Thể loại:
Ludwig van Beethoven
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ludwig van Beethoven (phiên âm: Lút-vích van Bét-thô-ven, 17 tháng 12 năm 1770 – 26 tháng 3 năm 1827) là một nhà soạn nhạc cổ điển người Đức. Phần lớn thời gian ông sống ở Viên, Áo. Ông là một hình tượng âm nhạc quan trọng trong giai đoạn giao thời từ thời kỳ âm nhạc cổ điển sang thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Ông có thể được coi là người dọn đường (Wegbereiter) cho thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Beethoven được khắp nơi công nhận là nhà soạn nhạc vĩ đại nhất, nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng tới rất nhiều những nhà soạn nhạc, nhạc sỹ, và khán giả về sau.
Trong số những kiệt tác của ông phải kể đến các bản giao hưởng như Giao hưởng số 2 Rê trưởng, Giao hưởng số 3 Mi giáng trưởng (Anh hùng ca), Giao hưởng số 5 Đô thứ (Định mệnh), Giao hưởng số 6 Fa trưởng (Đồng quê), Giao hưởng số 7 La trưởng, Giao hưởng số 9 Rê thứ (Niềm vui), các tác phẩm cho dương cầm như Für Elise và các sonata Bi tráng (Pathétique), Ánh trăng (Moonlight), Bình minh (Waldstein), Khúc đam mê (Appasionata)… các sonata cho vĩ cầm như Mùa xuân (Spring), Kreutzer… các Piano Concerto số 2, số 3, số 5 Emperor (Hoàng đế), Violin Concerto D major… các khúc mở màn Overture Coriolan, Leonore, Egmont… và vở Opera duy nhất Fidelio, v.v.
Cuộc đời
Gia đình
Beethoven sinh tại Bonn, Đức, cha là Johann van Beethoven (1740–1792), người gốc Vlaanderen, và mẹ là Magdalena Keverich van Beethoven (1744–1787). Cho đến tận thời gian gần đây, nhiều công trình tham khảo coi ngày 16 tháng 12 là “ngày sinh” của Beethoven, với lý do là ông được rửa tội vào ngày 17 tháng 12 và trẻ con vào thời đó thường được rửa tội vào ngày hôm sau ngày sinh. Tuy nhiên, các học giả hiện đại không đồng ý dựa trên giả định như vậy. Một câu chuyện vô căn cứ, hoàn toàn không có nguồn gốc cho rằng, ông là con ruột của Quốc vương Friedrich II Đại Đế nước Phổ. Cũng có tin đồn cho ông là con ruột của cháu của Quốc vương Friedrich II Đại Đế – Quốc vương Friedrich Wilhelm II.[1][2] Nhạc sĩ Beethoven trở nên khó chịu, và thẳng tay bác bỏ những tin đồn nhảm kiểu này.[3]
Thầy dạy nhạc đầu tiên cho Beethoven là cha ông, là nhạc sĩ tại cung của Hầu-Tuyển đế ở Bonn, tuy nhiên cha ông cũng là người nghiện rượu, hay đánh ông và không thành công trong việc chứng minh ông là thần đồng, như Mozart. Tuy nhiên, tài năng của Beethoven sớm được mọi người chú ý. Beethoven được Christian Gottlob Neefe dạy bảo và nhận vào làm, cũng như được Hầu-Tuyển đế hỗ trợ về tài chính. Mẹ của Beethoven mất năm ông 17 tuổi, và trong vòng vài năm ông chịu trách nhiệm nuôi dưỡng hai người em trai của mình.
Ludwig van Beethoven sinh ra trong một gia đình nhạc sĩ, tuy nhiên tổ tiên là những người nông dân và thợ thủ công có nguồn gốc từ Vlaanderen. Chữ “van” trong tên ông không có nghĩa là xuất thân từ dòng dõi quý tộc (adlige Herkunft) mà đơn thuần chỉ là từ để chỉ nguồn gốc địa phương (örtliche Herkunft). Ông nội của ông là người Hà Lan, cũng mang tên Ludwig van Beethoven, là một người chỉ huy dàn nhạc cung đình ở Bonn, qua đời lúc Beethoven ba tuổi. Cha ông, Johann van Beethoven, là một ca sĩ giọng tenor trong giáo đường hoàng gia ở Bonn, biết chơi violon và piano. Mẹ của Beethoven là Maria Magdalena Keverich, là con gái một người đầu bếp cung đình, từng làm tớ gái, sau lấy tớ trai, không lâu sau lại thành vợ của ông Johann. Bà là người ngoan ngoãn, dịu hiền, chăm chỉ. Tuy cả gia đình chỉ dựa vào thu nhập ít ỏi từ ông Johann để sống qua ngày nhưng nhờ có sự đảm đang chống đỡ của bà nên vẫn duy trì được. Ludwig van Beethoven là con trai đầu trong gia đình. Ông sinh ngày 16 (hoặc 17) tháng 12 năm 1770, làm lễ rửa tội ngày 17 tháng 12 năm 1770.
Cha của Ludwig van Beethoven vốn rất ngưỡng mộ Mozart, người chỉ mới 5 tuổi đã là một nhà soạn nhạc. Thấy Beethoven còn nhỏ thích bấm lên phím piano của ông nội để lại, cha ông muốn ông trở thành một thiên tài âm nhạc như Mozart để gia đình sung sướng và danh giá nên ông được tập đàn clavio lúc ba tuổi, tiếp đó là những bài luyện đàn violon, piano, organ… Tuy nhiên kỷ luật nghiêm ngặt của ông bố lại làm ngăn trở sự phát triển của cậu con trai. Ông bị cha mình bắt đánh đàn suốt ngày đến nỗi ngón tay bị tê dại, sưng lên. Cha ông cũng không bằng lòng và thường xuyên mắng chửi ông, có khi còn đánh đập tàn nhẫn. Cha ông thường dựng Beethoven dậy vào lúc nửa đêm để tập chơi dương cầm. Do vậy Beethoven thường rất mệt mỏi và không tập trung được khi đến trường. Khi Beethoven được 11 tuổi, theo quyết định của cha, Beethoven phải nghỉ học để tập trung vào âm nhạc.
Cuộc sống của Beethoven cũng có rất nhiều khó khăn. Cha ông là một người nghiện rượu và thô lỗ, mẹ ông lại hay đau ốm. Trong sáu anh chị em của Beethoven chỉ còn có hai người sống sót. Trong khi mối quan hệ giữa Beethoven với cha rất căng thẳng và xa cách thì ông lại rất thương yêu mẹ. Vào khoảng 5 tuổi ông bị chứng viêm tai giữa nhưng bố mẹ ông không hề biết đến. Do vậy ông đã không được điều trị hoặc điều trị không đúng cách. Có lẽ đây chính là nguyên nhân làm ông bị điếc về sau này.
May mắn là các đồng nghiệp của cha ông đã phát hiện ra tài năng thiên phú của Beethoven. Mọi người tìm cách thuyết phục cha Beethoven cho phép để Beethoven được tiếp tục theo học nhạc với các thầy dạy nhạc khác. Trong số các thầy dạy của Beethoven, có thể kể tên Christian Gottlob Neefe (nghệ sĩ dương cầm, đại phong cầm và cũng là một nhà soạn nhạc) và Franz Anton Ries (nghệ sĩ vĩ cầm).
Năm 1781, Beethoven lên 11 tuổi, ông đã biểu diễn như một nghệ sĩ piano điêu luyện tại Hà Lan. Cũng trong thời gian này, ông cũng được cử làm phụ tá chơi đàn organ trong nhà thờ tại Bonn.
Năm 1782 chính Neefe đã cho xuất bản tác phẩm đầu tiên của Beethoven, bản “Các variation cho clavecin của bản march của Ernst Christoph Dressler“. Cũng chính trong năm này, Beethoven trở thành người đại diện cho Neefe ở dàn nhạc hoàng gia với vai trò nghệ sĩ đại phong cầm. Năm 14 tuổi, Beethoven giành được vị trí chính thức là nghệ sĩ chơi đại phong cầm trong dàn nhạc này. Tuy nhiên trong thời gian này ông vẫn tiếp tục luyện tập dương cầm.
Học hành
Để tiếp tục học hỏi, năm 1787, Beethoven đến Viên. Trong túi áo, ông có một giấy giới thiệu của Tuyển hầu tước (Kurfürst) Maximilian Franz, em trai út của Hoàng đế Joseph II. Mục đích chính của chuyến đi là được theo học Wolfgang Amadeus Mozart. Vào thời điểm ấy, rất nhiều nhà soạn nhạc nổi tiếng như Joseph Haydn đã biến thủ đô của Áo thành trung tâm âm nhạc của cả châu Âu.
Tuy nhiên ước mơ theo học Mozart đã không thực hiện được vì lúc đó nhà soạn nhạc thiên tài này quá bận bịu. Hơn nữa, Beethoven cũng chỉ ở Wien được hai tháng thì mẹ ông bị bệnh nặng nên ông đành quay về Bonn. Không bao lâu sau khi ông trở về Bonn thì mẹ ông cũng qua đời. Beethoven trở thành trụ cột chính cho gia đình nên ông không có điều kiện học thêm mà phải vừa đi biểu diễn vừa đi dạy học để kiếm tiền.
Khi 19 tuổi (năm 1789), Beethoven bắt đầu theo học tại Đại học Bonn. Tại đây và đặc biệt là thông qua Eulogius Schneider, ông đã nhanh chóng tiếp cận với những tư tưởng của Cách mạng Pháp. Niềm hứng khởi của ông về những tư tưởng tự do và bác ái của cuộc cách mạng được phản ánh trong các tác phẩm của ông sau này, đặc biệt là trong vở nhạc kịch Fidelio.
Năm 1791, 21 tuổi, ông được một cụ già ở Bonn giúp quay trở lại Wien theo học hòa âm với Haydn và một số thầy dạy khác. Sau đó tìm được một học trò để dạy mà kiếm tiền tiêu, ngoài giờ dạy nhạc ông lại sáng tác. Vài tác phẩm thành công nhưng tác giả lại phải sống trong căn nhà thiếu vệ sinh, ăn bữa no bữa đói.
Năm 22 tuổi, lần thứ hai Ludwig van Beethoven tiếp tục đến Wien và lần này ông không bao giờ quay trở lại Bonn, thành phố quê hương của ông, nữa. Cha ông đã qua đời. Lãnh địa của vương hầu nơi đây đã bị diệt vong bởi sự xâm chiếm của người Pháp. Vào thời điểm đó, Wolfgang Amadeus Mozart cũng đã qua đời trong lặng lẽ. Tuy nhiên Beethoven được Joseph Haydn và Antonio Salieri nhận làm học trò. Nhờ sự giới thiệu cũng như thiên tài của mình, Beethoven đã được những người có thế lực bậc nhất của Wien như Nam tước van Swieten và nữ vương hầu Lichnowski nhận đỡ đầu.
Tình yêu
Cuộc sống riêng tư có một sự kiện gây cho Beethoven nỗi đau khôn xiết đó là vào mùa xuân năm 1809, khi ông gần ngót 40 tuổi thì đem lòng yêu cô học trò xinh đẹp là nàng Theresa de Brunowick mới 18 tuổi, con gái điền chủ Malfati người Hungary. Nhờ sự khuyến khích của nàng, Beethoven sáng tác Bản Giao hưởng Số 6 Đồng quê vì ông đã lầm tưởng sự tận tụy và lòng kính mến của cô gái đó với nghệ thuật là tình yêu. Mùa hè 1810, cô gái kiên quyết khước từ lời cầu hôn của nhạc sĩ. Niềm hy vọng kết hôn đã tan vỡ..
Những đau đớn thể xác
Trong cuộc đời của mình, Ludwig van Beethoven đã phải chịu đựng sự hành hạ đau đớn về mặt thể xác. Nguyên nhân bệnh tật của ông cho đến hôm nay vẫn còn là đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học. Có một thời người ta cho rằng Ludwig van Beethoven mắc bệnh giang mai bẩm sinh.
Vào đầu tháng 12 năm 2005, Phòng thí nghiệm Quốc gia Argonne ở Chicago đã đưa ra bằng chứng là ngay từ thời thanh niên Ludwig van Beethoven đã bị nhiễm độc chì rất nặng. Công bố này dựa vào sự phân tích một mẫu xương sọ của Ludwig van Beethoven bằng X quang. Như vậy có thể nói ngay từ khi ông mới 20 tuổi Ludwig van Beethoven đã chịu đựng tác động rất nặng của tình trạng nhiễm độc chì.
Tài liệu lịch sử còn cho biết, ngay từ khoảng 20 tuổi, tính cách của Ludwig van Beethoven đã bắt đầu thay đổi. Cùng thời gian đó, ông cũng thường than phiền về chứng đau bụng không rõ nguyên do của mình.
Tuy nhiên người ta vẫn chưa rõ liệu chứng điếc của ông có phải do nhiễm độc chì hay không. Vào khoảng 30 tuổi, Ludwig van Beethoven bắt đầu biểu lộ những triệu chứng đầu tiên của bệnh xơ hóa thính giác và triệu chứng này ngày càng tồi tệ hơn, không có cách gì cứu vãn. Đến năm 1819 thì ông điếc hoàn toàn chính vì vậy ông không còn trình diễn nữa cũng như không thể chỉ huy dàn nhạc được. Việc giao tiếp lúc này đối với ông cũng vô cùng khó khăn.
Giữa tháng 11 năm 2005, Trung tâm Nghiên cứu Beethoven, thuộc Đại học San Jose (Hoa Kỳ) chính thức tuyên bố đã tìm ra hộp sọ của Beethoven. Đây là tài sản thừa kế của nhà doanh nghiệp Paul Kaufmann (người gốc Áo, hiện đang sống tại Danville, California, Hoa Kỳ).
Chiếc hộp sọ này gồm 13 mảnh (2 mảnh lớn phía sau sọ, 11 mảnh nhỏ) được khai quật năm 1863 rồi được cất giữ tại Pháp trước khi được chuyển giao cho Paul Kaufmann vào năm 1990.
Qua nghiên cứu hộp sọ (có so sánh DNA với các mẫu tóc của Beethoven), một số giả thuyết về cái chết của Beethoven đã bị bác bỏ (bệnh Crohn) hoặc được củng cố (hàm lượng chì cao).
Những năm cuối cùng
Đến 1818, Beethoven điếc hẳn cả hai tai và sáng tác Bản Giao hưởng Số 8, ông lang thang ngoài phố, dáng điệu trông thảm thương. Gặp một người bạn quen, Beethoven sĩ rút ra trong túi một cây viết chì, một cuốn sổ con rồi nói: “muốn nói chuyện với tôi thì cứ viết lên mặt giấy này!”. Cái rủi này dồn dập đến cái không may khác. Trong lúc đó, người anh của Beethoven qua đời, để lại một đứa con tên là Charles, nhờ Beethoven nuôi dưỡng. Charles là một đứa trẻ tinh nghịch, đủ tật xấu, nói dối, còn trẻ mà lại be bét rượu chè.
Và lúc ấy, Beethoven đã 50 tuổi. Nhạc sĩ vẫn tiếp tục sáng tác. Bản Giao hưởng Số 9 ra đời, sau đó còn sáng tác thêm Bản Lễ ca trang trọng, những sonata cuối cùng: Liên tấu cho đàn piano và Tứ tấu. Trong toàn bộ di sản của Beethoven, những tác phẩm này nổi bật hơn cả, chủ yếu vì chúng đã vượt ra ngoài các truyền thống cổ điển với lối diễn đạt hết sức thoải mái, các tâm trạng khác nhau của thế giới nội tâm.
Cuộc sống buồn chán lại tiếp diễn. Thỉnh thoảng, nghệ sĩ lại có chuyện bực mình với đứa cháu, lại lo lắng về tiền bạc, trong lúc con bị đau dạ dày. Năm 1826, Beethoven về sống với người em tên là Johann, để hưởng chút khí trời trong lành nhưng qua tháng 11 năm ấy, Beethooven bị gọi về Wien gấp, vì đứa cháu bị cảnh sát Wien bắt.
Beethoven đi nhờ trên chiếc xe bò của một người bán sữa đến thành Wien. Gặp trời giá lạnh, sức khỏe lúc này đã kiệt quệ, nghệ sĩ run cầm cập vì giá lạnh, hơi thở khó khăn. Beethoven khạc ra từng đống máu. Charles, đứa cháu vô phúc chẳng thiết gọi bác sĩ. Đến ngày 5 tháng 1 năm 1827, Beethoven tuyên bố để lại cho cháu tất cả di sản của ông. Bác sĩ tin cho nhạc sĩ biết cái chết gần kề. Beethoven không buồn, trái lại cảm thấy nhẹ người, tuyên bố với bạn bè: “các bạn hãy vỗ tay đi! màn bi kịch đã đến lúc hạ rồi!”.
Vào lúc 6 giờ tối ngày 26 tháng 3 năm 1827, nhạc sĩ danh tiếng nhất thế kỉ 19 trút hơi thở cuối cùng. Đám tang của ông có hàng ngàn người đưa tiễn và ngày sau đó toàn bộ tài sản Beethoven để lại, kể cả bản thảo, đều bị đem bán đấu giá. Tất cả đều rơi vào tay của hai nhà xuất bản sách là thương gia Gaflinger và Actari với giá rẻ mạt.
Sự nghiệp
Năm 1781, Beethoven 11 tuổi, ông đã biểu diễn như một nghệ sĩ piano điêu luyện tại Hà Lan. Cũng trong thời gian này, ông cũng được cử làm phụ tá chơi đàn organ trong nhà thờ tại Bonn. Năm 1782 chính Neefe đã cho xuất bản tác phẩm đầu tiên của Beethoven, bản “Các variation cho clavecin của bản march của Ernst Christoph Dressler“. Cũng chính trong năm này, Beethoven trở thành người đại diện cho Neefe ở dàn nhạc hoàng gia với vai trò nghệ sĩ đại phong cầm. Năm 14 tuổi, Beethoven giành được vị trí chính thức là nghệ sĩ chơi đại phong cầm trong dàn nhạc này. Tuy nhiên trong thời gian này ông vẫn tiếp tục luyện tập dương cầm
Năm 1795, Beethoven bắt đầu nổi danh là một nghệ sĩ piano với bản Concerto cung do trưởng. Nhưng chẳng may từ năm 1780 ông bắt đầu bị lãng tai. Lúc đầu ông mất hết hy vọng nhưng rồi cố gắng thích nghi với điều kiện sống và bắt đầu tập trung tư tưởng tình cảm cao độ hơn bất cứ lúc nào hết trong sáng tác.
Những tác phẩm của Beethoven hoàn thành trong khoảng 1803–1805 vượt trội hẳn những gì mà ông sáng tác trước đó. Đó là bản Sonate Kreutzar (1803) viết cho violon và piano. Bản Giao hưởng Số 3 Anh hùng ca (1804) có sức cuốn hút mạnh mẽ và gây xúc động sâu xa, lúc đầu ông đề tặng Napoléon nhưng khi Napoléon lên ngôi Hoàng đế thì ông đã xé đi lời đề tặng. Các Sonate cho piano, Bình minh (1804) và Appassionta (1805), Bản Giao hưởng Số 4 (1806), Bản Giao hưởng Số 5 Định mệnh (1808) đều có giá trị nghệ thuật lớn lao. Ông muốn lột tả trong âm thanh về một cuộc sống trong sự đấu tranh với cái chết bằng một sức mạnh khủng khiếp cuối cùng đã ca khúc khải hoàn, như nhân vật nữ trong vở Opera Fidelio (1805) ra sức bảo vệ người chồng của mình chống lại sự xấu xa bạo tàn, và trong khúc Missa solemnis là lời cầu nguyện để giải thoát khỏi đau thương chiến tranh.
Thông tin về hộp sọ của ông
Giữa tháng 11 năm 2005, Trung tâm Nghiên cứu Beethoven, thuộc Đại học San Jose (Hoa Kỳ) chính thức tuyên bố đã tìm ra hộp sọ của Beethoven. Đây là tài sản thừa kế của nhà doanh nghiệp Paul Kaufmann (người gốc Áo, hiện đang sống tại Danville, California, Hoa Kỳ).
Chiếc hộp sọ này gồm 13 mảnh (2 mảnh lớn phía sau sọ, 11 mảnh nhỏ) được khai quật năm 1863 rồi được cất giữ tại Pháp trước khi được chuyển giao cho Paul Kaufmann vào năm 1990.
Qua nghiên cứu hộp sọ (có so sánh DNA với các mẫu tóc của Beethoven), một số giả thuyết về cái chết của Beethoven đã bị bác bỏ (bệnh Crohn) hoặc được củng cố (hàm lượng chì cao).
Tác phẩm
Các số ở đầu dòng là số tác phẩm:
Tác phẩm dành cho dàn nhạc
Beethoven nổi tiếng nhất về chín bản giao hưởng của ông. Ông cũng soạn vài concerto, phần nhiều để ông trình diễn, cũng như nhạc dàn nhạc khác, nhất là ouverture và nhạc nền cho kịch tại nhà hát, và những tác phẩm để kỷ niệm những sự kiện đặc biệt.
Giao hưởng
- Giao hưởng số 1 cung Đô trưởng (soạn 1799–1800, trình diễn 1800)
- Giao hưởng số 2 cung Rê trưởng (soạn 1801–1802, trình diễn 1803)
- Giao hưởng số 3 cung Mi giáng trưởng (Eroica, “Anh hùng ca”; soạn 1802–1804, trình diễn 1805)
- Giao hưởng số 4 cung Si giáng trưởng (soạn 1806, trình diễn 1807)
- Giao hưởng số 5 cung Đô thứ (“Định Mệnh” soạn 1804–1808, trình diễn 1808)
- Giao hưởng số 6 cung Fa trưởng (Pastoral, “Đồng quê”; soạn 1803–1807, trình diễn 1808)
- Giao hưởng số 7 cung La trưởng (soạn 1811–1812, trình diễn 1813)
- Giao hưởng số 8 cung Fa trưởng (soạn 1811–1812, trình diễn 1814)
- Giao hưởng số 9 cung Rê thứ (Choral, “Thánh ca”; soạn 1817–1824, trình diễn 1824)
Ngày xưa người ta tưởng rằng Giao hưởng “Jena” cung Đô trưởng là một giao hưởng sớm của Beethoven, nhưng ngày nay được cho là của Friedrich Witt. Beethoven có lẽ muốn viết Giao hưởng số 10 vào năm cuối cùng của ông; một bản vẽ phác được soạn bởi Barry Cooper.
Concerto
- Concerto cho dương cầm số 1 cung Đô trưởng (1796–1797)
- Concerto cho dương cầm số 2 cung Si giáng trưởng (1798)
- Concerto cho dương cầm số 3 cung Đô thứ (1803)
- Concerto cho ba đàn vĩ cầm, hồ cầm, và dương cầm cung Đô trưởng (1805)
- Concerto cho dương cầm số 4 cung Sol trưởng (1807)
- Concerto cho vĩ cầm cung Rê trưởng (1806)
- Opus 61a: Bản chuyển soạn của Opus 61 cho dương cầm, đôi khi được gọi Concerto cho dương cầm số 6
- Concerto cho dương cầm số 5 cung Mi giáng trưởng (Emperor, “Hoàng đế”; 1809)
Bản khác dành cho người đơn ca và dàn nhạc
- Romance cho vĩ cầm và dàn nhạc số 1 cung Sol trưởng (1802)
- Romance cho vĩ cầm và dàn nhạc số 2 cung Fa trưởng (1798)
- “Khúc phóng túng thánh ca” (Khúc phóng túng cung Đô thứ cho dương cầm, đồng ca, và dàn nhạc; 1808)
Ouverture và nhạc thỉnh thoảng
- The Creatures of Prometheus, ouverture và nhạc kịch múa (1801)
- Ouverture Coriolan (1807)
- Các ouverture được soạn cho opera Fidelio của Beethoven:
- Opus 72: Ouverture Fidelio (1814)
- Opus 72a: Ouverture Leonore “số 2” (1805)
- Opus 72b: Ouverture Leonore “số 3” (1806)
- Opus 138: Ouverture Leonore “số 1” (1807)
- Egmont, ouverture và nhạc nền (1810)
- Chiến thắng của Wellington (“Giao hưởng Trận đánh”; 1813)
- Die Ruinen von Athen (“Tàn tích của Athens“), ouverture và nhạc nền (1811)
- König Stephan (Quốc vương Stephen), ouverture và nhạc nền (1811)
- Ouverture Zur Namensfeier (Feastday, “Ngày hội”) (1815)
- Ouverture Die Weihe des Hauses (“Hiến dâng Nhà”; 1822)
Tác phẩm nhạc phòng
Các tứ tấu đàn dây của Beethoven gần như nổi tiếng như các giao hưởng. Ông cũng soạn nhạc phòng cho vài loại đồng diễn khác, bao gồm các bộ ba dương cầm, bộ ba đàn dây, và sonata cho vĩ cầm và hồ cầm với dương cầm, cũng như các tác phẩm có kèn sáo.
Tứ tấu đàn dây
Sớm
Giữa
- Ba tứ tấu đàn dây số (“Rasumovsky”; 1806)
- Tứ tấu đàn dây số 7 cung Fa trưởng
- Tứ tấu đàn dây số 8 cung Mi thứ
- Tứ tấu đàn dây số 9 cung Đô trưởng
- Tứ tấu đàn dây số 10 cung Mi giáng trưởng (“Đàn hạc”) (1809)
- Tứ tấu đàn dây số 11 cung Fa thứ (Serioso, “Nghiêm chỉnh”; 1810)
Trễ
-
- Tứ tấu đàn dây số 12 cung Mi giáng trưởng (1825)
- Tứ tấu đàn dây số 13 cung Si giáng trưởng (1825)
- Tứ tấu đàn dây số 14 cung Đô thăng thứ (1826)
- Tứ tấu đàn dây số 15 cung La thứ (1825)
- Große Fuge cung Si giáng trưởng – mới đầu là chương cuối của Opus 130 (1824–1825)
- Bản chuyển soạn của Große Fuge, Opus 133, cho bộ đôi dương cầm (bốn tay; 1826)
- Tứ tấu đàn dây số 16 cung Fa trưởng (1826)
Ngũ tấu đàn dây
- Ngũ tấu đàn dây cung Đô trưởng (1801)
- Ngũ tấu đàn dây cung Đô thứ
- Fuga cho ngũ tấu đàn dây cung Rê trưởng
Tam tấu
Tam tấu dương cầm
- Ba tam táu dương cầm (1795)
- Tam táu dương cầm số 4 cung Si giáng trưởng (“Gassenhauer”; 1797; bản có vĩ cầm)
- Hai tam táu dương cầm (1808)
- Tam táu dương cầm số 7 cung Si giáng trưởng (“Hoàng tử”; 1811)
Tam tấu đàn dây
- Tam tấu đàn dây số 1 cung Mi giáng trưởng (1794)
- Ba tam tấu đàn dây (1798)
Nhạc phòng có kèn sáo
- Tam tấu dương cầm số 4 cung B-flat major (“Gassenhauer”; 1797; bản có kèn dăm đơn)
- Ngũ tấu cho dương cầm và kèn sáo cung Mi giáng trưởng (1796)
- Thất tấu cho kèn dăm đơn, kèn thợ săn, kèn dăm kép, vĩ cầm, vĩ cầm trầm, hồ cầm, và Đại Hồ cầm cung Mi giáng trưởng (1799)
- Lục tấu cho kèn dăm đơn, kèn thợ săn, và kèn dăm kép cung Mi giáng trưởng (1796)
- Tam tấu cho hai kèn Ô-boa và kèn Anh cung Đô trưởng (1795)
- Cửu tấu cho kèn Ô-boa, kèn dăm đơn, kèn thợ săn, và kèn dăm kép cung Mi giáng trưởng (1792)
Sonata cho dụng cụ solo và dương cầm
Sonata cho vĩ cầm
- Ba sonata cho vĩ cầm (1798)
- Sonata cho vĩ cầm số 1 cung Rê trưởng
- Sonata cho vĩ cầm số 2 cung La trưởng
- Sonata cho vĩ cầm số 3 cung Mi giáng trưởng
- Sonata cho vĩ cầm số 4 cung La thứ (1801)
- Sonata cho vĩ cầm số 5 cung Fa trưởng (“Mùa xuân”; 1801)
- Ba sonata cho vĩ cầm (1803)
- Sonata cho vĩ cầm số 6 cung La trưởng
- Sonata cho vĩ cầm số 7 cung Đô thứ
- Sonata cho vĩ cầm số 8 cung Sol trưởng
- Sonata cho vĩ cầm số 9 cung La trưởng (“Kreutzer”; 1803)
- Sonata cho vĩ cầm số 10 cung Sol trưởng (1812)
Sonata cho hồ cầm
- Hai sonata cho hồ cầm (1796)
- Sonata cho hồ cầm số 3 cung La trưởng (1808)
- Hai sonata cho hồ cầm (1815)
Sonata cho kèn thợ săn
- Sonata cho kèn thợ săn cung Fa trưởng (1800)
Tác phẩm dành cho dương cầm solo
Sonata cho piano
Các khúc biến tấu
Bagatelle
Tác phẩm thanh nhạc
Opera
Các tác phẩm thanh nhạc khác
Xem thêm
Các bản nhạc
Chú thích
- ^ Maynard Solomon, Beethoven, trang 5
- ^ Emil Ludwig, Beethoven: life of a conqueror, trang 92
- ^ The Eclectic magazine of foreign literature, science, and art, Tập 13, trang 542
Tham khảo
- Clive, Peter (2001). Beethoven and His World: A Biographical Dictionary. New York: Oxford University Press. ISBN 0-19-816672-9.
- Cooper, Barry (2008). Beethoven. Oxford University Press US. ISBN 9780195313314.
- Cross, Milton; Ewen, David (1953). The Milton Cross New Encyclopedia of the Great Composers and Their Music. Garden City, NJ: Doubleday. OCLC 17791083.
- Landon, H C Robbins; Göllerich; August (1970). Beethoven: a documentary study. Macmillan. OCLC 87180.
- Lockwood, Lewis (2005). Beethoven: The Music And The Life. W. W. Norton. ISBN 9780393326383.
- Sachs, Harvey, The Ninth: Beethoven and the World in 1824, London, Faber, 2010. ISBN 978-0-571-22145-5
- Solomon, Maynard (2001). Beethoven (ấn bản 2). New York: Schirmer Books. ISBN 0-8256-7268-6.
- Stanley, Glenn (ed) (2000). The Cambridge Companion to Beethoven. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 0-521-58074-9.
- Thayer, A. W.; Krehbiel, Henry Edward (ed, trans); Deiters, Hermann; Riemann, Hugo (1921). The Life of Ludwig Van Beethoven, Vol 1. The Beethoven Association. OCLC 422583.
- Bản mẫu:GroveOnline
Nguồn đọc thêm
- Carl Dahlhaus, Nineteenth Century Music, trans. J. Bradford Robinson (1989) ISBN 0-520-05291-9
- Albrecht, Theodore, and Elaine Schwensen, “More Than Just Peanuts: Evidence for December 16 as Beethoven’s birthday.” The Beethoven Newsletter 3 (1988): 49, 60–63.
- Bohle, Bruce, and Robert Sabin. The International Cyclopedia of Music and Musicians. London: J.M.Dent & Sons LTD, 1975. ISBN 0-460-04235-1.
- Davies, Peter J. The Character of a Genius: Beethoven in Perspective. Westport, Conn.: Greenwood Press, 2002. ISBN 0-313-31913-8.
- Davies, Peter J. Beethoven in Person: His Deafness, Illnesses, and Death. Westport, Conn.: Greenwood Press, 2001. ISBN 0-313-31587-6.
- DeNora, Tia. “Beethoven and the Construction of Genius: Musical Politics in Vienna, 1792–1803.” Berkeley, California: University of California Press, 1995. ISBN 0-520-21158-8.
- Geck, Martin. Beethoven. Translated by Anthea Bell. London: Haus, 2003. ISBN 1-904341-03-9 (h), ISBN 1-904341-00-4 (p).
- Hatten, Robert S (1994). Musical Meaning in Beethoven. Bloomington, IN: Đại học Indiana Press. ISBN 0-253-32742-3.
- Kornyei, Alexius. Beethoven in Martonvasar. Verlag, 1960. OCLC Number: 27056305
- Kropfinger, Klaus. Beethoven. Verlage Bärenreiter/Metzler, 2001. ISBN 3-7618-1621-9.
- Martin, Russell. Beethoven’s Hair. New York: Broadway Books, 2000. ISBN 978-0-7679-0350-9
- Meredith, William (2005). “The History of Beethoven’s Skull Fragments”. The Beethoven Journal 20: 3–46.
- Morris, Edmund. Beethoven: The Universal Composer. New York: Atlas Books / HarperCollins, 2005. ISBN 0-06-075974-7.
- Rosen, Charles. The Classical Style: Haydn, Mozart, Beethoven. (Expanded ed.) New York: W. W. Norton, 1998. ISBN 0-393-04020-8 (hc); ISBN 0-393-31712-9 (pb).
- Solomon, Maynard. Late Beethoven: Music, Thought, Imagination. Berkeley: University of California Press, 2003. ISBN 0-520-23746-3.
- Thayer, A. W., rev and ed. Elliot Forbes. Thayer’s Life of Beethoven. (2 vols.) Princeton: Princeton University Press. ISBN 0-691-09103-X
- Sullivan, J. W. N., Beethoven: His Spiritual Development New York: Alfred A. Knopf, 1927
Liên kết ngoài
Thể loại:
Nguyễn Hiến Lê
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Hiến Lê (1912–1984) là một nhà văn, dịch giả, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập, với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký, gương danh nhân, chính trị, kinh tế,…
Cuộc đời
Trong hồi ký của mình, Nguyễn Hiến Lê viết:
- “…Tôi sinh ngày 20 tháng 11 ta, giờ Dậu, năm Tân Hợi (nhằm ngày 8 tháng 1 năm 1912). Đổi ra bát tự để lấy lá số Tử Bình hay Hà Lạc thì tôi sinh năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quý Mùi, giờ Tân Dậu“[1].
Nguyễn Hiến Lê quê ở làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội). Xuất thân từ một gia đình nhà Nho, ông học tại Hà Nội, trước ở trường Yên Phụ, sau lên trường Bưởi.
Năm 1934, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính Hà Nội rồi vào làm việc tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ, bắt đầu quãng đời nửa thế kỷ gắn bó với Nam bộ, gắn bó với Hòn ngọc Viễn Đông.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông thôi làm ở sở, đi dạy học ở Long Xuyên. Năm 1952 chuyển lên Sài Gòn mở nhà xuất bản và biên dịch sách, sáng tác, viết báo.
Những năm trước 1975 và cả trong thời gian sau này, Nguyễn Hiến Lê luôn là một cây bút có tiếng, viết miệt mài và là một nhân cách lớn.
Trong đời cầm bút của mình, đến trước khi mất, ông đã xuất bản được hơn một trăm bộ sách, về nhiều lĩnh vực: văn học, ngôn ngữ học, triết học, tiểu luận phê bình, giáo dục, chính trị, kinh tế, gương danh nhân, du kí, dịch tiểu thuyết, học làm người… Tính ra, số bộ sách của ông được xuất bản gần gấp 1,5 lần số tuổi của ông và tính từ năm ông bắt đầu có sách in (đầu thập niên 1950), trung bình mỗi năm ông hoàn thành ba bộ sách với 800 trang bản thảo có giá trị gửi tới người đọc.
Trong một số tác phẩm của mình, Nguyễn Hiến Lê đề bút danh Lộc Đình. Ông kể: “gần ngõ Phất Lộc có một cái đình không biết thờ vị thần nào mà kiến trúc rất đơn sơ. Hai cánh cửa gỗ luôn đóng kín, trên mái cổng tam quan có đắp một bầu rượu khá lớn nằm giữa hai con rồng uốn khúc châu đầu vào. Thuở bé, tôi được theo bà ngoại vào đình mấy lần, tôi thấy bên trong là một khoảng sân rộng vắng ngắt. Tuy vậy, mà quang cảnh lạnh lẽo trầm mặc thâm u của ngôi đình bỗng nhiên len sâu trong tâm tư tôi những khi ngồi học trong lớp, hoặc những khi tôi đến chơi nơi nào đông vui là tôi lại chạnh nghĩ đến ngôi đình, nhớ đến bà ngoại tôi. Nhất là sau ngày cha tôi và bà ngoại tôi vĩnh viễn ra đi trong cái ngõ hẹp tối tăm ấy…” và “Bút danh Lộc Đình tôi dùng ký dưới một bài văn ngắn từ hồi trẻ… Lộc là ngõ Phất Lộc, còn Đình là cái đình ấy.”
Năm 1980 ông về lại Long Xuyên. Cùng năm ông bắt đầu viết Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, đến tháng 9 năm 1980 thì hoàn thành. Đồng thời ông tách những đoạn nói về văn nghiệp ra riêng, sửa chữa, bổ sung và biên tập lại thành cuốn sách Đời viết văn của tôi. Tác phẩm này được sửa chữa xong vào năm 1981, sau đó sửa chữa thêm và hoàn chỉnh vào năm 1983.[2]
Ông lâm bệnh và mất lúc 8 giờ 50 phút[3] ngày 22 tháng 12 năm 1984 tại Bệnh viện An Bình, Chợ Lớn,[4] Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 73 tuổi. Linh cữu của ông được hỏa thiêu vào ngày 24 tháng 12 năm 1984 tại đài thiêu Thủ Đức.
Việc hỏa táng và làm tang lễ, ma chay đơn giản là ý nguyện của Nguyễn Hiến Lê lúc sinh thời[5]. Trong một bức thư gửi nhà thơ Bàng Bá Lân đề ngày 18 tháng 7 năm 1981 ông từng viết:
“ |
Thời xưa mong giữ được mộ 100 năm, thời nay tôi sợ không được vài chục năm. Cho nên tôi tính chết thì hỏa táng, đỡ thắc mắc cho con cháu ở xa. Và cúng giỗ, tôi cũng bảo dẹp bớt đi ! Không ngờ cái tục lệ thiêng liêng mấy nghìn năm của mình bây giờ chỉ trong có mấy năm mà thay đổi hẳn. Ngay cả tâm trạng của mình cũng thay đổi nữa ! |
” |
|
Sau khi hỏa thiêu, di cốt của ông được đem về chôn cất trong khuôn viên nhà bà Nguyễn Thị Liệp (người vợ thứ hai của ông) ở thành phố Long Xuyên. Năm Kỷ Mão (1999), bà Liệp tạ thế và được an táng trong khuôn viên chùa Phước Ân ở Rạch Cai Bường (thuộc xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp), thì tro cốt của ông cũng được đặt bên trên phần mộ của bà.[7]
Một vài “tự bạch” về nhân sinh quan của ông
- Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ HỌC và VIẾT. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau gần suốt đời, tôi VIẾT ĐỂ HỌC và HỌC ĐỂ VIẾT – “Lời mở đầu” của tác phẩm “Đời viết văn của tôi”.
Trong hồi ký của mình Nguyễn Hiến Lê cũng đã viết lại nhân sinh quan như sau:[8]
- Đời sống tự nó vô ý nghĩa, trừ ý nghĩa truyền chủng, nhưng mình phải tạo cho nó một ý nghĩa. Từ hồi ăn lông ở lỗ đến nay, nhân loại đã tiến về nhiều phương diện. Chúng ta được hưởng công lao, di sản của biết bao thế hệ thì phải duy trì di sản đó và cải thiện nó tùy khả năng mỗi người.
- Chúng ta làm điều phải vì tin nó là điều phải chứ không phải vì ý muốn của Thượng đế hay một vị thần linh nào, cũng không phải vì mong chết rồi được lên Niết bàn hay Thiên đàng.
- Quan niệm thiện ác thay đổi tùy nơi, tùy thời. Cái gì ích lợi cho một xã hội vào một thời nào đó thì được xã hội đó cho là thiện, cũng cái đó qua thời khác không còn ích lợi nữa mà hóa ra có hại thì bị coi là ác. Ví dụ đạo tòng phu, tòng tử của phụ nữ có lợi cho gia đình, xã hội thời nông nghiệp; tới thời kỹ nghệ không còn lợi cho gia đình, xã hội nên mất giá trị. Khi sản xuất được ít, đức tiết kiệm được đề cao; ngày nay ở Âu Mỹ, sản xuất vật dụng thừa thãi quá, nên sự phung phí gần thành một bổn phận đối với xã hội. Tuy nhiên vẫn có một số giá trị vĩnh cửu, từ hồi loài người bắt đầu văn minh, dân tộc nào cũng trọng, như đức nhân, khoan hồng, công bằng, tự do, tự chủ,…
- Đạo nào cũng phải hợp tình, hợp lý (bất viễn nhân) thì mới gọi là đạo được. Tôi không tin rằng hết thảy loài người chỉ thấy đời toàn là khổ thôi; cũng không tin rằng hết thảy loài người thích sống tập thể, không có của riêng.
- Đạo Khổng thực tế nhất, hợp tình hợp lý nhất, đầy đủ nhất, xét cả về việc tu thân, trị gia, trị quốc. Vậy mà tới nay lý tưởng của ông, nhân loại vẫn chưa theo được. Về tu thân, ba đức nhân, trí, dũng, luyện được đủ tình cảm, trí tuệ và nghị lực của con người.
- Nên trọng dư luận nhưng cũng không nên nhắm mắt theo dư luận. Biết đắc nhân tâm, nhưng cũng có lúc phải tỏ nỗi bất bình của mình mà không sợ thất nhân tâm.
- Mỗi người đã phải đóng một vai trò trong xã hội thì tôi lựa vai trò thư sinh. Sống trong một gia đình êm ấm giữa sách và hoa, được lòng quý mến, tin cậy của một số bạn và độc giả, tôi cho là sướng hơn làm một chính khách mà được hàng vạn người hoan hô, mà còn có phần giúp ích cho xã hội được nhiều hơn bạn chính khách nữa. Nhưng làm nhà văn thì phải độc lập, không nhận một chức tước gì của chính quyền.
- Ghi được một vẻ đẹp của thiên nhiên, của tâm hồn, tả được một nỗi khổ của con người khiến cho đời sau cảm động, bấy nhiêu cũng đủ mang danh nghệ sĩ rồi.
- Văn thơ phải tự nhiên, cảm động, có tư tưởng thì mới hay. Ở Trung Hoa, thơ Lý Bạch, văn Tô Đông Pha hay nhất. Ở nước ta, thơ Nguyễn Du tự nhiên, bình dị mà bài nào cũng có giọng buồn man mác.
- Tôi khuyên con cháu đừng làm chính trị, nhưng nếu làm thì luôn luôn phải đứng về phía nhân dân.
- Một xã hội văn minh thì nhà cầm quyền không đàn áp đối lập, cùng lắm chỉ có thể ngăn cản họ để họ đừng gây rối thôi; tuyệt nhiên không được tra tấn họ. Phải tuyệt đối tôn trọng chính kiến của một người.
- Một xã hội mà nghề cầm bút, nghề luật sư không phải là nghề tự do thì không gọi là xã hội tự do được.
- Khi nghèo thì phải tận lực chiến đấu với cảnh nghèo vì phải đủ ăn mới giữ được sự độc lập và tư cách của mình. Nhưng khi đã đủ ăn rồi thì đừng nên làm giàu, phải để thì giờ làm những việc hữu ích mà không vì danh và lợi. Giá trị của ta ở chỗ làm được nhiều việc như vậy hay không.
- Chỉ nên hưởng cái phần xứng đáng với tài đức của mình thôi. Nếu tài đức tầm thường mà được phú quý hoặc được nhiều người ngưỡng mộ thì sẽ mang họa vào thân.
- Hôn nhân bao giờ cũng là một sự may rủi. Dù sáng suốt và chịu tốn công thì cũng không chắc gì kiếm được người hợp ý mình; phải chung sống năm ba năm mới rõ được tính tình của nhau. Từ xưa tới nay tôi thấy cuộc hôn nhân của ông bà Curie là đẹp nhất, thành công nhất cho cả cá nhân ông bà lẫn xã hội. Hiện nay ở Mỹ có phong trang kết hôn thử, tôi cho rằng chưa chắc đã có lợi cho cá nhân mà có thể gây nhiều xáo trộn cho xã hội.
- Có những hoa hữu sắc vô hương mà ai cũng quý như hoa hải đường, hoa đào; nhưng đàn bà nếu chỉ có sắc đẹp thôi, mà không được một nét gì thì là hạng rất tầm thường. Chơi hoa tôi thích nhất loại cây cao; có bóng mát, dễ trồng và có hương quanh năm như ngọc lan, hoàng lan. Ở đâu tôi cũng trồng hai loại đó.
- Rất ít khi con người rút được kinh nghiệm của người trước. Ai cũng phải tự rút kinh nghiệm của mình rồi mới khôn, vì vậy mà thường vấp té. Nhưng phải như vậy thì loài người mới tiến được.
- Cơ hồ không thay đổi được bản tính con người: người nóng nảy thì tới già vẫn nóng nảy, người nhu nhược thì tới già vẫn nhu nhược. Nhưng giáo dục vẫn có ích. Không nên cho trẻ sung sướng quá. Phải tập cho chúng có quy củ, kỷ luật, biết tự chủ và hiểu rằng ở đời có những việc mình không thích làm nhưng vẫn phải làm; và làm thì phải làm ngay, làm đàng hoàng, làm cho xong.
- Thay đổi bản tính con người như Mặc Tử, như Karl Marx muốn là chuyện không dễ một sớm một chiều. Thế giới còn những nước nhược tiểu nhiều tài nguyên thì còn bọn thực dân họ chỉ thay đổi chính sách thôi. Thực dân nào cũng vậy. Khi họ khai thác hết trên mặt đất, trong lòng đất thì họ sẽ khai thác biển, đáy biển, Họ còn sống lâu. Tuy nhiên cũng phải nhận rằng sự bóc lột trong một nước tân tiến thời nay đã giảm nhiều, thì sau này sự bóc lột các dân tộc nhược tiểu cũng sẽ giảm đi lần lần.
- Xã hội bao giờ cũng có người tốt và kẻ xấu. Như Kinh Dịch nói, lúc thì âm (xấu) thắng, lúc thì dương (tốt) thắng; mà việc đời sau khi giải quyết xong việc này thì lại sinh ra việc khác liền; sau quẻ Ký tế (đã xong) tiếp ngay quẻ Vị tế (chưa xong). Mình cứ làm hết sức mình thôi, còn thì để lại cho các thế hệ sau.
- Hồi trẻ, quan niệm của tôi về hạnh phúc là được tự do, độc lập, làm một công việc hữu ích mà mình thích, gia đình êm ấm, con cái học được, phong lưu một chút chứ đừng giàu quá. Nhưng hồi năm mươi tuổi tôi thấy bấy nhiêu chưa đủ, cần thêm điều kiện này nữa: sống trong một xã hội lành mạnh, ổn định và tương đối thịnh vượng.
Tranh cãi
Tuy sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa nhưng Nguyễn hiến Lê trước 1975 rất có cảm tình với Hồ Chí Minh và cộng sản, Nguyễn Hiến Lê không giấu diếm điều này, và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không bắt ông vì mỗi cái tội thích hay không thích Cộng sản trong đầu óc của ông ấy. Sau 30-04-1975, Nguyễn Hiến Lê viết:
“ |
Người ta nhận định sai về tình trạng miền Nam. Trước ngày 30-4-75, miền Nam rất chia rẽ: nhiều giáo phái, đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống, kĩ thuật, nghệ thuật, văn hoá; nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc…; cả về đạo đức nữa: vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ, ít gian tham (tôi nói số đông), ít chịu làm cái việc bỉ ổi là tố cáo người hàng xóm [Một thím làm tổ phó lo về đời sống, được công an phường gọi đi học tập. Mới hết buổi đầu, thấy công an chỉ dạy cách dò xét, tố cáo đồng bào (ăn uống ra sao, chỉ trích chính phủ không, khách khứa là hạng người nào…), thím ta xin thôi liền, về nói với bạn: “Tôi không làm công việc thất đức đó được”. Lớp học đó bỏ luôn] chứ đừng nói người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi là nguỵ hết, nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau: cùng là nguỵ với nhau mà ! |
” |
— Nguyễn Hiến Lê
|
Dù tôi khó chịu với cái quan điểm thiên cộng của ông trước kia, nhưng tôi vẩn phục ông ở cái chổ dám nói thật, viết thẳng ” phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất ”
Một số bài viết cho rằng trong một số tác phẩm của mình Nguyễn Hiến Lê đã không trích dẫn đầy đủ nguồn gốc của những tài liệu tham khảo và cố tình làm sai lệch góc nhìn của độc giả về sự kiện.
- Trong bộ Lịch sử Thế giới, Nguyễn Hiến Lê đã viết không đầy đủ và chính xác về cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha. Nguyễn Hiến Lê đã gọi hai phe Cộng Hòa và Quốc gia là phe Phát xít và phe Cộng sản, đồng thời ông cũng gọi gọi tướng Franco là nhà độc tài mà không có dẫn chứng cụ thể nào.[9]. Đồng thời ông cũng không trích dẫn đầy đủ về các tài liệu liên quan đến Giáo hoàng thời Trung Cổ.
- Trong quyển Lịch sử văn minh Trung Hoa, ông cũng đã thể hiện sự cẩu thả trong việc dịch các bài thơ [10].
Tác phẩm
Phần trên ngôi tháp nhỏ này là nơi lưu giữ di cốt của học giả Nguyễn Hiến Lê.
Văn học – Tiểu thuyết
- Hương sắc trong vườn văn (2 quyển) – 1962
- Đại cương văn học sử Trung Quốc (3 quyển) – 1955
- Cổ văn Trung Quốc – 1966
- Chiến Quốc sách (viết chung với Giản Chi) – 1968
- Sử Ký Tư Mã Thiên (viết chung với Giản Chi) – 1970
- Tô Đông Pha – 1970
- Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa (dịch) – 1970
- Kiếp người (dịch Somerset Maugham) – 1962
- Mưa (tuyển dịch nhiều tác giả) – 1969
- Chiến tranh và hoà bình (dịch Lev Nikolayevich Tolstoy) – 1968
- Khóc lên đi ôi quê hương yêu dấu (dịch Alan Paton) 1969
- Quê hương tan rã (dịch C. Acheba) – 1970
- Cầu sông Drina (dịch I. Andritch) – 1972
- Bí mật dầu lửa (dịch Gaillard) – 1968
- Con đường thiên lý – (Xuất bản 1990)
- Mùa hè vắng bóng chim (dịch Hansuyn)
- Những quần đảo thần tiên (dịch Somerset Maugham) – (Xuất bản 2002)
- Kinh Dịch
Triết học
- Nho giáo một triết lý chính trị – 1958
- Đại cương triết học Trung Quốc (viết chung với Giản Chi) – 1965
- Nhà giáo họ Khổng – 1972
- Liệt tử và Dương tử – 1972
- Một lương tâm nổi loạn – 1970
- Thế giới ngày mai và tương lai nhân loại – 1971
- Mạnh Tử – 1975
- Trang Tử – (Xuất bản 1994)
- Hàn Phi Tử – (Xuất bản 1994)
- Tuân Tử – (Xuất bản 1994)
- Mặc học – (Xuất bản 1995)
- Lão Tử – (Xuất bản 1994)
- Luận ngữ – (Xuất bản 1995)
- Khổng Tử – (Xuất bản 1992)
- Kinh Dịch, đạo của người quân tử – (Xuất bản 1990)
Lịch sử
- Lịch sử thế giới (viết với Thiên Giang) – 1955
- Đông Kinh Nghĩa Thục – 1956
- Bài học Israel – 1968
- Bán đảo Ả Rập – 1969
- Lịch sử văn minh Ấn Độ (dịch Will Durant) – 1971
- Bài học lịch sử (dịch Will Durant) – 1972
- Nguồn gốc văn minh (dịch Will Durant) – 1974
- Văn minh Ả Rập (dịch Will Durant) – 1975
- Lịch sử văn minh Trung Quốc (dịch Will Durant) – (Xuất bản 1997)
- Sử Trung Quốc (3 tập) 1982
Giáo dục – giáo khoa
- Thế hệ ngày mai – 1953
- Thời mới dạy con theo lối mới – 1958
- Tìm hiểu con chúng ta – 1966
- Săn sóc sự học của con em – 1954
- Tự học để thành công – 1954
- 33 câu chuyện với các bà mẹ – 1971
- Thế giới bí mật của trẻ em – 1972
- Lời khuyên thanh niên – 1967
- Kim chỉ nam của học sinh – 1951
- Bí quyết thi đậu – 1956
- Để hiểu văn phạm – 1952
- Luyện văn I (1953), II & III (1957)
- Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam (viết với T. V. Chình) – 1963
- Tôi tập viết tiếng Việt – 1990
- Muốn giỏi toán hình học phẳng – 1956
- Muốn giỏi toán hình học không gian – 1959
- Muốn giỏi toán đại số – 1958
Chính trị – Kinh tế
- Một niềm tin – 1965
- Xung đột trong đời sống quốc tế – 1962
Gương danh nhân
- Gương danh nhân – 1959
- Gương hi sinh – 1962
- Gương kiên nhẫn – 1964
- Gương chiến đấu – 1966
- Ý chí sắt đá – 1971
- 40 gương thành công – 1968
- Những cuộc đời ngoại hạng – 1969
- 15 gương phụ nữ – 1970
- Einstein – 1971
- Bertrand Russell – 1972
- Đời nghệ sĩ – (Xuất bản 1993)
- Gogol – (Xuất bản 2000)
- Tourgueniev – (Xuất bản 2000)
- Tchekhov – (Xuất bản 2000)
Khảo luận – tùy bút – du ký
- Đế Thiên Đế Thích – 1968
- Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười – 1954
- Nghề viết văn – 1956
- Vấn đề xây dựng văn hoá – 1967
- Chinh phục hạnh phúc (dịch Bertrand Russell) – 1971
- Sống đẹp – 1964
- Thư ngỏ tuổi đôi mươi (dịch André Maurois) – 1968
- Chấp nhận cuộc đời (dịch L. Rinser) – 1971
- Làm con nên nhớ (viết với Đông Hồ) – 1970
- Hoa đào năm trước – 1970
- Con đường hoà bình – 1971
- Cháu bà nội tội bà ngoại – 1974
- Ý cao tình đẹp – 1972
- Thư gởi người đàn bà không quen (dịch André Maurois) – 1970
- 10 câu chuyện văn chương – 1975
- Đời viết văn của tôi – (Xuất bản 1996)
- Hồi ký Nguyễn Hiến Lê – (Xuất bản 1992)
- Để tôi đọc lại – (Xuất bản 2001)
Tự luyện – Học làm người
- Tương lai trong tay ta – 1962
- Luyện lý trí – 1965
- Rèn nghị lực – 1956
- Sống 365 ngày một năm – 1968
- Nghệ thuật nói trước công chúng – 1953
- Sống 24 giờ một ngày (dịch Arnold Bennett) – 1955
- Luyện tình cảm (dịch F. Thomas) – 1951
- Luyện tinh thần (dịch Dorothy Carnegie) – 1957
- Đắc nhân tâm (dịch Dale Carnegie) – 1951
- Quẳng gánh lo đi và vui sống (dịch Dale Carnegie) – 1955
- Giúp chồng thành công (dịch Dorothy Carnegie) – 1956
- Bảy bước đến thành công (dịch G. Byron) – 1952
- Cách xử thế của người nay (dịch Ingram) – 1965
- Xây dựng hạnh phúc (dịch Aldous Huxley) – 1966
- Sống đời sống mới (dịch Powers) – 1965
- Thẳng tiến trên đường đời (dịch Lurton) – 1967
- Trút nỗi sợ đi (dịch Coleman) – 1969
- Con đường lập thân (dịch Ennever) – 1969
- Sống theo sở thích (dịch Steinckrohn) – 1971
- Giữ tình yêu của chồng (dịch Kaufmann) – 1971
- Tổ chức gia đình – 1953
Các bài đăng trên tạp chí
242 bài trên tạp chí Bách Khoa, 50 bài trên các tạp chí Mai, Tin Văn, Văn, Giáo Dục Phổ Thông, Giữ Thơm Quê Mẹ. Ngoài ra ông còn viết lời giới thiệu cho 23 quyển sách.
Chú thích
- ^ Sách Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, NXb Văn học, 1993, tr. 16.
- ^ Châu Hải Kỳ, trang 361-362
- ^ Châu Hải Kỳ, trang 412
- ^ Châu Hải Kỳ, trang 408
- ^ Châu Hải Kỳ, trang 414
- ^ Châu Hải Kỳ, trang 408.
- ^ Tìm mộ cụ Nguyễn Hiến Lê
- ^ Nguyễn Hiến Lê, trang 730-734
- ^ [1]
- ^ [2]
Tài liệu tham khảo
- Nguyễn Hiến Lê (2006). Hồi ký Nguyễn Hiến Lê. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Văn học.
- Châu Hải Kỳ (2007). Nguyễn Hiến Lê – Cuộc đời & Tác phẩm. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Văn học.
Liên kết ngoài
Thể loại:
Bài viết mới trên Tình yêu cuộc sống