CNM365Chào ngày mới 26 tháng 3. Mây lành Phổ Đà Sơn; Cao Biền trong sử Việt; Giấc mơ lành yêu thương; Nhà tôi giấc mơ xanh; Ngày 26 tháng 3 ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (Việt Nam) (1931). Ngày 26 tháng 3 Quốc khánh Bangladesh (1971) Thủ đô Dhaka, Bangladesh (hình). Cộng hoà Nhân dân Bangladesh là một quốc gia ở vùng Nam Á giáp Ấn Độ ở phía tây, bắc, và đông, giáp Myanma ở phía cực đông nam và Vịnh Bengal ở phía nam. Bangladesh có diện tích gần 144.000 km² (đứng thứ 94 so Việt Nam diện tích 331.699 km² phần đất liền hạng 66). Dân số hiện tại của Bangladesh là 167.612.353 người vào ngày 25/03/2019 một trong những nước mật độ dân số cao nhất thế giới 1.288 người/ km2. Bangladesh ngôn ngữ chính là tiếng Bengal, sắc tộc 98% người Bengal 2% dân tộc thiểu số, là quốc gia có cộng đồng Hồi giáo lớn thứ ba thế giới với tôn giáo chính 88% Hồi giáo; 5,5% Ấn Độ giáo; 0,6% Phật giáo; 0,2 % Cơ Đốc giáo). GDP (danh nghĩa) ước lượng năm 2017 bình quân đầu người là 1.524 USD[5](hạng 148 so Việt Nam 2,553 USD[5] năm 2018 (hạng 129). Ngày 26 tháng 3 năm 1976 là ngày mất Lâm Ngữ Đường Lin Yutang, nhà văn nổi tiếng người Trung Quốc (sinh năm 1895). Ngày 26 tháng 3 năm 1941, ngày sinh Richard Dawkins, nhà tập tính học và sinh học tiến hóa nổi tiếng người Anh. Bài viết chọn lọc ngày 26 tháng 3: Mây lành Phổ Đà Sơn; Cao Biền trong sử Việt; Giấc mơ lành yêu thương; Nhà tôi giấc mơ xanh; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/cate…/chao-ngay-moi-26-thang-3/
MÂY LÀNH PHỔ ĐÀ SƠN Hoàng Kimnhớ lời Phật dạy
“Bụng lớn năng dung, dung các chuyện khó dung thiên hạ Miệng cười hỷ xả, xả những điều khó xả thế gian. Một chút giận, hai chút hờn, lận đận cả đời rồi cũng khổ Một điều vui, hai điều xả, thung dung tự tại thế mà vui”
BÍ MẬT CAO BIỀN TRONG SỬ VIỆT Cao Vương huyền thoại và sự thật Hoàng Kim
Vạn Xuân thế nước ngàn năm Cao Vương đã chọn nước Nam tìm về. Địa linh nhân kiệt chở che An Hải, Vạn Phúc ước thế tròn duyên (1).
Lã Thị Nga vợ Cao Biền Tổ sư nghề lụa Hà Đông đền thờ Dân làng Vạn Phúc đến giờ Đức thương công lớn, phước nhờ ơn thiêng (2)
“Đầm Môn xóm Cát Cao Biền có đôi chim Nhạn đang chuyền cành Mai” “Ngó ra thấy mả Cao Biền. Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên Chóp Chài”(3)
Lão sư danh tiếng truyền đời Trường Sơn sinh lộ biển trời Mekong Hà Nội kết nối Hải Phòng Ka Long Yên Tử trong lòng Việt Nam (4)
‘Đá Dựng’ ‘miếu cổ Cao Quân’ ‘Giang sơn bến Lội’ ‘Hoành Linh Long Xà’ ‘Tử Sinh’ ‘Cao Cát Mạc Sơn’ ‘Tầm Long’ ‘Địa Lý Toàn Thư’ lưu truyền (5).
THĂM MẢ CAO BIỀN ĐẤT PHÚ YÊN Hoàng Kim
Cao Vương1 tinh đẩu trời xứ Bắc Lão sư 2 An Hải đất phương Nam Sống gửi chốn xưa lưu thiên cổ 3 Thác về đất mới đón Vạn Xuân4 Vùng cao tụ khí bình an tới 5 Biển thẳm hoàn lưu chính khí về 6 Danh tướng Lão sư 2 Thầy địa lý 7 Nghe tiếng nghìn năm ta xuống xe 8
Ghi chú: (1) Thiên đô chiếu tức Chiếu dời đô do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội). (trích) Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào? Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993). Nguyên văn: 况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。万物極繁阜之丰。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要会。爲万世帝王之上都。朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。
(2) Mả Cao Biền ở Đồng Môn, xóm Cát, thôn 5 xã An Hải, Tuy An, Phú Yên. Cao Biền thời Đường được phong Cao Vương , tĩnh Hải Quân
(3) Lưu thiên cổ: Cựu Đường thư, Tân Đường thư Tư trị Thông giám, là ba bộ sách chính sử của Trung Quốc lưu danh thiên cổ Cao Biền
(4) Đón Vạn Xuân: Vạn cổ thử giang san. Cao Biền buông kiếm tìm về An Hải, sống và chết làm dân Việt Nam. Nhà Đường sụp đổ., Chu Ôn lập nhà Hậu Lương. Khúc Thừa Dụ nhân thế lập nước Vạn Xuân. Việt Nam thời độc lập tự chủ.
(5) Bình an tới: Ngôi đất Cao Biền chọn là làng An Hải, đầm Ô Long Phú Yên. Thời Cao Vương, ông đã lập tuyến phòng thủ từ Ô Long Vũng Rô biển Phú Yên theo sinh lộ Đắk Lắk nối Stung Treng tới hợp lưu sông Me kong (xem bản đồ hình 1 thời hậu Đường) kết nối sinh lộ Bắc Nam dọc Trường Sơn. Mặt Bắc ông đã lập tuyến phòng thủ chắc tiếp ứng nhanh đắp thành Đại La kết nối Vân Đồn của Tĩnh Hải quân, và Lĩnh Nam Đông đạo (nối Hà Nội với Hải Phòng và Quảng Châu ngày nay) nối thủy lộ sông Hồng sông Ka Long sông Bắc Luân.
(6) Chính khí về : chùa Thanh Lương có tượng Phật Quan Âm từ biển dạt vào
(7) Danh tướng đại sư thầy địa lý là ba đánh giá chính về Cao Biền
(8) Nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe “Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ” “bia tàn chữ mất vùi gai góc/ nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe”. Cao Biền dòng dõi tướng môn, quản lý Thần Sách quân thân tín bên cạnh vua. Cao Biền là danh tướng, đạo sư, thầy địa lý công trình sư và nhà tiên tri thời hậu Đường qua đúc kết bởi ba danh mục chính sử Trung Quốc là Cựu Đường Thư, Tân Đường Thư, Tư Trị Thông Giám của ba Tể tướng sử quan và danh sĩ tinh hoa Trung Quốc lần lượt là Lưu Hu, Âu Dương Tu ,Tư Mã Quang. Cao Biền là con người có thật trong lịch sử, giỏi như Gia Cát Vũ Hầu Khổng Minh thời Hán mạt Tam quốc trước đó. Sự khác biệt là Khổng Minh cúc cung tận tụy đến chết mới thôi, còn Cao Biền thì gặp lúc mạt Đường, nhiều kẻ mưu mô, lũ phương sĩ, hoạn quan, quyền thần và kẻ hám lợi cầu danh khắp mọi nơi, với sự kiệt sức của một triều đại đã khủng hoảng đến cực điểm Đặc biệt, Cao Biền bị bó tay khi vua kém tài đức, buông bỏ chính sự, mê muội đồng bóng, tin theo lời dèm pha và mưu kế nghịch tặc tìm cách mượn tay giặc giết lần giết mòn thân tín của ông vì sợ Cao Biền tiếm quyền. Nguy hại thay vua giỏi bị hoạn quan đầu độc chết; vua kém, nhỏ tuổi, bất tài, dễ khiến thì bị đẩy lên ngôi. Sự bi thảm của Cao Biền là ở chỗ đó nhưng sự kiệt xuất của ông là di sản ngàn năm còn mãi với thời gian.“Cao Biền cuộc đời và thời thế” đối chiếu sử Việt tại Đại Việt sử ký toàn thư (1675), Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký Gia phả Trạng Trình của Vũ Khâm Lân (1743) Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ (1775), Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim (1919) với nhiều dẫn liệu về Cao Biền đặc biệt trong Thiên đô chiếu của Lý Thái Tổ năm 1010, Thiền Uyển Tập Anh (Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga dịch từ bản chữ Hán được khắc in năm 1715. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990) cùng với các huyền tích, huyền thoại và sự đánh giá của các sử thần Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên. Đồng thời tập hợp gạn đục khơi trong các giai thoại ‘Lẩy bẫy như Cao Biền dậy non’ ‘Long mạch đất Việt và Cao Biền’ để có được thông tin Chuyện Cao Biền tích cũ viết lại. Chân dung Cao Biền khá trùng khớp với nhận định trên. Ông là một danh tướng, đạo sư, thầy địa lý công trình sư và nhà tiên tri thời hậu Đường. Ông là một danh tướng khi đánh bại các cuộc xâm nhập của Nam Chiếu, giữ yên cương vực Tĩnh Hải (trong đó có phần đất của Việt Nam ngày nay). Ông cũng cai trị có phép tắc khi nhậm chức Hữu kim ngô đại tướng quân (868), kiểm hiệu công bộ thượng thư (870), Thiên Bình tiết độ sứ (873), Tây Xuyên tiết độ sứ (874), Thành Đô doãn (875) Kinh Nam tiết độ sứ (878), Trấn Hải tiết độ sứ (879), Hoài Nam tiết độ sứ (880) được dân chúng ngợi ca, nhưng ông đã thất bại trong việc đẩy lui cuộc nổi dậy của Hoàng Sào, ông bị coi là phản thần tạo phản ở Hoài Nam quân, bị Tần Ngạn mưu hại, (nhưng sử Việt và tâm thức dân gian thì cho rằng vợ chồng Cao Biền đều chết ở đất phương Nam , vợ Cao Biền là bà Lã Thị Nga tổ sư nghề dệt lụa Hà Đông đền thờ tại làng Vạn Phúc, Hà Đông ngày nay, Cao Biền thì thành công sau kế “kim thuyền thoát xác” để Cao Biền sau đó về chết ở Đầm Môn xóm cát, thôn 5, An Hải, Tuy An, Phú Yên .Ông bà Cao Biền sống và chết ở đất Việt.Viếng mộ Cao Biền đất Phú Yên là thăm và chiêu tuyết một danh tướng, đạo sư, thầy địa lý công trình sư và nhà tiên tri thời hậu Đường mà sự nghiệp của ông dẫu khen hay chê, dẫu bia đời bia miệng công tội ngàn năm thì dấu ấn và bài học lịch sử vẫn đọng mãi với thời gian. Bài học đặc biệt thấm thía nhất là cuối đời ông đã rũ bỏ kẻ làm vua không xứng để biết tìm về với dân và giá trị cốt lõi. Tuy ông về nơi cát đá nhưng dấu ấn của ông thì không thể xóa nhòa. Người ấy nay đã trãi trên ngàn năm về vùng bình an sông núi hữu tình ở vùng an hải tên xưa và nay làm bạn với đất phú trời yên dân dân lành . Kẻ sĩ trong thiên hạ quý người thân thương, tri âm tri kỷ, trọng hiền tài, thầy quý bạn hiền, việc làm và lời nói luôn giữ gìn chí thiện, minh triết, thật không thẹn với lòng mình. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bi-mat-cao-bien-trong-su-viet/
CAO VƯƠNG KỲ TÀI ĐẤT VIẾT Lược khảo và diễn nôm Hoàng Kim
Cao Biền thời mạt Đường là ‘tướng giặc’ Chịu mệnh vua đánh Nam Chiếu cứu An Nam. Ông là Kiêu Vệ Tướng Quân nhân chiếu Vua ban, Dẫn Thần Sách quân xuống Quảng Châu điều binh cứu Việt.
Chuyện giống “Thủy Hử” sau này với Lư Tuấn Nghĩa, Kẻ gian ác giám quân là Lý Duy Chu Ghìm vạn quân không chịu phát binh Mưu hiểm mượn tay địch quân để giết Cao Biền.
Ông thắng nhờ tài thao lược với năm nghìn quân Ngược sông Hồng đánh úp thắng năm vạn giặc Cao Biền xây La Thành cứu 40 vạn dân và chặn địch. La Thành nối Vân Đồn phòng thủ chắc tiếp viện nhanh
Ông nối sinh lộ Bắc Nam dọc dãy Trường Sơn Nối Ô Long Vũng Rô với Stung Treng Mekong Lập phòng tuyến Bắc Nam Đông Tây Phá thế hợp tung Nam Chiếu và Lâm Ấp
Nực cười dựng chuyện ông trấn yểm La Thành Trái ngược “Chiếu dời đô” của vua Lý Thái Tổ “Hoàng Thành Thăng Long công lớn Cao Vương” Di sản Vạn Xuân, Thăng Long ngàn năm còn đó
Long Mạch non sông Việt Nam năm thế núi mạch sông “Vạn cổ thử giang san” bài học địa chính trị muôn đời Cao Biền trên thông thiên văn, dưới tường địa lý Kỳ tài thời Đường chính sử Tàu Việt đều ghi
Ba tuyến phòng thủ Tịnh Hải Quân Đó là tm nhìn Lão sư sâu sắc. Phòng thủ chắc, tiếp viện nhanh Chiến tranh Pháp Thanh hậu thế rõ ràng
Thơ ông Lê Quý Đôn lưu dấu. Kỳ tài tiếc thay sinh chẳng gặp thời Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh Tùy thời, tùy thế lại tùy nghị
Vua sáng thời Đường bị ngầm hạ độc Vua kém mạt Đường một lũ vô luân Kẻ gian mưu mô hãm hại hiền tài Trương Lân, Chu Bảo, Cao Tầm,… chết thảm
Danh tướng bị triệt rồi Cao Biền biết cây ai? Vợ ông Lã Thị Nga bị bức tử mất xác ở sông Tô đền miếu Vạn Phúc tổ Lụa Hà Đông còn đó Vợ chồng ông sống chết thủy chung với Việt Nam
Mộ Cao Biền ở Đầm Môn An Hải Phú Yên An Hải lời nguyền trời yên biển lặng Thuở vua không ra vua kẻ gian lộng hành Vợ chồng ông thành Dân Việt Nam là bài học lớn.
Chuyện xưa nay soi gương kim cổ. Kỳ tài non sông bền vững âu vàng. Bí mật Cao Biền sử Việt ngàn năm. Hoành Linh Đá Dựng miếu cổ quê tôi
Thế núi mạch sông muôn năm Tổ Quốc. Chúc người nay nhìn sâu vận nước. CẨN TRỌNG giữ gìn minh triết thung dung Lịch sử công bằng VÌ NƯỚC VÌ DÂN.
BÍ MẬT CAO BIỀN TRONG SỬ VIỆT Hoàng Kim
Đầm Môn xóm Cát Cao Biền có đôi chim Nhạn đang chuyền cành Mai. Ngó ra thấy mả Cao Biền. Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên Chóp Chài. Chuyện Cao Biền huyền thoại ngàn năm khi nhìn sâu vào bí ẩn của lịch sử mới thấu hiểu.
Tôi làm lúa siêu xanh ở Tuy An, Phú Yên trên ba năm. Tại Đầm Môn xóm Cát xã An Hải trên một sườn núi đẹp có mả Cao Biền gối đầu lên núi, nhìn ra biển Đông và bao quát một tầm nhìn thấu Tuy Hòa.
Mả Cao Biền không quá xa chùa Thanh Lương nơi có tượng Phật Quan Âm trở về từ biển, gần kho báu Ghềnh Đá Dĩa, gần Nhà thờ Mằng Lăng nơi lưu giữ ‘phép giảng tám ngày’ của ông Alecxandre de Rhodes người phát minh chữ Tiếng Việt.
Bí mật Cao Biền trong sử Việt góp phần hé lộ và giải mã một bí ẩn lịch sử suốt ngàn năm. Bà Lã Thị Nga vợ Cao Biền là tổ sư nghề dệt lụa Hà Đông đền thờ tại làng Vạn Phúc, Hà Đông ngày nay.
Cao Biền là một danh tướng, đạo sư, thầy địa lý, kiến trúc sư và nhà tiên tri thời Đường mạt, ông có tên tự là Thiên Lý, sinh năm 821, mất ngày 24 tháng 9 năm 887, tước vị cao nhất là Cao Vương Tỉnh Hải quân, Bột Hải quân vương, kiểm giáo thái úy, là thuộc hạ của Đường Tuyên Tông, Đường Ý Tông và Đường Hy Tông, Đường Chiêu Tông là ba vị vua gần cuối cùng của thời hậu Đường, lúc triều Đường chìm trong tình trạng đại loạn, nạn tranh đoạt cát cứ diễn ra khắp nơi, tiêu biểu là loạn Nam Chiếu, loạn Hoàng Sào và sự sụp đổ tất yếu của nhà Đường với sự soán ngôi của Chu Ôn năm 907 lập ra triều đại Hậu Lương, mở ra thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc trong Lịch sử Trung Quốc.
Cao Biền hiện có rất nhiều huyền thoại khắp mọi miền Bắc Trung Nam của Việt Nam và tại các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc. Huyền thoại phổ biến nhất là “Long Mạch đất Việt với Cao Biền”, “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” kèm theo rất nhiều khảo dị. Chuyện Cao Biền tích cũ viết lại là huyền thoại và sự thật ngàn năm về hai vợ chồng Cao Biền vốn là người phương Bắc nhưng đã chọn đất Việt Nam làm quê hương và nơi an nghĩ vạn xuân. Một người là tổ sư nghề lụa Hà Đông, một người là danh tướng, đạo sư, thầy địa lý, nhà tiên tri nay là người dân Việt có mộ ở tại thôn 5 xóm Cát, xã An Hải, huyên Tuy An, tỉnh Phú Yên. Mời bạn ghé đọc và cùng trao đổi bàn luận https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bi-mat-cao-bien-trong-su-viet
Hoàng Kim dịp trước có viết bài “Nha Trang và Yersin” là một vĩ nhân nước ngoài chọn Việt Nam làm quê hương. Nha Trang, biển yến rừng trầm, thiên đường nghỉ dưỡng du lịch biển đảo nổi tiếng Việt Nam cũng là nơi an nghĩ và lưu dấu những cống hiến đặc biệt xuất sắc của nhà bác hoc thiên tài Yersin. Quần thể mộ Yersin ở Suối Dầu và thư viện Yersin ở Viện Pasteur Nha Trang là trường hợp duy nhất Chính phủ Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia cho một người nước ngoài. Tại làng Tân Xương ở Suối Dầu, dân làng thờ Yersin làm thành hoàng. Ngày mỗi ngày, công viên Yersin, Bảo tàng Yersin, mộ Yersin càng có nhiều lượt khách trong nước và quốc tế đến thăm để chiêm nghiệm bài học lớn tình yêu cuộc sống. Alexandre Émile Jean Yersin là nhà bác học lỗi lạc người Pháp gốc Thụy Sĩ. Ông là bác sĩ y khoa, nhà vi khuẩn học, nhà thám hiểm, nhà nông học, nhà chăn nuôi, nhà điểu học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, nghiên cứu khí tượng, nhà văn, nhà dịch thuật, nhà nhân đạo và ân nhân được nhân dân Việt Nam tôn kính. Ông được trao tặng Bắc Đẩu Bội tinh, huân chương cao quý nhất của nước Pháp, Việt Nam long bội tinh, Viện sĩ Viện Hàn Lâm Khoa học, Viện Hàn lâm Y học, Viện Hàn lâm Khoa học các thuộc địa, Hội Bệnh học Hải ngoại, Hội Y học Nhiệt đới, Hội Thiên văn Pháp quốc (xem tiếp...)
Tôi cũng đã có viết bài Ông Alexandre de Rhodes chữ tiếng Việt. Ông Alexandre de Rhodes là người phát minh ra chữ viết tiếng Việt, báu vật vô giá muôn đời của dân tộc Việt Nam. Ông Alexandre de Rhodes là người gốc Do Thái, sinh ngày 15 tháng 3 năm 1591 tại Avignon trong gia đình một nhà buôn tơ lụa, mất ngày 5 tháng 11 năm 1660 tại một nghĩa trang ngoại ô của thành phố Esfahan, Iran. Ông là nhà ngôn ngữ học thông thạo nhiều thứ tiếng nên đã “lần ra, nhận biết, phân biệt và ghi lại bằng ký hiệu thích hợp những âm thanh khác nhau, đôi khi rất gần gũi, vì thế dễ đánh lừa, trong tiếng Việt”. Ông cũng là một trong những linh mục dòng Tên đầu tiên đến Việt Nam truyền đạo công giáo từ năm 1626. Đến nay đã trên 391 năm khai sinh tiếng Việt và sau 72 năm ngày chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập năm 1945 và vận động toàn dân học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc ngữ, sau 42 năm sau ngày Việt Nam thống nhất 1975. Nay có lẽ đã hợp thời để chúng ta gạn đục khơi trong, lưu danh ông Alexandre de Rhodes trên viên tảng đá tưởng nhớ đặt tại công viên Tao Đàn thành phố Hồ Chí Minh và một số nơi khác để tỏ lòng biết ơn chân thành đối với người đã phát minh ra chữ Quốc ngữ.Thế nhưng những uẩn khúc lịch sử đánh giá công tội vẫn chỉ dừng ở việc cụ Võ Văn Kiệt xé rào một đêm đặt tên đường Alexandre de Rhodes mà chưa đủ chứng lý để làm sáng tỏ sự đánh giá công minh công tội qua “Thư ngỏ của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân sau khi bị khủng bố tinh thần vì phản đối vinh danh Đờ Rốt:” xem thêm “Ông Alexandre de Rhodes chữ tiếng Việt” tài liệu dẫn 8 https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ong-alexandre-de-rhodes-chu-tieng-viet/
Tôi hôm nay khi đứng nơi có mả Cao Biền, trên ‘đỉnh núi không còn ghồ ghề’ nghe tiếng gió hàng dương rì rào thổi bản nhạc đồng quê mênh mang ” Khi đỉnh núi không còn ghồ ghề Khi nước sông ngừng chảy Khi thời gian ngừng lại, ngày tháng bất phân. Khi vạn vật trên đất trời hóa thành hư vô …” tôi mới cảm nhận hết sự sâu xa trong bài văn của tiến sĩ Vũ Khâm Lân viết năm 1743 về Trạng Trình “Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký” (Trích Gia phả dòng họ Trạng Trình): “Trình Quốc công Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (còn có tên khác là Nguyễn Văn Đạt) tự Hành Phủ, đạo hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương. Tiên tổ ngày xưa tu nhân, tích đức nhiều, nay không thể khảo cứu được, chỉ biết từ đời cụ tổ được tập phong Thiếu bảo Tư Quận công, cụ bà được phong Chính phu nhân Phạm Thị Trinh Huệ. Nguyên trước các cụ lập gia cư ở nơi có núi sông bao bọc hợp với kiểu đất của Cao Biền, tay phong thủy trứ danh đời Đường.” . Tôi bồi hồi thấu hiểu điều hay của Lê Quý Đôn khi chép lại bài thơ hay của Cao Biền gửi lại:
Mênh mông mây nước sắp về chiều, Khói nội, gà gô khắc khoải kêu. Muôn dặm anh về chầu đế khuyết, Năm thu Nam tiến nhớ tâu triều.
Vân thuỷ thương mang nhật dục thu, Dã yên thâm xứ giá cô sầu. Tri quân vạn lý triều thiên khứ, Vị thuyết chinh nam dĩ ngũ thu.
Nguồn: Lê Quý Đôn toàn tập, tập II: Kiến văn tiểu lục, Thiên chương (Văn thơ, Từ lệnh), Phạm Trọng Điềm phiên dịch và chú thích, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977
Vì sao tôi chọn: “Bí mật Cao Biền trong sử Việt” để tìm hiểu ? Tôi có chuyện ‘Đá Dựng bút thần của Cao Biền’ được nghe kể từ hồi nhỏ. Chuyện rằng Cao Biền có cây bút thần có thể chọc thủng đá và khi vẽ diều và điểm nhãn thi diều có thể trở thành diều thật bay được và Cao Biền đã cưỡi diều bay đi khắp nơi để trấn yểm long mạch Việt. Nhưng duy nhất tại đại cán long Trường Sơn ở Quảng Bình nơi hẹp nhất Việt Nam thì Cao Biền không thể trấn yểm nổi mà phải hi sinh báu vật quý giá nhất đời mình là bút thần để thành lời nguyền địa lý kết nối sinh tử. Nơi bút thần cắm xuống hóa thành hòn đá Dựng trỏ lên trời xanh, và phía dưới chân hòn đá Dựng là mạch nước ngọt vọt lên chảy hoài không dứt… Dấu tích sự thật còn đó và câu chuyện tuổi thơ nghe được ám ảnh suốt đời tôi. Cao Biền xưa tước vị Cao Vương Tỉnh Hải Quân, danh tướng, đạo sư, tuân mệnh vua Đường Ý Tông dẹp loạn Nam Chiếu, vỗ yên và trấn yểm Long Mạch Việt để tĩnh hải vùng biên viễn, cai trị lâu dài đất phương Nam, nhưng sau cùng ông buông đao thành Phật, đã quyết định chọn Việt Nam làm nơi an nghĩ vạn xuân, làm bạn thân thiết với đất và người Việt Nam, khi ông cảm nhận được sự tươi đẹp, hiền tài, thân thiện, yêu thương của đất và người phương Nam, thấu hiểu Phật chuyển pháp luân thông suốt sinh tử vốn Không mà giải thoát sống và chết được rốt ráo, không phải cầu vào đâu. Cao Biền sống và chết tại Việt Nam là bài học lớn tìm trong di sản.
Thiền sư Thích Phổ Tuệ ở chùa Ráng Tổ Đình Viên Minh đã tặng tôi hai cuốn sách quý với dòng đầu phần duyên khởi ứng dụng trong đời sống hiện đại “Việc lớn đời người không gì lớn hơn Sống và Chết, mà vấn đề rất khó giải quyết cũng chỉ có sống chết mà thôi”. Tôi vốn tâm đắc với lời Thầy dạy và luôn ghi lòng: “Việc chính đời người chỉ ít thôi/ Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi/ Phúc hậu suốt đời làm việc thiện/ Di sản muôn năm mãi sáng ngời”. Những danh nhân người nước ngoài gắn bó sống và chết với Việt Nam như Yersin, Cao Biền hoặc như Alexandre de Rhodes, người phát minh ra chữ viết tiếng Việt, báu vật vô giá muôn đời của dân tộc Việt Nam, tôi xin dành một sự ngưỡng mộ và quý mến.
CNM365. Chào ngày mới 26 tháng 3. Mây lành Phổ Đà Sơn; Cao Biền trong sử Việt; Giấc mơ lành yêu thương; Nhà tôi giấc mơ xanh;Ngày 26 tháng 3 ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (Việt Nam) (1931). Ngày 26 tháng 3 Quốc khánh Bangladesh (1971). Gulshan thủ đô Dhaka, Bangladesh (Hình) Cộng hoà Nhân dân Bangladesh là một quốc gia ở vùng Nam Á giáp Ấn Độ ở phía tây, bắc, và đông, giáp Myanma ở phía cực đông nam và Vịnh Bengal ở phía nam. Bangladesh có diện tích gần 144.000 km² (đứng thứ 94 so Việt Nam diện tích 331.699 km² phần đất liền hạng 66). Dân số hiện tại của Bangladesh là 167.612.353 người vào ngày 25/03/2019 một trong những nước mật độ dân số cao nhất thế giới 1.288 người/ km2. Bangladesh ngôn ngữ chính là tiếng Bengal, sắc tộc 98% người Bengal 2% dân tộc thiểu số, là quốc gia có cộng đồng Hồi giáo lớn thứ ba thế giới với tôn giáo chính 88% Hồi giáo; 5,5% Ấn Độ giáo; 0,6% Phật giáo; 0,2 % Cơ Đốc giáo). GDP (danh nghĩa) ước lượng năm 2017 bình quân đầu người là 1.524 USD[5](hạng 148 so Việt Nam 2,553 USD[5] năm 2018 (hạng 129). Ngày 26 tháng 3 năm 1976 là ngày mất Lâm Ngữ Đường Lin Yutang, nhà văn nổi tiếng người Trung Quốc (sinh năm 1895). Ngày 26 tháng 3 năm 1941, ngày sinh Richard Dawkins, nhà tập tính học và sinh học tiến hóa nổi tiếng người Anh. Bài viết chọn lọc ngày 26 tháng 3: Mây lành Phổ Đà Sơn; Cao Biền trong sử Việt; Giấc mơ lành yêu thương; Nhà tôi giấc mơ xanh; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/cate…/chao-ngay-moi-26-thang-3/
nhắm mắt lại đi em để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc trời thanh thản xanh đêm nồng nàn thở ta có nhau trong cuộc đời này nghe hương tinh khôi đọng mật quyến rũ em và khát khao anh mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ một tiếng chuông ngân thon thả đầu ghềnh
nhắm mắt lại đi em hạnh phúc đâu chỉ là đích đến hạnh phúc là con đường trãi nghiệm vỗ về, chờ đợi, nhớ thương
nhắm mắt lại đi em trong giấc mơ của anh có em và rừng thiêng cổ tích có suối nước trong veo như ngọc có vườn trúc và ngôi nhà tranh có một đàn trẻ thơ tung tăng heo gà chó mèo ngựa trâu nhởn nhơ trên đồng cỏ tươi xanh
nhắm mắt lại đi em, tận hưởng thú an lành.
Nhắm mắt lại đi em Giấc ngủ ngoan giấc mơ hạnh phúc Em mãi bên anh, Đồng hành với anh Bài ca yêu thương Bài ca hạnh phúc
Giấc mơ lành yêu thương Ta có nhau trong cuộc đời này. nghe hương tinh khôi đọng mật quyến rũ em và khát khao anh mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ một tiếng chuông ngân thon thả đầu ghềnh
nhắm mắt lại đi em hạnh phúc đâu chỉ là đích đến hạnh phúc là con đường trãi nghiệm vỗ về, chờ đợi, nhớ thương
nhắm mắt lại đi em trong giấc mơ của anh có em và rừng thiêng cổ tích có suối nước trong veo như ngọc có vườn trúc và ngôi nhà tranh có một đàn trẻ thơ tung tăng heo gà chó mèo ngựa trâu nhởn nhơ trên đồng cỏ tươi xanh
nhắm mắt lại đi em, tận hưởng thú an lành
Nhắm mắt lại đi em Giấc mơ cuộc đời giấc mơ hạnh phúc ngôi nhà tâm thức Giấc mơ lành yêu thương
Có cánh cửa khép hờ Có bãi cỏ xanh non. Đất nước cây và hoa Một khu vườn tĩnh lặng. Chim sóc chó mèo gà luôn quấn quýt sớm hôm.
Ban mai ửng nghe chim trời gọi cửa. Hoàng hôn buông trăng gió nhẹ lay màn.
BÍ MẬT CAO BIỀN TRONG SỬ VIỆT Cao Vương huyền thoại và sự thật Hoàng Kim
Vạn Xuân thế nước ngàn năm Cao Vương đã chọn nước Nam tìm về. Địa linh nhân kiệt chở che An Hải, Vạn Phúc ước thế tròn duyên.
“Cái quạt” Nguyễn Bính “Mưa xuân” xin nối đôi vần kể chuyện nước Nam
“Cái quạt mười tám cái nan Anh phất vào đấy muôn vàn nhớ nhung Gió sông, gió núi, gió rừng Anh niệm thần chú thì ngừng lại đây.
Gió Nam Bắc, gió Đông Tây Hãy hầu công chúa thâu ngày, thâu đêm Em ơi công chúa là em Anh là quan trạng đi xem hoa về
Trên giời có vẩy tê tê Đôi bên ước thề duyên hãy tròn duyên Quạt này trạng để làm tin Đêm nay khép mở tình duyên với nàng.” (1)
Lã Thị Nga vợ Cao Biền Tổ sư nghề lụa Hà Đông đền thờ Dân làng Vạn Phúc đến giờ Đức thương công lớn, phước nhờ ơn thiêng (2)
“Đầm Môn xóm Cát Cao Biền có đôi chim Nhạn đang chuyền cành Mai” “Ngó ra thấy mả Cao Biền. Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên Chóp Chài”(3)
‘Đá Dựng’ ‘miếu cổ Cao Quân’ ‘Giang sơn bến Lội’ ‘Hoành Linh Long Xà’ ‘Tử Sinh’ ‘Cao Cát Mạc Sơn’ ‘Tầm Long’ ‘Địa Lý Toàn Thư’ lưu truyền (4).
BÍ MẬT CAO BIỀN TRONG SỬ VIỆT Hoàng Kim
Thời mạt Đường Cao Biền là ‘tướng giặc’ Chịu mệnh vua đánh Nam Chiếu cứu An Nam. Ông là Kiêu Vệ Tướng Quân nhân chiếu Vua ban, Dẫn Ngự lâm quân xuống Quảng Châu điều binh cứu Việt.
Chuyện giống “Thủy Hử” sau này với Lư Tuấn Nghĩa, Kẻ gian ác giám quân Lý Duy Chu Hai vạn tinh binh không chịu phát binh Mưu hiểm mượn tay địch quân để giết Cao Biền. Ông vẫn thắng với 5000 thủy quân nhờ tài thao lược.
Cao Biền xây La Thành là để cứu
40 vạn dân và chặn giặc.
Ông trị thủy sông Tô Lịch là giỏi chuyển mạch sông
Nực cười đời sau dựng chuyện ông trấn yểm La Thành
Trái ngược “Chiếu dời đô” vua Lý Thái Tổ đã khẳng định
“Hoàng Thành Thăng Long công lớn Cao Vương”
Di sản Vạn Xuân, Thăng Long ngàn năm còn đó
Long Mạch non sông Việt Nam năm thế núi mạch sông
‘Vạn cổ thử giang san’
Cao Biền trên thông thiên văn, dưới tường địa lý
Kỳ tài mạt Đường chính sử Tàu Việt đều ghi
Tịnh Hải Quân thông tuyến đường
thủy Bắc Luân
Nối tam giác châu “Quảng Châu – Hà Nội – Hải Phòng”
Đó là tầm nhìn binh gia sâu sắc.
Phòng thủ chắc, tiếp viện nhanh
Chiến tranh Pháp Thanh hậu thế rõ ràng
Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh
Tùy thời, tùy thế lại tùy nghị
Tiếc thay kỳ tài chẳng gặp thời
Thơ ông giải bày Lê Quý Đôn lưu dấu.
Vua giỏi thời mạt Đường bị hoạn quan ngầm hạ độc Vua kém thời mạt Đường bị bọn thuật sĩ kẻ mưu mô bày mưu hãm hại hiền tài Trương Lân, Chu Bảo, Cao Tầm, Lã Thị Nga Hiền tài danh tướng bị giết rồi Cao Biền biết cây ai? Vợ ông Lã Thị Nga làm thành hoàng nghề dâu tằm đền miếu chứng tích ngàn năm còn đó ở Hà Đông Mộ Cao Biền ở Đầm Môn An Hải Phú Yên Vợ chồng ông sống và chết thủy chung ở đất phương Nam Thuở vua không ra vua kẻ gian lộng hành Vợ chồng ông trở thành Dân Việt Nam. Đó là bài học lớn.
Chuyện xưa nay soi gương kim cổ.
Kỳ tài non sông bền vững âu vàng.
Bí mật Cao Biền sử Việt ngàn năm.
Hoành Linh Đá Dựng miếu cổ quê tôi
Thế núi mạch sông muôn năm Tổ Quốc.
Chúc người nay nhìn sâu vận nước.
CẨN TRỌNG giữ gìn minh triết thung dung
Lịch sử công bằng VÌ NƯỚC VÌ DÂN.
(*) BÍ MẬT CAO BIỀN TRONG SỬ VIỆT. Hoàng Kim trò chuyện với Phan LanHoa.
O Hoa nói: “Mả Cao Biền ở Việt Nam là thật, nhưng Cao Biền là một tướng giặc cũng là thật và sử chép rõ ràng ông ta tìm long mạch Việt để yểm cũng là sự thật. Cho nên xét về dã tâm, cũng như giá trị hiện thực của hai công trình “Tiếng Việt” và “long mạch Việt” hoàn toàn khác nhau. Xin đừng đánh đồng ạ !? Đây là những gì o Hoa đọc được trong trời đất nước Nam, mà nhiều người nghiên cứu về ngũ hành, cửu tinh, bát quái cho rằng o Hoa có lý. O Hoa nghĩ, nếu mọi người cho là có lý, thì hết thảy những gì dính tới ngũ hành, bát quái, cửu tinh đang thịnh hành hiện nay sẽ là thứ tào lao? Đáng nói là o Hoa đã áp dụng vào dự đoán chiêm tinh khá đúng ạ. Huống hồ chi long mạch mỗi đời một di dời thay đổi, 5 long mạch thời Cao Biền chắc chi còn giá trị?
Hoàng Kim trả lời:
Cụ Ngọc Hạp Nguyễn viết: “Tổng Bí Thư
nói :
Công tội phân minh tham nhũng phải vào lò !
Mong TBT quan tâm triệt để mới thực thi trọn vẹn được.
Dân vẫn hiểu Đảng đang bơi ngươc trước khó khăn! “.
CAO BIỀN HUYỀN THOẠI VÀ SỰ THẬT Hoàng Kim Đầm Môn xóm Cát Cao Biền có đôi chim Nhạn đang chuyền cành Mai. Ngó ra thấy mả Cao Biền. Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên Chóp Chài. Chuyện Cao Biền huyền thoại ngàn năm khi nhìn sâu vào bí ẩn của lịch sử mới thấu hiểu. Hoàng Kim cám ơn Lâm Cúc một gợi ý sâu sắc để nhận thức lại.
Tôi làm lúa siêu xanh ở Tuy An, Phú Yên trên ba năm. Tại Đầm Môn xóm Cát xã An Hải trên một sườn núi đẹp có mả Cao Biền gối đầu lên núi, nhìn ra biển Đông và bao quát một tầm nhìn thấu Tuy Hòa.
Mả Cao Biền không quá xa chùa Thanh Lương nơi có tượng Phật Quan Âm trở về từ biển, gần kho báu Ghềnh Đá Dĩa, gần Nhà thờ Mằng Lăng nơi lưu giữ ‘phép giảng tám ngày’ của ông Alecxandre de Rhodes người phát minh chữ Tiếng Việt.
Bí mật Cao Biền trong sử Việt góp phần hé lộ và giải mã một bí ẩn lịch sử suốt ngàn năm. Bà Lã Thị Nga vợ Cao Biền là tổ sư nghề dệt lụa Hà Đông đền thờ tại làng Vạn Phúc, Hà Đông ngày nay.
Cao Biền là một danh tướng, đạo sư, thầy địa lý, kiến trúc sư và nhà tiên tri thời Đường mạt, ông có tên tự là Thiên Lý, sinh năm 821, mất ngày 24 tháng 9 năm 887, tước vị cao nhất là Cao Vương Tỉnh Hải quân, Bột Hải quân vương, kiểm giáo thái úy, là thuộc hạ của Đường Tuyên Tông, Đường Ý Tông và Đường Hy Tông, Đường Chiêu Tông là ba vị vua gần cuối cùng của thời hậu Đường, lúc triều Đường chìm trong tình trạng đại loạn, nạn tranh đoạt cát cứ diễn ra khắp nơi, tiêu biểu là loạn Nam Chiếu, loạn Hoàng Sào và sự sụp đổ tất yếu của nhà Đường với sự soán ngôi của Chu Ôn năm 907 lập ra triều đại Hậu Lương, mở ra thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc trong Lịch sử Trung Quốc.
Cao Biền hiện có rất nhiều huyền thoại khắp mọi miền Bắc Trung Nam của Việt Nam và tại các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc. Huyền thoại phổ biến nhất là “Long Mạch đất Việt với Cao Biền”, “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” kèm theo rất nhiều khảo dị. Chuyện Cao Biền tích cũ viết lại là huyền thoại và sự thật ngàn năm về hai vợ chồng Cao Biền vốn là người phương Bắc nhưng đã chọn đất Việt Nam làm quê hương và nơi an nghĩ vạn xuân. Một người là tổ sư nghề lụa Hà Đông, một người là danh tướng, đạo sư, thầy địa lý, nhà tiên tri nay là người dân Việt có mộ ở tại thôn 5 xóm Cát, xã An Hải, huyên Tuy An, tỉnh Phú Yên. Mời bạn ghé đọc và cùng trao đổi bàn luận https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bi-mat-cao-bien-trong-su-viet
Hoàng Kim dịp trước có viết bài “Nha Trang và Yersin” là một vĩ nhân nước ngoài chọn Việt Nam làm quê hương. Nha Trang, biển yến rừng trầm, thiên đường nghỉ dưỡng du lịch biển đảo nổi tiếng Việt Nam cũng là nơi an nghĩ và lưu dấu những cống hiến đặc biệt xuất sắc của nhà bác hoc thiên tài Yersin. Quần thể mộ Yersin ở Suối Dầu và thư viện Yersin ở Viện Pasteur Nha Trang là trường hợp duy nhất Chính phủ Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia cho một người nước ngoài. Tại làng Tân Xương ở Suối Dầu, dân làng thờ Yersin làm thành hoàng. Ngày mỗi ngày, công viên Yersin, Bảo tàng Yersin, mộ Yersin càng có nhiều lượt khách trong nước và quốc tế đến thăm để chiêm nghiệm bài học lớn tình yêu cuộc sống. Alexandre Émile Jean Yersin là nhà bác học lỗi lạc người Pháp gốc Thụy Sĩ. Ông là bác sĩ y khoa, nhà vi khuẩn học, nhà thám hiểm, nhà nông học, nhà chăn nuôi, nhà điểu học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, nghiên cứu khí tượng, nhà văn, nhà dịch thuật, nhà nhân đạo và ân nhân được nhân dân Việt Nam tôn kính. Ông được trao tặng Bắc Đẩu Bội tinh, huân chương cao quý nhất của nước Pháp, Việt Nam long bội tinh, Viện sĩ Viện Hàn Lâm Khoa học, Viện Hàn lâm Y học, Viện Hàn lâm Khoa học các thuộc địa, Hội Bệnh học Hải ngoại, Hội Y học Nhiệt đới, Hội Thiên văn Pháp quốc (xem tiếp...)
Tôi cũng đã có viết bài Ông Alexandre de Rhodes chữ tiếng Việt. Ông Alexandre de Rhodes là người phát minh ra chữ viết tiếng Việt, báu vật vô giá muôn đời của dân tộc Việt Nam. Ông Alexandre de Rhodes là người gốc Do Thái, sinh ngày 15 tháng 3 năm 1591 tại Avignon trong gia đình một nhà buôn tơ lụa, mất ngày 5 tháng 11 năm 1660 tại một nghĩa trang ngoại ô của thành phố Esfahan, Iran. Ông là nhà ngôn ngữ học thông thạo nhiều thứ tiếng nên đã “lần ra, nhận biết, phân biệt và ghi lại bằng ký hiệu thích hợp những âm thanh khác nhau, đôi khi rất gần gũi, vì thế dễ đánh lừa, trong tiếng Việt”. Ông cũng là một trong những linh mục dòng Tên đầu tiên đến Việt Nam truyền đạo công giáo từ năm 1626. Đến nay đã trên 391 năm khai sinh tiếng Việt và sau 72 năm ngày chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập năm 1945 và vận động toàn dân học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc ngữ, sau 42 năm sau ngày Việt Nam thống nhất 1975. Nay có lẽ đã hợp thời để chúng ta gạn đục khơi trong, lưu danh ông Alexandre de Rhodes trên viên tảng đá tưởng nhớ đặt tại công viên Tao Đàn thành phố Hồ Chí Minh và một số nơi khác để tỏ lòng biết ơn chân thành đối với người đã phát minh ra chữ Quốc ngữ. (xem tiếp…)
Tôi hôm nay khi đứng nơi có mả Cao Biền, trên ‘đỉnh núi không còn ghồ ghề’ nghe tiếng gió hàng dương rì rào thổi bản nhạc đồng quê mênh mang ” Khi đỉnh núi không còn ghồ ghề Khi nước sông ngừng chảy Khi thời gian ngừng lại, ngày tháng bất phân. Khi vạn vật trên đất trời hóa thành hư vô …” tôi mới cảm nhận hết sự sâu xa trong bài văn của tiến sĩ Vũ Khâm Lân viết năm 1743 về Trạng Trình “Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký” (Trích Gia phả dòng họ Trạng Trình): “Trình Quốc công Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (còn có tên khác là Nguyễn Văn Đạt) tự Hành Phủ, đạo hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương. Tiên tổ ngày xưa tu nhân, tích đức nhiều, nay không thể khảo cứu được, chỉ biết từ đời cụ tổ được tập phong Thiếu bảo Tư Quận công, cụ bà được phong Chính phu nhân Phạm Thị Trinh Huệ. Nguyên trước các cụ lập gia cư ở nơi có núi sông bao bọc hợp với kiểu đất của Cao Biền, tay phong thủy trứ danh đời Đường.” . Tôi bồi hồi thấu hiểu điều hay của Lê Quý Đôn khi chép lại bài thơ hay của Cao Biền gửi lại:
Mênh mông mây nước sắp về chiều, Khói nội, gà gô khắc khoải kêu. Muôn dặm anh về chầu đế khuyết, Năm thu Nam tiến nhớ tâu triều.
Vân thuỷ thương mang nhật dục thu, Dã yên thâm xứ giá cô sầu. Tri quân vạn lý triều thiên khứ, Vị thuyết chinh nam dĩ ngũ thu.
Nguồn: Lê Quý Đôn toàn tập, tập II: Kiến văn tiểu lục, Thiên chương (Văn thơ, Từ lệnh), Phạm Trọng Điềm phiên dịch và chú thích, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977
Vì sao tôi chọn: “Bí mật Cao Biền trong sử Việt” để tìm hiểu ? Tôi có chuyện ‘Đá Dựng bút thần của Cao Biền’ được nghe kể từ hồi nhỏ. Chuyện rằng Cao Biền có cây bút thần có thể chọc thủng đá và khi vẽ diều và điểm nhãn thi diều có thể trở thành diều thật bay được và Cao Biền đã cưỡi diều bay đi khắp nơi để trấn yểm long mạch Việt. Nhưng duy nhất tại đại cán long Trường Sơn ở Quảng Bình nơi hẹp nhất Việt Nam thì Cao Biền không thể trấn yểm nổi mà phải hi sinh báu vật quý giá nhất đời mình là bút thần để thành lời nguyền địa lý kết nối sinh tử. Nơi bút thần cắm xuống hóa thành hòn đá Dựng trỏ lên trời xanh, và phía dưới chân hòn đá Dựng là mạch nước ngọt vọt lên chảy hoài không dứt… Dấu tích sự thật còn đó và câu chuyện tuổi thơ nghe được ám ảnh suốt đời tôi. Cao Biền xưa tước vị Cao Vương Tỉnh Hải Quân, danh tướng, đạo sư, tuân mệnh vua Đường Ý Tông dẹp loạn Nam Chiếu, vỗ yên và trấn yểm Long Mạch Việt để tĩnh hải vùng biên viễn, cai trị lâu dài đất phương Nam, nhưng sau cùng ông buông đao thành Phật, đã quyết định chọn Việt Nam làm nơi an nghĩ vạn xuân, làm bạn thân thiết với đất và người Việt Nam, khi ông cảm nhận được sự tươi đẹp, hiền tài, thân thiện, yêu thương của đất và người phương Nam, thấu hiểu Phật chuyển pháp luân thông suốt sinh tử vốn Không mà giải thoát sống và chết được rốt ráo, không phải cầu vào đâu. Cao Biền sống và chết tại Việt Nam là bài học lớn tìm trong di sản.
Thiền sư Thích Phổ Tuệ ở chùa Ráng Tổ Đình Viên Minh đã tặng tôi hai cuốn sách quý với dòng đầu phần duyên khởi ứng dụng trong đời sống hiện đại “Việc lớn đời người không gì lớn hơn Sống và Chết, mà vấn đề rất khó giải quyết cũng chỉ có sống chết mà thôi”. Tôi vốn tâm đắc với lời Thầy dạy và luôn ghi lòng: “Việc chính đời người chỉ ít thôi/ Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi/ Phúc hậu suốt đời làm việc thiện/ Di sản muôn năm mãi sáng ngời”. Những danh nhân người nước ngoài gắn bó sống và chết với Việt Nam như Yersin, Cao Biền hoặc như Alexandre de Rhodes, người phát minh ra chữ viết tiếng Việt, báu vật vô giá muôn đời của dân tộc Việt Nam, tôi xin dành một sự ngưỡng mộ và quý mến.
Tôi thật muốn vì Người tìm về cõi xưa và viết nên sự khảo cứu huyền thoại và sự thật.
CAO BIỀN CUỘC ĐỜI VÀ THỜI THẾ
Cao Biền tên tự Thiên Lý (千里, tên chữ Hán là Gāo Pián, 高骈, 高駢, tại các thư mục cổ Tư trị Thông giám (1), quyển 250-257, Cựu Đường thư (2) quyển 151,182 , Tân Đường thư (3) quyển 224 hạ), là một danh tướng, đại sư, nhà phong thủy trứ danh và nhà tiên tri thời hậu Đường. Tác phẩm Cao Biền “An Nam tống Tào Biệt Sắc quy triều” cùng với những huyền thoại dã sử “Long Mạch đất Việt với Cao Biền”, “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” tấu thư, tấm bản đồ bí ẩn đã hé lộ thông tin quý để góp phần nhận thức lại đầy đủ hơn về thân phận con người của một bậc kỳ tài, đồng thời cũng thấm thía bài học lịch sử về khởi nghĩa nông dân, thủ đoạn tranh đoạt nội bộ, nạn cát cứ, để cuối cùng Cao Biền chọn tìm về đất Việt. Cao Biền sinh năm 821 mất ngày 24 tháng 9, năm 887, tước vị là Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân Cao Vương, Cao Thái úy, Lạc Điêu thị ngự (落雕侍御) ; Chức quan là Kiểm giáo Thái úy, Chư đạo Hành doanh binh mã Đô thống; Cao Biền trở thành danh tướng khi đánh bại các cuộc xâm nhập của Nam Chiếu, giữ yên cương vực Tĩnh Hải (trong đó có phần đất của Việt Nam ngày nay). Ông cũng cai trị có phép tắc khi nhậm chức Hữu kim ngô đại tướng quân (868), kiểm hiệu công bộ thượng thư (870), Thiên Bình tiết độ sứ (873), Tây Xuyên tiết độ sứ (874), Thành Đô doãn (875) Kinh Nam tiết độ sứ (878), Trấn Hải tiết độ sứ (879), Hoài Nam tiết độ sứ (880) được dân chúng ngợi ca, nhưng ông đã thất bại trong việc đẩy lui cuộc nổi dậy của Hoàng Sào, ông bị Tân Đường thư (3) quyển 224 hạ coi là phản thần tạo phản ở Hoài Nam quân (Sự dùng từ “phản thần” của Âu Dương Tu cũng là tuyệt hay. Cao Biền đến lúc đó đã chính thức rũ bỏ Đường Hy Tông vì chế độ Đường mạt không còn cơ cứu chữa) . Theo chính sử, năm 887, ông bị Tần Ngạn giam cầm rồi sát hại nhưng theo dã sử Việt thì Cao Biền khi trốn về Nam đã chứng kiến vợ là Lã Thị Nga cùng toàn gia quyến của người cháu họ là Cao Tầm làm Tiết Độ Sứ ở Giao Châu đã bị những kẻ tranh đoạt thời mạt Đường sát hại thì ông đã chọn về nơi an nghĩ nơi vùng đất ẩn long tiếp giáp giữa Tỉnh Hải và Lâm Ấp tại xóm Cát đầm Môn, An Hải, Tuy An, Phú Yên của đất phương Nam.
(1) Tư trị thông giám là một cuốn biên niên sử quan trọng của Trung Quốc, với tổng cộng 294 thiên và khoảng 3 triệu chữ. Tác giả chính của cuốn sử này là Tư Mã Quang – nhà sử học thời Tống. Đây là cuốn sách mà chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông lúc sinh thời nghiền ngẫm không rời tay với Thủy Hử và Tam Quốc Chí được học và vận dụng suốt thời trẻ trong những năm tháng đấu tranh khốc liệt trên chiến trường, còn sách Tư Trị Thông Giám của Tư Mã Quang (1019–1086), tự Quân Thật, hiệu Vu Tẩu, là nhà sử học, học giả Trung Quốc, thừa tướng thời nhà Tống thì Mao Trạch Đông luôn không rời tay suốt những năm tháng cầm quyền. Ông muốn lục tìm trong rối loạn của lịch sử những kế sách kinh bang tế thế. Cao Biền thời Đường mạt trong sách này tại các quyển 250, 251, 252, 253, 254, 255, 256 và 257. Nhân vật Cao Biền được sử cổ đánh giá tương tự như nhân vật Khổng Minh Gia Cát Lượng đời Hán mạt.
(2) Cựu Đường thư là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hu triều Hậu Tấn biên soạn. Bắt đầu vào năm Thiên Phúc thứ sáu (941) Tấn Cao Tổ Thạch Kính Đường đời Hậu Tấn lệnh cho Trương Chiêu Viễn và Giả Vĩ phụ trách việc biên soạn sách sử về nhà Đường, dưới sự giám sát sửa chữa của tể tướng Triệu Oánh. Đến năm Khai Vận thứ hai đời Tấn Xuất Đế, (945) thì sách viết xong, ban đầu sách có tên là Đường thư. Do khi đó Lưu Hu là tể tướng giám sát việc tu sửa, xuất bản nên người ta coi sách này là do ông chủ biên. Cựu Đường thư là nguồn sử liệu quý thời nhà Đường (18 tháng 6, 618 – 1 tháng 6, 907). Nhà Đường là một Triều đại Trung Quốc tiếp nối sau nhà Tùy và sau nó là thời kì Ngũ Đại Thập Quốc. Nhà Đường được hoàng đế Đường Cao Tổ Lý Uyên thành lập. Cao Tổ hoàng đế đã từ lâu thâu tóm lấy quyền hành khi nhà Tùy suy yếu rồi sụp đổ. Triều đại này bị gián đoạn khi Nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên nắm lấy quyền hành và lập ra nhà Võ Chu (8 tháng 10, 690 – 3 tháng 3, 705). Bà là nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Đường với kinh đô Trường An (là thành phố đông dân nhất thời bấy giờ, nay là Tây An) được các nhà sử học coi là đỉnh cao trong văn minh Trung Hoa; ngang bằng hoặc vượt trội hơn so với thời kì đầu nhà Hán, một thời kì hoàng kim của văn minh thế giới. Lãnh thổ của nhà Đường rất rộng lớn, lúc cực thịnh đạt gấp rưỡi lãnh thổ của nhà Hán nhờ có lực lượng quân đội hùng mạnh và các cuộc chinh chiến quân sự. Vua Minh Hiến Tông đánh giá: “Từ thời Tam Đại về sau, công lao cai trị không đâu thịnh bằng nhà Đường, mà trong 300 năm triều Đường, không đâu thịnh bằng thời Trinh Quán (Đường Thái Tông)”. Nhà Hán Học người Đức là Max Weber nhận xét “Dựng nên văn hóa và bản đồ Trung Quốc với những bậc dựng nghiệp chân chính, nhà Đường đáng lưu vinh đến muôn đời”. Cao Biền trong Cựu Đường thư được coi là một danh tướng thời Đường mạt, Cao Biền phò ta ba vua Đường Ý Tông, Đường Hy Tông, Đường Chiêu Tông là ba vị vua cuối cùngcủa nhà Đường.
(3) Tân Đường thư là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện nằm trong 24 bộ sách chính sử Trung Quốc. Sách Tân Đường thư do Âu Dương Tu (1007 – 1072), là một nhà văn nổi tiếng, một nhà thơ lớn, một nhà sử học, chính trị gia và đồng thời là một nhà làm từ xuất sắc thời Bắc Tống chủ biên cùng Tống Kỳ, Phạm Trấn, Lữ Hạ Khanh tham gia vào việc viết và biên soạn vào năm Khánh Lịch thứ 4, đến tháng 7 năm Chí Hòa nguyên niên thì hoàn thành. Âu Dương Tu đỗ đầu khoa thi tiến sĩ; từng giữ các chức quan Hàn lâm học sĩ, Xu mật viện phó sứ, Tham tri chính sự… Dưới thời vua Tống Thần Tông làm Binh bộ Thượng thư, khi mất được đặt tên thụy là Văn Trung. Tân Đường thư tên gốc ban đầu là Đường thư, người đời sau để phân biệt với Cựu Đường thư của Lưu Hu nhà Hậu Tấn thời Ngũ đại thập quốc nên đổi tên bộ chính sử thành Tân Đường thư. Tân Đường thư tổng cộng có 225 quyển, bao gồm Bản kỷ 10 quyển, Chí 50 quyển, Biểu 15 quyển, Liệt truyện 150 quyển, sách ghi chép lịch sử hưng thịnh và suy vong của nhà Đường bắt đầu từ khi Đường Cao Tổ kiến quốc năm 618 đến khi Đường Ai Đế bị Chu Ôn phế truất năm 907. Liệt truyện 149 hạ Phản thần hạ có Cao Biền. Âu Dương Tu, Tống Kì trong sách “Tân Đường thư” ở phần “Bắc Địch truyện” đối với công tích của nhà Đường đều có khẳng định: “Nhà Đường có đức lớn vậy !” .
Ba nguồn trích dẫn trên đây là ba tác phẩm lớn, hầu hết đều chép lại sự thật lịch sử và đánh giá khách quan. Danh sĩ tinh hoa trong thiên hạ thường chuộng thực tâm, thực tài, thực việc. Cao Biền sau cùng đã quyết định chọn tìm về đất Việt, ký thác đời mình cho mảnh đất yêu thương Việt Nam.
Bí mật Cao Biền trong sử Việt và nguồn sử Trung Quốc là một góc nhìn tham chiếu.
Cao Biền là dòng dõi tướng môn
Cao Biền là người U châu (Bắc Kinh ngày nay), ông là cháu nội của danh tướng Cao Sùng Văn.
Theo sách Cựu Đường thư quyển 182, mùa xuân năm 806, Đường Hiến Tông sai Tiết độ sứ Cao Sùng Văn lấy Tả Thần Sách hành doanh dẫn 5000 quân làm tiên phong, Lý Nguyên Dịch dẫn 2000 quân yểm hậu, cùng Sơn Nam Tây Đạo Tiết độ sứ Nghiêm Lệ cùng tiến công Lưu Tịch. Chiến sự nổ ra quyết liệt, ban đầu Lưu Tịch bắt sống được Lý Khang nhưng không lâu sau thì liên tục bại trận, phải bỏ trốn khỏi Từ châu và tập hợp được khoảng một vạn quân để tiếp tục chống trả nhưng vẫn liên tiếp thua trận. Sau đó Lưu Tịch và Lư Văn Nhược mất cả Thành Đô, định bỏ trốn sang Thổ Phiên nhưng bị quân Đường bắt được giải về kinh và bị diệt môn (Cưu Đường thư, quyển 151).
Đường Hiến Tông là vị Hoàng đế nhà Đường trị vì từ năm 805 đến 820, tổng cộng 15 năm. Hiến Tông là vị hoàng đế có công phục hưng sự thịnh trị của nhà Đường, mặc dù sự thịnh thế đó tồn tại không được lâu và cũng không rực rỡ bằng thời Đường Thái Tông và Đường Huyền Tông, nhưng sử sách gọi đó là Nguyên Hòa trung hưng. Hiến Tông chăm lo siêng năng việc cai trị, lo duyệt tấu chương, ưa nghe lời can gián, rộng rãi bao dung, tích cực thi hành tiết kiệm, chống lại các phiên trấn không quy thuận, đến năm 817, thì hầu như phần lớn các tiết độ sứ đều quy thuận triều đình. Tuy dẹp được phiên trấn nhưng vua lại tin tà thuật phương sĩ, bị bọn hoạn quan, ngoại thích, phương sĩ, cấu kết bè đảng với loạn sứ quân giấu giếm tạo phản nên cuối đời, vua đã chết bị nghi là do hoạn quan hạ độc.
Cha của Cao Biền là Cao Thừa Minh là ngu hậu (người được kế tập chức quan của bố) trong Thần Sách quân. Triều Đường cấm quân là vũ lực triều đình trung ương gồm Nam nha thập lục vệ và Bắc nha thập quân. Thần sách quân thuộc cấm quân. Gia tộc Cao Biền như vậy đã có ít nhất vài đời làm quan trong cấm quân.
Cao Biền là dòng dõi tướng môn ở thần sách quân. Ông nắm ngự lâm quân trọng binh bên cạnh vua, nên có thể coi là thân tín của vua đối với đội thân binh đặc biệt tinh nhuệ này. Cao Biền có địa vị cao trong lưỡng quân của Thần Sách quân, ông được tín cẩn thăng dần đến chức “Hữu Thần Sách đô ngu hậu”. Cao Biền là một đại sư, trí tướng, mưu tướng, nhiều thuật pháp, am hiểu binh thế, trận pháp và giỏi văn. Ông thường thảo luận về chuyện lý đạo với các nho sĩ, theo Cựu Đường thư quyển 182.
Cao Biền là trí tướng đại sư
Cao Biền cuộc đời và hành trạng, theo Tân Đường thư (3) quyển 224 hạ, đã cho thấy ông là một trí tướng đại sư: Ông được phong tước vị là Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân Cao Vương, Cao Thái úy, Lạc Điêu thị ngự (落雕侍御) ; Chức quan là Kiểm giáo Thái úy, Chư đạo Hành doanh binh mã Đô thống; Cao Biền trở thành danh tướng khi đánh bại các cuộc xâm nhập của Nam Chiếu, giữ yên cương vực Tĩnh Hải (trong đó có phần đất của Việt Nam ngày nay). Ông cũng cai trị có phép tắc khi nhậm chức Hữu kim ngô đại tướng quân (868), kiểm hiệu công bộ thượng thư (870), Thiên Bình tiết độ sứ (873), Tây Xuyên tiết độ sứ (874), Thành Đô doãn (875) Kinh Nam tiết độ sứ (878), Trấn Hải tiết độ sứ (879), Hoài Nam tiết độ sứ (880) được dân chúng ngợi ca, nhưng ông đã thất bại trong việc đẩy lui cuộc nổi dậy của Hoàng Sào, ông bị coi là phản thần tạo phản ở Hoài Nam quân, bị Tần Ngạn mưu hại, sau đó tìm về sống và chết ở đất Việt.
Cao Biền bình sinh là người thế nào?Theo Cựu Đường thư, ‘Biền bàn luận đường lối chính trị một cách rắn rỏi. Những người trong hai quân Cấm, Vệ lại càng khen ngợi Biền. Biền theo hầu Chu Thúc Minh, làm tư mã. Bấy giờ có hai con chim điêu (thuộc loại chim cắt) đang song song bay với nhau, Cao Biền giương cung định bắn và khấn: “Nếu ta sau này làm nên sang cả, thì bắn trúng nhé!”. Khấn rồi bắn một phát trúng cả đôi. Mọi người đều quá đỗi kinh ngạc, nhân thế gọi Biền là Lạc Điêu thị ngự (quan thị ngự bắn rơi chim điêu). Biền làm quan, được thăng dần đến hữu thần sách đô ngu hậu, vì có công, lại được thăng làm phòng ngự sứ Tấn Châu. Hồi Nam Chiếu đánh phá Giao Châu, Biền được cử sang thay Trương Nhân đánh Nam Chiếu’. Lại còn có một khảo dị khác “Lạc Điêu thị ngự” là Cao Biền thường cưỡi diều (Lạc Điêu) bay đi xem xét địa thế ở An Nam, thể theo truyện “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” (4) trong sách “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam”
(4) “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” Tích truyện này nhiều khảo di, dưới đây là bản phổ biến hơn cả: “Ngày xưa ở Trung-quốc có Cao Biền rất giỏi nghề địa lý. Những phép hô thần tróc quỷ, ông đều thông thạo. Tiếng đồn vang khắp nơi. Hoàng đế Trung Quốc nghe tiếng liền triệu Biền vào cung ủy thác cho việc kiếm một ngôi đất xây dựng lăng tẩm. Cao Biền vâng lệnh và sau năm năm tìm tòi, đã kiếm được một kiểu đất quý mà theo ông có thể giữ ngôi nhà Đường vững như bàn thạch. Sau khi công việc hoàn thành, hoàng đế rất khen ngợi, sai ban nhiều vàng bạc cùng phong tước lớn cho Biền. Nhưng Biền vốn biết trong kho tàng của hoàng đế có một ngòi bút thần có phép mầu nhiệm mà chính hoàng đế và cả triều thần không một ai biết cả. Vì thế Biền không nhận vàng, chỉ nói: – Tâu bệ hạ, hạ thần không muốn lấy vàng bạc của bệ hạ. Chỉ muốn xin một kho trong trăm ngàn kho đồ dùng của bệ hạ bằng cách là để hạ thần tự tay rút trong chùm chìa khóa kho tàng mà quan tổng quản đang nắm giữ, nhằm đúng chìa kho nào thì được phép lấy kho ấy. Hoàng đế nghe nói hơi ngạc nhiên những vốn trọng tài Biền, tại thấy ý kiến hay hay nên vui lòng để Biền làm chuyện may rủi xem thử thế nào. Quả nhiên kho mà Biền chỉ, đúng là kho đựng toàn bút long dùng cho triều đình. Khi được sử dụng hàng vạn cây bút, Biền mang đến một hòn đá, lần lượt đem chọc mạnh từng ngòi lông vào đá. Nhưng chẳng có ngòi nào được toàn vẹn. Mỗi lân thấy tòe ngòi, ông lại vứt đi và tiếp tục chọc ngòi khác vào đá. Cứ thế cho đến lúc trong kho sắp vợi cả bút thì bỗng có một quản bút chọc thủng vào đá mà ngòi lông vân còn nguyên vẹn. Biền mừng quá reo lên: – Ta tìm được ngòi bút thần rồi! Biền liền cầm bút thần vẽ thử một con rồng lên mặt tường, chừa hai con mắt. Đến khi điểm nhãn, rồng tự nhiên cuộn mình được và tách ra khỏi bức tường. Rồi rồng vụt lên trời, bay biến vào đám mây trước con mắt kinh ngạc của mọi người. Biền lại vẽ thêm nhiều con vật khác và những con ấy đều hoạt động không khác gì những con vật có thực.
Sau cùng Cao Biền vẽ một con diều rất lớn, dùng bút thần nhúng mực điểm mắt cho diều. Diều đập cánh bay lên. Lập tức Biền cưỡi lên lưng và diều đưa vút lên trên không. Thế là Biền cưỡi diều vượt qua muôn trùng núi sông sang đến nước Nam. Trên lưng diều, Biền đưa mắt xuống tìm huyệt đất quý. Quả nhiên không bao lâu ông tìm thấy ở gần một con sông, một huyệt đất phát đế vương. Huyệt đất ấy quý không đâu bằng mà lại chỉ trong một ngàn ngày là phát. Đó là một cái hàm con rồng lấp dưới nước mà chỉ có con mắt của Biền mới khám phá được. Từ đó, Biền có ý muốn hưởng một cuộc sống sung sướng xa xỉ vào bậc nhất thiên hạ. Nhưng khi nghĩ lại thì hắn rất tiếc là không có con trai mà thân mình lại đã già mất rồi; nếu được làm vua cũng không còn hưởng được mấy nỗi. Biền mới tính sẽ nhường cho rể. Nếu nó làm vua thì ông bố vợ tất cũng được bội phần trọng đãi, mà dòng dõi con gái mình cũng hưởng phúc lâu dài. Những muốn thực hiện công việc “đại sự” này cần phải giữ hết sức bí mật, nếu không sẽ mất đầu như chơi. Nghĩ vậy, Biền trở về Trung Quốc bảo người con rể đào lấy hài cốt cha y đem sang nước Nam để cải táng. Trong việc này Biền chỉ bàn kín với một người học trò mà thôi. Nhưng người học trò mà Biền tin cậy lại muốn miếng đất quý ấy hoàn toàn thuộc phần mình hưởng, nên khi được lệnh thầy mang hài cốt thì hắn cũng đào luôn hài cốt của cha mình sang Nam. Bấy giờ hàm rồng đang thời kỳ há miệng. Biền bảo học trò lặn xuống ném gói xương vào giữa miệng rồng chờ cho nó ngậm lại hãy lên. Người học trò đem gói xương của cha mình đánh tráo vào, còn gói xương kia thì bỏ ở một bên mép. Xong việc đó, Cao Biền bảo con rể chọn năm giống lúa, mỗi thứ một thúng mang đến huyệt đất nói trên, sai đào đúng vào chỗ vai rồng thành năm cái huyệt. Mỗi huyệt Biền sai rấm một thúng lúa rồi lấp đất lại thành năm ngôi mộ. Hắn giao cho chàng rể một ngàn nén hương, dặn mỗi ngày thắp một nén, đúng hai năm chín tháng mười ngày thì tự khắc quan gia dưới huyệt nhất tề dậy cả. Dặn đâu đấy, Biền trở về Trung Quốc. Thời gian trôi qua. Hôm ấy chỉ còn mười ngày nữa là hết hạn công việc mà Cao Biền đã dặn, thì tự nhiên con gái hắn ở nước đẻ luôn một lúc ba bé trai, mặt mũi dị kỳ. Vừa mới sinh ra, ba đứa đã biết đi biết nói: một đứa mặt đỏ tay cầm ấn, một đứa mặt màu thiếc, một đứa mặt màu xanh, đều cầm dao sáng quắc. Cà ba nhảy tót lên giường thờ ngồi, đòi đem quân thu phục thiên hạ. Người nhà ai nấy xanh mặt. Chỉ trong một buổi tiếng đồn rầm lên. Mọi người thấy sự lạ đổ tới xem như đám hội. Người rể của Biền sợ quá, bào vợ: – “Mày đẻ ra ma ra quỷ, nếu không sớm trừ đi thì khó lòng sống được với triều đình. Chẳng qua cha mày làm dại, nên mới sinh ra như thế”. Thế rồi y chém tất cả. Trong lúc bối rối, người nhà của y vì lầm nên đốt luôn một lúc hết thảy những nén hương còn lại. Bỗng dưng mặt đât chuyển động. Ở dưới năm ngôi mộ có tiếng rầm rầm mỗi lúc một lớn. Rồi nắp mộ bật tung ra, bao nhiêu quân gia tề dưới đó nhảy lên. Nhưng vì còn non ngày nên sức còn yếu, đứng chưa vững, người nào người ấy đi lại bổ nghiêng bổ ngửa, cuối cùng đều chết sạch. Lại nói chuyện Cao Biền chờ cho đến tận ngày hẹn mới cưỡi diều bay sang nước Nam. Nhưng lần này diều bị ngược gió nên sang không kịp. Khi diều hạ cánh xuống thì người con rể đã phá hỏng mất công việc của hắn. Hắn bực mình vô hạn. Sau khi căn vặn để hiểu rõ câu chuyện, hắn rút gươm chém chết cả học trò lẫn rể. “Không được ăn thì đạp đổ”, nghĩ thế, hắn bèn cưỡi diều ếm huyệt và phá long mạch. Ngay chỗ hàm rồng nói trên, hắn dùng phép chém đứt cổ con rồng đó vì vậy mà ngày nay người ta nói nước sông ở đó đỏ như máu là bởi máu tự cổ con rồng chảy ra đến nay vẫn chưa dứt. Đến một nơi nọ, Biền thấy trên một hòn núi mà ngày nay còn gọi là núi Đầu-rồng có huyệt đế vương. Hắn bèn làm bùa bằng gang đóng vào đỉnh núi. Từ đó trở đi trên đỉnh núi ấy không một cây cối gì còn mọc được. Ở Thanh Hóa Cao Biền cũng thấy có huyệt đất quý. Nhưng hắn thấy con rồng đó què một chân, cho rằng nếu có phát đế vương thì không thể phát to được. Cho nên hắn cho diều đi thẳng không ếm nữa. Cũng vì thế người ta nói mấy đời vua chúa trị vì ở nước Nam đều phát tích ở Thanh-hóa.
Cao Biền để tâng công với hoàng đế, đã vẽ bản đồ từng kiểu đất một rồi viết thành sách ghi chú rất tinh tường đem dâng lên vua Đường. Trong đó có đề cập đến năm long mạch quý nhất của nước Nam là 1) dãy núi Tản Viên Ba Vì Tam Đảo điểm huyệt ở Bàn Chông, 2) tam giác châu Bắc Bộ Tản Viên Tam Điệp Yên Tử điểm huyệt ở thành Đại La, 3) Dãy núi Nham Biền vòng cung Đông Triều trường thành chắn Bắc điểm huyệt ở Yên Tử; 4) Vùng Kiếp Bạc Côn Sơn Ngũ Nhạc Kỳ Lân điểm huyệt ở Kiếp Bạc Côn Sơn; 5) Dãy núi Trường Sơn từ Tam Điệp vào suốt phương Nam là hành hướng Nam Tiến sinh địa, Thạch Bì Sơn Hải Vân Sơn Hoành Sơn, Hồng Sơn đều là những mạch đất quý của nước Nam.
Theo Cao Biền kiểu đất quý nhất của nước Nam là đất trung độ (thủ đô Hà Nội ngày này) > Tại đây Cao Biền đã chọn xây thành Đại La rất công phu với một đàn tràng dựng ở núi Đại Lãi phía Bắc thành Đại La với tám vạn cái tháp bằng đất nhỏ huy động tám vạn quân để làm lễ. Núi ấy từ đó mang tên là núi Bát-vạn. Cao Biền cũng cho rằng long mạch Trường Sơn là thế lớn sinh tồn của nước để Nam tiến. Trường Sơn dầm chân ra biển ở 5 chỗ thì nơi hẹp nhất và hiểm hơn cả là vết đứt gãy Hoành Sơn rào Nan vì nối được mạch phong thủy nơi đây là sinh địa. Cao Biền dùng bút thần vua cho để trấn yểm ở một ngọn núi thấp tại hòn Đá Dựng Ma Ca bến lội. Điều đặc biệt là từ chân tảng đá vọt lên một mạch nước ngầm rất ngọt không bao giờ cạn trong suốt tận đáy. Cao Biền đã vỗ yên được đất phương Nam tuy việc trấn yểm này tiêu tốn mất nhiều vàng, bạc và đồng nên chậm triều cống. Hoàng đế Trung Quốc đã rất khen ngợi nhưng việc làm của Biền bị dân chúng người Nam oán ghét. Một hôm, Biền cưỡi diều bay vào phía Nam thì bị cung nỏ phóng tên. Diều bị gãy cánh rơi xuống núi. Hòn núi ấy ngày nay còn mang tên là núi Cánh Diều. Cao Biền thì bị chết chôn ở gần đó. “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” là ý cười người không suy xét kỹ vội vàng thiếu chu đáo sẽ thất bại.
Mả Cao Biền ở Tuy An là một khảo dị tương tự nhưng kể thêm rằng: Cao Biền đã đến đó từ trước và cũng có giúp cho dân làng một vài việc nhỏ như xem đất cất nhà, nơi để mả…Ông ta tự mình quyết định chôn ở đó. Trước khi chết, ông dặn dân làng chôn cho ông ngay cái chỗ đất ông đánh dấu sẵn. Do đấy có mả Cao Biền tại thôn Năm, xóm Cát xã An Hải ngày nay. Theo dân địa phương bàn tán là mả ông ta nằm trên “huyệt địa” ổn định, ít bị biến đổi theo thời gian. Đứng trên chóp đỉnh mả Cao Biền nhìn bốn hướng thì phía đông là biển, phía tây là dãy đồi thoai thoải tiếp giáp với đầm Ô Loan, phía bắc là làng mạc của cư dân nằm rải rác dọc theo sườn đồi, còn phía nam giáp với các làng Diêm Hội và Phú Thường thuộc xã An Hoà, dân cư đa phần làm nghề biển.
Chí hướng và tư tưởng Cao Biền như thế nào? Cao Biền để chí ở ngàn dặm nên ông chọn tên tự cho mình là Thiên Lý. Tư tưởng học thuật của ông qua tìm hiểu hành trạnh cuộc đời ông dường như cho thấy ông theo đuổi một loại đạo học dấn thân là Tam giáo đồng nguyên. Đạo giáo đó là tư tưởng nhập thế trung nghĩa với Dân với Nước với chuẩn mực đạo đức cao nhất “thế thiên hành đạo” mà đời sau chúng ta bắt gặp trong “Vạn kiếp tông bí truyền thư của Trần Quốc Tuấn là Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương nước Đại Việt thời Trần theo lời bạt của Trần Khánh Dư (5) và kiệt tác “Thủy Hử” của Thi Nại Am nước Trung Quốc thời Tống (6).
(5) Vạn Kiếp tông bí truyền thư (萬劫宗秘傳書) của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương, tác phẩm này còn gọi là Vạn Kiếp binh thư đã thất truyền. Bài tựa của Trần Khánh Dư trong cuốn sách này giải thích bí truyền đại sư là người thế nào:
“Phàm người khéo cầm quân thì không cần bày trận, khéo bày trận thì không cần giao chiến, khéo giao chiến thì không thể thất bại, khéo thất bại thì không thương vong. Xưa kia, Cao Dao làm chức sĩ sư mà mọi người không dám trái mệnh, Văn Vương và Vũ Vương nhà Chu là bậc thầy về văn và về võ, ngấm ngầm sửa đức để khuynh loát quyền bính của nhà Thương mà lấy nghiệp vương. Đó đều có thể gọi là những người giỏi cầm quân, không cần bày trận vậy. Vua Thuấn múa lá mộc và lông trĩ mà họ Hữu Miêu tự mình tìm đến, Tôn Vũ nước Ngô đem mỹ nhân trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở hùng cường, phía Bắc ra uy với nước Tần nước Tấn, nổi tiếng khắp chư hầu. Đó đều có thể gọi là những người giỏi bày trận, không cần giao chiến vậy. Cho đến Mã Ngập nước Tấn dựa vào bát trận đồ chuyển đánh nghìn dặm, phá được Thụ Cơ Năng mà lấy lại Lương Châu. Thế gọi là người giỏi giao chiến không bao giờ thất bại vậy.Cho nên, trận nghĩa là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, vua Hiên Viên lập ra phép “tỉnh điền” để đặt binh chế, Gia Cát Lượng xếp đá bên sông để làm bát trận, Vệ công sửa lại làm trận Lục Hoa, Hoàn Ôn định ra trận Xà Thế, trước sau đều có trận đồ nổi tiếng, trình bày tuần tự, thành phép tắc rõ ràng. Nhưng người đương thời ít ai thông hiểu, muôn vàn đầu mối nhìn vào dường như rối loạn, chưa từng nắm được lẽ biến dịch bên trong. Ví như những phép tắc và suy luận của Lý Thuyên, người sau không ai hiểu nghĩa là gì. Vì thế, Quốc công ta bèn so sánh, kê cứu trận đồ và binh pháp của các nhà, tổng hợp lại thành một bộ sách. Tuy chép cả những điều chi tiết, nhưng người sử dụng thì nên bỏ bớt những chỗ rườm, tóm lấy thực chất. Rồi lấy năm hành ứng với nhau, chín cung câu với nhau, phối hợp cương và nhu, xoay vần chẵn và lẽ, không làm hỗn loạn âm dương và thần sát, phương lợi và sao tốt, hung thần và ác tướng, ba cát và năm hung, việc nào việc ấy thực phân minh rõ rệt. Quốc công lại còn thêm bớt với chiến thuật của thời Tam đại, nhờ đó trăm trận trăm thắng. Cho nên đương thời phía bắc làm cho Hung Nô phải sợ, phía tây làm cho Lâm Ấp phải kinh. Rồi ông đem sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết. Lại có lời dặn rằng: “Sau này con cháu và bề tôi phò tá của ta có học được bí thuật này thì nên lấy đầu óc sáng suốt, linh hoạt mà thực hành và sắp đặt nó, chứ không nên lấy đầu óc cứng nhắc, tối tăm mà cất giữ và lưu truyền. Nếu trái điều đó thì sẽ mang vạ vào thân, lại hại lây đến cả con cháu. Đó gọi là tiết lậu cơ trời vậy.” Bài tựa của Trần Khánh Dư cho Vạn Kiếp tông bí truyền thư, còn như sách Binh thư yếu lược mà người đời ngờ rằng bản thật đã bị cướp và thất lạc. đời sau chỉ có chân truyền lời này.
Thời Đường tư tưởng học thuật Đạo giáo lý học và thế thuật pháp rất thịnh, những tư tưởng triết thuật Nho học Khổng giáo được nối tiếp kế thừa truyền bá và phát triển rất mạnh; Phật giáo được giao lưu với Ấn Độ thời thịnh Đường Đường Thái Tông Lý Thế Dân có Đường Tam Tạng tức Huyền Trang hòa thượng sang Tây Thiên Trúc thỉnh kinh pháp, đem về 657 bộ kinh Phật và Đường Huyền Trang đã sử dụng tiếng Phạn dịch cuốn “Đạo đức kinh” để tặng cho Thiên Trúc. Đồng thời sau khi về Trường An, ông đã nhớ tả lại những điều mình biết về Thiên Trúc ghi lại trong sách “Đại Đường Tây Vực cầu pháp cao tăng truyện” và “Nam Hải ký quy nội pháp truyện” tiếp tục phát triển Phật giáo lên đỉnh cao. Thời Đường tư tưởng triết học của ba trường phái tam giáo này duy trì những chuẩn mực đạo đức cao. Một số tư tưởng triết học và tôn giáo khác như Hồi giáo, Hỏa giáo, Cảnh giáp, Mani giáo qua giao lưu kinh tế văn hóa đã được truyền bá rộng rãi đến đất Đường, nhưng không thịnh lắm. Văn chương thời thịnh Đường như Vương Bột, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Vương Xương Linh và đặc biệt là Ly Bạch , Đỗ Phủ, Đến trung Đường Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị khởi xướng Tân Nhạc phủ vận động, Lưu Vũ Tích hoài cổ thung dung. Hàn Dũ và Liễu Tông Nguyên thì chủ trương phục cổ, tôn Khổng, sùng Nho, bài Phật, cho rằng tăng đạo không quan tâm đến sinh sản, lãng phí tiền của xã hội, tăng ni đạo sĩ nên về quê hoàn tục, nên đốt trụi kinh văn của Phật gia, lấy các chùa miếu đạo quán làm nơi sinh sống cho dân cư, đạo đức trong đạo thuật là phải nhập thế lấy “Luận Ngữ” làm tác phẩm thể hiện quan niệm đạo đức. Thời hậu Đường mà Cao Biền sống dưới ba đời vua Đường cuối cùng thì thế tục, văn chương và đạo giáo đã chuyển hóa và nhiều pha trộn dữ dội. Văn chương Đỗ Mục nặng lòng khôi phục cảnh thịnh trị, Lý Thương Ẩn đặc sắc là thơ tình và khát vọng cuộc sống. Cao Biền là dòng dõi tướng môn lại ham văn học. Đọc và nghiên cứu kỹ Trang thơ Cao Biền – 高駢 (26 bài thơ) – Thi Viện sẽ hiểu ông là người thế nào:
Cao Biền là nhà địa lý tiên tri trứ danh người phát hiện và sớm tổng kết các đặc điểm trọng yếu về hình thế núi sông bờ cõi Việt một khái quát, dẫn liệu này minh chứng trong đánh giá của tiến sĩ Vũ Khâm Lân viết năm 1783 Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký (trích gia phả dòng họ Trạng Trình) trong bài Ngày xuân đọc Trạng Trình của Hoàng Kim, viết rõ ” Nguyên trước các cụ (gia phụ của Nguyễn Bỉnh Khiêm) lập gia cư ở nơi có núi sông bao bọc hợp với kiểu đất của Cao Biền, tay phong thủy trứ danh đời Đường“. Cao Biền tham chính từ thời Đường Tuyên Tông (846 – 859), Đường Ý Tông (859-872) đến cuối thời Đường Hy Tông (873-888). Cao Biền rời bỏ triều Đường tìm đường sống và chết ở Việt Nam từ năm 887 là tiên tri. Đường Chiêu Tông lên làm vua năm 888, ít năm sau thì nhà Đường đổi chủ (907). Việt Nam thời Đường tên là An Nam và Cao Biền được phong Tịnh Hải quân . Sách Cưu Đường thư viết “Sau khi Biền làm quan, được thăng dần đến hữu thần sách đô ngu hậu, vì có công, lại được thăng làm phòng ngự sứ Tấn Châu. Hồi Nam Chiếu đánh phá Giao Châu, Biền được cử sang thay Trương Nhân đánh Nam Chiếu’. Trong nghệ thuật quân sự chính trị để phòng thủ đất Việt thời đó, Cao Biền với tư cách là Cao Vương Tịnh Hải quân đã cho đắp La Thành (thành Đại La) để chống lại hiệu quả sự xâm nhập của Nam Chiếu. Nay nơi đó là một phần trong quần thể kiến trúc Thăng Long xưa. Đó là vòng thành ngoài cùng bảo vệ Hoàng thành Thăng Long. Thiền Uyển tập anh (1715) tài liệu lịch sử cổ nhất của Phật giáo Việt Nam hiện có, Việt sử tiêu án (1775) của Ngô Thì Sĩ,… hé lộ những thông tin về Cao Biền là nhà địa lý tiên tri trứ danh (6).
(6) Sử Việt về Hoàng thành Thăng Long di sản văn hóa thế giới đi tìm dấu tích La Thành đã xác định: ‘La Thành, hay thành Đại La, là một thành trì, thủ phủ của An Nam đô hộ phủ thời Nhà Đường trong hai thế kỷ 8 và thế kỷ 9 là một phần trong quần thể kiến trúc Thăng Long xưa. Đó là vòng thành ngoài cùng bảo vệ Hoàng thành Thăng Long trải qua nhiều triều đại phong kiến Việt Nam. Tuy đức vua Lý Thái Tổ là người có công tìm ra Thăng Long làm “nơi thượng đô của Kinh sư muôn đời”, nhưng tên La Thành không phải đến triều Lý mới xuất hiện. La Thành hay thành Đại La đều là những tên gọi xuất hiện từ thời nước ta bị nhà Đường xâm chiếm. Khi ấy, nhà Đường cho dựng thành Đại La làm nơi đóng An Nam đô hộ phủ. Tuy vậy, những vết tích còn lại của La Thành còn lại đến bây giờ không phải là La Thành do Cao Biền đắp, mà phần nhiều là do các triều đại từ nhà Lý tu sửa nhiều lần. Hoàng Thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long – Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu từ thời kì tiền Thăng Long qua thời Đinh – Tiền Lê, phát triển mạnh dưới thời Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn” (xem tiếp đi tìm dấu tích La Thành so sánh đối chiếu vị trí hình thế La Thanh xưa và nay).
Đại La (大羅), còn gọi là La Thành (羅城) là một thành trì, thủ phủ của An Nam đô hộ phủ thời Nhà Đường trong hai thế kỷ 8 và thế kỷ 9. Thành nằm ở vị trí giữa Thành Hà Nội và sông Tô Lịch, thuộc quận Ba Đình của Hà Nội hiện nay. Đại La ban đầu do Trương Bá Nghi cho đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 đời Đường Đại Tông (767), Triệu Xương cho đắp thêm năm Trinh Nguyên thứ 7 đời Đường Đức Tông (791). Đến năm Nguyên Hòa thứ 3 đời Đường Hiến Tông (808), Trương Chu lại sửa đắp lại; năm Trường Khánh thứ 4 đời Đường Mục Tông (824), Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ, gọi là La Thành, sau đó Cao Biền cho đắp lại to lớn hơn. Theo sử cũ Tư Trị Thông Giám (1) Cựu Đường Thư (2) Tân Đường thư (3) thì La Thành do Cao Biền cho đắp có chu vi 1.982,5 trượng (≈6,6 km); thành cao 2,6 trượng (≈8,67 m), chân thành rộng 2,5 trượng (≈8,33 m), nữ tường (Bức tường nhỏ đắp trên tường thành lớn hay đê con chạch đắp trên mặt đê chính) bốn mặt cao 5,5 thước (≈1,83 m), với 55 lầu vọng địch, 6 nơi úng môn (thoát nước), 3 hào nước, 34 đường đi. Ông còn cho đắp đê vòng quanh ngoài thành dài 2.125,8 trượng (≈7,09 km), đê cao 1,5 trượng (≈5,00 m), chân đê rộng 2 trượng (≈6,66 m) và làm hơn 400.000 gian nhà. Theo truyền thuyết, do thành xây đi xây lại vẫn bị sụt ở vùng sông Tô Lịch, Cao Biền đã làm kè cho đất vững, điều hướng dòng chảy của mạch sông ( long mạch) của vùng đất này. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ đổi tên thành Đại La là thành Thăng Long. Cao Biền trong thư An Nam tống Tào Biệt Sắc quy triều có nói ” Muôn dặm anh về chầu đế khuyết,Năm thu Nam tiến nhớ tâu triều”, tấu chương gửi vua Đường Ý Tông có nói đến những hao tốn vàng, bạc, đồng của ông trong xây thành Đại La và loại bỏ những trở ngại tự nhiên khó khăn về giao thông trên thủy lộ giữa Tĩnh Hải quân và Lĩnh Nam Đông đạo trị sở nay thuộc Quảng Châu, Quảng Đông ngày nay mà người đời sau đã cho rằng ông yểm bùa và chôn giấu vàng, bạc, đồng ở các điểm long mạch.
Thánh vật ở sông Tô Lịch là câu chuyện về các di chỉ tìm được trong lòng sông tháng 9 năm 2001 được một số nhà nghiên cứu cho là di tích bùa yểm của Cao Biền. Chuyện rằng:”Ngày 27/9/2001, Đội thi công số 12 (Công ty xây dựng VIC) trong khi nạo vét sông Tô Lịch đã phát hiện những di vật cổ rất lạ và huyền bí: 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông tạo thành một đa giác đều, tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai, táng giữa các cọc gỗ.., đồ gốm, xương voi, ngựa, dao, tiền đồng…Rồi chuyện máy xúc Komatsu tự nhiên lao xuống sông, nào là những người đang làm việc tự dưng ngã lăn ra đất, đưa la bàn ra thử thì la bàn quay tít.“. Theo nhà sử học Dương Trung Quốc thì ” Một trong các cách giải thích có thể là do địa điểm thi công là nơi hợp thủy của ba con sông nên có địa tầng không ổn định, dẫn tới việc khảo sát thiết kế, xây dựng dự án xây dựng tuyến kè không sát với thực tế; tuy nhiên, vì là nơi hợp thuỷ của ba dòng sông nên cũng có thể có yếu tố phong thuỷ. Ông không loại trừ khả năng đây là di tích của một sự yểm nào đó của thời kỳ tiền Thăng Long – thời Cao Biền làm Tiết độ sứ. Ông Dương Trung Quốc khẳng định:” Thế nhưng, vận nó vào giữa những yếu tố được giải thích dưới góc độ chuyên môn và hiện tượng xã hội gắn liền với vụ việc cụ thể thì tôi nghĩ rằng thiếu căn cứ. Không ai có thể kết luận được rằng, vì cái vùng đất ấy mà dẫn đến hệ quả mang tính chất thuần tuý là cái sự trả giá về mặt tâm linh..”.
Thâm cung bí sử thời hậu Đường. Ông nội của Cao Biền làm phúc tướng chỉ huy cấm vệ binh Thần Sách quân thời vua Đường Hiến Tông, góp phần giúp vua dẹp yên được phiên trấn . Vua Đường Hiến Tông rốt cục bị bọn tà thuật phương sĩ, hoạn quan và bọn ngoại thích, cấu kết bè đảng với loạn sứ quân giấu giếm tạo phản nên cuối đời vua đã chết oan và bị nghi là do hoạn quan hạ độc. Sau Đường Hiến Tông là Đường Mục Tông Lý Hằng trị vì được 4 năm, đến Đường Tuyên Tông Lý Di trị vì được 13 năm 135 ngày ( 25 tháng 4 năm 846 – 7 tháng 9 năm 859). Đường Tuyên Tông trong sử sách được đánh giá là một vị Hoàng đế có lòng trung hưng của nhà Đường, so sánh với Đường Thái Tông Lý Thế Dân, và được gọi là Tiểu Thái Tông. Cha của Cao Biền là Cao Thừa Minh được vua Đường Tuyên Tông trọng dụng làm ngu hậu và Cao Biền cũng được ân sủng và thăng tiến rất nhanh do có tài dẹp yên nhiều phản loạn.
Đường Tuyên Tông tên là Lý Di, là hoàng tử thứ 13 trong số 20 người con trai của Đường Hiến Tông Lý Thuần. Mẹ của ông là Trịnh thị, vốn là vợ lẽ của Tiết độ sứ Lý Kĩ, người bị triều Đường đánh bại và giết chết năm 807. Sau thất bại của Lý Kĩ, cả gia quyến bị bắt sung vào cung làm nô tì, trong đó Trịnh thị được bố trí phục vụ cho Quách quý phi, chính thất của Hiến Tông, sau đó bà tình cờ gặp Hiến Tông rồi được sủng hạnh và hạ sinh hoàng tử Lý Di. Thời hoàng huynh Đường Mục Tông Lý Hằng, có chiếu phong vương cho các hoàng tử và hoàng đệ, trong đó Lý Di được phong tước vị Quang vương. Lý Di thường tỏ ra nhút nhát ít nói, kính cẩn hết mọi người, ai cũng cho ông là người có bệnh tâm thần và kém thông minh. Riêng Mục Tông biết chuyện thì bảo:“Người này là anh vật của nhà ta, không phải là tâm thần bất ổn đâu”. rồi ban cho ngọc như ý, ngự mã và vàng bạc. Trãi qua các thời triều đình đa sự, Quang vương cố gắng trốn tránh không tham gia vào việc gì, và cũng nói rất hạn chế. Cuối năm 845, Đường Vũ Tông lâm bệnh nặng và sang năm 846 thì không còn có thể nói được nữa. Bấy giờ, hoạn quan khuynh đảo triều đình, muốn nhân lúc này mà lập người ngu dốt lên ngôi để dễ bề thao túng, cuối cùng quyết định chọn Lý Di, hoạn quan giả chiếu chỉ của Vũ Tông, viết:“Hoàng tử nhỏ tuổi, chưa đủ hiền đức để trị quốc. Quang vương Di có thể lập làm Hoàng thái thúc, đổi tên là Thầm, đảm đương quân quốc chánh sự”. Thái thúc được đón từ Thập lục trạch vào cung, đổi tên là Lý Thầm. Đường Tuyên Tông khi được bách quan tiếp kiến, thì như trở thành con người khác, tỏ ra thông minh nhân trí hơn người, quyết đoán chính vụ nhanh gọn, người người nể phục.Ông tôn mẹ làm hoàng thái hậu, bãi chức tể tướng của Lý Đức Dụ, sung làm Tiết độ sứ Kinh Nam, đồng thời của bãi tướng của Trịnh Túc, Lý Hồi thuộc phe đảng của Lý Đức Dụ, Đánh chết đạo sĩ Triệu Quy Chân, người từng luyện đan trường sinh cho Vũ Tông cùng bè đảng. hạ chiếu khôi phục lại Phật giáo vốn bị Vũ Tông đàn áp khi trước, chấm dứt pháp nạn Hội Xương. Lấy Hàn lâm học sĩ, Binh bộ thị lang Bạch Mẫn Trung cùng Binh bộ thị lang Lư Thương làm tể tướng mới. Trong những năm tiếp theo, phong hai tể tướng mới là Thôi Nguyên Thức và Vi Tông, thay thế những người điều hành chính sự chậm trễ, liên tục giáng chức Lý Đức Dụ và bắt lưu đày xa xôi,cho đến chết. Mùa xuân năm 847, cải nguyên là Đại Trung năm thứ nhất. Đầu năm 848, Tuyên Tông theo đề nghị của quần thần, xưng tôn hiệu là Thánh Kính Văn Tư Hòa Vũ Quang Hiếu hoàng đế, đại xá thiên hạ. Cùng năm này, Thái hoàng thái hậu Quách thị băng ở cung Hưng Khánh có lời đồn cái chết này là do Tuyên Tông bí mật sai người hạ độc. Lý do vì Tuyên Tông nghi ngờ Quách thái hậu là người chủ mưu đầu độc Đường Hiến Tông để đưa con mình là Đường Mục Tông lên ngôi, Quách thái hậu có hiềm khích với Trịnh thái hậu. Cuối năm ấy, tể tướng Vi Tông bị biếm làm thái tử tân khách.Vào giữa năm 847, Thổ Phiên nhân triều đình bận việc tang của Vũ Tông nên liên kết với Đảng Hạng và Hồi Cốt xâm lấn Hà Tây, Tuyên Tông sai Tiết độ sứ Hà Đông là Vương Tể dẫn quân chống trả, có thêm sự giúp đỡ của tộc Sa Đà, kết quả quân Đường giành được chiến thắng. Các năm tiếp sau, quân Đường liên tiếp mở các cuộc tấn công vào đất Thổ Phiên mở rộng cương vực nên Thổ Phiên thế lực ngày càng suy yếu. Tuyên Tông được xem là một vị vua cần mẫn, tiết kiệm, siêng năng, quan tâm kiểm tra năng lực quan lại và có phương pháp thưởng phạt công minh. Dưới thời Tuyên Tông hoạn quan khiếp sợ nhưng Tuyên Tông vẫn rất lo ngại hoạn quan. Ông bàn với tể tướng Lệnh Hồ Đào việc tận tru hoạn quan, nhưng Lệnh Hồ Đào khuyên vua chỉ nên tìm cách hạn chế dần số hoạn quan trong cung. Hoạn quan biết việc này rất oán hận.Tuyên Tông tỏ ra nghiêm minh nhưng nghiêm khắc. Năm 855, tể tướng Bùi Hưu lại cực lực xin lập thái tử, nhưng sau đó, Bùi Hưu lại bị biếm làm Tiết độ sứ Tuyên Vũ. Năm 857, tể tướng Ngụy Mô can gián thẳng thắn bị biếm làm Tiết độ sứ Tây Xuyên.Năm 858, tể tướng Thôi Thận Do bị giáng chức làm Tiết độ sứ Đông Xuyên. Tiêu Nghiệp cùng Hạ Hầu Tư thay vào chức Tể tướng. Những năm cuối đời, Tuyên Tông lạm dụng đan dược phát nhọt bọc mà chết Biết khó qua khỏi, Tuyên Tông phó thác Quỳ vương cho các đại thần nhưng Tông Thật khi biết vua đã chết đã giả chiếu chỉ vua đón Vận vương Lý Ôn vào cung thực hiện đảo chính cung đình thay Quỳ vương. Vận vương Lý Ôn lên ngôi là Đường Ý Tông Lý Thôi
Đường Ý Tông là Hoàng trưởng tử của Đường Tuyên Tông và mẹ là Triều thị. Lý Ôn tuy mang thân phận trưởng tử nhưng không được vua cha yêu quý và không được lập làm Đông cung Hoàng thái tử. Khi Tuyên Tông băng hà năm 859, hoạn quan Vương Tông Thật tiêu diệt những người chống đối và ủng hộ Lý Ôn làm hoàng đế nhà Đường. Trong 14 năm tại vị, Đường Ý Tông bỏ bê triều chính, ham mê tửu sắc, tăng thuế nhân dân để phục vụ cho những nhu cầu xa xỉ của bản thân ông, tiêu dùng kiệt quệ ngân khố được cha mình là Đường Tuyên Tông đã dày công tích luỹ, khiến lòng người oán hận. Đại Đường lâm vào cảnh rối loạn, đói kém, dịch bệnh hoành hành kèm theo đó là sự nổi dậy của các thủ lĩnh nông dân khiến triều Đường rơi vào tình trạng không thể cứu vãn. Năm 873, Đường Ý Tông qua đời, ngôi hoàng đế được truyền cho người con trai 11 tuổi là Lý Nghiễm, tức Đường Hi Tông.
Đường Hy Tông sinh năm 862 mất năm 888, trị vì 15 năm từ năm 873 đến năm 888, nguyên danh Lý Nghiễm, đến năm 873 cải thành Lý Huyên. Đường Hy Tông là con trai thứ 5 của Đường Ý Tông và là anh trai của Đường Chiêu Tông. Đường Hy Tôngtrị vì trong lúc ông 11 tuổi. Ngày 19 tháng 7 năm 873, tức năm Hàm Thông thứ 14, Ý Tông băng hà, Hi Tông lên kế vị. Hi Tông suốt ngày chỉ thích đá gà với đánh cầu, ít khi lo việc quốc sự. Nhà Đại Đường thời ấy quốc khố cạn kiệt và hầu như tan rã, do bị tàn phá bởi các cuộc khởi nghĩa nông dân của Hoàng Sào và Vương Tiên Chi mà cuộc chiến của Hoàng Sào với triều Đường là đặc biệt khốc liệt. Các quân phiệt độc lập cai quản lãnh địa của họ, tình trạng này tiếp tục duy trì cho đến khi nhà Đường diệt vong năm 907.
Việt Nam thời Đường giai đoạn 846- 888 (hình thế đất nước thể hiện ở bản đồ).
Việt Nam thời Đường gọi là An Nam đô hộ phủ cho thời Bắc thuộc lần 3. (Bắc thuộc lần I từ năm 207 TCN đến năm 40 có khởi nghĩa giành độc lập của Hai Bà Trưng năm 40-43; Bắc thuộc lần 2 từ năm 43-541 có khởi nghĩa Bà Triệu; Nhà Tiền Lý và Triệu Việt Vương 541-602) . Thời kỳ Bắc thuộc lần 3 kéo dài từ năm 602 đến năm 905. Thời kỳ này bắt đầu khi Tùy Văn Đế năm 602 sai Lưu Phương đánh chiếm nước Vạn Xuân, bức hàng Lý Phật Tử là đời vua thứ ba hậu Lý Nam Đế. Thời Tùy, Việt Nam gọi là châu Giao. Trên đường đánh Lâm Ấp quay về, Lưu Phương mắc bệnh chết. Khâu Hòa được cử làm đại tổng quản châu Giao. Năm 618, nhà Đường lật đổ nhà Tùy, lập ra nước Đại Đường. Khâu Hòa xin thần phục nhà Đường năm 622. Việt Nam thành thuộc địa của Đại Đường.Thời gian Bắc thuộc lần 3 của Việt Nam kéo dài hơn 300 năm. Suốt thời gian này có trên 50 quan cai trị gồm một danh sách không đầy đủ, như sau: (những người ghi bằng chữ nghiêng có liên quan tới những cuộc nổi dậy của người Việt)
Nhà Đại Đường bị tan rã dù đã tiêu diệt được cuộc khởi nghĩa của Hoàng Sào. Các tiết độ sứ đã công khai cát cứ và gây nội chiến. Vua Đường Ai Đế bị quyền thần Chu Ôn khống chế và cướp ngôi năm 907. Chu Ôn từng cho anh ruột là Chu Toàn Dục sang làm Tiết độ sứ ở Việt Nam, nhưng Toàn Dục quá kém cỏi không đương nổi nên phải về.
Năm 905, Chu Ôn đày Độc Cô Tổn Tiết độ sứ Tĩnh Hải ra đảo Hải Nam và giết chết. Nhà Đường trong lúc chưa kịp cử quan cai trị mới sang trấn nhậm, một hào trưởng người Việt là Khúc Thừa Dụ đã chiếm lấy thủ phủ Đại La, tự xưng là Tiết độ sứ. Chu Ôn đang mưu cướp ngôi nhà Đường đã nhân danh vua Đường thừa nhận Khúc Thừa Dụ. Năm 905 Khúc Thừa Dụ tiến vào Đại La, giành quyền cai quản toàn bộ Tĩnh Hải. Người Việt khôi phục quyền tự chủ, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc lần 3 dài hơn 300 năm.
Cương vực Việt Nam thời nhà Đường: Từ năm 679 đến năm 866, An Nam đô hộ phủ gồm tây nam Quảng Tây (Trung Quốc), Miền Bắc và miền Trung Việt Nam ngày nay. Từ sau năm 866, Cao Biền được phong làm Cao Vương, Tĩnh Hải quân sau khi đánh đuổi được quân Nam Chiếu, xây thành Đại La và thiết lập hệ thống giao thông thủy bộ kết nối Đại La với Quảng Châu, hình thành thế phòng thủ liên hoàn vững chắc. Vua Đường Ý Tông triệu hồi Cao Biền về Bắc dẹp loạn và chuẩn tấu cho Cao Tầm làm tiết độ sứ Tĩnh Hải. Cương vực hành chính Tĩnh Hải và ranh giới địa lý với vương quốc Lâm Ấp còn nhiều điểm mơ hồ. Theo CựuĐường thư nói Lâm Ấp từ huyện Tây Quyển (Quảng Bình) trở xuống. Tân Đường Thư gọi Lâm Ấp Quốc là lãnh thổ có thể từ nam Phú Yên trở vào. Thủy Kinh Chú viết: “Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm, sau bỏ chữ Tượng để chỉ còn chữ Lâm”. Đại Nam Nhất Thống Chí thì nói Tượng Lâm là Bình Định và Phú Yên. Một số nhà Chăm Pa học cho rằng Lâm Ấp là lãnh thổ Indrapura từ mũi Hoành Sơn đến đèo Hải Vân, do vương triều Gangaraja, tức những người Ấn Độ đến từ sông Gange, khai sinh ra. Sự kiện này cần được ghi nhận với sự dè dặt vì cho đến nay chưa một dấu tích bia ký nào giải thích.
Vương quốc Nam Chiếu (738-937) còn có tên là Đại Lễ (người Thổ Phồn gọi Khương Vực) là một vương quốc của người Bạch và người Di . Người Bạch xưa còn được gọi là Dân Gia, là một trong 56 dân tộc được Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chính thức công nhận. Dân số người Bạch theo thống kê năm 2000 là 1.858.063 người. Người Bạch sống chủ yếu ở các tỉnh Vân Nam, Quý Châu và Hồ Nam).
Phụ nữ người Bạch trong trang phục truyền thống
Người Lô Lô (theo cách gọi ở Việt Nam và Thái Lan) hay người Di theo cách gọi ở Trung Quốc Mùn Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn, là một sắc tộc có vùng cư trú truyền thống là tiểu vùng nam Trung Quốc – bắc bán đảo Đông Dương. Người Lô Lô là một trong số 54 dân tộc ở Việt Nam, cũng là một trong số các dân tộc thiểu số ở Thái Lan, Lào và Trung Quốc. Người Di ở Trung Quốc ngày nay có số dân 7.762.286 người[2], là dân tộc đông thứ 7 trong số 56 dân tộc được công nhận chính thức của Trung Quốc. Họ sống chủ yếu ở các vùng nông thôn, vùng núi thuộc các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu và Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây. Người Lô Lô tại Việt Nam cư trú chủ yếu ở các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc (tỉnh Hà Giang), Bảo Lạc (tỉnh Cao Bằng), Mường Khương (Lào Cai) với dân số năm 2009 là 4.541 người, cư trú tại 30 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố, cư trú tập trung tại Cao Bằng 52,3% và Hà Giang, Lai Châu.
Vương quốc Nam Chiếuđã phát triển rực rỡ ở Đông Nam Á trong các thế kỷ 8 và thế kỷ 9. Vương quốc nằm trong khu vực mà ngày nay là tỉnh Vân Nam của Trung Hoa, và một phần phía tây của Bắc Bộ Việt Nam. Nam Chiếu tồn tại từ năm 738, khi Mông Xá quốc quân Mông Bì La Các thống nhất Lục Chiếu, và nó đã đạt đến độ cực thịnh vào năm 860 khi ôm gọn vùng Vân Nam ngày nay, giáp với đông nam của Quý Châu, Tây Tạng, Tứ Xuyên; tây bắc của Việt Nam và chính bắc của Lào và Miến Điện. Quốc gia này bị diệt vong vào năm 902, khi quyền thần Trịnh Mãi Tự giết toàn bộ vương thất Nam Chiếu và tự lập nên Đại Trường Hòa. Chiến cục sau đó ở Nam Chiếu đã bất ổn định trong một thời gian, sau khi trải qua 3 thời đại thì chính thức hình thành nên một quốc gia cường thịnh khác ở Vân Nam là Vương quốc Đại Lý.
Nam Chiếu từ năm 858 tới năm 866 nhiều lần xâm chiếm An Nam (tên gọi Việt Nam thời ấy). Sử Việt Đại Việt sử ký toàn thư chép:
Mậu Dần, 858, (Đường Đại Trung, năm thứ 12). Mùa xuân, người Nam Chiếu kéo đến đông, đóng ở bến đò Cẩm Điền. Vương Thức khi đó là Giao Châu kinh lược đô hộ sứ, sai người đến dụ, chỉ một đêm người Nam Chiếu lại kéo đi. Nguyên nhân do đô hộ Lý Trác tham lam tàn bạo, mua hiếp bò ngựa của người Man, mỗi con chỉ trả cho một đấu muối, giết tù trưởng Man là Đỗ Tồn Thành, dân Man oán giận, dẫn đường cho người Nam Chiếu đến lấn cướp biên giới.
Tháng 5 năm ấy, người Nam Chiếu đến cướp, Thức đánh lui được.
Canh Thìn, 860, (Đường Ý Tông, Thôi Hàm Thông, năm thứ 1). Mùa đông, tháng 12, ngày Mậu Thân, người thổ man dẫn quân Nam Chiếu hợp lại hơn 30.000 người, đánh chiếm phủ trị.
Tân Tỵ, 861, (Đường Hàm Thông, năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng, vua Đường phát quân Ung, Quản và các đạo lân cận sang cứu Lý Hộ, đánh lại Nam Chiếu. Mùa hạ, tháng 6, ngày Quý Sửu, vua Đường sai phòng ngự sứ Diêm Châu là Vương Khoan làm Kinh lược sứ An Nam. Bấy giờ Lý Hộ từ Vũ Châu thu nhặt quân người địa phương Giao Châu đánh bọn Nam Chiếu, lấy lại được phủ thành.
Nhâm Ngọ, 862, (Đường Hàm Thông, năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, Nam Chiếu lại vào cướp phá. Vương Khoan mấy lần sai sứ cáo cấp. Vua Đường sai Hồ Nam quan sát sứ là Sái Tập thay thế, đem binh các đạo Hứa, Hoạt, Từ, Biện, Kinh, Tương, Đàm, Ngạc, hợp lại 30.000, giao cho Tập để chống cự. Yếu thế, quân Nam Chiếu rút lui.
Mùa đông, tháng 10, Nam Chiếu đem 50.000 người đến cướp, Tập cáo cấp. Vua Đường sai lấy quân hai đạo Kinh Nam, Hồ Nam 2.000 người và nghĩa chinh ở Quế Quản 3.000 người đến Ung Châu chịu lệnh tiết chế của Trịnh Ngu để sang cứu Sái Tập. Tháng 12, Tập lại xin thêm quân, vua Đường sắc cho Sơn Nam đông đạo đem 1.000 quân cung nỏ sang cứu.
Quý Mùi, 863, (Đường Hàm Thông, năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Ngọ, quân Nam Chiếu đánh chiếm phủ thành. Nam Chiếu hai lần chiếm Giao Châu, vừa giết vừa bắt gần 150.000 người. Khi rút lui còn lưu lại 20.000 quân, sai Tư Tấn giữ thành Giao Châu. Người Di Lão ở các khe động đều hàng phục cả. Vua Nam Chiếu cho thuộc hạ là Đoàn Tù Thiên làm tiết độ sứ phủ Giao Châu.
Giáp Thân, 864, (Đường Hàm Thông, năm thứ 5). Mùa thu, tháng 7, vua Đường cho Cao Biền làm Đô hộ tổng quản kinh lược chiêu thảo sứ.
Ất Dậu, 865, (Đường Hàm Thông, năm thứ 6). Mùa thu, tháng 7, Cao Biền sửa quân ở trấn Hải Môn. Biền đem hơn 5.000 quân vượt biển đi trước. Tháng 9, Biền đến Nam Định, Phong Châu, quân Man gần 50.000 đương gặt lúa, Biền ập đến đánh tan, chém được bọn Trương Thuyên, thu lấy số lúa đã gặt để nuôi quân.
Bính Tuất, 866, (Đường Hàm Thông, năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 4, Nam Chiếu sai Trương Tập giúp Tù Thiên đánh Giao Châu, cho Phạm Nật Ta làm Đô thống Giao Châu. Giám trận nhà Đường sai Vi Trọng Tể đem hơn 7.000 quân đến Phong Châu. Biền được thêm quân, tiến đánh Nam Chiếu, nhiều lần đánh tan được. Tháng ấy, Biền đánh tan quân Nam Chiếu, giết và bắt sống rất nhiều. Nam Chiếu thu quân còn sót chạy vào châu thành cố giữ. Mùa đông, tháng 10, Cao Biền vây châu thành hơn 10 ngày, người Man rất khốn quẫn. Biền đến nơi đốc thúc khích lệ tướng sĩ, lấy được thành, giết Tù Thiên và Chu Cổ Đạo là người thổ man dẫn đường cho quân Nam Chiếu, chém hơn 30.000 đầu. Quân Nam Chiếu trốn đi, Biền lại phá được hai động thổ man đã theo Nam Chiếu, giết tù trưởng. Người thổ man rủ nhau quy phục đến 17.000 người.
Cao Biền cuộc đời và thời thế khảo cứu thâm cung bí sử thời hậu Đường và Việt Nam thời Đường giai đoạn 846- 888 góp phần giúp chúng ta hiểu rõ Cao Biền là ai, đánh giá đúng Cao Biền huyền thoại và sự thật.
VIẾNG MỘ CAO BIỀN ĐẤT PHÚ YÊN
Hoàng Kim
Cao Vương1 tinh đẩu trời xứ Bắc Lão sư 2an hải đất phương Nam Sống gửi chốn xưa lưu thiên cổ 3 Thác về đất mới đón vạn xuân4 Vùng cao tụ khí bình an tới 5 Biển thẳm hoàn lưu chính khí về 6 Danh tướng đại sư thầy địa lý 7 Nghe tiếng nghìn năm ta xuống xe 8BÍ MẬT CAO BIỀN TRONG SỬ VIỆT (tiếp theo và hết) Hoàng Kim nghiên cứu lịch sử có đăng ba tiểu luận nhỏ tìm hiểu về Cao Biền. Một là “Cao Biền huyền thoại và sự thật” hai là “Cao Biền cuộc đời và thời thế. Ba là “Viếng mộ Cao Biền đất Phú Yên” .Bài ba cũng là bài kết của chùm thư mục này. Cám ơn các bạn Phan LanHoa, Nguyễn Huệ Chí Thái cùng bạn đọc đã trao đổi và bàn luận. Hoàng Kim sẽ hiệu đính, bổ sung thông tin tại https://hoangkimlong.wordpress.com/2018/03/21/bi-mat-cao-bien-trong-su-viet/và Wikipedia Tiếng Việt, mục Cao BiềnGhi chú:(1) Thiên đô chiếu tức Chiếu dời đô do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội). (trích) Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào? Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993). Nguyên văn: 况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。万物極繁阜之丰。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要会。爲万世帝王之上都。朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。(2) Mả Cao Biền ở Đồng Môn, xóm Cát, thôn 5 xã An Hải, Tuy An, Phú Yên. Cao Biền thời Đường được phong Cao Vương , tĩnh Hải Quân(3) Lưu thiên cổ: Cựu Đường thư, Tân Đường thư Tư trị Thông giám, là ba bộ sách chính sử của Trung Quốc lưu danh thiên cổ Cao Biền(4) Đón vạn xuân: Vạn cổ thử giang san(5) Bình an tới: Ngôi đất Cao Biền chọn là làng An Hải(6) Chính khí về : chùa Thanh Lương có tượng Phật Quan Âm từ biển dạt vào(7) Danh tướng đại sư thầy địa lý là ba đánh giá chính về Cao Biền(8) Nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe “Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ” “bia tàn chữ mất vùi gai góc/ nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe”. (đọc thêm: http://hoangkimlong.blogspot.com/2010/06/nguyen-du-vieng-mo-lieu-ha-hue.html)(*) Cao Biền dòng dõi tướng môn, quản lý Thần Sách quân thân tín bên cạnh vua. Cao Biền là danh tướng, đạo sư, thầy địa lý công trình sư và nhà tiên tri thời hậu Đường qua đúc kết bởi ba danh mục chính sử Trung Quốc là Cựu Đường Thư, Tân Đường Thư, Tư Trị Thông Giám của ba Tể tướng sử quan và danh sĩ tinh hoa Trung Quốc lần lượt là Lưu Hu, Âu Dương Tu ,Tư Mã Quang. Cao Biền là con người có thật trong lịch sử, giỏi như Gia Cát Vũ Hầu Khổng Minh thời Hán mạt Tam quốc trước đó. Sự khác biệt là Khổng Minh cúc cung tận tụy đến chết mới thôi, còn Cao Biền thì gặp lúc mạt Đường, nhiều kẻ mưu mô, lũ phương sĩ, hoạn quan, quyền thần và kẻ hám lợi cầu danh khắp mọi nơi, với sự kiệt sức của một triều đại đã khủng hoảng đến cực điểm Đặc biệt, Cao Biền bị bó tay khi vua kém tài đức, buông bỏ chính sự, mê muội đồng bóng, tin theo lời dèm pha và mưu kế nghịch tặc tìm cách mượn tay giặc giết lần giết mòn thân tín của ông vì sợ Cao Biền tiếm quyền. Nguy hại thay vua giỏi bị hoạn quan đầu độc chết; vua kém, nhỏ tuổi, bất tài, dễ khiến thì bị đẩy lên ngôi. Sự bi thảm của Cao Biền là ở chỗ đó nhưng sự kiệt xuất của ông là di sản ngàn năm còn mãi với thời gian.“Cao Biền cuộc đời và thời thế” đối chiếu sử Việt tại Đại Việt sử ký toàn thư (1675), Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký Gia phả Trạng Trình của Vũ Khâm Lân (1743) Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ (1775), Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim (1919) với nhiều dẫn liệu về Cao Biền đặc biệt trong Thiên đô chiếu của Lý Thái Tổ năm 1010, Thiền Uyển Tập Anh (Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga dịch từ bản chữ Hán được khắc in năm 1715. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990) cùng với các huyền tích, huyền thoại và sự đánh giá của các sử thần Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên. Đồng thời tập hợp gạn đục khơi trong các giai thoại ‘Lẩy bẫy như Cao Biền dậy non’ ‘Long mạch đất Việt và Cao Biền’ để có được thông tin Chuyện Cao Biền tích cũ viết lại. Chân dung Cao Biền khá trùng khớp với nhận định trên. Ông là một danh tướng, đạo sư, thầy địa lý công trình sư và nhà tiên tri thời hậu Đường. Ông là một danh tướng khi đánh bại các cuộc xâm nhập của Nam Chiếu, giữ yên cương vực Tĩnh Hải (trong đó có phần đất của Việt Nam ngày nay). Ông cũng cai trị có phép tắc khi nhậm chức Hữu kim ngô đại tướng quân (868), kiểm hiệu công bộ thượng thư (870), Thiên Bình tiết độ sứ (873), Tây Xuyên tiết độ sứ (874), Thành Đô doãn (875) Kinh Nam tiết độ sứ (878), Trấn Hải tiết độ sứ (879), Hoài Nam tiết độ sứ (880) được dân chúng ngợi ca, nhưng ông đã thất bại trong việc đẩy lui cuộc nổi dậy của Hoàng Sào, ông bị coi là phản thần tạo phản ở Hoài Nam quân, bị Tần Ngạn mưu hại, (nhưng sử Việt và tâm thức dân gian thì cho rằng vợ chồng Cao Biền đều chết ở đất phương Nam , vợ Cao Biền là bà Lã Thị Nga tổ sư nghề dệt lụa Hà Đông đền thờ tại làng Vạn Phúc, Hà Đông ngày nay, Cao Biền thì thành công sau kế “kim thuyền thoát xác” để Cao Biền sau đó về chết ở Đầm Môn xóm cát, thôn 5, An Hải, Tuy An, Phú Yên .Ông bà Cao Biền sống và chết ở đất Việt.Viếng mộ Cao Biền đất Phú Yên là thăm và chiêu tuyết một danh tướng, đạo sư, thầy địa lý công trình sư và nhà tiên tri thời hậu Đường mà sự nghiệp của ông dẫu khen hay chê, dẫu bia đời bia miệng công tội ngàn năm thì dấu ấn và bài học lịch sử vẫn đọng mãi với thời gian. Bài học đặc biệt thấm thía nhất là cuối đời ông đã rũ bỏ kẻ làm vua không xứng để biết tìm về với dân và giá trị cốt lõi. Tuy ông về nơi cát đá nhưng dấu ấn của ông thì không thể xóa nhòa. Người ấy nay đã trãi trên ngàn năm về vùng bình an sông núi hữu tình ở vùng an hải tên xưa và nay làm bạn với đất phú trời yên dân dân lành . Kẻ sĩ trong thiên hạ quý người thân thương, tri âm tri kỷ, trọng hiền tài, thầy quý bạn hiền, việc làm và lời nói luôn giữ gìn chí thiện, minh triết, thật không thẹn với lòng mình.xem bản đầy đủ tại đây https://hoangkimlong.wordpress.com/2018/03/21/bi-mat-cao-bien-trong-su-viet/
HẬU ĐƯỜNG ĐÊM TRƯỚC BÌNH MINH VIỆT Chuyện Cao Biền tích cũ viết lại
Hoàng Kim
Cao Biền rời bỏ triều Đường để về chết ở đất Việt tại an hải vạn xuân là một trí tuệ lớn. Hậu Đường sau khi Cao Biền rời bỏ năm 887 cũng bị tan rã, lụi tàn năm 907, bị quyền thần Chu Ôn khống chế và soán ngôi. Cao Biến là một danh tướng, đại sư, nhà địa lý công trình sư và tiên tri. Việt Nam là điểm đến tuyệt vời, thân thiện, hòa hiếu của những danh sĩ tinh hoa, người lương thiện và cả những người buông đao thành Phật. Chuyện Cao Biền tích cũ viết lại lưu giữ một bài học lịch sử văn hóa và tâm linh quý giá. Hoàng Kim dựa trên tài liệu Wikipedia tiếng Việt, tiếng Trung, tiếng Anh, đối chiếu so sánh với nhiều nguồn cổ sử Trung Hoa và Việt Nam, để chỉnh lý dần hoàn thiện tài liệu này.
Cao Biền ( 高骈; 高駢; Gāo Pián), tên tự là Thiên Lý (千里),là một danh tướng, đại sư, thầy địa lý, nhà kiến trúc sư và tiên tri thời Đường. Cao Biền sinh năm 821 mất ngày 24 tháng 9, năm 887 tước vị Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân Cao Vương Lạc Điêu thị ngự, Cao Thái úy; Kiểm giáo Thái úy chức quan: Chư đạo Hành doanh binh mã Đô thống. Cao Biền trở thành danh tướng được vua Đường Ý Tôn tín nhiệm phong làm Cao Vương Tỉnh Hải Quân khi ông trong vòng 5 năm hành phương Nam đã kịp làm bốn việc lớn: 1) đánh bại các cuộc xâm nhập của Nam Chiếu, cứu nguy và giải vây An Nam mà trước đó Nam Chiếu từ năm 858 tới năm 866 đã nhiều lần xâm chiếm An Nam nhưng nhiều tướng lĩnh khác của triều Đường không thể ngăn chặn thành công. 2) Xây thành Đại La là vòng thành ngoài của Hoàng thành Thăng Long, di sản văn hóa thế giới do UNESCO công nhận năm, Hoàng Thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long – Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu từ thời kì tiền Thăng Long (An Nam đô hộ phủ thế kỷ VII) qua thời Đinh – Tiền Lê, phát triển mạnh dưới thời Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn và khu trung tâm lịch sử văn hóa chính trị kinh tế khoa học kỹ thuật của Việt Nam ngày nay. Thành Đại La thuở ấy là hệ thống phòng ngự chính yếu giữ an ninh cho 40 vạn hộ dân, ngăn chặn hiệu quả sự xâm nhập nhiều lần của Nam Chiếu, Java, Chăm Pa vào sát hại dân chúng An Nam hàng chục vạn người qua nhiều thời kỳ 3) Xây dựng hệ thống thủy bộ đặc biệt là hệ thống thủy đạo nối Đại La (Hà Nội) với Hải Môn (Hải Phòng ngày nay) và sông Bắc Luân và Quảng Châu thành hệ thống phòng thủ tấn công ứng cứu liên hoàn để an vùng Tĩnh Hải. 4) Đạo sư, thầy địa lý long mạch Việt về thế núi hình sông non sông bờ cõi Việt Nam năm huyệt đạo long mạch trọng yếu của đất Việt. Ông sớm nghiên cứu và phát triển học thuyết địa chính trị, lý học, kinh dịch, dư địa chí dịch lý phương Đông theo phương thức thực hành. Thành công này của ông càng được tỏa sáng ở việc ông không chỉ là một danh tướng mà còn là một nhà cai trị thành công. Cao Biền được ba bộ chính sử cổ uy tín của Trung Quốc là Tư Trị Thông Giám, Cựu Đường Thư và Tân Đường Thư đều lưu lại sự thật lịch sử và đánh giá là người “cai trị có phép tắc” khi ông đảm nhiệm một loạt các chức vụ trọng yếu sau đó: Hữu kim ngô đại tướng quân (868), kiểm hiệu công bộ thượng thư (870), Thiên Bình tiết độ sứ (873), Tây Xuyên tiết độ sứ (874), Thành Đô doãn (875) Kinh Nam tiết độ sứ (878), Trấn Hải tiết độ sứ (879), Hoài Nam tiết độ sứ (880) được dân chúng ngợi ca. Cao Biền bị coi là phản thần vì hoạn quan, phương sĩ, những kẻ mưu mô đặc biệt nhất là vua lười và tin đồng bóng. Vua đã nghi kỵ sợ ông tiếm ngôi báu, nên đã không tin dùng, lại dùng kế mượn tay kẻ địch để chặt đứt vây cánh của người hiền tài. Rốt cục ông đã bị kết tội không thể đẩy lui cuộc nổi dậy của Hoàng Sào, quản lý yếu kém Hoài Nam quân Năm 887, một cuộc nổi dậy chống lại ông đã dẫn đến cảnh giao chiến khốc liệt tại Hoài Nam quân, kết quả là ông bị Tần Ngạn giam cầm rồi sát hại. Sử Việt, dã sử và điền dã đã hé hộ Cao Biền lập kế giả chết để cuối đời chọn Việt Nam làm quê hượng. Mả Cao Biền ở Đồng Môn, xóm Cát, thôn 5 xã An Hải, Tuy An, Phú Yên.
Cao Biền là người U châu (là Bắc Kinh ngày nay), ông là cháu nội của danh tướng Cao Sùng Văn là Tả Thần Sách hành doanh (theo sách Cựu Đường thư là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hu triều Hậu Tấn biên soạn. Lưu Hu sau này làm tể tướng giám sát việc tu sửa, xuất bản nên người ta coi sách này là do ông chủ biên). Danh tướng Cao Sùng Văn là người đã trấn áp cuộc nổi dậy của Lưu Tịch dưới triều đại của Đường Hiến Tông. Mùa xuân năm 806, Đường Hiến Tông sai Cao Sùng Văn Tiết độ sứ dẫn 5000 quân làm tiên phong, Lý Nguyên Dịch dẫn 2000 quân yểm hậu, cùng Sơn Nam Tây Đạo Tiết độ sứ Nghiêm Lệ cùng tiến công Lưu Tịch. Chiến sự nổ ra quyết liệt, ban đầu Lưu Tịch bắt sống được Lý Khang nhưng không lâu sau thì liên tục bại trận, phải bỏ trốn khỏi Tử châu và tập hợp được khoảng 10.000 quân tiếp tục chống trả nhưng vẫn liên tiếp thua trận. Sau đó Lưu Tịch và Lư Văn Nhược mất cả Thành Đô, định bỏ trốn sang Thổ Phiên nhưng bị quân Đường bắt được và giải về kinh và bị diệt môn.
Cha của Cao Biền là Cao Thừa Minh, là ngu hậu trong Thần Sách quân. Mặc dù gia tộc của Cao Biền đã vài đời làm quan trong cấm quân, song khi còn nhỏ Cao Biền là người giỏi văn, và thường thảo luận về chuyện lý đạo với các nho sĩ.
Cao Biền làm tướng trong ba đời vua Đường Tuyên Tông, Đường Ý Tông và Đường Hi Tông. Cao Biền có địa vị cao trong lưỡng quân của Thần Sách quân (là ngự lâm quân của Thiên tử) . Ông được thăng dần đến chức “Hữu Thần Sách đô ngu hậu”, theo Cựu Đường thư quyển 182, Cao Biền khi đang phụng sự trong Thần Sách quân, đã kết nghĩa huynh đệ với Chu Bảo, theo Tự trị Thông giám, quyển 254
Đường Ý Tông, tên thật là Lý Ôn hay Lý Thôi. Đường Ý Tông là Hoàng trưởng tử của Đường Tuyên Tông, hoàng đế thứ 17 của Đại Đường, mẹ là Triều thị (Nguyên Chiêu thái hậu nương nương). Đường Ý Tông sinh năm 833, mang thân phận trưởng tử nhưng không được vua cha yêu quý và không được lập làm Đông cung Hoàng thái tử. Tuyên Tông băng hà năm 859, hoạn quan Vương Tông Thật đã tiêu diệt những người chống đối và ủng hộ Lý Ôn điện hạ làm vua thay vì Quỳ vương Lý Tư là hoàng tử được Tuyên Tông muôn phần yêu quý. Lý Ôn đổi tên thành Lý Thôi và trở thành Đường Ý Tông hoàng đế nhà Đường. Đường Ý Tông trong 14 năm tại vị, bỏ bê triều chính, ham mê tửu sắc, tăng thuế nhân dân để phục vụ cho những nhu cầu xa xỉ của bản thân ông, tiêu dùng kiệt quệ ngân khố được cha mình là Đường Tuyên Tông đã dày công tích luỹ, khiến lòng người oán hận. Đại Đường cuối thời đại Ý Tông lâm vào cảnh rối loạn, đói kém, dịch bệnh hoành hành kèm theo đó là sự nổi dậy của các thủ lĩnh nông dân khiến triều đại này rơi vào tình trạng không thể cứu vãn. Năm 873, Ý Tông qua đời, ngôi hoàng đế được truyền cho người con trai mới 11 tuổi là Lý Nghiễm, tức Đường Hi Tông. Trong các cuộc nổi dậy thời Đường Ý Tông đáng chú ý có một cuộc nổi dậy của người Đảng Hạng. là tộc người được đồng nhất với nước Tây Hạ, họ cũng được gọi là Đảng Hạng Khương là một tộc người nói tiếng Khương và đã thiên di đến khu vực Tây Bắc Trung Quốc vào khoảng thế kỷ 10.
Cao Biền xuất một vạn cấm binh đến đóng quân tại Trường Vũ thành Ông giỏi dụng binh nên sớm giành được thắng lợi, trong khi một số tướng khác trước đó đã không thành công nên vua Đường Ý Tông rất khen ngợi. Cao Biền được chuyển đến giữ chức Thứ sử, Kinh lược sứ Tần châu nay thuộc Cam Túc để đối phó với các cuộc tập kích của ngoại tộc ở phía tây. Cao Biền tiếp tục lập công (theo sách Cựu Đường thư, quyển 182).
Cao Biền chống Nam Chiếu tại An Nam
Năm Hàm Thông thứ 5 (863), quân Nam Chiếu (lúc này có quốc hiệu Đại Lễ) đã chiếm được An Nam từ tay quân Đường, Các chiến dịch của quân Đường sau đó nhằm đẩy lui quân Đại Lễ đều thất bại. Năm 864, Đồng bình chương sự Hạ Hầu Tư tiến cử Kiêu vệ tướng quân Cao Biền tiếp quản quân lính dưới quyền Lĩnh Nam Tây đạo tại Nam Ninh Quảng Tây tiết độ sứ Trương Nhân để tiến công An Nam. Cao Biền được giữ chức An Nam đô hộ, kinh lược chiêu thảo sứ, theo sách Tư trị Thông giám quyển 250.
Cao Biền mùa thu năm 865, quản 25.000 binh tại Hải Môn (nay thuộc Hải Phòng) và chưa tiến công thủ phủ Giao Chỉ của An Nam. Giám quân Lý Duy Chu vốn không ưa Cao Biền và muốn ông bị trừ khử, vì thế đã nhiều lần thúc giục Cao Biền tiến quân. Cao Biền do đó chấp thuận đem 5.000 binh tiến trước về phía tây và hẹn Lý Duy Chu phát binh ứng viện, song sau khi Cao Biền dời đi, Lý Duy Chu kiểm soát các binh lính còn lại và không phát bất cứ viện trợ nào. Khi hay tin Cao Biền tiến quân đến, hoàng đế Đại Lễ là Thế Long khiển tướng Dương Tập Tư đến cứu viện tướng trấn thủ An Nam là Đoàn Tù Thiên. Trong khi đó, Vi Trọng Tể đem 7.000 quân đến Phong châu hợp binh với Cao Biền đánh bại quân Đại Lễ. Tuy nhiên, khi sớ tấu chiến thắng đến Hải Môn, Lý Duy Chu đều ngăn lại và từ chối chuyển tiếp chúng đến Trường An. Đường Ý Tông thấy lạ vì không nhận được tin tức gì, khi hỏi Lý Duy Chu thì Duy Chu tấu rằng Cao Biền trú quân ở Phong châu, không tiến. Đường Ý Tông tức giận, và đến mùa hè năm 866, Hoàng đế cho hữu vũ vệ tướng quân Vương Yến Quyền thay thế Cao Biền trấn An Nam, triệu Cao Biền về Trường An để trách tội.
Cao Biền nhận được lệnh vua triệu hồi và buộc ông phải giao quyền lại cho Vương Yến Quyền khi ông đang bao vây thành Giao Chỉ. Ông đã giao lại binh sĩ cho Vi Trọng Tể và trở về Hải Môn để gặp Vương Yến Quyền chuyển giao quyền hành. Tuy nhiên, Cao Biền đã phái tiểu hiệu Tăng Cổn còn Vi Trọng Tể phái tiểu sứ Vương Huệ Tán đi trước để báo tin chiến thắng tại Giao Chỉ, họ cho rằng Lý Duy Chu sẽ lại ngăn cản nên đi đường vòng để tránh doanh trại của Lý Duy Chu và Vương Yến Quyền, sau đó tiến về Trường An. Khi Tăng Cổn và Vương Huệ Tán đến Trường An và dâng tấu, Đường Ý Tông hài lòng và ban chỉ thăng chức cho Cao Biền là Kiểm hiệu Công bộ thượng thư, phục quyền trấn thủ An Nam. Cao Biền sau khi được giao lại binh quyền đã cùng 100 thủ túc lên đường đến Hải Môn thì nhận được chiếu chỉ và trở lại chiến trường thành Giao Chỉ, nơi Lý Duy Chu và Vương Yến Quyền tiếp quản song đã chấm dứt bao vây. Cao Biền tiếp tục bao vây thành, đến tháng thứ 4 năm Hàm Thông thứ 7 (866) thì hạ được thành, giết chết Đoàn Tù Thiên và tù trưởng bản địa Chu Đạo Cổ người liên minh với quân Đại Lễ. Đường Ý Tông khi hay tin Cao Biền chiếm được thành Giao Chỉ đã đổi An Nam đô hộ phủ thành Tĩnh Hải quân, bổ nhiệm Cao Biền là Tiết độ sứ. Cao Biền cho xây thành Đại La chu vi 3000 bộ, hơn 40 vạn gian phòng ốc, từ đó quân Đại Lễ không còn xâm phạm. Sau đó, ông cũng tiến hành một dự án lớn (nối thành Đại La với Hải Môn (Hải Phòng ngày nay) sông Bắc Luân và Quảng Châu) để loại bỏ những trở ngại tự nhiên trên thủy lộ giữa Tĩnh Hải quân và Lĩnh Nam Đông đạo khó khăn về giao thông của Giao Chỉ được loại bỏ và tăng cường được hệ thống phòng thủ cho vùng Tĩnh Hải.
Vua nước Nam Chiếu thuở đó là Thế Long là con trai của Khuyến Phong Hữu, là đệ bát đại quốc vương và đệ nhất đại hoàng đế của Nam Chiếu, tại vị từ năm 859 đến năm 877. Năm 859, Khuyến Phong Hữu qua đời. Thế Long kế vị làm vua. Thế Long đã phạm danh húy của hai vị hoàng đế nhà Đường (Đường Thái Tông là Lý Thế Dân, Đường Huyền Tông là Lý Long Cơ), lên ngôi vào năm hoàng đế Đường Tuyên Tông băng hà nhưng Thế Long không gửi sứ sang điếu tế, cũng không cáo tang vua cha là Khuyến Phong Hữu từ tần. Vua Đường Ý Tông thấy vậy không chịu sắc phong làm cho Thế Long tiến đến phản Đường. Năm 860, Thế Long cải nguyên Kiến Cực, cải quốc hiệu là Đại Lễ, và tự xưng Hoàng đế. Năm 859, Thế Long công hãm Bá Châu của Đường (nay là Tuân Nghĩa, Quý Châu), năm 860, năm 863, hai lần công hãm Giao Châu (tức miền bắc Việt Nam ngày nay), năm 861, công hãm Ung Châu (nay là Nam Ninh, Quảng Tây), cho quân lính cướp bóc của cải. Năm 866, Cao Biền đánh bại quân Nam Chiếu, thu phục Giao Châu. Năm 869, Nam Chiếu mở cuộc tấn công lớn vào Thành Đô, Đường Ý Tông triệu hồi Cao Biền về Bắc, liên tiếp đảm nhiệm một loạt các chức vụ trọng yếu: Hữu kim ngô đại tướng quân (868), kiểm hiệu công bộ thượng thư (870), Thiên Bình tiết độ sứ (873), Tây Xuyên tiết độ sứ (874), Thành Đô doãn (875) Kinh Nam tiết độ sứ (878), Trấn Hải tiết độ sứ (879), Hoài Nam tiết độ sứ (880) nơi nào nguy hiểm nhất là điều Cao Biền về đó, Tại Cao Biền đắp Thành Đô phủ bằng gạch, tăng cường phòng ngự công sự chuyển đất Thục từ nguy thành an. Cuộc chiến tranh trường kỳ giữa nhà Đường và Nam Chiếu dẫn đến tổn thất đặc biệt to lớn: đối với nhà Đường đã trực tiếp dẫn đến Bàng Huân chi biến làm tê liệt hoạt động và vét sạch ngân sách; đối với Nam Chiếu sức mạnh của vương quốc cạn kiệt. Năm 877, Thế Long qua đời, con là Long Thuấn kế vị làm vua. (Nam Chiếu khi đó đã yếu hẵn nhưng cũng là lúc có sự trỗi dậy mạnh mẽ của Vương Tiên Chi và Hoàng Sào, hai thủ lĩnh lãnh đạo cuộc nổi dậy của nông dân làm sụp đổ triều Đường sau này. Cao Biền nổi bật trong mưu lược trị loạn.
Cao Bình làm Thiên Bình tiết độ sứ
Năm 868, Cao Biền được triệu hồi về Trường An giữ chức Hữu kim ngô đại tướng quân. Cao Biền thỉnh triều đình và được chấp thuận để cho Cao Tầm, vị tướng cũng là người cháu của ông có nhiều công lao chống Nam Chiếu, được kế nhiệm ông giữ chức Tĩnh Hải tiết độ sứ, theo Tư Trị Thông Giám quyển 251 và Tân Đường Thư quyển 224 hạ. Thiên tử khen ngợi tài năng của Cao Biền, lần lượt đổi chức quan của ông thành kiểm hiệu công bộ thượng thư, Vận châu thứ sử, rồi Thiên Bình tiết độ sứ, trị sở tại nước Lỗ cũ nay thuộc Thái An, Sơn Đông. Ông cai trị có phép tắc khiến dân lại ngợi ca, theo Cựu Đường thư quyển 182. Năm 873, khi Đường Ý Tông qua đời và Đường Hy Tông lên kế vị, Cao Biền mặc dù tại nhiệm ở Thiên Bình, song vẫn được ban chức Đồng bình chương sự, theo Tư Trị Thông Giám, quyển 252.
Vua Đường Ý Tông Lý Thôi và Đường Hi Tông Lý Huyên đều là những ông vua kém năng lực, thế lực nhà Đường xuống dốc trầm trọng. Ý Tông là ông vua kiêu mạn, xa xỉ lại dâm dật, tin dùng hoạn quan. Khi Ý Tông kế vị năm 859, sự giàu nghèo trong xã hội ngày càng có khoảng cách lớn, mâu thuẫn giai cấp càng tăng, khắp nơi dân chúng nổi dậy, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Cừu Phủ nổi dậy ở Chiết Giang số dân tham gia vào bộ chúng lên tới nghìn người. Ở mặt nam có nước Nam Chiếu nổi dậy chiến tranh với nhà Đường, đem quân đánh chiếm Giao Chỉ (nay là miền bắc Việt Nam). Trong khi quân phòng bị Nam Chiếu ở tại Quế Lâm cũng nổi dậy làm phản do cấp trên trì hoãn không cho họ về quê. Họ cướp lương và đưa thủ lĩnh Bàng Huân lên đứng đầu cuộc nổi loạn. Bàng Huân dẫn nghĩa quân bắc tiến đánh đến Từ Châu, bắt lấy viên Quan sát sứ ở Từ Châu là Thôi Ngạn Tằng, rất nhiều nông dân nổi dậy hưởng ứng, nhất thời thanh thế chấn động, chiếm cứ Hoài Khẩu, uy hiếp thành Trường An. Nhưng Bàng Huân lại muốn được triều đình chiêu an, ý muốn được phong làm Tiết độ sứ, thường cứ bỏ lỡ cơ hội tốt, đến năm 869 bị đại tướng nhà Đường là Khang Thừa Huấn đánh giết. Từ những năm đầu dân chúng khởi nghĩa, Ý Tông vẫn cứ không lo, chìm đắm trong thanh sắc vui thú, chỉ thích ai có công làm cho nhà vua vui vẻ, tin bọn gian nịnh, triều chính bại hoại đen tối. Ngày 19 tháng 7 năm 873, tức năm Hàm Thông thứ 14, Ý Tông băng hà, Hi Tông lên kế vị lúc 11 tuổi. Hi Tông suốt ngày chỉ thích đá gà với đánh cầu, ít khi lo việc quốc sự. Năm 874, loạn lạc đã nổi lên khắp nơi. Bấy giờ giá muối ngày càng tăng, phiên trấn thì binh lửa chẳng dứt, bách tính liền nhiều năm bị bọn cường hào địa chủ kiêm tịnh mất ruộng đất, nên xảy đói kém nghiêm trọng, mà phu thuế ngày càng nặng, theo Trung Quốc tông sử cương yếu của Giang Tăng Khánh.
Cao Biền làm Tây Xuyên tiết độ sứ
Năm 874, Đại Lễ tiến công vào Tây Xuyên của Đường, trị sở tại nước Thục Hán cũ, nay thuộc Thành Đô, Tứ Xuyên. Tiết độ sứ Tây Xuyên Ngưu Tùng không kháng cự nổi. Quân Đại Lễ tiến đến thủ phủ Thành Đô rồi triệt thoái, song Ngưu Tùng sợ Đại Lễ sẽ lại tiến công nên đã tập hợp người dân khu vực xung quanh vào trong thành Thành Đô. Đường Hy Tông lệnh cho các quân xung quanh: Hà Đông, Sơn Nam Tây đạo, Đông Xuyên phát binh cứu viện Tây Xuyên, trong khi lệnh cho Cao Biền tiến đến Tây Xuyên để giải quyết “man sự”. Năm 875, Cao Biền được bổ nhiệm là Tây Xuyên tiết độ sứ, theo sách Tư Trị Thông Giám quyển 252, và làm lệnh doãn Thành Đô theo sách Cựu Đường thư quyển 182. Cao Biền đã hạ lệnh mở cổng thành cho người dân ra ngoài trước khi ông đến thành này, vì ông nhận thấy sẽ có nhiều chuyện phức tạp nếu để nhiều người dân các xứ tụ tập bên trong tường thành Thành Đô. Người dân Thục qua việc này hài lòng về ông. Mùa xuân năm 875, Cao Biền tiến hành một số cuộc tiến công nhỏ thăm dò trừng phạt Đại Lễ, nhưng trọng tâm của ông là xây dựng Thành Đô theo mẫu hình thành Đại La và một số thành lũy trọng yếu tại biên giới với Đại Lễ. Theo mô tả, do ông tăng cường phòng thủ, Đại Lễ không còn tiếp tục tiến hành các cuộc tiến công vào Tây Xuyên nữa , song thỉnh cầu của Cao Biền tổng tiến công Đại Lễ thì bị Đường Hy Tông từ chối, theo sách Tự Trị Thông Giám quyển 252.
Trong cuộc tiến công năm 870 của Đại Lễ vào Thành Đô, một quan lại là Dương Khánh Phục mộ được một đội quân gọi là “Đột Tương” đến tăng viện trấn thủ Thành Đô. Khi Cao Biền đến, ông đã hạ lệnh hủy bỏ nhiệm vụ của Đột Tương và thậm chí còn dừng cung cấp lương thực cho họ. Cao Biền là một tín đồ Đạo giáo mộ đạo, ông càng khiến các binh sĩ tức giận khi làm phép trước các trận chiến và tuyên bố việc này là cần thiết do binh sĩ Thục hèn yếu và sợ sệt. Ông cũng tước bỏ nhiệm vụ của các quan mà ban đầu là kẻ lại cấp thấp, lệnh dân gian đều phải dùng tiền túc mạch (mỗi xâu tiền đủ 10 đồng), nếu thiếu sẽ bị hặc tội hành lộ và mất mạng. Ông thực hiện các hình phạt nghiêm khắc, người Thục đều không ưa. Vào mùa hè năm 875, Đột Tương nổi dậy, tiến công vào phủ đình của Cao Biền, Cao Biền chạy trốn và không bị quân Đột Tương bắt được. Đô tướng Trương Kiệt suất 100 lính vào phủ đánh Đột Tương, Đột Tương triệt thoái khỏi nha môn. Sau đó, Cao Biền công khai tạ lỗi và phục chức danh và lương cho Đột Tương. Tuy nhiên, vào một đêm tháng sau đó, Cao Biền đã hạ lệnh bắt giữ và giết chết các binh sĩ Đột Tương và gia quyến của họ. Một phụ nữ trước khi lâm hình được ghi chép là mắng chửi Cao Biền, theo Tư Trị Thông Giám quyển 252. “Cao Biền, ngươi vô cớ tước bỏ chức danh, y lương của các tướng sĩ có công lao, khiến dân chúng trong thành phẫn nộ. Nhà ngươi may mắn được miễn, song không tự kiểm điểm lại tội lỗi, lại trá sát vạn người vô tội. Thiên địa quỷ thần, sao có thể cho phép người làm như vậy! Ta tất sẽ tố ngươi với Thượng đế, có ngày gia đình ngươi sẽ đều bị diệt như nhà ta hôm nay, oan ức ô nhục như ta hôm nay, sẽ phải lo sợ và đau khổ như ta hôm nay!” Cao Biền thậm chí còn muốn hành hình các binh sĩ Đột Tương không có mặt tại Thành Đô vào thời điểm xảy ra binh biến, và chỉ dừng lại khi thân lại Vương Ân can gián, và nói rằng ông là người phụng Đạo thì cần hiếu sinh ác sát, theo Tư Trị Thông Giám quyển 252.
Đoạn văn này sự hiểu của người đời sau có khác nhau. Có người tin vào lời một phụ nữ trước khi lâm hình được ghi chép là mắng chửi Cao Biền để chê ông là ác sát lúc xử lý binh biến. Đọc kỹ lại chính văn của Tư Trị Thông Giám thì thật ra không phải vậy. Quân Nam Chiếu thiện chiến (sau này Thái Bình Thiên Quốc cũng nổi lên ở vùng này xuýt làm sụp đổ nhà Thanh). Cao Biền đã sớm đề phòng nội gián quân dân gian tế trà trộn vào quân nhất thời nổi dậy trong ứng ngoài hợp sẽ rất khó ứng phó nên đã đưa dân phúc tạp ra ngoài, để ý đề phòng quân ‘Đột Tương’ tước bỏ nhiệm vụ của các quan mà ban đầu là kẻ lại cấp thấp, lệnh dân gian đều phải dùng tiền túc mạch (mỗi xâu tiền đủ 10 đồng), nếu thiếu sẽ bị hặc tội hành lộ và mất mạng, là cắt đứt hệ thống ‘địch ngầm hai mang’ thư lại truyền tin. Binh biến ‘Đột Tương’ xảy ra là một minh chứng Cao Biền lão luyện chiến trận và phán đoán sáng suốt.
Năm 876, Đại Lễ khiển sứ giả đến chỗ Cao Biền cầu hòa, song lại tập kích qua biên giới không ngừng, Cao Biền xử trảm vị sứ giả này. Sau đó, Đại Lễ lại gửi “mộc giáp thư” cho Cao Biền, yêu cầu được mượn Cẩm Giang cho ngựa uống nước. Cao Biền cho xây dựng phủ thành Thành Đô, tăng cường công sự phòng ngự. Cao Biền cũng phái hòa thượng Cảnh Tiên đến Đại Lễ, đảm bảo hòa bình và nói rằng triều đình Đường sẽ gả một công chúa cho hoàng đế Thế Long. Do các hành động của ông, Đại Lễ sau đó không còn quấy nhiễu, theo Tư Trị Thông Giám quyển 252.
Sách Việt sử Tiêu án của Ngô Thì Sĩ dẫn lời của sử thần Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên luận về Cao Biền:
“Lê Văn Hưu bàn rằng: Vì một Lý Trác tham tàn, đến nỗi gây nên họa người Mán cướp phá đến vài mươi năm, huống chi lại có người quá tệ hơn Lý Trác nữa. Được một Cao Biền biết đốc thúc, mà bình được vài vạn giặc Mán, huống chi có người hơn Cao Biền nữa. Vậy thì người khéo trị nước nên cẩn thận việc kén chọn Mục và Thú lắm.”
“Ngô Sĩ Liên bàn rằng: Cao Biền phá Nam Chiếu để cứu vớt dân đời bấy giờ, xây thành Đại La, làm mạnh thế đô ấp muôn năm, công to tát lắm. Đến như việc khơi cửa sông, đặt ra trạm, làm việc công bằng, hkông hề có chút tư tình nào, vẫn là việc có thể cảm được thần minh, mà được nhiều điểm tốt. Thời Ngũ Đại, Vương Thẩm Chi ở đất Mân, những người buôn bán qua lại, có sự ngăn trở ở Hoàng Kỳ, thế mà có một hôm sấm động, chỗ ấy thành ra hải cảng, người Mán theo về với Thẩm Chi, vì có đức chính cảm động đến người, nên gọi tên là Cam Đường Cảng. Việc của Cao Biền cũng giống như thế.
Cao Biền đổi đi Thiên Bình, tiến cử cháu là Cao Tầm thay mình (lúc trước Cao Biền đánh Nam Chiếu, Tầm đã làm tiền phong, xông vào rừng tên đạn, xướng xuất cho quân sĩ). Biền đi rồi, tù trưởng Nam Chiếu tên là Pháp lại ngạnh trở, nhà Đường dùng chính sách hoà thân, đem con gái tôn thất gả cho Pháp, Pháp sai tướng là bọn Triệu, Long, My, ba người đi rước vợ về. Cao Biền ở Dương Châu, dâng thư nói ba người ấy đều là người tâm phúc của Nam Chiếu, xin đánh thuốc độc cho chết đi, thì mới tính được quân Mán. Vua Đường nghe theo, ba người ấy chết rồi Nam Chiếu hết bọn mưu thần, suy yếu dần, tự đấy chúng không dám dòm ngó đất nước ta nữa.”
Cao Biền làm Kinh Nam tiết độ sứ
Năm 878, Cao Biền được bổ nhiệm làm Kinh Nam tiết độ sứ kiêm Diêm-thiết chuyển vận sứ, tức quản lý độc quyền muối và sắt cũng như cung cấp thực phẩm cho Trường An và Lạc Dương, theo Tư Trị Thông Giám quyển 253. Trị sở này thuộc đất Ngô thời Ngô Tôn Quyền Tam Quốc, nay là Kinh Châu tỉnh Hồ Bắc.
Kinh Châu là thủ phủ tỉnh Hồ Bắc Trung Quốc, nằm bên sông Dương Tử giữa trung độ của Trường Giang ở đồng bằng Giang Hán. Kinh Châu có một tầm chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị quân sự qua nhiều thời, đã từng là trung tâm vận tải và phân phối hàng hóa từ thời xa xưa. 6000 năm trước, con người đã sinh sống ở Kinh Châu, tạo ra nền văn hóa Đại Khê. Kinh Châu là kinh đô của 20 vị vua trong 411 năm của nước Sở thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Về phía đông Kinh Châu là thành phố Vũ Hán là vùng Xích Bích nổi tiếng trong lịch sử thời Tam Quốc và trọng điểm của cuộc quyết chiến chiến lược Chiến tranh Trung Nhật sau này. Về phía tây Kinh Châu là khu vực Tam Hiệp nơi hiện nay là đập Tam Hiệp lớn nhất thế giới. Về phía nam là tỉnh Hồ Nam và phía bắc là thành phố Kinh Môn.
Thời bấy giờ, ngoài điểm nóng nhất là Nam Chiếu (Đại Lễ) tiến công vào Tây Xuyên của Đường mà Cao Biền đi trấn dẹp thì các nơi khác loạn lạc cũng nổi lên như ong. Năm 860, loạn ở Chiết Giang, đông tới 3 vạn vì nạn đói. Triều đình phái ba lộ quân, toàn là lính Hồi Hột, Thổ Phồn (không dùng lính Hán) đi tiễu trừ, bao vây thành; nông dân trong thành, già trẻ trai gái đều chống cự kịch liệt; giữ thành được 3 tháng, tới khi hết lương thực mới chịu thua. Năm 862 lại xảy ra loạn ở Từ Châu; Năm 868, một vụ nữa ở Quế Châu, triều đình phải cầu cứu với tộc Sa Đà; nghĩa quân mắng triều đình là “quốc tặc”, đem rợ vào giết dân, theo Trung Quốc tông sử cương yếu của Giang Tăng Khánh. Cao Biền vừa tạm yên Tây Xuyên đã được bổ nhiệm làm Kinh Nam tiết độ sứ kiêm Diêm-thiết chuyển vận sứ, tức quản lý độc quyền muối và sắt cũng như cung cấp thực phẩm cho Trường An và Lạc Dương. Ông đã chỉnh đốn được tình thế.
Ghê gớm nhất cuộc đại loạn Hoàng Sào, theo Trung Quốc thông sử – Tùy Đường Ngũ Đại sử của Phó Nhạc Thành 1993, cho hay: Năm 875, (trước thời gian Cao Biền về trấn nhậm ở Kinh Châu ba năm) Vương Tiên Chi, Thượng Nhượng và Hoàng Sào trước sau nổi dậy ở đất Dự (nay thuộc tỉnh Hà Nam) và đất Lỗ (nay thuộc tỉnh Sơn Đông), hai quân đội khởi nghĩa dồn hợp lại đánh phá các thành trì ở Trung Nguyên. Quân của Hoàng Sào lại tiến xuống phía nam, đốt phá thành trì và cướp đoạt cả vùng đất Quảng Châu, lại xông vào hàng quán giết rất nhiều thương nhân vô tội người Tây Vực (tài liệu của Ả Rập ghi có tới 12 vạn ngoại nhân chết trong vụ đó).
Theo Tư Trị Thông Giám quyển 252, khởi nghĩa Hoàng Sào diễn ra trong khoảng thời gian từ 874 đến 884 khiến nhà Đường suy yếu nghiêm trọng rồi sụp đổ trong vòng vài thập niên sau đó. Hoàng Sào là người Oan Cú, Tào Châu, nay thuộc tây nam Hà Trạch Sơn Đông. Gia đình ông buôn lậu muối trong nhiều thế hệ (do triều đình Đường giữ độc quyền muối từ sau loạn An Sử), nhờ đó mà trở nên hưng thịnh. Hoàng Sào có tài kiếm thuật, cưỡi ngựa, bắn cung giỏi, có năng khiếu văn chương và giỏi tranh luận. Ông đã liên tục ứng thí nhiều kỳ thi, nhưng không đỗ, sau đó quyết tâm nổi dậy chống lại sự cai trị của nhà Đường. Hoàng Sào dùng tài sản của mình để chiêu mộ những con người tuyệt vọng đến phụng sự, có nhiều người giỏi giúp rập. Hoàng Sào có ít nhất một huynh là Hoàng Tồn, và ít nhất sáu đệ: Hoàng Tư Nghiệp, Hoàng Quỹ, Hoàng Khâm, Hoàng Bỉnh, Hoàng Vạn Thông, và Hoàng Tư Hậụ, theo Tấn Đường thư quyển 225 hạ.
Vương Tiên Chi và Thượng Quân Trường nổi dậy tại Trường Viên, nay là Tân Hưng, Hồ Nam năm 874 và đến năm 875 thì họ nhiều lần đánh bại Thiên Bình tiết độ sứ Tiết Sùng. Hoàng Sào cũng nổi dậy với vài nghìn người và hợp binh với Vương Tiên Chi, theo Tư Trị Thông Giám quyển 252. Năm 876, Vương Tiên Chi thông qua quan triều Đường là Vương Liêu, thân thích của tể tướng Vương Đạc, và Kì châu thứ sử Bùi Ác để đàm phán hòa bình với triều đình Trường An. Theo ý của Vương Đạc, Đường Hy Tông cử sứ giả đến tuyên bố sách phong Vương Tiên Chi làm quan. Tuy nhiên, Hoàng Sào lại không được phong chức gì, ông tức giận và nói: “Ban đầu chúng ta cùng lập đại thệ, hoành hành Thiên hạ. Nay chỉ mình ngươi được nhận chức quan tả quân, 5000 binh sĩ ở đây biết về đâu?” Hoàng Sào đánh vào đầu Vương Tiên Chi, các binh sĩ nổi dậy cũng đồng thanh phản đối hòa giải. Vương Tiên Chi lo sợ trước cơn thịnh nộ của quân sĩ nên quay sang chống lại Bùi Ác và cướp phá Kì châu. Tuy nhiên, sau đó đội quân nổi dậy bị phân thành hai nhóm, một nhóm theo Vương Tiên Chi, và một nhóm đi theo Hoàng Sào.
Năm 877, Hoàng Sào công chiếm thủ phủ Vận châu của Thiên Bình quân, giết chết Tiết độ sứ Tiết Sùng, và sau đó công chiếm Nghi châu ở Sơn Đông. Mùa hè năm 877, Hoàng Sào hội quân với Thượng Nhượng tại Tra Nha Sơn ở Hà Nam. Hoàng Sào và Vương Tiên Chi sau đó lại hợp binh trong một thời gian ngắn và bao vây tướng Đường là Bình Lô tại Tống Châu Hà Nam. Tuy nhiên, một tướng Đường khác là Trương Tự Miễn sau đó đem quân tiến đến và đánh bại quân nổi dậy, họ phải bỏ bao vây Tống Châu và phân tán, theo Tư Trị Thông Giám quyển 253. Cuối năm 877, Hoàng Sào cướp phá Kì châu và Hoàng Châu, Vũ Hán nhưng bị tướng Đường là Tăng Nguyên Dụ đánh bại. Hoàng Sào sau đó chiếm được Khuông Thành và Bộc châu và đầu năm 878 bao vây Bạc Châu An Huy thì Vương Tiên Chi bị Tăng Nguyên Dụ tiêu diệt, Thượng Nhượng đem tàn dư đội quân của Vương Tiên Chi đến hợp binh với Hoàng Sào tại Bạc châu. Thượng Nhượng đề nghị Hoàng Sào xưng vương. Hoàng Sào lấy hiệu là Xung Thiên đại tướng quân, cải nguyên “Vương Bá”, nhằm thể hiện sự độc lập với triều đình Đường. Sau đó, Hoàng Sào lại công chiếm Nghi châu và Bộc châu, song sau lại phải chịu một số thất bại trước quân Đường. Do đó, Hoàng Sào viết thư cho Thiên Bình tiết độ sứ mới được bổ nhiệm là Trương Tích, nhờ Trương Tích thượng biểu xin triều đình phong quan cho mình. Theo đề xuất của Trương Tích, Đường Hy Tông hạ chiếu bổ nhiệm Hoàng Sào là ‘hữu vệ tướng quân’, song lệnh cho Hoàng Sào đưa quân đến Vận châu giải giáp trước khi đến Trường An. Trước các điều kiện này, Hoàng Sào từ chối tuân chỉ, ông tiến công các huyện thị của Hà Nam. Đường Hy Tông do đó phái quân lính từ ba lộ quân đến trấn thủ đông đô Lạc Dương, cũng lệnh cho Tăng Nguyên Dụ tiến đến Lạc Dương. Do quân Đường tập trung trấn thủ Lạc Dương, Hoàng Sào đã chuyển sang tiến về phương nam theo Tư Trị Thông Giám quyển 253.
Cao Biền làm Trấn Hải tiết độ sứ
Năm 878, sau khi Chiêu thảo phó sứ Tăng Nguyên Dụ đánh bại và giết chết thủ lĩnh nổi dậy Vương Tiên Chi, các tướng sĩ của Vương Tiên Chi tan rã, một phần dư đảng cướp phá Trấn Hải, trị sở nay thuộc Trấn Giang, Giang Tô. Do nhiều tướng sĩ của Vương Tiên Chi xuất thân từ Thiên Bình, còn Cao Biền lại có uy danh tại Thiên Bình, Đường Hy Tông đã chuyển Cao Biền đến Trấn Hải làm tiết độ sứ kiêm Nhuận Châu thứ sử theo Tư Trị Thông Giám quyển 253. Cao Biền được phong là Yên quốc công, tước vị là kiểm hiệu tư không, theo Cựu Đường thư quyển 182, mục đích là khiến dư đảng của Vương Tiên Chi quy phục ông, tuy nhiên sau đó hầu hết dư đảng của Vương Tiên Chi đã gia nhập vào đội quân nổi dậy của Hoàng Sào.
Năm 879, Cao Biền khiển bộ tướng Trương Lân và Lương Toản phân đạo tiến đánh Hoàng Sào, kết quả giành được thắng lợi, một số tướng của Hoàng Sào đầu hàng, trong đó có Tần Ngạn, Tất Sư Đạc, và Lý Hãn Chi. Sau thất bại này, Hoàng Sào phải tiến về phía nam, hướng đến Lĩnh Nam Đông đạo, theo Tư Trị Thông Giám quyển 253.
Hoàng Sào khi tiến đến gần thủ phủ Quảng Châu của Lĩnh Nam Đông đạo, Cao Biền đã thượng tấu tới Đường Hy Tông, thỉnh cầu cho ông được suất lĩnh quân đánh Hoàng Sào, theo đó đô tri binh mã sứ Trương Lân đem 5.000 binh thủ Sâm châu Hồ Nam, binh mã lưu hậu Vương Trọng Nhâm đem 8.000 lính đến chặn tại Tuần Châu Quảng Đông và Triều châu Quảng Đông, và Cao Biền đem một vạn lính tiến thẳng đến Quảng Châu đánh Hoàng Sào. Cao Biền cho rằng Hoàng Sào nghe thấy ông tiến quân đến thì tất sẽ chạy trốn, vì thế xin Đô thống Vương Đạc đem ba vạn bộ binh đến thủ tại Ngô châu, Quế châu, Chiêu châu (thuộc Quảng Tây), và Vĩnh châu (thuộc Hồ Nam) nhằm đánh chặn Hoàng Sào. Tuy nhiên, Đường Hy Tông từ chối đề xuất của Cao Biền. Hoàng Sào vì thế đã chiếm giữ Quảng Châu một thời gian, trong khi Đường Hy Tông chuyển Cao Biền sang Hoài Nam làm tiết độ sứ; tiếp tục đảm nhiệm chức Diêm-thiết chuyển vận sứ, Chu Bảo kế nhiệm Cao Biền tại Trấn Hải, theo sách Tư Trị Thông Giám tập 253.
Vương Đạc được Hoàng đế Đường phong là ‘Nam diện hành doanh chiêu thảo đô thống’ và Kinh Nam tiết độ sứ, Vương Đạc bổ nhiệm Lý Hệ là ‘hành doanh phó đô thống’, kiêm Hồ Nam quan sát sứ, ngăn chặn đường tiến về phương bắc của Hoàng Sào. Trong khi đó, Hoàng Sào viết thư cho Chiết Đông quan sát sứ Thôi Cầu và Lĩnh Nam Đông đạo, tiết độ sứ Lý Điều, trị sở ở Quảng Châu ngày nay, xin họ làm trung gian dàn xếp giúp ông, nói rằng sẽ chịu quy phục triều đình nếu được phong là Thiên Bình tiết độ sứ. Thôi Cầu và Lý Điều chuyển tiếp đề xuất của Hoàng Sào về Trường An, song Đường Hy Tông từ chối. Hoàng Sào sau đó trực tiếp thượng biểu cho Đường Hy Tông, đề nghị được bổ nhiệm là Lĩnh Nam Đông đạo tiết độ sứ. Tuy nhiên, do sự phản đối của tể tướng Vu Tông, Đường Hy Tông vẫn tiếp tục từ chối đề xuất của Hoàng Sào, chỉ đồng ý để Hoàng Sào làm ‘phủ soái’. Hoàng Sào nhận được chiếu chỉ thì tức giận và xem đây là một hành động sỉ nhục. Vào mùa thu năm 879, Hoàng Sào tiến công Quảng châu, thủ phủ của Lĩnh Nam Đông đạo, chiếm được thành sau một ngày bao vây và bắt giữ Lý Điều. Hoàng Sào đề nghị Lý Điều một lần nữa thượng biểu cho Đường Hy Tông, song lần này Lý Điều từ chối và bị hành quyết, theo Tư Trị Thông Giám quyển 253.
Theo sách Tự Trị Thông Giám quyển 253, Tể tướng Vương Đạt là người được cả hai hoạn quan Điền Lệnh Tư và Đồng bình chương sự Trịnh Điền đều đồng lòng tiến cử cho rằng Đường Hi Tông khi ông vua 11 tuổi này kế vị Đường Ý Tông qua đời năm 873. Do vậy Vương Đạc nhanh chóng được triều hồi về kinh thành giữ chức Tả bộc xạ, và đến năm 876 thì được phục chức Đồng bình chương sự, đồng thời được bổ nhiệm làm Môn hạ thị lang, để giúp triều đình đối phó với các cuộc khởi nghĩa nông dân, trong đó mạnh nhất là cuộc nổi dậy của Vương Tiên Chi cùng Hoàng Sào. Cuối năm 876, Vương Tiên Chi chiếm được Nhữ châu và bắt được em của Vương Đạc là thứ sử Vương Liêu. Kỳ châu thứ sử Bùi Ác sau khi hòa đàm với Vương Liêu (bị Vương Tiên Chi ra lệnh), đã thượng biểu thỉnh triều đình phong quan cho Vương Tiên Chi để chiêu dụ người này. Hầu hết các đại thần bày tỏ phản đối, song do Vương Đạc kiên quyết, Đường Hy Tông đã ban chiếu chỉ bổ nhiệm Vương Tiên Chi là ‘Tả Thần Sách quân áp nha’ kiêm ‘Giám sát ngự sử’. Tuy nhiên, do Hoàng Sào phản đối thỏa thuận, Vương Tiên Chi đã quay sang cướp phá Kỳ châu. Năm 877, trong lúc triều đình vẫn đang tiến hành trấn áp cuộc nổi dậy của Vương Tiên Chi và Hoàng Sào, Vương Đạc và đồng cấp là Lô Huề xảy ra bất đồng lớn với Trịnh Điền về việc bổ nhiệm tương sĩ; Vương Đạc và Lô Huề muốn Trương Tự Miễn nằm dưới quyền chỉ huy của Tống Uy, song Trịnh Điền phản đối vì sợ Tống Uy sẽ lạm quyền mà giết chết Tự Miễn. Do hai bên mâu thuẫn gay gắt, Vương Đạc và Lô Huề thượng biểu xin được bãi miễn chức vị, còn Trịnh Điền thượng biểu được quy Xuyên dưỡng bệnh, Đường Hy Tông đều không cho phép. Năm 878, tướng quân Tăng Nguyên Dụ đánh bại và giết chết Vương Tiên Chi, song Hoàng Sào tiếp tục là một mối đe dọa với triều đình Đường. Năm 879, Vương Đạc được bổ nhiệm giữ chức Tư đồ kiêm Thị trung, Kinh Nam tiết độ sứ, Nam diện hành doanh chiêu thảo đô thống. Khi Vương Đạc đến Kinh Nam, ông lập tức tiến hành chuẩn bị phòng thủ. Tuy nhiên, ông lại bổ nhiệm Lý Hệ đem 5 vạn tinh binh đến đóng quân ở Đàm châu ngăn cản Hoàng Sào, mặc dù Lý Hệ không có tài quân sự, lý do là vì Lý Hệ giỏi ăn nói và là chắt của đại tướng Lý Thịnh. Vào mùa đông năm 879, Hoàng Sào tiến công Lý Hệ và dễ dàng giành được chiến thắng. Do chưa thu thập đủ lượng binh sĩ như mong đợi, Vương Đạc chạy đến thủ phủ Giang Lăng của Kinh Nam rồi để thuộc hạ là Lưu Hán Hoành ở lại phòng thủ, song ngay khi ông dời khỏi Giang Lăng, Lưu Hán Hoành đã cho quân cướp phá Giang Lăng rồi nổi dậy. Sau hậu quả của sự việc này, tháng 12 âm lịch, Vương Đạc bị giáng làm Thái tử tân khách (mặc dù khi đó chưa lập Thái tử), và phải đến nhậm chức tại đông đô Lạc Dương. Chức vụ đô thống của ông được giao lại cho Hoài Nam tiết độ sứ Cao Biền.
Người đời sau tiếc cho mưu lược Cao Biền thời ông làm Trấn Hải tiết độ sứ hiến kế cho Đường Hy Tông đã không được tin dùng nên năm 879 nhà Đường đã bỏ lỡ cơ hội giải quyết loạn Hoàng Sào.
Cao Biền làm Hoài Nam tiết độ sứ
Sau khi Cao Biền chuyển đến Hoài Nam, mục tiêu trọng tâm của của triều Đường là phải giải quyết loạn Hoàng Sào Trương Lân tiếp tục giành được thắng lợi trước Hoàng Sào. Lô Huề do từng tiến cử Cao Biền làm đô thống, nay được phục chức Đồng bình chương sự. Lô Huề tiếp tục tiến cử Cao Biền là Chư đạo hành doanh binh mã đô thống, Đường Hy Tông chấp thuận. Trong khi đó, Cao Biền truyền hịch chinh Thiên hạ, mộ thêm 7 vạn quân, uy vọng đại chấn triều đình, theo sách Tư Trị Thông Giám quyển 253.
Theo Tư Trị Thông Giám, quyến 254, Lư Huề tên tự là Tử Thăng, là một quan lại triều Đường, đã hai lần giữ chức Đồng bình chương sự dưới triều đại của Đường Hi Tông, Ông chưa rõ ngày sinh nhưng mất ngày 8 tháng 1 năm 881, trước 6 năm khi Cao Biền thành phản thần và bị giết. Các sử gia truyền thống đổ lỗi việc ông đã đặt tin tưởng nhầm vào tài năng của tướng Cao Biền trong việc trấn áp loạn Hoàng Sào là nguyên nhân khiến Trường An thất thủ cũng như sự sụp đổ sau này của đế chế. Lư Huề là người tín nhiệm Cao Biền. Gia đình Lư Huề xưng là người Phạm Dương Bắc Kinh , song đến đời Lư Huề thì định cư tại Trịnh Châu Hà Nam theo sách Tân Đường Thư quyển 184, Tổ phụ của Lư Huề là Lư Tổn không được liệt kê giữ chức quan nào trong Tể tướng thế hệ biểu của Tân Đường thư quyển 73, mặc dù phần liệt truyện viết về ông trong Cựu Đường thư quyển 178, thì ghi phụ thân ông là Lư Cầu từng đỗ Tiến sĩ, từng làm quan ở các địa phương, cuối cùng giữ chức quận thủ, song phần tể tướng thế hệ biểu thì không đề cập đến chức quan nào. Theo sách Cựu Đường thư quyển 178, Lư Huề đỗ Tiến sĩ vào năm 853, dưới triều đại của Đường Tuyên Tông. Sau đó, ông trở thành Tập hiền hiệu lý, rồi đi làm quan ở địa phương. Đến giữa những năm 860 – 874 thời Đường Ý Tông, ông được triệu hồi về Trường An giữ chức Hữu thập di, Điện trung Thị ngự sử. Sau đó, ông được chuyển sang Thượng thư tỉnh, giữ chức Huyện lệnh Trường An, rồi thứ sử Trịnh Châu. Sau này, Lư Huề lại được triệu hồi về Trường An để giữ chức Gián nghị đại phu. Đầu những năm Càn Phù thời Đường Hy Tông, Lư Huề được bổ nhiệm là Hàn lâm học sĩ, Trung thư xá nhân. Đến cuối những năm Càn Phù, ông được thăng chức thị lang bộ Hộ, Hàn lâm học sĩ thừa chỉ. Năm 874, Lư Huề tấu biểu cho Đường Hi Tông đề xuất chủ trương bãi miễn các loại thuế và tiếp tục xuất lương thực từ kho lương để cứu tế các nơi bị nạn đói do hạn hán ở phần trung tâm của đế chế. Đường Hi Tông khen ngợi Lư Huề và hạ lệnh thực hiện các kiến nghị của ông, song trên thực tế không có hành động nào diễn ra trên thực tế, theo Tư Trị Thông Giám quyển 252.
Vào mùa đông năm 874, Lư Huề cùng anh em họ là Trịnh Điền được bổ nhiệm giữ chức Đồng bình chương sự, trở thành Tể tướng trên thực tế.Tuy nhiên, mặc dù có quan hệ họ hàng, Lư Huề và Trịnh Điền thường chính kiến bất đồng. Năm 877, khi quân triều đình đang phải dành nhiều sức lực để trấn áp cuộc khởi nghĩa của Hoàng Sào, Lư Huề cùng Vương Đạc và Trịnh Điền xảy ra mâu thuẫn về việc có nên để tướng Trương Tự Miễn nằm dưới quyền của Tống Uy hay không; trong đó Vương Đạc và Lư Huề ủng hộ còn Trịnh Điền thì phản đối, biện luận Tống Uy có thể tìm cách xử tử Trương Tự Miễn vì hai người này đang kình địch nhau. Vương Đạc và Lư Huề thượng biểu xin được bãi miễn chức vị, còn Trịnh Điền thượng biểu được về Xuyên dưỡng bệnh, Đường Hy Tông đều không cho phép. Sau khi Vương Đạc trở thành Nam diện hành doanh Chiêu thảo Đô thống, Lư Huề cũng không hài lòng trước diễn biến này, và ông phản đối đề xuất sau đó của Chiết Đông quan sát sứ Thôi Cầu với nội dung là bổ nhiệm Hoàng Sào làm Lĩnh Nam Đông đạo tiết độ sứ nhằm chiêu dụ Hoàng Sào. Thay vào đó, Hoàng Sào chỉ được triều đình trao cho một chức quan cấp thấp, điều này càng khiến Hoàng Sào bực tức và giữa hai bên sau đó không còn có hòa đàm.
Năm 878, Tây Xuyên tiết độ sứ Cao Biền đề xuất gả một công chúa hoàng tộc Đường cho hoàng đế Nam Chiếu Long Thuấn để “hòa thân”. Lư Huề ủng hộ đề xuất, còn Trịnh Điền thì phản đối, hai bên tranh luận kịch liệt đến độ Lư Huề ném một nghiên mực xuống đất, làm nó bị vỡ. Khi Đường Hi Tông hay tin thì nói: Đại thần mắng nhiếc lẫn nhau, sao có thể làm gương cho tứ hải? Do vậy, cả Trịnh Điền và Lư Huề đều bị bãi chức Đồng bình chương sự, giáng làm Thái tử Tân khách và phái đến đông đô Lạc Dương thay thế họ là Đậu Lô Triện và Thôi Hàng, theo Tư Trị Thông Giám quyển 253.
Vương Đạt và Lý Hệ chặn Hoàng Sào thất bại, Lô Huề được nhanh chóng triệu về kinh thành nhậm chức thượng thư bộ Binh. Đến tháng 12 âm lịch năm 879, tiết độ sứ Hoài Nam Cao Biền sai Trương Lân đi đánh Hoàng Sào, kết quả liên tiếp thắng lợi. Lư Huề từng tiến cử Cao Biền giữ chức Đô thống, nhân cơ hội này lại được tin dùng. Lô Huề do đó được bổ nhiệm là Môn hạ Thị lang, và một lẫn nữa giữ chức Đồng bình chương sự. Lư Huề thay thế nhiều tướng lĩnh mà Vương Đạc và Trịnh Điền đã bổ nhiệm trước đây ở các quân khác nhau. Theo ý của Lư Huề, Đường Hi Tông bổ nhiệm Cao Biền là Chư đạo hành doanh Binh mã Đô thống. Cao Biền tập hợp được 7 vạn quân, và khi đó triều đình Đường tin chắc rằng Cao Biền có thể tiệt trừ cuộc khởi nghĩa của Hoàng Sào, song cũng có một vài quan lại tỏ ý e dè. Lư Huề có thể kiểm soát việc triều chính do có quan hệ thân thiết với Cao Biền và Tả Thần Sách Điền Lệnh Tư, Theo sách Tư Trị Thông Giám, quyển 253.
Giữa năm 880, Lư Huề bị đột quỵ và không thể đi lại. Sau đó, ông phục hồi và có thể yết cáo Đường Hi Tông và được vua miễn lễ. Lư Huề dù bị bệnh, vẫn tiếp tục là một nhân vật trọng yếu trong triều đình Đường cùng tả thần sách Điền Lệnh Tư và đô thống Cao Biền. Tuy nhiên, do bệnh tình khiến ông không thể tập trung vào việc xử lý quốc sự, thân lại là Dương Ôn và Lý Tu đã ra nhiều quyết định thay cho ông, song hai người này công khai nhận hối lộ. Đậu Lô Triện cũng không thực sự có tài, vì thế người này làm theo các quyết định của Lư Huề. Trong khi đó, Đường Hy Tông không còn tiếp tục hoàn toàn ủng hộ “hòa thân” với Nam Chiếu, và theo đề xuất của Lư Huề và Đậu Lô Triện, Hi Tông phái Tào vương Lý Quy Niên và Từ Vân Kiền đi sứ sang Nam Chiếu tiếp tục đàm phán, ngăn chặn khả năng Nam Chiếu tiến công, theo Tư Trị Thông Giám quyển 253.
Năm 880, triều Đường quốc khố hao mòn kiệt quệ do các chiến dịch trấn áp nổi dậy, có tấu trình đề xuất buộc các phú hộ và hồ thương phải cho triều đình vay một nửa tài sản của họ. Cao Biền thượng ngôn rằng nay toàn đế chế bị ảnh hưởng bởi nạn đói lan rộng và người dân lũ lượt tham gia nổi dậy, chỉ còn các phú hộ và thương gia là còn ủng hộ triều đình, nếu “vay” tước tài sản của họ sẽ khiến quý tộc và thương gia trở mặt quay sang làm phản. Đường Hy Tông do đó hủy bỏ kế hoạch. Mùa hè năm 880, Hoàng Sào trong khi Bắc phạt bị sa lầy tại Tín châu, nay thuộc Thượng Nhiêu Giang Tây, còn quân lính bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh từ khi còn ở Lĩnh Nam. Đương thời, khi Trương Lân chuẩn bị tiến công, Hoàng Sào thấy sẽ không chống nổi nên đã hối lộ cho Trương Lân, và viết thư cho Cao Biền thỉnh hàng. Cao Biền muốn tiếp nhận sự đầu hàng của Hoàng Sào nhằm lập công, đã thượng tấu thỉnh cầu triều đình phong cho Hoàng Sào làm tiết độ sứ. Hơn nữa, mặc dù quân tiếp viện từ các quân Chiêu Nghĩa Sơn Tây, Cảm Hóa Giang Tây, và Nghĩa Vũ Hà Bắc đang tiến đến Hoài Nam, do không muốn công lao bị chia sẻ nên Cao Biền đã thượng tấu nói rằng ông không còn cần trợ giúp và xin trả lại quân tiếp viện. Hoàng Sào khi nhận thấy các đội quân tiếp viện rời khỏi Hoài Nam đã cắt đứt quan hệ với Cao Biền, lúc này Hoàng Sào lại chiếm ưu thế trên chiến trường. Cao Biền tức giận và hạ lệnh cho Trương Lân tiến công, Trương Lân tử trận, theo Tư Trị Thông Giám, quyển 253. Mùa thu năm 880, Hoàng Sào vượt Trường Giang tại Thái Thạch nay là Mã An Sơn An Huy và tiến sâu vào lãnh địa Hoài Nam. Cao Biền lúc này không còn dũng tướng bên cạnh nên không nghe lời Tất Sư Đạt mà tránh giao chiến và khẩn cấp báo triều đình cứu viện. Đường Hy Tông vừa không cho quân cứu viện vừa ban chiếu chỉ khiển trách Cao Biền trước đó đã trả lại quân tiếp viện, Cao Biền thượng tấu có ý châm biến Đường Hy Tông vì Hoàng đế từng chấp thuận đề xuất trả lại quân tiếp viện của ông. Cao Biền thất vọng cáo bệnh không giao chiến. Hoàng Sào lập tức né tranh binh lực Cao Biền và rộng đường tiến về phía bắc, hướng đến Lạc Dương và Trường An, theo Tư Trị Thông Giám quyển 251.
Đến mùa đông năm 880, Hoàng Sào tiến đến Đồng Quan, Điền Lệnh Tư và thượng thư Thôi Hàng đề xuất Đường Hy Tông chạy đến Tam Xuyên. Thoạt đầu, Đường Hy Tông từ chối và lệnh cho Điền Lệnh Tư đưa thân quân đi phòng thủ Đồng Quan. Tuy nhiên, Điền Lệnh Tư chỉ tập hợp được các binh sĩ mới nhập ngũ và thiếu kinh nghiệm, họ không thể cứu viện cho đội quân triều đình đã trấn thủ ở Đồng Quan từ trước.
Vào khoảng tết năm 881 Hoàng Sào chiếm được Đồng Quan tiến gần đến Trường An. Đường Hy Tông đã quyết định từ bỏ kinh thành và chạy đến Tây Xuyên và ban một chiếu chỉ cho phép Cao Biền bổ nhiệm các tướng lĩnh và quan lại mà ông nhận thấy phù hợp, song Cao Biền vẫn không suất quân. Lư Huề liên tục nhận được tin xấu, không biết phải phản ứng thế nào, chỉ còn cách xưng bệnh không ra khỏi phủ. Điền Lệnh Tư đổ lỗi về thất bại cho Lư Huề, vua giáng Lư Huề làm Thái tử Tân khách; Vương Huy và Bùi Triệt được cử thay thế Lư Huề. Đêm hôm đó, Lư Huề uống rượu độc tự sát. Sau đó, Điền Lệnh Tư đưa Đường Hy Tông cùng bốn thân vương và một vài phi tần chạy khỏi Trường An, tiến về Thành Đô, thủ phủ của Tây Xuyên. Hoàng Sào chiếm được Trường An, thoạt đầu ông ta sống trong phủ của Điền Lệnh Tư song sau đó đã chuyển vào hoàng cung và xưng đế, đặt quốc hiệu là “Đại Tề” Khi Hoàng Sào chiếm được Trường An đã cho đào quan tài của Lư Huề lên rồi xé xác phanh thây tại thành, theo Tư Trị Thông Giám quyển 254.
Cao Biền truyền hịch tứ phương hợp binh thảo Hoàng Sào. Ông dời khỏi thành với 8 vạn binh lính và đóng quân tại Đông Đường, ngay phía đông thành, song từ chối tiếp tục tiến quân. Cao Biền cũng lệnh cho các quân lân cận đến hợp binh, song Chu Bảo phát hiện ra rằng Cao Biền không thực tâm muốn tiến công Hoàng Sào, vì thế người này đã từ chối huy động binh sĩ Trấn Hải hợp binh với Cao Biền, mà cho rằng Cao Biền đang có ý muốn chống mình. Hai bên trao đổi thư tín với ngôn từ gay gắt, và sau đó, tình bằng hữu giữa họ hoàn toàn chấm dứt. Sau đó, Cao Biền dùng sự thù địch của Chu Bảo làm nguyên cớ để giải tán binh sĩ. Trong khi đó có hai con trĩ bay vào trong Quảng Lăng phủ, có thầy bói nói rằng đây là một điềm xấu, thành ấp sẽ trống rỗng, theo sách Tư Trị Thông Giám quyển 254.
(Tạm dừng đối chiếu sự kiện ở đây, phần dưới là chép đúng Wikipedia dịch từ 3 bộ sách sử cũ nêu trên, mà chỉ nêu sự kiện chứ không có bàn luận hoặc chú giải. Điền Lệnh Tư là một bí ẩn giải mật những uẩn khúc thời mạt Đường. Cao Biền và Chu Bảo trước đó chơi thân với nhau rất thân, nhưng sau vì việc nhận thức về triều Đường và các vị vua thời mạt Đường để ‘ làm nguyên cớ giải tán binh mã’ cũng là một bí ẩn lịch sử không dễ thấy.
Sử Trung Quốc chép về những năm Hậu Đường và cái chết của Cao Biền, đã viết:
“Điền Lệnh Tư ( ? – 893), tên tự Trọng Tắc, là một hoạn quan đầy quyền lực trong triều đại của Đường Hy Tông. Trong hầu hết thời gian Đường Hy Tông trị vì, Điền Lệnh Tư kiểm soát triều đình do có mối quan hệ thân cận với hoàng đế, cũng như có quyền kiểm soát Thần Sách quân. Ông vẫn giữ được địa vị của mình khi Đường Hy Tông phải chạy trốn đến Tây Xuyên để tránh loạn Hoàng Sào. Đến cuối thời gian trị vì của Đường Hy Tông, Điền Lệnh Tư buộc phải từ bỏ quyền lực sau khi tranh chấp với quân phiệt Vương Trọng Vinh, rồi đến nương nhờ anh là Tây Xuyên tiết độ sứ Trần Kính Tuyên. Tuy nhiên, đến năm 891, Vương Kiến đã đoạt lấy Tây Xuyên và giết chết Trần Kính Tuyên cùng Điền Lệnh Tư.
Đường Ý Tông qua đời năm 873, Lý Nghiễm được các hoạn quan Lưu Hành Thâm và Hàn Văn Ước những người chỉ huy Thần Sách quân, tôn làm hoàng đế, tức Đường Hy Tông. Ngay sau khi trở thành hoàng đế, Đường Hy Tông bổ nhiệm Điền Lệnh Tư giữ chức ‘xu mật sứ’, và đến năm 875 thì thăng Điền Lệnh Tư làm ‘Tả Thần Sách quân trung úy’. Do Đường Hy Tông mới 14 tuổi (âm) nên thích dành nhiều thì giờ để du hí, chính sự đều ủy quyền cho Điền Lệnh Tư quyết định, Hoàng đế thậm chí gọi Điền Lệnh Tư là “a phụ”. Bất cứ khi nào gặp Đường Hy Tông, Điền Lệnh Tư đều chuẩn bị hai khay hoa quả, cùng ăn uống với thánh thượng. Theo đề xuất của Điền Lệnh Tư, phần lớn tài sản của các thương nhân Trường An bị triều đình tịch thu và nhập vào quốc khố. Bất cứ ai dám than phiền đều bị giết chết, các quan lại triều đình thì không dám can thiệp.
Cao Biền trên danh nghĩa là đô thống trấn áp Hoàng Sào, song ông từ chối tiến hành các hành động chống lại Đại Tề của Hoàng Sào. Tại Tây Xuyên, thị trung Vương Đạc đề xuất được giao quyền thống lĩnh các chiến dịch chống Đại Tề, và đến mùa xuân năm 882 thì Đường Hy Tông bổ nhiệm Vương Đạc là Chư đạo hành doanh đô thống, song Cao Biền vẫn được giữ chức Hoài Nam tiết độ sứ và Diêm-thiết chuyển vận sứ. Vào thời điểm này, Cao Biền ngày càng trở nên rất tin tưởng vào phương sĩ Lã Dụng Chi, cùng kì đảng là Trương Thủ Nhất và Gia Cát Ân, đến nỗi Lã Dụng Chi nắm quyền kiểm soát quân trên thực tế, bất cứ ai dám lên tiếng chống lại Lã Dụng Chi đều phải chết
Vào mùa hè năm 882, Đường Hy Tông ban cho ông chức Thị trung song bãi chức Diêm-thiết chuyển vận sứ. Cao Biền thấy vừa mất quyền và vừa mất lợi thì cảm thấy tức giận, sai người thảo biểu tự tố với lời lẽ bất kính, trong đó phàn nàn rằng ông không được trao đủ quyền, rằng Vương Đạc và Thôi An Tiềm bất tài, so sánh Đường Hy Tông với các vị hoàng đế vong quốc Tần Tử Anh và Hán Canh Thủy Đế. Đường Hy Tông sai Trịnh Điền thảo chiếu trách cứ Cao Biền, dùng lời lẽ gay gắt, và sau đó, Cao Biền từ chối nộp bất kỳ khoản thuế nào cho triều đình.[11]
Năm 885, Hoàng Sào bị đánh bại và Đường Hy Tông trở về Trường An, Tả Thần Sách trung úy Điền Lệnh Tư sau đó lại xung đột với Hà Trung[chú 25] tiết độ sứ Vương Trọng Vinh. Trước tình hình rối loạn, Tĩnh Nan tiết độ sứ Chu Mai đã lập một thành viên trong tông thất triều Đường là Lý Uân làm nhiếp chính. Chu Mai hy vọng liên minh với Cao Biền nên đã yêu cầu Lý Uân ban một chiếu chỉ bổ nhiệm Cao Biền giữ chức Trung thư lệnh, Giang Hoài diêm thiết chuyển vận đẳng sứ, Chư đạo hành doanh binh mã đô thống. Đáp lại, Cao Biền thượng tấu thỉnh Lý Uyên tức vị.[12]
Trong khi đó, Cao Biền bắt đầu nhận ra rằng Lã Dụng Chi trên thực tế là người cai quản Hoài Nam, và bản thân ông không còn có thể độc lập thi hành quyền lực. Cao Biền cố gắng kiềm chế quyền lực của Lã Dụng Chi, Lã Dụng Chi do đó bắt đầu lên kế hoạch loại bỏ Cao Biền.[2][12] Đương thời, theo ghi chép thì tại Dương châu xuất hiện nhiều điềm gở, song khi Chu Bảo buộc phải chạy trốn khỏi Nhuận châu sau một cuộc binh biến vào năm 887, Cao Biền tin rằng các điềm gở này là ám chỉ đến Chu Bảo, nghĩ rằng bản thân sẽ an toàn.[12]
Đến mùa hè năm 887, phản tướng Tần Tông Quyền chuẩn bị tiến công vào Hoài Nam, Cao Biền chuẩn bị phòng thủ. Đương thời, Tất Sư Đạc tin rằng Lã Dụng Chi tiếp theo sẽ có hành động chống lại mình, vì thế đã tập hợp binh lính cùng với Trịnh Hán Chương(鄭漢章) và Trương Thần Kiếm (張神劍) nổi dậy, bao vây Dương châu. Cao Biền bố trí phòng thủ tại quân phủ, giao cho cháu là Cao Kiệt (高傑) chỉ huy, chống lại Lã Dụng Chi. Cao Biền khiển thuộc hạ là Thạch Ngạc (石鍔) cùng ấu tử của Tất Sư Đạc đến gặp Tất Sư Đạc. Tất Sư Đạc lệnh cho ấu tử của mình về chỗ Cao Biền truyền đạt lại: “Hễ Lệnh công trảm Lã và Trương (tức Trương Thủ Nhất) để thể hiện với Sư Đạc, Sư Đạc sẽ không dám phụ ân, nguyện cho thê tử đến làm tin.” Cao Biền lo sợ rằng Lã Dụng Chi có thể ra tay đồ sát gia quyến của Tất Sư Đạc, vì thế đem gia quyến của Tất Sư Đạc đến viện để bảo vệ. Từ thời điểm này, cuộc chiến tại Dương châu diễn ra giữa ba bên: Tất Sư Đạc, Cao Biền và Lã Dụng Chi.[2]
Do không thể nhanh chóng chiếm được Dương châu, Tất Sư Đạc cầu viện Tuyên Thiệp[chú 27] quan sát sứ Tần Ngạn (秦彥), Tần Ngạn khiển Tần Trù (秦稠) đến tiếp viện cho Tất Sư Đạc. Ngày 17 tháng 5, Tất Sư Đạc tiến công dữ dội vào Dương châu, song bị Lã Dụng Chi phản công đánh bại. Tuy nhiên, vào thời điểm này, Cao Kiệt phát động tiến công từ quân phủ của Cao Biền, mục đích là để bắt Lã Dụng Chi và giải đến cho Tất Sư Đạc. Lã Dụng Chi biết tin thì từ bỏ Dương châu và chạy trốn. Cao Biền buộc phải gặp Tất Sư Đạc và cho người này giữ chức tiết độ phó sứ, sau đó chuyển giao toàn bộ quyền lực của Hoài Nam cho Tất Sư Đạc. Tất Sư Đạc kiểm soát được quân phủ, rồi giao nó lại cho Tần Ngạn như hứa hẹn. Tần Ngạn và Tất Sư Đạc quản thúc Cao Biền cùng gia quyến của ông tại một đạo viện.[2]
Trong khi đó, Lã Dụng Chi đã ban một sắc lệnh nhân danh Cao Biền để lệnh cho Lư châu[chú 28] thứ sử Dương Hành Mật đem binh đến tăng viện cho mình. Dương Hành Mật tập hợp binh lính Lư châu và Hòa châu[chú 29] và tiến về Dương châu. Liên quân Dương Hành Mật và Lã Dụng Chi sau đó hợp binh với một vài đội quân khác, bao gồm quân của Trương Thần Kiếm. Mặc dù không thể nhanh chóng chiếm được Dương châu, Dương Hành Mật đã đánh bại các cuộc tiến công của Tần Ngạn và Tất Sư Đạc, Tần Ngạn và Tất Sư Đạc bắt đầu tin rằng Cao Biền dùng ma thuật để chống lại họ. Một yêu ni là Vương Phụng Tiên (王奉仙) báo với Tần Ngạn rằng một đại nhân cần phải chết để chấm dứt cực tai của Dương châu, do đó Tần Ngạn đã quyết tâm giết chết Cao Biền.[2]Ngày 24 tháng 9,[1] Tần Ngạn phái tướng Lưu Khuông Thì (劉匡時) đi giết chết Cao Biền, cùng các thân thích là nam giới. Thi thể của họ đều bị ném xuống một hố duy nhất.[2]
Sau khi Dương Hành Mật chiếm được Dương châu vào cuối năm đó, ông ta bổ nhiệm tụng tôn của Cao Biền là Cao Dũ (高愈) là Phó sứ, sai đó cải táng Cao Biền và thân tộc.[2] Tuy nhiên, trước khi Cao Biền được cải táng, Cao Dũ đã qua đời, sau đó, thuộc hạ cũ của Cao Biền là Quảng Sư Kiền (鄺師虔) đã thu táng Cao Biền.[3]“
Sử Việt, sử quan Ngô Sĩ Liên theo trích dẫn của Ngô Thì Sĩ tại Việt Sử Tiêu Án đã viết:
“Xét lúc Cao Biền làm Đô hộ, những công nghiệp cũng nhiều đáng kể, tự khi đổi sang Tây Xuyên, trong lòng sinh ra oán vọng, để tha hồ cho Hoàng Sào vây hãm hai kinh đô, người Đường mong Cao Biền còn lập được công, cho Biền lên làm Bột hải Quận vương, nhưng Biền nhờ lúc Trung Quốc điên bái, âm mưu chiếm cứ đất đai, nhất đán thất thế, oai vọng mất hết, tự đấy phải về để ý việc tu tiên, bao nhiêu việc quân giao cho Lã Dụng Chi. Dụng Chi là quân tiểu nhân, gian tà, đem lời phù phiếm dối trá mà coi Biền như đứa trẻ con, từng bị kẻ điên cuồng là Chư Cát Ân nói dối rằng: “Thượng đế cho thần đến giúp đỡ mình”, lại hiến Cao Biền một thanh kiếm mà nói dối là của thượng đế vẫn đeo. Cao Biền lấy làm báu, giữ bí mật, xây cất cái lầu cao 8 thước, gọi là lầu Nghênh Tiên, ở trên lầu ăn chay thắp hương mong được gặp tiên. Biền lại làm con chim hộc bằng gỗ ở trong sân, có đặt máy, chạm vào người thì bay được; Biền mặc áo lông cưỡi lên, làm ra dáng tiên bay, Dụng Chi giam giữ cho Biền chết. Sau Dương Hành mật sai đào dưới đất, bắt được người bằng đồng cao 3 thước, thân bị gông cùm, đóng đanh vào miệng, khắc tên Tiền vào sau lưng. Đó là Dụng Chilàm mê hoặc yểm đảo Cao Biền, nhất đán Cao Biền trở nên ngu muội đến thế; coi với xưa kia có mưu lược phá quân Mán, trí khộn xây La thành, và đào hải cảng động đến thiên oai, thành ra 2 hạng người khác hẳn là sao thế? Người trong nước truyền lại rằng Biền rắc hạt đậu xuống đất, dùng phù chú cho hoá ra quân thật, trước kỳ hạn đã đào lên, thì đều là non yểu, không thể đứng được. Lại ngoa truyền rằng: Cao Biền cưỡi cái diều giấy đi tìm đất; truyện này cũng chỉ nghe người ta nói thôi. Biền học phép tiên, cùng với chuyện cưỡi chim hộc đều là ngoa truyền.
Ở sách địa lý di cảo ai cũng đều cho đấy là môn học địa lý của Cao Vương. Biền ở nước ta, bận việc quân, không có thời giờ nhàn rỗi, xách túi địa bàn đi tìm phong thủy, tất là đời Trần có người học địa lý, mạo xưng mượn tên Cao Biền để làm cho thuật của mình thần kỳ đó thôi, sách địa lý di thảo của Hoàng Phúc đại khái cũng thế. Trên đây nước ta ngoại thuộc về Tùy, Đường tự năm Quí Hợi đến năm Bính Dần cộng 304 năm.
Sách thông luận bàn rằng: Nước ta là một đại đô hội ở phương nam. Ruộng thì cấy lúa, đất thì trồng dâu, núi sản ra vàng, bể sản ra ngọc. Bọn nhà buôn nước Tầu, đến nước ta nhiều người làm nên giàu có. Người Tầu thích lắm, có ý lấy nước ta đã lâu lắm, cho nên tự Triệu Đà trở về sau, hơn 1000 năm đã nắm được, đâu còn chịu bỏ, để cho nước ta làm một nước lớn ở ngoài Ngũ Lĩnh; chia ra quận, đặt ra quan, làm cho cõi đất ta như cái bàn cờ, có một người thổ hào nào nổi lên, thì diệt đi ngay, một quận thú nổi lên, thì Thứ sử họp lại đánh ngay, như Lý Tốn, Lương Thạc ở đời Tấn, Mai Thúc Loan, Vương Thăng Triều ở đời Đường là thế cả. Hai vua Lý và vua Triệu, đương lúc Lương, Trần ở thiên về một nơi miền nam, Giang tả nhiều việc, không có thì giờ để ý đến Giao Châu, cho nên giữ được cảnh thổ mà xưng thế được 50 hay 60 năm, cũng là thời thế xui nên đó. Đến như quân Mán Nam Chiếu hàng năm vào cướp bóc, vượt sóng gió, qua hiểm trở tranh nhau với người Đường, cũng là tham cái lợi của nước ta giàu có đấy. Trương Chu đánh phá được nước Chiêm, đắp thành Hoan, Ái. Cao Biền trị Nam Chiếu, bảo toàn được Long Biên, đều là có công với đất nước; duy Cao Biền làm quan lâu hơn là Chu, cho nên đàn bà con trẻ trong nước còn nói đến tên Cao Biền, còn những quan Thú, Mục trước hay sau, đều không nói đến“.
THUNG DUNG. Về nơi cát đá. Lên Phổ Đà Sơn hướng Phật. Bụng lớn năng dung, dung các chuyện khó dung thiên hạ Miệng cười hỷ xả, xả những điều khó xả thế gian. Một chút giận, hai chút hờn, lận đận cả đời rồi cũng khổ Một điều vui, hai điều xả, thung dung tự tại thế mà vui.
2010 – Tàu tuần tra Cheonan của Hải quân Hàn Quốc bị đắm trên vùng biển Hoàng Hải gần đảo Baengnyeong, Hàn Quốc tuyên bố Triều Tiên tấn công tàu bằng ngư lôi.
Từ ngày 20 đến ngày 26 tháng 3 năm 1931, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 2, Trung ương Đảng đã dành một phần quan trọng để bàn về công tác thanh niên, đặt ra vấn đề “… tổ chức ra Thanh niên cộng sản đoàn là nhiệm vụ để thâu phục một bộ phận quan trọng của vô sản giai cấp, là một vấn đề cần kíp mà Đảng phải giải quyết”, chủ trương thống nhất các tổ chức thanh niên thành Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương, nhằm thu hút thanh niên phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 2, một số Ủy viên Trung ương Đảng được cử phụ trách các vấn đề liên quan tới thanh niên trong các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương. Cuối tháng 4 năm 1931, từ nước ngoài, ở Trung Kỳ, Xứ ủy Đoàn được thành lập trên cơ sở các Đoàn Ủy ban Cán sự Đoàn các cấp. Ở một số tỉnh đã hình thành cấp Tỉnh ủy Đoàn và Huyện ủy Đoàn, trên cơ sở các chi bộ thanh niên thuộc đảng bộ.
Từ năm 1931 đến năm 1935, Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương tiếp tục phát triển ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Nam Bộ. Tháng 3 năm 1935, tại Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ nhất ở Ma Cao (Trung Quốc), Trung ương Đảng đã công nhận chính thức Chương trình hành động của Đoàn công bố từ 1933 và đề xuất việc triệu tập Đại hội Đoàn toàn quốc. Nhưng do tình hình thay đổi, đại hội đã không họp được.
Thời Kỳ năm 1936 đến năm 1955
Năm 1936, Mặt trận Dân chủ Đông Dương được thành lập, một tổ chức thanh niên hoạt động công khai trên cơ sở Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương, lấy tên là Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương. Ngày 5 tháng 5 năm 1938, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương đã họp công khai ở Hà Nội và bầu ra Ban chấp hành Trung ương Đoàn.
Năm 1939, khi chính quyền thực dân đàn áp phong trào dân chủ Đông Dương, Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương rút vào hoạt động bí mật. Năm 1940, Trung ương Đảng đã thành lập Đoàn Thanh niên phản đế Đông Dương để tổ chức quần chúng thanh niên đấu tranh chống đế quốc.. Đoàn Thanh niên phản đế đã tham gia Khởi nghĩa Bắc Sơn, Khởi nghĩa Nam Kỳ
Trong suốt 20 năm, do điều kiện lịch sử, nhiều tổ chức thanh niên do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập cùng hoạt động song song. Ngày 28 tháng 9 năm 1948, Ban Thường vụ Trung ương có Chỉ thị gửi các cấp bộ Đảng “Về việc củng cố Thanh niên Cứu quốc, phát triển Đoàn thanh niên Việt Nam để thống nhất Mặt trận thanh niên”. Tháng 6 năm 1949, Hội nghị Thanh vận của Đảng được tổ chức tại Việt Bắc, do ông Hoàng Quốc Việt chủ trì. Tại Hội nghị này, một quyết định thành lập Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Cứu quốc Trung ương được đưa ra, Nguyễn Lam được chỉ định làm Trưởng tiểu Ban thanh vận Trung ương đồng thời là Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam.
Thời kỳ năm 1955 đến năm 1977
Sau khi giành được quyền kiểm soát miền Bắc, trong phiên họp vào tháng 9 năm 1955, Bộ Chính trị chủ trương đổi tên Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam thành Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam và tên gọi này được chính thức thông qua tại Đại hội toàn quốc lần thứ 2 của Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ 3 họp từ ngày 22 đến 25 tháng 3 năm 1961, các đại biểu đã quyết định lấy ngày 26 tháng 3 năm 1931 (ngày cuối của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2, dành để bàn bạc và quyết định những vấn đề rất quan trọng đối với công tác thanh niên) làm ngày thành lập Đoàn hàng năm.
Tại miền Nam, một tổ chức bộ phận của Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam hoạt động với tên gọi Đoàn Thanh niên Cách mạng miền Nam, là một tổ chức thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Tại miền Bắc, tháng 2 năm 1970, Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam được đổi tên thành Đoàn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh để kỷ niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa qua đời trước đó 5 tháng. Cùng thời gian này, Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng miền Nam cũng đổi tên thành Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng Hồ Chí Minh.
Sau năm 1976
Sau khi Việt Nam thống nhất, tháng 12 năm 1976, Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng Hồ Chí Minh và Đoàn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh hợp nhất với tên gọi Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Tên gọi qua các lần đổi tên:
· Từ 1931 – 1936: Đoàn TNCS Việt Nam, Đoàn TNCS Đông Dương
· Từ 1937 – 1939: Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương
· Từ 11/1939 – 1941: Đoàn Thanh niên phản đế Đông Dương
· Từ 5/1941 – 1956: Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam
· Từ 25/10/1956 – 1970: Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam
· Từ 2/1970 – 11/1976: Đoàn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh
· Từ 12/1976 đến nay: Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
Cơ cấu tổ chức
Theo báo cáo của Đại hội toàn quốc lần thứ VIII Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2007) thì tại Việt Nam hiện có khoảng 6,1 triệu Đoàn viên[2]. Theo BBC thì tại Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố lớn nhất Việt Nam, vào năm 2005 có khoảng 70% thanh niên đang đứng ngoài hàng ngũ Đoàn Thanh niên Cộng sản (khoảng 390.000 Đoàn viên trên tổng số 2,3 triệu người từ độ tuổi 16 đến 30)[3]
Cơ quan lãnh đạo cao nhất là Đại hội Đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo của Đoàn ở mỗi cấp là Đại hội Đại biểu hoặc Đại hội Đoàn viên ở cấp đó. Giữa hai kỳ Đại hội cơ quan lãnh đạo là Ban Chấp hành do Đại hội Đoàn cùng cấp bầu ra. Giữa 2 kỳ họp Ban Chấp hành, cơ quan lãnh đạo là Ban Thường vụ do Ban chấp hành cùng cấp bầu ra.
Hệ thống tổ chức của Đoàn được tổ chức từ Trung ương xuống cơ sở.
Cấp cơ sở gồm Đoàn cơ sở và Chi đoàn cơ sở
Cấp Huyện và tương đương
Cấp Tỉnh và tương đương
Cấp Trung ương
Ban Bí thư Trung ương Đoàn khóa X (Nhiệm kỳ 2012 – 2017)
Bí thư Thứ nhất Trung ương Đoàn
Nguyễn Đắc Vinh: Ủy viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc gia về Thanh niên Việt Nam của Chính phủ, Giám đốc Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam. Ngoài ra, ông còn là Đại biểu Quốc hội khóa XIII.
Bí thư Thường trực Trung ương Đoàn
Nguyễn Mạnh Dũng; Bí thư thường trực Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khóa IX, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Trung ương Đoàn.
Các Bí thư Trung ương Đoàn:
Dương Văn An, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Trung ương Đoàn, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đoàn, Phó chủ nhiệm thường trực Ủy ban Quốc gia về Thanh niên Việt Nam;
Nguyễn Thị Hà,Trưởng Ban Công tác thiếu nhi Trung ương Đoàn, Chủ tịch Hội đồng Đội Trung ương – Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, Ủy viên BCH Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam;
Nguyễn Mạnh Dũng, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Trung ương Đoàn, Trưởng Ban Thanh niên Công nhân và Đô thị Trung ương Đoàn, Ủy viên Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, Ủy viên HĐQT Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam;
Đặng Quốc Toàn, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đoàn, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam.
6. Lê Quốc Phong, Chủ tịch Hội sinh viên Việt Nam khóa IX
Nhiệm vụ và quyền hạn
Theo điều lệ đoàn thanh niên cộng sản hồ chí minh, tại điều 2 và điều 3 có quy định nhiệm vụ và quyền hạn của đoàn như sau: Nhiệm vụ của đoàn viên:[4]
1. Luôn luôn phấn đấu vì lý tưởng của Đảng và Bác Hồ. Tích cực học tập, lao động rèn luyện, tham gia các hoạt động xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Gương mẫu chấp hành và vận động thanh, thiếu niên thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng và chính quyền. Chấp hành Điều lệ Đoàn và các nghị quyết của Đoàn; tích cực tuyên truyền về tổ chức Đoàn trong thanh niên; sinh hoạt đoàn và đóng đoàn phí đúng qui định.
3. Liên hệ mật thiết với thanh niên, tích cực xây dựng Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh; giúp đỡ thanh niên và đội viên trở thành đoàn viên.
Quyền của đoàn viên:
1. Yêu cầu tổ chức Đoàn đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, được giúp đỡ và tạo điều kiện để phấn đấu trưởng thành.
2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đoàn
3. Được thông tin, thảo luận, chất vấn, phê bình, biểu quyết, đề nghị và bảo lưu ý kiến của mình về công việc của Đoàn.
Theo báo cáo của Đại hội toàn quốc lần thứ VIII Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2007) thì tại Việt Nam hiện có khoảng 6,1 triệu Đoàn viên[2].
Theo BBC, năm 2005 là năm có tỷ lệ thanh niên được kết nạp vào Đoàn và đoàn viên vào Đảng cao nhất từ trước đến nay [3]. Theo đó, năm 2005, toàn Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh kết nạp hơn 1,1 triệu đoàn viên mới (tăng 7.68% so với năm 2004); 91.997 người được kết nạp Đảng. Nhưng riêng tại TP. HCM, lại có đến 70% thanh niên đang đứng ngoài hàng ngũ Đoàn TNCS [3]. Theo đó, ước tính số thanh niên trong độ tuổi 15 đến 35 ở TP. HCM hiện là 2.3 triệu, nhưng trong đó chỉ có gần 390.700 là đoàn viên TNCS [3].
Hoạt động
Logo chương trình mùa hè xanh
Khắp các Tỉnh thành, các trường Đại học, các công ty Việt Nam, đều có cơ sở Đoàn. Hằng năm, Đoàn TNCS tổ chức chiến dịch tình nguyện Mùa hè xanh.
Mùa hè xanh
Mùa hè xanh là một hoạt động thường niên, do Hội Sinh viên Việt Nam tổ chức, nhằm hướng sinh viên đến các hoạt động công ích xã hội, như: làm đường, làm cầu, xây nhà tình thương, tham gia xóa mù chữ và xóa mù tin học,… Hoạt động này được đông đảo sinh viên tham gia, và hầu hết các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ở Việt Nam đều tham gia.
Ngoài chiến dịch Mùa hè xanh kể trên với lực lượng nòng cốt là sinh viên thì còn phải kể đến các chiến dịch sau nằm trong các hoạt động Hè tình nguyện diễn ra trong ba tháng 6,7,8 như:
Chiến dịch Hoa phượng đỏ dành cho giáo viên trẻ và học sinh trung học phổ thông.
Chương trình Tiếp sức mùa thi hỗ trợ phụ huynh và thí sinh các tỉnh về thành phố dự thi đại học cao đẳng.
Chiến dịch Hành quân xanh với sự tham gia của chiến sĩ lực lượng vũ trang.
Chiến dịch Kỳ nghỉ hồng của thanh niên công nhân.[5]
Sự kiện và hoạt động cụ thể
– Năm 1956: Phong trào “Lao động kiến thiết Tổ quốc”
– Năm 1960: Phong trào “Thi đua trở thành người lao động tiên tiến”
– Năm 1961: Phong trào “Những người tình nguyện vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất”
– Năm 1964: Phong trào “Ba sẵn sàng” ở miền Bắc:
1. Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu dũng cảm và sẵn sàng gia nhập các lực lượng vũ trang nhân dân.
2. Sẵn sàng khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, học tập trong bất kỳ tình huống nào.
3. Sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến.
– Năm 1965: Phong trào “Năm xung phong” ở miền Nam:
1. Xung phong tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch.
2. Xung phong tòng quân giết giặc.
3. Xung phong trong các cuộc đấu tranh chính trị ở nông thôn cũng như đô thị.
4. Xung phong phục vụ tiền tuyến, vào các đội thanh niên xung phong công tác phục vụ chiến trường.
5. Xung phong sản xuất nông nghiệp trong nông thôn.
– Năm 1976: “Ba mũi tên tiến công tiêu cực và toàn Đoàn tham gia xây dựng Đảng”
– Năm 1982 – 1983: “3 chương trình hành động cách mạng của tuổi trẻ” (lương thực, tiết kiệm, việc làm)
– Năm 1983: Cuộc “Hành quân theo bước chân những người anh hùng”
– Năm 1984: Nghị quyết 7 (khoá IV) bổ sung và đề ra 5 chương trình hành động Cách mạng của tuổi trẻ.
– Năm 1985: Cuộc “Vận động xây dựng nếp sống xã hội chủ nghĩa” trong thanh niên
– Năm 1987: Với các phong trào: “Tuổi trẻ xung kích sáng tạo, xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc” trên mặt trận kinh tế chính sách xã hội, an ninh và học tập tiến quân vào khoa học kỹ thuật.
– Năm 1992: Cuộc vận động xây dựng chi đoàn mạnh và 4 phong trào: 3 mục tiêu dân số và kế hoạch hoá gia đình; Phấn đấu xây dựng bộ đội cụ Hồ; Sản xuất kinh doanh giỏi; Thực hiện 5 điều Bác Hồ dạy.
– Năm 1997: Phong trào lớn: “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước”
– Năm 2002: Phát triển phong trào: “Tuổi trẻ thi đua tình nguyện, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
– Năm 2007: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tập trung triển khai hai phong trào lớn là: “5 xung kích phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc” và “4 đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”.
5 xung kích phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc:
1. Xung kích lao động sáng tạo, phát triển kinh tế – xã hội;
2. Xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng;
3. Xung kích bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội;
4. Xung kích thực hiện cải cách hành chính;
5. Xung kích trong hội nhập kinh tế quốc tế.
4 đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp:
1. Đồng hành với thanh niên trong học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ;
2. Đồng hành với thanh niên trong nghề nghiệp và việc làm;
3. Đồng hành với thanh niên trong nâng cao sức khỏe thể chất và đời sống văn hoá tinh thần;
4. Đồng hành với thanh niên trong phát triển kỹ năng xã hội.
Chính khách xuất thân từ lãnh đạo Đoàn
Từ vị trí Bí thư thứ nhất
Nguyễn Lam: Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn khóa 1 và giữ chức vụ này liên tục 12 năm. Sau khi thôi chức Bí thư thứ nhất TW Đoàn thanh niên cộng sản, ông tham gia nhiều công tác trong bộ máy Chính phủ và Đảng: Bí thư Thành ủy Hà nội, Bộ trưởng Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (1969 – 1973), Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (1973 – 1974), (1981 – 1982), Trưởng ban Công nghiệp TW, Phó Thủ tướng (1980 – 1982), Bí thư TW Đảng khóa IV, khóa V, Trưởng ban Kinh tế TW.
Vũ Quang: Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn khóa 2 và giữ chức vụ này liên tục 16 năm. Sau khi thôi chức bí thư thứ nhất TW Đoàn thanh niên cộng sản, ông tham gia nhiều công tác ở các Ban của TW Đảng, Trưởng ban dân vận TW Đảng, Trưởng ban Đối ngoại TW Đảng, Ủy viên Hội đồng nhà nước; Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội; Ủy viên Đoàn Chủ tịch UBTƯMTTQVN; Phó trưởng ban Công nghiệp TW Đảng; Phó trưởng ban Kinh tế TW Đảng; Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ..
Đặng Quốc Bảo: Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn khóa 3. Sau rời cương vị Bí thư thứ nhất, chuyển công tác, làm Phó Giáo sư, Thiếu tướng, Hiệu trưởng Trường Đại học Kỹ thuật Quân sự, Thứ trưởng Bộ Giáo dục, Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV, Trưởng ban Khoa giáo Trung ương.
Vũ Mão: Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn khóa 4. Sau khi thôi chức Bí thư thứ nhất, ông tham gia nhiều công tác ở các Ban của TW Đảng, sau đó là ở các Ủy ban của Quốc hội như Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. Chức vụ cao cấp cuối cùng mà ông đảm nhận là Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội.
Hà Quang Dự: Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn khóa 5. Người dân tộc Tày. Sau khi rời công tác Đoàn và nhậm một số chức vụ khác, ông làm Bộ trưởng phụ trách công tác thanh niên và thể dục thể thao của Chính phủ, Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục Thể thao rồi nghỉ hưu.
Hồ Đức Việt: Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn khóa 6. Từng là Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức TW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 10. Ở Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam IX, ông là Ủy viên TW, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học – Công nghệ và Môi trường của Quốc hội. Trước đó, sau khi rời cương vị Bí thư thứ nhất TW Đoàn, ông Việt được điều động làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh, Phó ban thường trực Ban Tổ chức TW một thời gian ngắn, rồi sau đó là Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên trước khi quay trở lại Hà Nội nhận nhiệm vụ tại Quốc hội.
Vũ Trọng Kim: Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn khóa 7. Sau khi rời ghế Bí thư thứ nhất TW Đoàn, ông được điều động về tỉnh Quảng Trị làm Bí thư Tỉnh ủy. Còn cách Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam X một thời gian ngắn, ông về Hà Nội nhậm chức Phó Trưởng ban Thường trực Ban Dân vận TW, kiêm nhiệm Bí thư Đảng uỷ khối cơ quan Dân vận TW. HIện nay ông là Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Hoàng Bình Quân: Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn khóa 8. Sau khi rời cương vị Bí thứ thứ nhất Trung ương Đoàn, ông được đưa về làm Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang ngay. Hiện đang là Trưởng ban Đối ngoại TW.
Đào Ngọc Dung: Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn khóa 8. Sau khi vi phạm quy chế thi nghiên cứu sinh tại hội đồng thi Học viện Hành chính Quốc gia (tháng 5/2006 – chỉ sau khi bầu là Trung ương Ủy viên Đảng cộng sản Việt Nam 1 tháng) đã được điều về làm Bí thư Ban cán sự Đảng ngoài nước. Tháng 7/2007, khi sắp xếp lại hệ thống tổ chức Đảng ở các cơ quan TW, ông được điều về làm Phó Ban phụ trách vấn đề Tây Bắc và sau đó là Bí thư tỉnh ủy Yên Bái, trúng cử Ban chấp hành TW Đảng khóa XI.
Bí thư Quận ủy quận V Hà Nội năm 1947, nguyên Tổng thư ký Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục, Phó trưởng ban Khoa giáo TW, Hội trưởng Hội Cờ Việt Nam, Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam
Tổng Đoàn trưởng Đoàn Thanh niên Việt Nam, Tổng Thư ký Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Tổng thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam, Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin
Bí thư tỉnh ủy Thái Nguyên, Phó bí thư tỉnh ủy Hà Tĩnh, Khu ủy viên Khu tự trị Tây Bắc, Tổng cục trưởng Tổng cục thể dục thể thao, Chủ tịch Ủy ban Olympic Việt Nam
Phó Bí thư thành đoàn Hà Nội, Trưởng ban chỉ đạo Thanh niên xung phong trung ương (chống Mỹ cứu nước), Bí thư đoàn Thanh niên giao thông trung ương, đại biểu quốc hội Việt Nam khóa IV giữ chức vụ Phó chủ nhiệm Ủy ban ngân sách quốc hội, Trưởng đoàn chuyên gia thanh niên Việt Nam tại Campuchia, Vụ trưởng vụ Kiểm sát viên cao cấp của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bí thư Ban chấp hành Đảng bộ khối các cơ quan công nghiệp trung ương.
Bí thư Đoàn Thanh niên Cách mạng miền nam, Ủy viên Ủy ban quân quản TP HCM, Giám đốc Sở Nông nghiệp TP HCM, Ủy viên Thường vụ Thành ủy TP HCM, Phó chủ tịch UBND TP HCM, Phó bí thư thành ủy TP HCM, Ủy viên TƯ Đảng khóa VII, Trưởng Ban dân vận TW, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội
Chủ tịch Hội đồng Đội TW khóa 1. Trung tá Không quân, Anh hùng lực lượng vũ trang năm 29 tuổi, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa V, Ủy viên Hội đồng Nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội, Ủy viên TW Đảng khóa VII, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Phó Ban dân vận TW.
Ủy viên Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thanh niên, nguyên Ủy viên TW Đảng, Tổng Giám đốc Đài truyền hình Việt Nam, Uỷ viên Đảng đoàn Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, hiện là Phó chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nga, Chủ tịch Ủy ban Việt Nam đoàn kết với nhân dân Palextin
Chủ tịch Hội Sinh viên, Phó chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Ủy viên TW Đảng khóa VII, khóa VIII, khóa IX, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra TW
Bí thư Thành đoàn TP HCM, Phó chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh, Phó Bí thư thường trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Phó ban Kinh tế TW, Trưởng ban quản lý Khu công nghệ cao TP HCM, hiện là Chủ tịch HĐQT Công ty CP Chíp Sáng
Phó bí thư tỉnh Đoàn Cà Mau, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Chủ tịch HĐND Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hiện là Ủy viên TW Đảng, Chủ tịch Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Tổng thư ký Hội Việt Mỹ, hiện là Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam
Bí thư Thành đoàn TP HCM, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Bí thư TW Đoàn khóa V, khóa VI, Chủ tịch Hội đồng Đội TW khóa 3, Phó chủ tịch UBND TP HCM, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Thành ủy TP HCM, Phó bí thư Thành ủy TP HCM, Chủ tịch HĐND TP HCM (đã nghỉ hưu)
Ủy viên Ban thường vụ Thành uỷ TP HCM, Trưởng ban An ninh Nội chính Thành ủy TP HCM, Trưởng ban chỉ đạo cải cách tư pháp TP HCM, Đại biểu Quốc hội, Trưởng đoàn Đại biểu quốc hội TP HCM, hiện là Phó Chủ tịch Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam
Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam; Phó Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề Xã hội của Quốc hội, Ủy viên TW Đảng, hiện là Chủ nhiệm Ủy ban Về các Vấn đề Xã hội của Quốc hội
Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, Phó Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang hiện là Ủy viên TW Đảng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc
Tiến sĩ kinh tế, đại biểu Quốc hội khóa XI, nguyên Bí thư Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1999 – 2002, Thành ủy viên Thành ủy TP HCM, Bí thư Quận ủy Quận 2 TP Hồ Chí Minh, Phó bí thư tỉnh ủy Bến Tre, hiện là Ủy viên TW Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre
Chủ tịch Hội đồng Đội TW khóa V, nguyên tỉnh ủy viên, Bí thư tỉnh đoàn – Chủ tịch Hội liên hiệp thanh niên tỉnh Thanh Hóa, hiện là Phó chủ tịch Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Bangladesh (phiên âm Tiếng Việt: Băng-la-đét), tên chính thức: Cộng hoà Nhân dân Bangladesh, là một quốc gia ở vùng Nam Á. Địa giới Bangladesh giáp Ấn Độ ở phía tây, bắc, và đông nên gần như bị bao vây trừ một đoạn biên giới giáp với Myanma ở phía cực đông nam và Vịnh Bengal ở phía nam. Cùng với tiểu bangTây Bengal của Ấn Độ, quốc gia này là một thành phần của khu vực chung của dân tộc-ngôn ngữ Bengal. Địa danh Bangladesh có nghĩa “Đất nước Bengal” và được viết thành বাংলাদেশ và đánh vần là [‘baŋlad̪eʃ](trợ giúp·thông tin) trong tiếng Bengali chính thức.
Biên giới của Bangladesh được xác định theo sự Phân chia Ấn Độ năm 1947, khi nó trở thành nửa phía đông của Pakistan (Đông Pakistan), chia cách 1.600 km (1.000 dặm) với nửa phía tây. Dù cùng có tôn giáo chính là Hồi giáo, sự ngăn cách về ngôn ngữ và dân tộc giữa phía đông và phía tây cộng với một chính phủ chủ yếu của Tây Pakistan, khiến nước này tuyên bố độc lập dưới sự lãnh đạo của Sheikh Mujibur Rahman năm 1971 sau một cuộc Chiến tranh giải phóng Bangladesh đẫm máu, với sự trợ giúp của Ấn Độ. Những năm sau độc lập là giai đoạn bất ổn chính trị của đất nước, với mười ba chính phủ và ít nhất bốn cuộc đảo chính quân sự.
Dân số Bangladesh xếp hạng thứ bảy trên thế giới, nhưng với diện tích chỉ gần 144.000 km² nó đứng hàng thứ 94, biến nước này trở thành một trong những nước có mật độ dân số cao nhất thế giới. Đây là quốc gia có cộng đồng Hồi giáo lớn thứ ba thế giới, nhưng số tín đồ Hồi giáo vẫn hơi ít hơn so với số tín đồ Hồi giáo tại Ấn Độ (dù Hồi giáo chỉ là tôn giáo phụ tại Ấn Độ). Về mặt địa lý, nước này chủ yếu gồm Đồng bằng sông Hằng-Brahmaputra, nước này cũng có những trận lụt theo gió mùa hàng năm, và thường có lốc xoáy. Bangladesh là một thành viên sáng lập Hiệp hội Nam Á vì sự Hợp tác Khu vực (SAARC), BIMSTEC, và là một thành viên của Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC) và D-8.
Shaheed Minar, để kỷ niệm Phong trào Ngôn ngữ, là một thắng cảnh nổi tiếng Bangladesh
Những tàn tích của nền văn minh tại vùng đại Bengal có niên đại từ 4.000 năm trước[2][3], khi vùng này là nơi sinh sống của người Dravida, Tạng-Miến và Nam Á. Nguồn gốc chính xác của từ Bangla hay Bengal hiện vẫn chưa được biết, dù mọi người tin rằng nó xuất phát từ bộ lạc Bang nói tiếng Dravida đã từng sống ở vùng này khoảng năm 1000 TCN[4]. Sau khi người Ấn-Arya tới đây, vương quốc Gangaridai được thành lập từ ít nhất thế kỷ thứ 7 TCN, sau này vương quốc này thống nhất với Bihar thuộc Đế chế Magadha. Ở thời triều đại Maurya được Chandragupta Maurya thành lập, Đế chế Magadha trải dài hầu như một nửa tiểu lục địa Ấn Độ và nhiều phần của Ba Tư cũng như Afghanistan. Bengal sau này trở thành một phần của đế chế Gupta từ thế kỷ 3 tới thế kỷ 6. Sau khi đế chế này sụp đổ, một triều đại Bengal khá rực rỡ tên gọi Shashanka được thành lập nhưng không tồn tại lâu. Sau giai đoạn quân chủ, triều đại PalaPhật giáo cai trị vùng này trong hơn 400 năm, tiếp sau là một giai đoạn cầm quyền ngắn của triều đại SenaHindu. Đạo Hồi bắt đầu du nhập vào Bengal ở thế kỷ 12 nhờ các nhà truyền giáo Sufi và những cuộc chinh phục sau này của Hồi giáo giúp tôn giáo này phát triển ra toàn vùng[5]. Bakhtiyar Khalji, một vị tướng người Thổ Nhĩ Kỳ, đánh bại Lakshman Sen của triều đình Sena và chinh phục nhiều vùng rộng lớn tại Bengal. Vùng này nằm dưới sự cai trị của nhiều triều đại Hồi giáo và các vị lãnh chúa phong kiến trong 500 năm sau đó. Tới thế kỷ 16, đế chế Mughal kiểm soát Bengal, và Dhaka trở thành một trung tâm tỉnh lỵ quan trọng của chính quyền Mughal.
Những thương nhân châu Âu tới đây từ cuối thế kỷ 15, và ảnh hưởng của họ dần tăng lên tới khi Công ty Đông Ấn của Anh giành quyền kiểm soát Bengal sau trận Plassey năm 1757[6]. Cuộc nổi dậy đẫm máu năm 1857, được gọi là cuộc binh biến Sepoy, dẫn tới việc quyền lực được giao cho hoàng gia Anh, với một vị phó vương người Anh quản lý bộ máy hành chính (Baxter[6], trang 30—32). Trong thời thuộc địa, nạn đói nhiều lần xảy ra trên tiểu lục địa Ấn Độ, gồm cả nạn đói Bengal năm 1770 khiến 3 triệu người chết[7]. Trong giai đoạn từ 1905 đến 1911, một nỗ lực phân chia tỉnh Bengal thành hai vùng, với Dhaka là thủ phủ vùng phía đông đã sớm thất bại (Baxter[6], trang 39—40). Khi Ấn Độ bị chia sẻ năm 1947, Bengal được chia theo vùng tôn giáo, với vùng phía tây thuộc Ấn Độ và vùng phía đông trở thành lãnh thổ Pakistan với tên gọi là tỉnh Đông Bengal (sau này được đổi tên thành Đông Pakistan), với thủ phủ tại Dhaka[8]. Năm 1950, cuộc cải cách ruộng đất hoàn thành ở Đông Bengal với việc bãi bỏ hệ thống phong kiến Zamindar (Baxter[6], trang 72). Tuy nhiên bất chấp sức mạnh kinh tế và nhân khẩu của phía đông, chính phủ Pakistan và quân đội vẫn bị thống trị bởi tầng lớp thượng lưu phía tây. Phong trào ngôn ngữ Bengal năm 1952 là dấu hiệu đầu tiên về sự xích mích giữa hai vùng của Pakistan (Baxter[6], trang 62—63). Sự bất mãn với chính phủ trung ương về các vấn đề văn hóa và kinh tế tiếp tục tăng lên trong thập kỷ tiếp theo, trong thời gian ấy Liên đoàn Awami nổi lên trở thành tiếng nói chính trị của dân cư nói tiếng Bengal. Liên đoàn đã kêu gọi quyền tự trị trong thập niên 1960, và 1966, chủ tịch phong trào Sheikh Mujibur Rahman bị tống giam; ông được thả năm 1969 sau một vụ nổi dậy chưa từng thấy của người dân.
Bangladesh – có thể hiện hệ thống đường bộ và đường sắt
Năm 1970, bão Bhola[9] đã tàn phá vùng bờ biển Đông Pakistan, chính phủ trung ương phản ứng chậm chạp. Sự tức giận của người dân Bengal càng gia tăng khi Sheikh Mujibur Rahman cùng với Liên đoàn Awami của mình giành đa số tại Nghị viện trong cuộc bầu cử năm 1970, (Baxter[6], trang 78—79) bị ngăn cản nhậm chức. Sau những cuộc đàm phán thất bại với Mujib, Tổng thống Yahya Khan đã bắt ông trong đêm ngày 25 tháng 3 năm 1971, và tiến hành Chiến dịch Đèn pha[10], một cuộc tấn công nhằm duy trì quyền kiểm soát quân sự với phía Đông Pakistan. Những biện pháp của Yahya gây đổ máu rất lớn, và bạo lực của cuộc chiến dẫn tới cái chết của nhiều dân thường[11]. Các mục tiêu chủ yếu là tầng lớp trí thức và những người theo đạo Hindu, với khoảng 10 triệu người tị nạn phải bỏ chạy sang quốc gia láng giềng là Ấn Độ (LaPorte[12], trang 103). Những con số ước tính về số người bị thảm sát lên tới từ hàng trăm nghìn tới 3 triệu người[13][14]. Đa số lãnh đạo Liên đoàn Awami phải bỏ trốn và lập ra một chính phủ hải ngoại tại Calcutta, Ấn Độ. Chiến tranh giải phóng Bangladesh kéo dài 9 tháng. Du kíchMukti Bahini và quân chính quy Bengal nhận được sự hỗ trợ từ phía Các lực lượng vũ trang Ấn Độ tháng 12, 1971. Dưới sự chỉ huy của Trung tướng J.S. Arora, quân đội Ấn Độ đã giành được thắng lợi quyết định trước Pakistan ngày 16 tháng 12 năm 1971, bắt 90.000 tù binh[15] trong cuộc chiến tranh Ấn Độ-Pakistan năm 1971.
Sau khi giành được độc lập, Bangladesh trở thành một nhà nước dân chủ nghị viện, Mujib làm Thủ tướng. Trong cuộc bầu cử nghị viện năm 1973, Liên đoàn Awami giành được đa số tuyệt đối. Một nạn đói toàn quốc diễn ra trong năm 1973 và 1974[7] và đầu năm 1975, Mujib đưa ra sáng kiến một đảng xã hội chủ nghĩa cầm quyền với tổ chức BAKSAL mới được thành lập của ông. Ngày 15 tháng 8 năm 1975, Mujib và gia đình bị các sĩ quan trung cấp ám sát[16]. Một loạt các cuộc đảo chính và phản đảo chính đẫm máu diễn ra trong ba tháng tiếp theo, lên tới cực điểm khi tướng Ziaur Rahman, người tái lập chế độ chính trị đa đảng và đồng thời là người thành lập đảng Quốc gia Bangladesh (BNP), lên nắm quyền. Thời kỳ cầm quyền của Zia kết thúc khi ông bị ám sát năm 1981 bởi những sĩ quan không quân trong quân đội[16]. Người cầm quyền chủ yếu tiếp sau của Bangladesh là tướng Hossain Mohammad Ershad, người giành được quyền lực sau một cuộc đảo chính đẫm máu năm 1982 và tại vị đến năm 1990, khi ông bị gạt ra rìa sau một cuộc nổi dậy của dân chúng. Từ đó, Bangladesh chuyển thành một chế độ dân chủ nghị viện. Vợ góa của Zia, Khaleda Zia, lãnh đạo BNP giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 1991 và 2001 và trở thành Thủ tướng từ năm 1991 tới 1996 và một lần nữa từ năm 2001 tới hiện tại. Sheikh Hasina, một trong những người con gái còn sống của Mujib và là lãnh đạo Liên đoàn Awami, nắm quyền từ năm 1996 đến 2001. Dù Bangladesh nằm dưới sự lãnh đạo của hai nhà nữ chính trị khác nhau nhưng nước này vẫn ở tình trạng tham nhũng tràn lan[17], hỗn loạn và bạo lực chính trị.
Bangladesh là một nước dân chủ nghị viện. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, một chức vụ có tính nghi lễ. Quyền lực thực sự do thủ tướng, là lãnh đạo chính phủ nắm giữ. Tổng thống được cơ quan lập pháp bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm và thông thường có các quyền lực hạn chế chỉ được tăng quyền trong thời kỳ có chính phủ lâm thời, đa phần để kiểm soát sự chuyển tiếp sang một chính phủ mới. Bangladesh đã thiết lập một hệ thống chuyển giao quyền lực duy nhất; vào thời điểm hết nhiệm kỳ chính phủ, quyền lực được trao lại cho các thành viên của một chính phủ lâm thời trong 3 tháng, tổ chức này sẽ tổ chức tổng tuyển cử và chuyển giao lại quyền lực cho những đại diện được bầu ra. Hệ thống này lần đầu được áp dụng năm 1991 và được đưa vào thành quy định trong hiến pháp năm 1996, là lần sửa đổi thứ 13 của hiến pháp[18].
Thủ tướng theo nghi thức do tổng thống chỉ định và phải là một thành viên nghị viện (MP), được sự tin cậy của đa số thành viên. Chính phủ gồm các bộ trưởng do thủ tướng lựa chọn và do tổng thống chỉ định. Hệ thống một viện với 300 thành viên Quốc hội hay Jatiyo Sangshad, do dân bầu với chỉ một đại biểu cho mỗi khu bầu cử có nhiệm kỳ năm năm. Quyền bỏ phiếu phổ thông cho mọi công dân từ 18 tuổi.
Hiến pháp Bangladesh được soạn thảo năm 1972 và đã trải qua 13 lần sửa đổi[18]. Cơ quan tư pháp cao nhất là Tòa án tối cao, chánh án và các thẩm phán khác của Tòa án tối cao do Tổng thống chỉ định. Tư pháp không tách rời khỏi hành chính, gây ra nhiều rối loạn trong những năm gần đây. Luật pháp dựa lỏng lẻo theo thông luật Anh, nhưng các đạo luật gia đình như hôn nhân và thừa kế dựa theo tôn giáo, và vì thế khác biệt tùy theo từng cộng đồng tôn giáo.
Hai đảng chính tại Bangladesh là Đảng Quốc gia Bangladesh (BNP) và Liên đoàn Awami Bangladesh. BNP có đồng minh là các đảng Hồi giáo như Jamaat-e-Islami Bangladesh và Islami Oikya Jot, trong khi Liên đoàn Awami liên kết cùng phe cánh tả và các đảng phi tôn giáo. Một nhóm khác đóng vai trò khá quan trọng là Đảng Jatiya, do cựu lãnh đạo quân đội Ershad đứng đầu. Sự đối đầu Liên đoàn Awami-BNP rất gay gắt và thường dẫn tới những cuộc phản kháng, bạo lực và gây thiệt hại nhân mạng. Cánh chính trị sinh viên có vai trò rất lớn tại Bangladesh, di sản từ thời phong trào giải phóng cuộc gia. Hầu như tất cả các đảng chính trị đều có cánh sinh viên hoạt động rất mạnh và nhiều sinh viên đã được bầu vào Nghị viện.
Hai đảng Hồi giáo cực đoan, Jagrata Muslim Janata Bangladesh (JMJB) và Jama’atul Mujahideen Bangladesh (JMB), đã bị cấm hoạt động vào tháng 2 năm 2005. Từ một loạt những vụ đánh bom năm 1999 gây thiệt mạng hàng trăm người và gây nỗi sợ hãi trong toàn quốc gia, nhiều lời buộc tội đã nhắm tới các đảng đó và hàng trăm thành viên của họ đã bị cầm giữ trong các chiến dịch an ninh, gồm cả lãnh đạo hai đảng vào năm 2006. Trường hợp đánh bom tự sát đầu tiên tại Bangladesh diễn ra tháng 11 năm 2005.
Các phân khu được chia tiếp thành huyện (zila). Có 66 huyện tại Bangladesh, mỗi huyện được chia tiếp thành các upazila (phó huyện) hoặc thana. Trong khu vực phạm vi của mỗi trạm cảnh sát, ngoại trừ ở các khu vực đô thị, được chia thành vài liên hiệp, mỗi liên hiệp gồm nhiều làng. Tại các khu vực đô thị, phạm vi của các đồn cảnh sát được chia thành phường, và được chia tiếp thành mahallas. Không có bầu cử các quan chức ở cấp phân khu hay cấp huyện, và chính quyền chỉ gồm các quan chức chính phủ. Các cuộc bầu cử trực tiếp được thực hiện ở cấp liên hiệp (hay phường), bầu ra chủ tịch và một số thành viên. Năm 1997, một đạo luật của quốc hội đã được thông qua để định ra ba ghế tối thiểu (trong tổng số 12) trong mỗi liên hiệp cho các ứng cử viên nữ.[21]
Đa phần Bangladesh nằm thấp 10 mét dưới mực nước biển, và mọi người cho rằng 10% đất đai sẽ bị ngập chìm nếu mực nước biển dâng thêm 1 mét[23]. Điểm cao nhất Bangladesh nằm tại dãy Mowdok ở độ cao 1.052 m (3.451 ft) tại vùng đồi Chittagong phía đông nam đất nước[24]. Một phần chính vùng duyên hải có các rừng nhiệt đới nhiều đầm lầy. Sundarbans, một trong những khu rừng tràmđước lớn nhất thế giới là nơi sinh sống của nhiều hệ động thực vật, gồm cả hổ Bengal. Năm 1997, vùng này được xếp vào danh sách các khu vực đang nguy cấp[25].
Dọc theo Hạ chí tuyến, khí hậu Bangladesh là khí hậu nhiệt đới với mùa đông dễ chịu từ tháng 10 tới tháng 3, mùa hè nóng ẩm từ tháng 3 tới tháng 6. Mùa gió mùa ấm và ẩm kéo dài từ tháng 6 tới tháng 10 mang tới đa phần lượng mưa của nước này. Các thảm họa thiên nhiên, như lũ lụt, lốc nhiệt đới, lốc xoáy, và lở đất do thủy triều xảy ra hầu như hàng năm cộng với những hậu quả của nạn phá rừng, thoái hóa đất và xói lở. Cox’s Bazar, phía nam thành phố Chittagong, có một bãi biển trải dài liên tục hơn 120 kilômét (75 dặm); đây là một trong những bãi biển tự nhiên còn ở tình trạng hoang sơ dài nhất thế giới.
Ngư dân gần thị trấn Cox’s Bazaar phía nam Bangladesh. Nhiều ngành công nghiệp Bangladesh vẫn còn sơ khai theo các tiêu chuẩn hiện nay.
Người nông dân trên cánh đồng, một cảnh thường gặp mọi nơi ở Bangladesh
Dù có những nỗ lực trong nước và quốc tế nhằm cải thiện triển vọng kinh tế và nhân khẩu, Bangladesh vẫn là một quốc gia dưới mức phát triển và dân số quá đông đúc. Thu nhập trên đầu người năm 2004 ở mức thấp US$440, và nhiều chỉ số kinh tế khác còn kém cỏi hơn thế[26]. Tuy vậy, như Ngân hàng Thế giới ghi chú trong bản báo cáo ngắn tháng 7 năm 2005 của họ, nước này đã có bước phát triển ấn tượng trong lĩnh vực phát triển con người bằng cách tập trung nâng cao trình độ học vấn, thực thi bình đẳng giới trong trường học và giảm phát triển dân số.
Đay là một trong những động cơ kinh tế của đất nước. Trong thời Thế chiến thứ hai và cuối thập niên 1940 sản phẩm đay của Bangladesh chiếm 80% thị trường thế giới[27] và thậm chí vào đầu thập niên 1970 vẫn chiếm 70% doanh thu xuất khẩu. Tuy nhiên, các sản phẩm polypropylen bắt đầu thay thế các sản phẩm đay trên khắp thế giới và ngành công nghiệp này bắt đầu giảm sút. Bangladesh cung cấp lượng sản phẩm gạo, chè và mù tạc đáng kế. Dù hai phần ba dân số Bangladesh là nông dân, hơn ba phần tư lượng xuất khẩu của họ có được từ công nghiệp dệt may[28], ngành này bắt đầu thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong thập niên 1980 nhờ giá nhân công rẻ và chi phí chuyển đổi thấp. Năm 2002, ngành công nghiệp này xuất khẩu lượng sản phẩm trị giá 5 tỷ USD[29]. Hiện nay ngành này sử dụng hơn 3 triệu công nhân, 90% là phụ nữ[30]. Một phần ngoại tệ khác thu được từ các khoản tiền gửi từ những người Bangladesh sống ở nước ngoài.
Các cản trở đối với sự phát triển bao gồm những cơn lũ và lốc xoáy thường xuyên, các doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả, quản lý yếu kém cơ sở vật chất bến cảng, sự tăng trưởng nhanh lực lượng lao động vượt quá mức cung việc làm, sử dụng không hiệu quả các nguồn năng lượng (như khí tự nhiên), nguồn cung năng lượng không đủ, chậm áp dụng cải cách kinh tế, tranh giành chính trị và tham nhũng. Theo bản báo cáo ngắn về các quốc gia của Ngân hàng thế giới tháng 7 năm 2005: “Một trong những vật cản lớn nhất đối với sự tăng trưởng của Bangladesh là quản lý kém và sự yếu kém trong các định chế công cộng”[31].
Một trong những yếu tố đóng góp nhiều vào sự tăng trưởng của nền kinh tế là sự truyền bá mở rộng chương trình tín dụng nhỏ của Muhammad Yunus thông qua Ngân hàng Grameen. Tới cuối thập niên 1990, Ngân hàng Grameen đã có 2,3 triệu thành viên cùng với 2,5 triệu thành viên của các tổ chức khác[34].
Để tăng cường phát triển kinh tế, chính phủ đã tạo ra nhiều khu chế xuất để thu hút đầu tư nước ngoài. Những khu công nghiệp này được điều hành bởi Cơ quan Khu chế xuất Bangladesh.
Ước tính dân số gần đây trong khoảng từ 142 đến 147 triệu người, làm cho Bangladesh đứng trong nhóm 10 nước đông dân nhất thế giới. Với số dân tương tự như Nga nhưng có diện tích chỉ 144.000 kilômét vuông, khiến nước này có mật độ dân số rất lớn. Tăng trưởng dân số ở mức rất cao trong các thập niên 1960 và 1970 khiến dân số tăng từ 50 lên 90 triệu người. Việc tăng cường kiểm soát sinh sản trong thập niên 1980 đã góp phần giảm tỷ lệ này. Dân số Bangladesh khá trẻ, với nhóm độ tuổi 0–25 chiếm 60%, trong khi chỉ 3% là từ 65 trở lên. Tuổi thọ ở mức 63 tuổi đối với cả phụ nữ và nam giới[35].
Bangladesh là quốc gia đồng nhất về mặt sắc tộc, với người Bengali chiếm 98% dân số. Phần còn lại chủ yếu là những người di trú gốc Bihar và các nhóm sắc tộc bản địa. Có 13 nhóm sắc tộc phân bố trong vùng đồi Chittagong, đông dân nhất trong số này là người Chakma. Khu vực này là nguồn gốc của căng thẳng sắc tộc kể từ khởi đầu của nhà nước Bangladesh[36]. Các nhóm bộ tộc lớn nhất ngoài vùng đồi núi là người Santal và Garos (Achiks). Buôn bán người đã trở thành một vấn đề kinh niên tại Bangladesh[37] và việc nhập cư bất hợp pháp đang là nguyên nhân gây xích mích với Myanma[38] và Ấn Độ[39].
Ngôn ngữ chính, tại Tây Bengal, là tiếng Bengal, một ngôn ngữ Ấn-Arya có nguồn gốc tiếng Phạn và có bảng ký tự riêng. Bangla là ngôn ngữ chính thức của Bangladesh. Tiếng Anh được sử dụng như ngôn ngữ thứ hai trong tầng lớp trung và thượng lưu và trong giáo dục cao học. Từ Nghị định Tổng thống năm 1987, Bangla được dùng trong mọi văn bản nhà nước trừ đối ngoại.
Hai tôn giáo chính ở Bangladesh là Hồi giáo (88% theo ước tính của Bộ Nội vụ Hoa Kỳ, 2005) và Hindu giáo (11% theo ước tính của Bộ nội vụ Hoa Kỳ, 2005). Dân tộc Bihari chủ yếu là người Hồi giáo Shia. Các nhóm tôn giáo khác gồm Phật giáo, Thiên chúa giáo và Thuyết duy linh.
Mức độ tiếp cận dịch vụ y tế và giáo dục gần đây đã được cải thiện khi mức nghèo khổ giảm bớt. Tuy nhiên, Bangladesh vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Đa số dân Bangladesh làm nông nghiệp, sống nhờ đồng ruộng. Gần một nửa số dân sống với chưa tới 1 USD mỗi ngày[40]. Có rất nhiều vấn đề sức khoẻ, từ ô nhiễm nước mặt tới nước ngầm nhiễm asen[41], và bệnh tật như sốt rét, trùng xoắn móc câu và sốt Dengue. Tỷ lệ biết chữ tại Bangladesh là khoảng 41%[42]. Theo ước tính năm 2004 của Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), có sự chênh lệch về mức độ biết đọc viết giữa hai giới, tỷ lệ này ở nam giới là 50% trong khi ở phụ nữ chỉ là 31%[43]. Tỷ lệ biết chữ đã tăng lên nhờ nhiều chương trình hành động quốc gia. Một trong những chương trình thành công nhất là Lương thực cho Giáo dục (FFE) được đưa ra năm 1993 [44], và một chương trình trả lương cho phụ nữ theo học mức tiểu học và trung học[45].
Là một quốc gia mới nhưng bắt nguồn từ một dân tộc có lịch sử dài lâu, Bangladesh có một nền văn hóa bao gồm nhiều yếu tố cả mới và cũ. Ngôn ngữ Bangla có một di sản văn học rất phong phú, đây là di sản chung của Bangladesh với bang Tây BengalẤn Độ. Văn bản tiếng Bangla đầu tiên xuất hiện từ thế kỷ thứ tám Charyapada. Văn học Bangla thời trung cổ thường mang tính tôn giáo (như Chandidas), hay phòng theo từ các ngôn ngữ khác (như Alaol). Văn học Bangla phát triển ở mức độ cao nhất vào thế kỷ mười chín. Các biểu tượng lớn nhất của nó là nhà thơ Rabindranath Tagore và Kazi Nazrul Islam. Bangladesh cũng có truyền thống văn học dân gian dài lâu, thể hiện qua Maimansingha Gitika, Thakurmar Jhuli hay các câu chuyện về Gopal Bhar.
Âm nhạc truyền thống Bangladesh có căn bản trữ tình (Baniprodhan), với số lượng nhạc cụ sử dụng tối thiểu. Truyền thống Baul là duy sản duy nhất của âm nhạc dân gian Bangla và có nhiều truyền thống âm nhạc khác tại Bangladesh, khác biệt tùy theo vùng. Gombhira, Bhatiali, Bhawaiya đều là các hình thức âm nhạc ít được biết tới hơn. Âm nhạc dân gian Bengal thường có sử dụng ektara, một nhạc cụ một dây. Các nhạc cụ khác gồm dotara, dhol, sáo và trống cặp nhỏ. Bangladesh cũng có một di sản Âm nhạc cổ điển Bắc Ấn nổi bật. Tương tự, các hình thức nhảy múa Bangladesh cũng bắt nguồn từ các truyền thống dân gian, đặc biệt là các truyền thống của các nhóm bộ tộc, cũng như ở tầm rộng hơn là truyền thống nhảy múa Ấn Độ. Bangladesh sản xuất khoảng 80 bộ phim mỗi năm[46]. Các bộ phim phim Hindi cũng khá phổ biến, cũng như các bộ phim từ Kolkata, vốn đều thuộc nền công nghiệp phim ảnh Bengal đang phát triển thịnh vượng. Khoảng 200 tờ báo hàng ngày xuất bản tại Bangladesh, cùng với hơn 1.800 tờ báo định kỳ. Tuy nhiên, tỷ lệ độc giả thường xuyên khá thấp, khoảng 15% dân số[47]. Người Bangladesh có thể theo dõi nhiều chương trình phát thanh trong nước và nước ngoài từ Bangladesh Betar, cũng như các chương trình tiếng Bangla của BBC và Tiếng nói Hoa Kỳ. Kênh truyền hình trước kia thuộc sở hữu nhà nước đã được tư nhân hóa trong những năm gần đây và đã có một số bước phát triển nhảy vọt.
Truyền thống ẩm thực Bangladesh có quan hệ chặt chẽ với ẩm thực Ấn Độ và ẩm thực Trung Đông cũng như có nhiều nét riêng biệt. Gạo và cá là các món ăn được ưa thích truyền thống; dẫn tới một câu nói rằng “cá và gạo tạo nên người Bengal” (machhe bhate bangali). Tiêu thụ thịt đã tăng lên trong những năm gần đây. Người Bangladesh chế tạo ra những sản phẩm bánh kẹo rất đặc trưng từ sữa; một số loại thường gặp là Rôshogolla, Chômchôm và Kalojam.
Sari (shaŗi) là loại trang phục phổ biến nhất của phụ nữ Bangladesh. Tuy nhiên, salwar kameez (shaloar kamiz) cũng khá phổ thông, và tại những vùng thành thị một số phụ nữ mặc trang phục phương Tây. Đối với nam giới, trang phục phương Tây đã được chấp nhận rộng rãi. Nam giới cũng mặc theo kiểu kết hợp kurta-paejama, thường là vào các dịp lễ tôn giáo. Lungi, một kiểu váy dài, cũng được nhiều nam giới Bangladesh sử dụng.
Hai Eid, Eid ul-Fitr và Eid ul-Adha, là các lễ hội lớn nhất theo lịch Hồi giáo. Ngày hôm trước Eid ul-Fitr được gọi là Chãd Rat (đêm của Mặt trăng), và thường được chào mừng bằng những tràng pháo. Các ngày lễ Hồi giáo khác cũng được kỷ niệm. Các ngày lễ Hindu giáo là DurgaPuja và SaraswatiPuja. Buddha Purnima, chào mừng ngày sinh của Gautama Buddha, là một trong những ngày lễ quan trọng nhất của Phật giáo trong khi Giáng sinh, được gọi là Bôŗodin (ngày Vĩ đại) trong tiếng Bangla được cộng đồng thiểu số Thiên chúa giáo đón mừng. Ngày lễ không tôn giáo quan trọng nhất là Nôbobôrsho hay năm mới của Bengal, ngày khởi đầu của lịch Bengal. Các lễ hội khác gồm Nobanno, Poush parbon (ngày lễ của Poush) ngày lễ kỷ niệm Shohid Dibosh.
Hồi giáo là tôn giáo lớn nhất của Bangladesh, người Hồi giáo chiếm 89,5% dân số, tiếp theo là Ấn Độ giáo, chiếm 9,6%, ngoài ra còn Phật giáo, Kitô giáo, các tôn giáo nhỏ khác và vô thần.[48]
Người Hồi giáo chiếm gần 90 % dân số.[48] Hầu hết người Hồi giáo tại Bangladesh là người Hồi giáo Sunni, nhưng có một cộng đồng người Hồi giáo Shia nhỏ và cộng đồng nhỏ hơn là giáo phái Ahmadiyya. Hầu hết những người Shia sinh sống trong khu vực đô thị.
Cộng đồng Hồi giáo trong khu vực Bengal phát triển độc lập so với các xu hướng Hồi giáo thống trị ở Ấn Độ. Bangladesh cũng là quốc gia Hồi giáo duy nhất cam kết bảo tồn các yếu tố văn hóa của Phật giáo và Ấn Độ giáo có từ thời tiền Hồi giáo.
Tuy là quốc gia Hồi giáo nhưng sau khi giành được độc lập từ Pakistan, chủ nghĩa thế tục đã được quy định trong bản Hiến pháp của Bangladesh vào năm 1972 và là một trong bốn nguyên tắc chính của nhà nước Bangladesh, 3 nguyên tắc khác là dân chủ, dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Năm 2010, Tòa án Tối cao Bangladesh ban lệnh duy trì các nguyên tắc thế tục của hiến pháp năm 1972. Tách đạo Hồi ra khỏi hệ thống chính trị của quốc gia.[49]
Ấn Độ giáo
Tượng thờ trong đền Dhakeshwari
Ấn Độ giáo là tôn giáo lớn thứ hai ở Bangladesh, bao gồm khoảng 10 phần trăm dân số như điều tra dân số năm 2001.[50] Về dân số, Bangladesh là nước có cộng đồng Ấn giáo lớn thứ ba trên thế giới, sau Ấn Độ và Nepal.
Ấn giáo hiện nay có ảnh hưởng lớn đến chính trị ở Bangladesh, tôn giáo này có 4 đại diện trong quốc hội Bangladesh.
Phật giáo
Chùa Dhātu Zadi, một ngôi chùa Phật giáo trong huyện Bandarban
Có khoảng 1 triệu người Bangladesh theo Phật giáo Theravada, tức chiếm khoảng 0,7% dân số.
Trong thời cổ đại, khu vực của Bangladesh ngày nay là một trung tâm Phật giáo lớn ở châu Á, bao gồm cả triết lý và kiến trúc. Kiến trúc Phật giáo ở Campuchia, Indonesia và Thái Lan, trong đó có đền Angkor Wat và Borobudur, được cho là đã được lấy cảm hứng từ các tu viện cổ xưa của Bangladesh như Somapura Mahavihara.
Hầu hết những người theo Phật giáo ở Bangladesh sống ở khu vực miền Đông Nam nước này, đặc biệt là trong vùng đồi Chittagong, và huyện Comilla.
^Ali, A (1996). “Vulnerability of Bangladesh to climate change and sea level rise through tropical cyclones and storm surges”. Water, Air, & Soil Pollution92 (1-2): 171–179.
^Rahman, S (2004). “Global Shift: Bangladesh Garment Industry in Perspective”. Asian Affairs26 (1): 75–91.
^Begum, N (2001). “Enforcement of Safety Regulations in Garment sector in Bangladesh”. Proc. Growth of Garment Industry in Bangladesh: Economic and Social dimension. tr. 208–226.
^Rashiduzzaman, M (1998). “Bangladesh’s Chittagong Hill Tracts Peace Accord: Institutional Features and Strategic Concerns”. Asian Survey38 (7): 653–670.
^Ahmed, A; C del Nino (2002). The food for education program in Bangladesh: An evaluation of its impact on educational attainment and food security, FCND DP No. 138. International Food Policy Research Institute.
^Khandker, S; M Pitt, N Fuwa (2003). Subsidy to Promote Girls’ Secondary Education: the Female Stipend Program in Bangladesh. World Bank, Washington DC.
Mặc dù quân Pháp chịu nhiều thiệt hại, nhưng theo sử gia Phạm Văn Sơn, thì chiến thắng này đã giúp họ lập dần được nhiều căn cứ quan trọng, để hoàn thành cuộc chinh phục vùng đất đai của người Việt…[3]
Sau khi phá được Đại đồn Chí Hòa ngày 25 tháng 2 năm 1861, bộ chỉ huy thực dân Pháp thấy cần phải đánh lấy Biên Hòa và Định Tường để mở rộng khu vực và cũng để ổn định các vùng đất đã đánh chiếm được, nhưng vì không đủ quân để mở cả hai mặt trận và vì sau khi cân khi cân nhắc, Thủy sư đề đốc Charner quyết định đánh chiếm Định Tường trước, mà điểm mấu chốt là thành Mỹ Tho, bởi mấy lý do chính sau[4].
Định Tường là một trung tâm kháng Pháp, cần phải nhanh chóng tiêu diệt.
Chiếm được Định Tường, tức cắt đứt được nguồn cung ứng lúa gạo ra Huế & các nơi khác.
Ngoài ra, chiếm được Định Tường, thực dân Pháp có thêm điều kiện để đánh lấy Vương quốc Căm Bốt.
Chuẩn bị
Bởi mùa mưa sắp đến, nên ngay khi quyết định đánh chiếm Định Tường, Đề đốc Charner hối hả sai nhiều toán đi thăm dò, cuối cùng ông cũng tìm được sông Bảo Định (hay kênh Trạm)[5] và kênh Thương Mại (Arroyo Commercial) để làm đường tiến quân.
Diễn biến
Ngày 26 tháng 3 năm 1861, Trung tá Hải quân Bourdairs[6], từ 15 ngày nay đã đóng chốt tại cửa kênh Trạm, nhận được lệnh khởi sự hành quân, với chỉ thị đặc biệt của Đề đốc Charner là: Không được phép quên mục tiêu tối hậu của ta là chiếm Mỹ Tho (thư ngày 27 tháng 3 năm 1861).[7]
Cùng phối hợp với Trung tá Hải quân Bourdairs có hai pháo hạm La Mitraill và L’Alarme, 5 tiểu pháo hạm cùng 200 lính thủy, 20 lính Tây Ban Nha do Thiếu úy Maolini dẫn đầu.
Việc làm đầu tiên là Bourdairs lệnh cho tất cả tàu bè đang ở kênh Thương Mại, nhưng vì cỏ rậm & bùn sình lấp cạn đã không tiến được, lui ra hết để theo đường kênh Trạm.
Ngày 1 tháng 4 năm 1861, các pháo hạm cùng nả súng phá được hai đồn của quân Việt ở bờ kênh.
Ngày 2 và 3 năm 1961, quân Pháp tập trung để phá các đập chắn ngang kênh dùng để cản ngăn tàu. Phá xong 4 đập, ba pháo hạm bằng sắt tiến lên, rồi nhanh chóng bắn triệt hạ đồn thứ ba đang canh giữ đập thứ 5 và thứ 6[8] của quân Việt.
Ngày 4, từ Sài Gòn, một đoàn quân đông đảo đi trên hộ tống hạm Echo do Đại úy De.Vautré chỉ huy đến chi viện, gồm:
200 lính bộ do hai Đại úy là Lafouge và Azières cầm đầu.
100 lính thủy, 2 đại đội thủy quân đánh bộ, hai cổ đại pháo nòng 4, hai súng cối miền núi nòng có khía cùng nhiều đạn dược do Đại úy Amlaudrie du Chauffaut cầm đầu.
50 lính công binh do Đại úy Bovet cầm đầu, có Thiếu úy Mathieu theo hỗ trợ và Thiếu úy Hải quân Amirault được biệt phái sang làm phụ tá.
Hai hôm sau, tức ngày 6 tháng 4, lại có thêm nhiều toán quân nữa do Trung tá Hải quân Desvaux [9] chỉ huy đến Vũng Gù. Cùng lúc đó, Trung úy bộ binh Guilhoust ở Thủ Dầu Một cũng được lệnh xuống tàu 3 ổ súng cối xuống tăng viện.
Lúc này, đoàn quân viễn chinh trở nên đông đảo; và theo lệnh Charner, quyền tổng chỉ huy từ Trung tá Hải quân Bourdairs được chuyển sang cho Đại tá Hải quân Le Couriault du Quilio[10], là sĩ quan tùy tùng của Thủy sư đề đốc Charner. Phụ tá cho chỉ huy mới có viên chỉ huy đoàn công binh là Allizé de Matignicourt, và huấn thị mới lần này là: Nếu vị Phó vương đề nghị thương thảo với ông (tức Le Couriault du Quilio), thì ông sẽ trả lời rằng phải để ông chiếm thành rồi mới nói chuyện. Không một phút nào ông được phép quên là ông đang liên hệ với một “con cáo” sẵn sàng đánh lừa ông.[11]
Ngày 5 tháng 4, sau khi phá xong đập thứ 5 và thứ 6, hạm đội của Trung tá Hải quân Bourdairs và pháo hạm số 16 do Đại úy Béhic chỉ huy vừa đến tăng cường cùng thẳng tiến đến đập thứ 7. Vừa đến nơi, thì các tàu Pháp bị quân Việt ở hai bên bờ dùng súng bắn xuống. Tàu Pháp bắn trả, giết chết một và làm bị thương vài người khác.
Cũng vào sáng ngày này, đoàn quân tăng viện theo hộ tống hạm Echo vừa kể trên, bắt đầu đổ bộ xuống ngã ba sông Vàm Cỏ và kênh Vũng Gù. Từ đây, quân Pháp được đưa xuống các sa-lúp (Chaloupe, tức xuồng máy) để đến đập thứ 8 vào lúc 3 giờ chiều. Quân xung kích hai bên liền nổ súng bắn nhau được một lúc, thì quân Việt rút lui, bỏ lại chiến trường nhiều xác chết.
Đập này được đắp thật chắc chắn, lấp ngang một phần kênh dài suốt 90m, gồm ba chặng, mà mỗi chặng ngoài những cọc bằng cau, tre còn có 9 chiến thuyền chở đầy bùn đất bị nhận chìm.
Ngày 6 và ngày 7, quân Pháp đánh chiếm thêm đồn và cho phá đập thứ 9. Kể từ đầu trận, bên cạnh những công việc hết sức nặng nhọc là phá đập, các bệnh như dịch tả, kiết lỵ, sốt rét luôn làm cho quân Pháp kiệt sức và lo âu; nhưng dịch bệnh thật sự trở thành nỗi kinh hoàng bắt đầu từ ngày 7 tháng 4.
Trung úy Hải quân Pháp Léopold Pallu, sĩ quan tùy viên Tổng hành dinh của tướng Leonard Charner & là người trực tiếp tham dự trận, sau này đã kể lại trong sách của mình như sau:
…Ngày 7 tháng 4, ta khởi công phá đập. Chờ lúc nước ròng, ta vét bùn trong các thuyền nhận chìm…Công việc phá đập nặng nhọc hơn các ngày hôm trước nhiều, nước ngập lên đến vai, đầu ló ra khỏi nước thì trời nóng như thiêu như đốt. Bộ binh nhiều người bị dịch tả: thủy quân đã bị dịch tả từ mấy ngày trước rồi. Càng ngày càng phải huy động thêm bác sĩ cho đoàn viễn chinh… Ngay khi đến đập thứ bảy đã có đến 150 quân sĩ bị bịnh phải di tản: mỗi người một bịnh đòi hỏi phải săn sóc khác nhau; y tá cũng thiếu, bọn cu li Tàu bị dịch tả phải tự xoa bóp cho nhau.
Nhiều tàu sa-lúp móp méo dưới móng ngựa từ khi còn ở Peh-tang bên Tàu bây giờ lại tệ hơn, bị thủng đáy và nước tràn vào; phần lớn các ghe thuyền cướp được của quân An Nam cũng bị nước vào. Xác của quân lính ta thâm đen vì tai ương dịch tả, tạm thời đặt ở gầm tàu, cứ mỗi lần tàu bị chòng chành thì đè lên người sống. Thật quả là những trạm cứu thương quân y hết sức thảm thương.
Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ mà Trung úy hải quân Vicaire đã thấy trên chiếc sa-lúp Loire năm người trút hơi thở trước mắt mình. Hạm trưởng và sĩ quan trên tàu Monge tiếp tục chỉ huy thủy thủ phá đập, đây là số quân lính duy nhất từ khi khởi sự phá đập đến nay mà vẫn còn đứng vững. Trong số thủy thủ đoàn của tàu Monge nhiều người đã chết, người nào còn sống sót chắc lâu lắm mới đủ sức hồi phục. Vị chỉ huy Bourdais bị sốt; những hôm gần đây ai cũng thấy ông suy yếu rõ. Ông thường xuống xuồng nhỏ để huy động, nếu thấy quân lính chèo xuồng lơi tay vì mệt lã thì ông quay sang người cầm đầu bọn lính chèo mà nói rằng: “Bảo họ cố gắng lên, tao sẽ đề nghị gắn huân chương cho mày”. Cứ như thế mà ông thúc họ cố gắng thêm. Vị chỉ huy Bourdais, người điều động lính chèo và năm anh chèo xuồng người nào cũng ngất ngư như sắp chết. Vào một buổi chiều, khi đập thứ chín đã phá xong và sức chịu đựng đã cùng cực, người ta để ý thấy có một vài người Pháp và người Tagal bắt đầu than phiền…[12]
Trong hai ngày (7 và 8) gánh chịu cực nhọc và thương vong để phá đập, các pháo hạm bằng sắt đã vượt được khúc kinh bị chận để gặp toán bộ binh đang đóng quân để chờ.
Ngày 9 tháng tư, Pháp dùng dân công mang vài khẩu đại pháo bọc hậu để bắn vào phía sau đồn, trong khi đó hạm đội sẽ tấn công vào mặt trước. Đồn vỡ, các pháo hạm và bộ binh Pháp cùng tiến. Do trinh sát kém, nên quân Pháp vẫn không biết đính xác đồn quân Việt ở đâu. Bất thình lình, đồn hiện ra ngay trước mặt chỉ cách bốn trăm thước, đúng vào một khúc quanh của con kinh Trạm. Pháo hạm số 18 đi đầu do Đại úy Bourdais[13] chỉ huy bắn một quả đạn, liền bị bắn trả ba quả đạn. Một rớt lên tàu, một làm bị thương một lính Pháp, một giết chết Bourdais vào chiều ngày 10 tháng 4 [14]. Tức thì bốn đại pháo nòng 30 có khía từ các chiến hạm đi cùng phóng đạn liên hồi vào phá tan nát đồn, khiến quân Việt phải tháo lui. Kể từ lúc đó suốt con kinh Trạm đã bị Pháp chiếm lĩnh.
Trung tá hải quân Desvaux nhận quyền điều khiển các pháo hạm thay Bourdais, nhanh chóng chiếm đồn thứ sáu (gần làng Trung Lương), vì khi đó quân Việt đã rút lui hết. Ngày 10 tháng 4, cả đạo quân viễn chinh đã đến gần sát thành Mỹ Tho. Nhưng vì ngày hôm sau bận làm tưởng niệm Bourdais, nên cả đoàn quân của Desvaux đánh mất công đầu, bởi thành Mỹ Tho đã bị Chuẩn đề đốc Page chiếm trước.
Theo Léopold Pallu, vì muốn chiếm lấy nhanh Định Tường, nên ngày 6 tháng 4, Đề đốc Charne đã sai người đi thăm dò đường biển, cốt mở thêm một mũi tiến công nữa. Và sau khi “khổ công”[15] mới tìm được, ngày 10 tháng 4, ba pháo hạm là Fusées, Lily và Sham Rock do Chuẩn đề đốc Page chỉ huy, đã rời Biên Hòa men theo đường biển, tiến vào cửa Tiểu (sông Tiền), với chỉ thị là để góp phần cho Mỹ Tho mau sụp đổ và làm cho quân thù phải sớm điều đình. Đoàn tàu này đã nhanh chóng phá đập chắn sông tại vàm cửa Tiểu, vàm Kỳ Hôn và phá tan hai đồn bảo vệ đập vào ngày 12 tháng 4.
Đối mặt với hai mũi tấn công của thực dân, Tổng đốc Nguyễn Công Nhàn chạy về Kiến Đăng (thuộc phủ Kiến An, Định Tường), Án sát Huỳnh Mẫn Đạt cũng bỏ trốn; còn Tuần phủ Nguyễn Hữu Thành và Phó đề đốc Đặng Đức rút vào trong thành.
Nhưng vì thấy lực lượng quân đội của Pháp cùng với vũ khí hùng hậu quá, biết không thể nào giữ được nên trưa ngày 12 tháng 4 năm 1861, Nguyễn Hữu Thành đã ra lệnh thiêu hủy toàn bộ kho tàng, dinh thự rồi cùng với Đặng Đức thu gom vũ khí, tài liệu rút rồi rút quân về Vĩnh Long trước khi tàu Pháp đến.
Tổng đốc Long Tường là Trương Văn Uyển phái Án sát Nguyễn Duy Quang và Lãnh binh Tôn Thất Tuấn [16] đem khoảng ngàn quân Vĩnh Long qua cứu viện Định Tường. Đội quân này đóng bên hữu, ngoài thành, thấy tình thế như vậy nên đã cùng quân Định Tường rút hết về Vĩnh Long.
Cho nên, lúc 1 giờ 30 phút trưa ngày 12 tháng 4 năm 1861, đoàn tàu chiến của tướng Page đã chiếm lĩnh thành Mỹ Tho mà không hề tốn một viên đạn. Ngày 14 tháng 4, đoàn quân thủy bộ của Trung tá Desvaux mới vào bên trong thành. Cũng ngày này, quân Pháp tiến chiếm luôn Tân Hòa (Gò Công)[17].
Sau trận chiến
Hai bên đều bị thiệt hại về người và của nhiều, nhưng không có con số chính thức. Và theo Léopold Pallu, vì các quan trấn giữ thành Mỹ Tho cho đốt hết các kho nhà nước, và cả các xâu tiền kẽm, nên quân Pháp “chẳng còn vớt vát được gì. Tại các ụ đóng ghe ta cướp được vài thuyền quan thật đẹp bằng gỗ giá tị là một loại gỗ rất quí. Ta liền tu sửa các ghe cướp được, trang bị khi giới, đem tăng cường cho hạm đội của ta”.[18]. Khi hay tin quân viễn chinh Pháp chiếm được Mỹ Tho, Đề đốc Charner đã đến nơi sắp xếp việc hành chính, chính trị và lo việc phòng giữ thành.
Về phía các quan nhà Nguyễn, thì Tổng đốc Nguyễn Công Nhàn chạy về Kiến Đăng, Tuần phủ Nguyễn Hữu Thành chạy về Biên Hòa, và rồi cả hai đều dâng sớ chịu tội, đổ lỗi cho nhau. Vua Tự Đức và các đại thần trong triều, từ khi mất ba tỉnh miền Đông chỉ họp bàn loanh quanh, chưa tìm được kế sách cứu nước. Cho nên khi hay mất thêm Định Tường, nhà vua chỉ còn biết ra lệnh cho ba tỉnh là Bình Thuận, Khánh Hòa và Bình Định; mỗi tỉnh phải xuất 500 quân kéo vào Biên Hòa, Vĩnh Long và An Giang để hỗ trợ cho Định Tường, và lệnh cho các quan bại trận ở Định Tường phải trở về lập công chuộc tội[19].
Sau khi thất trận này, tướng Nguyễn Bá Nghithấy tình hình không thể sáng sủa được, bèn thảo thư nghị hòa với Charner[20].
Khác với cách ứng phó của một số tướng tá nhà Nguyễn, ngay từ lúc quân Pháp san bằng Đại đồn Chí Hòa, quân triều đình rút chạy; thì các đạo quân ứng nghĩa vẫn bám sát đối phương để chiến đấu. Đến khi Định Tường thất thủ, phong trào kháng chiến của nhân dân càng bùng lên dữ dội, và làm chủ được nhiều làng xã. Cho nên, theo GS. Nguyễn Phan Quang, mặc dù quân Pháp chiếm được Định Tường, nhưng chỉ đóng được ba đồn là Gia Thạnh, Chợ Gạo và Gò Công. Nổi bật trong số những đạo quân ứng nghĩa, có Trương Định với khoảng 6.000 quân, làm chủ vùng Tây Nam Gò Công; Đỗ Trình Thoại ở vùng Tân Hòa, Gò Công; Phủ Cậu ở vùng Rạch Chanh (Mỹ Tho); Võ Duy Dương ở vùng Tây Bắc Định Tường; và của Quản Tu (người đã bắn chết Trung tá Bourdais trên kênh Trạm (tức sông Bảo Định).
Bất lực trước sức đề kháng của nhân dân Việt, Đề đốc Hải quân Charner đã xin từ chức. Tháng 10 năm 1861, Đô đốc L. Bonard được cử sang thay, quyết tâm thực hiện lệnh của Bộ trưởng Hải quân Pháp là phải giữ vững sự đô hộ của chúng ta ở Sài Gòn…ở đó chúng có thể ở lại lâu dài.[21]
Nhận xét
Léopold Pallu:
Dịch tả trong mười lăm ngày đã gây chết chóc nhiều hơn là đại pháo và súng bắn trong một trận hỗn chiến.
V. Vial:
Thực tế, cuộc tiến quân đánh chiếm Mỹ Tho diễn ra không đơn giản. Chưa có cuộc hành quân nào ở Nam Kỳ lại mệt nhọc và chết chóc nhiều như cuộc hành quân này…Quân lính ta, trên đường, đụng phải nhiều ổ đại bác, nhiều cản, nhiều chướng ngại vật đủ thứ của kẻ địch đã bày ra. Đó là một cuộc chiến đấu liên miên cả ngày lẫn đêm, chống người, chống vật của một vùng xa lạ huyền bí. Một số đông quân lính tham gia cuộc hành quân này đều bị chết, chết vì nhọc nhằn quá, hay chết vì bệnh dịch tả. Viên quan tư can đảm Bourdairs, người chỉ huy cuộc hành quân bị một viên đại bác làm bay mất cái đầu… Trên chiến thuyền Sông Ranh có 12 người thì bị bệnh dịch tả chết hết năm trong một ngày…Số đông quân lính bị chết vì quá mệt nhọc, vì bệnh dịch tả[22].
Trong cuộc xuất binh này, quân đội Pháp khổ cực vô cùng. Bệnh tả và bệnh lỵ đã giết hại một số người của họ. Nhưng ngoài cái thiệt hại này, họ đã lập dần được nhiều căn cứ quan trọng, để hoàn thành cuộc chinh phục vùng đất đai này của người Việt…[3].
Chú thích
^Vương Hồng Sển viết: “Đếm ra lực lượng bên quân đội Pháp (quân của Bourdairs) lên đến 99 người, không kể súng dưới tàu, súng đoàn bộ binh gồm 18 súng đại bác, trong số đó có 6 cây ngắn”. (Sài Gòn tạp pín lù, tr. 357)
^Sách Lịch sử lớp 11 (nâng cao) ghi Định Tường mất ngày 12 tháng 4 năm 1861 (Nxb Giáo Dục, 2007, tr. 225), một bài viết trên website Bến Tre ghi ngày 15 tháng 4 năm 1861[1].
Lịch sử Việt Nam (1858-cuối XIX): Charner muốn làm chủ Định Tường vì đây là tỉnh giàu có vị trí then chốt trong hệ thống giao thông thủy, và cũng vì muốn cắt luồng vận chuyển lúa gạo từ nơi này ra Huế (tr. 47).
Tướng De Genouilly, trong báo cáo gửi về Bộ hải quân Pháp ngày 29 tháng 1 năm 1859, đã viết: khi chiếm được Nam Kỳ, ta sẽ ngược sông Cửu Long tiến chiếm luôn Vương quốc Căm Bốt (tr. 34).
Léopold Pallu: Thành Mỹ Tho kiểm soát hết sông Tiền và các đường thủy đổ vào sông này. Do đó thành có một vị trí chiến lược quan trọng. Hơn nữa Mỹ Tho còn là vựa thóc lại vừa là thị trường lúa gạo quan trọng (Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ 1861, bản tiếng Việt, tr. 155).
Trần Trọng Kim: Charner có sai người đưa thư sang cho vua Cao Miên là Norodom (Nặc Ông Lân), đại lược nói rằng: chủ ý của Pháp định lấy đất Gia Định làm thuộc địa, và nay mai sẽ lấy Mỹ Tho (Định Tường) để cho tiện đường lưu thông với nước Cao Miên (Việt Nam sử lược, tr. 493)”.
Việt sử tân biên: Ở phía Nam, quân ta (quân Việt) vẫn xuất phát ở tỉnh này, đánh phá quân Pháp (Việt sử tân biên, quyển 5, tập trung, tr.129).
H. Abel: Sáu tỉnh Nam Kỳ (mà trong đó có Mỹ Tho là vựa lúa lớn) có khả năng cung cấp dễ dàng 80.000 tấn gạo trắng cho xuất khẩu. Lượng gạo này chính là nền tảng, là căn bản cho hoạt động thương mại của chúng ta, trong khi chờ phát triển các loại canh tác khác. Trước kia, 8-9/10 số gạo này hàng ănm được chở ra Huế và các tỉnh phụ cận kinh đô, cung cấp cho binh lính ở Huế và gia đình các quan chức ăn lương. (Khi chúng ta có mặt ở đây) triều đình Huế tiếc ngơ ngẩn vì đã đánh mất vựa lúa gạo này (La question de Cochinchine au poit de vue intérêts français, Paris, 1864. Dẫn lại theo Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ XIX, tr. 372)
^Kênh Trạm: tục gọi vậy là vì bên sông có đặt trạm để chuyển công văn của triều Nguyễn, sau Pháp đặt tên sông là Arroto de la Poste. Ngay từ thời Gia Long, sông này đã có tên là Bảo Định Giang. Đây là một công trình nhân tạo nối liền rạch Vũng Gù và sông Mỹ Tho, một đường thủy chiến lược vào thời buổi ấy. Xem thêm: [2].
^Theo Léopold Pallu, Histoire de L’Expédition de Cochinchine en 1961, tr. 131.
^Đập ngăn ở đây thường là những thân tre, thân cau vạt nhọn cắm dày và sâu, cùng nhiều sọt đá nằm dưới đáy kênh. Riêng ở đập thứ 5 và 6 có neo 25 chiếc bè chất đầy lưu quỳnh cùng bùi nhùi và xác một chiến thuyền do quân Việt cố ý đánh đắm.
^Cấp bậc của Desvaux, Vương Hồng Sển ghi là Trung tá Hải quân, Sách của Léopold Pallu (bản tiếng Việt) dịch là Đại úy Hải quân.
^Cấp bậc của Le Couriault du Quilio, Vương Hồng Sển ghi là Đại tá Hải quân. Sách của Léopold Pallu (bản tiếng Việt) dịch là Đại úy Hải quân.
^Chép theo Léopold Pallu (tr. 136). Từ Phó vương ở đây, Vương Hồng Sển dịch là quan Kinh Lược kèm theo câu hỏi: Ám chỉ Phan Thanh Giản chăng? (Sài Gòn tạp pín lù, tr. 359)
^Léopold Pallu, Histoire de L’Expédition de Cochinchine en 1961, tr. 141-142.
^Đoạn này tác giả Léopold Pallu gọi cấp bậc của Bourdais, khi thì Trung tá, khi thì Thiếu tá. Ở sử Việt, trước sau đều gọi là Trung tá.
^Tại Bến Chùa (Trung Lương), pháo hạm Monge đã bị trúng ba quả thần công của quân ta, Trung tá Bourdais và 5 thủy thủ bỏ mạng vào chiều ngày 10 tháng 4 năm 1861 [3]. Theo GS. Nguyễn Phan Quang, người bắn chết Bourdais là Quản Tu (sách ở mục tham khảo, tr. 279)
^Chữ dùng của Léopold Pallu, bản tiếng Việt, tr. 151.
^Tên ghi theo [4]. Sách Hỏi đáp lịch sử (tập 4, tr. 53-54), ghi tên là Nguyễn Quang Duy và Tôn Thất Tuân.
^Paul Vial: Histoire de la Cochinchine, tr. 112-113 (Dẫn lại theo Tổng tập do Trần Văn Giàu soạn. Nxb QĐND, 2006, tr. 94).
Tham khảo chính
Léopold Pallu, Histoire de L’Expédition de Cochinchine en 1961 (Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ 1861), do nhà xuất bản Hachette in tại Pháp năm 1864. Bản dịch của Hoang Phong. Nxb Phương Đông, 2008.
Lâm Ngữ Đường chào đời tại thị trấn Ban Tử thuộc Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến, đông nam Trung Quốc. Vùng đất cao nguyên này để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm thức đến nỗi ông thường tự nhận mình là đứa con của rừng núi. Cha là mục sư Trưởng Lão, Lâm Ngữ Đường được trưởng dưỡng trong đức tin Cơ Đốc, nhưng đến tuổi trưởng thành ông từ bỏ niềm tin truyền thống của gia đình để đến với Khổng giáo và Phật giáo. Tuy nhiên, hơn ba mươi năm sau, Lâm Ngữ Đường quay trở lại với Cơ Đốc giáo, “Trở về với Kinh Thánh, tôi thấy Kinh Thánh không chỉ là quyển sách ghi lại những dữ kiện lịch sử, nhưng cũng ghi lại sự mặc khải chính xác qua Chúa Giê-xu; chính sự mặc khải đó đã đem Thượng Đế xuống ngang tầm mắt tôi để tôi có thể nhận biết Ngài.”[1] Những trải nghiệm này được ông thuật lại trong tác phẩm From Pagan to Christianity (1959).
Học vấn
Lâm Ngữ Đường đậu bằng cử nhân tại Đại học St John ở Thượng Hải, rồi nhận học bổng bán phần cho chương trình tiến sĩ tại Đại học Harvard. Về sau ông viết rằng chính tại Thư viện Widener (thư viện chính thuộc hệ thống thư viện Đại học Harvard), ông mới bắt đầu khám phá bản thân và khởi đầu cuộc sống sinh động, dù không bao giờ đi xem một trận đấu thể thao nào giữa Harvard và Yale. Dù vậy, ông sớm rời khỏi Harvard khi học bổng bị cắt, nợ nần chồng chất, và vợ ông phải giải phẫu ruột thừa. Hai người tìm đến Pháp, ở đây Lâm làm việc cho YMCA, dạy chữ cho các công nhân người Hoa bị đem đến đất nước này trong Thế chiến thứ hai. Năm 1921, nhờ đồng mác mất giá ông sang Đức, lấy bằng tiến sĩ ngôn ngữ học tại Đại học Jena ở Leipzig trong năm 1923.[2] Ông về nước và dạy văn chương Anh tại Đại học Bắc Kinh (1923 – 1926).[3]
Văn học
Tiến sĩ Lâm hoạt động rất tích cực trong nỗ lực phổ biến văn học cổ điển cũng như nhân sinh quan Trung Hoa ở phương Tây. Ông hệ thống hóa Quốc Ngữ La Mã Tự, ứng dụng bảng chữ cái tiếng Latin cho Tiếng Phổ thông.
“
Ba thói xấu lớn nhất của người Mỹ là tính hiệu quả, đúng giờ, và khao khát thành công. Chính chúng khiến người Mỹ cảm thấy cuộc sống của họ bất hạnh và quá căng thẳng.
Sau năm 1928, Lâm Ngữ Đường đến sống tại Hoa Kỳ. Ông dịch các tác phẩm Trung Hoa sang tiếng Anh, chúng rất được yêu thích ở đây. Theo gợi ý của Pearl Buck, năm 1935 ông viết cuốn My Country and My People (吾國与吾民,Ngã quốc dữ ngã dân), đến năm 1937 là quyển The Importance of Living (生活的藝術,Sinh hoạt đích nghệ thuật). My Country and My People, tác phẩm miêu tả cách tinh tế và thẳng thắn tính cách cùng não trạng của người Trung Quốc, được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau đồng thời khiến Lâm Ngữ Đường trở thành nhà văn Trung Hoa đầu tiên có tên trong danh sách các tác giả có sách bán chạy nhất của tờ New York Times. Trong khi đó, quyển The Importance of Living với văn phong ý nhị chiếm một vị trí trong bản liệt kê sách bán chạy nhất toàn quốc năm 1938.[2] Những tác phẩm khác của Lâm Ngữ Đường gồm có Between Tears and Laughter (啼笑皆非, Đề tiếu giai phi) (1943), The Importance of Understanding (1960), The Chinese Theory of Art (1967), cùng các tiểu thuyết như Moment in Peking (京華煙雲,Kinh hoa yên vân) (1939), và The Vermilion Gate (朱門,Châu môn) (1953). Ông cũng soạn quyển Từ điển Thông dụng Hoa-Anh.
Nhiều tác phẩm của Lâm Ngữ Đường là một phần trong nỗ lực nối kết hai nền văn hóa Đông và Tây. Trong thập niên 1970, có vài lần ông được đề cử Giải Nobel Văn chương.[3]
Sáng chế
Không chỉ là học giả và nhà văn, Lâm Ngữ Đường còn là người thích máy móc. Hán tự là chữ tượng hình cấu thành bởi nhiều ngàn nét khác nhau nên rất khó ứng dụng các kỹ thuật in ấn hiện đại, do đó trong một thời gian dài hầu như không có triển vọng nào cho phát minh một loại máy đánh chữ tiếng Hoa. Từ thập niên 1920, khi còn sống ở Bắc Kinh, Lâm Ngữ Đường đã quan tâm tìm kiếm giải pháp cho trở ngại này bằng cách chế tạo máy đánh chữ tiếng Hoa. Đến giữa năm 1940, nhờ những khoản lợi tức từ tiền bán sách, ông đầu tư nhiều hơn cho đề án. Với 72 phím, sáng chế này của Lâm Ngữ Đường cho phép người sử dụng tạo ra tổng cộng 7 000 ký tự. Dù được tán dương bởi các chuyên gia về Hán tự, thiết bị được tung ra thị trường ngay giữa lúc Trung Hoa có chiến tranh với Nhật Bản làm Lâm Ngữ Đường thua lỗ khoảng 100.000 USD và bị khánh kiệt. Ông và vợ phải bán căn hộ chung cư ở New York để trả nợ rồi sang Paris. Sau khi từ nhiệm chức Giám đốc Nghệ thuật và Văn chương UNESCO (chỉ vài tháng sau khi nhậm chức), Lâm Ngữ Đường và vợ di chuyển xuống miền nam nước Pháp, sống đạm bạc, trồng khoai tây trên sân thượng và viết sách để gây dựng lại gia sản.[3] Ngoài ra, ông cũng lấy bằng sáng chế cho một số phát minh nhỏ khác như bàn chải đánh răng và pha chế kem đánh răng.
Các hoạt động khác
Năm 1954, Lâm Ngữ Đường được mời đến Singapore giữ chức Viện trưởng Đại học Nangyang mới được thành lập và chưa hoạt động. Sáu tháng sau ông quay lại Pháp sau khi những sáng kiến của ông không được thực hiện, và khi đại học tân lập này vẫn chưa hoạt động.
Từ năm 1965, Lâm Ngữ Đường và vợ đến sống ở Đài Loan.
Vợ ông, Lưu Thúy Phượng, cũng viết sách dạy nấu ăn. Những công thức nấu ăn của bà đã giúp quảng bá ẩm thực Trung Hoa ở Mỹ. Lâm Ngữ Đường viết lời giới thiệu cho một trong những bộ sưu tập ẩm thực Trung Hoa của con gái ông, Lâm Tương Như. Con gái thứ hai của ông, Lâm Thái Ất, là tổng biên tập tạp chí Readers’ Digest bản tiếng Hoa từ năm 1965 đến 1988.
Sau khi mất, Lâm Ngữ Đường được an táng tại nhà riêng ở Dương Minh Sang, Đài Bắc, Đài Loan. Ngôi nhà nay là Thư viện Tưởng niệm Lâm Ngữ Đường, trong khi ngôi nhà của Lâm Ngữ Đường ở Ban Tử, nơi ông chào đời, cũng trở thành viện bảo tàng.
Tác phẩm
(1935) My Country and My People, Reynal & Hitchcock, Inc., (A John Day Book)
(1936) A History of the Press and Public Opinion in China, Kelly and Walsh
(1937) The Importance of Living, Reynal & Hitchcock, Inc., (A John Day Book)
(1938) The Wisdom of Confucius, Random House, The Modern Library
(1939) Moment in Peking (Kinh hoa yên vân), A John Day Book Company
(1940) With Love & Irony, A John Day Book Company
(1940) Leaf in the Storm, A John Day Book Company
(1942) The Wisdom of China and India, Random House
(1943) Between Tears & Laughter, A John Day Book Company
(1944) The Vigil of Nation, A John Day Book Company
(1947) The Gay Genius: The Life and Times of Su Tungpo, A John Day Book Company
(1948) Chinatown Family, A John Day Book Company
(1948) The Wisdom of Laotse, Random House
(1950) On the Wisdom of America, A John Day Book Company
(1951) Widow, Nun and Courtesan: Three Novelettes From the Chinese Translated and Adapted by Lin Yutang, A John Day Book Company
(1952) Famous Chinese Short Stories, Retold by Lin Yutang, A John Day Book Company
(1953) The Vermilion Gate, A John Day Book Company
(1955) Looking Beyond, Prentice Hall (Xuất bản England as The Unexpected island, Heinemann)
(1957) Lady Wu, World Publishing Company
(1958) The Secret Name, Farrar, Straus and Cudahy
(1959) The Chinese Way of Life, World Publishing Company
(1959) From Pagan to Christianity, World Publishing Company
(1960) Imperial Peking: Seven Centuries of China, Crown Publishers
(1960) The Importance of Understanding, World Publishing Company
(1961) The Red Peony, World Publishing Company
(1962) The Pleasure of a Nonconformist, World Publishing Company
(1963) Juniper Loa, World Publishing Company
(1964) The Flight of Innocents, G. P. Putnam’s Sons
(1973) Chinese-English Dictionary of Modern Usage, Hong Kong Chinese University
Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt
Sống đẹp, Nguyễn Hiến Lê dịch, Sài Gòn, 1964; Hà Nội, Nhà xuất bản Văn hóa, tái bản, 1993, 1999
Tình sử Võ Tắc Thiên, Vũ Hùng dịch, Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Trẻ, 1989
Hội họa Trung Hoa qua lời các vĩ nhân và danh họa, Trịnh Lữ dịch, Nhà xuất bản Mỹ thuật, 2005
Trung Hoa đất nước con người, Trần Văn Từ dịch, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 2001
Chú thích
^Conversions, The Christian Experience, William B. Eerdmans, 1985.
Ông trở nên nổi tiếng với cuốn sách năm 1976 The Selfish Gene (Gen ích kỷ), trong đó phổ biến quan điểm tiến hóa với gen là trung tâm tiến hóa và giới thiệu thuật ngữ meme. Năm 1982, ông đã đưa vào ngành sinh học tiến hóa một khái niệm mang tầm ảnh hưởng được giới thiệu trong cuốn sách The Extended Phenotype (Kiểu hình mở rộng), với nội dung rằng hiệu ứng kiểu hình gen không nhất thiết giới hạn trên một vật thể sống, mà có thể mở rộng sang môi trường, bao gồm những vật thể sống khác nhau.[3]
Dawkins là người vô thần và là người theo chủ nghĩa nhân văn, là phó chủ tịch của Hiệp hội Nhân văn Anh và là người ủng hộ phong trào Brights. Ông còn được biết đến với những tranh cãi về sáng tạo luận và thiết kế thông minh. Trong cuốn sách năm 1986 The Blind Watchmaker (Thợ đồng hồ mù), ông lý luận chống lại những tranh cãi về sự tồn tại của Chúa dựa trên sự phức tạp của những cơ thể sống. Ông đã khám phá ra phương cách thiên nhiên tạo ra dáng vẻ của sự thiết kế – ngay cả những thiết kế chi li và phức tạp — mà không cần đến sự can thiệp của đấng tạo hóa. Ông mô tả quá trình tiến hóa tương tự như một thợ đồng hồ mù. Từ đó ông viết một số sách khoa học phổ biến, thường xuyên xuất hiện trên chương trình truyền hình và đài phát thanh, chủ yếu là thảo luận về các chủ đề này. Ông đã được đề cập trong các phương tiện truyền thông với biệt hiệu “Con chó Rottweiler của Darwin”,[4] tên gọi này có liên quan đến nhà sinh vật học người Anh Thomas Henry Huxley, người được biết đến với biệt hiệu “Con chó Bull của Darwin” vì sự ủng hộ tích cực các thuyết tiến hóa của Charles Darwin. Trong cuốn sách The God Delusion (Ảo tưởng về Thượng đế) phát hành năm 2006, Dawkins tranh luận rằng một nhà sáng tạo siêu nhiên gần như chắc chắn không tồn tại và niềm tin tôn giáo là một ảo tưởng—một niềm tin sai lầm được chỉnh sửa.[5] Vào tháng 1, 2010, phiên bản tiếng Anh đã được bán trên hai triệu bản và được dịch sang 31 ngôn ngữ, trở thành cuốn sách phổ biến nhất của ông đến nay.[6]
Dawkins sinh ở Nairobi, Kenya.[7] Cha của ông, Clinton John Dawkins (1915–2010),[8] là một công chức nông nghiệp phục vụ trong cơ quan chính quyền thuộc địa Anh, ở Nyasaland (nay là Malawi). Dawkins có một cô em gái.[9] Cha của ông được huy động vào King’s African Rifles trong thế chiến II[10][11] trở về Anh năm 1949, lúc Dawkins 8 tuổi. Cha ông thừa kế Over Norton Park, và ông chuyển nó từ một bất động sản thôn quê thành một nông trang thương mại.[8] Cả cha và mẹ ông đều ưa thích khoa học tự nhiên; họ trả lời các câu hỏi của Dawkin về các vấn đề khoa học.[12]
Climbing Mount Improbable. New York: W. W. Norton & Company. 1996. ISBN0-393-31682-3.
Unweaving the Rainbow. Boston: Houghton Mifflin. 1998. ISBN0-618-05673-4.
A Devil’s Chaplain. Boston: Houghton Mifflin. 2003. ISBN0-618-33540-4.
The Ancestor’s Tale. Boston: Houghton Mifflin. 2004. ISBN0-618-00583-8.
The God Delusion. Boston: Houghton Mifflin. 2006. ISBN0-618-68000-4.
The Greatest Show on Earth: The Evidence for Evolution. Free Press (United States), Transworld (company) (United Kingdom and Commonwealth of Nations. 2009. ISBN0-593-06173-X.Đã bỏ qua văn bản “Commonwealth) ” (trợ giúp)
^[1], Sciencedaily.com news, adapted from the original material from the European Science Foundation workshop on the subject, Copenhagen, Denmark, 2–ngày 5 tháng 11 năm 2008.
^Hall, Stephen S. (ngày 9 tháng 8 năm 2005). “Darwin’s Rottweiler”. Discover magazine. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2008.
^Dawkins, Richard (2006). The God Delusion. Transworld Publishers. tr. 5. ISBN0-5930-5548-9.