Thể loại:
Ý
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ý (gọi tắt từ Hán-Việt Ý Đại Lợi), còn gọi là I-ta-li-a (tiếng Ý: Italia), quốc danh hiện tại là Cộng hoà Ý (tiếng Ý: Repubblica Italiana), là một quốc gia nằm ở Bán đảo Ý phía Nam Châu Âu, và trên hai hòn đảo lớn nhất tại Địa Trung Hải, Sicilia và Sardegna. Ý có chung biên giới phía bắc là dãy Alpine với Pháp, Thuỵ Sĩ, Áo và Slovenia. Các quốc gia độc lập San Marino và Thành Vatican là những lãnh thổ nằm gọn bên trong bán đảo Ý, còn Campione d’Italia lại là một vùng đất của Ý nằm trong lãnh thổ Thuỵ Sĩ.
Ý từng là nơi xuất phát của nhiều nền văn hoá Châu Âu, như Etruscan và La Mã, và sau này cũng là nơi sản sinh ra phong trào Phục hưng Ý. Thủ đô Roma của Ý từng là trung tâm của nền Văn minh phương Tây, và là trung tâm của Giáo hội Công giáo La Mã.
Ngày nay, Ý là một nền cộng hoà dân chủ, và là một quốc gia phát triển với GDP đứng hàng thứ 7 và thứ 20 về Chỉ số phát triển con người của thế giới. Nước này là một thành viên sáng lập của tổ chức tiền thân Liên minh Châu Âu ngày nay (đã ký kết Hiệp ước Roma năm 1957), và cũng là một thành viên của G8, Hội đồng Châu Âu, Liên minh Tây Âu, và tổ chức Sáng kiến Trung Âu. Bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 2007, Ý đã trở thành một thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Đồng thời, Ý cũng được coi là một cường quốc[4].
Nguồn gốc quốc hiệu
Danh xưng “Ý Đại Lợi” và giản xưng của nó là “Ý” trong tiếng Việt bắt nguồn từ “意大利”, dịch danh Trung văn của quốc hiệu nước Ý (Italia).
Nguồn gốc và ý nghĩa của thuật ngữ “Italia” là không chắc chắn. Theo một trong những cách giải thích thường thấy, thuật ngữ này được lấy từ Hy Lạp, từ Oscan Víteliú, có nghĩa “vùng đất của gia súc” (cần nhớ, từ tiếng Romanian chỉ gia súc là vite) và được đặt cho vị thánh của gia súc, Ares[5]. Con bò là một biểu tượng của các bộ tộc miền nam Italia và thường được thể hiện đang húc con chó sói La Mã như một biểu tượng bất khuất của Italia tự do trong Các cuộc chiến tranh Samnite.
Cái tên Italia được dùng cho một phần của vùng hiện là phía nam Ý. Theo Antiochus xứ Syracuse, ban đầu nó chỉ vùng phía nam của bán đảo Bruttium (Calabria hiện nay), nhưng ở thời ông Oenotria và Ý đã trở thành từ đồng nghĩa, và cái tên này cũng được dùng để gọi hầu hết vùng Lucania. Người Hy Lạp dần sử dụng cái tên “Italia” cho một vùng đất rộng lớn hơn, nhưng chỉ tới thời các cuộc chinh phục của La Mã thì thuật ngữ này mới mở rộng để chỉ toàn bộ bán đảo[6].
Lịch sử
-
Tiền sử tới Magna Graecia
Những cuộc khai quật trên khắp Ý cho thấy sự hiện diện của con người tại đây có từ thời kỳ đồ đá cũ khoảng 200.000 năm trước. Ở thế kỷ thứ 7 và thứ 8 trước Công nguyên, các tập đoàn Hy Lạp đã được thành lập ở những nơi rất tách biệt tại vùng bờ biển phía đông Biển Đen và Massilia (hiện là Marseille, Pháp). Các tập đoàn này gồm những khu định cư tại Sicilia và vùng phía nam bán đảo Italia. Những người La Mã gọi vùng Sicilia và vùng phía nam Ý là Magna Graecia (tiếng Latin, “Đại Hy Lạp”), bởi nơi đây có nhiều người Hy Lạp sinh sống[7][8][9].
La Mã cổ đại
Đấu trường
Colosseum tại vatican, có lẽ là biểu tượng trường tồn nhất của nước Ý
-
La Mã cổ đại là một nền văn minh phát triển từ một cộng đồng nông nghiệp nhỏ được thành lập trên Bán đảo Ý khoảng thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên trở thành một đế chế to lớn trải dài khắp Địa Trung Hải. Ở thế kỷ hai TCN, nền văn minh La Mã đã chuyển từ một chế độ quân chủ, nhà nước cộng hoà dựa trên sự phối hợp giữa chính thể đầu sỏ và quân chủ, trở thành một đế chế chuyên chế. Đế chế này đã thống trị nam Tây Âu và toàn bộ vùng bao quanh Địa Trung Hải sau những cuộc chinh phục và đồng hoá.
Nước Ý, ở thời Cộng hoà La Mã và Đế chế La Mã sau này, là tên gọi của bán đảo Ý. Trong thời Cộng hoà, Ý (ở thời ấy đã mở rộng từ Rubicon thành Calabria) không phải là một tỉnh, mà là một vùng lãnh thổ của thành phố La Mã, vì thế nó có quy chế đặc biệt: ví dụ, các chỉ huy quân sự không được phép mang quân đội của mình vào trong Ý, và việc Julius Caesar cùng đội quân của mình vượt qua Rubicon đã đánh dấu sự bắt đầu của cuộc nội chiến.
Từ thế kỷ thứ 3, Đế chế La Mã bắt đầu suy tàn. Nửa phía tây của Đế chế, gồm Hispania, Gaul, và Italia, tan vỡ thành nhiều vương quốc độc lập ở thế kỷ thứ 5. Vùng phía đông đế chế, dưới sự cai trị của Constantinopolis, thường được gọi là Đế chế Byzantine sau năm 476, thời điểm truyền thống của “sự sụp đổ của La mã” và sự khởi đầu sau đó của Buổi đầu thời Trung Cổ, cũng thường được gọi là Đêm trường Trung Cổ.
Thời kỳ Trung Cổ
-
Vương miện sắt đã được các vị vua cai trị vùng Lombardy đội. Họ đã lập ra một
Vương quốc Ý tồn tại đến tận năm 774, khi nó bị những
người Frank chinh phục. Những ảnh hưởng của vương quốc này trên địa chính trị Ý vẫn hiển hiện trong tên gọi vùng
Lombardy.
Ở thế kỷ thứ 6 Công Nguyên Hoàng đế Justinianus I của Đế chế Byzantine tái chinh phục Ý từ tay người Ostrogoth. Cuộc xâm lược của một làn sóng các bộ lạc German, Lombard, đã khiến những nỗ lực khôi phục Đế chế Tây La Mã của ông không thành công nhưng những tiếng vang từ sự thất bại của Justinian vẫn còn đó. Trong mười ba thế kỷ tiếp sau, tuy các thành bang xuất hiện ở vùng đất phía bắc dãy Alps, bối cảnh chính trị Ý vẫn là một sự chắp vá giữa kiểu thành bang phong kiến, quốc gia chuyên chế nhỏ, và những kẻ chinh phạt ngoại bang.
Trong nhiều thế kỷ các đội quân và các Quan trấn thủ, những người kế vị Justinian, là lực lượng có sức mạnh chi phối tại Ý – đủ mạnh để ngăn chặn các thế lực khác như người Ả Rập, Thánh chế La Mã, hay Quốc gia của các Giáo hoàng thành lập một Vương quốc Ý thống nhất, nhưng chưa đủ sức ngăn cản “những kẻ ngáng đường” đó và tái lập Ý-La Mã.
Các vương quốc sau đó như Karoling, Otto và Hohenstaufen cũng đã tìm cách thiết lập sự cai trị tại Ý. Nhưng những thành công của họ cũng chỉ mang tính nhất thời như Justinian Đại đế và một quốc gia Ý thống nhất vẫn chỉ là một giấc mơ mãi tới tận thế kỷ 19.
Không đế chế nào bên kia dãy Alps có thể thành công trong việc thống nhất Ý – hay thiết lập được quyền bá chủ trong một giai đoạn dài – vì những thành công của họ đe doạ sự tồn tại của các thế lực bên trong Ý Trung Cổ: Byzantine, Giáo hoàng và người Norman. Những người đó là hậu duệ của người Lombard, đã hợp nhất với những nhóm sắc tộc Ý thời kỳ đầu, hợp lực chống lại, chiến đấu và cuối cùng phá huỷ mọi nỗ lực tạo lập một cơ chế chính trị thống trị ở Ý. Chính khoảng trống trong cơ quan quyền lực này dẫn tới sự nổi lên của các định chế Signoria và Communi.
Comuni và Signorie
-
Palazzo Vecchio, trước kia được gọi là Palazzo della Signoria
Trong lịch sử Ý sự xuất hiện của Signorie (số ít: Signoria) là một giai đoạn đi cùng với sự suy tàn của hệ thống cai trị Công xã Trung Cổ và sự trỗi dậy của nhà nước triều đình. Trong hoàn cảnh này từ Signoria (ở đây được hiểu là “Quyền lực Lãnh chúa”) là sự đối lập với định chế Công xã hay cộng hoà thành bang.
Quả vậy, những nhà quan sát thời đó và các nhà sử học hiện đại coi sự xuất hiện của Signoria là phản ứng với sự bất lực của Communi trong duy trì luật lệ và trật tự cũng như ngăn chặn xung đột phe phái và bất ổn dân sự. Trong những điều kiện hỗn loạn thường xảy ra ở các thành bang Ý thời Trung Cổ, mọi người đều hy vọng vào một cá nhân mạnh mẽ để tái lập trất tự cũng như giải giáp giới quý tộc phong kiến.
Ở thời hỗn loạn hay khủng khoảng, các thành phố thỉnh thoảng trao chức Signoria cho các cá nhân được coi là đủ mạnh để cứu vớt nhà nước. Ví dụ, thành bang Tuscan ở Pisa đã trao chức Signoria cho Vua Charles VIII của Pháp với hy vọng ông sẽ bảo vệ nền độc lập của Pisa trước kẻ thù lâu đời là Firenze. Tương tự, Siena đã trao chức Signoria cho Cesare Borgia.
Các kiểu Signoria
Thành phần và các chức năng chuyên biệt của Signoria (quý tộc Ý) khác biệt tại mỗi thành phố. Ở một số thành bang (như Verona dưới sự cai quản của gia đình Della Scala hay Firenze ở thời Cosimo de Medici và Lorenzo the Magnificent) chính thể là cái mà ngày nay chúng ta có thể miêu tả bằng thuật ngữ nhà nước độc đảng theo đó đảng ưu thế nắm chức Signoria của thành bang trong tay một gia đình hay triều đại.
Tại Firenze sự sắp xếp này là không chính thức bởi nó không được hợp pháp hoá trong hiến pháp trước khi Medici bị trục xuất khỏi thành phố năm 1494.
Tại các thành bang khác (như Milano của Visconti) quyền lực mang tính triều đại của Signoria được công nhận chính thức như một phần của hiến pháp của Commune’, và đã được Nhân dân “phê chuẩn” cũng như được Giáo hoàng hay Thánh chế La Mã công nhận.
Những nước cộng hoà gần biển
-
Cờ hiệu Hải quân Ý, với quốc huy của bốn
Repubbliche Marinare chính
[10]
Ý ở thời điểm này được biết đến nhờ các nước cộng hoà thương mại, gồm Cộng hoà Firenze và Các nước Cộng hoà ven biển. Đó là các thành bang và nói chung là những chính thể cộng hoà theo đó chúng chính thức là các quốc gia độc lập, dù đa số trước kia là những vùng lãnh thổ từng thuộc Đế chế Byzantine (ngoại trừ đáng chú ý là Genova và Pisa). Tất cả các thành phố đó ở thời điểm có quyền độc lập đều có các hệ thống quản lý tương tự (dù không phải là giống hệt) theo đó giới thương nhân có quyền lực to lớn. Dù trên thực tế quyền lực vẫn nằm trong tay tập đoàn chính trị đầu sỏ, và ít có điểm giống với nền dân chủ hiện đại, tuy vậy sự tự do chính trị có được cũng đã giúp mang lại tiến bộ trong khoa học và nghệ thuật.
Bốn nước Cộng hoà Ven biển ở Ý gồm Venezia, Genova, Pisa, Amalfi và chúng luôn được liệt kê theo thứ tự đó, phản ánh ưu thế thời ấy của từng nước. Tuy nhiên, các thị trấn khác ở Ý cũng có một lịch sử từng là những nước Cộng hoà Ven biển, dù ở tầm vóc thấp hơn. Những nước này gồm Gaeta, Ancona, Molfetta, Trani và, tại Dalmatia là Ragusa và Zara.
Venezia và Genova là cổng thương mại của Châu Âu với phương Đông, và là nơi sản xuất thuỷ tinh trang trí, trong khi Firenze từng là thủ phủ của tơ lụa và đồ trang sức. Sự giàu mạnh có được từ những mặt hàng đó đồng nghĩa với khả năng cung cấp vốn cho các dự án công cộng lớn cũng như các công trình thủ công cá nhân. Các nước cộng hoà ven biển tham gia sâu vào cuộc Thập tự chinh, hỗ trợ và quan trọng nhất là lợi dụng các cơ hội chính trị và thương mại có được từ những cuộc chiến đó. Cuộc Thập tự chinh lần thứ tư, với mục tiêu hão huyền để “giải phóng” Jerusalem, thực tế dẫn tới cuộc chinh phục Zara và Constantinopolis của Venezia.
Mỗi nước Cộng hoà Ven biển đều từng có thời điểm nắm quyền cai quản với các vùng đất hải ngoại, gồm nhiều hòn đảo thuộc Địa Trung Hải và đặc biệt là Sardinia và Corsica, những vùng đất thuộc Adriatic, và những vùng đất ở Cận Đông và Bắc Phi.
Phục hưng
-
Các cơ cấu chính trị duy nhất cuối Thời Trung Cổ ở Ý đã khiến một số người đưa ra lý thuyết rằng chính không khí xã hội bất thường đó đã cho phép sự xuất hiện của một sự phục hưng văn hoá mạnh mẽ đến như vậy. Ý bị chia thành nhiều thành bang nhỏ và lãnh thổ nhỏ: Vương quốc Napoli kiểm soát miền nam, Cộng hoà Firenze và Lãnh địa Giáo hoàng vùng trung tâm, người Genova và người Milano phía bắc và phía tây, và người Venezia phía đông. Ý ở thế kỷ 15 là một trong những vùng có mức độ đô thị hoá cao nhất Châu Âu. Đa số các nhà sử học đồng ý rằng các ý tưởng mang lại đặc điểm riêng cho phong trào Phục hưng có nguồn gốc từ Firenze hồi cuối thế kỷ 13, đặc biệt là các tác phẩm của Dante Alighieri (1265–1321) và Franceso Petrarca (1304–1374), cũng như bức hoạ của Giotto di Bondone (1267–1337).
Cái tên Phục hưng được đưa ra bởi đây là sự “tái sinh” của một số ý tưởng cổ điển từng biến mất từ lâu ở Châu Âu. Đã có tranh luận rằng nguyên nhân chính dẫn tới sự tái sinh này là việc khám phá những văn bản cổ từng bị lãng quên của nền văn minh phương Tây, được lưu giữ trong một số thư viện của tu viện và tại Thế giới Hồi giáo, cũng như việc biên dịch các văn bản tiếng Hy Lạp và tiếng Ả rập sang tiếng Latin.
Các học giả thời Trung Cổ như Niccolò de’ Niccoli và Poggio Bracciolini đã lùng tìm các tác phẩm của những học giả kinh điển như Platon, Cicero và Vitruvius trong các thư viện. Các tác phẩm thuộc Hy Lạp cổ đại và của các tác giả Hy Lạp (như Platon, Aristoteles, Euclid và Ptolemy) và các nhà khoa học Hồi giáo đã được du nhập vào thế giới Công giáo, mang lại vật liệu trí thức mới cho các học giả Châu Âu.
Nạn dịch Tử thần Đen năm 1348 đã giáng một đòn khủng khiếp vào Ý, giết hại một phần ba dân số[11].
Sự hồi phục sau thảm hoạ đã dẫn tới sự hồi sinh của các thành phố, thương mại và kinh tế tác động mạnh mẽ tới giai đoạn phát triển của Chủ nghĩa Nhân đạo và Phục hưng (thế kỷ 15-16) khi Ý một lần nữa quay trở lại vị trí trung tâm nền văn minh phương Tây, ảnh hưởng mạnh mẽ tới triều đình các quốc gia Châu Âu khác như Este ở Ferrara và De’ Medici tại Firenze.
Đô hộ nước ngoài (thế kỷ 16 – thế kỷ 19)
Sau một thế kỷ khi các hệ thống phân rẽ các thành bang Ý và các nguyên tắc đủ khả năng duy trì một nền độc lập vừa đủ và một sự cân bằng quyền lực trên bán đảo, năm 1494 vua Charles VIII của Pháp đã tung ra cuộc xâm lược đầu tiên trong một loạt các cuộc xâm lược, chỉ chấm dứt vào giữa thế kỷ 16, và một cuộc cạnh tranh giữa Pháp và Tây Ban Nha nhằm sở hữu đất nước này. Cuối cùng Tây Ban Nha chiếm ưu thế (Hiệp ước Cateau-Cambresis năm 1559 công nhận quyền sở hữu của Tây Ban Nha với Lãnh địa Công tước Milano và Vương quốc Napoli) và trong hai thế kỷ nước này hầu như nắm quyền bá chủ tại Ý. Liên minh thần thánh giữa nhà Habsburg của Tây Ban Nha và Toà Thánh đã dẫn tới hành động khủng bố có hệ thống đối với bất kỳ một phong trào Tin lành nào, kết quả là một quốc gia Ý Cơ đốc giáo với rất ít tín đồ Tin lành.
Áo thay thế Tây Ban Nha nắm quyền bá chủ tại Ý sau Hoà ước Utrecht (1713), chiếm thành bang Milano và Vương quốc Napoli. Sự cai trị của Áo, có được nhờ Thời đại khai sáng bắt nguồn từ các vị hoàng đế triều Habsburg, là một giai đoạn cải tiến to lớn. Vùng phía bắc Ý, dưới quyền cai quản trực tiếp của Viên, có được động lực kinh tế và sự phát triển trí thức sôi nổi.
Cách mạng Pháp và Chiến tranh Napoléon (1796-1815) đã mang lại các ý tưởng về bình đẳng, dân chủ, pháp luật và quốc gia. Bán đảo này không phải là nơi diễn ra các trận đánh lớn trong quá khứ nhưng Napoléon (s. tại Corse năm 1769, một năm sau khi hòn đảo này được Genova nhượng cho Pháp) đã thay đổi toàn bộ cục diện bản đồ chính trị, tiêu diệt nước Cộng hoà Venezia năm 1799, và nhà nước này không bao giờ còn thấy lại nền độc lập của mình nữa. Các quốc gia được Napoléon thành lập với sự ủng hộ của các nhóm thiểu số người Ý yêu nước không tồn tại lâu sau sự thất bại của vị Hoàng đế Pháp năm 1815.
Risorgimento (1848-1870)
-
Sự thành lập Vương quốc Ý là kết quả của nhiều nỗ lực phối hợp của những người Ý theo chủ nghĩa quốc gia và những người theo chủ nghĩa quân chủ trung thành với Nhà Savoy để thành lập một vương quốc thống nhất bao gồm toàn bộ Bán đảo Ý.
Vương quốc Sardegna đã công nghiệp hoá từ năm 1830 trở về sau. Một hiến pháp, Statuto Albertino bắt đầu có hiệu lực từ năm, 1848, năm của những cuộc cách mạng, dưới áp lực từ phe tự do. Cũng dưới áp lực này cuộc Chiến tranh giành độc lập lần thứ nhất của Ý với Áo được tuyên chiến. Sau những thắng lợi ban đầu cuộc chiến xoay theo chiều hướng xấu và Vương quốc Sardegna thua trận.
Sau Những cuộc cách mạng năm 1848, vị lãnh đạo nổi tiếng nhất của phong trào thống nhất Ý chính là người theo chủ nghĩa quốc gia Giuseppe Garibaldi. Ông rất nổi tiếng trong cộng đồng người dân phía nam Ý[12]. Garibaldi đã lãnh đạo những người Ý cộng hoà chiến đấu cho thống nhất ở phía nam Ý, nhưng chế độ quân chủ ở phía bắc của Nhà Savoy thuộc Vương quốc Piedmont-Sardinia với lãnh đạo chính phủ là Camillo Benso, Bá tước của Cavour, cũng có tham vọng thành lập một nhà nước Ý thống nhất. Dù vương quốc không có quan hệ tự nhiên với Roma (dường như là thủ đô tự nhiên của Ý), vương quốc đã thành công trong việc đối đầu với Áo trong cuộc Chiến tranh giành độc lập lần thứ hai của Ý, giải phóng Lombardy-Venezia khỏi ách cai trị của Áo. Vương quốc cũng đã thiết lập những mối quan hệ đồng minh quan trọng giúp họ tăng cường khả năng thống nhất Ý, như với Anh Quốc và Pháp trong chiến tranh Krym. Đến năm 1861, nước Ý được thống nhất, vua Sardinia Vittorio Emanuele II được tôn làm vua Ý. Vương quốc Ý được thành lập.
Năm 1866, Thủ tướng Phổ Otto von Bismarck đã đề xuất với Vittorio Emanuele II một liên minh với Vương quốc Phổ trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ. Đổi lại Phổ sẽ cho phép Ý sáp nhập vùng Venezia thuộc quyền kiểm soát của Áo. Vua Emanuele đồng ý liên minh và cuộc Chiến tranh giành độc lập lần thứ ba của Ý bắt đầu. Ý bước vào cuộc chiến với một đội quân được tổ chức kém cỏi trước người Áo, nhưng thắng lợi của Phổ đã cho phép họ sáp nhập Venezia. Vật cản lớn còn lại với sự thống nhất Ý là Roma.
Năm 1870, Phổ và các nước đồng minh Đức tuyên chiến với Pháp, khơi mào cuộc Chiến tranh Pháp-Đức. Để giam chân các lực lượng hùng hậu của Đức, Pháp đã rút đội quân đồn trú của mình ở Roma về chính quốc. Lợi dụng thắng lợi của Đức trước Pháp, Ý chiếm Lãnh địa Giáo hoàng khỏi tay chính quyền Pháp. Công cuộc thống nhất Ý đã hoàn thành, và một thời gian ngắn sau đó thủ đô Ý được chuyển tới Roma.
Từ Chủ nghĩa tự do tới Chủ nghĩa phát xít (1870-1922)
-
Tại miền bắc Ý, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá bắt đầu từ nửa sau thế kỷ 19. Miền nam, cùng thời điểm ấy, có dân số quá đông đúc, khiến hàng triệu người phải di cư ra nước ngoài. Ước tính khoảng một triệu người Ý đã rời tới các nước Châu Âu khác như Pháp, Thuỵ Sĩ, Đức, Bỉ và Luxembourg.
Chế độ dân chủ nghị viện đã phát triển mạnh trong thế kỷ 20. Hiến pháp Sardinia năm 1848, được mở rộng phạm vi hiệu lực ra toàn Vương quốc Ý năm 1861, mang lại những quyền tự do căn bản, nhưng những luật lệ bầu cử vẫn không cho phép những người vô sản và thất học được tham gia. Năm 1913 quyền bầu cử phổ thông cho nam giới được thông qua. Đảng xã hội đã trở thành đảng chính trị chính, chiến thắng các đảng tự do và bảo thủ truyền thống.
Năm 1911, chính phủ Giovanni Giolitti đã đồng ý gửi các lực lượng tới chiếm Libya. Ý tuyên chiến với Đế chế Ottoman đang giữ quyền cai trị thuộc địa với Libya. Sự sáp nhập Libya đã khiến những người Ý theo chủ nghĩa quốc gia muốn thiết lập quyền bá chủ tại Địa Trung Hải bằng cách chiếm Hy Lạp và vùng Dalmatia ven biển Adriatic[13].
Con đường tới một nền dân chủ tự do hiện đại đã bị ngắt quãng bởi thảm kịch Thế chiến thứ nhất (1914-1918), trong đó Ý đứng về phía Anh Quốc và Pháp. Ý đánh bại Đế chế Áo-Hung tháng 11 năm 1918. Trong cuộc chiến này 600.000 người Ý thiệt mạng và nền kinh tế sụp đổ với tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp cao.
Chủ nghĩa phát xít và Thế chiến II (1922-1945)
Sau những sự tàn phá của Thế chiến thứ nhất, nhiều công nhân Ý đã gia nhập những cuộc đình công lớn yêu cầu có nhiều quyền lợi và những điều kiện làm việc tốt hơn. Một số người, bị ảnh hưởng bởi cuộc Cách mạng Nga, bắt đầu tiếp quản các nhà máy, hầm mỏ, trang trại và công xưởng. Lực lượng tự do, lo ngại một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đã bắt đầu tiếp nhận Đảng Quốc gia Phát xít nhỏ, do Benito Mussolini lãnh đạo, người ủng hộ phản ứng bạo lực trước những cuộc đình công (bằng đảng dân quân “Áo đen“) và lập trường này thường được đem ra so sánh với những phản ứng mang tính ôn hoà của chính phủ. Sau nhiều năm đấu tranh, vào tháng 10 năm 1922 những kẻ phát xít đã tổ chức một cuộc đảo chính (“Marcia su Roma”, nghĩa là Tuần hành tại Roma); các lực lượng Phát xít còn yếu, nhưng nhà vua đã ra lệnh cho quân đội không can thiệp, hình thành một liên minh với Mussolini, và thuyết phục đảng tự do tán thành một chính phủ do phe Phát xít lãnh đạo. Trong vài năm sau đó, Mussolini (người bắt đầu được gọi là “Il Duce”, từ tiếng Ý có nghĩa “nhà lãnh đạo”) đã hạn chế mọi đảng phái chính trị (gồm cả những đảng tự do) và ngăn chặn các quyền tự do cá nhân với lý do ngăn chặn cuộc cách mạng.
Năm 1935, Mussolini tuyên chiến với Ethiopia về vấn đề lãnh thổ. Ethiopia đầu hàng sau vài tháng. Điều này dẫn tới một sự chia rẽ giữa nước Ý và các đồng minh truyền thống, Pháp và Anh Quốc, và sự ủng hộ của nước Đức Phát xít. Một hiệp ước đầu tiên với Đức được ký kết năm 1936, và vào năm 1938 (Hiệp ước Thép). Ý ủng hộ cuộc cách mạng của Francisco Franco trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha và các yêu cầu của Adolf Hitler tại Trung Âu, chấp nhận sự sáp nhập nước Áo vào Đức năm 1938, dù sự biến mất của một quốc gia trung gian giữa Đức và Ý là điều bất lợi cho đất nước.
Tháng 10 năm 1938 Mussolini liên kết Anh Quốc, Pháp và Đức với giá là sự toàn vẹn lãnh thổ của Tiệp Khắc.
Tháng 4 năm 1939, Ý chiếm Albania, một nước trên thực tế đã thuộc quyền bảo hộ của Ý trong nhiều thập kỷ, nhưng vào tháng 9 năm 1939, sau cuộc xâm lược Ba Lan, Mussolini đã quyết định không can thiệp cùng phía Đức, vì sự chuẩn bị kém của các lực lượng vũ trang. Ý tham chiến năm 1940 khi Pháp đã bị đánh bại. Mussolini đã hy vọng rằng Ý sẽ có thể chiến thắng trong một thời gian rất ngắn. Tuy nhiên, nước này có lực lượng quân sự rất kém cỏi.
Ý xâm chiếm Hy Lạp tháng 10 năm 1940 qua đường Albania nhưng đã bị buộc phải rút lui sau vài ngày. Sau khi Ý chinh phục Somalia thuộc Anh năm 1940, một cuộc phản công của Đồng Minh dẫn tới sự thiệt hại to lớn của Đế quốc Ý tại Sừng Châu Phi. Ý cũng bị các lực lượng Đồng Minh đánh bại tại Bắc Phi và chỉ trụ vững nhờ sự hỗ trợ các lực lượng vũ trang Đức dưới sự chỉ huy của tướng Erwin Rommel.
Sau nhiều thất bại, Ý bị xâm chiếm vào tháng 6 năm 1943. Vua Vittorio Emanuele và một nhóm những kẻ Phát xít tự đứng ra đối lập với Mussolini. Vào tháng 7 năm 1943, Mussolini bị bắt giữ. Khi các đảng chính trị chống Phát xít trước kia hoạt động trở lại, các cuộc đàm phán hoà ước bí mật với phe Đồng Minh được khởi động. Vào tháng 9 năm 1943, Ý đầu hàng. Ngay lập tức Đức tấn công nước này và Ý bị chia đôi đồng thời trở thành một mặt trận lớn. Phần dưới sự chiếm đóng Phát xít, nơi một nhà nước Phát xít dưới sự lãnh đạo của Mussolini được thành lập, đã xảy ra một cuộc nội chiến đẫm máu giữa những người du kích Ý (“partigiani“) và quân đội phát xít. Ý được giải phóng ngày 25 tháng 4 năm 1945. Lễ giải phóng vẫn được kỷ niệm vào ngày 25 tháng 4.
Đệ nhất Cộng hoà (1946-1992)
-
Năm 1946 con trai của Vittorio Emanuele III là Umberto II bắt đầu nổi lên. Ý trở thành một nhà nước Cộng hoà sau kết quả của một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức ngày 2 tháng 6 năm 1946, từ đó ngày này được kỷ niệm với tên gọi “Ngày Cộng hoà”. Nền cộng hoà chiến thắng với chênh lệch 9% số phiếu. Hiến pháp Cộng hoà được thông qua và bắt đầu có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 1948.
Theo Các Hiệp ước Hoà bình Paris năm 1947, khu vực biên giới phía đông bị sáp nhập vào Nam Tư. Năm 1954, vùng lãnh thổ tự do Trieste được phân chia giữa Ý và Nam Tư.
Năm 1949, Ý trở thành một đồng minh của Hoa Kỳ, nước này đã giúp Ý khôi phục nền kinh tế thông qua Kế hoạch Marshall. Ngoài ra, Ý còn trở thành một thành viên của Cộng đồng Kinh tế Châu Âu, sau này sẽ đổi thành Liên minh Châu Âu. Trong thập niên 1950 và 1960 đất nước này có được một giai đoạn phát triển kinh tế mạnh.
Ý đã trải qua một giai đoạn bất ổn chính trị trong thập niên 1970, và chấm dứt trong thập niên 1980. Được biết đến với tên gọi Những năm Lãnh đạo, giai đoạn này có đặc điểm là những cuộc xung đột đột xã hội rộng lớn và những hành động khủng bố do các phong trào ngoài nghị trường tiến hành. Vụ ám sát lãnh đạo đảng Dân chủ Công giáo, Aldo Moro, đã dẫn đến sự chấm dứt của “thoả hiệp lịch sử” giữa phe Dân chủ Công giáo và Đảng Cộng sản. Trong thập niên 1980, lần đầu tiên, hai chính phủ được điều hành bởi một nhân vật cộng hoà và một xã hội (Bettino Craxi) chứ không phải một thành viên của Đảng Dân chủ Công giáo.
Cuối những năm lãnh đạo, Đảng Cộng sản dần có vị trí nổi bật hơn nhờ Enrico Berlinguer. Đảng Xã hội, dưới sự lãnh đạo của Bettino Craxi, trở nên cực đoan hơn và với những người Cộng sản và Liên bang Xô viết; chính Craxi đã tạo điều kiện thuận lợi cho kế hoạch triển khai tên lửa Pershing của Ronald Reagan tại Ý.
Năm 2000, một báo cáo của Uỷ ban Nghị viện từ liên minh trung tả Olive Tree đã kết luận rằng chiến lược gây căng thẳng đã được Hoa Kỳ xúi giục nhằm “chặn bước Đảng Xã hội, và ở một số mức độ là cả Đảng Cộng sản, lên nắm quyền hành pháp trong nước”[14][15].
Đệ nhị Cộng hoà (1992-hiện tại)
Từ năm 1992 tới 1997, Ý phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn khi cử tri thất vọng trước tình trạng tê liệt chính trị, những khoản nợ to lớn của chính phủ, tình trạng tham nhũng lan rộng, và ảnh hưởng ngày càng lớn của tội phạm có tổ chức trong chính phủ, được gọi là Tangentopoli. Khi Tangentopoli được các thẩm phán điều tra trong một phiên toà được gọi là Mani pulite (từ tiếng Ý có nghĩa “Những bàn tay sạch”), các cử tri đã yêu cầu những cải cách chính trị, kinh tế và sắc tộc. Những vụ vụ bê bối Tangentopoli liên quan tới tất cả các đảng chính trị lớn, nhưng đặc biệt là tới liên minh chính phủ: trong giai đoạn 1992 tới 1994 đảng Dân chủ Công giáo đã gặp nhiều cuộc khủng hoảng và đã giải tán, chia rẽ thành nhiều đảng nhỏ, trong số đó có Đảng Nhân dân Ý và Dân chủ Công giáo Trung dung. Đảng Xã hội chủ nghĩa Ý (và các đảng nhỏ cầm quyền khác) bị giải tán hoàn toàn.
Cuộc bầu cử năm 1994 đã đưa vị trùm tư bản truyền thông Silvio Berlusconi (lãnh đạo liên minh “Pole of Freedoms“) lên nắm quyền Thủ tướng. Tuy nhiên, Berlusconi đã buộc phải rời chức vụ tháng 12 năm 1994 khi Lega Nord rút lui sự ủng hộ. Chính phủ Berlusconi được kế tục bởi một chính phủ kỹ trị do Thủ tướng Lamberto Dini lãnh đạo, ông này cũng mất chức vào tháng 7 năm 1996.
Tháng 4 năm 1996, cuộc bầu cử toàn quốc đã mang lại thắng lợi cho liên minh trung tả dưới sự lãnh đạo của Romano Prodi. Chính phủ đầu tiên của Prodi đã trở thành chính phủ có thời gian tồn tại dài thứ ba trước khi thua sít sao, chỉ ba phiếu, trong một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tháng 10 năm 1998. Một chính phủ mới được lãnh đạo phe dân chủ cánh tả và cựu thành viên đảng cộng sản Massimo D’Alema thành lập, nhưng vào tháng 4 năm 2000, sau những thành tích kém cỏi của liên minh của ông trong các cuộc bầu cử địa phương, D’Alema đã từ chức.
Chính phủ trung tả kế tục, gồm hầu hết các đảng phái cũ, dưới sự lãnh đạo của Giuliano Amato (dân chủ xã hội), người trước kia từng giữ chức vụ thủ tướng giai đoạn 1992-93, từ tháng 4 năm 2000 tới tháng 6 năm 2001.
Năm 2001 phe trung hữu thành lập chính phủ và Silvio Berlusconi trở lại nắm quyền lực trong một nhiệm kỳ đủ 5 năm, trở thành chính phủ có thời gian tồn tại lâu nhất thời hậu chiến ở Ý. Berlusconi đã tham gia vào liên minh quân sự do Mỹ dẫn đầu ở Iraq.
Cuộc bầu cử năm 2006 lại giúp Prodi quay lại lãnh đạo chính phủ với một đa số mong manh. Trong năm đầu tiên cầm quyền, Prodi đã theo đuổi một chính sách tự do kinh tế và giảm nợ công cộng thận trọng.
Địa lý
-
Địa hình
Ý là một bán đảo dài hình chiếc ủng, được bao quanh ở phía tây bởi Biển Tyrrhenian và phía đông bởi biển Adriatic. Nước này giáp biên giới với Pháp, Thuỵ Sĩ, Áo và Slovenia ở phía bắc. Dãy Alps hình thành nên xương sống của bán đảo này; và cũng là biên giới phía bắc. Vùng phía bắc nhiều hồ với hồ lớn nhất là Garda (143 dặm vuông; 370 km vuông); Po, con sông chính, chảy từ dãy Alps ở biên giới phía tây Ý đi xuyên qua đồng bằng Lombardy vào Biển Adriatic. Nước này cũng sở hữu nhiều hòn đảo; đảo lớn nhất là Sicilia (9.926 dặm vuông; 25.708 km vuông) và Sardinia (9.301 dặm vuông; 24.090 km vuông).
Núi lửa
-
Có ba núi lửa đang hoạt động tại Ý, gồm Vesuvius, núi lửa hoạt động duy nhất trên lục địa Châu Âu.
Khí hậu
-
Khí hậu tại Ý khá đa dạng và có thể khác biệt khá nhiều so với hình mẫu khí hậu Địa Trung Hải và “vùng đất mặt trời“, tuỳ thuộc từng địa điểm. Các vùng nội địa phía bắc Ý (Torino, Milano và Bologna) có khí hậu lục địa, trong khi những vùng ven biển Liguria và bán đảo phía nam Firenze có khí hậu Địa Trung Hải. Khí hậu các vùng ven biển của bán đảo có thể rất khác biệt so với vùng nội địa, đặc biệt vào những tháng mùa đông. Những vùng có độ cao lớn nhiệt độ lạnh, ẩm và thường có tuyết. Tại các vùng ven biển, nơi tập trung hầu hết các thành phố lớn, có kiểu khí hậu đặc trưng Địa Trung Hải với mùa đông ôn hoà và mùa hè thường nóng và khô. Thời gian và mức độ khô của mùa hè tăng dần về phía nam (so sánh các bảng của Roma, Napoli và Brindisi).
Giữa phía bắc và phía nam có sự khác biệt khá lớn về nhiệt độ, nhất là vào mùa đông: trong một số ngày mùa đông nhiệt độ có thể xuống còn -2 °C (24 °F) và có tuyết tại Milano, trong khi nó là 12 °C (54 °F) tại Roma và 18 °C (64 °F) tại Palermo. Sự khác biệt nhiệt độ ít thấy hơn vào mùa hè.
Mont Blanc (Monte Bianco), núi cao nhất tại Ý và Tây Âu
Bờ biển phía đông bán đảo không ẩm như khu vực phía tây, nhưng thường có nhiệt độ lạnh hơn trong mùa đông. Khu phía bắc dải bờ biển phía đông Pescara thỉnh thoảng bị ảnh hưởng bởi những cơn gió lạnh bora vào mùa đông và mùa xuân, nhưng tại đây gió yếu hơn vùng quanh Trieste. Trong những đợt gió lạnh này, các thành phố phía đông, đông bắc như Rimini, Ancona, Pescara và toàn bộ khu vực chân núi phía đông dãy Alps có thể phải trải qua những đợt “bão tuyết” thật sự. Thị trấn Fabriano, chỉ ở độ cao 300 mét, có thể thường xuyên có lượng tuyết rơi 0.50-0.60 m trong 24 giờ ở những khoảng thời gian này.
Trên dải bờ biển từ Ravenna tới Venezia và Trieste, lượng tuyết rơi khá thấp: trong những đợt gió lạnh từ phía đông, khí lạnh có thể khắc nghiệt nhưng bầu trời vẫn trong sáng; còn, trong những trận tuyết rơi ở phía bắc Ý, bờ biển Adriatic có thể có gió Scirocco ôn hoà hơn biến tuyết thành mưa – những hiệu ứng ôn hoà của loại gió này tưhờng biến mất chỉ vài kilômét bên trong lục địa, và thỉnh thoảng bờ biển từ Venezia tới Grado có tuyết trong khi trời mưa tại Trieste, cửa sông Po và Ravenna. Hiếm khi thành phố Trieste gặp bão tuyết khi có gió đông bắc; trong những mùa đông khắc nghiệt, Phá Venezia, và tại những nơi có nhiệt độ lạnh, mọi người thậm chí có thể đi trên mặt băng [1].
Mùa hè thường có nhiệt độ ổn định hơn, dù các vùng phía bắc thường có sấm sét vào buổi trưa/chiều và một số ngày âm u và mưa. Vì thế, trong khi phía nam Firenze mùa hè thường khô và có nắng, phía bắc thường ẩm và có nhiều mây. Thời tiết mùa thu và mùa xuân có thể thay đổi rất nhanh, với những tuần ấm áp nhiều nắng (thỉnh thoảng với nhiệt độ như trong mùa hè) bỗng chốc thay đổi sau những trận gió lạnh và tiếp đó là những tuần mưa, nhiều mây.
Số lượng ngày mưa ít nhất và nắng nhiều nhất xuất hiện tại cực nam lục địa và tại Sicilia cùng Sardegna. Ở đây trung bình có từ bốn tới năm giờ nắng trong một ngày mùa đông và lên tới mười hay mười một giờ vào mùa hè. Ở phía bắc lượng mưa phân bố đồng đều trong cả năm, dù mùa hè thường ẩm hơn. Từ tháng 11 tới tháng 3 thung lũng Po thường có sương mù bao phủ, đặc biệt ở vùng trung tâm (Pavia, Cremona và Mantua), tuy số lượng ngày có nhiệt độ dưới 0 °C thường từ 60 tới 90 ngày một năm, với đỉnh điểm có thể lên tới 100-110 ngày chủ yếu tại các vùng nông thôn [2]. Tuyết rơi khá thường xuyên từ đầu tháng 12 tới đầu tháng 3 tại các thành phố như Torino, Milano và Bologna, nhưng thỉnh thoảng cũng có vào cuối tháng 11 hay cuối tháng 3 và thậm chí tháng 4. Vào mùa đông năm 2005-2006, Milano có lượng tuyết rơi khoảng 0.75-0.80 m, Como khoảng 1.00 m, Brescia 0.50 m, Trento 1.60 m, Vicenza 0.45 m, Bologna 0.30 m, và Piacenza 0.80 m [3].
Nhiệt độ mùa hè thường đồng nhất từ bắc xuống nam. Nhiệt độ tháng 7 là 22-24 °C ở phía bắc sông Po, như tại Milano hay Venezia, and và phía nam sông Po có thể lên tới 24-25 °C như tại Bologna, với ít sấm sét hơn; ở các bờ biển trung tâm và phía nam Ý, và tại các đồng bằng lân cận, nhiệt độ trung bình từ 23 °C tới 27 °C. Nói chung, tháng nóng nhất là tháng 8 ở phía nam và tháng 7 ở phía bắc; trong những tháng này nhiệt độ có thể lên tới 38-42 °C ở phía nam và 32-35 °C ở phía bắc; thỉnh thoảng đất nước có thể chia làm hai khu vực thời tiết riêng biệt như trong mùa đông, với mưa và nền nhiệt độ 20-22 °C ở phía bắc và 30 °C tới 40 °C ở phía nam, nhưng việc có một mùa hè nóng và khô không đồng nghĩa với việc vùng phía nam Ý sẽ không có mưa từ tháng 6 tới tháng 8.
Tháng lạnh nhất là tháng 1: nhiệt độ trung bình tại thung lũng sông P trong khoảng -1 °C và +1 °C, Venezia +2°/+3 °C, Trieste +4 °C, Firenze 5°/6 °C, Roma 7°/8 °C, Napoli 9 °C, Palermo 12 °C. Nhiệt độ thấp nhất trong buổi sáng mùa đông có thể xuống tới -30 °C/-20 °C tại Alps, -14 °C/-8 °C tại thung lũng sông Po, -7 °C tại Firenze, -4 °C tại Roma, -2 °C tại Napoli và 2 °C tại Palermo. Tại các thành phố như Roma và Milano, những hiệu ứng đảo nhiệt mạnh có thể xuất hiện, vì thế bên trong vùng đô thị, mùa đông có thể ôn hoà hơn và mùa hè có thể ngột ngạt hơn.
Trong một số buổi sáng mùa đông nhiệt độ có thể chỉ là -3 °C tại Dome plaza ở Milano trong khi nó là -8°/-9° tại khu vực ngoại vi, ở Torino có thể chỉ -5 °C tại trung tâm thành phố và -10°/-12° tại các vùng ngoại vi. Thông thường, lượng tuyết roi lớn nhất vào tháng 2, thỉnh thoảng vào tháng 1 hay tháng 3; tại dãy Alps, lượng tuyết rơi nhiều vào mùa đông và cả mùa xuân từ độ cao 1500 m trở nên, vì mùa đông thường bắt đầu bằng những tuần lễ lạnh và khô; tuy người dân sống tại dãy Alps thường thấy tuyết rơi hơn trong mùa đông, nhưng họ lại có thời tiết ấm và ít ẩm ướt hơn vào những mùa khác.
Cả hai dãy núi đều có thể có lượng tuyết rơi lên tới 5–10 m trong một năm trên độ cao 2000 m; trên những đỉnh cao nhất dãy Alps, tuyết có thể rơi thậm chí giữa mùa hè êm dịu, và những dòng sông băng cũng xuất hiện.
Nhiệt độ thấp kỷ lục là -45 °C tại Alps, và -29.0 °C gần mực nước biển (ghi nhận vào ngày 12 tháng 1 năm 1985 tại San Pietro Capofiume bởi Bologna), trong khi ở các thành phố phía nam như Catania, Foggia, Lecce hay Alghero đã từng có nhiệt độ lên tới 46 °C vào những mùa hè oi bức.
Chính phủ và chính trị
-
Hiến pháp Ý năm 1948 quy định một chế độ nghị viện lưỡng viện (Parlamento), gồm một Viện Đại biểu (Camera dei Deputati) và một Thượng viện (Senato della Repubblica), một cơ quan tư pháp riêng biệt, và một nhánh hành pháp gồm một Hội đồng Bộ trưởng (Nội các) (Consiglio dei ministri), do thủ tướng (Presidente del consiglio dei ministri) lãnh đạo.
Tổng thống Ý (Presidente della Repubblica) được nghị viện với một số đại biểu cấp vùng bầu với nhiệm kỳ bảy năm. Tổng thống chỉ định thủ tướng, người đề xuất các chức vụ bộ trưởng (được tổng thống chỉ định chính thức). Hội đồng Bộ trưởng phải có được sự ủng hộ (fiducia) của cả hai viện.
Đại biểu nghị viện được bầu theo phổ thông đầu phiếu và trực tiếp thông qua một hệ thống bầu cử phức tạp (lần sửa đổi gần nhất năm 2005) gồm cả đại diện tỷ lệ với một phần thưởng đa số cho liên minh lớn nhất. Tất cả công dân Ý từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử (Hạ viện). Tuy nhiên, với bầu cử thượng viện, cử tri phải ít nhất 25 tuổi. Hệ thống bầu cử trong Thượng viện dựa trên đại diện các vùng. Trong cuộc bầu cử năm 2006, hai liên minh tranh cử đã xung đột chỉ vì vài nghìn phiếu bầu, và tại Hạ viện liên minh trung tả có 345 đại biểu so với 277 của phe trung hữu (Casa delle Libertà), còn tại Thượng viện l’Ulivo chỉ có hơn đa số tuyệt đối hai ghế. Viện đại biểu có 630 thành viên và thượng viện có 315 thành viên qua bầu cử; ngoài ra Thượng viện còn gồm các cựu tổng thống và những thượng nghị sĩ được chỉ định suốt đời (không nhiều hơn năm người) bởi Tổng thống nhà nước Cộng hoà theo một sửa đổi hiến pháp đặc biệt. Tới ngày 15 tháng 5 năm 2006, có 7 Thượng nghị sĩ suốt đời (trong số đó 3 là các cựu tổng thống). Cả hai viện đều được bầu với nhiệm kỳ tối đa 5 năm, nhưng cả hai đều có thể bị Tổng thống giải tán trước thời hạn nếu Nghị viện không thể bầu ra một chính phủ ổn định. Trong quá khứ thời hậu chiến, điều này từng xảy ra năm 1972, 1976, 1979, 1983, 1994 và 1996.
Một nét đặc biệt của Nghị viện Ý là số đại diện được trao cho Người Ý sống thường xuyên ở nước ngoài (khoảng 2,7 triệu người). Trong số 630 đại biểu hạ viện và 315 thượng nghị sĩ có 12 và 6 thành viên được bầu từ bốn khu vực bầu cử nước ngoài riêng biệt. Những thành viên đó được bầu lần đầu tháng 4 năm 2006 và họ được hưởng ngang quyền với những thành viên được bầu trong nước. Những dự luật lập pháp có thể được đưa ra từ cả thượng và hạ viện và phải được đa số thông qua ở cả hai viện. Hệ thống tư pháp Ý dựa trên Luật La Mã được sửa đổi theo Luật Napoléon và các đạo luật sau này. Toà án Hiến pháp Ý (Corte Costituzionale) phán xử sự phù hợp của các đạo luật với Hiến pháp và là một sự cách tân sau Thế chiến thứ hai.
-
Đối ngoại
-
Ý từng là một thành viên sáng lập Cộng đồng Châu Âu – hiện là Liên minh Châu Âu (EU). Ý đã được chấp nhận gia nhập Liên hiệp quốc năm 1955 và là một thành viên cũng như một bên ủng hộ mạnh mẽ của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD), Thoả thuận Chung về Thuế quan và Thương mại/Tổ chức Thương mại Thế giới (GATT/WTO), Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu (OSCE) và Hội đồng Châu Âu. Nước này đã nắm chức chủ tịch CSCE (tiền thân của OSCE) năm 1994, EU năm 1996 và G-8 năm 2001 và nắm chức chủ tịch EU từ tháng 7 tới tháng 12 năm 2003.
Ý ủng hộ Liên hiệp quốc và các hoạt động an ninh quốc tế của tổ chức này. Ý đã triển khai quân đội hỗ trợ cho các chiến dịch gìn giữ hoà bình của Liên hiệp quốc tại Somalia, Mozambique và Đông Timor và cung cấp hỗ trợ cho các chiến dịch của NATO và Liên hiệp quốc tại Bosnia, Kosovo và Albania. Ý đã triển khai 1.000 quân Alpini tới Afghanistan hỗ trợ cho Chiến dịch Tự do Vĩnh viễn (OEF) tháng 2 năm 2003. Ý cũng hỗ trợ các nỗ lực quốc tế nhằm tái thiết và ổn định Iraq bằng đội quân khoảng 3.200 người, cũng như các quan chức và viên chức nhân đạo. Đội quân này tiếp tục ở lại Iraq theo uỷ quyền của Liên hợp quốc và theo yêu cầu của Chính phủ Iraq tới tháng 12 năm 2006.
Tháng 8 năm 2006 Ý đã gửi khoảng 3.000 quân tới Liban tham gia lực lượng Gìn giữ hoà bình UNIFIL ONU[16]. Ngoài ra, từ ngày 2 tháng 2 năm 2007 một người Ý, Claudio Graziano, đã trở thành chỉ huy lực lượng Liên hiệp quốc tại nước này.
-
Quân đội
-
Điều 11 Hiến pháp Ý viết: “Ý từ chối coi chiến tranh là một phương tiện gây hấn chống lại tự do của các dân tộc khác và là phương tiện giải quyết những tranh cãi quốc tế; Ý công nhận, với những điều kiện bình đẳng với các quốc gia khác, những giới hạn của chủ quyền cần thiết cho một trật tự đảm bảo hoà bình và công bằng giữa các nước; Ý ủng hộ và khuyến khích các tổ chức quốc tế khác có cùng quan điểm như vậy”.
Các lực lượng vũ trang Ý được chia thành bốn nhánh:
Các lực lượng vũ trang Ý nằm dưới quyền chỉ huy của Hội đồng Quốc phòng Tối cao Ý, do Tổng thống Ý đứng đầu. Tổng số nhân lực trong quân đội khoảng 308.000 người. Ý có mức chi tiêu quốc phòng đứng hàng thứ 8 trên thế giới[17]
Esercito Italiano là lực lượng mặt đất của Ý. Gần đây (29 tháng 7 năm 2004) lực lượng này đã chuyển đổi thành lực lượng chuyên nghiệp và hoàn toàn tình nguyện với 115.687 lính tại ngũ. Các trang bị nổi tiếng nhất của lực lượng này gồm Dardo, Centauro và Ariete, và máy bay trực thăng tấn công Mangusta, gần đây đã được triển khai trong các chiến dịch của Liên hiệp quốc; nhưng Esercito Italiano cũng sở hữu một số lượng lớn xe thiết giáp Leopard 1 và M113.
Aeronautica Militare Italiana (AMI) là lực lượng không quân Ý. Lực lượng này hoạt động độc lập và được thành lập ngày 28 tháng 3 năm 1923, bởi vua Victor Emmanuel III của Ý với tên gọi Regia Aeronautica (tương đương “Không quân Hoàng gia”)[cần dẫn nguồn]. Sau Thế chiến thứ hai, khi Ý trở thành một nhà nước cộng hoà theo trưng cầu dân ý, Regia Aeronautica đổi thành tên hiện tại. Ngày nay Aeronautica Militare có 45.879 người và 585 máy bay, gồm 219 máy bay chiến đấu và 114 máy bay trực thăng. Để sử dụng làm phương tiện thay thế và để cho thuê những chiếc máy bay đánh chặn Tornado ADV, AMI đã thuê 30 chiếc F-16A Gói 15 ADF và 4 chiếc F-16B Gói 10 Fighting Falcons, với lựa chọn quyền thuê tiếp một số chiếc khác. Trong những năm sắp tới 121 chiếc EF2000 Eurofighter Typhoons, thay thế những chiếc F-16 Fighting Falcons thuê sẽ đi vào hoạt động. Những cải tiến tiếp theo cho phi đội Tornado IDS/IDT và AMX-fleet cũng sẽ được tiến hành. Khả năng vận tải được đảm bảo bởi một phi đội 22 chiếc C-130J, tương tự loại G222 mới phát triển, được gọi là C-27J Spartan (12 chiếc đã được đặt hàng), sẽ đi vào hoạt động để thay thế những chiếc G222[cần dẫn nguồn].
Marina Militare là một trong bốn nhánh của các lực lượng quân đội Ý. Lực lượng này được thành lập năm 1946, với tên gọi Hải quân Cộng hoà Ý, từ Regia Marina. Ngày nay Marina Militare là một lực lượng hải quân hiện đại với sức mạnh 35.261 người và tàu chiến thuộc mọi kiểu, như tàu sân bay, tàu khu trục, tàu chiến hiện đại, tàu ngầm, tàu đổ bộ và các loại tàu nhỏ khác như tàu nghiên cứu hải dương học[cần dẫn nguồn].
Marina Militare hiện được trang bị một tàu sân bay lớn (chiếc Cavour), các tàu khu trục, tàu ngầm và tàu chiến mới. Trong thời hiện đại, Marina Militare, là một thành viên của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), đã tham gia vào các chiến dịch gìn giữ hoà bình. Marina Militare được coi là lực lượng hải quân mạnh thứ tư trên thế giới.
Carabinieri gồm lực lượng hiến binh và quân cảnh Ý. Tại Hội nghị Sea Islands của G8 năm 2004, Carabinieri đã được trao nhiệm vụ thiết lập một Trung tâm các Đơn vị Cảnh sát Đặc biệt (CoESPU) đảm nhận huấn luyện và phát triển các tiêu chuẩn mang tính học thuyết cho các đơn vị cảnh sát dân sự tham gia các chiến dịch gìn giữ hoà bình quốc tế[18]
Vùng, tỉnh và các khu vực đô thị
-
Ý được chia thành 20 vùng (regioni, số ít regione). Năm trong số các vùng đó có quy chế tự trị đặc biệt cho phép họ ban hành luật lệ trên một số vấn đề riêng biệt của địa phương, và được đánh dấu * và in nghiêng. Các vùng được chia nhỏ tiếp thành 109 tỉnh (province) và 8.101 vùng đô thị (comuni).
Nhân khẩu
-
Dân cư
Ước tính dân số gần nhất của ISTAT (Văn phòng Thống kê Ý) cho thấy nước này có 59.131.287 người vào thời điểm tháng 12 năm 2006 [4], tăng 3% so với năm 2001. Ý có dân số đông thứ tư trong Liên minh Châu Âu (sau Đức, Pháp và Anh Quốc), và đứng hàng 22 trên thế giới. Tăng trưởng dân số hàng năm chủ yếu từ số người nhập cư và gia tăng tuổi thọ hiện ở mức 79,81 tuổi [5]. Dù có tăng trưởng dân số, biểu đồ dân số Ý đang già đi nhanh chóng. Với tỷ lệ sinh 1,35 trẻ em trên mỗi phụ nữ [6], hầu như cứ 5 người Ý có 1 người hưởng trợ cấp; nếu khuynh hướng già đi này tiếp diễn, dân số Ý sẽ giảm còn khoảng một phần tư vào năm 2050 [7].
Ý có mật độ dân số đứng thứ năm Châu Âu với 196 người trên kilômét vuông. Mật độ cao nhất tại tây bắc Ý, bởi chỉ hai trong số hai mươi vùng (Lombardy và Piedmont) cộng lại, đã chiếm một phần tư dân số nước này, theo ước tính có 7,4 triệu người sống tại khu vực đô thị Milano[8]. Tỷ lệ biết chữ tại Ý là 98%, giáo dục phổ cập cho tất cả trẻ em trong độ tuổi 6 tới 18[19]. Xấp xỉ hai phần ba dân số sống tại các khu vực đô thị[9], thấp hơn nhiều so với các quốc gia Tây Âu.
Các thành phố lớn
Các thành phố Ý với dân số từ 300.000 trở lên (dữ liệu của ISTAT, tháng 12 năm 2006):
Các vùng đô thị
Theo OECD [10], các khu vực đô thị chính của Ý gồm:
Nhập cư và sắc tộc
Trong thế kỷ 19 và 20, Ý từng là nguồn cung cấp người nhập cư chính tới Châu Mỹ, Úc và các quốc gia Tây Âu khác. Tuy nhiên, Ý hiện là điểm đến của những người nhập cư từ khắp thế giới mà những vùng chính là Đông Âu, Bắc Phi và Châu Á. Đầu năm 2006, người nước ngoài chiếm 4,56% dân số, 2.670.514 [11] người, tăng 268.357 người hay 10% so với năm trước đó. Ở nhiều thành phố phía bắc Ý, như Padua, Milano và Brescia, người nhập cư chiếm một phần đáng kể dân số.
Làn sóng nhập cư gần đây nhất đến từ Đông Âu, thay thế Bắc Phi trở thành nơi cung cấp người nhập cư chính. Trong năm 2006, khoảng 1.025.874 người Đông Âu sống tại Ý, chiếm 40% tổng số người nhập cư vào Ý. Năm quốc tịch nước ngoài có số lượng lớn nhất tại Ý gồm: Albania (348.813), Maroc (319.537), România (297.570), Trung Quốc (127.822) và Ukraina (107.188)[20].
Người Ý |
56.081.000 |
95,45% |
Người Ả Rập |
485.000 |
0,82% |
Người Albania |
348.000 |
0.6% |
Người Châu Á (không phải Trung Quốc) |
326.000 |
0,55% |
Người Romania |
297.000 |
0,51% |
Đông Âu khác |
273.000 |
0,46% |
Nam Mỹ |
239.000 |
0,41% |
Châu Phi da đen |
210.000 |
0,36% |
Người Trung Quốc |
128.000 |
0,22% |
Người Ukraina |
107.000 |
0,18% |
Khác |
257.000 |
0,43% |
* Phần trăm tổng dân số Ý |
[20].
Tôn giáo
-
Công giáo Rôma là tôn giáo lớn nhất nước. Dù Giáo hội Công giáo không còn là quốc giáo, nó vẫn đóng vai trò quan trọng trong các công việc chính trị quốc gia, một phần vì Tòa Thánh Vatican nằm ngay tại Roma. 87,8% người dân Ý tự coi mình là tín đồ Công giáo Rôma[21], khoảng một phần ba trong số đó tuyên bố là các tín đồ nhiệt thành (36,8%).
Các nhóm Kitô giáo khác tại Ý gồm khoảng 1,5 triệu tín đồ Chính thống giáo Đông phương[22], 550.000 tín đồ phong trào Ngũ tuần và phong trào Phúc âm (0,8%), trong số đó 400.000 là các thành viên của Assemblies of God (Hội chúng Đức Chúa Trời), 235.685 Nhân chứng Jehovah (0,04%)[23], 30.000 tín đồ phong trào Waldo[24], 25.000 tín đồ Giáo hội Cơ Đốc Phục lâm An thất nhật, 22.000 đạo Mormon, 15.000 Baptist (cộng thêm khoảng 5.000 Free Baptists), 7.000 Lutheran, 5.000 tín đồ phong trào Giám lý (hiệp thông với giáo hội Waldo)[25].
Thiểu số tôn giáo lâu đời nhất nước này là cộng đồng Do Thái giáo, với khoảng 45.000 người. Đây không còn là nhóm phi Kitô giáo lớn nhất nữa.
Vì số lượng người nhập cư khá lớn từ khắp nơi trên thế giới, khoảng 825.000 người là tín đồ Hồi giáo[26] (1,4%) sống tại Ý, dù chỉ khoảng 50.000 người có quốc tịch Ý. Ngoài ra, có 110.000 tín đồ Phật giáo (0,2%)[27][28][29], 70.000 tín đồ Sikh giáo[30], và 70.000 tín đồ Hindu giáo (0,1%) tại Ý.
Kinh tế
-
Theo những tính toán GDP, Ý được xếp hạng là nền kinh tế đứng thứ bảy thế giới năm 2006, sau Hoa Kỳ,Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Anh Quốc và Pháp, và đứng thứ tư Châu Âu. Theo OECD, trong năm 2004 Ý là nhà xuất khẩu lớn thứ sáu thế giới về các sản phẩm chế tạo. Nền kinh tế tư bản này được chia thành khu vực phát triển công nghiệp phía bắc, chủ yếu là các công ty tư nhân và vùng nông nghiệp kém phát triển hơn ở phía nam. Nền kinh tế Ý có khu vực “kinh tế ngầm” không được tính vào con số thống kê chính thức, gần đây đã được Bộ tài chính nước này ước lượng chiếm khoảng một phần sáu GDP chính thức.
Đa số các nguyên liệu thô cần thiết cho ngành công nghiệp và hơn 75% nhu cầu năng lượng phải nhập khẩu từ bên ngoài. Trong thập kỷ qua, Ý đã theo đuổi một chính sách thuế chặt chẽ nhằm đáp ứng các yêu cầu của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ và đã được hưởng những lợi ích từ các tỷ lệ lợi tức và lạm phát thấp. Ý gia nhập khu vực đồng euro từ khi nó xuất hiện năm 1999.
Nền kinh tế Ý từng có nhiều thời kỳ phát triển chậm chạp hơn các đối tác Liên minh Châu Âu, và chính phủ hiện tại đã ban hành nhiều biện pháp cải cách ngắn hạn nhằm cải thiện tính cạnh tranh và phát triển dài hạn. Tuy nhiên, thay đổi còn diễn ra chậm, trong việc áp dụng một số cải cách cơ cấu do các nhà kinh tế đề xuất, như giảm bớt gánh nặng thuế và sửa đổi thị trường lao động cứng nhắc của Ý cũng như hệ thống trợ cấp đắt đỏ, bởi tình trạng phát triển kinh tế chậm gần đây và sự phản đối từ phía các liên đoàn lao động.
Ý có ít tập đoàn đa quốc gia hàng thế giới so với các nền kinh tế cùng mức độ khác. Thay vào đó, sức mạnh chính của nền kinh tế nước này phần lớn dựa vào các công ty cỡ vừa và nhỏ. Một số trong các công ty đó sản xuất các sản phẩm có mức độ kỹ thuật trung bình và vì thế đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ phía Trung Quốc và các nền kinh tế Châu Á khác với giá thành nhân công rẻ hơn. Những công ty này của Ý đang đối phó với sự cạnh tranh từ các đối thủ Châu Á bằng cách tập trung vào các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao hơn, trong khi di chuyển các cơ sở chế tạo kỹ thuật thấp tới các nhà máy tại các quốc gia có giá thành nhân công rẻ. Kích thước trung bình nhỏ của các công ty Italia vẫn còn là một yếu tố hạn chế, và chính phủ đã bắt tay vào khuyến khích sự sáp nhập hay hợp nhất và cải cách các biện pháp quản lý cứng nhắc từng là vật cản cho sự phát triển của những tập đoàn lớn hơn.
Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Ý gồm ô tô (Fiat Group, Aprilia, Ducati, Piaggio), hoá chất, sản phẩm hoá dầu, hàng điện tử (Eni, Enel, Edison), hàng không và công nghệ quốc phòng (Alenia, Agusta, Finmeccanica), vũ khí (Beretta); nhưng các sản phẩm nổi tiếng nhất lại thuộc lĩnh vực thời trang (Armani, Valentino, Versace, Dolce & Gabbana, Benetton, Prada, Luxottica), công nghiệp thực phẩm (Barilla Group, Martini & Rossi, Campari, Parmalat), xe hơi hạng sang (Ferrari, Maserati, Lamborghini, Pagani) và du thuyền (Ferretti, Azimut).
Du lịch là lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế Ý: với hơn 37 triệu khách du lịch mỗi năm, Ý được xếp hạng là điểm đến hấp dẫn thứ năm của du khách trên thế giới[31].
Ý có thể là lớn thứ ba trong khu vực đồng euro, nhưng nó đang tiếp tục suy thoái do không hiệu quả. Lãnh đạo chính trị của Ý đã cho thấy không thể thực hiện những cải cách rất cần thiết và tương lai có vẻ ảm đạm. Hơn nửa triệu việc làm công nghiệp đã bị mất kể từ năm 2007, và 15 phần trăm nền công nghiệp của nước này đã biến mất. Trong một số lĩnh vực đã còn tệ hơn nữa, với ngành công nghiệp ô tô đã mất 40 phần trăm. Các ngân hàng, sợ phá sản đang cắt giảm việc cho vay thương mại. Ngay cả chính quyền không thanh toán hóa đơn của mình, với vài trăm tỷ euro trong nghĩa vụ tài chính đang lưu hành. Đó là một tình huống nguy hiểm, đặc biệt là cho các công ty nhỏ.
Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế châu Âu nói nếu không có thay đổi cơ bản, Ý sẽ bị phá sản. Vòng luẩn quẩn của suy thoái kinh tế, thất nghiệp và sức mua giảm mạnh là nguyên nhân cho việc ngày càng đào sâu hơn vào khủng hoảng hơn bao giờ hết.
Standart & Poor đã đánh rớt vị trí xếp hạng tín dụng của Ý. Các chuyên gia về xuất khẩu của Ý đã đánh giá việc sản xuất hàng hóa xuất khẩu cho các khu vực khu vực Đông Nam Á, Ba Lan và Thổ Nhĩ Kỳ là nhiều công ty chỉ sử dụng các nhà máy ở Ý để lắp ráp các bộ phận làm trong các nhà máy ở nước ngoài. Các công ty lớn cũng chuyển hệ thống sản xuất của mình ra nước ngoài.Việc này làm suy giảm các khu vực công nghiệp truyền thống của Ý.
Hơn tám triệu người Ý sống dưới mức nghèo khổ, trong đó có nhiều người vẫn còn đang làm việc. Các viện nghiên cứu CGIA ở Mestre, gần Venice, phát hiện ra rằng chỉ có một trong hai doanh nghiệp nhỏ có thể trả lương cho nhân viên của mình nhiều lần. Ba trong số năm công ty buộc phải đưa ra các khoản vay để trả các hóa đơn với thuế cao của họ. Nhưng vấn đề cơ cấu của Ý vẫn còn. Chúng bao gồm ngoài gánh nặng thuế, một bộ máy quan liêu cồng kềnh gây cản trở hầu như tất cả các hoạt động kinh tế, tư pháp không hiệu quả ngăn cản các nhà đầu tư tiềm năng với các thử nghiệm có thể kéo dài trong nhiều thập kỷ, trình độ học vấn tương đối thấp và một cơ sở hạ tầng nghèo đặc trưng bởi đường đầy ổ gà, việc cung cấp năng lượng không ổn định, tàu hỏa liên tục bị trì hoãn và mạng lưới truyền thông lạc hậu.
Kết quả là Ý tiếp tục tụt lại phía sau trường quốc tế như là một nơi để đầu tư. Thấp hơn cả Philippines, Latvia, Nga và Peru, chỉ cao hơn một chút Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha[32].
Vận tải
-
Hệ thống đường sắt tại Ý với tổng cộng 19.394 kilômét (12.051 dặm), xếp hạng 16 trên thế giới[cần dẫn nguồn] và được điều hành bởi Ferrovie dello Stato. Các tàu cao tốc gồm tàu lớp ETR, trong số đó tàu ETR 500 chạy với vận tốc 300 km/h (186 mph).
Năm 1991 Treno Alta Velocità SpA đã được thành lập, là một thực thể cho mục đích đặc biệt thuộc sở hữu của RFI (công ty này lại thuộc sở hữu của Ferrovie dello Stato) để lập kế hoạch và xây dựng các tuyến đường sắt cao tốc dọc theo hầu hết các tuyến đường vận tải quan trọng của Ý. Những tuyến này thường được gọi là “TAV”. Mục tiêu của TVA là giúp tăng cường vận tải trên những tuyến đường sắt đã sắp quá tải ở Ý và xây dựng các tuyến đường mới, cụ thể là tuyến Milano-Napoli và hành lang Torino-Milano-Venezia. Một trong những trọng tâm của dự án là chuyển đổi hệ thống đường sắt Ý thành một hệ thống đường sắt chở khách hiện đại tương thích với các tiêu chuẩn đường sắt mới của Châu Âu. Mục tiêu thứ hai là đưa vào sử dụng đường sắt cao tốc trong nước và những hành lang được ưu tiên. Khi nhu cầu với những tuyến đường sắt cũ đã giảm bớt với sự khai trương những tuyến đường sắt cao tốc mới, những đường sắt bình thường này sẽ được dùng chủ yếu cho các chuyến tàu địa phương tốc độ thấp và chuyên chở hàng hoá. Khi các ý tưởng đó trở thành hiện thực, hệ thống đường sắt của Ý có thể hội nhập với các hệ thống đường sắt khác của Châu Âu, đặc biệt là hệ thống TGV của Pháp, ICE của Đức, và AVE của Tây Ban Nha[cần dẫn nguồn].
Có xấp xỉ 654.676 kilômét (406.000 dặm) đường bộ ở Ý, gồm 6.957 km (4.300 dặm) đường cao tốc [12].
Có khoảng 133 sân bay ở Ý, gồm hai Cảng đầu mối hàng không là Sân bay Quốc tế Malpensa (gần Milano) và Sân bay Quốc tế Leonardo Da Vinci (gần Roma).
Có 27 cảng chính tại Ý, cảng lớn nhất nằm tại Genova, đây cũng là cảng lớn thứ hai vùng Địa Trung Hải, sau cảng Marseille. 2.400 kilômét (1.500 dặm) đường sông chạy khắp Ý.
Văn hoá
-
-
Ý, với tư cách một quốc gia, đã không tồn tại cho tới khi đất nước thống nhất vào năm 1861. Vì sự thống nhất khá muộn này, và vì sự tự trị trong lịch sử của nhiều vùng thuộc Bán đảo Ý, nhiều truyền thống và phong tục mà hiện chúng ta coi là riêng biệt của Ý có thể được xác định theo vùng nơi xuất hiện của chúng. Dù có sự cách biệt chính trị và xã hội của các vùng đó, sự đóng góp của Ý vào di sản văn hoá và lịch sử Châu Âu vẫn rất to lớn. Trên thực tế, Ý là nơi có số lượng Di sản Thế giới của UNESCO nhiều nhất (44 – số liệu năm 2009).
Nghệ thuật
Ý đã có nhiều phong trào nghệ thuật và tri thức phát triển ra khắp Châu Âu và thế giới, gồm phong trào Phục hưng và chủ nghĩa Baroque. Có lẽ những thành tựu văn hoá lớn nhất của Ý thuộc di sản nghệ thuật của họ, với các nghệ sĩ Michelangelo, Leonardo da Vinci, Donatello, Botticelli, Fra Angelico, Tintoretto, Caravaggio, Bernini, Titian và Raffaello Sanzio.
Văn học
Với căn bản của tiếng Ý hiện đại được thành lập bởi nhà thơ Firenze, Dante Alighieri, người mà tác phẩm Thần khúc của ông thường được coi là tuyên ngôn văn học sớm nhất ra đời ở Châu Âu thời Trung Cổ và là một trong những tác phẩm văn học vĩ đại nhất thế giới, đất nước này luôn sở hữu nhiều tác gia nổi tiếng; những nhà văn và nhà thơ Boccaccio, Giacomo Leopardi, Alessandro Manzoni, Tasso, Ludovico Ariosto và Petrarch, người nổi tiếng nhất ở thể loại thơ sonnet, được sáng tạo ở Ý. Các triết gia nổi tiếng gồm Giordano Bruno, Marsilio Ficino, Niccolò Machiavelli và Giambattista Vico. Các tác giả văn học hiện đại và những người đoạt giải Nobel gồm nhà thơ quốc gia Giosuè Carducci năm 1906, nhà văn hiện thực Grazia Deledda năm 1926, tác giả sân khấu hiện đại Luigi Pirandello năm 1936, các nhà thơ Salvatore Quasimodo năm 1959 và Eugenio Montale năm 1975, satiryst và tác giả sân khấu Dario Fo năm 1997[33].
Khoa học
Trong khoa học, Galileo Galilei đã đưa ra những tri thức tiến bộ dẫn đường tới cách mạng khoa học, và Leonardo da Vinci là hình mẫu hoàn hảo nhất về một nhân vật thời Phục hưng.
Ý từng là nơi sinh sống của nhiều nhà khoa học và nhà phát minh: nhà vật lý Enrico Fermi, một trong những người cha của lý thuyết lượng tử và lãnh đạo Dự án Manhattan; nhà thiên văn học Giovanni Domenico Cassini; nhà vật lý Alessandro Volta người phát minh ra pin điện; nhà toán học Joseph Louis Lagrange và Fibonacci; Người đoạt giải Nobel Vật lý Guglielmo Marconi, phát minh ra radio; và Antonio Meucci người phát minh điện thoại…
Cho đến nay đã có 13 người Ý từng nhận các giải Nobel khoa hoc gồm: Guglielmo Marconi (Nobel Vật lý 1909), Enrico Fermi (Nobel Vật lý 1939), Emilio Gino Serge (Nobel Vật lý 1959), Carlo Rubbia (Nobel Vật lý 1984), Riccardo Giacconi (Nobel Vật lý 2002), Giulio Natta (Nobel Hóa học 1963), Camillo Golgi (Nobel Sinh học 1906), Daniel Bovet (Nobel Sinh học 1957), Salvador Luria (Nobel Sinh học 1969), Renato Dulbecco (Nobel Sinh học 1975), Rita Levi Montalcini (Nobel Sinh học 1986), Mario Capecchi (Nobel Sinh học 2007), Franco Modigliani (Nobel Kinh tế 1985).
Nhà toán học người Ý Enrico Bombieri đã được trao giải thưởng Fields năm 1974.
Âm nhạc
Từ âm nhạc dân gian tới Âm nhạc cổ điển Châu Âu (âm nhạc cổ điển), âm nhạc luôn đóng vai trò quan trọng trong văn hoá Ý. Là nơi sinh của opera, Ý đã thiết lập nhiều nền tảng cho truyền thống âm nhạc cổ điển. Các nhạc cụ gắn liền với âm nhạc cổ điển, và nhiều hình thức âm nhạc cổ điển hiện tại đều có thể tìm thấy nguồn gốc từ những phát minh ở thế kỷ 16 và 17 trong âm nhạc Ý (như giao hưởng, concerto và sonata). Một số nhà soạn nhạc Ý nổi tiếng nhất gồm các nhà soạn nhạc thời Phục hưng Giovanni Pierluigi da Palestrina và Claudio Monteverdi, các tác gia phong cách Baroque Arcangelo Corelli và Antonio Vivaldi, các nhà soạn nhạc Cổ điển Niccolò Paganini và Gioacchino Rossini, và các nhà soạn nhạc Lãng mạn Giuseppe Verdi và Giacomo Puccini. Các nhà soạn nhạc Ý hiện đại gồm Luciano Berio và Luigi Nono cũng đóng góp đáng kể cho sự phát triển của âm nhạc thể nghiệm và âm nhạc điện tử.
Thể thao
Những người dân Ý nổi tiếng vì lòng hâm mộ thể thao của họ, từ các trận đấu của Đấu sĩ thời La Mã cổ đại, tới Stadio Olimpico của Roma hiện nay, nơi các câu lạc bộ bóng đá tranh tài. Các môn thể thao mùa đông cũng khá phổ biến, và nhiều người Ý đã tham gia tranh tài tại các Olympic. Sự tích hợp hoạt động thể thao vào các lễ hội ở Ý như Palio (xem thêm Palio di Siena), và cuộc đua Gondola (regatta) diễn ra tại Venezia vào ngày Chủ nhật đầu tiên của Tháng 9, khẳng định vai trò của thể thao trong đời sống thường nhật ở Ý. Các môn thể thao được ưa chuộng nhất gồm bóng đá, bóng rổ (môn thể thao quốc gia thứ hai từ hập niên 1950), bóng chuyền, bóng nước, đấu kiếm, rugby, đua xe đạp, khúc côn cầu trên băng (chủ yếu tại Milano, Trentino-Alto Adige và Veneto), roller hockey và đua xe Công thức 1 (F1).
Ngôn ngữ
-
Ngôn ngữ chính thức của Italia là Tiếng Italia chuẩn, một hậu duệ của thổ ngữ Tuscan và hậu duệ trực tiếp của tiếng Latinh. Khoảng 75 các từ trong tiếng Italia có nguồn gốc từ tiếng Latinh.
Khi Ý được thống nhất năm 1861 tiếng Italia chủ yếu hiện diện trong ngôn ngữ văn học. Nhiều phương ngữ Romance được dùng trên khắp bán đảo Italia (các thổ ngữ Italia), với nhiều biến thể địa phương.
Sau khi Ý thống nhất Massimo Taparelli, marquis d’Azeglio, một trong các vị quan của Cavour’s, được cho là đã nói việc tạo lập nhà nước Ý chỉ còn thiếu một ngôn ngữ Italia (một đặc tính quốc gia). Thổ ngữ Tuscan (hay thổ ngữ Florentine) được sử dụng tại Tuscany được khuyến khích trở thành ngôn ngữ chuẩn phần lớn bởi di sản văn học của nó (tác phẩm Thần khúc của Dante’s thường gắn liền với sự kiện thổ ngữ Tuscan trở thành ngôn ngữ chuẩn). Pietro Bembo, bị ảnh hưởng bởi Petrarch, cũng ủng hộ tiếng Tuscan trở thành ngôn ngữ văn học chuẩn (volgare illustre). Sự phát triển của chữ in và các phong trào văn học (như petrarchism and bembismo) càng thúc đẩy quá trình tiêu chuẩn hoá tiếng Italia.
Việc thành lập một hệ thống giáo dục quốc gia đã dẫn tới sự giảm sút các biến thể ngôn ngữ được sử dụng trên toàn quốc. Sự tiêu chuẩn hoá càng diễn ra nhanh chóng trong thập niên 1960 vì tăng trưởng kinh tế dẫn tới sự phổ cập vô tuyến truyền hình (Công ty truyền thông nhà nước RAI đã thiết lập tiếng Italia tiêu chuẩn).
Ngày nay, dù có nhiều biến thể địa phương về giọng và nhấn nguyên âm, các thổ ngữ Italia hầu hết luôn có thể hiểu được với cả người nói và người nghe. Quả thực tính đa dạng vẫn tồn tại và thỉnh thoảng được sử dụng trong những cách diễn đạt và những bài hát dân gian.
Một số ngôn ngữ được dùng ở Italia không được coi là các thổ ngữ Italia mà hoàn toàn là những ngôn ngữ khác, như Venetian, Neapolitan, Sicilian và các ngôn ngữ Gallo-Italian ở phía bắc.
Các thổ ngữ và ngôn ngữ Italia
Ngoài nhiều biến thể ngôn ngữ địa phương và các thổ ngữ tiếng Italia tiêu chuẩn, một số ngôn ngữ được chấp nhận chính thức ở một số hình thức cũng được sử dụng:
- Tại Sardinia có nhóm người không nói tiếng Italia lớn nhất, khoảng 1.3 triệu người, họ sử dụng ngôn ngữ Sardinian, một ngôn ngữ Romance vẫn còn giữ lại nhiều từ tiền Latinh.
- Ở phía bắc, tỉnh Bolzano-Bozen có đa số dân là người nói Ngôn ngữ German (German Thượng). Vùng này được lấy từ Áo-Hung và trao cho Italia theo những điều khoản của Hiệp ước Saint-Germain-en-Laye năm 1919 Thế chiến thứ nhất. Một số cộng đồng nói tiếng German cũng tồn tại ở những phần khác ở phía bắc Italia. Ngôn ngữ Cimbrian là tiếng German liên quan tới ngôn ngữ Austro-Bavarian được dùng ở một số phần tại Veneto (Asiago, Luserna) và Walser tại Val’Aosta (Gressoney). Tổng cộng khoảng 300.000 hay hơn nữa người Italia nói tiếng German như tiếng mẹ đẻ của mình. Một số người tự cho mình là người Áo.
- Khoảng 120.000 người sống tại vùng Thung lũng Aosta, nơi một thổ ngữ Franco-Provençal được sử dụng tương tự như các thổ ngữ được dùng ở Pháp. Khoảng 1.400 sống tại hai thị trấn tách biệt ở Foggia nói một thổ ngữ Franco-Provençal khác.
- khoảng 80.000 người nói tiếng Slovene sống ở vùng đông bắc Friuli-Venezia Giulia gần biên giới với Slovenia.
- Tại dãy núi Dolomite ở Trentino-Alto Adige/Südtirol và Veneto có khoảng 40.000 người nói ngôn ngữ Ladin Rhaeto-Romance.
- Một cộng đồng 700.000 người tại Friuli nói tiếng Friulian, cũng là một ngôn ngữ thuộc hệ Rhaeto-Romance.
- Tại vùng Molise trung nam Italia khoảng 4.000 người nói tiếng Molise Croatian. Họ là những người Molise Croats, hậu duệ của một nhóm người đã di cư tới đây từ Balkans thời Trung Cổ.
- Sống rải rác ở phía nam Italia (Salento và Calabria) là khoảng 30.000 người nói tiếng Hy Lạp—được coi là những hậu duệ cuối cùng có nguồn gốc Magna Graecia của vùng này. Họ nói thổ ngữ Hy Lạp, Griko.
- Khoảng 15.000 ngưoiừ nói tiếng Catalan sống quanh vùng Alghero góc tây bắc Sardinia—được cho là kết quả của một đợt di cư của một nhóm lớn người Catalan từ Barcelona.
- Người Arbëreshë, với số lượng khoảng 100.000 ở phía nam Italia và trung Sicilia, kết quả của những đợt nhập cư trong quá khứ, nói thổ ngữ Arbëresh thuộc ngôn ngữ Albani.
Ghi chú
1 Theo Mitrica, một báo cáo vào tháng 10 năm 2005 của Rumani ước tính có khoảng 1.061.400 người Rumani đang sống tại Italia, chiếm 37.2% trong số 2.8 triệu người nhập cư ở nước này
[34] nhưng hiện không rõ con số này được tính toán như thế nào, và vì thế cần thận trọng khi sử dụng.
2 Xem thêm (tiếng Italia):
L. Lepschy e G. Lepschy, La lingua italiana: storia, varietà d’uso, grammatica, Milano, Bompiani
3 Các bản đồ chính thức của Pháp thể hiện biên giới đi vòng phía nam đỉnh chính, và tuyên bố đỉnh cao nhất tại Italia là Mont Blanc de Courmayeur (4.748 m), nhưng chúng mâu thuẫn với các phân tích đường phân thuỷ địa hình và thoả ước 1861.
Chú thích
- ^ Dân số các Quốc Gia trên Thế Giới, CIA World Factbook ước tính
- ^ “Italy”. International Monetary Fund. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Human Development Report 2010”. United Nations. 2010. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
- ^ see for example Heineman, Ben W.; Fritz Heimann. “The Long War Against Corruption”. Foreign affairs (May/June 2006). ; which speaks of Italy as a major country or “player” along with Germany, Pháp, Japan, and the United Kingdom.
- ^ Mallory, J.P. and D.Q. Adams, Encyclopedia of Indo-European Culture. London: Fitzroy, Dearborn, 1997, p. 24
- ^ Guillotining, M., History of Earliest Italy, trans. Ryle, M & Soper, K. in Jerome Lectures, Seventeenth Series, p.50
- ^ Luca Cerchiai, Lorena Jannelli, Fausto Longo, Lorena Janelli, 2004. The Greek Cities of Magna Graecia and Sicily (Getty Trust) ISBN 0-89236-751-2
- ^ T. J. Dunbabin, 1948. The Western Greeks
- ^ A. G. Woodhead, 1962. The Greeks in the West
- ^ Theo chiều kim đồng hồ từ phía trên bên trái: Venezia, Genova, Pisa, Amalfi.
- ^ Stéphane Barry and Norbert Gualde, “The Biggest Epidemics of History” (La plus grande épidémie de l’histoire, in L’Histoire n°310, June 2006, pp.45-46
- ^ (Smith, Dennis Mack (1997). Modern Italy; A Political History. Ann Arbor: The University of Michigan Press. ISBN 0-472-10895-6, pp. 15.)
- ^ (Bosworth (2005), pp. 49.)
- ^ (tiếng Ý) “Commissione parlamentare d’inchiesta sul terrorismo in Italia e sulle cause della mancata individuazione dei responsabili delle stragi (1995 Parliamentary Commission of Investigation on Terrorism in Italy and on the Causes of the Failing of the Arrests of the Responsibles of the Bombings)”. 1995. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2006.
- ^ (tiếng Anh)/(tiếng Ý)/(tiếng Pháp)/(tiếng Đức) “Secret Warfare: Operation Gladio and NATO’s Stay-Behind Armies”. Swiss Federal Institute of Technology / International Relation and Security Network. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2006.
- ^ “Italian soldiers leave for Lebanon Il Corriere della Sera, 30 August 2006
- ^ “Stockholm International Peace Research Institute Website – Open (PDF) table “The fifteen major spenders in 2006″”.
- ^ “www.usip.org/pubs/usipeace_briefings/2006/coespu.pdf” (PDF).
- ^ Society and Culture.
- ^ a ă “La popolazione straniera residente in Italia” (bằng Italian). 17 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2007.
- ^ http://www.corriere.it/Primo_Piano/Cronache/2006/01_Gennaio/17/cattolici.shtml
- ^ Leustean, Lucian N. (2014). Eastern Christianity and politics in the twenty-first century. Routledge. tr. 723. ISBN 978-0-415-68490-3.
- ^ http://www.cesnur.org/religioni_italia/t/testimoni_geova_02.htm
- ^ http://www.chiesavaldese.org/pages/storia/dove_viviamo.php
- ^ http://www.oikoumene.org/en/member-churches/evangelical-methodist-church-in-italy
- ^ http://news.bbc.co.uk/2/hi/europe/4385768.stm
- ^ http://www.buddhismo.it/ente.htm
- ^ http://www.sgi-italia.org/chi/ibisg.html
- ^ http://www.db.caritas.glauco.it/caritas/dati/news/2004-05/25/Scheda.pdf
- ^ http://www.etnomedia.org/14.htm
- ^ “International Tourism Receipts” (PDF). UNWTO Tourism Highlights, Edition 2005 (bằng tiếng Anh). World Tourism Organization. tr. 12. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2006.
- ^ “Basta ‘La Casta’: No End in Sight to Italy’s Economic Decline – SPIEGEL ONLINE”. SPIEGEL ONLINE. Truy cập 26 tháng 3 năm 2015.
- ^ All Nobel Laureates in Literature
- ^ Mitrica, Mihai Un milion de romani s-au mutat in Italia (“One million Romanians have moved to Italy”). Evenimentul Zilei, October 31 2005. Visited April 11 2006.
- Other references can be found in the more detailed articles linked to in this article.
Liên kết ngoài
Chính phủ
Định chế công cộng
Tài liệu khác
Khác
- Ảnh
Du lịch
Thể loại:
Elizabeth II
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Elizabeth II |
Nữ hoàng Anh Elizabeth II (năm 2015)
|
Nữ vương của Vương quốc Anh, Canada, Australia và các vương quốc Thịnh vượng chung khác |
Tại vị |
6 tháng 2, 1952 – nay
(63 năm, 114 ngày) |
Đăng quang |
2 tháng 6, 1953 |
Tiền nhiệm |
George VI |
Thái tử |
Charles, Thân vương xứ Wales |
Thông tin chung |
Phối ngẫu |
Thân vương Philip, Công tước xứ Edinburgh
kết hôn 1947 |
Hậu duệ |
Charles, Thân vương xứ Wales
Công chúa Anne
Vương tử Andrew, Công tước xứ York
Vương tử Edward, Bá tước xứ Wessex |
Tên đầy đủ |
Elizabeth Alexandra Mary Windsor |
Tước hiệu |
HM Nữ hoàng
HRH Công chúa Elizabeth, Nữ công tước xứ Edinburgh
HRH Công chúa Elizabeth
HRH Công chúa Elizabeth xứ York |
Hoàng tộc |
Nhà Windsor |
Hoàng gia ca |
God Save the Queen |
Thân phụ |
George VI |
Thân mẫu |
Elizabeth Bowes-Lyon |
Sinh |
21 tháng 4, 1926 (89 tuổi)
Mayfair, Luân Đôn |
Thanh tẩy |
29 tháng 5 năm 1926
Điện Buckingham, Luân Đôn |
Tôn giáo |
Giáo hội Anh & Giáo hội Scotland |
Elizabeth II (Elizabeth Alexandra Mary Windsor; sinh vào ngày 21 tháng 4 năm 1926; phát âm: Ê-li-da-bét II) là đương kim Nữ hoàng của 16 quốc gia độc lập thuộc Khối Thịnh vượng chung Anh bao gồm: Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Canada, Úc, New Zealand, Jamaica, Barbados, Bahamas, Grenada, Papua New Guinea, Quần đảo Solomon, Tuvalu, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadies, Antigua và Barbuda, Belize và Saint Kitts và Nevis. Bà đứng đầu các triều đình riêng rẽ và ngang nhau, thực hiện các nhiệm vụ cho mỗi quốc gia mà bà là nữ quốc vương, cũng như đóng vai trò là Người đứng đầu Khối thịnh vượng chung, Lãnh đạo Tối cao Giáo hội Anh, Công tước xứ Normandy, Chúa tể xứ Mann, và Thủ lĩnh Tối cao xứ Fiji. Về lý thuyết quyền lực của bà là rất lớn, tuy nhiên, trên thực tế theo quy ước, bà hiếm khi can dự vào các vấn đề chính trị.
Elizabeth trở thành Nữ hoàng Vương quốc Anh, Canada, Úc, New Zealand, Nam Phi, Pakistan, và Ceylon sau khi cha của bà, vua George VI, qua đời vào ngày 6 tháng 2 năm 1952. Thời gian trị vì suốt 63 năm của bà chứng kiến nhiều sự thay đổi, trong đó có sự giải thể của Đế quốc Anh (một tiến trình bắt đầu từ trước khi bà lên ngôi) và sự phát triển tiếp đó của Khối thịnh vượng chung Anh. Sau khi các thuộc địa khác của Anh giành được độc lập khỏi Vương quốc Anh, bà trở thành nữ vương của một vài quốc gia mới độc lập. Bà cũng là người đã từng trị vì 32 quốc gia riêng biệt, nhưng nay một nửa trong số đó đã trở thành nước cộng hòa.
Elizabeth kết hôn với Vương thân Philip năm 1947. Hai người họ có bốn con, tám cháu và bốn chắt. Bà là một trong những người trị vì lâu nhất nước Anh, chỉ sau Nữ hoàng Victoria (trị vì Vương quốc Anh trong 63 năm, 217 ngày) và xếp trên vua George III (người trị vì Vương quốc Anh trong 59 năm, 96 ngày).
Thời thơ ấu
Công chúa Elizabeth năm 1929
Công chúa Elizabeth là con đầu lòng của Vương tử Albert, Công tước xứ York (sau này trở thành Vua George VI), và vợ, bà Elizabeth. Bà được sinh ra nhờ biện pháp mổ lấy thai tại căn nhà số 17 Đường Bruton, Mayfair, Luân Đôn[1], và được rửa tội vào ngày 29 tháng 5 năm 1926 trong nhà thờ riêng của Điện Buckingham dưới sự chủ trì của Tổng giám mục xứ York, Cosmo Lang. Cha mẹ đỡ đầu của bà là ông bà nội Đức vua George V và Vương hậu Mary; cô của bà, Công chúa Mary và Quý bà Elphinstone; ông bác cố, Vương tử Arthur, Công tước xứ Connaught và Strathearn; và bà ngoại, Cecilia Bowes-Lyon, Nữ bá tước Strathmore và Kinghorne.
Elizabeth được đặt theo tên của mẹ bà, tên đệm được đặt theo tên bà cố là Nữ hoàng Alexandra, và bà ngoại Nữ hoàng Mary[2] và được những người thân trong gia đình gọi bằng cái tên “Lilibet” do bà không thể phát âm chính xác tên “Elizabeth” của mình khi còn nhỏ[3]. Bà có quan hệ gần gũi với ông nội của mình (vua George V), và được cho là có công giúp ông hồi phục sau bệnh tật năm 1929[4][5].
Bà có một cô em gái duy nhất là Công chúa Margaret, sinh năm 1930. Hai cô công chúa được dạy tại nhà dưới sự giám sát của mẹ và cô giáo của gia đình, Marion Crawford, người thường được biết đến với tên “Crawfie”[6][7]. Trong sự tức giận của vương tộc, Crawford sau đó đã xuất bản một cuốn tiểu sử ghi lại thời thơ ấu của Elizabeth và Margaret có tựa đề The Little Princesses (Những cô công chúa nhỏ). Cuốn sách mô tả tình yêu cùa Elizabeth với ngựa và chó, tính ngăn nắp của bà, và rất có trách nhiệm[8]. Những người khác cũng đồng tình với nhận xét này. Winston Churchill đã mô tả Elizabeth khi bà được hai tuổi là “một nhân cách. Cô bé phảng phất uy quyền và chín chắn đáng ngạc nhiên trong một đứa trẻ.”[9] Chị họ của bà, Margaret Rhodes, mô tả bà là “một cô bé vui vẻ, nhưng có ý thức và có giáo dục”[10].
Người thừa kế ngai vàng
Là cháu gái xem quốc vương là ông nội, Elizabeth nhận được danh hiệu Công chúa Anh, với tước hiệu Her Royal Highness, tước hiệu đầy đủ là Her Royal Highness Công chúa Elizabeth xứ York. Khi sinh ra, bà là người thứ ba trong danh sách kế vị ngai vàng, sau bác của mình, Vương tử Edward, Thân vương xứ Wales, và cha bà. Mặc dù việc bà được sinh ra có được công chúng chú ý, không ai có lý do để tin rằng bà sẽ trở thành nữ hoàng, vì mọi người khi đó đều cho rằng Thân vương xứ Wales sẽ cưới vợ và sinh con[11]. Vào năm 1936, khi ông nội của bà, Đức vua, băng hà và người bác Edward của bà nối ngôi, bà trở thành người kế vị thứ hai sau cha mình. Vào cuối năm đó, Edward thoái vị và cha bà trở thành vua. Elizabeth từ đó trở thành người thừa kế ngai vàng, và do đó được gọi là Her Royal Highness Công chúa Elizabeth.
Elizabeth học môn lịch sử lập hiến với Ngài Henry Marten, Phó hiệu trưởng Đại học Eton[12], và tôn giáo với Tổng giám mục xứ Canterbury[13]. Bà học các ngôn ngữ hiện đại, và hiện nay vẫn nói tiếng Pháp trôi chảy[14]. Một đoàn Hướng đạo nữ, Đoàn Cung điện Buckingham số 1, được thành lập đặc biệt để công chúa Elizabeth có thể giao tiếp với những cô gái cùng lứa tuổi. Bà đoạt được phù hiệu thông dịch viên, bơi lội, múa, cưỡi ngựa, đầu bếp, chăm sóc trẻ, và may vá, và sau này trở thành người đứng đầu tội tuần tra của Nhóm tuần tra Swallow Patrol. Sau đó bà được tuyển làm Hướng đạo sinh biển và vào năm 1946, trở thành Trưởng hướng đạo sinh của Hướng đạo sinh lớn Đế quốc Anh, một nhánh dành cho người trưởng thành của Hướng đạo sinh nữ[15]. Nữ vương đến nay vẫn tham gia Hướng đạo và làm người bảo trợ cho Liên đoàn Hướng đạo từ năm 1952[16].
Vào năm 1939, Chính phủ Canada muốn công chúa Elizabeth tháp tùng cha mẹ trong chuyến đi thăm Canada. Tuy nhiên, Đức Vua đã quyết định không thực hiện điều này, nói rằng con gái ông còn quá trẻ để tham dự vào chuyến đi thăm căng thẳng như vậy, cuối cùng kéo dài đến hơn 1 tháng[17]. Elizabeth có thể đã gặp người chồng tương lai của mình, Vương tử Philip của Hy Lạp và Đan Mạch vào năm 1934 và 1937[18]. Sau một cuộc gặp gỡ khác tại Đại học Hải quân Hoàng gia ở Dartmouth tháng 7 năm 1939, Elizabeth, dù khi đó chỉ mới 13 tuổi, đã đem lòng yêu mến Philip, và họ bắt đầu thư từ cho nhau[19].
Đệ nhị thế chiến
Vào tháng 9 năm 1939, Đệ nhị thế chiến bùng nổ. Công chúa Elizabeth và em gái, công chúa Margaret, ở tại Lâu đài Balmoral, Scotland, từ tháng 9 đến Giáng sinh năm 1939, rồi chuyển sang Nhà Sandringham, Norfolk. Vào tháng 5 năm 1940, họ chuyển tới Lâu đài Windsor và ở đó trong gần hết năm năm tiếp theo. Đã có người đề nghị di tản hai công chúa sang Canada, nơi họ cùng với cha mẹ mình sẽ sống tại Lâu đài Hatley ở British Columbia. Kế hoạch này chưa bao giờ thành hiện thực; để đáp lại lời đề nghị này, mẹ của Elizabeth đã nói một câu nói nổi tiếng: “Những đứa trẻ sẽ không đi đâu hết nếu không có tôi. Tôi sẽ không đi khỏi mà không có Đức Vua. Và Đức Vua sẽ không bao giờ ra đi”[20]. Những đứa trẻ vẫn tiếp tục ở lại Windsor, tại đó chúng đã diễn kịch pantomime vào Giáng sinh, trước gia đình và bạn bè được mời tới, cùng với những đứa con trong nhân viên Nội trợ Hoàng gia. Cũng từ Windsor mà Elizabeth, vào năm 1930, đã có buổi phát thanh đầu tiên qua chương trình Children’s Hour của BBC, gửi đến những đứa trẻ đang di tản khỏi các thành phố. Bà đã nói:
Chúng tôi đang cố gắng làm tất cả những gì chúng tôi có thể để giúp đỡ những thủy thủ, quân nhân và phi công dũng cảm, và chúng cũng đang cố gắng chịu đựng một phần nguy hiểm và buồn bã của cuộc chiến. Chúng tôi, mỗi một người, biết rằng cuối cùng rồi mọi chuyện sẽ tốt đẹp.[17]
Trong những năm Elizabeth ở Windsor, chuyên gia lập hiến Edward Iwi đã lên các kế hoạch để cho một thành viên của Hoàng gia xuất hiện ở Wales, nhằm dẹp yên ảnh hưởng của phong trào quốc gia đang lên Plaid Cymru[21]. Trong một báo cáo gửi đến Thư ký Nội vụ Hoàng gia Herbert Morrison, Iwi đề nghị chỉ định Elizabeth là Cảnh sát của Lâu đài Caernarfon (vị trí mà David Lloyd George đang nắm giữ) và là người bảo hộ của Urdd Gobaith Cymru, và đi đến Wales với danh nghĩa đó[21]. Ý tưởng này được Thư ký Nội vụ bác bỏ, dựa trên cơ sở nó có thể gây ra bất hòa giữ bắc và nam Wales; và bởi cả Đức Vua, người từ chối bắt đứa con gái nhỏ của mình phải chịu áp lực bởi các chuyến đi công cán[21]; và của chính phủ, vì hai thành viên lãnh đạo của Urdd Gobaith Cymru được phát hiện ra là những người từ chối nhập ngũ có chủ đích.[21]
Vào năm 1945, công chúa Elizabeth tháp tùng cha mẹ đến thăm nhân viên quân đội của Khối thịnh vượng chung, và bắt đầu thực hiện các công tác một mình, như xem cuộc diễu hành của các nữ phi công[17]. Bà gia nhập Đội quân Lãnh thổ Bổ trợ Phụ nữ, với số hiệu 230873 Đại úy thứ hai Elizabeth Windsor. Bà được huấn luyện để trở thành tài xế và thợ cơ khí, lái một chiếc xe tải quân sự, và tiến đến cấp bậc Tư lệnh cấp thấp[22]. Hiện nay bà là “người đứng đầu quốc gia còn sống duy nhất đã từng mặc quân phục trong Đệ nhị thế chiến”[23].
Đến cuối cuộc chiến ở châu Âu, vào ngày Chiến thắng trong Ngày châu Âu, công chúa Elizabeth và em gái bà đã hòa mình một cách ẩn danh vào đám đông ăn mừng trên đường phố Luân Đôn. Sau này bà đã nói trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi, “chúng tôi xin phép cha mẹ để được ra ngoài và tự mắt mình chứng kiến. Tôi nhớ là chúng tôi đã rất sợ bị nhận ra… Tôi nhớ nhiều hàng người không biết mặt nhau đã nắm tay và đi dọc xuống Whitehall, tất cả chúng tôi chỉ biết khóc trong ngập tràn hạnh phúc và nhẹ nhõm”[24]. Hai năm sau, Công chúa thực hiện chuyến đi ra nước ngoài chính thức đầu tiên, khi bà tháp tùng cha mẹ đến phía Nam châu Phi. Vào sinh nhật lần thứ 21, trong một buổi phát thanh đến Khối thịnh vượng chung Anh từ Nam Phi, bà bảo đảm: “Tôi tuyên bố trước tất cả mọi người rằng toàn bộ cuộc đời tôi, dù dài hay ngắn, sẽ dành phục vụ các bạn và phục vụ cho hoàng gia vĩ đại mà tất cả chúng đều thuộc về”[25].
Kết hôn
Nữ hoàng và Hoàng thân Phillip chụp hình tai cung điện Buckingham trong ngày lễ đăng quang năm 1953.
Elizabeth kết hôn với Philip vào ngày 20 tháng 11 năm 1947. Cặp đôi này là cháu gọi Đức Vua Christian IX của Đan Mạch bằng bác họ và họ hàng ba đời với Nữ vương Victoria. Trước khi kết hôn, Philip đã từ bỏ tước hiệu Hy Lạp và Đan Mạch của ông, và sử dụng danh hiệu Trung úy Philip Mountbatten, lấy theo họ mẹ. Ngay trước lễ cưới, ông được phong tước Công tước xứ Edinburgh và được trao cho danh hiệu His Royal Highness.
Lễ cưới diễn ra không phải là suôn sẻ: Philip theo Chính thống giáo Hy Lạp, không có địa vị tài chính, và có các chị em gái kết hôn với những quý tộc Đức có liên hệ với Đức quốc xã. Mẹ của Elizabeth, trong những cuốn tự truyện về sau, được nói rằng đã phản đối mối lương duyên này, thậm chí còn gọi Philip là thằng Đức (The Hun)[26]. Tuy nhiên, Khối thịnh vượng chung chưa hoàn toàn hồi phục sau chiến tranh; nên Công chúa đã phải để dành các phiếu được phân phối để mua vật liệu may váy cưới[27], do Norman Hartnell thiết kế[28]. Lễ cưới được xem là tia hy vọng đầu tiên của sự tái sinh sau chiến tranh. Elizabeth và Philip nhận được 2.500 món quà cưới từ khắp nơi trên thế giới. Tại lễ cưới, phù dâu của Elizabeth là em gái; em họ, Công chúa Alexandra xứ Kent; Lady Caroline Montagu-Douglas-Scott, chị em bạn dì với Công chúa; Công chúa Alice, Nữ công tước xứ Gloucester; chị em con chú họ, Lady Mary Cambridge; Lady Elizabeth Mary Lambart (nay là Longman), con gái của Frederick Lambart, Bá tước xứ Cavan; The Honourable Pamela Mountbatten (nay là Hicks), chị họ của Philip; và chị họ bên phía mẹ, The Honourable Margaret Elphinstone (nay là Rhodes) và The Honourable Diana Bowes-Lyon (nay là Somervell)[29]. Cậu bé xách váy cho bà là em con chú của bà, Vương tử William xứ Gloucester và Vương tử Michael xứ Kent[29]. Ở nước Anh hậu chiến, không có bất kỳ họ hàng người Đức nào của Công tước xứ Edinburgh được phép tham dự lễ cưới, gồm có ba người chị gái còn sống của Philip. Cô của Elizabeth, Công chúa Mary, từ chối tham dự vì anh trai của bà, Công tước xứ Windsor (người thoái vị năm 1936), không được mời vì lý do bên nhà chồng; bà lấy lý do sức khỏe làm lý do chính thức không đến dự tiệc cưới[30].
Elizabeth sinh hạ con trai đầu lòng, Vương tử Charles, vào ngày 14 tháng 11 năm 1948, vài tuần sau khi vua cha trao giấy chứng nhận đặc quyền cho phép con cái bà được hưởng địa vị vương tộc, mà nếu không họ sẽ không được phong tước[31]. Mặc dù vương tộc có tên là Windsor, một sắc lệnh của Vua Anh ban hành năm 1960 nói rằng dòng dõi nam phái của Elizabeth II và Hoàng thân Philip nếu không phải là vương tử và công chúa của Vương quốc Anh thì sẽ mang họ Mountbatten-Windsor[32]. Tuy nhiên, trên thực tế, tất cả con cái của họ đều lấy họ Mountbatten-Windsor. Đứa con thứ hai, Công chúa Anne, sinh vào năm 1950.
Sau lễ cưới, cặp vợ chồng thuê chỗ ở đầu tiên của mình, Windlesham Moor, cho đến ngày 4 tháng 7 năm 1949[29], khi họ chuyển sang sinh sống tại Clarence House. Tuy nhiên, trong nhiều khoảng thời gian khác nhau từ năm 1949 đến 1951, Công tước xứ Edinburgh đóng quân ở Malta (vào thời điểm đó là Đất bảo hộ của Anh) với vai trò sĩ quan Hải quân Hoàng gia. Ông và Elizabeth thỉnh thoảng sống vài tháng ở thôn Gwardamangia ở Malta, tại Làng Gwardamangia, ngôi nhà mướn lại từ Louis Mountbatten, Bá tước Mountbatten xứ Miến Điện. Trong những lần gặp nhau ở Malta, những đứa trẻ vẫn ở lại nước Anh[33].
Cai trị
Lên ngôi
Sức khỏe của Vua George VI yếu đi trong năm 1951, và Elizabeth bắt đầu xuất hiện thường xuyên trong những sự kiện công cộng thay thế cho cha mình. Vào tháng 10 năm đó, bà có chuyến thăm đến Canada, và viếng thăm Tổng thống Hoa Kỳ, Harry S. Truman, tại Washington, D.C.; trong chuyến thăm đó, Công chúa đã mang theo mình bản thảo tuyên bố lên ngôi phòng khi Đức Vua qua đời khi bà không có mặt ở Vương quốc Anh[17][34]. Vào đầu năm 1952, Elizabeth và Philip có chuyến thăm đến Úc và New Zealand đi qua Kenya. Tại Sagana Lodge, cách Nairobi 100 dặm về phía bắc, tin dữ về cái chết của vua cha đến tai Elizabeth vào ngày 6 tháng 2. Philip là người báo tin này cho nữ vương mới[35]. Martin Charteris, khi đó Thư ký Trợ lý riêng của bà, đã hỏi bà muốn chọn tên gì để làm niên hiệu, và được bà trả lời: “Elizabeth, tất nhiên”[36]. Elizabeth tuyên bố trở thành nữ vương tại nhiều quốc gia nơi bà được thừa kế ngai vàng, và đoàn vương tộc nhanh chóng quay lại Vương quốc Anh. Tân Nữ hoàng và Công tước Edinburgh chuyển sang sống tại Điện Buckingham.
Trong chuẩn bị cho lễ đăng quang, Công chúa Margaret thông báo với chị mình rằng cô muốn kết hôn với Peter Townsend, một thường dân đã ly dị lớn hơn Margaret 16 tuổi, và có hai đứa con riêng. Nữ hoàng yêu cầu họ chờ thêm một năm; mà theo lời của Martin Charteris, “Nữ hoàng rất đồng cảm với Công chúa, nhưng tôi cho rằng bà đã nghĩ – bà hy vọng – với thời gian, mối tình này rồi sẽ phôi phai”. Sau khi bị sự phản đối của các thủ tướng trong Khối thịnh vượng chung, và lời đe dọa từ chức của một bộ trưởng nước Anh nếu Margaret và Townsend kết hôn, Công chúa đã quyết định từ bỏ ý định[37].
Dù bà nội của Nữ hoàng là Thái Hoàng thái hậu Mary mất vào ngày 24 tháng 3 năm 1953, lễ đăng quang của Nữ hoàng vẫn được tiến hành tại Tu viện Westminster vào ngày 2 tháng 6 năm 1953, theo ước nguyện của Mary. Toàn bộ buổi lễ, ngoại trừ lễ xức dầu và ban thánh thể, đã được truyền hình khắp Khối thịnh vượng chung, và ước đoán có khoảng 20 triệu người xem ở Anh, và 12 triệu người khác theo dõi qua radio[38].Nữ hoàng Elizabeth mặc áo dài do Norman Hartnell thiết kế, có đính những biểu tượng hoa của các quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung: hoa hồng Tudor của nước Anh, cây kế của Scotland, tỏi tây của Wales, cây lá chụm hoa của Ireland, cây keo của Úc, lá phong của Canada, dương xỉ của New Zealand, protea của Nam Phi, hai đóa hoa sen đại diện cho Ấn Độ và Ceylon, và cây lúa mì, cây bông, và cây đay của Pakistan[39].
Sự phát triển của Khối thịnh vượng chung
-
Nữ hoàng Elizabeth, trong suốt cuộc đời mình, đã chứng kiến sự thay đổi không ngừng đế quốc Anh cũ sang Khối Thịnh vượng chung Anh mới, rồi đến Khối thịnh vượng chung các Quốc gia. Vào thời điểm Nữ hoàng Elizabeth lên ngôi năm 1952, vai trò nguyên thủ trên danh nghĩa của các quốc gia độc lập của bà đã được thiết lập. Trong thời kỳ 1953–1954, Nữ hoàng và phu quân đã thực hiện chuyến đi vòng quanh thế giới trong sáu tháng. Bà trở thành quốc vương Úc và New Zealand đang trị vì đầu tiên đến thăm quốc gia này. Trong chuyến thăm, rất nhiều người đến chứng kiến; ước tính có ba phần tư dân số Úc đến để chiêm ngưỡng Nữ hoàng[40]. Trong thời gian trị vì, Nữ hoàng Elizabeth đã thực hiện nhiều chuyến viếng thăm đến nước ngoài, cũng như nhiều chuyến thăm đến từng quốc gia thuộc Khối thịnh vượng, trong đó có việc tham dự tất cả những Cuộc họp những người đứng đầu Chính phủ Khối thịnh vượng chung Anh (CHOGM). Elizabeth II là nguyên thủ quốc gia đi thăm viếng nhiều nhất trong lịch sử[41][42].
Vào năm 1956, Thủ tướng Pháp Guy Mollet và Thủ tướng Anh Ngài Anthony Eden đã bàn về khả năng Pháp liên minh với Vương quốc Anh; một trong những ý tưởng đó là Nữ hoàng Elizabeth II sẽ trở thành nguyên thủ quốc gia của Pháp. Mollet “đã cho rằng không có khó khăn gì khi chấp nhận sự lãnh đạo của Đức Vương thượng”[43]. Lời đề nghị này chưa bao giờ được chấp nhận, và vào năm sau đó, Pháp đã ký Hòa ước Roma[43]. Vào tháng 11 năm đó, Anh và Pháp xâm lược Ai Cập trong một nỗ lực không thành cuối cùng nhằm chiếm giữ kênh đào Suez. Bá tước Mountbatten xứ Miến Điện đã tuyên bố rằng Nữ hoàng phản đối cuộc xâm lược, mặc dù Thủ tướng Eden phue nhận nó. Eden đã từ chức hai tháng sau đó[44].
Sự thiếu vắng một cơ chế nghi thức trong Đảng Bảo thủ nhằm chọn ra một vị lãnh đạo có nghĩa là, sau khi Eden từ chức, Nữ hoàng có toàn quyền quyết định người thành lập chính phủ. Eden khuyên Elizabeth tham vấn Lord Salisbury (Chủ tịch Hội đồng Mật viện). Lord Salisbury và Lord Kilmuir (Đại pháp quan) đã tham vấn Nội các, Winston Churchill và Chủ tịch Ủy ban 1922, kết quả là Nữ hoàng đã chỉ định ứng cử viên do họ đề xuất: Harold Macmillan. Sáu năm sau, đến phiên Macmillan từ chức và khuyên Nữ hoàng chỉ định Bá tước xứ Home làm Thủ tướng, bà cũng làm theo lời khuyên này. Trong cả hai năm 1957 và 1963, Nữ hoàng đã chịu sự chỉ trích vì đã chỉ định Thủ tướng theo lời khuyên của một nhóm nhỏ bộ trưởng, hoặc chỉ theo lời một người duy nhất. Vào năm 1965, Đảng Bảo thủ đã đưa vào cơ chế nghi thức để chọn người đứng đầu, vì vậy bà không còn phải làm nhiệm vụ này nữa[44].
Cuộc khủng hoảng Suez và sự lựa chọn người kế nhiệm Eden đã dẫn đến sự chỉ trích thực sự đầu tiên vào cá nhân Nữ hoàng vào năm 1957. Trong một tạp chí do [45] Lord Altrincham sở hữu và biên tập, ông cáo buộc bà là “xa cách”[46]. Altrincham đã bị những nhân vật nổi tiếng lên án và bị một số người hành hung vì tức giận với lời phát biểu của ông[47]. Bà có chuyến viếng thăm đến Hoa Kỳ vào năm đó, và có bài phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc[48]. Cũng trong dịp đó bà đã khai mạc Nghị viện Canada thứ 23, trở thành vị quân vương Canada đầu tiên khai mạc một phiên nghị viện. Hai năm sau, bà lại đến thăm Canada và Hoa Kỳ. Vào năm 1962, bà đến Síp, Ấn Độ, Pakistan, Nepal và Iran[49]. Trong chuyến thăm Ghana, bà đã từ chối giữ khoảng cách với Tổng thống Kwame Nkrumah, dù ông là mục tiêu của những kẻ ám sát. Harold Macmillan khi đó đã viết: “Nữ hoàng hoàn toàn quyết đoán trong chuyện đó. Bà cảm thấy thiếu kiên nhẫn với thái độ xem bà như… một ngôi sao điện ảnh… Bà đã thực sự là ‘trái tim và dạ dày của một người đàn ông’… Bà yêu công việc của mình và xứng đáng là một Nữ hoàng”[50].
Hai lần Nữ hoàng Elizabeth mang thai Hoàng tử Andrew và Edward, năm 1959 và 1963, là những lần duy nhất Elizabeth không xuất hiện để khai mạc Nghị viện khi bà trị vì. Bà đã ủy nhiệm quyền đó cho Đại pháp quan. Elizabeth đã khai mạc đường dây điện thoại xuyên Đại Tây Dương đầu tiên của Canada (một phần trong số đó đã được điều chỉnh để kết nổi tất cả các quốc gia Khối thịnh vượng chung với nhau) năm 1961, với việc gọi cho Thủ tướng Canada, John Diefenbaker, từ Điện Buckingham và nói “Ông có đó không, ông Thủ tướng?”[51]. Vào năm 1965, Thủ tướng Rhodesia Ian Smith đơn phương tuyên bố độc lập khỏi Anh quốc. Mặc dù Nữ hoàng đã cách chức Smith trong một tuyên bố chính thức và cộng đồng quốc tế áp lệnh trừng phạt cho Rhodesia, chế độ của Smith vẫn tồn tại thêm 11 năm nữa[52].
Vào năm 1969, Elizabeth đã gửi một trong 73 Thông điệp Chúc mừng Apollo 11 đến NASA do sự kiện lịch sử lần đầu tiên đổ bộ lên Mặt Trăng; thông điệp này được khắc lên một đĩa silicon nhỏ hiện vẫn nằm trên Mặt Trăng. Sau đó bà đã gặp phi hành đoàn trong chuyến đi thăm các nước trên thế giới của họ[14]. Vào năm 1976, bà trở thành quân vương đầu tiên gửi thư điện tử[53].
Vào tháng 2 năm 1974, một kết quả tổng tuyển cử bất phân thắng bại của Anh dẫn tới việc, về lý thuyết, Thủ tướng sắp mãn nhiệm, Edward Heath, người thuộc đảng thắng đa số phiếu phổ thông, có thể tiếp tục tại vị nếu ông hình thành một chính phủ liên minh với Đảng Tự do. Thay vì lập tức từ chức Thủ tướng, Heath đã xem xét lựa chọn này, và chỉ từ chức sau khi cuộc thảo luận để hình thành chính phủ liên hiệp thất bại, sau đó Nữ vương đã yêu cầu Thủ lĩnh Phe đối lập, Harold Wilson của Đảng Lao động, thành lập chính phủ[54].
Một năm sau, tại cao trào của cuộc khủng hoảng lập hiến Úc 1975, Thủ tướng Gough Whitlam bị Toàn quyền Ngài John Kerr bãi nhiệm khi đề xuất ngân sách của Whitlam bị Thượng viện do phe đối lập điều khiển bác bỏ[55]. Phát ngôn viên Hạ viện Úc, Gordon Scholes, đã thay mặt hạ viện thỉnh cầu Nữ vương đảo ngược quyết định của Kerr, trên cơ sở Đảng Lao động của Whitlam vẫn nhận được sự tín nhiệm của quốc hội. Elizabeth từ chối, cho rằng việc can thiệp vào chính trường là không thích hợp đối với bà mà theo Hiến pháp Úc nó là quyền hạn của Toàn quyền[56]. Cuộc khủng hoảng này đã kích thích chủ nghĩa cộng hòa ở Úc[55].
Lễ kỷ niệm 25 năm
Năm 1977, Nữ hoàng Elizabeth đánh dấu Lễ kỷ niệm 25 năm trị vì[57]. Nhiều sự kiện được tổ chức ở các quốc gia khác nhau trong chuyến thăm đến các nước thuộc Khối thịnh vượng chung của Nữ hoàng, trong đó có lễ tạ ơn tại Nhà thờ chính tòa Thánh Phao-lô trong đó có sự tham dự của các chức sắc quý tộc và các nguyên thủ quốc gia khác. Những bữa tiệc đã được tổ chức trên khắp các vương quốc Khối thịnh vượng chung, đỉnh điểm là một vài Ngày kỷ niệm (Jubilee Days) ở Vương quốc Anh, vào tháng 6. Tại nước Anh, những con tem kỷ niệm đã được phát hành. Đường Lễ kỷ niệm 25 năm (Jubilee Line) tại Tàu điện ngầm Luân Đôn (dù đến năm 1979 mới mở cửa) được đặt theo tên của lễ kỷ niệm này, cũng như một vài địa điểm và không gian công cộng khác, như Vườn Jubilee ở Bờ Nam Luân Đôn. Tại Canada, Huy hiệu Kỷ niệm 25 năm trị vì Nữ hoàng Elizabeth II đã được phát hành. Năm 1978, bà đón nhận chuyến thăm của vị lãnh tụ cộng sản Rumani, Nicolae Ceauşescu[58], và năm sau là hai xảy ra hai sự kiện lớn: một là việc phát hiện ra Anthony Blunt, Thanh tra Bộ tranh của Nữ hoàng, là một điệp viên cộng sản; vụ còn lại vụ ám sát người họ hàng bên chồng Bá tước Mountbatten xứ Miến Điện do Quân đội Cộng hòa Ireland Lâm thời thực hiện[59].
Theo Paul Martin, Sr., vào cuối thập niên 1970 Nữ hoàng rất lo lắng rằng Vương tộc “không còn mấy ý nghĩa” đối với Thủ tướng Canada Pierre Trudeau[60]. Tony Benn nói rằng Nữ hoàng nhận thấy Trudeau “khá thất vọng”[60][61]. Điều này có thể là do những trò khôi hài của ông, như trượt xuống lan can tại Điện Buckingham hay múa xoay tròn sau lưng bà vào năm 1977[60], cũng như tước bỏ nhiều biểu tượng hoàng gia Canada trong nhiệm kỳ của ông[60]. Martin—cùng với John Roberts và Mark MacGuigan—được cử tới Anh năm 1980 để bàn về việc thay đổi Hiến pháp Canada. Nữ hoàng rất quan tâm đến cuộc tranh luận về hiến pháp, đặc biệt sau sự thất bại của Bill C-60, có thể ảnh hưởng đến vai trò nguyên thủ của bà. Tất cả các bên đều nhận thấy Nữ hoàng “được báo cáo cặn kẽ về nội dung và chính trị của trường hợp hiến pháp Canada hơn bất kỳ chính trị gia hoặc nhân viên chính phủ nào”[60]. Kết quả của việc thay đổi hiến pháp là vai trò của nghị viện Anh trong hiến pháp Canada bị xóa bỏ, nhưng ngôi quốc vương thì vẫn được duy trì. Trudeau nói trong hồi ký của ông: “Nữ vương đã ủng hộ nỗ lực cải cách Hiến pháp của tôi. Tôi luôn ấn tượng không chỉ bởi phong thái của bà trước công chúng, mà còn bởi trí tuệ mà bà thể hiện trong những cuộc đối thoại riêng tư”[62].
Thập niên 1980
Sự dũng cảm của Nữ hoàng Elizabeth, cùng tài nghệ cưỡi ngựa của bà đã được thể hiện trong buổi lễ Trooping the Colour hàng năm năm 1981[63]. Sáu phát súng nhắm vào bà từ khoảng cách gần khi bà đang cưỡi ngựa dọc theo The Mall. Bà vẫn điều khiển con ngựa Burmese của mình đi tiếp. Các nhà báo đã vô cùng ngạc nhiên trước vụ tấn công vào mạng sống Nữ hoàng, cho dù sau đó người ta điều tra được đó chỉ là những phát súng chỉ thiên. Hạ viện Canada ấn tượng với màn trình diễn của Nữ hoàng đến nỗi họ đã thông qua văn bản ca ngợi sự điền tĩnh của bà[50]. Vào năm sau đó, Nữ hoàng lại gặp một tình huống nguy hiểm khi bà thức dậy trong phòng ngủ ở Điện Buckingham và thấy một người lạ, Michael Fagan, đang ở trong phòng của bà. Vẫn bình tĩnh, trong khoảng mười phút, và qua hai cú điện thoại đến tổng đài cảnh sát của cung điện, Elizabeth đã nói chuyện với Fagan khi tên này đang ngồi ở chân giường cho đến khi trợ lý của bà ập đến[64]. Từ tháng 4 đến tháng 9 năm đó, Nữ hoàng rất lo lắng[65] nhưng tự hào[66] về con trai của bà, Hoàng tử Andrew, người đang phục vụ trong quân đội Anh trong Chiến tranh Falklands. Mặc dù bà đã từng đón Tổng thống Ronald Reagan tại Lâu đài Windsor năm 1982, và đến thăm trang trại của ông ở California năm 1983, bà vẫn biểu lộ sự tức giận khi chính quyền ông này ra lệnh xâm lược Grenada, một trong những vương quốc của bà ở Caribe[67].
Trong nhiệm kỳ của Thủ tướng Anh Quốc Margaret Thatcher vào thập niên 1980, có lời đồn rằng Nữ hoàng lo ngại rằng chính sách kinh tế của Thatcher sẽ thúc đẩy sự phân hóa xã hội, và được báo động về tình trạng thất nghiệp cao, một loạt vụ bạo động, tình trạng bạo lực trong một cuộc biểu tình của thợ mỏ[68], và sự từ chối thi hành sắc lệnh chống lại chế độ apartheid ở Nam Phi của Thatcher[69]. Thatcher đã nói với Brian Walden, “Nữ hoàng là loại phụ nữ có thể sẽ bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ Xã hội“[68]. Những báo cáo về mối quan hệ căng thẳng giữa Nữ hoàng Elizabeth và Thatcher trong suốt thời kỳ này đánh giá khác nhau về sự khác biệt giữa hai người và mức độ căng thẳng do khác biệt về chính sách, hoặc sự xung đột tính cách[70]. Thái độ của Nữ hoàng đối với Thatcher thậm chí còn được mô tả là “ghét cay ghét đắng”[71]. Mặc cho những suy đoán như vậy, Thatcher sau này vẫn bày tỏ sự ngưỡng mộ Nữ hoàng, và thể hiện niềm tin rằng cái ý tưởng về sự xung đột giữa hai người chỉ là sự bịa đặt vì họ đều là phụ nữ với nhau. Trong bộ phim phóng sự của BBC Queen & Country (Nữ hoàng và Đất nước), Thatcher đã mô tả Nữ hoàng là “tuyệt diệu” và là một “quý bà hoàn hảo” “luôn biết mình phải nói cái gì”, cụ thể là ám chỉ cuộc họp cuối cùng với vai trò thủ tướng với Elizabeth[72]. Trái ngược với những báo cáo về sự thù địch giữa hai người, sau khi Thatcher không tham gia chính trị nữa, Nữ hoàng Elizabeth đã phong cho bà hai món quà cá nhân từ nữ vương: Order of Merit và Order of the Garter[73]. Cả Nữ hoàng và hoàng thân Philip đều tham dự tiệc sinh nhật lần thứ 80 của Thatcher. Sau này, Nữ hoàng và hoàng thân cũng tham dự tang lễ của bà Thatcher (2013)
Vào năm 1991, bà trở thành quân vương Anh đầu tiên đọc diễn văn trước buổi họp chung của Quốc hội Hoa Kỳ. Năm sau, bà cố gắng cứu vớt sự hôn nhân thất bại của con trưởng của bà, Charles, bằng cách khuyên nhủ ông và vợ, Diana, Công nương xứ Wales, hàn gắn sự khác biệt giữa họ. Bà không thành công, và cặp vợ chồng đã chính thức ly thân.
Vào năm 1991, bà trở thành quân vương Anh đầu tiên đọc diễn văn trước buổi họp chung của Quốc hội Hoa Kỳ. Năm sau, bà cố gắng cứu vớt sự hôn nhân thất bại của con trưởng của bà, Charles, bằng cách khuyên nhủ ông và vợ, Diana, Công nương xứ Wales, hàn gắn sự khác biệt giữa họ[74]. Bà không thành công, và cặp vợ chồng đã chính thức ly thân.
Năm tồi tệ
Nữ hoàng đã gọi năm 1992 là một “năm tồi tệ” (nguyên văn: annus horribilis) của bà trong bài phát biểu ngày 24 tháng 11 năm 1992. Đây là năm chứng kiến con gái của bà ly dị, một đứa con trai ly thân và đứa khác gặp trục trặc trong hôn nhân. Lâu đài Windsor bị thiệt hại nặng sau vụ cháy, và chế độ quân chủ ngày càng bị chỉ trích và bị công chúng dòm ngó[75]. Trong bài phát biểu cá nhân khá bất thường, bà nói rằng bất kỳ một thể chế nào cũng phải đón nhận sự chỉ trích nhưng lại đặt câu hỏi, “Không thể nào làm [chỉ trích] mà không có tí hài hước, lịch sự và thấu hiểu được hay sao?”[76]
Vào những năm tiếp theo, tình trạng hôn nhân của Thái tử Charles và Công nương Diana càng bị tiết lộ ra công chúng nhiều hơn[77]. Cuối cùng, sau khi tham vấn Thủ tướng Anh John Major, Tổng giám mục xứ Canterbury George Carey, thư ký riêng Robert Fellowes của Nữ hoàng, và phu quân, bà đã viết thư gửi cho cả Charles và Diana nói rằng giờ đây ly dị là điều cần thiết[78]. Một năm sau khi ly dị, Diana chết trong một vụ tai nạn xe hơi ở Paris vào ngày 31 tháng 8 năm 1997. Vào thời điểm đó, Nữ hoàng đang đi nghỉ ở Balmoral với con trai và các cháu. Với niềm thương tiếc, hai đứa con trai của Diana muốn tham dự lễ nhà thờ, vì vậy ông bà nội chúng đã đưa chúng đi ngay vào sáng hôm đó[79]. Trong năm ngày, Nữ hoàng và Công tước đã bảo vệ những đứa cháu của họ khỏi sự tò mò của đám phóng viên bằng cách lưu chúng lại Balmoral nơi chúng có chốn riêng tư để buồn nhớ[79][80]. Sự ẩn dật của hoàng gia khiến công chúng mất tinh thần[81]. Chịu áp lực từ gia đình, bạn bè, tân Thủ tướng Anh Tony Blair, và phản ứng từ công chúng, Nữ hoàng đã đồng ý có buổi phát sóng trực tiếp cho thế giới vào ngày 5 tháng 11[82]. Trong buổi truyền hình đó, bà bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với Diana, và cảm xúc “của một người bà” đối với hai Hoàng tử William và Harry[83]. Thái độ của công chúng đã thay đổi từ tiêu cực sang kính trọng sau buổi phát hình đó[83].
Ban đầu người ta cho rằng Nữ hoàng Elizabeth có mối quan hệ rất tốt với Tony Blair, trong năm năm đầu tiên ông làm Thủ tướng từ 1997 đến 2002. Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy mối quan hệ của họ xấu dần qua năm tháng[84], cho đến tháng 5 năm 2007, Nữ hoàng được tiết lộ đã “tức giận và thất vọng” trước những hành động của Blair, đặc biệt là những gì bà được chứng kiến là sự thờ ơ đối với các vấn đề nông nghiệp, cũng như cách hành xử quá bình dân (ông yêu cầu Nữ hoàng gọi ông là “Tony”) và khinh thường di sản truyền thống của nước Anh. Người ta đồn rằng Nữ hoàng Elizabeth đã bày tỏ sự quan tâm đến việc Quân lực Anh đã bị lạm dụng quá đáng, đặc biệt tại Iraq và Afghanistan, cũng như “ngạc nhiên” trước việc Blair thay đổi buổi họp hàng tuần với bà từ chiều thứ 3 sang chiều thứ 4. Bà được cho là đã liên tục nêu lên những vấn đề này với Blair tại cuộc họp của họ, mặc dù bà chưa bao giờ tiết lộ quan điểm của bà về Chiến tranh Iraq[85]. Mối quan hệ giữa Nữ hoàng và Công tước của Edinburgh với Blair và vợ ông, Cherie, được báo cáo là khá xa cách, khi hai cặp này rất ít khi cùng xuất hiện trước công chúng. Tuy nhiên, Elizabeth rõ ràng ngưỡng mộ những nỗ lực của Blair trong việc giành được hòa bình tại Bắc Ireland[86].
Lễ kỷ niệm 50 năm trị vì đến nay
Vào năm 2002, Nữ hoàng Elizabeth đánh dấu lễ kỷ niệm 50 năm từ khi lên ngôi Nữ hoàng[87]. Một lần nữa bà lại tổ chức nhiều cuộc viếng thăm đến các vương quốc của mình, bắt đầu từ Jamaica vào tháng 2, tại đó bà đã gọi bữa tiệc chia tay là “rất đáng nhớ” khi điện bỗng dưng bị cắt khiến cho King’s House, nơi ở chính thức của Toàn quyền, rơi vào bóng tối[88]. Mặc dù những buổi lễ ăn mừng của người dân ở Anh có vẻ im ắng hơn so với 25 năm trước, một phần do cái chết của Vương thái hậu và em gái bà vào đầu năm đó, người ta vẫn tổ chức những buổi tiệc đường phố và các sự kiện kỷ niệm ở nhiều địa phương. Cũng như năm 1977, nhiều tượng đài được đặt tên và nhiều món quà được ban phát vì dịp này, trong đó phải kể đến Trung tâm Tân Truyền thông Báo chí Golden Jubilee ở Đại học Sheridan, và Công viên mang tên Nữ hoàng Elizabethn II tỉnh Wildlands, đều ở Canada.
Năm 2005, bà là quân vương Canada đầu tiên phát biểu tại Hội đồng Lập pháp Alberta; và vào năm 2007, là quân vương Anh đầu tiên phát biểu tại Đại hội đồng Virginia. Nữ vương và Công tước xứ Edinburgh đã tổ chức ngày kỷ niệm 60 năm ngày cưới vào năm 2007, với buổi lễ đặc biệt tại Tu viện Westminster và bữa tối riêng tư do Hoàng tử Charles tổ chức tại Clarence House vào ngày 19 tháng 11, và vào hôm sau (đúng ngày kỷ niệm) một bữa dạ tiệc với các thành viên của hoàng gia, các Thủ tướng các thời kỳ, và những phù dâu và người xách váy còn sống trong tiệc cưới khi xưa. Vào ngày 21 tháng 11, Elizabeth và Philip đi du lịch Malta, nơi các thủy thủ của chiếc tàu Hải quân Hoàng gia đang đậu gần đó đã đứng trên boong xếp thành con số 60.
Vào ngày 20 tháng 3 năm 2008, tại Nhà thờ chính tòa Thánh Patrick, Armagh của Giáo hội Ireland, Nữ hoàng đã lần đầu tiên tham dự Lễ Maudy được tổ chức bên ngoài Anh và Wales[89].
Sức khỏe và sự giảm bớt trách nhiệm
Thời gian trị vì của Nữ hoàng lâu hơn cả bốn đời vua trước cộng lại (Edward VII, George V, Edward VIII, và George VI). Bà là quân vương trị vương quốc Anh lâu thứ hai, lâu thứ hai trong các quân vương hiện đang trị vì một quốc gia độc lập (sau Vua Bhumibol của Thái Lan), và quân vương trị vì nước Anh có số tuổi cao nhất từ trước đến nay.
Nữ hoàng Elizabeth có thể trở thành nguyên thủ quốc gia Anh sống lâu nhất (vượt qua Richard Cromwell) vào ngày 29 tháng 1 năm 2012, quốc vương trị vì lâu nhất trong lịch sử Anh (vượt qua Nữ hoàng Victoria) vào ngày 10 tháng 9 năm 2015 ở tuổi 89, và quốc vương trị vì lâu nhất trong lịch sử châu Âu (vượt qua Vua Louis XIV của Pháp) vào ngày 26 tháng 5 năm 2014, khi đó bà được 88 tuổi.
Nữ hoàng Elizabeth có sức khỏe tốt trong suốt thời kỳ trị vì của mình. Dù bà vẫn được mô tả là có sức khỏe tuyệt vời và rất hiếm khi có bệnh, bà đã trải qua một số vấn đề sức khỏe trong năm 2005–06. Tháng 6 năm 2005, Nữ hoàng đã hủy vài cuộc hẹn gặp sau khi Cung điện nói rằng bà bị cảm nặng. Vào tháng 10 năm 2006, bà bị vỡ mạch máu ở bên mắt phải, khiến nó có màu đỏ sẫm[90]. Tuy Điện Buckingham không đưa ra bình luận nào, các chuyên gia y tế cho rằng Nữ hoàng sẽ không phải chịu đau đớn gì cả, và sẽ trở lại bình thường trong vòng một đến hai tuần, không có hư tổn lâu dài. Tuy nhiên, họ cũng nhắc rằng việc vỡ mạch máu, dù là bình thường ở những người lớn tuổi, có thể là dấu hiệu của bệnh cao huyết áp. Vào cuối tháng đó, Nữ hoàng phải hủy cuộc hẹn khai mạc Sân vận động Emirates mới, vì cơ lưng bị căng khiến bà khó chịu từ cuối kỳ nghỉ của bà ở Lâu đài Balmoral hồi mùa hè[91]. Lưng của Elizabeth khiến mọi người lo lắng nhiều hơn; vào tháng 11 năm 2006, người ta lo rằng Nữ hoàng có thể sẽ không khỏe để mở màn Nghị viện Anh, và mặc dù bà đã tham dự, người ta đã lập kế hoạch cho trường hợp bà vắng mặt. Vào tháng 12, có tin đồn rằng sức khỏe của Nữ hoàng Elizabeth đã giảm sút khi người ta thấy bà với miếng băng dính trên tay phải, nơi người ta cho là bà có thể đã được tiêm tĩnh mạch, và đặc biệt là với vấn đề về lưng của bà, do bị loãng xương[92]. Tuy nhiên, sau đó người ta biết được rằng miếng băng dính đó là do một trong hai con corgi cắn vào tay bà khi bà tách chúng ra lúc chúng đang cắn nhau[93].
Vào thời điểm sinh nhật lần thứ 80, Nữ hoàng đã nói rõ rằng bà không có ý định thoái vị[94]. Vài năm vừa qua, cả Thái tử Charles, Công chúa Anna và Hoàng tử William (Công tước xứ Cambridge) đều đã từng thay mặt Nữ hoàng trong một số sự kiện như phong tước, và đóng vai trò Cố vấn Quốc gia (đại diện cho triều đình khi Nữ hoàng đi vắng). Điều này dẫn đến suy đoán trong giới truyền thông Anh rằng Thái tử Charles sẽ bắt đầu đảm nhiệm ngày càng nhiều trọng trách của một quân vương trong khi Elizabeth nghỉ ngơi dần[95]. Tuy nhiên, Điện Buckingham thông báo rằng Nữ hoàng Elizabeth sẽ tiếp tục phận sự của bà, cả với công chúng lẫn riêng tư, trong tương lai[96].
Đại lễ 60 năm trị vì
Trang web Google đổi giao diện nhân dịp 60 năm trị vì của Nữ hoàng Elizabeth II.
-
Đại lễ Kim Cương của Nữ hoàng Elizabeth đệ nhị (Elizabeth II) là một buổi lễ kỷ niệm đa quốc gia trong suốt năm 2012 để đánh dấu mốc 60 năm nữ vương trị vì ngai vàng bảy quốc gia sau cái chết của cha mình, vua Geogre VI vào ngày 6 tháng 2 năm 1952. Nữ hoàng Elizabeth II là nữ vương đương vị ngày nay của 16 quốc gia có chủ quyền (tăng lên từ số 7 quốc gia lúc đầu và được gọi chung là “nhóm Vương quốc Khối Thịnh vượng chung Anh”), 12 nước trong số này trước kia là thuộc địa của Anh hay là nước tự trị phụ thuộc Anh, lúc nữ vương bắt đầu lên ngôi.
Trước đó, trong vương triều chỉ mới có Nữ vương Victoria là từng tổ chức đại lễ Kim cương năm 1897 trong lịch sử Anh [97] Canada,[98][99][100] Úc, New Zealand và vài vương quốc khác trong Khối Thịnh vượng chung Anh. Tiếp nối truyền thống của kỳ đại lễ kim cương trước thì Huy chương Kỷ niệm Lễ kim cương của nữ vương Anh Elizabeth II sẽ được trao tặng trong một số quốc gia khác nhau và sẽ tổ chức các ngày lễ, sự kiện lớn trong toàn Khối thịnh vượng chung. Các kế hoạch đã được bàn thảo tại Hội nghị Nguyên thủ Khối thịnh vượng chung vào năm 2011.
Hình ảnh và nhân cách trong công chúng
Nữ hoàng Elizabeth được minh họa trong một bộ phim bán tiểu sử năm 2006 mang tên The Queen, cũng như nhiều tác phẩm khác nhưng bà hầu như chưa bao giờ thực hiện phỏng vấn với báo chí và rất ít người biết được cảm xúc của bà. Bà nhận thức rất rõ phận sự tôn giáo và công dân của mình, và rất nghiêm túc với lời thề khi lên ngôi[101][102]. Bà có tiếng là người có lối thời trang bảo thủ, gần như lúc nào cũng áo khoác màu trơn và chiếc mũ trang trí, khiến bà dễ nhận thấy trong đám đông[103]. Thú vui tiêu khiển chính của bà là đua ngựa, nhiếp ảnh, và chó, đặc biệt là những con Pembroke Welsh Corgi của bà[14].
Vào những năm 1950, khi còn là một phụ nữ trẻ vừa lên ngôi, Elizabeth được minh họa là một “Nữ vương cổ tích” quyến rũ[104]. Sau chấn thương chiến tranh, đó là thời điểm của sự hy vọng, thời kỳ phát triển và thành tựu được gọi là “thời kỳ Elizabeth mới”[105]. Lời cáo buộc như của Lord Altrincham vào năm 1957 rằng bà là một “cô nữ sinh hợm hĩnh” là một sự chỉ trích cực kỳ hiếm hoi[106]. Vào cuối thập niên 1960, những nỗ lực nhằm mô tả một hình ảnh của một chủ nghĩa quân chủ hiện đại hơn đã được thực hiện trong phim phóng sự truyền hình Royal Family (Gia đình Vương tộc), và bằng cách truyền đi Lễ phong tước Hoàng thân xứ Wales của Thái tử Charles[107]. Vào ngày kỷ niệm 25 năm trị vì của bà, người dân và những lễ hội thực sự rất say mê[108], nhưng vào thập niên 1980 sự chỉ trích của công chúng nhằm vào vương tộc tăng lên, vì đời sống cá nhân và công việc của con cái Elizabeth bị truyền thông soi mói khá kỹ[109]. Uy tín của Nữ hoàng Elizabeth thấp nhất trong thập niên 1990; dưới sức ép của công chúng bà bắt đầu lần đầu tiên trả thuế thu nhập, và Điện Buckingham phải mở cửa cho công chúng[80]. Sự bất mãn với chế độ quân chủ lên đến đỉnh điểm với Cái chết của Diana, công nương xứ Wales, và chỉ mất dần khi Nữ hoàng phát biểu truyền hình đến toàn thế giới[80].
Vào tháng 11 năm 1999, cuộc trưng cầu dân ý ở Úc về tương lai của chế độ quân chủ cho kết quả tiếp tục duy trì nền quân chủ[110]. Khi năm Kỷ niệm 50 năm trị vì của bà bắt đầu, giới truyền thông dự đoán xem nó sẽ là một năm thành công hay thất bại[111]. Năm đó bắt đầu một cách u ám bằng cái chết của em gái và mẹ của Elizabeth, nhưng đã có một triệu người tham dự mỗi ngày trong ba ngày lễ kỷ niệm chính ở Luân Đôn[112]. Sự nhiệt tình của công chúng đối với Elizabeth lớn hơn nhiều so với những dự đoán của báo giới[113]. Những cuộc thu thập ý kiến năm 2006 cho thấy người ta ủng hộ Elizabeth mạnh mẽ; đa số người trả lời muốn bà tiếp tục trị vì cho đến khi chết, và nhiều người cảm thấy bà đã trở thành một người thân thuộc[114][115].
Tài chính
Tài sản cá nhân của Nữ hoàng Elizabeth đã là chủ đề xoi mói trong nhiều năm. Tạp chí Forbes ước đoán tài sản sau thuế của bà là khoảng 600 triệu đô la Mỹ (330 triệu bảng Anh)[116], nhưng thông cáo chính thức của Điện Buckingham đã gọi việc ước đoán 100 triệu bảng Anh cũng đã là “cường điệu thô thiển”[117]. Mặc dù Bộ sưu tập Hoàng gia trị giá xấp xỉ 10 tỷ bảng Anh, nó là tài sản phó thác cho con cháu và nước Anh, như Điện Buckingham, Lâu đài Windsor, và các cung điện có người ở trong Vương quốc Anh[118][119]. Cũng như nhiều vị tiên đế, Elizabeth được cho là không thích ở Điện Buckingham, mà xem Lâu đài Windsor là mái nhà của mình[94].
Sandringham House và Lâu đài Balmoral là tài sản sở hữu của cá nhân Nữ hoàng, được thừa kế từ cha khi ông mất, cùng với Đất công tước Lancaster, bản thân nó trị giá 30 triệu bảng và mang lợi thu nhập cá nhân 9,811 triệu bảng cho Nữ vương vào năm 2006. Thu nhập từ Tài sản Vương tộc Anh—có giá trị 7 tỷ bảng—được chuyển sang ngân khố Anh của bà để chi trả cho nhân viên vương tộc. Cả Tài sản Vương tộc và đất Vương tộc Canada—bao gồm 89% (hoặc xấp xỉ 8.885.000 km²)[120] diện tích 9.984.670 km² của Canada—do Elizabeth sở hữu phó thác cho quốc gia vì vai trò Quốc vương của bà, và không được phép bán hoặc sở hữu như tài sản cá nhân.
Chính trị và vai trò trong chính phủ
-
Là một vị quân chủ lập hiến, Nữ hoàng Elizabeth chưa từng bày tỏ quan điểm chính trị cá nhân của mình trước công chúng, và vẫn duy trì nguyên tắc này trong suốt thời gian trị vì. Nữ hoàng gặp gỡ Thủ tướng Anh hằng tuần, cũng như gặp gỡ các bộ trưởng khác thường xuyên. Thủ tướng Margaret Thatcher nói trong hồi ký của bà: “Bất kỳ ai tưởng tượng rằng họ là những người hình thức hoặc bị giam hãm trong khuôn khổ xã hội là lầm; họ là những doanh nhân thầm lặng và Bệ hạ là người nắm rất rõ các sự kiện đang diễn ra và có kinh nghiệm rất rộng”[121].
Sự thống nhất quốc gia Anh
Sau Thỏa thuận Belfast đối với Bắc Ireland, Ian Paisley, người đứng đầu Đảng Thống nhất Dân chủ, đã phá vỡ truyền thống tôn kính đối với Vương tộc của những người theo Chủ nghĩa thống nhất bằng cách gọi Nữ hoàng là “một con vẹt” của Tony Blair, ý nói sự ủng hộ của Elizabeth đối với thỏa thuận có thể là yếu tố làm suy giảm vị thế của chế độ quân chủ trong lòng những người Tin lành Bắc Ireland, mà một số không nhỏ trong số họ vẫn phản đối một vài phần của hiệp ước[122]. Sau những cuộc trưng cầu dân ý trong thập niên 1990 mà kết quả là sự ủng hộ kế hoạch tự trị, Nữ vương đã gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến Nghị viện Scotland vừa mới thành lập và Quốc hội xứ Wales, những buổi khai mạc đầu tiên do bà thực hiện với tư cách cá nhân.
Sự thống nhất quốc gia Canada
Khi Nữ hoàng Elizabeth được mời đến Canada năm 1964, là đỉnh điểm của phong trào ly khai Quebec, đã có những lo ngại về an toàn cho bà. Có báo cáo rằng tổ chức khủng bố Mặt trận tự do Québec đã đe dọa sẽ ám sát bà, và người ta đã xét đến việc hủy chuyến viếng thăm[50][123]. Thư ký riêng của Nữ hoàng nói rằng Nữ hoàng rất sợ bị cản không cho công du vì “những hoạt động của những kẻ quá khích”[50]. Tuy chưa bao giờ nói thẳng là bà chống lại xu hướng ly khai, Elizabeth đã công khai ca ngợi sự thống nhất của Canada và bày tỏ mong ước tiếp tục nhìn thấy một Canada thống nhất, đôi khi gây nên tranh cãi trong một số vụ việc. Trong bài diễn văn gửi đến Quốc hội Quebec, bà bỏ qua cuộc tranh cãi quốc gia và những cuộc nổi loạn trong khi bà đang hiện diện và đã nói bằng cả tiếng Anh và tiếng Pháp về sức mạnh của hai nền văn hóa “bổ sung cho nhau” của Canada[124]. Sau Đạo luật Hiến pháp năm 1982, là “lần đầu tiên trong lịch sử Canada một sự thay đổi hiến pháp lớn đã được thông qua mà không có sự đồng ý của chính phủ Quebec, Bệ hạ đã cố gắng thể hiện vị trí là người đứng đầu toàn gia đình Canada và vai trò là người hòa giải bằng cách bày tỏ một cách riêng tư với báo giới sự tiếc nuối của bà rằng Quebec không phải là một phần của thuộc địa”[17].
Vào năm 1995, trong một chiến dịch trưng cầu dân ý về sự ly khai của Quebec, Nữ hoàng đã bị lừa tiết lộ quan điểm cá nhân về sự ly khai của Quebec khi Pierre Brassard, một DJ cho Đài Radio CKOI-FM Montreal, gọi đến Điện Buckingham giả vờ làm Thủ tướng Canada khi đó Jean Chrétien, và khiến cho Nữ vương Elizabeth tin và nói chuyện trong 14 phút đan xen tiếng Anh và tiếng Pháp. Khi được nói rằng những người ly khai đang dẫn đầu trong cuộc trưng cầu, Elizabeth tiết lộ bà cảm thấy “cuộc trưng cầu đang đi theo hướng sai lầm”, và thêm, “nếu tôi bằng cách nào đó có thể giúp, tôi sẽ rất vui lòng”. Tuy nhiên, bà nhấn mạnh từ chối chấp nhận lời khuyên từ người đàn ông, mà bà tin là Chrétien, rằng bà nên can thiệp vào cuộc trưng cầu dân ý mà không cần xem bài diễn văn nháp. Nữ vương cuối cùng nghi ngờ có lừa gạt và dừng cuộc nói chuyện, mặc dù tài xử lý khéo léo cuộc gọi của bà đã được Brassard tán dương[125]. Trong hồi ký của mình, Chrétien nhắc lại lời bình luận chế nhạo của Nữ vương đối với ông liên quan đến sự việc này: “‘Tôi không nghĩ ông bình thường,’ bà nói với tôi, ‘nhưng tôi nghĩ, với sức ép mà ông đang phải chịu, có thể ông đang say’”[126].
Tôn giáo
Bên cạnh vai trò tôn giáo chính thức tại Vương qốc Anh, cá nhân Elizabeth theo Giáo hội Anh giáo (khi ở Scotland bà theo Giáo hội Scotland, để giữ gìn vai trò lập hiến của mình trong quốc gia đó[127]. Bà thường đi lễ ngày Chủ nhật tại Nhà thờ Crathie khi ở Balmoral[128]). Định kỳ, Nữ hoàng sẽ nhắn lời nhắn cá nhân về niềm tin của mình trong buổi phát hình Thông điệp Giáng sinh Hoàng gia thường niên đến Khối thịnh vượng chung, như trong năm 2000, bà đã nói về ý nghĩa thần học của thiên niên kỷ đánh dấu lần thứ 2000 Chúa Giê-su sinh ra:
Đối với nhiều người trong chúng ta, niềm tin có tầm quan trọng căn bản. Đối với tôi, theo lý thuyết Kitô, và trách nhiệm cá nhân của tôi trước Chúa là nền tảng dẫn dắt cuộc đời tôi. Tôi, giống như nhiều người trong các bạn, đã có được sự an ủi lớn lao trong những thời khắc khó khăn từ những lời và huấn dụ của Chúa[129].
Nữ hoàng Elizabeth cũng biểu lộ sự ủng hộ mối quan hệ giữa các tôn giáo với nhau, thường là cuộc gặp với các lãnh đạo tôn giáo khác, và trao sự bảo trợ cá nhân của mình cho Hội đồng Những người theo Cơ đốc giáo và Do Thái giáo[130].
Yêu cầu được tôn trọng cuộc sống riêng tư
Elizabeth cảnh cáo báo chí đừng nên đăng tải hình ảnh không chính thức do đám thợ săn ảnh cung cấp, Cung điện Buckingham tuyên bố ngày 6 tháng 12 năm 2009. Vương tộc Anh nói rằng, luật sư của triều đình trước đó sáu tuần có viết thư gửi cho chủ bút các báo, nhắc nhở họ đừng cho công bố những hình ảnh xâm phạm đến cuộc sống gia đình hoàng gia. Lá thư được gửi “để đáp lại việc hằng mấy năm trời gia đình hoàng gia bị các nhiếp ảnh gia săn đuổi hướng vào phần đất sở hữu riêng của hoàng gia.”[131]
Thái độ cứng rắn mới này của vương tộc có vẻ có kết quả tốt trong nhiều tháng, nay được nhắc đến trước dịp lễ Giáng sinh, là thời điểm mà các tay săn ảnh có truyền thống lùng kiếm những hình ảnh hoàng gia về nghỉ ngơi tại Sandringham Estate, ở phía Ðông nước Anh. Gia đình vương tộc vốn có rắc rối từ lâu với các nhiếp ảnh gia. Nhiều người tin rằng sự săn đuổi của giới truyền thông đã góp phần vào cái chết của Công nương Diana trong tai nạn xe vào năm 1997. Sau đó, hai Vương tử William và Harry bị chụp hình khi họ vừa từ các hộp đêm đi ra, và bạn gái của William là Kate Middleton cũng bị rượt sát ngay bên ngoài nhà mình.[132]
Năm 2007, phát ngôn viên của Vương tử William có than phiền về hành vi “nguy hiểm” của các tay săn hình. Phát ngôn viên của Thái tử Charles, Paddy Harverson nói với tờ The Sunday Telegraph rằng, thành viên gia đình hoàng gia “cảm thấy họ có quyền được sống riêng tư mỗi khi họ cần đi đây đó hằng ngày, hay có những sinh hoạt riêng tư.”[133]
Danh hiệu và Tước hiệu
-
- 21 tháng 4 năm 1926 – 11 tháng 12 năm 1936: Her Royal Highness Công chúa Elizabeth xứ York
- 11 tháng 12 năm 1936 – 20 tháng 11 năm 1947: Her Royal Highness Công chúa Elizabeth
- 20 tháng 11 năm 1947 – 6 tháng 2 năm 1952: Her Royal Highness Công chúa Elizabeth, Nữ Công tước xứ Edinburgh
- 6 tháng 2 năm 1952 – nay: Her Majesty Nữ hoàng
Nữ hoàng Elizabeth giữ một số tước hiệu trong cuộc đời, với vai trò cháu gái của quốc vương, con gái của quốc vương, qua tước hiệu của chồng, và cuối cùng là quốc vương của nhiều quốc gia. Trên thực tế, bà thường được gọi đơn giản là Nữ hoàng hay Bệ hạ (Her Majesty); nếu cần phân biệt, người ta sẽ đổi thành Anh quốc Bệ hạ, Úc quốc Bệ hạ, Canada Bệ hạ, v.v. Theo truyền thống, bà còn có các tước hiệu khác là Công tước xứ Lancaster và Công tước xứ Normandy, và được phong danh hiệu Người bảo vệ Sự thật. Khi nói chuyện với Nữ vương, thông thường người ta sẽ bắt đầu bằng Your Majesty (Thưa bệ hạ) và sau đó là Ma’am.
Huân chương và các chức vụ quân sự danh dự
Với cương vị quốc vương của nhiều quốc gia khác nhau, Nữ hoàng Elizabeth giữ vị trí Tổng tư lệnh ở một số vương quốc của bà, như Canada[134], New Zealand, và Vương quốc Anh[135]. Ở Anh, bà còn là Trưởng tư lệnh Không lực Hoàng gia và Lord High Admiral của Hải quân Hoàng gia. Elizabeth đã từng là Colonel-in-Chief, Captain-General, Air-Commodore-in-Chief, Commissioner, Brigadier, Commandant-in-Chief, và Royal Colonel của ít nhất 96 trung đoàn khắp Khối thịnh vượng chung, cả trước và sau khi lên ngôi.
Do thời gian trị vì dài và đi thăm viếng nhiều nơi, Elizabeth đã nhận được rất nhiều huân huy chương từ các quốc gia trên khắp thế giới.
Phù hiệu
-
Phù hiệu của Công chúa Elizabeth, trước khi kết hôn.
Cờ hiệu của Nữ hoàng tại Vương quốc Anh, Bắc Ireland và Xứ Wales.
Từ ngày 21 tháng 4 năm 1944 cho đến khi kết hôn với Công tước xứ Edinburgh[136], phù hiệu của Elizabeth là một hình thoi có hình ảnh giống như trên tấm khiên của Huy hiệu hoàng gia, và một thanh bạc gồm ba dải, dải ở giữa là hình Hoa hồng Tudor và dải hai bên là thánh giá Thánh George. Sau khi kết hôn, các phù hiệu này được đóng vào phù hiệu của Công tước xứ Edinburgh. Khi lên ngôi nữ vương[137], với vai trò là quốc vương của các vương quốc Khối thịnh vượng chung, bà sử dụng phù hiệu quốc vương khác nhau cho mỗi quốc gia.
Tương tự, Nữ hoàng Elizabeth cũng có một số cờ hiệu cá nhân để sử dụng tại một số vương quốc của bà: hai cái tại Vương quốc Anh (một cho Scotland và một cho các khu vực khác), và mỗi cái khác nhau cho Canada, Úc, New Zealand, Jamaica và Barbados. Những cờ này gồm có băng rôn trên đó là Phù hiệu Vương tộc, tất cả đều như vậy ngoại trừ những lá cờ tại Vương quốc Anh, bị xóa đi bằng ký hiệu của Elizabeth: một chữ cái E đội vương miện trong một vòng tròn hoa hồng trên nền xanh. Ký hiệu này cũng được dùng làm cờ cá nhân của Nữ vương với vai trò là Người đứng đầu Khối thịnh vượng chung, hoặc khi thăm viếng các quốc gia nằm trong Khối nhưng bà không phải là nguyên thủ.
Con cháu
Tên |
Ngày sinh |
Kết hôn |
Ly dị |
Con cái |
Cháu |
Thái tử Charles, Hoàng thân xứ Wales |
14 tháng 11 năm 1948 |
29 tháng 7 năm 1981 |
Diana, Công nương xứ Wales |
28 tháng 8 năm 1996 |
Hoàng tử William, Công tước Cambridge |
Hoàng tử George xứ Cambridge
Công chúa Charlotte xứ Cambridge |
Hoàng tử Harry xứ Wales |
|
9 tháng 4 năm 2005 |
Camilla, Nữ công tước xứ Cornwall |
|
|
|
Anne, Công chúa Hoàng gia |
15 tháng 8 năm 1950 |
14 tháng 11 năm 1973 |
Mark Phillips |
28 tháng 4 năm 1992 |
Peter Phillips |
Savannah Phillips
Isla Phillips |
Zara Phillips |
Mia Tindall |
12 tháng 12 năm 1992 |
Timothy Laurence |
|
|
|
Hoàng tử Andrew, Công tước xứ York |
19 tháng 2 năm 1960 |
23 tháng 7 năm 1986 |
Sarah, Công nương xứ York |
30 tháng 5 năm 1996 |
Công chúa Beatrice xứ York
Công chúa Eugenie xứ York |
|
Hoàng tử Edward, Bá tước xứ Wessex |
10 tháng 3 năm 1964 |
19 tháng 6 năm 1999 |
Sophie, Nữ Bá tước xứ Wessex |
|
Lady Louise Windsor
James, Tử tước Severn |
|
Tổ tiên
-
Xem thêm
Tham khảo
- ^ Brandreth, p.103 and Roberts, p.74
- ^ Brandreth, p.103
- ^ “Queen ‘Lilibet’ letters unveiled”. BBC. 27 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2009.
- ^ Pimlott, Ben (1997). The Queen: A Biography of Elizabeth II. John Wiley & Sons. ISBN 047119431X. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.
- ^ Rose, Kenneth (1983). King George V. London: Weidenfeld and Nicolson. tr. 389. ISBN 0-297-78245-2.
- ^ “The Real Crawfie”. Channel 4. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2007.
- ^ Shawcross, p.21
- ^ Quoted in Brandreth, pp.108–110
- ^ Quoted in Brandreth, p.105 and Shawcross, pp.21–22
- ^ Quoted in Brandreth, pp.105–106
- ^ Bond, p.8
- ^ Brandreth, p.124; Shawcross, p.25
- ^ “Queen’s decision no snub: royal aides”. CBC News. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2005.
- ^ a ă â “80 Things You (Probably) Didn’t Know About Queen Elizabeth”. Time Europe. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2006.
- ^ “Buckingham Palace press releases-Diary of events in the life of Her Majesty the Queen leading up to her accession”. Official Website of the British Monarchy. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2008.
- ^ “Royal Support for the Scouting and Guiding Movements”. Official Website of the British Monarchy. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2008.
- ^ a ă â b c “Elizabeth II, Queen of Canada”. Canadian Royal Heritage Trust. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2007.
- ^ Brandreth, pp.133–139
- ^ Bond, p.10 and Brandreth, pp.132–136, 166–169
- ^ “Biography of HM Queen Elizabeth the Queen Mother: Activities as Queen”. British Monarchy Official Website. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
- ^ a ă â b “Royal plans to beat nationalism”. BBC. 8 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Her Majesty the Queen – Early Public Life”. Official website of the British Monarchy. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Left Out of D-Day Events, Queen Elizabeth Is Fuming”, New York Times, 27 tháng 5 năm 2009
- ^ Bond, p.10
- ^ Princess Elizabeth (21 tháng 4 năm 1947). “Historic speeches: 21st birthday speech”. British Monarchy Official Website. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2007.
- ^ Davies, Caroline (20 tháng 4 năm 2006). “Philip, the one constant through her life”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2007.
- ^ Royal Insight Magazine: Behind-the-Scenes at the Royal Wedding of 1947
- ^ Bond, p.19
- ^ a ă â “BBC NEWS | UK | Sixty facts about a royal marriage”. News.bbc.co.uk. Cập nhật lần cuối:. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.
- ^ Bradford, Sarah (1989). King George VI. London: Weidenfeld and Nicolson. tr. p.424. ISBN 0297796674.
- ^ “Letters Patent, 22 tháng 10 năm 1948”. Heraldica. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2007.
- ^ London Gazette: (Supplement) số 41948, tr. 1003, 5 tháng 2 năm 1960. Truy cập 2007-10-31.
- ^ Brandreth, pp.226–238
- ^ Brandreth, pp.240–241
- ^ Brandreth, pp.245–247; Lacey, pp.150–151; Shawcross, p.16
- ^ Charteris quoted in Shawcross, p.17
- ^ Bond, p.22 and Brandreth, p.271
- ^ Robert, p.82
- ^ “By appointment: Norman Hartnell’s sample for the Coronation dress”. Nga.gov.au. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.
- ^ Brandreth, p.278; Shawcross, p.59
- ^ Challands, Sarah (25 tháng 4 năm 2006). “Queen Elizabeth II celebrates her 80th birthday”. CTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2007.
- ^ “The Real Queen”. 1 tháng 1 năm 2002.
- ^ a ă “France and UK considered 1950s ‘merger’”. The Guardian. 15 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2007.
- ^ a ă Roberts, p.84
- ^ Shawcross, p.75
- ^ Lord Altrincham in National Review quoted by Brandreth, p.374 and Roberts, p.83
- ^ Brandreth, p.374; Shawcross, p.76
- ^ Toàn văn bài phát biểu
- ^ Shawcross, p.83
- ^ a ă â b “Courage of the Queen”. Canadian Royal Heritage Trust. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2007.
- ^ “Transatlantic phone cable officially opened”. CBC. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2008.
- ^ Bond, p.66
- ^ “The Queen and The Duke of Edinburgh visit the UK headquarters of Google”. Royal Insight (Buckingham Palace) (tháng 10 năm 2008). 16 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2008.
- ^ Shawcross, pp.109–110
- ^ a ă Bond, p.96; Shawcross, p.110
- ^ “The Whitlam Dismissal: Letter from the Queen’s Private Secretary”. Whitlamdismissal.com. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.
- ^ 1977 “Queen celebrates Silver Jubilee”. BBC News: On This Day.
- ^ Roberts, pp.88–89; Shawcross, p.178
- ^ Roberts, pp.88–89
- ^ a ă â b c Heinricks, Geoff (2001). “Trudeau and the Monarchy”. Canadian Monarchist News, reprinted from National Post. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2008.
- ^ CBC. “The Greatest Canadian: Pierre Elliot Trudeau”. CBC. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2004. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2008.
- ^ Trudeau, Pierre Elliott (1993). Memoirs. McLelland & Stewart. ISBN 0771085885. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.
- ^ Shawcross, p.192
- ^ Davidson, Spencer. “God Save the Queen, Fast”, Time (26 tháng 7 năm 1982), p. 33.
- ^ Bond, p.115
- ^ Shawcross, p.127
- ^ Bond, p.188
- ^ a ă Campbell, John (2003). Margaret Thatcher: The Iron Lady. Jonathan Cape. ISBN 0224061569.
- ^ Shawcross, pp.129–132
- ^ “Newspaper Says Queen Is Upset by Thatcher”. The New York Times. 20 tháng 7 năm 1986.
- ^ “Atticus”. The Sunday Times. 9 tháng 10 năm 2005.
- ^ Bridcut, John (Producer). Queen and Country. [Documentary]. BBC. Truy cập 6 tháng 1 năm 2009.
- ^ Roberts, p.101; Shawcross, p.139
- ^ Brandreth, p.349
- ^ Brandreth, p.377; Roberts, p.94; Shawcross, p.204
- ^ Brandreth, p.377
- ^ Brandreth, p.356; Roberts, p.94; Shawcross, p.168
- ^ Brandreth, p.357
- ^ a ă Brandreth, p.358
- ^ a ă â Bond, p.134
- ^ Brandreth, p.358; Bond, p.134; Roberts, p.98; Shawcross, p.8
- ^ Brandreth, pp.358–359
- ^ a ă Bond, p.134 and Brandreth, p.359
- ^ “Queen Elizabeth feels snubbed by Blair”. Sify. 23 tháng 6 năm 2004.
- ^ Alderson, Andrew (28 tháng 5 năm 2007). “Revealed: Queen’s dismay at Blair legacy”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2007.
- ^ Alderson, Andrew (27 tháng 5 năm 2007). “Tony and Her Majesty: an uneasy relationship”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2007.
- ^ “In Depth: The Golden Jubilee”. BBC News.
- ^ Brandreth, p.31
- ^ “BBC NEWS | Northern Ireland | Historic first for Maundy service”. News.bbc.co.uk. Cập nhật lần cuối:. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.
- ^ Leyland, Joanne (11 tháng 10 năm 2006). “The Queen Proves She’s A Real Trooper”. The Royalist. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2006.
- ^ “Queen cancels visit due to injury”. BBC News. 26 tháng 10 năm 2006.
- ^ Greenhill, Sam and Hope, Jenny (6 tháng 12 năm 2006). “Plaster on Queen’s hand: minor cut or IV drip?”. Daily Mail.
- ^ Whittaker, Thomas (14 tháng 12 năm 2006). “Corgi put the queen in plaster”. The Sun.
- ^ a ă English, Rebecca (20 tháng 4 năm 2006). “’The Queen will NEVER consider abdicating’”. Daily Mail. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2006.
- ^ “Key aides move to Windsor ahead of Queen’s retirement| News | This is London”. Thisislondon.co.uk. London. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.
- ^ http://www.royal.gov.uk/output/page3956.asp Royal.gov.uk – Corrections
- ^ “Extra bank holiday to mark Jubilee”. Press Association. 5 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2010.
- ^ Department of Canadian Heritage (22 tháng 6 năm 2010). “Government of Canada Commissions New Canadian Portrait of Her Majesty The Queen”. Queen’s Printer for Canada. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2010.
- ^ Office of the Prime Minister of Canada (9 tháng 2 năm 2011). “PM unveils Diamond Jubilee Medal design to honour Canadian contributions”. Queen’s Printer for Canada. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2011.
- ^ Department of Canadian Heritage. “Topics > Monarchy in Canada > Queen’s Diamond Jubilee”. Queen’s Printer for Canada. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2011.
- ^ “Queen ‘will do her job for life’”. BBC News. 19 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2007.
- ^ Shawcross, pp.194–195
- ^ Cartner-Morley, Jess (10 tháng 5 năm 2007). “Elizabeth II, belated follower of fashion”. The Guardian (Guardian Media Group). tr. p2, G2 section. ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2007.
- ^ Bond, p.22
- ^ Bond, p.35; Roberts, p.82; Shawcross, p.50
- ^ Bond, p.35; Shawcross, p.76
- ^ Bond, pp.66–67, 84, 87–89 and Roberts, pp.84–86
- ^ Bond, p.97; Roberts, p.87; Shawcross, pp.114–117
- ^ Bond, p.117 and Roberts, p.91
- ^ Roberts, p.101; Shawcross, p.218
- ^ Bond, p.156
- ^ Bond, pp.166–167
- ^ Bond, p.157
- ^ Bansal, Shaveta. “Poll: Queen Elizabeth “Most Popular Royal””. All Headline News. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2006.
- ^ Monarchy poll, Ipsos MORI, Tháng 4 năm 2006, truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2008
- ^ “The World’s Richest Royals – Forbes.com”. Forbes.com. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.
- ^ The Queen’s Personal Wealth, Official web site of the British monarchy, truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2008
- ^ “The Royal Collection – What is the Royal Collection?”. Royalcollection.org.uk. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.
- ^ “The Royal Collection > About the Royal Collection”. Royal.gov.uk. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.
- ^ V.P. NEIMANIS. “Crown Land”. The Canadian Encyclopedia: Geography. Historica Foundation of Canada. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2007.
- ^ Thatcher, M. (1993). The Downing Street Years (p. 18) New York: HarperCollins. ISBN 0-06-017056-5
- ^ “’The Queen is a parrot’ – Paisley”. BBC News. 26 tháng 5 năm 1998.
- ^ Speaight, Robert (1970). Vanier, Soldier, Diplomat and Governor General: A Biography. Collins. ISBN 0002622521.
- ^ “1964 Quebec visit – speech”. CBC.
- ^ Bousfield, Arthur (April năm 1996). “A Queen Canada Should be Proud Of”. Monarchy Canada.
- ^ Thompson, Elizabeth (14 tháng 10 năm 2007). “Chretien’s Revenge”. The Gazette. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Queen, State and Kirk”. Church of Scotland official website. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2010.
- ^ “Kirk’s invite leads Queen to break Sunday tradition”. The Scotsman newspaper. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2010.
- ^ Elizabeth II (25 tháng 12 năm 2000). “Historic speeches: Christmas Broadcast 2000”. British Monarchy Official Website. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2007.
- ^ “Presidents, Vice Presidents and Board”. Council of Christians and Jews. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2007.
- ^ [1]
- ^ [2]
- ^ [3]
- ^ Constitution Act 1867; III.15, Queen’s Printer for Canada, 1867
- ^ “The Monarchy Today: Queen and State: The Queen and the Armed Forces”. Buckingham Palace. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Marks of cadency in the British royal family”. Heraldica.org. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Her Majesty The Queen”. Britishflags.net. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.
Sách tham khảo chính
Đọc thêm
- Allison, Ronald; The Queen: 50 Years – A Celebration; HarperCollins UK (1 tháng 10 năm 2001) (ISBN 0004140788)
- Bousfield, Arthur; Toffoli, Gary (2002). Fifty Years the Queen – A Tribute to Elizabeth II on Her Golden Jubilee. Hamilton: Dundurn Press. ISBN 9781550023602.
- Erickson, Carolly; Lillibet: An Intimate Portrait of Elizabeth II; St. Martin’s Press; 1st edition (26 tháng 1 năm 2004) (ISBN 0-312-28734-8)
- Lacey, Robert (2002). Royal: Her Majesty Queen Elizabeth II. London: Little, Brown. ISBN 0748104097.
- Lacey, Robert; Monarch: The Life and Reign of Elizabeth II; Free Press (6 tháng 5 năm 2003) (ISBN 0-7432-3669-6)
- Noakes, Michael & Noakes, Vivien; The Daily Life of the Queen: An Artist’s Diary; Trafalgar Square (2001) (ISBN 0-09-186982-X)
- Pimlott, Ben; The Queen: Elizabeth II and the Monarchy; Harper Collins;revised edition (2007) (ISBN 0-007-11436-2)
- Waller, Maureen; Sovereign Ladies: Sex, Sacrifice, and Power. The Six Reigning Queens of England; New York, St. Martin’s Press (2006) (ISBN 0-312-33801-5)
- Jubilee A Celebration of 50 Years of the Reign of Her Majesty Queen Elizabeth II; Cassell & Co (2002) (ASIN B000BMS0UE)
Liên kết ngoài
Tiếng Anh
Tiếng Việt
Thể loại:
Lê Quý Đôn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lê Quý Đôn (chữ Hán: 黎貴惇, 1726 – 1784), tên thuở nhỏ là Lê Danh Phương[1], tự Doãn Hậu (允厚), hiệu Quế Đường; là quan thời Lê trung hưng, là nhà thơ, và là “bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến”[2].
Thân thế và sự nghiệp
Ông sinh ngày 5 tháng 7 năm Bính Ngọ (2 tháng 8 năm 1726) tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam; nay thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Ông là con trai cả của ông Lê Phú Thứ (sau đổi là Lê Trọng Thứ)[3], đỗ Tiến sĩ năm Bảo Thái thứ 2 (Giáp Thìn, 1721), và làm quan trải đến chức Hình bộ Thượng thư, tước Nghĩa Phái hầu. Mẹ Lê Quý Đôn họ Trương (không rõ tên), là con gái thứ ba của Trương Minh Lượng, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1700), trải nhiều chức quan, tước Hoằng Phái hầu.
Ba lần đỗ đầu
Thuở nhỏ, Lê Quý Đôn nổi tiếng là người ham học, thông minh, có trí nhớ tốt, được người đương thời coi là “thần đồng”. Năm lên 5 tuổi, ông đã đọc được nhiều bài trong Kinh Thi. Năm 12 tuổi, ông đã học “khắp kinh, truyện, các sử, các sách của bách gia chư tử”[4].
Năm Kỷ Mùi, ông theo cha lên học ở kinh đô Thăng Long. Năm Quý Hợi (đời vua Lê Hiển Tông, ông dự thi Hương và đỗ đầu (Giải nguyên) lúc 17 tuổi. Sau đó, ông cưới cô Lê Thị Trang ở phường Bích Câu làm vợ. Cô là con gái thứ 7 của Lê Hữu Kiều, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1718).
Tuy đỗ đầu kỳ thi Hương, nhưng thi Hội mấy lần, ông đều không đỗ. Ông ở nhà dạy học và viết sách trong khoảng 10 năm (1743–1752). Sách Đại Việt thông sử (còn gọi là “Lê triều thông sử”) được ông làm trong giai đoạn này (Kỷ Tỵ, 1749)[5].
Năm 26 tuổi (Nhâm Thân, 1752), ông lại dự thi Hội, và lần này thì đỗ Hội nguyên. Vào thi Đình, ông đỗ luôn Bảng nhãn. Vì kỳ thi này không lấy đỗ Trạng nguyên, nên kể như cả ba lần thi, ông đều đỗ đầu.
Làm quan và biên soạn sách
Sau khi đỗ đại khoa, năm Quý Dậu (1753) [6], Lê Quý Đôn được bổ làm Thị thư ở Viện Hàn Lâm, rồi sung làm Toản tu quốc sử vào mùa xuân năm Giáp Tuất (1754).
Năm Bính Tý (1756), ông được cử đi thanh tra ở trấn Sơn Nam, phát giác “6, 7 viên quan ăn hối lộ” [7]. Tháng 5 năm đó, ông được biệt phái sang phủ chúa coi việc quân sự (chức Tri Binh phiên)[7]. Ba tháng sau, ông được cử đi hiệp đồng các đạo Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hóa…rồi đem quân đi đánh quân của Hoàng Công Chất[8].
Năm Đinh Sửu (1757), ông được thăng làm Hàn lâm viện Thị giảng. Trong năm này, ông viết Quần thư khảo biện.
Năm Kỷ Mão (1759), vua Lê Ý Tông mất, triều đình cử ông làm Phó sứ, tước Dĩnh Thành bá, để cùng với Lê Duy Mật, Trịnh Xuân Chú cầm đầu phái đoàn sang nhà Thanh (Trung Quốc) báo tang và nộp cống (1760).
Trên đường sang Yên Kinh (nay là Bắc Kinh), Lê Quý Đôn thấy các quan lại nhà Thanh có thói quen gọi đoàn sứ của nước Đại Việt (Nay là Việt Nam) là “di quan, di mục” (quan lại mọi rợ), ông lên tiếng phản đối, từ đấy họ mới gọi là “An Nam cống sứ”[9]. Việc đáng kể nữa trong chuyến đi sứ này, đó là ông đã được các quan lớn triều Thanh như Binh bộ Thượng thư Lương Thi Chinh, Công bộ Thượng thư Quy Hữu Quang và nhiều nho thần khác tìm đến thăm. Đặc biệt, khi đến làm lễ ở điện Hồng Lô, Lê Quý Đôn gặp đoàn sứ thần Triều Tiên do Hồng Khải Hi đứng đầu. Sau đó, ông đã làm thơ với họ, và cho họ xem ba tác phẩm của mình là Thánh mô hiền phạm lục, Quần thư khảo biện và Tiêu Tương bách vịnh [8]. Tài văn chương và ứng đáp của ông làm cho họ “phải tôn trọng”[10], “phải khen ngợi”[11].
Trở về nước (Nhâm Ngọ, 1762), ông được thăng chức Thừa chỉ Viện Hàn Lâm, rồi làm Học sĩ ở Bí thư các.
Năm Quý Mùi (1763), ông viết Bắc sứ thông lục. Trong năm này, ông được cử coi thi Hội[12].
Năm Giáp Thân (1764), ông dâng sớ xin thiết lập pháp chế, vì thấy một số quan lại lúc bấy giờ “đã quá lạm dụng quyền hành, giày xéo lên pháp luật”, nhưng không được chúa nghe [13]. Cũng trong năm đó, ông được cử làm Đốc đồng xứ Kinh Bắc, rồi đổi làm Tham chính xứ Hải Dương (Ất Dậu, 1765), song ông dâng sớ không nhận chức và xin về hưu. Theo Phan Huy Chú, lời sớ đại khái rằng: “Tấm thân từng đi muôn dặm còn sống về được, lại gặp cảnh vợ chết, con thơ phiêu bạt chỗ giang hồ, thần thực không thích làm quan nữa, xin cho về làng”[14]. Được chấp thuận, ông trở về quê “đóng cửa, viết sách”[15].
Đầu năm Đinh Hợi (1767), chúa Trịnh Doanh qua đời, Trịnh Sâm lên nối ngôi. Nghe theo lời tâu của Nguyễn Bá Lân, chúa cho triệu Lê Quý Đôn về triều, phong làm chức Thị thư, tham gia biên tập quốc sử, kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám.lên vua Lê Hiển Tông đọc. Tháng 9 năm đó, ông được cử làm Tán lý quân vụ trong đội quân của Nguyễn Phan (tước Phan Phái hầu) đi dẹp cuộc nổi dậy của Lê Duy Mật ở Thanh Hóa. Năm Mậu Tý (1768), ông làm xong bộ Toàn Việt thi lục, dâng lên chúa Trịnh. Năm Kỷ Sửu (1769), ông dâng khải xin lập đồn điền khẩn hoang ở Thanh Hóa.
Năm Canh Dần (1770), bàn đến công lao đánh dẹp, ông được thăng làm Hữu thị lang bộ Hộ, kiêm Thiêm đô Ngự sử [16]. Mùa thu năm ấy, ông và Đoàn Nguyễn Thục nhận lệnh đi khám duyệt hộ khẩu ở xứ Thanh Hóa. Xong việc trở về, ông tâu xin tha bớt các thuế thổ sản, thủy sản cho các huyện và thuế thân còn thiếu. Chúa Trịnh liền giao cho triều đình bàn và thi hành. Ít lâu sau, ông được thăng Tả thị lang bộ Lại. Khi lãnh trọng trách này, ông có tâu trình lên bốn điều, được chúa khen ngợi, đó là: 1/ Sửa đổi đường lối bổ quan. 2/ Sửa đổi chức vụ các quan. 3/ Sửa đổi thuế khóa nhà nước. 4/ Sửa đổi phong tục của dân [17].
Năm Nhâm Thìn (1772), ông được cử đi điều tra về tình hình thống khổ của nhân dân và những việc nhũng lạm của quan lại ở Lạng Sơn.
Năm Quý Tỵ (1773) đại hạn, nhân đó ông tâu trình 5 điều, đại lược nói: “Phương pháp của cổ nhân đem lại khí hòa, dẹp tai biến, cốt lấy lễ mà cầu phúc của thần, lấy đức mà khoan sức dân” [17]. Chúa nghe theo, bổ ông làm Bồi tụng (Phó Tể tướng), giữ việc dân chính, kiêm quản cơ Hữu hùng, tước Dĩnh Thành hầu. Trong năm này, ông viết Vân đài loại ngữ.
Tháng 10 năm Giáp Ngọ (1774), chúa Trịnh Sâm thân chinh mang quân đánh Thuận Hóa, Lê Quý Đôn được cử giữ chức Lưu thủ ở Thăng Long.
Đầu năm Ất Mùi (1775), tướng Hoàng Ngũ Phúc đánh chiếm được Thuận Hóa. Tháng 2 năm đó, chúa Trịnh trở về kinh, rồi thăng ông làm Tả thị lang bộ Lại kiêm Tổng tài Quốc sử quán.
Cũng trong năm đó xảy ra vụ Lê Quý Kiệt (con Lê Quý Đôn) đổi quyển thi với Đinh Thời Trung (hay Thì Trung). Bị phát giác, cả hai đều bị tội. Vì là đại thần, Lê Quý Đôn được miễn nghị [18].
Năm Bính Thân (1776), chúa Trịnh Sâm đặt ty trấn phủ ở Thuận Hóa. Lê Quý Đôn được cử làm Hiệp trấn Tham tán quân cơ[19], để cùng với Đốc suất kiêm Trấn phủ Bùi Thế Đạt tìm cách chống lại quân Tây Sơn[20]. Tại đây, ông soạn bộ Phủ biên tạp lục. Ít lâu sau, ông được triệu về làm Thị lang bộ Hộ, kiêm chức Đô ngự sử [21].
Năm Mậu Tuất (1778), được cử giữ chức Hành tham tụng, nhưng ông từ chối và xin đổi sang võ ban. Chúa Trịnh chấp thuận, cho ông làm Tả hiệu điểm[22], quyền Phủ sự (quyền như Tể tướng, tạm coi việc phủ chúa), tước Nghĩa Phái hầu. Tháng 4 năm đó, Lê Thế Toại dâng bài khải công kích Lê Quý Đôn. Năm sau (1779), ông lại bị Hoàng Văn Đồng tố cáo, nên bị giáng chức.
Năm Tân Sửu (1781), ông lại được giữ chức Tổng tài Quốc sử quán.
Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), chúa Trịnh Sâm qua đời, Trịnh Cán được nối ngôi chúa. Chỉ vài tháng sau, quân tam phủ nổi loạn giết chết Quận Huy (Hoàng Đình Bảo), phế bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ (vợ chúa Trịnh Sâm, mẹ Trịnh Cán), lập Trịnh Khải làm chúa. Nhớ lại hiềm riêng, Nguyễn Khản nói với chúa Trịnh Khải giáng chức Lê Quý Đôn [23].
Đầu năm Quý Mão (1783), ông nhận lệnh đi làm Hiệp trấn xứ Nghệ An. Ít lâu sau, ông được triệu về triều làm Thượng thư bộ Công [24].
Qua đời
Trong bối cảnh kiêu binh gây rối, triều chính rối ren, nhân dân đói khổ,…Lê Quý Đôn lâm bệnh nặng. Sau đó, ông xin về quê mẹ là làng Nguyễn Xá (huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) để chữa trị, nhưng không khỏi. Ông mất ngày 14 tháng 4 năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45 (tức 11 tháng 6 năm 1784)[25], lúc 58 tuổi.
Thương tiếc, chúa Trịnh Tông (tức Trịnh Khải) đã đề nghị với vua Lê Hiển Tông cho bãi triều ba ngày[26], cử Bùi Huy Bích làm chủ lễ tang, đồng thời cho truy tặng Lê Quý Đôn hàm Công bộ Thượng thư. Đến khi vua Lê Chiêu Thống nắm quyền chính, ông được gia tặng tước Dĩnh quận công [27].
Tác phẩm
Bộ sách Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, Kiến văn tiểu lục, Đại Việt thông sử.
Theo GS. Dương Quảng Hàm, Lê Quý Đôn thật là một nhà bác học ở đời Lê mạt: một tay ông đã biên tập, trứ thuật rất nhiều sách. Tuy tác phẩm của ông đã thất lạc ít nhiều, nhưng những bộ còn lưu lại cũng là một cái kho tài liệu để ta khảo cứu về lịch sử, địa dư và văn hóa của nước Việt…Có thể chia các tác phẩm chữ Hán của ông ra làm 5 loại như sau:
1. Các sách bàn giảng về kinh, truyện
2. Các sách khảo cứu về cổ thư
- Quần thư khảo biện (Xét bàn các sách), gồm 4 quyển, đã khắc in, có tựa của tác giả (đề năm 1757), của Chu Bội Liên (người nhà Thanh) và của Hồng Hải Hi (sứ Triều Tiên đề năm 1761).
- Thánh mô hiền phạm lục (Chép về mẫu mực của các bậc thánh hiền), gồm 12 quyển, có tựa của Chu Bội Liên và Hồng Khải Hi đề năm 1761.
- Vân Đài loại ngữ (Lời nói, chia ra từng loại, ở nơi đọc sách), gồm 4 quyển, viết năm 1773. Sách chia làm 9 mục, mỗi mục lại chia làm nhiều điều. Trong mỗi mục, tác giả trích dẫn các sách Trung Hoa (cổ thư, ngoại thư) nhiều quyển hiếm có, rồi lấy ý riêng của mình mà bàn. Xem sách này thì biết tác giả đã xem rộng đọc nhiều.
3. Các sách sưu tập thi văn
- Toàn Việt thi lục (Chép đủ thơ nước Việt), gồm 20 quyển (theo Phan Huy Chú), nhưng hiện còn 15 quyển. Sách do ông phụng chỉ biên tập, dâng lên vua Lê Hiển Tông xem năm 1768. Trong sách sưu tập thơ của các thi gia Việt Nam từ đời Lý đến đời Hậu Lê….Đây là một quyển sách quý để khảo cứu về tiểu sử và tác phẩm của các thi gia.
- Hoàng Việt văn hải (Bể văn ở nước Việt của nhà vua), là sách sưu tập các bài văn hay.
4. Các sách khảo về sử ký địa lý
- Đại Việt thông sử (còn gọi là “Lê triều thông sử”), gồm 30 quyển (theo Phan Huy Chú), viết năm 1749. Đây là bộ sử được viết theo thể kỷ truyện (chỉ có phần Bản kỷ là chép theo lối biên niên) chép từ thời vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đến vua Lê Cung Hoàng (theo Phàm lệ của tác giả). Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn truyền lại mấy phần là:
-
- -Đế kỷ (2 quyển), chép từ năm Lê Lợi khởi nghĩa (1418) đến năm ông mất (1433).
- -Nghệ văn chí (1 quyển), chép về sách vở văn chương.
- -Liệt truyện (11 quyển), chép về các Hậu phi, Hoàng tử, Danh thần (đời vua Lê Thái Tổ) và Nghịch thần (từ cuối đời nhà Trần đến nhà Mạc).
- Quốc triều tục biên, gồm 8 quyển, chép theo thể biên niên, từ Lê Trang Tông (1533) đến Lê Gia Tông (1675), chép việc kỹ lưỡng, bổ sung chỗ còn thiếu trong sử cũ. Theo Dương Quảng Hàm, sách này đã thất lạc.
- Bắc sứ thông lục (Chép đủ việc khi đi sứ sang Trung Quốc), 4 quyển, làm năm 1763. Trong sách ghi chép các công văn, thư từ, núi sông, đường sá, chuyện trò, đối ứng trong khi đi sứ (1760-1762).
- Phủ biên tạp lục (chép lẫn lộn về chính trị cõi biên thùy), gồm 6 quyển, làm khi tác giả được cử làm Hiệp trấn Tham tán quân cơ ở phủ Thuận Hóa (1776). Trong sách biên chép khá tường tận xã hội xứ Đàng Trong (nhất là xứ Thuận Hóa và xứ Quảng Nam) ở thế kỷ 18.
- Kiến văn tiểu lục (Chép vặt những điều thấy nghe), gồm 12 quyển, có tựa của tác giả đề năm 1777. Đây là tập bút ký nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ đời Trần đến đời Lê. Trong sách, tác giả đã đề cập tới nhiều lĩnh vực thuộc chế độ các vương triều Lý, Trần, từ thành quách núi sông, đường xá, thuế má, phong tục tập quán, sản vật, mỏ đồng, mỏ bạc và cách khai thác cho tới các lĩnh vực thơ văn, sách vở…
- Âm chất văn chú, gồm 2 quyển, đã khắc in, chép các bài huấn chú của các nhà ở Trung Quốc, có kèm theo lời đính chính của tác giả.
- Danh thần lục, gồm 2 quyển, chép công việc của các danh thần các triều.
5. Thơ văn
- Liên châu thi tập, gồm 4 quyển, chép thơ của Lê Quý Đôn cùng các thi gia khác, và những bài trả lời của các thi sĩ nhà Thanh và Cao Ly làm khi ông đi sứ sang Trung Quốc.
- Quế Đường thi tập (Tập thơ Quế Đường), gồm 4 quyển
- Quế Đường văn tập (tập văn Quế Đường), gồm 3 quyển.
Về văn Nôm, hiện nay chỉ còn:
- Bài thơ thất ngôn bát cú: “Rắn đầu biếng học”
- Bài kinh nghĩa: “Vãng chi nhữ gia, tất kính tất giới, vô vi phu tử” (Mày về nhà chồng phải kính răn, chớ trái ý chồng).
- Bài văn sách hỏi về câu “Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công tô điểm má hồng răn đen”.
- Bài kinh nghĩa: “Mẹ ơi con muốn lấy chồng”
- Bài “khải” viết bằng văn xuôi chép trong Bắc sứ thông lục.
Tuy nhiên trừ bài “khải” ra, theo PGS. Nguyễn Thạch Giang, các bài Nôm còn lại đều không chắc là của ông [28].
Nhận xét
Lê Quý Đôn là một “nhà bác học ham đọc, ham biết và ham viết”[29], là “một nhà bác học có kiến thức hết sức uyên bác và đa dạng”[30]. Điều đó đã được nhà sử học Phan Huy Chú nói đến từ những năm đầu của thế kỷ 19, trích:
- “Ông có tư chất khác đời, thông minh hơn người mà (vẫn) giữ tính nết thuần hậu, lại chăm học không biết mỏi. Tuy đỗ đạt vinh hiển, tay vẫn không rời quyển sách. Bình sinh (ông) làm sách rất nhiều. Bàn về kinh sử thì sâu sắc, rộng rãi, mà nói về điển cố thì đầy đủ rõ ràng. Cái sở trường của ông vượt hơn cả, nổi tiếng trên đời. Văn thơ ông làm ra gọi là Quế đường tập có mấy quyển” (trong “Nhân vật chí”)
- “Ông là người học vấn rộng khắp, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ trong sáng. Lời văn hồn nhiên…, không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia”(trong “Văn tịch chí”)[31].
Xét góc cạnh khác, theo GS. Văn Tân ở Viện Sử học (Việt Nam), Lê Quý Đôn còn là:
- -Một nhà trí thức muốn có những cải cách trong xã hội Việt Nam.
- -Một nhà chính trị quan tâm đến nhân dân, gần gũi nhân dân, và hiểu những mong muốn của nhân dân.
- -Một nhà trí thức có tư tưởng tự tôn và tự hào dân tộc.
Tuy nhiên, là một nho sĩ trung thành với họ Trịnh, và ý hệ thức của Lê Quý Đôn là ý thức hệ của giai cấp phong kiến hồi thế kỷ 18, nên trong đời ông, ông đã từng đi đánh dẹp các đội quân nổi dậy chống lại triều đình Lê-Trịnh [32].
Giai thoại văn học
Có một số giai thoại kể về Lê Quý Đôn, đáng chú ý có chuyện Rắn đầu biếng học:
Người ta kể rằng, một hôm, Tiến sĩ Vũ Công Trấn[33] đến thăm Tiến sĩ Lê Phú Thứ là người bạn cùng đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn 1724 (sau đổi là Lê Trọng Thứ). Nghe con bạn là Lê Quý Đôn còn trẻ mà đã hay chữ, nên ông Trấn lấy đầu đề “Rắn đầu biếng học” để thử tài. Ít phút sau, Lê Quý Đôn đã làm xong bài thơ dưới đây:
- Chẳng phải “liu điu” vẫn giống nhà!
- “Rắn đầu” biếng học lẽ không tha
- Thẹn đèn “hổ lửa” đau lòng mẹ,
- Nay thét “mai gầm” rát cổ cha.
- “Ráo” mép chỉ quen tuồng lếu láo,
- “Lằn” lưng cam chịu vệt năm ba.
- Từ nay “Trâu” Lỗ [34] xin siêng học,
- Kẻo “hổ mang” danh tiếng thế gia!
Bài thơ đúng vần, đúng luật, rất hợp đầu đề, mà ý tứ lại cao kỳ. Đặc biệt, mỗi câu có tên một loài “rắn”[35].
Vinh danh
Tên Lê Quý Đôn được dùng để đặt tên cho nhiều trường học, nhiều đường phố ở khắp nước Việt Nam như: Trường Đại học Lê Quý Đôn (tức Học viện Kỹ thuật Quân sự) ở Hà Nội; Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn-Điện Biên; Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn-Lai Châu; Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn-Quảng Trị; Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn-Đà Nẵng; Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn– Bình Định; Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn-Khánh Hoà; Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn-Ninh Thuận; Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn-Bà Rịa-Vũng Tàu; Trường THPT Lê Quý Đôn – Hải Phòng ,Trường THPT Lê Quý Đôn-Hà Tĩnh; Trường THPT Lê Quý Đôn-Thái Bình; Trường THPT Lê Quý Đôn-Biên Hoà, Đồng Nai; Trường THPT Lê Quý Đôn-Hà Đông; Trường THCS Lê Quý Đôn- Cầu Giấy, Hà Nội; Trường THPT Lê Quý Đôn – Long An, Trường THPT Lê Qúy Đôn – Đống Đa, Hà Nội, THCS Lê Quý Đôn – TP. Sóc Trăng, phố Lê Quý Đôn ở thành phố Uông Bí, Hạ Long, Quảng Yên…
Chú thích
- ^ Sau khi đỗ Giải nguyên năm 1743, vì không muốn trùng tên với Nguyễn Danh Phương 1690 – 1751), một thủ lĩnh nông dân đang nổi lên chống triều đình, nên ông đã đổi tên là Lê Quý Đôn (theo GS. Thanh Lãng, tr. 542; và nhà nghiên cứu Bùi Hạnh Cẩn, tr. 47).
- ^ Theo GS. Văn Tân, “Con người và sự nghiệp Lê Quý Đôn”, tr. 306.
- ^ Theo Bùi Hạnh Cẩn (tr. 6-7), thì Lê Trọng Thứ sinh năm 1694, và có hiệu là Trúc Am. Tổ tiên vốn là họ Lý ở huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc. Vì tránh nạn nên dời về ở xã Vị Dương (nay là Thái Thụy, Thái Bình). Về sau, lại đến ngụ cư ở xã Diên Hà, huyện Hưng Hà, cùng tỉnh.
- ^ Theo sử thần Phan Huy Chú, mục: “Nhân vật chí”, tr. 390.
- ^ Theo Bùi Hạnh Cẩn, tr. 50 và 234.
- ^ Theo GS. Dương Quảng Hàm (tr. 307). “Tiểu sử Lê Quý Đôn” (tr. 304) ghi ông bắt đầu làm quan vào năm Giáp Tuất (1754).
- ^ a ă Theo GS. Trần Văn Giáp, tr. 1247.
- ^ a ă Theo “Tiểu sử Lê Quý Đôn”, tr. 304.
- ^ Theo Văn Tân (tr. 313) và Bùi Hạnh Cẩn (tr. 129).
- ^ Theo Phan Huy Chú, mục: “Nhân vật chí”, tr. 391.
- ^ Theo Dương Quảng Hàm, tr. 307.
- ^ Theo Bùi Hạnh Cẩn (tr. 140), trong khoảng 10 năm (1763-1772), Lê Quý Đôn nhiều lần được cử coi thi Hội.
- ^ Theo Văn Tân (tr. 310) và Trần Văn Giáp (tr. 1247).
- ^ Phan Huy Chú (mục: “Nhân vật chí”, tr. 390). Bùi Hạnh Cẩn cho biết: năm 1760, cha vợ ông Đôn là Lê Hữu Kiều mất. Năm sau (1761), vợ ông Đôn là Lê Thị Trang (sinh năm 1733) cũng mất vì bệnh lao khi chưa đầy 30 tuổi, và đã có 6 con (tr. 139). Cũng theo ông Cẩn, ông Đôn từ quan là vì thấy nhà chúa mỗi ngày thêm sa đà vào các việc vui chơi, muốn bổ ông đi trấn cõi ngoài, để không còn phải nghe những lời can ngăn của ông, chứ không hẳn là vì nỗi buồn riêng về vợ con (tr. 155).
- ^ Theo Tiểu sử Lê Quý Đôn, (tr. 305) và GS. Nguyễn Lộc (tr. 831).
- ^ Theo Phan Huy Chú (mục: “Nhân vật chí”, tr. 391).
- ^ a ă Chép theo Phan Huy Chú, mục “Nhân vật chí”, tr. 391.
- ^ Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính Biên, quyển thứ 44, tờ 27 và tờ 28) chép: “Quý Kiệt con Quý Đôn. Kỳ đệ tứ khoa thi [thi Hội] này, Quý Kiệt cùng Đinh [Thì] Trung đổi quyển cho nhau để làm bài. Việc bị lộ, Đinh [Thì] Trung phải tội lưu đi Yên Quảng, Quý Kiệt phải trở về làm dân. Đinh [Thì] Trung nhân phát giác bức thư riêng của Quý Kiệt và cáo tố là do Quý Đôn chủ sự. Trịnh Sâm lấy cớ Quý Đôn là bậc đại thần, bỏ đi không xét, mà luận thêm tội Quý Kiệt, bắt giam cấm ở ngục ở cửa Đông“.
- ^ Theo Văn Tân (tr. 307). Phan Huy Chú (mục “Nhân vật”, tr. 391) ghi chức vụ của ông hơi khác, đó là: “Tham tri đạo Thuận-Quảng, kiêm chức Hiệp trấn phủ”.
- ^ GS. Trịnh Vân Thanh, tr. 667.
- ^ Chép theo Phan Huy Chú (mục: “Nhân vật chí”, tr. 391). “Tiểu sử Lê Quý Đôn” (tr. 305) chép khác: “Cuối năm 1776, ông được triệu về làm Hành bộ phiên Cơ mật sự vụ kiêm Chưởng tài phú”.
- ^ Theo Phan Huy Chú (mục “Nhân vật chí”, tr. 391). Bùi Hạnh Cẩn (tr. 209) ghi là “Hữu hiệu điểm”.
- ^ Năm 1773, khi được cử làm Đồn điền sứ ở Trường Yên, Nguyễn Khản đã không chịu làm theo kế hoạch khai khẩn ruộng hoang của Lê Quý Đôn, nên hai người đã bực nhau từ lúc đó (theo Bùi Hạnh Cẩn, tr. 216).
- ^ Theo “Tiểu sử Lê Quý Đôn” (tr. 305).
- ^ Theo sách “Nhân vật chí” (hiện có ở Thư viện Hán Nôm, ký hiệu: A. 573, tờ 126), Trần Văn Giáp (tr. 1246), Nguyễn Lộc (tr. 831), “Tiểu sử Lê Quý Đôn” (tr. 305), Bùi Hạnh Cẩn (tr. 236). Phan Huy Chú (mục: “Nhân vật chí”, tr. 391) chép hơi khác: “Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), chúa Trịnh Sâm mất, Trịnh Cán lên nối nghiệp. Vì nịnh thần gièm pha nên Lê Quý Đôn bị giáng. Mùa đông năm Quý Mão (1783), ông đi làm Hiệp trấn Nghệ An. Rồi ông mất, thọ 58 tuổi”. Phan Huy Ôn trong Đăng khoa bị khảo cũng chép ông mất năm 1783. Tuy nhiên, thông tin ông mất năm 1784 tại quê mẹ được coi là “có căn cứ hơn” (Nguyễn Lộc, tr. 831).
- ^ Theo Văn Tân (tr. 308) và Bùi Hạnh Cẩn (tr. 231).
- ^ Theo Phan Huy Chú (mục “Nhân vật chí”, tr. 391).
- ^ Phần tác phẩm của Lê Quý Đôn, chủ yếu căn cứ theo Dương Quảng Hàm (tr. 307-311), có tham khảo thêm: Phan Huy Chú (“Văn tịch chí”), Nguyễn Thạch Giang (Văn học thế kỷ 18), Nguyễn Lộc (Từ điển văn học, bộ mới) và Bùi Hạnh Cẩn (Lê Quý Đôn). Có sách biên khác đôi chút, hoặc chua là tồn nghi. Trong bài “Con người và sự nghiệp của Lê Quý Đôn” (viết tại Hà Nội, tháng 12 năm 1976), tác giả là GS. Văn Tân cho biết: Theo ý kiến của nhiều người, và trên cơ sở những khảo chứng nghiêm túc của văn bản học hiện nay, chúng ta chỉ mới có thể khẳng định rằng Lê Quý Đôn là tác giả của 14 tác phẩm sau đây: Đại Việt thông sử (hay Lê triều thông sử), Kiến văn tiểu lục, Lê triều công thần liệt truyện, Danh thần lục, Quần thư khảo biện, Thánh mô hiền phạm lục, Bắc sứ thông lục, Vân đài loại ngữ, Phủ biên tạp lục, Thư kinh diễn nghĩa, Quế Đường thi tập, Âm chất văn chú, Quế Đường thi vựng tuyển toàn tập, Tứ thư ước giải và Toàn Việt thi lục.
- ^ Theo “Lời giới thiệu Phủ Biên tạp lục” của Viện Sử học, in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 3), tr. 316.
- ^ Theo Nguyễn Lộc, tr. 831.
- ^ Trích trong “Nhân vật chí” (tr. 391) và “Văn tịch chí” (tr. 136).
- ^ Tóm lược theo bài viết “Con người và sự nghiệp của Lê Quý Đôn” của GS. Văn Tân, tr. 306-314. Ý kiến liên quan: Theo GS. Trần Văn Giáp (tr. 1248), về đời tư của Lê Quý Đôn, sử triều Nguyễn (Khâm định Việt sử thông giám cương mục) có chép những sự việc rõ ràng là có dụng ý bôi xấu, lý do vì ông Đôn là một đại thần được triều Lê, Trịnh tin dùng và từng có những lời chỉ trích gay gắt đối với chính sự của các chúa Nguyễn. Bởi vậy, khi tập hợp tư liệu liên quan đến tiểu sử của ông, chúng ta cần cố gắng tìm ra sự thật.
- ^ Theo Bùi Hạnh Cẩn (tr. 5) thì Vũ Công Trấn là người làng Đôn Thư, tổng Phương Trung, trấn Sơn Nam Thượng, phủ Ứng Thiên, (nay thuộc xã Kim Thư, huyện Thanh Oai, Hà Nội) đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ khoa Giáp Thìn1724.
- ^ “Trâu” ở đây chỉ loài rắn hổ trâu, ngoài ra còn dùng để ám chỉ quê của Mạnh Tử. Còn “Lỗ” ở đây ám chỉ quê của Khổng Tử.
- ^ Lược kể theo Bùi Hạnh Cẩn (tr. 13).
Sách tham khảo
- Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (tập 1 [mục Nhân vật chí] và tập 3 [mục Văn tịch chí]). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
- Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu (bản in lần thứ 10). Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn, 1986,
- Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển thượng, Nxb. Trình bày, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.
- Nguyễn Lộc, mục từ “Lê Quý Đôn” trong Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb. Thế giới, 2004.
- Bùi Hạnh Cẩn, Lê Quý Đôn. Nxb Văn hóa, 1985.
- Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển (tập 1). Nxb Hồn Thiêng, Sài Gòn, 1966.
- Văn Tân, “Con người và sự nghiệp Lê Quý Đôn” in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 3). Nxb Thanh Niên, 2012.
- Nhóm biên soạn sách Phủ biên tạp lục, “Tiểu sử Lê Quý Đôn”, in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 3). Nxb Thanh Niên, 2012.
- Trần Văn Giáp, Tìm hiểu khoa sách Hán Nôm (trọn bộ). Nxb Khao học xã hội, 2003.
- Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tập 6, phần “Tiểu sử Lê Quý Đôn”). Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
- Nguyễn Thạch Giang (chủ biên), Văn học thế kỷ 18. Nxb Khoa học xã hội, 2004.
- Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội, 1992.
Chú thích