này. Lãnh binh Lương Nhàn vốn cùng Tôn Thất Nghị ở mặt Ba Xuyên tạm ổn đem quân về tăng viện cho Vĩnh Tế. Điển thấy một dải Hà Âm dọc kênh Vĩnh Tế từ suốt dọc trường lũy Vĩnh Điền đến Tiên Nông, đối phương lập 8 đồn gần các đồn Vĩnh Thông, Tiên Nông, Thôn Nhân (Thân Nhân), Vĩnh Lạc của quân nhà Nguyễn (quân Việt chỉ có 5000 quân chống giữ). Điển liền bố trí Đoàn Văn Mật (1000 quân) được Tôn Thất Nghị (500 quân) tiếp ứng đánh các đồn bên tả của địch. Nguyễn Lương Nhàn (600 quân) đánh phía hữu đối phương. Nguyễn Công Nhàn (1300 quân) đánh 3 đồn giữa, theo sau tiếp ứng là bản thân Điển (với 1600 quân). Với 5 sở (8 đồn), mỗi đồn quân Xiêm-Lạp có khoảng 2000 quân. Phía Mật và Nghị đánh tan quân Xiêm Lạp trước liền tiến tới hợp cùng đạo binh của Công Nhàn. Quân Xiêm-Lạp ở 13 trại trong rừng kéo ra tiếp viện. Điển sai Dương Hựu, Phạm Phúc Minh chặn đánh. Lương Nhàn kéo quân đánh úp phía sau. Quân Xiêm-Lạp thua chạy vào rừng (13 trại trong núi không đánh mà vỡ), quân đồn trú trong 8 đồn thì bị vây giáp. Điển và Công Nhàn phá tan quân Xiêm-Lạp ở Hà Âm và Hà Dương ven kênh Vĩnh Tế trong tháng 3 âm năm 1842. Tuy vậy, quân Xiêm Lạp vẫn còn chiếm giữ vùng Thất Sơn, Xà Tôn thuộc Hà Dương. Nhưng một loạt tướng sĩ quân nhà Nguyễn như Nguyễn Công Trứ, Phạm Văn Điển, Đinh Văn Huy sau đợt này đều ốm bệnh, riêng Điển và Huy mắc bệnh rồi mất vào tháng 4 âm lịch. Công Nhàn thay Điển làm tổng đốc An Hà, Lương Nhàn làm đề đốc An Giang, Tôn Thất Nghị làm lãnh binh An Giang.
Theo Lịch sử khẩn hoang miền Nam của nhà văn Sơn Nam:
Bản đồ Nam Kỳ với các địa danh giữa thế kỷ 19.
- Tháng Giêng năm 1842, chiến thuyền Xiêm đến vùng đảo Phú Quốc, tấn công để dò xét. Nguyễn Công Trứ, thử trổ tài, nhưng bị “sóng gió ngăn trở”. Bọn Hoàng Tôn (tự xưng là con của Hoàng tử Cảnh, lấy hiệu là Hoàng Tôn) đưa 5000 người đến Sách Sô[9], là vị trí quan trọng ở giữa sông Tiền và sông Hậu. Tướng Nguyễn Tri Phương liền đem binh thuyền bố trí sẵn.
- Tháng 2 năm 1942, quân Xiêm lại tăng cường hải quân, đến gần Cần Vọt (Quảng Biên, Kampot), rồi kéo tới Bạch Mã (Kép) với ý định chiếm Lư Khê (Rạch Vược, phía Nam Hà Tiên) và chiếm Tô Môn (cửa Đông Hồ, bên cạnh núi Tô Châu) để bao vây Hà Tiên. Xiêm kéo mấy vạn binh tràn vùng kênh Vĩnh Tế, quân Việt chống đỡ không kịp. Cánh quân chánh của Xiêm đánh từ bờ biển vịnh Xiêm La qua theo đường Hà Tiên, chớ không từ Nam Vang mà thọc xuống theo sông Tiền như mấy lần trước.
- Trước nguy cơ ấy, vua Thiệu Trị cho quân lực từ Huế kéo vào tăng cường, cùng với lính thú từ Quảng Nam, Quảng Ngãi. Đợt tấn công đầu tiên của quân Xiêm bị chận lại, ở khắp các mặt trận Vĩnh Tế, sông Tiền và sông Hậu. Nhưng quân Xiêm chưa rút lui, cho củng cố thành lũy, chiếm trọn vùng núi Cô Tô.
- Tháng 5 năm ấy, quân Việt kéo vào chiếm lại khu Cô Tô. Đoàn binh gồm năm đạo, mỗi đạo 1000 quân, đem súng lớn đặt tại Tri Tôn (Xà Tón) mà bắn phá đồn lũy đối phương. Nguyễn Tri Phương đem đại binh đến núi Cô Tô, quân Xiêm tan, một số đông ra đầu thú, trong số đó có cả người Tàu và người Miên có đến số ngàn. Vua Thiệu Trị sai Nguyễn Công Trứ điều động việc lập ấp, khuyến khích khẩn ruộng. Nhưng việc làm này không đi tới đâu cả…[10]
Chiến dịch phản công của quân nhà Nguyễn trên đất Cao Miên năm 1845
Sau đó, cũng theo Việt Nam sử lược, thì ở Chân Lạp, quân Xiêm La lại giở trò tàn bạo, khiến người Chân Lạp không phục, lại nổi lên và cử người sang cầu cứu quân đội Việt. Vua Thiệu Trị bèn sai Võ Văn Giải sang kinh lý việc Chân Lạp. Tháng 6 năm Ất Tỵ (1845), Võ Văn Giải vào đến Gia Định, cùng với Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị, tiến binh sang đánh Chân Lạp, phá được đồn Dây Sắt, lấy lại thành Nam Vang, người Chân Lạp và Xiêm về hàng kể hơn 23.000 người. Tiếp theo, Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn đem binh truy đuổi liên quân Xiêm La – Chân Lạp, vây vua Nặc Ông Đôn và tướng Xiêm là Phi Nhã Chất Tri (Chao Phraya Bodin) ở Ô Đông (Oudon).
Kế hoạch
Tháng 6 âm lịch năm Ất Tỵ (1845), (Tháng 6-9 âm lịch ở hạ lưu sông Mê Kông vùng thuộc Campuchia và Việt Nam thường đang vào mùa nước nổi (lũ)), kế hoạch ban đầu của vua Thiệu Trị:
- Cử Võ Văn Giải (hậu quân đô thống kiêm Tổng đốc Định Biên), Tôn Thất Bạch (Thượng thư Bộ Binh) làm Khâm sai đại thần kinh lý Nam Kỳ trù tính việc Trấn Tây.[11]
- Lấy các đạo binh thuộc quân thứ An Giang, Định Tường (Đồng Tháp, Long An), Gia Định (Long An, Tây Ninh) chia làm 3 đường tiến sang đất Cao Miên từ các đồn: Tân Châu (thuộc An Giang), Thông Bình (thuộc Định Tường), và Tây Ninh (thuộc Gia Định). Tướng lĩnh đứng đầu 3 đạo binh là các quan hàng tỉnh của An Giang, Định Tường và Gia Định.
- Đạo binh Tân Châu ban đầu định do Tổng đốc An Hà Nguyễn Văn Chương (Tri Phương) chỉ huy, nhưng sau thay đổi kế hoạch do Nguyễn Văn Hoàng (đề đốc An Giang) nắm, theo đường thủy lớn sông Tiền Giang (tức Tonlé Bassac Thượng) tiến tới đánh đồn Ba Nam (đồn trọng yếu trên sông Me Kong (Tiền Giang), nay là Phumi Ba Nam thuộc thị trấn Neak Loeang huyện Peam Ro tỉnh Prey Veng). Đồn Ba Nam nằm kẹp giữa sông Tiền (Bassac Thượng) và sông Ba Nam (Prek Banam), một phân lưu của Bassac Thượng chảy từ ngã ba Ba My (tức Trà Mạt) song song với sông Bassac Thượng về tới sông Sở Thượng trên biên giới Việt-Miên.
- Đạo binh Thông Bình do Doãn Uẩn (tuần phủ An Giang) chỉ huy, theo đường sông nhánh (sông Prek Trabeak, nhà Nguyễn gọi là sông Tam Ly[12] với đoạn cuối theo hướng bắc-nam từ điểm nối với sông Vàm Dừa (tức rạch Cái Cỏ, hay Prek Kompong Snay) đến điểm gặp sông Sở Hạ (Prek Krom, hay rạch Lợi Ban), làm thành đoạn biên phía tây của Thông Bình với Campuchia vào thời nhà Nguyễn được tính là đoạn đầu của sông Vàm Dừa (Cái Cỏ) chảy dọc biên giới Việt Miên. Sông Prek Trabeak là nhánh của sông Tiền chảy qua phủ lỵ Ba Nam (Ba Phnum) và đồn Thông Bình) tiến vào suốt trong lòng phủ Nam Ninh (tức là phủ Ba Nam (mới đổi trước đó), xem bài Hành chính Việt Nam thời Nguyễn), rồi hợp quân với đạo Tiền Giang (tức đạo binh Tân Châu).[13]
- Đạo binh thứ 3, dự kiến tiến sang Cao Miên từ phủ Tây Ninh tỉnh Gia Định, do các quan tỉnh này là Nguyễn Công Nhàn và Cao Hữu Dực chỉ huy. Tuy nhiên đạo này không tiến binh ngay, mà phải tới tháng 8 âm lịch (1845), khi 2 đạo trên đã bình định xong phủ Nam Ninh, thì đạo này (do Công Nhàn lĩnh, Hữu Dực ở lại Tây Ninh) mới tiến sang Cao Miên hợp quân đánh đồn Thiết Thằng.
Diễn biến
Các địa danh Nam Kỳ và Cao Miên (Trấn Tây) gọi theo cách gọi của người Việt: Thông Bình (Thong bigne F), Phù Nam (Phou-Nam), Nam Ninh (Nam-nigne), Lô An (Lou-an), La Kiết (La-Kiet), Tầm Vu (Tam-vou), Nam Vang (Nora-Vang), Kỳ Tô (Ki-to).
Tháng 6 âm, Doãn Uẩn cùng lãnh binh Định Tường là Nguyễn Sáng đem quân từ đồn Thông Bình (nay thuộc xã Thông Bình huyện Tân Hồng tỉnh Đồng Tháp) tiến sang Cao Miên qua ngả huyện Nam Thịnh (tức phủ Ba Nam cũ) thuộc phủ Nam Ninh (theo đường sông nhánh của sông Tiền Giang và dọc quốc lộ 1 (Campuchia) ngày nay), hạ ngay được hai đồn Thị Đam[13] (nay khoảng xã Cheang Daek huyện Kampong Trabaek), Vịnh Bích (khoảng thị trấn Kampong Trabaek huyện Kampong Trabaek tỉnh Prey Veng). Sau đó, Doãn Uẩn tiến tới đóng ở Gò Bắc (nay khoảng các xã Kansoam Ak, Kou Khchak huyện Kampong Trabaek hay làng (phum) Beng Pasré huyện Ba Phnum), phía trước là xứ Kha Đốc (khoảng làng Beng Pasré hay xã Sdau Kaong huyện Ba Phnum) có đồn Kha Đốc do các tướng của liên quân Xiêm-Lạp tên là Bang và Mạt trấn giữ. Quân Xiêm-Lạp từ đồn Kha Đốc phía thượng lưu (sông nhánh) theo dọc sông tiến xuống bắn bị thương viên vệ úy Trần Tri. Uẩn và Sáng thúc quân đánh phản công, quân Xiêm-Lạp bỏ đồn Kha Đốc rút chạy, quân nhà Nguyễn chiếm được đồn Kha Đốc.
Đồng thời với Doãn Uẩn, Nguyễn Văn Hoàng cũng từ đồn Tân Châu (nay thuộc Tân Châu An Giang) tiến đến Tầm Bôn (thuộc huyện Phù Nam phủ Nam Ninh Trấn Tây, nay là khoảng xã Preaek Sambuor thuộc huyện Peam Chor tỉnh Prey Veng), quân Xiêm Lạp xuôi theo sông Tiền bắn ra, Hoàng cùng Hồ Đức Tú (lãnh binh An Giang) và Lê Đình Lý (phó lãnh binh Vĩnh Long), tiến đánh thu được Tàm Bôn và ngược dòng sông Tiền tiến về đồn Ba Nam (phumi Ba Nam). Nguyễn Văn Hoàng tiến quân hạ được đồn Ba Nam (Phumi Ba Nam, ở Neak Loeang trên ngã tư giao cắt giữa Quốc lộ số 1 (Campuchia) với sông Tiền Giang), Nguyễn Văn Hoàng liền chiêu an vỗ về dân chúng Cao Miên, và thám sát biết được rằng: quân Xiêm-Lạp do các tướng Cao La Hâm (tiếng Thái:สมุห กลาโหม,S̄muh̄ klāh̄om, Samuha Kalahom, Thượng thư bộ Binh), Mộc Xá Na Lăng nắm, đã xây dựng ở phía thượng lưu sông Tiền Giang một phòng tuyến quanh đồn Thiết Thằng[14] (doc bờ sông và chặn ngang sông tại đồn Thiết Thằng) án ngữ trên bờ sông Tiền chặn đường tiến tới Nam Vang. Hoàng sai Hồ Đức Tú đánh hạ được đồn ngoài rìa (phía hạ lưu Thiết Thằng) của phòng tuyến trên sông này. (Phòng tuyến Thiết Thằng (tiếng Khmer:បន្ទាយ ដែក, Banteay Daek) nằm khoảng 2 bờ sông Tiền Giang (Mê Kông) nay thuộc khoảng 2 huyện Kien Svay hay Lvea Aem tỉnh Kandal).
Ngày 14 tháng 6 âm năm Ất Tỵ (tức 18 tháng 7 năm 1845[15]), Doãn Uẩn tiến đánh đồn Sách Sô (nay là Phumi Khsach Sa thuộc khoảng các xã Roung Damrei, Reaks Chey huyện Ba Phnum) ở chi lưu sông Sách Sô (sông Preaek Say Sos, nối với sông Preaek Banam ở xã Banlich Prasat). Quân Cao Miên ở chi lưu sông Sách Sô (vùng Sách Sô thuộc huyện Nam Thịnh phủ Nam Ninh Trấn Tây[16]) kết bè mảng trên sông, đào hầm hố dựng lũy để chống quân nhà Nguyễn. Cánh quân của Doãn Uẩn đang đánh đồn Sách Sô, liền đến đóng đồn ở Bang Chích (khoảng xã Banlich Prasat huyện Peam Ro tỉnh Prey Veng ngày nay), rồi sai các phó cơ Nguyễn Khoa, Nguyễn Hữu Mỹ đem 400 quân hội với đạo quân ở sông Tiền Giang của Nguyễn Văn Hoàng.[17] Theo Ngoại Lãng tướng công niên biểu của Doãn Uẩn: “Ngày 14 tháng 6, công phá đầm lũy giặc ở Sách Sô…(Sách Sô tức là thượng du của phủ Nam Ninh, phía trước có đầm lớn, đảng giặc đã đắp lũy từ trước ở ven đầm, hai lớp trong ngoài dài hơn ngàn trượng. Tất chúng tử thủ. Ta chia binh làm hai đạo: lãnh binh binh Hồ Đức Tú và phó lãnh binh Lê Đình Lý cầm một ngàn binh từ phủ Tẩu Đà tiến vào, ta cùng lãnh binh Nguyễn Sáng dẫn hơn ngàn quân từ Ích Đà tiến vào. Bọn giặc dựa vào lũy đông như kiến, bắn ra. Ta thân đốc hai đạo quan binh oanh kích bằng pháo lớn. Ai nấy dũng cảm hăng hái,lên trước bạt lũy, đâm chết nhiều tên. Đảng giặc tan vỡ, vào rừng chống giữ. Quan binh liền đóng đồn trấn giữ ở Sách Sô.”
Trong lúc đó, quân Xiêm La-Cao Miên lại vòng xuống quấy rối các đồn Vịnh Bích, Kha Đốc. Doãn Uẩn sai Trần Tri và Trương Lý đem quân chống giữ, rồi gửi thư xin viện binh cho Nguyễn Tri Phương. Đồng thời Uẩn tiến quân tới ngã ba sông Trà Mạt (còn gọi là ngã ba Ba Mi[18], nay khoảng phía nam xã Peam Mean Chey huyện Peam Ro), để hội quân với Nguyễn Văn Hoàng. Hoàng điều Hồ Đức Tú, Lê Đình Lý cùng 1000 quân theo Doãn Uẩn, còn mình lại về đánh mặt đồn Ba Nam. Hôm sau, Doãn Uẩn chia quân làm hai đạo tiến đánh Sách Sô: Doãn Uẩn, Nguyễn Sáng đánh mặt phải, mặt trái là Hồ Đức Tú và Lê Đình Lý. Hồ Đức Tú thúc quân lên bờ đánh thành, Doãn Uẩn kéo quân lội qua sông, ra mặt trước thành, bắn giết được một tướng Xiêm và hơn trăm quân đối phương. Lê Đình Lý bắn chết một tướng Xiêm. Cánh hữu, Nguyễn Sáng bắn trúng 10 quân Cao Miên và 20 quân Xiêm La. Hạ được đồn Sách Sô, Doãn Uẩn cho Hồ Đức Tú về đồn Ba Nam, và định rút quân ở 5 đồn Thị Đam (Cheang Daek), Vịnh Bích (Kampong Trabaek), Gò Bắc (Kansoam Ak), Kha Đốc (Sdau Kaong), và Bang Chích (Banlich Prasat) về tập trung đồn Sách Sô (Phumi Khsach Sa) để binh lực thêm hùng hậu, nên gửi thư về cho Nguyễn Tri Phương. Tri Phương không nhất trí, đưa thư đáp rằng nên tạm để quân tại các đồn đó để canh phòng.
Ở Nam Kỳ, Võ Văn Giải (hậu quân đô thống) và Tôn Thất Bạch (binh bộ thượng thư) đến An Giang, phân cho Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Nghị đem thuyền chở quân đến quân thứ Ba Nam, tăng cường cho Doãn Uẩn và Nguyễn Văn Hoàng. Khi Tri Phương chưa tới, ngày 26 tháng 6 âm, 5000 quân Xiêm Lạp đến vây đạo quân của Doãn Uẩn ở đồn Sách Sô. Doãn Uẩn sai Lê Viên (quản cơ), Hồ Đức Tú, Nguyễn Sáng, đem binh chống giữ, bắn giết được tướng Xiêm, làm quân Xiêm Lạp tan vỡ.
Được tin thắng trận, vua Thiệu Trị khen ngợi các tướng sĩ hai đạo binh Doãn Uẩn, Nguyễn Văn Hoàng, đồng thời dụ Vũ Văn Giải, Tôn Thất Bạch rằng: cần đốc thúc 2 đao quân tiến nhanh tới hạ thành Nam Vang, và yêu cầu đạo binh thứ 3 theo kế hoạch ban đầu ở Tây Ninh dưới quyền Nguyễn Công Nhàn và Cao Hữu Dực, lúc đó vẫn chưa tiến sang Cao Miên, phải tiến sang Ba Nam hội quân.
Tháng 7 âm, Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Nghị cùng viện binh đến được Ba Nam. Nguyễn Tri Phương sai quân chiêu dụ dân chúng Cao Miên, nhưng dân bị quân của Ang Duong kiềm tỏa không chịu theo ra. Thượng lưu dọc sông Tiền thuộc Ba Nam, quân Xiêm lập đồn lũy chạy ngang đến Thiết Thằng (quân Xiêm dùng xích sắt chắn ngang sông), bảo vệ Nam Vang. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn và Nguyễn Văn Hoàng muốn nhanh chia đường tiến đánh Thiết Thằng, nhưng Võ Văn Giải, Tôn Thất Bạch cho rằng chưa nên đánh vì quân chưa hội đủ, dân Miên theo về chưa nhiều. Quan quân tâu về triều, vua dụ rằng cần phải tốc chiến tốc thắng (chỉ dụ của vua đến quân thứ ngày 22 tháng 7 âm). Trong khi đó, quân Xiêm lại quấy nhiễu đồn Sách Sô, Nguyễn Văn Chương (Tri Phương) và Doãn Uẩn dẫn 1000 quân ra đánh dẹp, quân Xiêm thua chạy.[19]
Ngày 6 tháng 8 âm[20] (7 tháng 9 năm 1845), tại quân thứ Ba Nam, Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn chia đường tiến đánh Thiết Thằng (đồn sắt, បន្ទាយ ដែក, Banteay Daek): Nguyễn Tri Phương và Tôn Thất Nghị dẫn 3000 quân, Doãn Uẩn và Nguyễn Văn Hoàng đem 2000 quân, 2 đạo đều tiến theo đường thủy sông Tiền Giang (Mê Kông) và có thổ dân Cao Miên dẫn đường. Quân Xiêm-Lạp hai bên bờ bắn ra đánh chặn, 2 đạo quân nhà Nguyễn hợp lại đồng loạt tấn công. Các tướng lĩnh Hồ Đức Tú, Lê Đình Lý, Hồ Hậu, Nguyễn Công Nhàn đều hăng hái lập công. Quân Việt tiêu diệt được 1 đại tướng của Xiêm cùng 600 quân Xiêm-Lạp (gồm cả người Xiêm, người Miên, người Lào, người Hoa), và thu được rất nhiều thuyền bè súng ống. Quân Việt chết một tướng là Trương Lý. Quân Xiêm của Chất Tri thua chạy bỏ đồn lũy rút về Nam Vang. Nhân đà thắng, quân Việt tiến thẳng đến Nam Vang, mất phòng tuyến Thiết Thằng (ngày 12 tháng 8 âm[20] tức 11 tháng 9 năm 1845), đại quân Xiêm-Lạp của Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) và Nặc Ông Đôn (tức Ông Giun, Ang Duong) rút lui khỏi Nam Vang vào ban đêm, chạy về phía Oudong cố thủ.[21] Doãn Uẩn nói về đồn Thiết Thằng như sau: “Năm Thiệu Trị thứ nhất,… Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) và Nặc Ông Đôn (tức Ông Giun, Ang Duong) chiếm Trấn Tây đã phá thành cũ, xây thành mới bằng gạch ở thượng lưu dài hơn trăn trượng. Lại đặt đồn lũy ở hai bên sông hạ lưu Sa An của Hậu Giang và Hách Chử của Tiền Giang, mà đồn Tiền Giang là kiên cố nhất, tả hữu đắp liền ba đồn, rào lũy dày đặc, đắp núi đất cao lên, bố trí nhiều hồng y đại pháo,lại làm khóa sắt ngang sông, tự coi là thế hiểm kiếm các, kiên cố không thể phá vỡ, cho nên gọi là Thiết Lũy, còn gọi là đồn Thiết Thằng.”
Thu được thành Nam Vang (Phnom Penh), vua Thiệu Trị khen thưởng và thăng chức cho tướng sĩ quân Việt đánh Xiêm-Lạp, Nguyễn Văn Chương được thăng Hiệp biện đại học sĩ, Doãn Uẩn được thăng quyền thượng thư bộ Binh, các tướng bên dưới đều được thăng cấp và khen thưởng. Vua dụ Nguyễn Văn Chương (Tri Phương) và Doãn Uẩn đem quân tiến gấp tới bến Vĩnh Long (Kampong Luong, trên bờ sông Tonlé Sap, nay là xã Kampong Luong huyện Ponhea Leu tỉnh Kandal) truy kích quân Xiêm-Lạp. Vua sai Vũ Văn Giải, Tôn Thất Bạch, Nguyễn Văn Hoàng đi chiêu an dân chúng, ổn định đất Trấn Tây mới lấy lại. Vua điều binh từ Nam Kỳ tăng cường cho Trấn Tây, lấy quân từ các tỉnh Trung Kỳ kể từ kinh đô Huế trở vào bổ sung cho Nam Kỳ. Vũ Văn Giải (cuối tháng 8 đến được Trấn Tây) tâu xin tạm lập Nặc Ong Bướm (tức Ang Bhim, con của Ong Yêm (tức Ang Im, hay Ang Em)) lên ngôi vương, nhưng Thiệu Trị chưa thuận[22], vì đang cân nhắc giữa Bướm và Ngọc Vân (Ang Mey) con gái của vua Ông Chân (Ang Chan II). Dân Cao Miên về theo nhà Nguyễn khoảng 23000 người, các tướng người Cao Miên là Ốc Nha Sô Phì và Lịch Bồn Nha Trắc cũng kéo quân Miên ra hàng.
Tháng 9 âm năm 1845, Võ Văn Giải, Tôn Thất Bạch báo cáo cho Thiệu Trị về tình hình Trấn Tây rằng: hoàng thân Cao Miên là Ông Giun (Ang Duong) và tướng Xiêm là Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) lúc đó đang tụ tập tại vùng Vĩnh Long (Kampong Luong) và đô thành Oudong. Quân nhà Nguyễn do Nguyễn Văn Chương (Tri Phương), Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị đang ngược theo đường sông Tonlé Sap tiến về phía bến Vĩnh Long truy kích quân Xiêm-Lạp. Còn Giải cùng Bạch và Hoàng ở lại Nam Vang ổn định tình hình. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn tiến đánh đến bến Vĩnh Long, quân Xiêm hai bên bờ sông bắn ra ác liệt, quân Việt không thể tiến lên bờ được. Thiệu Trị liền lệnh cho Võ Văn Giải mang quân từ Nam Vang lên tăng cường đánh Oudong (để Bạch và Hoàng ở lại Nam Vang).
Vũ Văn Giải chưa tới nơi, thì Tri Phương đã cùng Hồ Đức Tú, Nguyễn Công Nhàn bỏ thuyền lên bộ, còn để lại Doãn Uẩn giữ thủy trại và đánh yểm hộ. Quân Xiêm bi vỡ trận, thua chạy rút về giữ thành Ô Đông (tức Oudong), ở phía Tây Nam bến Vĩnh Long. Thiệu Trị dụ quân tướng Việt ở Trấn Tây rằng cần phải bao vây quân Xiêm-Lạp tại Oudong (Oudong Meanchey), không cho quân Xiêm của Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) rút về Bắc Tầm Bôn (tức Battambang), để rồi tiêu diệt (Kampong Luong nằm ở vùng đất chắn giữa Oudong và Battambang). Thiệu Trị thăng chức cho các tướng nhà Nguyễn ở Trấn Tây: Võ Văn Giải làm Tiền quân Đô Thống kiêm Phủ biên tướng quân quản hạt Trấn Tây (chức của Trương Minh Giảng trước đó), Nguyễn Tri Phương làm Hiệp biện Đại học sĩ kiêm Khâm sai đại thần, Tôn Thất Bạch làm Tổng đốc An Giang, Doãn Uẩn làm Thượng thư Bộ Binh kiêm Tham tán đại thần Trấn Tây.[23] Thiệu Trị sai Nguyễn Lương Nhàn (tuần phủ Hà Tiên) đem 1000 quân cùng nhiều súng thần công lớn, đến huyện Khai Biên phủ Quảng Biên (tức Kampot ngày nay) chiêu an dân chúng và tuyển mộ người Cao Miên dẫn quân tiến đến phủ Hải Tây (nay là tỉnh Pursat), phía Tây Bắc của Ô Đông (Oudong Meanchey) để kép chặt vòng vây.
Bị vây chặt trong thành Oudong, cuối tháng 9, Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) gửi thư sang phía quân Việt xin cầu hòa 2, 3 lần. Vũ Văn Giải, Nguyễn Văn Chương (Tri Phương), Doãn Uẩn tạm đình chiến, giữ nguyên vòng vây không tiến đánh, đồng thời báo cáo về triều đình Huế, và cho quân Xiêm một hẹn ước hòa đàm.
Tháng 10 âm lịch, đến thời hạn hẹn ước hòa đàm, quân Xiêm sai hẹn không đến mà vẫn cố thủ giữ thành Oudong, quân Việt từ ngoại thành liền tiến đánh Oudong. Nguyễn Tri Phương từ mặt sông Tầm Nạp (nay khoảng bờ sông xã Samraong huyện Ponhea Leu, phía hạ lưu sông Tonlé Sap, tức phía Đông Nam Oudong) tiến vào, Doãn Uẩn từ mặt sông Vĩnh Long (Kampong Luong, phía thượng lưu sông Tonlé Sáp, tức mặt Đông Bắc Oudong) tiến đánh Oudong. Theo Ngoại Lãng tướng công niên biểu của Doãn Uẩn: “Sau đó (tức là sau khi đưa thư xin hòa), Chất Tri và Sá Ông Đôn (Ang Duong) trì hồi quá hạn. Ngày 28 tháng 9 (âm, tức 28-10-1845), [quân Việt] lại chia binh tiến công ở Vĩnh Long (Kampong Luong). Binh đạo Khâm sai (tức Nguyễn Văn Chương) đánh đường hữu lộ của chúng. Binh đạo Tham tán (tức Doãn Uẩn) đánh đường tả lộ của chúng.” “… Hơn hai tuần (khoảng hơn 20 ngày), quân ta tiến đánh lũy giặc, chỉ hơn 20 trận. Ngày 20 tháng mười (âm tức 19-11-1845), đảng giặc ở trên lũy (thành Ô Đông) xin quan quân ngừng đánh đồn phóng pháo, để Chất Tri phái người đến quân thứ xin hòa. Vài ngày sau đó, [Nguyễn Văn Chương và Doãn Uẩn] mới tiếp tục phát gửi tờ tâu đệ tiền kỳ. Trong bản tâu có châu phê (lời vua): Giặc Xiêm thế cùng lực kiệt, vẫy đuôi xin tha, khẩu thỉnh cầu hòa, chẳng phải là không có kế hoãn binh. Mà xem thế chúng, ta đánh thì tất thắng, giữ thì khó, nên sắp xếp thế nào để được thể? Nội trị được vĩnh ninh, biên cương ngoại yên, nhiếp phục được ngoại di. Giao cho các đại thần mau chóng bàn bạc tâu lên. Khâm thử!” “Các đại thần văn võ họp bàn, thấy rằng đương lúc này binh uy vang động. Ta đã chiếm thế thượng phong. Hãy tạm hòa với chúng. Cho quân dân được tạm nghỉ sức, thì cũng chẳng đến nỗi không là thượng sách.”
Theo Đại Nam thực lục: Tháng 11 (ngày 1-11 âm lịch là ngày 29-11-1845), mùa đông, năm Thiệu Trị thứ 5, Ất Tỵ (1845), Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn cùng bàn tính, cho rằng Ô Đông tuy là cái cô thành, nhưng địa thế rất hiểm, lũy sách còn nhiều, Chất Tri và tên Giun dựa lẫn nhau, tất không chịu bỏ, thì đánh không biết đến bao giờ xong việc! Mà đánh để lấy thành, không bằng đánh bằng cách thu phục lòng người, xong việc quân cũng là xong việc nước. Chi bằng tạm cho xin hòa, để có thể thư sức dân quân.
Hậu quả
Lãnh thổ Nam Kỳ lục tỉnh sau cuộc chiến chính thức thuộc về nhà Nguyễn cho đến năm 1862, cùng vương quốc Cao Miên trước năm 1863.
Tháng 9 âm lịch năm 1845, Chất Tri sai người sang xin hòa. Qua tháng 11 âm lịch năm Ất Mùi (tức cuối tháng 11 đầu tháng 12 dương lịch năm 1845) thì Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn cùng Chất Tri (Bodindecha) và Ang Duong ký tờ hòa ước ở nhà hội quán, hai nước đều giải binh. Nguyễn Tri Phương rút quân về đóng ở Trấn Tây (Nam Vang), đợi quân Xiêm thi hành những điều ước đã định. Doãn Uẩn viết trong Ngoại Lãng tướng công niên biểu: “Ngày mồng 3 tháng mười một, Chất tri dẫn bộ lạc đến quân thứ và dẫn Man tù Sá Ông Đon đến quân thứ thú tội. Sá Ông Đôn tiếp đó lại có thư thỉnh tội, xin giúp đề đạt. Trước đây, Chất tri đã ủy lệnh cho đại đầu mục Xiêm là Phiya Ta-sơ-tê-côn là quan nhất phẩm của Xiêm, Sá na lăng là quan tam phẩm của Xiêm, đến trước quân [Việt] nói rằng sẽ phái người thông thuyết, nhưng vì ngôn ngữ bất đồng, thông dịch không thể đạt ý, này Chất Tri xin dẫn hết bộ lạc tự mình đến thuyết hòa, mới được rõ ràng, lại xin dẫn Sá Ông Đon và các thổ mục đương diện tạ tội. Ta cùng Khâm sai bàn nhau: Binh pháp nói rằng “bách chiến bách thắng, phi thiện chi thiện; bất chiến nhi khuất nhân binh, viễn vi thiện chi thiện” (trăm đánh trăm thắng không phải là hay nhất trong mọi cái hay; không đánh mà khuất phục được quân của người, mới là hay nhất trong mọi cái hay). Nay dẫu có thể đuổi dài lên bắc, chúng tất thua, nhưng mai kia vị tất chúng chẳng có mưu đồ rửa nhục, chi bằng hẵng cho chúng hòa, để được yên việc, bèn sức cho làm một sớ hội xá, hai bên gặp nhau.“[24] Đại Nam thực lục chép: “Ngày Tân Dậu.[25],…, Quan ở quân thứ Vĩnh Long là Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn cùng đầu mục nước Xiêm là Chất Tri ước hòa ở hội quán. Bọn Phương bèn…, đem việc ấy tâu lên. Vua xem tờ tấu,…, Sau đó Chất Tri lại cho người đến ước hội. Đến giờ Tỵ ngày hôm ấy, Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn chỉnh đốn nghi vệ quân đội ra đi. Khi sắp đến hội quán, (người Xiêm đã làm nhà lợp tranh trước ở giữa đường), đã thấy Chất Tri xuống voi, đi chân không, bỏ hết nhạc Man. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn từ cửa tả vào, vái chào, rồi lên ngồi nhà chính. Chất Tri ngồi bên hữu, quân tướng đều im lặng nghiêm trang. Khi an tọa, Tri Phương trước hết hỏi đến cái cớ sao không nhận được thư đáp. Chất Tri nói: Vì ngôn ngữ bất đồng, sợ dịch sai, nên chưa giám viết. Nhân đó Chất Tri đưa thư ra, đại ý thư viết: họ đến họp để xin gây lại tình hòa hiếu cũ, và cho Ong Giun được làm bề tôi hai nước. Rồi ông ta trỏ tay vào người quỳ bên và nói: “Đây là Nặc Ong Giun, xin ủy thác cho làm việc ở nước ngài, nhờ ngài thương cho”… Tri Phương, Doãn Uẩn lại hỏi Chất Tri: “Nay việc nghị hòa đã xong, Chau Phi Nhã bao giờ thì lui về Bắc Tầm Bôn?”. Chất Tri nói: “Hắn đã thua ở Thiết Thằng, bỏ Nam Vang lui về Ô Đông, tự mang cái tội thua trận, không thể chối được: nếu vội bỏ Ô Đông mà về, thì không khỏi mang tội với nước Xiêm, xin tạm cho ở đây, đợi thư của nước Xiêm đến, rồi sẽ lui quân…[26],…“. Ngày Tân Dậu (4 tháng 11 âm), là ngày 2 tháng 12 năm 1845 [15] (Sự chậm một ngày có lẽ là thời gian liên lạc ngựa trạm công văn trình tấu và châu phê giữa chiến trường và triều đình Huế).
Tháng chạp năm Bính Ngọ (1846), Nặc Ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai sứ đem đồ phẩm vật sang triều cống, nhìn nhận sự bảo hộ song phương của Xiêm và Việt Nam. Tháng 2 âm lịch năm Đinh Mùi (1847), vua Thiệu Trị phong cho Ang Duong làm Cao Miên quốc vương (ý trao cho làm chủ toàn cõi Cao Miên gồm cả Nam Vang lẫn Oudong) và phong cho Ang Mey làm Cao Miên quận chúa (ý trao cho làm chủ vùng Trấn Tây (Nam Vang) nhà Nguyễn kiểm soát). Thiệu Trị lệnh cho quân nhà Nguyễn ở Trấn Tây (vùng Nam Vang đến biên giới với Nam Kỳ của Đại Nam) rút về An Giang.[27] Quân đội Xiêm La do Chất Tri chỉ huy cũng rút về Battambang (vùng đất Thái Lan chiếm đóng của Campuchia trong suốt thế kỷ 19), Campuchia được độc lập trong vùng lãnh thổ nguyên là đất Trấn Tây giai đoạn (1836-1840), bao gồm cả Nam Vang và Oudong. Biên giới Nam Kỳ Lục tỉnh-Cao Miên, tuy chưa theo phong cách phương Tây hoạch định bằng văn bản hiệp định, nhưng về cơ bản trở về với đường ranh giới vào khoảng đầu năm 1841, khi Trương Minh Giảng rút quân Trấn Tây về An Giang, và trước khi quân Xiêm-Lạp xâm phạm Hà Tiên, An Giang đầu cuộc chiến. Biên giới này tồn tại cho đến sau khi Pháp xâm chiếm và ổn định xong Nam Kỳ, chiếm đóng và bảo hộ Cao Miên, thì được thay thế bởi ranh giới hành chính (nội bộ trong Liên bang Đông Dương) giữa Cao Miên và Nam Kỳ thuộc Pháp được hoạch định bởi hiệp định giữa Pháp và triều đình Cao Miên.
Xứ Cao Miên Campuchia và xứ Nam Kỳ (Cochinchina) thuộc Pháp năm 1876. (Ranh giới Cao Miên-Nam Kỳ trong bản đồ là biên giới trước hiệp định phân định ranh giới Pháp-Cao Miên)
Hòa ước quốc tế giữa ba quốc gia (mà đại diện cho Đại Nam (Việt Nam) là Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn, đại diện cho Cao Miên (Campuchia) là vua Ang Duong, đại diện cho Xiêm La (Thái Lan) là Chao Phraya Bodin Decha) quy định phần lãnh thổ Nam Kỳ Lục tỉnh chính thức thuộc chủ quyền Việt Nam[28][29], và Campuchia chịu sự bảo hộ song phương của cả Việt Nam lẫn Thái Lan[30]. Sự bảo hộ song phương Việt Nam và Thái Lan lên Campuchia chấm dứt, đối với Việt Nam khi Pháp bắt đầu xâm chiếm Việt Nam từ các tỉnh Nam Kỳ năm 1862-1867 (và chính thức trong Hòa ước Giáp Tuất (1874)), đối với Thái Lan khi Pháp ký hiệp ước bảo bộ đối với Campuchia năm 1863.
Chú thích
- ^ Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, tập 6, trang 303,312.
- ^ a ă Chép lại theo Sơn Nam, Lịch sử An Giang, tr. 12-13.
- ^ Ý nói đến tướng Trương Minh Giảng và Tham tán Lê Đại Cương.
- ^ Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, Quyển 4, tr. 372.
- ^ U Đông: Kinh đô cổ Cămpuchia thời kì từ 1620 đến 1867. Đây là tên một dãy núi nhỏ ở giữa đồng bằng, cách Phnôm Pênh khoảng 20 km về phía tây. Hiện chỉ còn một số di tích đền, tháp và nền cũ của hoàng cung.
- ^ Việt Nam sử lược, tr. 467. Theo Sơn Nam, thì Trương Minh Giảng chết vì bệnh, nhưng lý do chính là vì buồn giận triều đình. (Lịch sử khẩn hoang miền Nam, tr. 91)
- ^ Việt Nam sử lược, tr. 47.
- ^ Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyễn VII, tập sáu, Thực lục về Hiến tổ Chương hoàng đế, trang 312-313.
- ^ Theo Sơn Nam thì Sách Sô nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, nhưng Đại Nam thực lục thì viết rằng: Sách Sô thuộc địa hạt huyện Nam Thịnh, phủ Nam Ninh kiêm lý (tức Nam Thịnh thuộc phủ Nam Ninh nhưng có phủ lỵ ở Nam Thịnh), Nam Thịnh là đổi tên từ Ba Nam năm 1840 mà thành. Ba Nam thực tế nằm bên tả sông Tiền, còn sông Hậu thực tế nằm bên bờ hữu sông Tiền.
- ^ Lược theo Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang Miền Nam, tr. 91-92.
- ^ Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển XLVIII, tập 6, trang 735.
- ^ Biên giới Việt Nam-Campuchia.
- ^ a ă Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển XLVIII, tập 6, trang 737.
- ^ Đại Nam thực luc, đệ tam kỷ, quyển XLVIII, trang 741.
- ^ a ă đối chiếu âm lịch với dương lịch.
- ^ Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển XXI, tập 6, trang 363.
- ^ Đại Nam thực lục, quyển XLVIII, trang 742.
- ^ Trong cuốn Trấn Tây kỷ lược, Doãn Uẩn viết: “Xứ ngã ba Ba Mi có dòng sông nhỏ chảy qua, rồi rẽ ngang sang sông nhánh Ba Nam. Lại một dòng chảy thông sang sông bé Tiền Giang, chảy xuống đến Thông Bình…“
- ^ Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển XLIX, tập 6, trang 748.
- ^ a ă bài Một số sự kiện về cuộc đời và sự nghiệp của Doãn Uẩn, tác giả Doãn Đoan Trinh, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1(357)/2006, trang 67. ISSN.0866-7497.
- ^ Đại Nam thực lục, quyển XLIX, trang 759.
- ^ Đại Nam thực lục, đệ tam kỷ, quyển XLIX, trang 760-761.
- ^ Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển L, tập 6, trang 765.
- ^ Doãn tướng công hoạn tích, Doãn Uẩn, thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu: A.192:243 tr, 32 x 22. và A.2177: 316 tr, 28 x 17.
- ^ Đại Nam thực lục chính biên, trang 785, tập 6.
- ^ Đại Nam thực lục chính biên, trang 788, tập 6.
- ^ Việt Nam sử lược, tr. 477-468.
- ^ “Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ (GS.TSKH Vũ Minh Giang)”. Truy cập 14 tháng 2 năm 2015.
- ^ Các hiệp định biên giới Việt Nam – Campuchia thời Pháp thuộc và vấn đề cơ sở chính trị – pháp lý của đường biên giới Việt Nam – Campuchia, cổng điện tử Cà Mau, Nguyễn Sỹ Tuấn đăng ngày 01/10/2014.
- ^ (tiếng Pháp) Michel Blanchard,Vietnam-Cambodge: Une frontière contestée, chap. III (« Les données historiques: de la limite territoriale au tracé frontalier »), p. 33–43
Tài liệu tham khảo
-
- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1964
- Sơn Nam, Lịch sử An Giang, NXB Tổng hợp An Giang, 1988.
- Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang Miền Nam. Nxb Văn nghệ TP. HCM, 1994.
- Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, Quyển 4. Tủ sách Sử học Việt Nam, sài Gòn, 1961.
- Hoàng Văn Lân & Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam (1858- cuối XIX), Q. 3, Tập 2. Nxb Giáo dục, 1979.
- Phạm Việt Trung – Nguyễn Xuân Kỳ – Đỗ Văn Nhung, Lịch sử Campuchia. Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1981.
Thể loại:
Trần Trọng Kim
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trần Trọng Kim (1883 – 1953)[1][2] là một học giả danh tiếng[3] nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu Lệ Thần, thủ tướng của Đế quốc Việt Nam (1945) và là thủ tướng đầu tiên của Việt Nam. Ông là tác giả của tác phẩm Việt Nam sử lược.
Tiểu sử
Thân thế
Trần Trọng Kim, sinh năm 1883 (Quý Mùi) tại làng Kiều Linh, xã Đan Phố, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.[4] Vợ ông Bùi Thị Tuất là em gái nhà nghiên cứu văn học Bùi Kỷ. Ông có một người con gái duy nhất là Trần Thị Diệu Chương, lấy chồng làm Chưởng lý Bộ Quốc ấn tại Sénégal. Cha ông là Trần Bá Huân (1838-1894), đã từng tham gia từ rất sớm phong trào Cần Vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo.[5]
Hoạt động trong ngành giáo dục
Trần Trọng Kim xuất thân trong một gia đình Nho giáo, từ nhỏ ông học chữ Hán. Vào năm 1897, ông theo học tại Trường Pháp-Việt Nam Định và học chữ Pháp. Năm 1900, ông thi đỗ vào Trường Thông ngôn và đến tốt nghiệp năm 1903.[6]
Năm 1904, ông làm Thông sự ở Ninh Bình. Năm 1905, vì hiếu học nên ông qua Pháp học trường Thương mại ở Lyon. Năm 1906, nhân có Hội chợ đấu xảo tại Marseille Pháp, ông xin làm một chân thợ khảm để được đi với Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) sang dự.[6]
Sau hội chợ, ông xin ở lại để học thêm tại các trường ở Ardèche, Lyon rồi tiếp tục học ở Trường thuộc địa. Năm 1909, ông vào học trường Sư phạm Melun và tốt nghiệp ngày 31 tháng 7 năm 1911 rồi về nước.[6][7]
Ông lần lượt dạy Trường trung học Bảo hộ (Trường Bưởi), Trường Hậu bổ và Trường nam Sư phạm. Ông là nhà sư phạm mẫu mực, có uy tín trong xã hội, giữ nhiều chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như:[8]
- Thanh tra Tiểu học (1921)
- Trưởng ban Soạn thảo Sách Giáo khoa Tiểu học (1924), dạy Trường Sư phạm thực hành 1931
- Giám đốc các trường nam tiểu học tại Hà Nội (1939)
Từ thập niên 1910 đến thập niên 1940, ông cũng viết nhiều sách về sư phạm và lịch sử. Ngoài ra ông còn tham gia các hoạt động xã hội. Ông là Phó trưởng ban Ban Văn học của Hội Khai trí Tiến Đức, Nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ, Trưởng ban nghiên cứu Phật học của Hội Bắc kỳ Phật giáo.
Năm 1943, Một năm sau khi ông về hưu, Nhật Bản kéo vào Đông Dương và người Nhật lấy cớ “giúp các ông tránh sự bắt bớ của Pháp” đưa ông và chí sĩ Cử nhân Dương Bá Trạc (1884-1944) bí mật sang Chiêu Nam (Singapore)[9]. Năm 1945, ông được quân đội Nhật đưa về nước.
Hoạt động chính trị
-
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp [10], độc chiếm thuộc địa Đông Dương. Để tranh thủ sự ủng hộ của người Việt, cùng những nước Á châu khác đang bị Nhật chiếm đóng như Miến Điện, Philippines, Nhật tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam.[11]
Ngày 11 tháng 3 năm 1945, triều đình Huế tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam.[12][13]
Vua Bảo Đại liền giải tán Hội đồng cơ mật gồm Thượng thư sáu bộ, tuyên bố từ nay sẽ tự mình cầm quyền nhưng bên cạnh nhà vua là viên Đại sứ Nhật ở Đông Dương Yokoyama làm ‘Tối cao cố vấn’.[14]
Chỉ huy quân Nhật, tướng Tscuchihashi, nghĩ rằng chỉ cần Việt Nam độc lập trên danh nghĩa và chính phủ mới của Việt Nam phải được Nhật kiểm soát chặt chẽ[15]. Thoạt đầu Phạm Quỳnh được chỉ định tạm quyền nhưng ông này quá thân Pháp, ngoài ra ông ta thấy ngay “nền độc lập” có những giới hạn như giống như hồi còn chế độ bảo hộ Pháp: Không có tự chủ về ngoại giao, không có quân đội, không có độc lập tài chính… Nhật liền chọn một nhân vật ôn hoà hơn và gần gũi với Nhật Bản. Đó chính là Trần Trọng Kim, đang ở Singapore. Nhà vua Bảo Đại chẳng có vai trò gì trong việc chỉ định này.[16]
Ngày 30 tháng 03 năm 1945, Trần Trọng Kim được Nhật Bản đón từ Băng Cốc về Sài Gòn.[17] Khoảng 5 tháng 04 năm 1945, Trần Trọng Kim đến Huế.[17] Sau khi được yết kiến Bảo đại và gặp Trần Đình Nam, Trần Trọng Kim cũng tán thành giải pháp lập nội các do Ngô Đình Diệm đứng đầu nên một bức điện thứ 2 triệu tập Ngô Đình Diệm được Tối cao cố vấn Yokoyama nhận chuyển đi. Nhưng Ngô Đình Diệm không ra Huế (do Nhật không chuyển điện, hay nhận điện mà từ chối). Bảo Đại triệu Trần Trọng Kim vào tiếp kiến lần thứ hai.
Trần Trọng Kim và một số trí thức có tiếng tăm được giao thành lập nội các ở Huế vào ngày 17 tháng 4 năm 1945.[3][18] Đây là một dạng chính phủ nghị viện đầu tiên tại Việt Nam và Trần Trọng Kim trở thành Thủ tướng đầu tiên của Việt Nam. Tham gia Nội các của ông đều là các nhà trí thức luật sư, bác sĩ, kỹ sư (một giáo sư, hai kỹ sư, bốn bác sĩ, bốn luật sư):[19]
- Trần Đình Nam (1896-1974) y sĩ Đông Dương, Bộ trưởng Nội vụ.
- Trần Văn Chương (1898 – 1986), Tiến sĩ Luật, Bộ trưởng Ngoại giao.
- Trịnh Đình Thảo (1901-1986), Tiến sĩ Luật, Bộ trưởng Tư pháp.
- Vũ Văn Hiền (1911-1963), Tiến sĩ Luật, Bộ trưởng tài chính.
- Hoàng Xuân Hãn (1908-1996), Giáo sư, Thạc sĩ toán học, Bộ trưởng giáo dục và Mỹ thuật.
- Vũ Ngọc Ánh (1901-1945), Bác sĩ Y khoa, Bộ trưởng Y tế.
- Lưu Văn Lang (1880-1969), Kỹ sư bách nghệ được vua Bảo đại mời làm Bộ trưởng Công chính, nhưng đến giờ chót ông từ chối vì tuổi cao.
- Hồ Tá Khanh (1908-1996), Bác sĩ Y khoa, Bộ trưởng Kinh tế.
- Nguyễn Hữu Thi (1899-?), Y sĩ, đại thương gia, Bộ trưởng tiếp tế.
- Phan Anh (1911-1990) Luật sư, Bộ trưởng Thanh niên.
Ngoài các thành viên Nội các, nhiều nhà trí thức có tiếng tăm cùng tham gia công việc của chính quyền:[19] Phan Kế Toại (Khâm sai Bắc bộ), Bác sĩ Trần Văn Lai (Thị trưởng Hà Nội), Giáo sư Nguyễn Lân (Thị trưởng Huế), Phó bảng Đặng Văn Hướng (Tỉnh trưởng Nghệ An), Phó bảng Hà Văn Đại (Tỉnh trưởng Hà Tĩnh), Giáo sư Đặng Thai Mai (Tỉnh trưởng Thanh Hóa)… Các ông Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu, Trần Duy Hưng, Nguyễn Xiển, Vũ Văn Cẩn, Ngụy Như Kontum, được mời ra thành lập Hội đồng Thanh niên. Tạ Quang Bửu được mời làm Cố vấn đặc vụ ủy viên Bộ Thanh niên và Kỹ sư Lê Duy Thước làm Chánh văn phòng Bộ.
Một chính phủ được thành lập trong bối cảnh lịch sử như chính phủ Trần Trọng Kim, thông thường dễ bị coi là thân Nhật, là tay sai Nhật. Và thực tế đã bị coi như vậy.
Giáo sư Đinh Xuân Lâm có viết: “Nội các Trần Trọng Kim, với thành phần là những trí thức có tên tuổi, trong đó phải kể tới một số nhân vật tiêu biểu của nước ta trước năm 1945, có uy tín đối với nhân dân, như: Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Trịnh Đình Thảo, Phan Anh… Họ đều là giáo sư, Luật gia, nhà báo, chưa hề dính líu với bộ máy quan trường, trước đó lại có nhiều hoạt động thể hiện có tư tưởng yêu nước, có tinh thần dân tộc, nên được nhiều người ngưỡng mộ…”.[20]
Theo Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng: “Với an ninh, quốc phòng và kinh tế tài chánh đều nằm trong tay quân đội Nhật, tất cả những gì mà chính phủ Trần Trọng Kim có thể đạt được trong việc giành lại chủ quyền cho Việt Nam thực tế là chỉ có tính cách biểu tượng. Nhưng trong tình huống Đông Dương vào năm chót của thế chiến thứ hai, biểu tượng đóng một vai trò rất quan trọng. Biết rằng thất bại của Nhật Bản chỉ là một vấn đề thời gian, Trần Trọng Kim và chính phủ của ông đưa ra một chương trình nhằm thay đổi tâm lý người Việt đến mức mà đất nước sẽ không thể trở lại tình trạng thuộc địa nữa một khi chiến tranh chấm dứt…”.[21]
Tháng 6 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam; đặt quốc thiều là bài “Đăng đàn cung“; quốc kỳ có “nền vàng hình chữ nhật, giữa có hình quẻ Ly màu đỏ thẫm”.[17]
Chính phủ Trần Trọng Kim thực tế vẫn nằm dưới sự bảo hộ của quân đội Nhật chiếm đóng Đông Dương. Nhật Bản đưa ra chính sách Đại Đông Á, tuyên bố “giúp các dân tộc da vàng đánh đổ ách thống trị của thực dân da trắng để lập nên khu vực thịnh vượng chung”, nhưng thực ra đó chỉ là một tên gọi cho ách chiếm đóng mới của quân phiệt Nhật. Vai trò của Nhật, theo kế hoạch của người Nhật, không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế, mà còn bảo vệ quân sự và dẫn dắt chính sách nội bộ của các nước trong khối, miền Nam Châu Á sẽ trở thành thị trường và nơi cung cấp nguyên liệu.
Vì vậy nhiều người cho rằng đây chỉ là một chính phủ bù nhìn thân Nhật, không có thực quyền và không có được sự ủng hộ của dân chúng. Nó được xếp chung với các chính phủ bù nhìn do Nhật thành lập tại các nước bị họ chiếm đóng trong thế chiến thứ 2 như Mãn Châu quốc, Chính phủ Uông Tinh Vệ, Mông Cương, Đệ nhị Cộng hòa Philipine…[22] Cùng với sự bại trận của Nhật bản trong thế chiến, tất cả các chính phủ này đều tự sụp đổ hoặc bị Đồng Minh giải thể trong năm 1945[22], dù cho Cách mạng tháng Tám không nổ ra thì chính phủ này cũng sẽ bị giải thể khi quân Đồng Minh (Anh và Pháp) tới Việt Nam vào tháng 9/1945.
Việc Nhật chiếm đóng vào thời điểm 1945 đã gây ra những hậu quả tai hại cho Việt Nam như nạn đói năm Ất Dậu, chính phủ Trần Trọng Kim tuy muốn nỗ lực cứu đói nhưng phương tiện, nhân lực đều do quân Nhật nắm và nhất là giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển từ Nam ra Bắc đều bị quân Đồng minh cắt đứt nên không làm tình hình được cải thiện.
Về hành chánh, Nhật đảo chính lật đổ Pháp ngày 09 tháng 03 năm 1945, nhưng không trao trả toàn bộ chủ quyền đất nước lại cho chính quyền Đế quốc Việt Nam, mà mãi đến tháng 7 năm 1945, sau các cuộc thương lượng của Trần Trọng Kim, toàn quyền Nhật là Tsuchihashi mới trả lại cho chính phủ Đế quốc Việt Nam ba thành phố nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng và Ðà Nẵng kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1945.
Khi quân Nhật thất trận sắp đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trần Trọng Kim cũng chỉ tồn tại được đến ngày 23 tháng 8 năm 1945 thì sụp đổ.[1][23] Tuy nhiên, trong thời gian ngắn ngủi, chính phủ này cũng đã làm được một việc quan trọng là thống nhất về mặt danh nghĩa đất Nam Kỳ vào đất nước Việt Nam; và thay chương trình học bằng tiếng Pháp bậc tiểu học và trung học sang chương trình học bằng tiếng Việt, do học giả Hoàng Xuân Hãn biên soạn.[17] Hành chánh được cải tổ với việc dùng chữ Việt trong tất cả các giao dịch của chính phủ ngoại trừ lĩnh vực y tế và các văn thư liên lạc với Pháp hoặc các công ty của người Trung Hoa.[17]
Chính phủ Trần Trọng Kim không có quân đội để tránh phải tham gia chiến tranh thế giới thứ II với tư cách đồng minh của Nhật Bản. Bộ trưởng Bộ thanh niên Phan Anh đã thành lập đoàn Thanh niên Tiền tuyến, Thanh niên Xã hội để thực hiện công tác trị an, bảo vệ. Tuy nhiên khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, lực lượng Thanh niên Tiền tuyến đã rời bỏ hàng ngũ Đế quốc Việt Nam để quay sang ủng hộ Việt Minh. Trường Thanh niên tiền tuyến đã đào tạo ra nhiều tướng lĩnh, sĩ quan của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau này.
Mới ra mắt được 4 tháng, ngày 5/8, hàng loạt thành viên nội các Trần Trọng Kim xin từ chức: 3 bộ trưởng xin từ nhiệm, Bộ trưởng Vũ Ngọc Anh qua đời vì trúng bom máy bay Mỹ. Các bộ trưởng khác tuyên bố bản thân họ cũng bất lực, bởi không thể làm được việc gì nếu không được cố vấn tối cao Nhật đồng ý, trong khi vua Bảo Đại chỉ lo ăn chơi, săn bắn mà không quan tâm đến chính trị. Trần Trọng Kim cố gắng liên hệ nhưng các nhân vật cấp tiến đều khước từ cộng tác, đến đầu tháng 8 chính Trần Trọng Kim cũng nói mình bị “tăng huyết áp” và không ra khỏi nhà[24].
Trong hồi ký của mình, Trần Trọng Kim viết về giai đoạn làm chính trị dưới sự khống chế của Nhật Bản: “Nhật Bản trước vốn là một nước đồng văn đồng hóa ở Á Đông, nhưng về sau đã theo Âu hóa, dùng những phương pháp quỷ quyệt để mở rộng chủ nghĩa đế quốc của họ, trước đã thôn tính Cao Ly và Mãn Châu, sau lại muốn xâm lược nước Tàu và các nước khác ở Á Đông đã bị người Âu châu chiếm giữ. Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu “đồng minh cộng nhục” và lấy danh nghĩa “giải phóng các dân tộc bị hà hiếp” nhưng thâm ý là muốn thu hết quyền lợi về mình”[25].
Lưu vong và hồi hương
Sau khi Việt Minh giành được chính quyền và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Trần Trọng Kim lưu vong ra nước ngoài. Sau nhiều năm tháng ở Quảng Châu và Hồng Kông, ngày 6 tháng 2 năm 1947, ông trở về Sài Gòn và sống tại nhà luật sư Trịnh Đình Thảo. Người Pháp thu xếp cho ông trở về Sài Gòn để vận động thành lập chính phủ mới. Về đến Sài Gòn, ông nhận ra rằng những lời hứa hẹn của người Pháp là giả dối nên ông quyết định không làm gì.
Năm 1948, ông qua Phnom Penh và sống với người con gái. Sau đó, ông lại trở về Việt Nam sống thầm lặng và mất tại Đà Lạt vào ngày 2 tháng 12 năm 1953, thọ 71 tuổi.
Các câu nói và nhận xét của người xung quanh
Trần Trọng Kim được đánh giá là một học giả uyên thâm cả tân học và cựu học, là người tận tụy cho ngành giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, ông là người có tư tưởng bảo thủ và bảo hoàng, ông chủ trương duy trì nền quân chủ tại Việt Nam. Phan Anh, Bộ trưởng Thanh niên trong Nội các của ông, nhận xét:
- “Tôi quen Trần Trọng Kim từ ngày ông còn dạy học, viết sử. Trong những tác phẩm của mình, ông động viên ý chí quật cường cho thanh niên… Tôi rất có cảm tình đối với ông ấy. Trần Trọng Kim là một người yêu nước nhưng không phải là một nhà chính trị. Ông ta cần được sự giúp đỡ ý kiến” [26]
Câu nói của Trần Trọng Kim khi gặp đại diện của Việt Minh, Lê Trọng Nghĩa:
- “Lịch sử sẽ phán xét công việc của chúng tôi” [27][28][29]
Khi ông Kim gặp Tổng tư lệnh Tsuchihashi để yêu cầu Nhật trả lại ba tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và toàn bộ đất Nam kỳ cho Việt Nam:
- “Quân đội Nhật đã đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa hẹn trả quyền tự chủ cho nước Việt Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự khó khăn của hoàn cảnh mà đứng ra lập chính phủ. Tôi làm việc một lòng giúp nước tôi, cũng như các ông lo việc giúp nước Nhật… Nếu các ông cho tôi là người làm việc cho nước Nhật, việc ấy không phải là phận sự của tôi, tôi sẵn sàng xin lui…” [30]
Về vai trò của chính phủ Trần Trọng Kim
Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, chiến tranh thế giới thứ 2 đang xảy ra. Nhật đã dành quyền ảnh hưởng tại Đông Dương từ tay Pháp, Nhật cần 1 chính phủ mới tại Việt Nam phụ thuộc, ủng hộ các quyền lợi của mình tại chiến lược bành trướng châu Á Thái Bình Dương. Pháp, các đế quốc châu Âu muốn giữ quyền lợi vốn có của mình tại các nước thuộc địa Đông Nam Á. Nước Mỹ, lực lượng chính của phe Đồng Minh tại mặt trận Thái Bình Dương muốn ngăn chặn và triệt tiêu ảnh hưởng của Nhật. Tình hình trong nước trở nên hỗn loạn khi Nhật đảo chính, kiểm soát tại các vùng quê của chính quyền mới là yếu kém, lực lượng quản lý hành chính chưa kịp đào tạo, lực lượng an ninh quân sự phụ thuộc vào Nhật.
Chính phủ Trần Trọng Kim muốn lợi dụng Nhật để hất cẳng hoàn toàn ảnh hưởng của Pháp, và tăng cường ý thức phản kháng của người dân khi quân Pháp trở lại. Lực lượng Việt Minh với mục tiêu khác biệt không thể dung hòa với chính phủ Trần Trọng Kim, họ đã ra chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chớp lấy thời cơ Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, phải rải ráp vũ khí, lực lượng Việt Minh đã kêu gọi dân chúng biểu tình, bãi công, cướp lấy chính quyền. Chính phủ Trần Trọng Kim ý thức được sự hạn chế của mình nên đã tuyên bố giải tán và bàn giao chính quyền cho Việt Minh, tạo điều kiện cho cuộc Cách mạng tháng 8 diễn ra suôn sẻ. Sau khi chính quyền Việt Minh được thành lập, nhiều nhân vật của chính phủ Trần Trọng Kim đã tham gia vào chính phủ của Việt Minh.[19]
Chính phủ Trần Trọng Kim thường được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mô tả trong các tài liệu nghiên cứu chuyên môn trước và sau năm 1975, một cách trực tiếp hay gián tiếp, là bù nhìn của Nhật.[31][32][33][34] Giới sử học phương Tây thì coi Đế quốc Việt Nam là một dạng chính phủ bù nhìn do Nhật thành lập tại các nước bị họ chiếm đóng trong thế chiến thứ 2 như Mãn Châu quốc, Chính phủ Uông Tinh Vệ, Mông Cương, Đệ nhị Cộng hòa Philipine… Cùng với sự bại trận của Nhật bản trong thế chiến, tất cả các chính phủ này đều tự sụp đổ hoặc bị Đồng Minh giải thể trong năm 1945[35] Chính phủ Trần Trọng Kim được phương Tây coi là một bộ phận của chính sách Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á của Nhật nhằm chiếm đóng Đông Á trong Đệ nhị thế chiến, trong đó các chính quyền bản xứ phải vận động người dân và nền kinh tế trong nước phục vụ cho lợi ích của Đế quốc Nhật Bản[36].
Phan Anh, bộ trưởng bộ Thanh niên của chính phủ Trần Trọng Kim và cũng là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đầu tiên của chính phủ Việt Minh, đã trả lời cuộc phỏng vấn của nhà sử học Na Uy Stein Tonnesson năm 1989:
- “… Chúng tôi không muốn bị cả người Pháp lẫn người Nhật đánh lừa mình… Chúng tôi nghĩ rằng nhiệm vụ cấp bách là phải đuổi bọn Pháp ra khỏi bộ máy hành chính. Chúng tôi huy động sinh viên, công chức làm việc đó, đòi Nhật làm việc đó.
- Khẩu hiệu thứ hai của chúng tôi là tạm thời ngồi làm việc với người Nhật, nhưng không phải là “đồng tác giả”, không phải là “kẻ hợp tác” với họ; phải giữ thế trung lập”.[37]
- “… Lấy tư cách là thành viên của chính phủ Trần Trọng Kim, tôi nói với ông rằng chúng tôi tuyệt đối không có ảo vọng gì về người Nhật. Tình thế đã dứt khoát rồi. Phải là kẻ điên mới đi hợp tác với Nhật. Có những người điên, nhưng chúng tôi là trí thức, chúng tôi tham gia chính phủ là để phụng sự… Chính vì muốn giữ thế trung lập mà chúng tôi đã quyết định không có bộ Quốc phòng. Người Nhật muốn có bộ ấy để lôi kéo chúng tôi đi với họ. Thay bộ ấy chúng tôi lập Bộ Thanh niên. Phong trào Việt Minh đã nổi tiếng và gây được hiệu quả là vì được thanh niên ủng hộ. Chúng tôi vận động một phong trào thanh niên là nhằm mục đích quốc gia và mục đích xã hội. Phong trào thanh niên của chúng tôi không hề xung đột gì với Việt Minh. Cùng theo đuổi một mục tiêu như nhau mà!”…[37]
- Và đến lúc Nhật đầu hàng Đồng Minh, ngày 8/5/1945, ông Kim còn phải ra bản tuyên cáo, yêu cầu quốc dân “chúng ta chỉ phải giữ vững cuộc trị an trong nước và chịu những hy sinh cần thiết để cho quân đội Nhật Bản được chúng ta tận tâm giúp đỡ về mặt tinh thần và vật chất. Nền độc lập của chúng ta có như thế mới vững bền” (Việt Nam tân báo ra ngày 18/5/1945).
Thu hồi Nam Kỳ
Về việc thu hồi Nam Kỳ thì cuộc thương thuyết với Toàn quyền Tsuchihashi có kết quả mặc dù lúc đầu Tsuchihashi còn do dự vì triều đình Cao Miên cũng đòi đất Nam Kỳ. Thủ tướng Trần Trọng Kim phái Nguyễn Văn Sâm là khâm sai vào Sài Gòn tiếp thu. Đại sứ Yokoyama ở Huế theo đó tuyên bố trao trả Nam Kỳ cho triều đình Huế. Ở ngoài Bắc thì Thống sứ Nishimura bàn giao với khâm sai Phan Kế Toại tại Hà Nội ngày 12 Tháng 8, trong khi đó Thống đốc Minoda ở Sài Gòn đang đợi khâm sai Nguyễn Văn Sâm nhưng vị khâm sai mãi đến ngày 19 mới đến nơi. Ngày 14 Tháng 8, chính phủ Trần Trọng Kim công bố chính thức tiếp thu Nam Kỳ. Chỉ được non mười ngày, Lực lượng Quốc gia Thống nhứt cùng Việt Minh vào chiếm các cơ sở công quyền ở Sài Gòn ngày 24 Tháng 8, 1945. Sang ngày 26 thì khâm sai Nguyễn Văn Sâm từ nhiệm sau khi được tin vua Bảo Đại đã thoái vị ở Huế, chấm dứt thể chế Đế quốc Việt Nam.[38]
Sự bất lực trước thời cuộc
Ở Việt Nam, đa số quần chúng tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt với sự “độc lập” do quân đội Nhật dựng nên. Ngày 17/3/1945, ở các hương thôn, lý trưởng được lệnh tổ chức dân chúng mừng sự ra đời của Đế quốc Việt Nam tại các đình làng, nhưng không khí rất ảm đạm:
- “Cửa đình mở rộng, trước sân đình có cờ, chuông, trống, như ngày cúng Thần. Hội đồng xã chỉ lưa thưa có mấy ông. Dân chúng chẳng ai đến cả, trừ một số chức việc có phận sự trong làng. Đến giờ, chuông trống nổi dậy, hương xã làm lễ tế Thần. Lý trưởng đọc lời ‘tuyên cáo độc lập’. Y như một bài văn tế. Xong, chiêng trống tiếp tục và buổi lễ chấm dứt không đầy 30 phút. Không một tiếng vỗ tay. Không một lời hoan hô. Các ông làng xã, khăn đen áo dài khệ nệ như trong các đám cúng Thần theo nghi lễ cổ truyền, lặng lẽ đóng cửa đình sau khi dọn dẹp”[39]
Việc đưa Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các cho Bảo Đại trước sau đều do người Nhật đạo diễn để dẫn dụ ông, chứ bản thân ông tự ý thức bản thân mình bất lực, họ trao quyền cũng chỉ để biến ông thành bù nhìn[39] Trong thư viết ngày 8/5/1947 tại Sài Gòn gửi học giả Hoàng Xuân Hãn, ông Trần Trọng Kim nói về tình hình yếu kém của Đế quốc Việt Nam năm 1945, sự bất lực của ông và vai trò tiếp quản của Việt Minh như sau[25]:
- “Còn về phương diện người mình (Đế quốc Việt Nam), thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng nhăng chẳng đâu vào đâu cả. Ai cũng nói vì lòng ái quốc, nhưng cái lòng ái quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa vị và quyền lợi, thành ra tranh giành nhau, nghi kỵ nhau rồi lăng mạ lẫn nhau… Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó khăn quá, mà mình thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái địa vị bàng quan mà thôi… Tôi vẫn biết việc chống Pháp chỉ có Việt Minh mới làm nổi… Nay Việt Minh đứng vào cái địa vị chống Pháp, tất là có cái thanh thế rất mạnh…”.
Tác phẩm
Trước năm 1945, Trần Trọng Kim có nhiều tác phẩm nổi tiếng thời bấy giờ về các lĩnh vực sử học, văn học, nghiên cứu và sư phạm gồm:
Tác phẩm Việt Nam sử lược được đánh giá là một trong những quyển sử Việt Nam có phong cách ngắn gọn, súc tích và dễ hiểu, được tái bản nhiều lần.
Sau năm 1945, ông viết hồi ký:
Chú thích
- ^ a ă Justin Corfield (2013). Historical Dictionary of Ho Chi Minh City. Nhà xuất bản Anthem Press. ISBN 0857282352. Trang 299.
- ^ Bằng Giang (1999). Sài Côn cố sự 1930-1975. Nhà xuất bản Văn học. Trang 111.
- ^ a ă Huỳnh Kim Khánh (1986). Vietnamese Communism, 1925-1945. Nhà xuất bản Đại học Cornell. ISBN 0801493978. Trang 295.
- ^ Quốc Liên Mai, Văn Lưu Nguyễn, Hoài Anh, Minh Đức Hà (2004). Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Tập 5, Phần 2. Nhà xuất bản Văn học. Trang 859.
- ^ “Trần Trọng Kim học giả”. Báo Tia sáng, bộ Khoa học và Công nghệ. Truy cập 2 tháng 7 năm 2014.
- ^ a ă â Quốc Liên Mai, Văn Lưu Nguyễn, Hoài Anh, Minh Đức Hà (2007). Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Tập 3, Phần 1. Nhà xuất bản Văn học. Trang 621.
- ^ Trần Văn Giáp (2007). Lược truyện các tác giả Việt Nam, Tập 2. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Trang 121.
- ^ Lữ Giang (1999). Những bí ẩn đằng sau cuộc chiến Việt Nam, Tập 1. Trang 190.
- ^ Xem hồi ký ‘Những cơn gió bụi’
- ^ Guy Faure, Laurent Schwab (2008). Japan-Vietnam: A Relation Under Influences. Publisher NUS Press. ISBN 9971693895. Trang 27.
- ^ Archimedes L. A. Patti (1982). Why Viet Nam?: Prelude to America’s Albatross. Publisher: University of California Press. ISBN 0520047834. Trang 330.
- ^ Justin Corfield. Historical Dictionary of Ho Chi Minh City. Publisher Anthem Press. ISBN 0857282352. Trang 138. “Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố Việt Nam độc lập”.
- ^ Nghia M. Vo (2011). Saigon: A History. Publisher McFarland. ISBN 0786486341. Trang 112.
- ^ Phạm Khắc Hòe (1983). Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc. Nhà xuất bản Hà Nội. [cần số trang]
- ^ Masaya Shiraishi trích trong L Indochine française (Đông Dương thuộc Pháp) của Paul Isoart, Nhà xuất bản Presses Universitaires Françaises, 1982
- ^ Bảo Đại, hay là những ngày cuối cùng của vương triều An Nam, Daniel Grandcléme. NXB Phụ nữ. Trang 184
- ^ a ă â b c “Trần Trọng Kim, chính khách bất đắc dĩ?”. Báo Tia Sáng. Truy cập 3 tháng 7 năm 2014.
- ^ Thomas Hodgkin (1981).Vietnam: the revolutionary path. Nhà xuất bản Macmillan. Trang 362.
- ^ a ă â “Lệ thần Trần Trọng Kim (1883 – 1953): Học giả & Chính khách”. Tạp chí Văn hóa Nghệ An. Truy cập 3 tháng 7 năm 2014.
- ^ Nội các Trần Trọng Kim với Trường Thanh niên tiền tuyến Huế năm 1945. Tạp chí Huế – Xưa và Nay. Số tháng 7,8 năm 2005.
- ^ Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng (ngày 15 tháng 4 năm 2006). “Chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945”. Đài Á Châu Tự do. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2013.
- ^ a ă Organization and order or batte of militaries in World war II: Germany’s and Imperial Japan’s allies & Puppet states. P 5-7
- ^ PGS. TS. Phạm Hồng Tung. Nội các Trần Trọng Kim: Bản chất, vai trò và vị trí lịch sử. Chương 2. Bản tóm tắt.
- ^ http://www.thanhnien.com.vn/van-hoa-nghe-thuat/nhung-ngay-lam-vua-cuoi-cung-cua-hoang-de-bao-dai-ky-2-thong-diep-gui-tuong-de-gaulle-604356.html
- ^ a ă http://www.nhandan.com.vn/mobile/_mobile_chinhtri/_mobile_binhluanphephan/item/25800102.html
- ^ “Điều mấu chốt là Chủ tịch Hồ Chí Minh tin trí thức”. Tạp chí Văn hóa Nghệ An. Truy cập 3 tháng 7 năm 2014.
- ^ ‘Tưởng nhớ Phan Anh’ do Hoàng Xuân Hãn viết, tập I. Tạp chí Hồng Lĩnh, số 6 năm 1993
- ^ La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) do Hữu Ngọc – Nguyễn Đức Hiền biên soạn. Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, tr. 370-378.
- ^ Lê Trọng Nghĩa, “Các Cuộc Tiếp Xúc Giữa Đại Diện Việt Minh Với Chính Phụ Trần Trọng Kim”, trong Xưa và Nay, số 5 (06), VIII,. 1994, tr. 4 6 và số 6 (07), IX, 1994, tr. 9 -.
- ^ Một đoạn trong sách của G.S Lê Xuân Khoa (SĐD): “Khoảng tháng 6-1945
- ^ Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, tr. 370-378.
- ^ ‘Việt Nam: Những Sự Kiện Lịch Sử (1919 – 1945)’ của Dương Trung Quốc
- ^ ‘Lịch Sử Việt Nam Giản Yếu’. Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia
- ^ Lịch Sử Việt Nam, tập II. Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1989.
- ^ Organization and order or batte of militaries in world war ii: germany’s and imperial japan’s allies & Puppet states. P 5-7
- ^ Lebra, Joyce C. Japan’s Greater East Asia Co-Prosperity Sphere in World War II: Selected Readings and Documents. New York: Oxford University Press, 1975, p. 157, 158, 160
- ^ a ă “Giáo sư Stein Tonnesson phỏng vấn Bộ trưởng Phan Anh”. Nghĩ về nước Việt. Truy cập 3 tháng 7 năm 2014.
- ^ Dommen, Arthur J. The Indochinese Experience off the French and the Americans, Nationalism and Communism in Cambodia, Laos, and Vietnam. Bloomington, IN: Indiana University Press, 2001. 101-756.
- ^ a ă http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/tan-man-nhan-vat-lich-su-tran-trong-kim-qua-nhung-trang-hoi-ky
Xem thêm
Liên kết ngoài
Thể loại:
Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
|