CNM365. Chào ngày mới 27 tháng 9. Wikipedia Ngày này năm xưa. Quốc khánh Mexico. Năm 1821 – Mexico giành được độc lập từ Tây Ban Nha. Năm 1905 – Albert Einstein định rõ phương trình E=mc² trong bài luận “Quán tính của một vật có tùy theo nội dung Năng lượng?” xuất bản trên Tạp chí Vật lý học Annalen der Physik. Năm 1949 – Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc xác định Mao Trạch Đông làm Chủ tịch chính phủ nhân dân Trung ương, Chu Ân Lai làm Tổng lý Chính vụ Viện, Ngũ tinh Hồng kỳ là quốc kỳ, Nghĩa dũng quân tiến hành khúc là Quốc ca của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa .
27 tháng 9
Ngày 27 tháng 9 là ngày thứ 270 (271 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 95 ngày trong năm.
« Tháng 9 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | ||
6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 |
13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 |
20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 |
27 | 28 | 29 | 30 | |||
Mục lục
Sự kiện
- 548 – Hầu Cảnh phát binh làm phản triều Lương tại Thọ Dương, lấy danh nghĩa diệt trừ Trung lĩnh quân Chu Dị để hưng binh.
- 1066 – William I và quân đội của ông đi thuyền từ cửa sông Somme, bắt đầu Cuộc xâm lược Anh của người Norman.
- 1529 – Cuộc vây hãm Viên bắt đầu khi Suleiman I tấn công thành phố.
- 1540 – Giáo hoàng Phaolô III phát hành sắc lệnh Regimini militantis, cho phép Inhaxiô thành lập Dòng Tên.
- 1905 – Tạp chí vật lý học Annalen der Physik xuất bản bài luận “Quán tính của một Vật có Tùy theo Nội dung Năng lượng?”, trong bài này Albert Einstein định rõ phương trình E=mc².
- 1937 – Hổ Bali được tuyên bố là tuyệt chủng.
- 1940 – Phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam: Khởi nghĩa Bắc Sơn bắt đầu khi 600 lính tiến về huyện lị và chiếm đồn binh Mõ Nhai.
- 1949 – Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc xác định Ngũ tinh hồng kỳ là quốc kỳ, Nghĩa dũng quân tiến hành khúc là quốc ca, Mao Trạch Đông làm Chủ tịch chính phủ nhân dân Trung ương, Chu Ân Lai làm tổng lý chính vụ viện.
- 1962 – Cộng hòa Ả Rập Yemen được thành lập.
- 2001 – Chính phủ Na Uy thành lập một giải thưởng cho các nhà nghiên cứu toán học – Giải thưởng Abel
- 1821 – Mexico giành được độc lập từ Tây Ban Nha
- 1940 – Cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn ra đời, thành lập chính quyền cách mạng
- 1988 – Aung San Suu Kyi và các cộng sự thành lập Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ nhằm chống lại chính quyền quân sự tại Miến Điện.
- 1983 – Nhà phát triển phần mềm Richard Stallman tuyên bố kế hoạch để xây dựng hệ điều hành GNU, phần mềm tự do đầu tiên của Dự án GNU.
Sinh
- 1920 – Tô Hoài, nhà văn người Việt Nam (m. 2014)
- 1961 – Lưu Đức Hoa, diễn viên người Hồng Kông
- 1976 – Francesco Totti, cầu thủ bóng đá Ý.
- 1984 – Avril Lavigne, nữ ca sĩ người Canada
Mất
- 1986 – Cliff Burton, cựu thành viên của Metallica, tay bass huyền thoại của nhạc Metal.
- 2010 – Lê Sáng, võ sư chưởng môn Vovinam – Việt Võ Đạo
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 27 tháng 9 |
Tham khảo
Lich Vạn Niên ngày 27 tháng 9 năm 2015
Ái tình cũng giống như rượu mùi, càng ít toả bay càng nồng.Tục ngữ Pháp
Lịch vạn niên 2015, ngày 15 tháng 8, năm 2015 – Âm lịchXem ngày giờ tốt và hướng xuất hànhTrong một tháng có 2 loại ngày tốt, ngày xấu; trong một ngày lại có 6 giờ tốt, 6 giờ xấu gọi chung là Ngày/giờ Hoàng đạo (tốt) và Ngày/giờ Hắc đạo (xấu). Người Việt Nam từ xưa đều có phong tục chọn ngày tốt và giờ tốt để làm những việc lớn như cưới hỏi, khởi công làm nhà, nhập trạch, ký kết, kinh doanh v.v.v. Ngày 15 tháng 8, năm 2015 là ngày Hoàng đạo , các giờ tốt trong ngày này là: Mậu Tí, Kỷ Sửu, Tân Mão, Giáp Ngọ, Bính Thân, đinh Dậu Trong ngày này, các tuổi xung khắc nên cẩn thận trong chuyện đi lại, xuất hành, nói chuyện và làm các việc đại sự là: Mậu Tý, Canh Tý Xuất hành hướng Đông Bắc gặp Hỷ thần: niềm vui, may mắn, thuận lợi. Xuất hành hướng Nam gặp Tài thần: tài lộc, tiền của, giao dịch thuận lợi. Xem sao tốt và việc nên làm và nên kiêngTrong Lịch vạn niên, có 12 trực được sắp xếp theo tuần hoàn phân bổ vào từng ngày. Mỗi trực có tính chất riêng, tốt/xấu tùy từng công việc. Ngày 15 tháng 8, năm 2015 là Trực Thu: Tốt cho các việc khai trương, lập kho vựa, giao dịch, may mặc. Xấu cho các việc an táng, giá thú, nhậm chức, xuất nhập tài vật |
México
Liên bang México | |||||
---|---|---|---|---|---|
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Không có | |||||
Quốc ca | |||||
Himno Nacional Mexicano | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa liên bang | ||||
Tổng thống | Enrique Peña Nieto | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Tây Ban Nha và 62 ngôn ngữ bản địa | ||||
Thủ đô | Thành phố México |
||||
Thành phố lớn nhất | Thành phố México | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 1.964.375 km² (hạng 13) | ||||
Diện tích nước | 2,5% % | ||||
Múi giờ | UTC-8 đến -6; mùa hè: UTC-7 đến -5 | ||||
Lịch sử | |||||
Độc lập: Từ Tây Ban Nha
|
|||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2012) | 114.975.406[1] người (hạng 11) | ||||
Dân số (2005) | 103.263.388 người | ||||
Mật độ | 54,3 người/km² (hạng 117) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2011) | Tổng số: 1.683 tỷ Mỹ kim | ||||
HDI (2003) | 0,814 cao (hạng 53) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Peso México (MXN ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .mx |
México (thường được phiên âm trong tiếng Việt là Mê-xi-cô hay Mê-hi-cô[2]), tên chính thức là Liên bang México (tiếng Náhuatl Mexihco Tlacetililli Tlahtohcayotl; tiếng Tây Ban Nha: Estados Unidos Mexicanos) là một nước cộng hòa liên bang thuộc khu vực Bắc Mỹ. México là một quốc gia rộng lớn với diện tích gần 2 triệu km², đứng hàng thứ 14 trên thế giới và dân số khoảng 106 triệu người, đứng hàng thứ 11 trên thế giới [3]. Nước này giáp với Hoa Kỳ về phía bắc, giáp với Guatemala và Belize về phía đông nam, giáp với Thái Bình Dương về phía tây và tây nam, giáp với vịnh México về phía đông.
Liên bang México là quốc gia theo thể chế cộng hòa liên bang. Nước này có tổng cộng 31 bang và 1 quận thuộc liên bang là thủ đô México, một trong những khu đô thị đông dân cư nhất trên thế giới.
México là một đất nước có thiên nhiên đa dạng và nền văn hóa vô cùng đặc sắc, mang ảnh hưởng của cả nền văn hóa bản địa truyền thống và văn hóa Tây Ban Nha. Nước này có số lượng người nói tiếng Tây Ban Nha cao nhất trên thế giới và tôn giáo chủ yếu tại đây là Công giáo Rôma.
Đất nước México là nơi ra đời của hai nền văn minh lớn của châu Mỹ là Maya và Aztec. Bắt đầu từ thế kỉ 16, México bị thực dân Tây Ban Nha đô hộ và đến năm 1810 thì tuyên bố độc lập và chính thức được công nhận vào năm 1821. México hiện nay là quốc gia Mỹ Latinh duy nhất nằm trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế. Nước này hiện là nền kinh tế lớn thứ 11 trên thế giới và có thu nhập bình quân đầu người thuộc nhóm trung bình cao. Kinh tế México có mối liên hệ chặt chẽ với Canada và Mỹ nhờ Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ. México còn là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế khác như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới. Tuy được đánh giá là một trong những quốc gia đang lên và đóng vai trò quan trọng trong khu vực Mỹ Latinh[4], song México cũng gặp phải một số vấn đề khó khăn như sự bất bình đẳng trong thu nhập, nghèo đói và tình trạng bạo lực, buôn bán ma túy tại nhiều vùng của México.
Mục lục
Tên gọi
Tên gọi México bắt nguồn từ kinh đô của Đế chế Aztec vĩ đại với cái tên México-Tenochtitlan, mà tên kinh đô này lại được đặt theo một tên gọi khác của dân tộc Aztec, dân tộc Mexica. Theo thần thoại Aztec cổ, một vị thần đã chỉ cho người dân bộ tộc địa điểm xây dựng kinh đô mới là nơi có một con đại bàng mang trong miệng một con rắn và đậu xuống cành cây xương rồng. Đó chính là một địa điểm nằm giữa hồ Texcoco và tại đó, người Aztec đã xây dựng nên một thành phố rộng lớn. Hình ảnh này được miêu tả trong trang đầu của cuốn kinh thư Mendoza, một cuốn sách kể về lịch sử của người Aztec và ngày nay xuất hiện trên quốc kỳ và quốc huy của México.
Tên chính thức của México là Liên bang México (tiếng Tây Ban Nha: Estados Unidos Mexicanos). Tên gọi này được sử dụng lần đầu tiên trong bản hiến pháp của México năm 1824. Đôi khi México còn được đọc là “Mê-hi-cô”. Trước khi có tên gọi chính thức là Liên bang México, nước này đã từng có một số tên gọi khác kể từ khi thành lập như Đế chế Thứ nhất México, Đế chế Thứ hai México, Cộng hòa México trước khi có tên gọi cuối cùng như ngày nay[5].
Lịch sử
Thời kỳ Tiền Colombo
Dấu vết cổ xưa nhất về con người được tìm thấy tại thung lũng México là một bãi lửa trại được xác định có niên đại khoảng 21.000 năm trước[6]. Trong hàng ngàn năm, người da đỏ ở México đã sinh sống như những cộng đồng chuyên về săn bắn. Khoảng 9.000 năm trước, họ đã bắt đầu canh tác ngô và khởi đầu một cuộc cách mạng trong nông nghiệp, dẫn đến sự thành lập hàng loạt những quốc gia có trình độ phát triển cao và đạt được nhiều thành tựu to lớn về nhiều mặt, tiêu biểu là các quốc gia của người Maya và người Aztec. Họ đã đạt được nhiều thành tựu lớn về chữ viết, toán học, thiên văn học, nghệ thuật và kiến trúc… Những công trình tiêu biểu cho các nền văn hóa tiền Colombo này là các kim tự tháp, tiêu biểu như quần thể kim tự tháp tại Chichen Itza. Đế chế Aztec đã xây dựng nên một quốc gia hùng mạnh với thủ đô đặt tại Tenochtitlan, nay là thành phố México.
Năm 1519, người Tây Ban Nha xâm lược các quốc gia của người da đỏ tại México. Năm 1521, thành phố Tenochtitlan bị chiếm đóng và phá hủy, đánh dấu sự chấm dứt của đế chế Aztec trên bản đồ thế giới. Người dân bản địa lần lượt bị bắt làm nô lệ hoặc bị tàn sát rất dã man, đồng thời bên cạnh đó là sự phá hủy vô cùng to lớn của người Tây Ban Nha đối với gia tài văn hóa truyền thống của họ. Năm 1535, Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha được thành lập tại México và một số vùng lân cận. Đây là thuộc địa đầu tiên và lớn nhất của người Tây Ban Nha tại Tân thế giới và đã đem lại một nguồn của cải dồi dào cho chính quốc thông qua sự cướp bóc tài nguyên và nô lệ tại đây.
México giành độc lập
Gần 300 năm sau khi trở thành thuộc địa của Đế quốc Tây Ban Nha, vào năm 1810, một mục sư người México là Miguel Hidalgo y Costilla đã tuyên bố nền độc lập cho México. Tiếp theo đó là một cuộc chiến tranh kéo dài của nhân dân México chống lại quân đội Tây Ban Nha cho đến năm 1821, México chính thức giành được độc lập. Đế chế Thứ nhất của México được hình thành trong một thời gian ngắn ngủi, bao gồm toàn bộ lãnh thổ của nước México ngày nay, toàn bộ khu vực Trung Mỹ (trừ Panama và Belize), các bang miền tây và miền nam Hoa Kỳ (California, Nevada, Utah, Arizona, New Mexico, Texas). Agustin de Iturbide tự xưng là hoàng đế của Đế chế Thứ nhất nhưng bị các lực lượng cộng hòa lật đổ hai năm sau đó. Các tỉnh ở Trung Mỹ tách ra độc lập năm 1823 và thành lập nên nước Cộng hòa Liên bang Trung Mỹ, nhưng về sau bị vỡ vụn ra nhiều quốc gia độc lập nhỏ hơn.
Bốn thập kỉ sau khi giành được quyền độc lập, đất nước México vẫn đầy các xung đột do sự đối đầu giữa những người tự do và bảo thủ tại nước này. Tướng Antonio Lopez de Santa Anna là một nhân vật có ảnh hưởng lớn đối với nền chính trị của México thời gian này. Năm 1836, ông thông qua Siete Leyes nhằm thể chế hóa chính phủ tập trung quyền lực tại México dẫn đến việc đình chỉ Hiến pháp 1824. Có ba vùng đất thuộc México đã nổi dậy đòi độc lập là Cộng hòa Texas, Cộng hòa Rio Grande và Cộng hòa Yucatan. México đã tái thu phục được Rio Grande và Yucatan nhưng đã thất bại trong việc chiếm lại Texas. Không chỉ vậy, Texas sau đó đã được sát nhập vào Hoa Kỳ và những tranh chấp về đất đai, lãnh thổ với nước láng giềng phương Bắc đã làm bùng nổ cuộc chiến tranh Mỹ-México (1846-1848) với thất bại nặng nề thuộc về México. Năm 1848, Hiệp ước Guadalupe-Hidalgo được ký kết, theo đó México mất tới 1/3 diện tích lãnh thổ cho Hoa Kỳ.
Chán nản trước thất bại của tướng Santa Anna, một phong trào cải cách đã lan rộng tai México. Đây được gọi là thời kỳ ‘La Reforma’, với một hiến pháp mới được ban hành theo đó tái thành lập thể chế liên bang và lần đầu tiên giới thiệu về quyền tự do tôn giáo tại México.
Những năm 1860, México phải đối mặt với sự xâm lăng của nước Pháp. Công tước Ferdinand Maximilian của Áo (thuộc dòng họ Habsburg) được chọn để trở thành vua của Đế chế México Thứ hai. Tuy nhiên chính thể phong kiến này cũng chỉ tồn tại được trong một thời gian ngắn ngủi. Năm 1867, Benito Juarez, một người da đỏ Zapotec đã tái khôi phục nền cộng hòa và trở thành tổng thống da đỏ đầu tiên của México. Ông được đánh giá là vị tổng thống vĩ đại nhất của México trong thế kỉ 19.
Thế kỉ 20 và thế kỉ 21
Porfirio Diaz đã cai trị một cách độc tài đất nước México trong khoảng thời gian từ năm 1880 đến năm 1911. Giai đoạn này, được gọi là Porfiriato được biết đến với những thành tựu lớn của nền kinh tế México, khoa học, nghệ thuật phát triển song bên cạnh đó là sự bất bình đẳng trong thu nhập giữa người giàu và người nghèo và sự đàn áp về chính trị. Cuộc bầu cử giả mạo để tiếp tục nhiệm kỳ thứ năm của Diaz đã bị người dân phản ứng dữ dội, dẫn đến việc cuộc Cách mạng México bùng nổ vào năm 1910. Hệ quả của cuộc cách mạng là một hiến pháp mới đã được ban hành vào năm 1917 và tiếp sau đó là một loạt những biến động trên chính trường México. Đất nước rơi vào cuộc nội chiến giữa các phe phái và nhiều nhân vật lãnh đạo quan trọng bị ám sát. Tình hình tương đối ổn định trở lại từ khi Đảng Cách mạng Quốc gia, về sau đổi tên là Đảng Cách mạng Thể chế (PRI) lên nắm quyền vào năm 1929 và đóng vai trò quan trọng trên chính trường México suốt 71 năm sau đó.
Thời gian từ thập niên 1940 đến 1980 được đánh dấu bởi sự phát triển kinh tế vượt bậc của México và được các nhà sử học gọi là “El Milagro Mexicano”, tức “Phép màu México”[7]. México đã có những cố gắng quan trọng trong việc quốc hữu hóa các tài sản của quốc gia như khoáng sản và dầu khí. vào năm 1938, tổng thống Lázaro Cárdenas đã quyết định quốc hữu hóa tất cả các công ty khai thác dầu và buộc họ phải sát nhập vào PEMEX, công ty dầu khí quốc doanh của México. Sự kiện này đã gây ra một cuộc khủng hoảng trong quan hệ ngoại giao giữa México với các nước tham gia khai thác tài nguyên tại đây. Kinh tế phát triển nhưng vẫn chưa đủ sức xóa hết những căng thẳng trong xã hội México, mà đỉnh cao là cuộc thảm sát Tlatelolco tại chính thủ đô México năm 1968[8].
Thời kỳ hoàng kim của kinh tế México kết thúc vào năm 1982 với một cuộc đại khủng hoảng. Giá dầu lửa, mặt hàng xuất khẩu chủ lực của México bị mất giá trầm trọng, tỉ lệ lãi suất tăng vọt và chính phủ México hoàn toàn bị vỡ nợ với những khoản nợ khổng lồ. Tiếp theo đó là một thời kỳ lạm phát kéo dài và México trở thành một quốc gia phá sản. México lại một lần nữa đối mặt với khủng hoảng kinh tế – tài chính lớn vào cuối năm 1994 với tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1995 là -6,9%[9]. Hiện nay tình hình kinh tế México đã có nhiều cải thiện quan trọng theo hướng tự do hóa thị trường, đồng thời liên kết với các bạn hàng lớn là Hoa Kỳ và Canada để phát triển trong NAFTA (Hiệp định Tự do Thương mại Bắc Mỹ). Tăng trưởng kinh tế dần đi vào ổn định và México đã trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Về chính trị, đã có một sự thay đổi lớn trên chính trường México trong cuộc bầu cử năm 2000. Lần đầu tiên sau 71 năm, Đảng Cách mạng Thể chế (PRI) để mất chiếc ghế tổng thống vào tay Đảng Hành động Quốc gia (PAN) là ông Vicente Fox. Trong cuộc bầu cử năm 2006, PRI thậm chí còn bị tụt xuống thứ ba, sau khi bị Đảng Cách mạng Dân chủ (PRD) vượt lên. Tổng thống México hiện nay là ông Felipe Calderon (2006-2012) của đảng PAN. Calderon tuyên chuyến với các băng đảng ma túy và tổ chức chiến dịch vào các cùng do các tay buôn lậu kiểm soát.
Chính trị
Theo Hiến pháp năm 1917, Liên bang México là một nước cộng hòa dân chủ đại diện và theo chế độ tổng thống. Hiến pháp của nước này cũng quy định thành lập 3 cấp chính quyền khác nhau: liên bang, tiểu bang và thành phố. Tất cả những vị trí lãnh đạo của chính quyền đều được quyết định thông qua bầu cử hoặc được chỉ định bởi những người đã được bầu.
Chính quyền của México được chia làm 3 nhánh sau:
- Lập pháp: gồm quốc hội lưỡng viện bao gồm Thượng viện và Hạ viện México. Phía lập pháp có quyền đặt ra các điều luật, tuyên bố chiến tranh, đặt thuế mới, thông qua ngân sách quốc gia và các hiệp ước quốc tế, bổ nhiệm các cán bộ ngoại giao…
- Hành pháp: Tổng thống México vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là người đứng đầu chính phủ và đồng thời cũng được coi là Tổng tư lệnh quân đội México. Tổng thống có quyền bổ nhiệm nội các (với sự thông qua của Thượng viện), chịu trách nhiệm việc thiết lập và thực thi luật pháp và quyền đình chỉ không thông qua một bộ luật nào đó.
- Tư pháp: Đứng đầu nhánh này là Tòa án Tư pháp Tối cao, gồm 11 vị thẩm phán được bổ nhiệm bởi tổng thống với sự đồng ý của Thượng viện.
Ở cấp tiểu bang, chính quyền cũng được tổ chức thành 3 nhánh: lập pháp (hội đồng lưỡng viện), hành pháp (đứng đầu là thống đốc và nội các được bổ nhiệm) và tư pháp (tòa án).
Trong thời gian từ năm 2006-2009, có 9 đảng phái có đại diện trong quốc hội México. Nhưng trong đó có 5 đảng có số phếu không vượt quá 4%. Ba đảng lớn nhất và có ảnh hưởng quan trọng đối với nền chính trị México là:
- Đảng Hành động Quốc gia (Partido Acción Nacional, PAN): đảng trung hữu theo đường lối bảo thủ được thành lập năm 1939.
- Đảng Cách mạng Thể chế (Partido Revolucionario Institucional, PRI): một đảng trung tả theo đường lối dân chủ xã hội, được thành lập năm 1929 nhằm thống nhất những lực lượng của cuộc Cách mạng México. Phần lớn các chính trị gia cánh tả của México thuộc đảng này.
- Đảng Cách mạng Dân chủ (Partido de la Revolución Democrática, PRD): đảng trung tả được thành lập năm 1989, tạo thành bởi liên minh giữa những người theo chủ nghĩa xã hội và một số đảng phái tự do khác.
Trong suốt 71 năm kể từ khi thành lập, PRI là đảng năm giữ vai trò chủ yếu trên chính trường México. Tuy nhiên đến năm 2000, lần đầu tiên đảng đã bị mất chiếc ghế tổng thống vào tay Vicente Fox, một thành viên của đảng PAN. Đến năm 2006, Felipe Calderon của PAN lại một lần nữa giành chiến thắng trước đối thủ Andres Manuel Lopez Obrador của đảng PRD với cách biệt cực kỳ sít sao 0,58%. Ông tuyên thệ nhiệm kỳ tổng thống México 2006-2012.
Quân đội
México là quốc gia có lực lượng quân đội lớn thứ hai tại khu vực Mỹ Latinh, chỉ sau có Brasil. México có 503.777 quân hiện hành, và có 192.770 quân nhân thuộc lực lượng quân đội chính quy[10]. Ngân sách dành cho quân đội mỗi năm của México khoảng 6 tỉ USD, chiếm 0,5% GDP[11]. Từ thập niên 1990, quân đội México chuyển hướng trọng tâm hoạt động sang cuộc chiến chống ma túy, đòi hỏi phải nâng cấp nhiều loại vũ khí và hiện đại hóa quân đội. Quân đội México bao gồm hai nhánh: Lục quân México (trong đó đã bao gồm cả không quân) và Hải quân México. Hiện quân đội México vẫn còn duy trì một số cơ sở vật chất, hạ tầng để thử nghiệm và chế tạo vũ khí như trực thăng, tàu chiến hạng nặng, các loại súng cho quân đội. Những cơ sở này đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Trong những năm gần đây, do yêu cầu hiện đại hóa quân đội ngày càng cao nên México đã cải tiến các chương trình huấn luyện cũng như vũ trang, đồng thời trở thành một nhà cung cấp vũ khí cho cả quân đội trong nước và các nước khác.
Phân cấp hành chính
Các thực thể liên bang có thể coi là cấp hành chính địa phương thứ nhất ở México. Các thực thể này bao gồm 31 bang (tiếng Tây Ban Nha: estado) và Thành phố México là 1 quận liên bang (distrito federal).
|
Địa lý
Vị trí, giới hạn
México là một quốc gia thuộc khu vực Bắc Mỹ. Phần lớn lãnh thổ của đất nước này nằm trên mảng kiến tạo Bắc Mỹ trong khi một phần nhỏ thuộc bán đảo Baja California thuộc địa mảng Thái Bính Dương và địa mảng Cocos. Về địa vật lý, phần lớn lãnh thổ México thuộc về Bắc Mỹ, trong khi 12% lãnh thổ thuộc bán đảo Tehuantepec thuộc khu vực Trung Mỹ[12]. Còn về mặt địa chính trị, México được coi như một quốc gia Bắc Mỹ, cùng với Hoa Kỳ và Canada[13].
Tổng diện tích của México 1.972.550 km2 và México là quốc gia có diện tích đứng hàng thứ 14 trên thế giới. Trong đó, México còn tuyên bố chủ quyền đối với 6.000 km2 đất thuộc các đảo và quần đảo tại Thái Bình Dương (đảo Guadalupe và quần đảo Revillagigedo), vịnh Mexico, biển Caribbean và vịnh California. Về phía bắc, México chia sẻ đường biên giới dài 3.141 km với Hoa Kỳ. Dòng sông Río Bravo del Norte (ở Hoa Kỳ gọi là Rio Grande) là biên giới tự nhiên kéo dài từ Ciudad Juárez về phía đông đến vịnh Mexico. Ngoài ra còn có một số đường phân giới tự nhiên hoặc nhân tạo khác từ Ciudad Juárez về phía tây đến bờ Thái Bình Dương. Về phía nam, México chia sẻ chung đường biên giới dài 871 km với Guatemala và 251 km với Belize.
Địa hình
Đất nước México có địa hình chủ yếu là đồi núi. Nước này có 3 dãy núi chính và đều nằm dọc theo đường bờ biển của Mexico. Trong đó Siera Madre Occidental là dãy núi dài nhất, kéo dài tới 5000 km theo dọc bờ biển phía tây giáp Thái Bình Dương của nước này. Ở bờ biển phía đông có dãy núi Siera Madre Oriental dài 1350 km và vùng bờ biển phía nam có dãy Sierra Madre de Sur dài 1200 km. Nằm giữa những dãy núi này với đường bờ biển là các đồng bằng nhỏ và hẹp.
Cao nguyên México chiếm một phần lớn diện tích trung tâm đất nước và nằm giữa hai dãy Siera Madrea Occidental và Siera Madre Oriental. Trong khi phía bắc cao nguyên México có địa hình thấp hơn (trung bình khoảng 1100 m) với nhiều bồn địa thì phía nam cao nguyên địa hình lại cao hơn. Những thung lũng thuộc miền nam cao nguyên México tập trung rất nhiều thành phố lớn như thành phố Mexico hay Guadalajara.
Mexico nằm trên một khu vực không ổn định, gần nơi tiếp giáp giữa hai địa mảng Cocos và Bắc Mỹ nền thường hay xảy ra những trận động đất và núi lửa phun trào. Ngọn núi lửa Orizaba (5636 m) là ngọn núi cao nhất tại México và thứ ba tại Bắc Mỹ. Dãy núi lớn thứ ba tại México là Sierra Nevada, hay được gọi là Vành đai núi lửa Mexico là một chuỗi các núi lửa chắn ngang đất nước México theo chiều đông-tây. Dãy núi lớn thứ tư của México là Sierra Madre del Sur nằm dọc theo bờ biển tây nam nước này.
Mexico có khoảng 150 con sông nhưng lượng nước phân bố không đồng đều trên toàn bộ lãnh thổ. Phần nhiều các con sông lớn đều chảy về phía đông vào vịnh Mexico và biển Caribbean.
Khí hậu
Có thể nói, đường chí tuyến bắc đã phân chia lãnh thổ México thành hai vùng khí hậu riêng biệt: nửa phía bắc chí tuyến có khí hậu ôn hòa còn nửa phía nam chí tuyến thì có điều kiện khí hậu phụ thuộc nhiều vào độ cao. México là một đất nước có nhiều núi non trùng điệp và điều này đã khiến cho México trở thành một trong những quốc gia có hệ thống khí hậu đa dạng nhất trên thế giới.
Ở nửa phía nam của đường chí tuyến, tại những vùng có độ cao không vượt quá 1000 m thì có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm quanh năm, với nhiệt độ trung bình năm dao động trong khoảng 24° – 28 °C, chênh lệch nhiệt độ giữa mùa hè và mùa đông không quá lớn, chỉ khoảng 5 °C. Trong khi đó, những vùng ở phía bắc đường chí tuyến của México thì có nhiệt độ trung bình năm thấp hơn, vào khoảng 20° – 24 °C với mùa hè nóng ẩm còn mùa đông thì lạnh và khô.
Thung lũng México nằm ở phía nam đường chí tuyến là một khu vực tập trung nhiều khu vực đô thị lớn của đất nước, trong đó có thành phố Mexico. Khu vực này nằm ở độ cao trên 2000 m nên nhìn chung có khí hậu ôn hòa tương đối dễ chịu, nhiệt độ trung bình năm dao động trong khoảng 16° – 18 °C.
Nhiều vùng đất ở Mexico, đặc biệt là tại phía bắc đường chí tuyến thường có rất ít mưa, tạo nên một số vùng hoang mạc lớn tại đất nước này. Trong khi đó miền nam México (đặc biệt là những vùng đồng bằng duyên hải như bán đảo Yucatan) thì lượng mưa thường đạt trên 2000 mm/năm.
Loài chó Chihuahua
Mexico nổi tiếng nhờ loài chó nhỏ tên Chihuahua. Theo như được kể lại, loài chó này được đưa từ Trung Quốc về theo đường hàng không. Sau đó, loài chó này phát triển và rất được ưa chuộng nhờ vẻ ngoài bé nhỏ và trí thông minh đặc biệt. Gần đây, nhiều đạo diễn Hollywood đã làm những bộ phim hiện đại về loài chó này, nổi bật như” Beverly Hill Chihuahua”. Chihuahua còn lạ một giống chó được nhièu ngôi sao điện ảnh” cưng”. Hillary Duff, Miley Cyrus, Ashley Tisdale,… là một vài ngôi sao đã từng đưa những chú Chihuahua dễ thương vào những chùm ảnh đời thường mà được ưa thích.
Đa dạng sinh học
Mexico được xếp là một trong 18 nước có mức độ đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới. Theo thống kê, México có khoảng 200.000 loài sinh vật đã được phát hiện, chiếm từ 10-12% tổng số loài sinh vật trên Trái Đất[14]. Đất nước này xếp thứ nhất thế giới về số lượng các loài bò sát (707 loài), thứ nhì về số lượng động vật có vú (438 loài), thứ tư về số lượng lưỡng cư (290 loài) và thứ tư về số lượng các loài thực vật (khoảng 20.000 loài). México cũng xếp thứ tư thế giới về sự đa dạng của hệ sinh thái cũng như của các loài sinh vật. Có khoảng 2500 loài nằm trong danh sách bảo vệ của chính phủ Mexico. Hiện México đã thành lập Hệ thống Thông tin quốc gia về đa dạng sinh học nhằm nâng cao hiểu biết của người dân về thế giới sinh vật đa dạng của đất nước này[15].
Tại Mexico, có khoảng 170.000 km2 được coi là khu vực bảo tồn tự nhiên, trong đó bao gồm 34 khu dự trữ sinh quyển, 64 công viên quốc gia cùng nhiều khu vực bảo vệ các loài thực vật và động vật quý hiếm khác.
Mexico là quê hương của nhiều loài thực vật có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống hàng ngày. Sau khi phát hiện ra châu Mỹ, người châu Âu đã mang các loại cây trái này của châu Mỹ đi phổ biến khắp thế giới. Đó là các loài cây cacao (sản xuất chocolate), cà chua, ngô, vani, nhiều loại đậu và ớt cay khác nhau (trong đó có ớt Habanero).
Nhân khẩu
Theo ước tính vào năm 2005, dân số México khoảng 103 triệu người và đây là quốc gia có số lượng người nói tiếng Tây Ban Nha nhiều nhất thế giới. México là quốc gia đông dân thứ hai khu vực Mỹ Latinh (sau Brasil nói tiếng Bồ Đào Nha) và đồng thời cũng là quốc gia đông dân thứ hai tại Bắc Mỹ (sau Hoa Kỳ). Trong thế kỉ 20, một đặc điểm nổi bật của dân số México là mức gia tăng dân số rất nhanh. Tuy rằng hiện nay, tốc độ gia tăng dân số đã giảm xuống còn dưới 1% nhưng dân số México đã vượt quá mốc 100 triệu người và còn tiếp tục gia tăng hơn nữa. Đồng thời bên cạnh đó, México được coi là một quốc gia với dân số trẻ, với khoảng 50% dân số có độ tuổi dưới 25[16].
Năm 1900, dân số México là 13,6 triệu người[17]. Từ những năm 1930 đến 1980, hay giai đoạn được gọi là “Phép màu Mexico”, chính phủ México đã có những đầu tư hiệu quả vào việc phát triển kinh tế và cải thiện đời sống người dân khiến tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh được giảm xuống rõ rệt. Dân số México gia tăng nhanh chóng trong thế kỉ 20 và bây giờ đã bắt đầu có xu hướng chậm lại. Tốc độ gia tăng dân số từ mức đỉnh 3,5% năm 1965 nay đã hạ xuống 0,99% vào năm 2005.
Tốc độ gia tăng dân số có sự khác biệt giữa các vùng của Mexico. Khu vực thủ đô Mexico có tốc độ tăng dân số chỉ có 0,2%, và đặc biệt bang Michoacan có mức tăng trưởng dân số là -0,1%. Trong khi đó một số vùng khác thưa dân hơn lại có mức độ tăng trưởng dân số cao (được ảnh hưởng khá nhiều từ quá trình nhập cư) là Quintana Roo (4,7%) hay Baja California Sur (3,4%)[18].
Nhập cư và di cư
Dân châu Âu, chủ yếu là người Tây Ban Nha đã nhập cư vào México trong thời kỳ nước này còn là một thuộc địa của Tây Ban Nha. Đến cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, một dòng người nhập cư mới đến từ châu Âu cũng xuất hiện chủ yếu do sự nghèo đói tại quê hương, tuy không đông đảo như các đợt di dân đến Argentina, Brasil và Uruguay. Ngoài người Tây Ban Nha, những nhóm người châu Âu nhập cư bao gồm người Anh, người Ireland, người Ý, người Đức, người Pháp, người Hà Lan[19]… Một bộ phận người Trung Đông cũng nhập cư vào México trong thời kỳ này, chủ yếu họ đến từ Thổ Nhĩ Kỳ và Liban[20]. Bên cạnh đó còn có một số cộng đồng người Viễn Đông như người Trung Quốc đi qua Hoa Kỳ xuống định cư ở miền bắc México và người bán đảo Triều Tiên ở miền trung Mexico[21].
Trong thập niên 1970 và 1980, México đã mở cửa cho những người tị nạn chính trị đến từ khắp các nước Mỹ Latinh như Argentina, Chile, Cuba, Peru, Brazil, Colombia và các nước Trung Mỹ. Những cuộc khủng hoảng kinh tế sâu sắc tại các nước Mỹ Latinh láng giềng cũng góp phần làm gia tăng cộng đồng của họ tại Mexico, như người Argentina tại México được ước tính có khoảng 110.000 đến 130.000 người[22]. Bên cạnh đó, khoảng 1 triệu người Mỹ cũng định cư tại Mexico, chủ yếu vì lí do nghỉ dưỡng sau khi đã về hưu.
Mexico hiện nay là nước có tỷ lệ di cư âm (di cư nhiều hơn nhập cư), với tỉ lệ là -4,32/1000 người. Chủ yếu người dân México di cư đến Hoa Kỳ để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong thập niên 1990 và đầu những năm thập niên 2000, dòng người di cư từ México sang Hoa Kỳ đã gia tăng một cách đột biến, chiếm khoảng 37% tổng lượng dân México tại Mỹ. Việc nhập cư bất hợp pháp từ México vào Mỹ cũng là một vấn đề lớn trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Vào năm 2000, ước tính có khoảng 20 triệu người Mỹ tự nhận mình là người gốc Mexico[23]. Giải thích cho việc mặc dù nền kinh tế México đã phát triển rõ rệt song tỉ lệ di cư vẫn cao, nhiều người cho rằng đó là do sự bất bình đẳng về kinh tế trong nước, khoảng cách giàu nghèo gia tăng và một số người México sau khi định cư tại Mỹ đã quyết định đón gia đình của mình từ México sang.
Tôn giáo
Theo điều tra nhân khẩu năm 2000, tuyệt đại đa số người dân México theo Công giáo Rôma (87,9%), mặc dù số lượng người đi lễ nhà thờ hàng tuần nhỏ hơn rất nhiều, chỉ khoảng 46%. Khoảng 5,2% dân số México theo đạo Tin lành, số còn lại theo một số tôn giáo khác.
Những bang có tỉ lệ người theo đạo Công giáo cao nhất là các bang miền trung México như Guanajuato (96,4%), Aguascalientes (95,6%), Jalisco (95,4%), trong khi đó những bang ở phía đông nam có tỉ lệ theo đạo Công giáo thấp nhất như Chiapas (63.8%), Tabasco (70.4%) and Campeche (71.3%)[24]. Tỉ lệ người dân México theo Công giáo đã giảm xuống từ mốc 98% năm 1950 xuống còn 87,9% năm 2000. Tỉ lệ này sẽ còn tiếp tục giảm xuống song đạo Công giáo vẫn đống vai trò hàng đầu về tôn giáo tại Mexico.
Không như một số quốc gia Mỹ Latinh khác, Hiến pháp México 1857 đã tách riêng hoạt động của nhà nước và nhà thờ. Chính phủ không cấp cho nhà thờ bất cứ nguồn lợi kinh tế nào như ở Tây Ban Nha hay Argentina[25] và nhà thờ cũng không được tham gia vào các hoạt động giáo dục ở các trường công (mặc dù họ có thể tham gia ở các trường tư). Thậm chí, chính phủ México còn quốc hữu hóa các tài sản của nhà thờ (đến thập niên 1990 thì một số lại được trao trả). Các linh mục và thầy tu tại México không được quyền bầu cử hay tham gia ứng cử vào các vị trí trong chính quyền.
Ngôn ngữ
Mặc dù tiếng Tây Ban Nha được 97% dân số México sử dụng song nó không được công nhận là ngôn ngữ chính thức duy nhất của quốc gia[26]. Theo Hiến pháp của Mexico, tất cả các ngôn ngữ bản địa đều được quyền bình đẳng ngang với tiếng Tây Ban Nha, bất kể số người nói nhiều hay ít. Người dân hoàn toàn có quyền được yêu cầu cung cấp các dịch vụ công cộng và các tài liệu bằng ngôn ngữ bản địa của mình[27]. Thậm chí chính phủ México còn công nhận cả những ngôn ngữ bản địa của người da đỏ không có nguồn gốc từ México như tiếng của người Kickapoo (nhập cư từ Hoa Kỳ)[28] và ngôn ngữ của những người da đỏ tị nạn Guatemala[29]. México cũng đã thành lập các trường học song ngữ ở cấp tiểu học và trung học cho các học sinh nói ngôn ngữ bản địa. Hiện nay, có khoảng 7,1% dân số México có nói ít nhất một ngôn ngữ bản địa và có khoảng 1,2% dân số hoàn toàn không sử dụng tiếng Tây Ban Nha[30].
Mexico là quốc gia có số lượng người nói tiếng Tây Ban Nha nhiều nhất thế giới, hơn gấp đôi Tây Ban Nha là nơi bắt nguồn của ngôn ngữ này. Do vậy, México có vai trò quan trọng trong việc truyền bá ảnh hưởng của tiếng Tây Ban Nha ra thế giới, đặc biệt là vào Mỹ. Khoảng 1/3 số người nói tiếng Tây Ban Nha trên thế giới sống tại Mexico[31]. Bên cạnh đó, tiếng Nahualt là thứ tiếng được sử dụng phổ biến thứ nhì tại đất nước này với 1,5 triệu người sử dụng, sau đó là tiếng Yucatec Maya với 800.000 người. Một số ngôn ngữ thiểu số của México đang có nguy cơ biến mất, ví dụ như tiếng Lacandon được sử dụng bởi không quá 100 người.
Tiếng Anh được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng người Mỹ tại Mexico, những thành phố giáp biên giới phía bắc và các trung tâm kinh tế, tài chính lớn. Một số ngôn ngữ gốc Âu khác cũng được sử dụng nhiều là tiếng Venetian (bắt nguồn từ Ý), tiếng Plautdietsch (miền nam Đức), tiếng Đức, tiếng Pháp và tiếng Digan.
Chủng tộc
Mexico là một quốc gia có nhiều sắc tộc khác nhau và Hiến pháp nước này ghi rõ México là một quốc gia đa chủng tộc. Dân México có thể chia làm các nhóm chính sau:
- Người Mestizo (tức người lai giữa người da trắng và người da đỏ) là nhóm sắc tộc chiếm tỉ lệ cao nhất tại Mexico, ước tính từ 60-75%[32].
- Người da đỏ bản địa được ước tính chiếm khoảng từ 12 – 30% dân số. Đây là những cư dân đầu tiên của México do vậy các ngôn ngữ của họ được chính phủ México công nhận là ngôn ngữ quốc gia và được bảo vệ.
- Người da trắng chiếm khoảng 9 – 17% dân số là những người dân nhập cư gốc châu Âu. Họ có nhiều nguồn gốc khác nhau trong đó chủ yếu là Tây Ban Nha, rồi đến một số nhóm khác như Pháp, Italy, Bồ Đào Nha, Basque, Đức, Ireland, Ba Lan, România, Nga… Ngoài ra còn có một số người Mỹ và Canada gần đây cũng di cư đến Mexico.
Người da đen chiếm một thiểu số không đáng kể tại Mexico, tập trung ở vùng bờ biển Veracruz, Tabasco, Guerrero. México cũng có một cộng đồng người Á khá đông đảo đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Philippines, Nhật Bản, Liban, Thổ Nhĩ Kỳ…
Kinh tế
Mexico là một nền kinh tế thị trường hỗn hợp và được xếp vào nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình trên[33]. Đây là nền kinh tế lớn thứ 11 thế giới dựa trên GDP[34] và đồng thời cũng là một trong những nước có thu nhập bình quân cao nhất khu vực Mỹ Latinh, tuy nhiên vẫn còn kém xa so với các nước Bắc Mỹ. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, thu nhập bình quân đầu người của México là 9.716 USD (danh nghĩa) trong năm 2007, đứng thứ nhì khu vực Mỹ Latinh còn nếu theo sức mua tương đương thì thu nhập của México là 14.119 USD, đứng thứ nhất[35].
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng năm 1994, México đã phục hồi một cách ấn tượng nền kinh tế bằng cách xây dựng một nền kinh tế đa dạng và hiện đại. Cơ sở hạ tầng được cải thiện đã nâng cao chất lượng hoạt động của các bến cảng, đường sá, mạng lưới điện, viễn thông, hàng không đảm bảo cho sự phát triển kinh tế. Dầu lửa vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của México và mang lại một nguồn ngoại tế lớn cho nền kinh tế nước này. Với dân số đông và một nền kinh tế phát triển năng động và vững chắc, México được dự báo có thể sẽ trở thành một trong 5 cường quốc kinh tế thế giới vào năm 2050 theo thứ tự lần lượt là Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Brasil và Mexico[36].
Theo Ngân hàng Thế giới, tỉ lệ nghèo đói tại México đã giảm từ 24,2% xuống 17,6% trong khoảng 2000–2004. Tuy nhiên sự bất bình đẳng trong thu nhập của người dân México cũng là một vấn đề lớn đối với nước này. Sự chênh lệch giàu nghèo, phản ánh qua chỉ số Gini cao của México có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng về xã hội và kinh tế. Trong Báo cáo về Chỉ số Phát triển Con người của Liên Hiệp Quốc năm 2004, một số quận tại trung tâm thành phố México như quận Benito Juarez, hay quận San Pedro Carza Garcia thuộc bang Nueva Leon có mức thu nhập cũng như điều kiện y tế, giáo dục ngang với bình quân của các nước phát triển như Đức và New Zealand. Trong khi đó, quận Metlatonoc thuộc bang Guerrero có chỉ số HDI ngang với Syria, một nước thu nhập trung bình dưới[37].
Mexico đã ký Hiệp định Tự do Thương mại (FTA) với hơn 40 quốc gia trong đó có Hoa Kỳ, Nhật Bản, Liên minh Châu Âu, các nước Trung Mỹ và Nam Mỹ. Khoảng 90% mậu dịch của México có FTA. Đối tác thương mại chủ yếu của México là hai nước bạn hàng Bắc Mỹ thuộc khối NAFTA, chiếm tới 90% mặt hàng xuất khẩu và 55% nhập khẩu của nước này[38]. Trong nền kinh tế Mexico, nông nghiệp chiếm 4%, công nghiệp chiếm 26,5% và dịch vụ chiếm 69,5%. Các mặt hàng xuất khẩu chú yếu của México là dầu mỏ, hàng gia công, rau quả, vải, cà phê, bạc. Còn các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị, phương tiện giao thông.
Du lịch cũng là một nguồn thu ngoại tệ lớn của Mexico. Mỗi năm đất nước México đón tiếp hơn 20 triệu lượt khách du lịch nước ngoài và là quốc gia duy nhất tại khu vực Mỹ Latinh có mặt trong top 25 nước điểm đến du lịch của thế giới. Du lịch México nổi tiếng với những tàn tích từ thời các nền văn minh cổ xưa của châu Mỹ, các công trình văn hóa lịch sử cũng như các bãi biển đẹp dọc theo hai bên bờ biển của nước này. Năm 2006, México đứng thứ 8 thế giới về lượng khách du lịch đến tham quan[39].
Văn hóa
Văn hóa México phản ánh sự phức tạp của lịch sử México với sự hòa trộn nhiều yếu tố phức tạp về chủng tộc và văn hóa trên đất nước này. Hai nhân tố chính hình thành nên nền văn hóa México là văn hóa của những thổ dân da đỏ bản địa và nền văn hóa Tây Ban Nha, được đưa vào México trong 300 năm thuộc địa. Gần đây, những ảnh hưởng văn hóa đương đại đến từ Hoa Kỳ cũng tác động vào văn hóa Mexico. Giống như nhiều quốc gia Mỹ Latinh khác sau khi giành được độc lập, nền văn hóa México dần dần được định hình trên cơ sở sự đa dạng về chủng tộc nhưng lại chia sẻ chung một tôn giáo duy nhất là Công giáo Rôma.
Thời kỳ Porfiriato (một phần tư cuối thế kỉ 19 và thập niên đầu thế kỉ 20) được đánh dấu bởi sự phát triển mạnh mẽ của nền văn hóa Mexico. Dưới sự cai trị của nhà độc tài Porfirio Diaz, nền kinh tế México phát triển mạnh mẽ và thịnh vượng đã đi cùng với sự phát triển của triết học và nghệ thuật Mexico. Mặc dù đất nước phải trải qua một số biến cố lớn như cuộc Cách mạng Mexico 1910, song nền văn hóa México đã từng bước định hình thành dạng mestizaje, một khái niệm chỉ nền văn hóa đa dạng tại México trong đó đặt những yếu tố bản địa truyền thống làm trung tâm. Năm 1925, trong tác phẩm La Raza Cósmica (tạm dịch là Chủng tộc lớn), nhà văn José Vasconcelos đã xác định México là một quốc gia đa dạng (tương tự như thuật ngữ melting pot của Hoa Kỳ) không chỉ về mặt chủng tộc mà còn về mặt văn hóa[40]. Nhận thức mới mẻ này đã làm cho México hoàn toàn khác biệt so với nhiều nước châu Âu lúc đó vẫn giữ quan điểm lỗi thời về chủng tộc thượng đẳng.
Ẩm thực
Ẩm thực tại México nổi tiếng thế giới với hương vị cay nồng, cách trang trí món ăn sặc sỡ và sự đa dạng về các loại gia vị khác nhau. Nhiều món ăn México ngày nay dựa trên những thực phẩm truyền thống thời kỳ tiền Colombo, kết hợp với những món ăn Tây Ban Nha do người châu Âu mang đến đã làm nên một sự đa dạng nhưng vô cùng độc đáo trong ẩm thực nước này. Khi đến Mexico, người Tây Ban Nha đã mang theo gạo, thịt bò, thịt lợn, thịt gà, rượu nho và tỏi. Trong khi đó người dân da đỏ tại México cũng có rất nhiều loại thực phẩm đặc sắc mà ngày nay được phổ biến khắp thế giới như ngô, cà chua, vanilla, đu đủ, dứa, ớt cay, khoai lang, đậu, lạc, chocolate…
Bữa ăn truyền thống đối với người México bản địa chủ yếu có ngô như lương thực chính, kết hợp với các loài thảo mộc, ớt, cà chua. Ngày nay việc sử dụng gạo cũng rất phổ biến tai México để làm lương thực, ngoài ra còn có lúa mì. Chocalate cũng bắt nguồn từ México nhưng ngày xưa, người da đỏ chủ yếu dùng để uống. México cũng là nơi ra đời của nhiều loại bánh ngô như bánh ngô có nhân (tacos, nhân bánh có thể là nhiều loại thịt hoặc rau), bánh ngô phomat (quesadillas) hay bánh ngô cay (enchiladas). Mỗi vùng miền trên đất nước México có thể có những loại thực phẩm đặc trưng riêng. Thứ đồ uống phổ biến và đặc trưng cho México là rượu tequila.
Âm nhạc
Âm nhạc của México thể hiện sự đa dạng, phong phú về thể loại: từ những thể loại nhạc truyền thống như Mariachi, Banda, Norteño, Ranchera và Corridos cho đến những trào lưu âm nhạc hiện đại như pop, rock… với các bài hát được sáng tác bằng cả tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Âm nhạc cổ điển được biểu diễn bởi các dàn nhạc giao hưởng được tổ chức tại hầu hết các bang của đất nước để người dân có thể thưởng thức.
Mexico là thị trường âm nhạc lớn nhất khu vực Mỹ Latinh. Nước này đã xuất khẩu âm nhạc của mình ra nhiều nước Trung Mỹ, Nam Mỹ và châu Âu (đặc biệt là Tây Ban Nha) do có sự tương đồng ngôn ngữ. Những ca sĩ nổi tiếng nhất của México là Thalía, Luis Miguel và Paulina Rubio; các nhóm nhạc lớn Café Tacuba, Molotov, RBD và Maná.
Lễ hội truyền thống
Ngày 16 tháng 9 là ngày México giành được độc lập từ tay người Tây Ban Nha năm 1821 và được coi là một ngày lễ chính thức của đất nước. Bên cạnh những ngày lễ thông thường trên khắp thế giới như Năm mới, Giáng Sinh, mỗi thành phố, trị trấn hay các làng quê của México đều có những lễ hội thường niên của riêng mình để tưởng nhớ vị thánh bảo trợ cho địa phương họ. Trong ngày lễ thánh của địa phương, người dân México thường cầu nguyện, đốt nến và trang trí nhà thờ bằng nhiều loại hoa. Những cuộc diễu hành, bắn pháo hoa, các cuộc thi khiêu vũ, thi hoa hậu, các bữa tiệc… cũng được tổ chức nhân dịp này. Bên cạnh đó tại những thị trấn nhỏ còn có các hoạt động như bóng đá, gà chọi, đấu bò tót nghiệp dư.
Vị thánh bảo trợ cho México là Đức Mẹ Guadalupe. Ngày lễ Guadalupe được tổ chức vào ngày 12 tháng 12 được coi là một trong những ngày lễ quan trọng nhất của đất nước Mexico.
Ngày Vong Linh (Día de los Muertos trong tiếng Tây Ban Nha) được tổ chức vào hai ngày đầu tiên của tháng 11 là một dịp lễ hội khá đặc sắc của Mexico. Lễ hội này bắt nguồn từ những niềm tin tôn giáo có từ xa xưa của đạo Công giáo Rôma là ngày Lễ Các Thánh (1 tháng 11) và Lễ Các Đẳng (2 tháng 11), nhưng cũng được cho là có liên quan tới một lễ hội cổ của người Aztec về Nữ thần Chết. Trong ngày này, người dân México thường sum họp gia đình, đi thăm mộ để tưởng niệm người thân và bạn bè đã mất. Trong ngày lễ này, các cửa hàng ở México thường trang trí sặc sỡ những hình đầu lâu làm bằng đường và những catrina (bộ xương mặc trang phục người phụ nữ).
Tham khảo
- ^ Dân số các Quốc Gia trên Thế Giới, CIA World Factbook ước tính
- ^ México tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- ^ Theo CIA – The World Factbook
- ^ G8: Despite Differences, Mexico Comfortable as G5 Emerging Power IPS Correspondents 5/6/2007
- ^ http://www.edomexico.gob.mx/identidad/civica/htm/NomMexico.htm Theo Chính phủ México (tiếng Tây Ban Nha)
- ^ http://uk.encarta.msn.com/encyclopedia_761570777/Native_Americans.html#s76 Người bản địa châu Mỹ
- ^ http://www.emayzine.com/lectures/mex9.html Phép màu México (1940-1968)
- ^ http://en.wikipedia.org/wiki/Elena_Poniatowska Thám sát tại México
- ^ http://vcci.vn/hstt/México.htm Hồ sơ thị trường México
- ^ Lực lượng quân đội México
- ^ http://www.globalfirepower.com/list_avail_mil_manpower.asp
- ^ Enciclopèdia.cat
- ^ http://usinfo.state.gov/journals/ites/0504/ijee/larson.htm
- ^ http://cruzadabosquesagua.semarnat.gob.mx/iii.html Đa dạng sinh học México (tiếng Tây Ban Nha)
- ^ http://www.conabio.gob.mx/institucion/snib/doctos/acerca.html Bảo vệ đa dạng sinh học của Mexico
- ^ http://www.inegi.gob.mx/est/contenidos/espanol/rutinas/ept.asp?t=mpob03&c=3180 (tiếng Tây Ban Nha)
- ^ http://www.migrationinformation.org/Feature/display.cfm?ID=203 Theo Lịch sử 100 năm chính sách nhập cư của Mexico
- ^ http://www.inegi.gob.mx/est/contenidos/espanol/rutinas/ept.asp?t=mpob09&c=3186 (tiếng Tây Ban Nha)
- ^ http://redalyc.uaemex.mx/redalyc/pdf/151/15103202.pdf Người châu Âu di cư đến Mexico
- ^ http://confines.mty.itesm.mx/articulos2/GarciaRE.pdf Người Ả Rập di cư đến México (tiếng Tây Ban Nha)
- ^ http://www.esmas.com/noticierostelevisa/mexico/443030.html Người châu Á đến Mexico
- ^ http://www.lanacion.com.ar/coberturaespecial/argentinos/mexico/index.asp Cộng đồng người Argentina tại Mexico
- ^ http://www.iie.com/publications/chapters_preview/332/08iie3349.pdf Quan hệ México và Mỹ
- ^ http://www.inegi.gob.mx/prod_serv/contenidos/espanol/bvinegi/productos/censos/poblacion/2000/definitivos/Nal/tabulados/00re01.pdf Tỉ lệ người theo Công giáo tại các bang của Mexico
- ^ http://pdba.georgetown.edu/Constitutions/Argentina/argen94.html#primerapartecap1 Trích Hiến pháp Argentina
- ^ http://www.normateca.gob.mx/Archivos/34_D_1247_22-06-2007.pdf Theo hiến pháp México (tiếng Tây Ban Nha)
- ^ http://cdi.gob.mx/derechos/vigencia/2006_ley_general_derechos_linguisticos_pueblos_indigenas.pdf Luật về quyền các ngôn ngữ thiểu số (tiếng Tây Ban Nha)
- ^ Comisión Nacional para el Desarrollo de los Pueblos Indígenas. México
- ^ Comisión Nacional para el Desarrollo de los Pueblos Indígenas. México
- ^ http://www.inegi.gob.mx/prod_serv/contenidos/espanol/bvinegi/productos/censos/poblacion/2000/definitivos/Nal/tabulados/00li01.pdf
- ^ http://www.todaytranslations.com/index.asp-Q-Page-E-Spanish-Language-History–13053095 Theo Lịch sử tiếng Tây Ban Nha
- ^ https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/mx.html#Geo CIA – The World Factbook
- ^ http://web.worldbank.org/WBSITE/EXTERNAL/DATASTATISTICS/0,,contentMDK:20421402~pagePK:64133150~piPK:64133175~theSitePK:239419,00.html#Upper_middle_income Danh sách quốc gia thu nhập trung bình trên (WB)
- ^ http://www.imf.org/external/pubs/ft/weo/2008/02/weodata/weorept.aspx?sy=2006&ey=2013&scsm=1&ssd=1&sort=country&ds=.&br=1&c=213%2C273%2C228%2C184&s=NGDPDPC%2CPPPGDP%2CPPPPC&grp=0&a=&pr1.x=39&pr1.y=3 Danh sácg quốc gia theo GDP (WB)
- ^ http://www.imf.org/external/pubs/ft/weo/2008/02/weodata/weorept.aspx?sy=2006&ey=2013&scsm=1&ssd=1&sort=country&ds=.&br=1&c=213%2C273%2C228%2C184&s=NGDPDPC%2CPPPGDP%2CPPPPC&grp=0&a=&pr1.x=39&pr1.y=3 Theo IMF
- ^ http://www.chicagogsb.edu/alumni/clubs/pakistan/docs/next11dream-march%20%2707-goldmansachs.pdf
- ^ http://hdr.undp.org/docs/reports/national/MEX_Mexico/Mexico_2004_sp.pdf UNDP Mexico
- ^ https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/mx.html#Econ CIA – The World Factbook
- ^ The World’s Top Tourism Destinations | Infoplease.com
- ^ Vasconcelos, José; Didier T. Jaén (translator) (1997). La Raza Cósmica (The Cosmic Race). The Johns Hopkins University Press. p. 160.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về México |
- Visit Mexico
- Thông tin du lịch México – Lonely Planet
- Thông tin về México trên Infoplease
- Thông tin về México trên CIA – The World Factbook
- Thông tin quốc gia trên BBC
|
Albert Einstein
Albert Einstein | |
---|---|
![]() Albert Einstein năm 1921
|
|
Sinh | 14 tháng 3, 1879 Ulm, Vương quốc Württemberg, Đế chế Đức |
Mất | 18 tháng 4, 1955 (76 tuổi) Princeton, New Jersey, Hoa Kỳ |
Nơi cư trú | Đức, Ý, Thụy Sĩ, Áo, Bỉ, Anh, Hoa Kỳ |
Quốc tịch | |
Ngành | Vật lý |
Alma mater | |
Người hướng dẫn luận án tiến sĩ | Alfred Kleiner |
Cố vấn nghiên cứu khác | Heinrich Friedrich Weber |
Sinh viên đáng chú ý |
|
Nổi tiếng vì | |
Giải thưởng |
|
Chữ ký![]() |
|
Vợ/chồng | Mileva Marić Elsa Einstein |
Con cái | Lieserl Einstein Hans Albert Einstein Eduard Einstein |
Thuyết tương đối rộng |
---|
![]() ![]() |
Giới thiệu · Mô hình Toán học Tham khảo · Kiểm chứng |
Các khái niệm cơ sở[hiện]
|
Hiệu ứng và hệ quả[hiện]
|
Các phương trình[hiện]
|
Các lý thuyết phát triển[hiện]
|
Nhà vật lý[hiện]
|
Vật lý vật chất ngưng tụ |
---|
![]() |
Pha · Chuyển tiếp pha |
Hiện ứng pha[hiện]
|
Pha điện tử[hiện]
|
Hiệu ứng điện tử[hiện]
|
Pha từ[hiện]
|
Nhà khoa học[hiện]
|
Albert Einstein (Tiếng Đức: [ˈalbɐt ˈaɪnʃtaɪn] ( nghe); 14 tháng 3 năm 1879–18 tháng 4 năm 1955) là nhà vật lý lý thuyết người Đức, người đã phát triển thuyết tương đối tổng quát, một trong hai trụ cột của vật lý hiện đại (trụ cột kia là cơ học lượng tử).[2][3] Mặc dù được biết đến nhiều nhất qua phương trình về sự tương đương khối lượng-năng lượng E = mc2 (được xem là “phương trình nổi tiếng nhất thế giới”),[4] ông lại được trao Giải Nobel Vật lý năm 1921 “cho những cống hiến của ông đối với vật lý lý thuyết, và đặc biệt cho sự khám phá ra định luật của hiệu ứng quang điện“.[5] Công trình về hiệu ứng quang điện của ông có tính chất bước ngoặt khai sinh ra lý thuyết lượng tử.
Khi bước vào sự nghiệp của mình, Einstein đã nhận ra cơ học Newton không còn có thể thống nhất các định luật của cơ học cổ điển với các định luật của trường điện từ. Từ đó ông phát triển thuyết tương đối đặc biệt, với các bài báo đăng trong năm 1905. Tuy nhiên, ông nhận thấy nguyên lý tương đối có thể mở rộng cho cả trường hấp dẫn, và điều này dẫn đến sự ra đời của lý thuyết về hấp dẫn trong năm 1916, năm ông xuất bản một bài báo về thuyết tương đối tổng quát. Ông tiếp tục nghiên cứu các bài toán của cơ học thống kê và lý thuyết lượng tử, trong đó đưa ra những giải thích về lý thuyết hạt và sự chuyển động của các phân tử. Ông cũng nghiên cứu các tính chất nhiệt học của ánh sáng và đặt cơ sở cho lý thuyết lượng tử ánh sáng. Năm 1917, Einstein sử dụng thuyết tương đối tổng quát để miêu tả mô hình cấu trúc của toàn thể vũ trụ.[6] Cùng với Satyendra Nath Bose, năm 1924-1925 ông tiên đoán một trạng thái vật chất mới đó là ngưng tụ Bose-Einstein của những hệ lượng tử ở trạng thái gần độ không tuyệt đối.[7] Tuy cũng là cha đẻ của thuyết lượng tử, nhưng ông lại tỏ ra khắt khe với lý thuyết này. Điều này thể hiện qua những tranh luận của ông với Niels Bohr và nghịch lý EPR về lý thuyết lượng tử.[8]
Khi ông đang thăm Hoa Kỳ thì Adolf Hitler lên nắm quyền vào năm 1933, do vậy ông đã không trở lại nước Đức, nơi ông đang là giáo sư ở Viện Hàn lâm Khoa học Berlin. Ông định cư tại Hoa Kỳ và chính thức trở thành công dân Mỹ vào năm 1940.[9] Vào lúc sắp diễn ra Chiến tranh thế giới lần hai, ông đã ký vào một lá thư cảnh báo Tổng thống Franklin D. Roosevelt rằng Đức Quốc xã có thể đang nghiên cứu phát triển “một loại bom mới cực kỳ nguy hiểm” và khuyến cáo nước Mỹ nên có những nghiên cứu tương tự. Thực sự, nó đã dẫn đến sự ra đời của Dự án Manhattan sau này. Einstein ủng hộ bảo vệ các lực lượng Đồng minh, nhưng nói chung chống lại việc sử dụng phát kiến mới về phân hạch hạt nhân làm vũ khí. Sau này, cùng với nhà triết học người Anh Bertrand Russell, ông đã ký Tuyên ngôn Russell–Einstein, nêu bật sự nguy hiểm của vũ khí hạt nhân. Einstein làm việc tại Viện Nghiên cứu Cao cấp ở Princeton, New Jersey cho đến khi ông qua đời vào năm 1955.
Einstein đã công bố hơn 300 bài báo khoa học và hơn 150 bài viết khác về những chủ đề khác nhau, ông cũng nhận được nhiều bằng tiến sĩ danh dự trong khoa học, y học và triết học từ nhiều cơ sở giáo dục đại học ở châu Âu và Bắc Mỹ.[6][10] Ông được tạp chí Times gọi là “Con người của thế kỷ”. Những thành tựu tri thức lớn lao của ông đã khiến tên gọi “Einstein” đã trở nên đồng nghĩa với từ thiên tài
Mục lục
- 1 Tiểu sử
- 2 Nhận xét về Einstein
- 3 Sự nghiệp khoa học
- 3.1 Vật lý những năm 1900
- 3.2 Thăng giáng nhiệt động và vật lý thống kê
- 3.3 Thí nghiệm tưởng tượng và nguyên lý vật lý tiên nghiệm
- 3.4 Lý thuyết tương đối hẹp
- 3.5 Photon
- 3.6 Lượng tử hóa dao động nguyên tử
- 3.7 Nguyên lý đoạn nhiệt và các biến tác động góc
- 3.8 Lưỡng tính sóng – hạt
- 3.9 Lý thuyết giới hạn trắng đục
- 3.10 Năng lượng điểm không
- 3.11 Nguyên lý tương đương
- 3.12 Thuyết tương đối rộng
- 3.13 Vũ trụ học
- 3.14 Thuyết lượng tử hiện đại
- 3.15 Thống kê Bose–Einstein
- 3.16 Giả tenxơ năng lượng động lượng
- 3.17 Thuyết trường thống nhất
- 3.18 Lỗ sâu
- 3.19 Lý thuyết Einstein–Cartan
- 3.20 Nghịch lý Einstein–Podolsky–Rosen
- 3.21 Các phương trình chuyển động
- 3.22 Cộng tác với những nhà khoa học khác
- 4 Tình yêu âm nhạc
- 5 Quan điểm chính trị
- 6 Quan điểm tôn giáo
- 7 Giải thưởng
- 8 Vinh danh
- 9 Ảnh hưởng của Albert Einstein trong văn hóa
- 10 Những dấu mốc trong cuộc đời của Einstein
- 11 Các bài viết
- 12 Xem thêm
- 13 Ghi chú
- 14 Chú thích
- 15 Tham khảo
- 16 Liên kết ngoài
Tiểu sử
Thời niên thiếu và trường học
Albert Einstein sinh ra trong một gia đình gốc Do Thái tại thành phố Ulm, bên dòng sông Đa Nuýp, tiểu bang Baden-Württemberg, nước Đức ngày 14 tháng Ba năm 1879.[12] Bố là ông Hermann Einstein, một kĩ sư đồng thời là nhân viên bán hàng, còn mẹ là Pauline Einstein (nhũ danh Koch). Năm 1880, gia đình chuyển đến München, tại đây bố và bác ông mở công ty Elektrotechnische Fabrik J. Einstein & Cie, chuyên sản xuất các thiết bị điện một chiều.[12]
Dù là dân Do Thái, gia đình Einstein không theo Do Thái giáo. Albert học trường tiểu học Công giáo lúc 5 tuổi trong vòng 3 năm. Sau đó, lên 8 tuổi, Einstein được chuyển đến trường Luitpold Gymnasium nơi cậu học tiểu học và trung học trong vòng 7 năm trước khi rời nước Đức.[13] Mặc dù lúc còn bé Einstein nói rất khó khăn, nhưng cậu vẫn học giỏi ở trường công giáo trong các môn khoa học tự nhiên.[14] Ông là người viết tay phải;[14][15] và không có hình ảnh cụ thể nào để tin một cách rộng rãi rằng[16] ông viết tay trái.
Bố Einstein có lần chỉ cho cậu cái la bàn bỏ túi, và Einstein nhận thấy phải có cái gì đó làm cho kim chuyển động, mặc dù chỉ có “không gian trống rỗng” quanh cái kim.[17] Khi lớn lên, Einstein tự làm các mô hình và thiết bị cơ học để nghịch và bắt đầu biểu lộ năng khiếu toán học của mình.[12] Năm 1889, Max Talmud (sau đổi tên thành Max Talmey) chỉ cho cậu bé 10 tuổi Einstein những quyển sách cơ bản của khoa học, toán học và triết học, bao gồm Phê bình lý luận thuần túy của Immanuel Kant và cuốn Cơ bản của Euclid (sau này Einstein gọi là “sách hình học nhỏ thần thánh”).[18] Talmud là một sinh viên y khoa Do thái nghèo đến từ Ba Lan. Cộng đồng người Do thái sắp xếp cho Talmud ăn cùng với Einstein vào các ngày thứ Năm trong tuần trong vòng sáu năm. Trong thời gian này Talmud đã tận tâm hướng dẫn Einstein đến với nhiều chủ đề thú vị.[fn 1]
Năm 1894, công ty của bố cậu bị phá sản do ngành công nghiệp điện thay thế dòng điện một chiều (DC) bằng dòng xoay chiều (AC). Để tìm lĩnh vực kinh doanh mới, gia đình Einstein chuyển đến Ý, ban đầu đến Milan và vài tháng sau đó là Pavia. Khi gia đình chuyển đến Pavia, Einstein ở lại München để hoàn thành việc học tại Luitpold Gymnasium. Bố Einstein dự định muốn anh theo học kĩ thuật điện, nhưng Einstein tranh cãi với hội đồng giáo dục với việc học và dạy giáo điều tại đây. Sau này ông viết rằng tinh thần học và tính sáng tạo bị mất đi trong sự giới hạn của phương pháp dạy và học thuộc lòng. Cuối tháng 12 năm 1894, anh tìm cách quay trở lại với gia đình ở Pavia, với thuyết phục nhà trường cho anh nghỉ bằng cách dùng nhận xét của bác sĩ về sức khỏe của anh.[20] Trong thời gian ở Ý, Einstein đã viết một tiểu luận khoa học ngắn với nhan đề, “Khảo cứu trạng thái Ether trong từ trường”.[21][22]
Cuối hè 1895, ở tuổi 16, Einstein tham gia thi tuyển vào trường Bách khoa liên bang Thụy Sĩ ở Zurich (tên Thụy Sĩ sau này Eidgenössische Polytechnische Schule). Ông không trúng tuyển do không đạt điểm chuẩn ở một số môn, mặc dù có điểm cao ở môn Vật lý và Toán học.[23] Theo lời khuyên của hiệu trưởng trường ETH, anh tiếp tục học trường thành bang Aargau ở Aarau, Thụy Sĩ, năm 1895-96 để hoàn thiện bậc học phổ thông. Trong khi ở trọ với gia đình giáo sư Jost Winteler, anh đã yêu cô con gái của gia đình tên là Marie. (Em gái Maja Einstein sau này lấy người con trai của Wintelet, Paul)[24] Tháng 1 năm 1896, với sự đồng ý của bố anh, Einstein đã từ bỏ quyền công dân của vương quốc Württemberg để tránh nghĩa vụ quân sự.[25] (Ông trở thành công dân Thụy Sĩ 5 năm sau, tháng 2 năm 1901.)[26] Tháng 9 năm 1896, ông tốt nghiệp bậc học phổ thông của Thụy Sĩ với điểm số cao (bao gồm điểm 6 trong hai môn Vật lý và Toán học, theo thang điểm 1-6),[27] và ở tuổi 17, anh đỗ vào chương trình cử nhân sư phạm Vật lý và Toán học của trường ETH Zürich. Marie Winteler chuyển đến làm giáo viên ở Olsberg, Thụy Sĩ.
Trong cùng năm, Mileva Marić, người vợ tương lai của Einstein, cũng vào trường ETH để học làm giáo viên Toán và Vật lý, và là thiếu nữ duy nhất trong 6 sinh viên của lớp học. Tình bạn của hai người phát triển thành tình yêu trong các năm sau đó và họ đã cùng nhau đọc các sách Vật lý mà Einstein đang quan tâm đến. Năm 1900, Einstein tốt nghiệp cử nhân sư phạm ETH Zurich, nhưng Marić lại trượt bài thi do có điểm kém trong chuyên đề Lý thuyết hàm.[28] Đã có những ý kiến cho rằng Mileva Marić hỗ trợ cùng Einstein trong các bài báo đột phá năm 1905,[29][30] nhưng các nhà lịch sử Vật lý học không tìm thấy một chứng cứ nào cho những đóng góp của bà.[31][32][33][34]
Gia đình
Cuối tháng 1 năm 1902, khi Einstein đang ở Berne, Marić đã sinh con gái đầu lòng tên là Lieserl theo như thư từ trao đổi giữa hai người; lúc đó Mileva đang ở nhà bố mẹ đẻ mình sống ở Novi Sad.[35] Tên đầy đủ của con họ không được biết, và Lieserl sống đến khoảng sau năm 1903 do có thể bị sốt ban đỏ.[36]
Einstein và Marić cưới tháng 1 năm 1903. Tháng 5 năm 1904, đứa con trai đầu tiên của hai người, Hans Albert Einstein, sinh ra tại Bern, Thụy Sĩ. Con trai thứ hai của họ, Eduard Einstein sinh tại Zurich vào tháng 6 năm 1910. Năm 1914, Einstein dời đến Berlin, trong khi vợ ông ở lại Zurich cùng với các con. Marić và Einstein ly dị ngày 14 tháng 2 năm 1919, sau khi sống ly thân trong 5 năm.
Einstein lấy người em họ hàng người Đức Elsa Löwenthal (née Einstein) vào ngày 2 tháng 6 năm 1919, sau khi có mối quan hệ với cô từ 1912. Hai người không có con chung và hai cô con gái riêng của Elsa được Albert đối xử như con đẻ, lấy họ của ông: Ilse Einstein và Margot Einstein.[37] Năm 1935, Elsa Einstein được chẩn đoán các bệnh liên quan đến tim và thận; bà qua đời tháng 12 năm 1936.[38]
Cục bằng sáng chế
Sau khi tốt nghiệp đại học, Einstein đã mất gần hai năm khó khăn trong việc tìm một vị trí giảng dạy, cuối cùng bố của Marcel Grossmann nhờ quen biết với giám đốc cục sáng chế đã giúp ông làm việc tại Bern, ở Cục liên bang về sở hữu trí tuệ, cục bằng sáng chế, với vị trí là người kiểm tra các bằng sáng chế.[39] Ông đánh giá các sáng chế cho các thiết bị điện từ. Năm 1903, ông vào biên chế lâu năm của Cục sáng chế Thụy Sĩ, mặc dù ông đã vượt qua sự đề bạt cho đến khi ông “nắm bắt được công nghệ máy móc”.[40]
Nhiều công việc của ông tại Cục liên quan đến câu hỏi về sự truyền tín hiệu điện và sự đồng bộ hóa cơ-điện của đồng hồ, hai vấn đề kĩ thuật xuất hiện rõ ràng trong các thí nghiệm tưởng tượng mà đã dẫn Einstein tới kết luận quan trọng về bản chất của ánh sáng và sự liên hệ mật thiết giữa không gian và thời gian.[41]
Cùng với những người bạn ông gặp ở Bern, Einstein đã thành lập một câu lạc bộ thảo luận hàng tuần về khoa học và triết học, mà ông nói đùa là “Viện hàn lâm Olympia”. Họ thảo luận về các nghiên cứu của Henri Poincaré, Ernst Mach, and David Hume, mà sau này ảnh hưởng đến sự nghiệp khoa học và quan điểm triết học của Einstein.
Sự nghiệp hàn lâm
Năm 1901, ông công bố bài báo “Folgerungen aus den Kapillarität Erscheinungen” (“Các kết luận về hiện tượng mao dẫn”) trên tạp chí nổi tiếng thời đó Annalen der Physik.[42] Ngày 30 tháng 4 năm 1905, Einstein hoàn thành luận án tiến sỹ của mình dưới sự hướng dẫn của giáo sư vật lý thực nghiệm Alfred Kleiner. Einstein được trao bằng tiến sỹ tại Đại học Zurich. Luận án của ông có tiêu đề “Một cách mới xác định kích thước phân tử”.[43][44] Trong cùng năm, mà ngày nay các nhà khoa học gọi là Năm kỳ diệu của Einstein, ông công bố bốn bài báo đột phá, về hiệu ứng quang điện, về chuyển động Brown, thuyết tương đối hẹp, và sự tương đương khối lượng và năng lượng (E=mc2), khiến ông được chú ý tới trong giới hàn lâm trên toàn thế giới.
Năm 1908, giới khoa học coi ông là nhà khoa học hàng đầu, và Đại học Bern mời ông về làm giảng viên của trường. Các năm sau, ông viết đơn thôi việc tại cục bằng sáng chế và cũng thôi vị trí giảng viên để đảm nhiệm chức danh Privatdozent về vật lý [45] tại Đại học Zurich. Ông trở thành giáo sư thực thụ tại Đại học Karl-Ferdinand (nay là Đại học Charles) ở Praha năm 1911. Năm 1914, ông trở lại Đức sau khi được bổ nhiệm làm giám đốc của Viện Kaiser Wilhelm về vật lý (1914–1932)[46] và giáo sư tại Đại học Humboldt, Berlin, với một điều khoản đặc biệt trong bản hợp đồng cho phép ông được tự do trước những nghĩa vụ giảng dạy. Ông trở thành thành viên của Viện hàn lâm khoa học Phổ. Năm 1916, Einstein được bổ nhiệm làm chủ tịch của Hội Vật lý Đức (1916–1918).[47][48]
Trong năm 1911, dựa trên những suy luận có từ năm 1907 về nhu cầu mở rộng thuyết tương đối đặc biệt, ông đã tìm ra hiện tượng dịch chuyển đỏ do hấp dẫn và tính toán độ lệch của tia sáng phát ra từ ngôi sao ở xa sẽ bị lệch bởi trường hấp dẫn của Mặt Trời. Tuy vậy giá trị tiên đoán chỉ bằng một nửa so với giá trị chính xác sau khi ông tìm ra được phương trình trung tâm cho thuyết tương đối tổng quát (1915). Tiên đoán này được xác nhận bởi đoàn thám hiểm người Anh dẫn đầu bởi Sir Arthur Eddington trong quá trình theo dõi nhật thực vào ngày 29 tháng 5, 1919. Các tờ báo quốc tế nhanh chóng đăng tải sự kiện này và Einstein trở nên nổi tiếng toàn thế giới. Ngày 7 tháng 11 năm 1919, tờ báo tin tức hàng đầu của Anh The Times in một dòng chữ tựa đề trên trang nhất viết là: “Cách mạng trong Khoa học – Lý thuyết mới về Vũ trụ – Các tư tưởng của Newton đã bị lật nhào”.[49] Sau đó, rất nhiều câu hỏi xuất hiện liệu các đo đạc có đủ chính xác để công nhận tiên đoán. Cuối cùng thì những dữ liệu đo đạc của Eddington là đủ tin cậy và đoàn thám hiểm của ông thực sự đã xác nhận tiên đoán của Einstein.[50]
Năm 1921, Einstein nhận giải Nobel Vật lý. Do thuyết tương đối hẹp vẫn còn đang tranh cãi, nên hội đồng giải Nobel đã trao giải cho ông vì những giải thích về hiện tượng quang điện và các đóng góp cho vật lý. Ông nhận huy chương Copley từ Hội Hoàng gia năm 1925.
Thăm nước ngoài
Einstein đến thành phố New York lần đầu tiên vào ngày 2 tháng 4 năm 1921, ở đây ông nhận được sự chào đón trọng thể từ thị trưởng thành phố, sau đó là ba tuần thuyết giảng và gặp gỡ nhiều người. Ông trình bày một số bài giảng ở Đại học Columbia và Đại học Princeton, và ở Washington ông đi cùng các đại diện của Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia đến thăm Nhà Trắng. Trên đường trở lại châu Âu, nhà triết học và chính khách người Anh Viscount Haldane đã mời ông tới London, nơi ông gặp một vài nhà khoa học nổi tiếng, các chính trị gia và thực hiện một bài giảng ở trường King’s College.[51]
Năm 1922, ông đi du lịch và có các buổi phát biểu trong chuyến hành trình 6 tháng đến các nước châu Á và Palestine. Các nước ông đến bao gồm Singapore, Ceylon, và Nhật Bản, ở đây ông có một loạt các bài giảng trước hàng nghìn người dân Nhật Bản. Ông cũng đến diện kiến Nhật hoàng và hoàng hậu tại Hoàng cung. Einstein sau đó thể hiện sự cảm mến cho người Nhật trong bức thư ông gửi cho con trai mình:[52] “Trong những người mà bố đã gặp, bố thích người Nhật Bản nhất, vì họ là những người khiêm tốn, thông minh, chu đáo, và quan tâm tới nghệ thuật.”[52] Trên hành trình đến Nhật Bản, ông cũng ghé thăm Hồng Kông và Thượng Hải, đồng thời nghe tin mình được trao giải Nobel Vật lý.[8]
Khi trở về, ông cũng ghé qua Palestine, lúc đó là thưộc địa của Anh, trong 12 ngày và cũng là lần viếng thăm vùng Trung Đông duy nhất của ông. Nhà tiểu sử Walter Isaacson viết “Ông được chào đón bởi sự long trọng của người Anh, như là một chính khách cao cấp hơn là một nhà vật lý lý thuyết”, bao gồm một loạt pháo hiệu chào mừng khi đến dinh thự của toàn quyền Anh, Sir Herbert Samuel. Trong buổi tiếp, một đám đông đã vây quanh dinh thự để muốn trông thấy và nghe Einstein nói chuyện. Khi nói chuyện với thính giả, ông thể hiện niềm hạnh phúc của mình:
“Đây là một trong những ngày ý nghĩa lớn nhất của cuộc đời tôi. Trước đây, tôi luôn cảm thấy tiếc nuối một cái gì đó trong bản sắc người Do Thái, và đó là sự lãng quên trong chính mỗi người. Ngày nay, tôi thật hạnh phúc khi chứng kiến người Do Thái đã nhận ra chính họ và hành động để cho thế giới công nhận như là một dân tộc”.[53]
Ông cũng thăm Tây Ban Nha trước khi trở lại Đức. Năm 1925, ông viếng thăm Nam Mỹ bao gồm các thành phố Buenos Aires, Rio de Janeiro và Montevideo. Năm 1929, ông thăm Bỉ và hoàng gia Bỉ.[8]
Định cư tại Mỹ
Tháng 2 năm 1933 khi đang thăm Hoa Kỳ, Einstein đã quyết định không trở lại nước Đức do Đảng Quốc xã lên nắm chính quyền.[54][55] Trước đó ông đến thăm các trường đại học Hoa Kỳ vào đầu năm 1933 và chuyến thăm lần thứ ba kéo dài hai tháng ở Viện Công nghệ California ở Pasadena. Ông và bà Elsa trở lại Bỉ bằng tàu biển vào cuối tháng 3. Trong chuyến hành trình, ông nghe được tin ngôi nhà và chiếc thuyền buồm của ông ở Berlin đã bị đảng viên Quốc xã tịch thu. Khi đến Antwerp vào ngày 28 tháng 3, ông đã đến lãnh sự quán Đức và chính thức từ bỏ quyền công dân Đức.[53]
Đầu tháng 4, ông biết rằng chính phủ Đức đã thông qua các đạo luật ngăn cấm người Do Thái giữ bất kỳ một vị trí công việc nào, kể cả giảng viên tại các trường đại học.[53] Một tháng sau, các công trình nghiên cứu của Einstein nằm trong mục tiêu đốt phát của đảng Quốc xã, và bộ trưởng tuyên truyền Joseph Goebbels công bố, “Tri thức Do Thái đã bị tiêu diệt.”[53]
Ông tạm trú tại Bỉ trong một vài tháng, trước khi chuyển sang Anh.[56][57] Trong một bức thư gửi cho người bạn, nhà vật lý Max Born, người cũng đã rời nước Đức và sống tại Anh, Einstein viết, “… Tôi phải thừa nhận rằng mức độ tàn bạo và hèn nhát đến một cách thật bất ngờ.”[53]
Tháng 10 năm 1933 ông cùng bà Elsa quay trở lại Hoa Kỳ và đảm nhiệm chức vụ giáo sư tại Viện nghiên cứu cao cấp Princeton tại Princeton, New Jersey. Trường này ban đầu đề nghị ông làm việc trong thời gian một năm rưỡi.[58][59] Ông vẫn chưa quyết định về tương lai của mình (có nhiều trường đại học ở châu Âu mời ông về nghiên cứu, bao gồm Oxford), nhưng đến năm 1935 ông quyết định ở lại Hoa Kỳ.[60][61] Ông làm việc tại viện Princeton cho tới khi qua đời năm 1955.[62] Tại viện cũng có các nhà khoa học lớn khác như John von Neumann và Kurt Gödel), ông cũng sớm hình thành tình bạn thân thiết với Gödel. Họ hay đi dạo những quãng đường dài để cùng nhau thảo luận về công việc của nhau. Trợ lý cuối cùng của ông là nhà vật lý Bruria Kaufman. Ở viện nghiên cứu, ông tiếp tục tập trung phát triển thuyết trường thống nhất nhưng đã không thành công. Einstein cũng luôn luôn giữ vững quan điểm của mình khi cho rằng lý thuyết cơ học lượng tử là không đầy đủ và không chứa yếu tố bất định. “Chúa không chơi xúc xắc”.[8]
Chiến tranh thế giới lần II và dự án Manhattan
Năm 1939, một nhóm các nhà khoa học Hungari bao gồm nhà vật lý Leó Szilárd cố gắng cảnh báo Washington rằng phe Quốc xã đang thực hiện các nghiên cứu bom nguyên tử. Tuy vậy cảnh báo của nhóm đã không gây sự chú ý đến giới chính trị.[63] Einstein và Szilárd, cùng những nhà khoa học tị nạn khác gồm Edward Teller và Eugene Wigner, “coi họ có trách nhiệm để cảnh báo người Mỹ khả năng của các nhà khoa học Đức có thể chế tạo thành công bom nguyên tử, và rằng Hitler rất quyết tâm có được vũ khí như vậy.”[52][64] Hè 1939, vài tháng trước khi nổ ra chiến tranh ở châu Âu, Szilárd khuyên mời Einstein ký vào một bức thư gửi đến tổng thống Franklin D. Roosevelt để cảnh báo ông về khả năng này. Bức thư cũng đề cập đến chính phủ Hoa Kỳ nên chú ý tới và tham gia trực tiếp vào nghiên cứu uranium cũng như chuỗi phản ứng dây chuyền.
Bức thư được cho là có khả năng “thúc đẩy chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận cho phép nghiên cứu vũ khí hạt nhân”.[65] Tổng thống Roosevelt không thể gánh rủi ro khi Hitler sở hữu bom nguyên tử đầu tiên. Cùng với lá thư và buổi gặp của Einstein với Roosevelt, Hoa Kỳ tham gia vào cuộc “chạy đua” phát triển bom, tập trung vào đây rất nhiều nguồn lực tài chính, vật liệu, cơ sở cũng như các nhà khoa học lớn trong dự án Manhattan. Cuối cùng Hoa Kỳ trở thành nước duy nhất sở hữu bom nguyên tử trong thời gian chiến tranh thế giới lần II.
Đối với Einstein, “chiến tranh là căn bệnh… [và] ông kêu gọi chống lại chiến tranh.” Nhưng năm 1933, sau khi Hitler trở thành lãnh đạo tối cao ở Đức, “ông đã khẩn thiết kêu gọi các nước phương Tây chuẩn bị chống lại sự tấn công của nước Đức.”[66]:110 Năm 1954, một năm trước khi qua đời, Einstein kể cho người bạn già của mình, Linus Pauling, “Tôi đã gây ra một trong những lỗi lầm lớn nhất trong cuộc đời — đó là khi tôi ký vào bức thư gửi tổng thống Roosevelt khuyến nghị nên chế tạo bom nguyên tử; với một số biện hộ — sẽ nguy hiểm hiểm nếu người Đức có được nó…”[67]
Công dân Mỹ
Einstein trở thành công dân Mỹ năm 1940 sau khi quyết định nghiên cứu ở Princeton, ông thể hiện sự đánh giá cao của mình về “chế độ nhân tài” trong văn hóa Mỹ so với châu Âu. Theo Isaacson, ông nhận ra “quyền cá nhân về suy nghĩ và phát ngôn thứ mà họ thích”, mà không bị rào cản xã hội, và hệ quả là, từng cá nhân được “khuyến khích” trở lên sáng tạo hơn, một đặc điểm mà họ thừa hưởng từ nền giáo dục cơ sở. Einstein viết:
Sự mới mẻ đến với đất nước này là đặc điểm dân chủ trong nhân dân. Không ai hạ mình trước người khác hay tầng lớp khác… Thanh niên Mỹ có may mắn không phải đối mặt với các rắc rối từ những truyền thống lỗi thời.[53]
Là thành viên của “Hiệp hội quốc gia vì sự tiến bộ của người da màu” (NAACP) tại Princeton đấu tranh cho quyền công dân của người Mỹ gốc Phi, Einstein có trao đổi thư từ với nhà hoạt động dân chủ W. E. B. Du Bois, và năm 1946 Einstein gọi chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Hoa Kỳ là “thứ bệnh tồi tệ nhất”.[68] Ông nói, “Định kiến phân biệt chủng tộc không may đã trở thành truyền thống ở Mỹ lan truyền qua từng thế hệ mà không bị phê phán. Chỉ có thể khắc phục định kiến này bằng giáo dục và giác ngộ”.[69]
Những năm cuối đời Einstein chuyển sang lối sống chay tịnh,[70] với lý giải “người ăn chay sống bằng hiệu ứng vật lý thuần túy trên khí chất cơ thể sẽ ảnh hưởng có lợi nhất đến đa số nhân loại”.[71]
Sau khi Chaim Weizmann, vị tổng thống đầu tiên của Israel, qua đời tháng 11 năm 1952, thủ tướng David Ben-Gurion đã đề xuất Einstein làm tổng thống kế nhiệm, chủ yếu với vai trò danh dự.[72] Đại sứ Israel ở Washington, Abba Eban, giải thích lời đề nghị “thể hiện sự tôn trọng sâu sắc nhất của người dân Do Thái đối với ông”.[52] Tuy thế Einstein đã từ chối lời đề nghị trong sự “xúc động sâu sắc”:[73]
“ | Kính gửi ngài đại sứ. Tôi rất cảm động về lời đề nghị trở thành tổng thống Israel nhân danh Thủ tướng Ben Gourion, nhưng cũng rất buồn vì phải từ chối lời đề nghị này. Do cả cuộc đời của tôi chỉ biết cống hiến cho khoa học nên tôi cho rằng mình không đủ tố chất và kinh nghiệm để điều hành công việc của một quốc gia. Hơn nữa, tuổi tác và sức khỏe là rào cản vô hình khó có thể giúp tôi hoàn thành một nhiệm vụ quan trọng như vậy.Thế nhưng cho dù có ở bất cứ nơi đâu, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tôi vẫn cố gắng làm tốt nhiệm vụ của một người Do Thái. Ước nguyện của tôi là muốn thấy một Nhà nước Do Thái chung sống hòa bình với các dân tộc Arập khác. Tôi hy vọng đất nước Israel sẽ tìm được một người kế thừa xứng đáng cho cố Tổng thống Weizmann. [52][72][74] | ” |
Qua đời
Vào ngày 17 tháng 4 năm 1955, Albert Einstein bị chảy máu trong do vỡ động mạch chủ, mà trước đó đã được phẫu thuật bởi tiến sĩ Rudolph Nissen năm 1948.[75] Ông đã viết nháp chuẩn bị cho bài phát biểu trên truyền hình kỷ niệm ngày độc lập thứ bảy của nhà nước Israel khi trên đường đến bệnh viện, nhưng ông đã không kịp hoàn thành nó.[76] Einstein đã từ chối phẫu thuật, ông nói: “Tôi muốn đi khi tôi muốn. Thật vô vị để duy trì cuộc sống giả tạo. Tôi đã hoàn thành chia sẻ của mình, đã đến lúc phải đi. Tôi sẽ ra đi trong thanh thản.”[77] Ông mất trong bệnh viện Princeton vào sáng sớm hôm sau ở tuổi 76, nơi ông vẫn tiếp tục làm việc đến hơi thở cuối cùng. Thi thể Einstein được hỏa táng và tro được rải khắp nơi quanh vùng của Viện nghiên cứu cao cấp, Princeton, New Jersey.[78][79]
Trong quá trình khám nghiệm tử thi, nhà nghiên cứu bệnh học thuộc bệnh viện Princeton, Thomas Stoltz Harvey đã mổ lấy não của Einstein để bảo quản, mà không được sự cho phép của gia đình ông, với hy vọng rằng khoa học thần kinh trong tương lai có thể khám phá ra điều làm Einstein trở nên thông minh.[80]
Nhận xét về Einstein
Trong bài điếu văn, nhà vật lý hạt nhân Robert Oppenheimer tổng kết lại về Einstein: “Ông hầu như không có bản chất phức tạp và sự trần tục… Luôn luôn ở trong ông là sự thuần khiết tuyệt vời lúc như đứa trẻ lúc thì uyên thâm bướng bỉnh.”[66]
Tại phần nói đầu của cuốn sách “Subtle is the Lord…” nhà vật lý và lịch sử khoa học Abraham Pais viết: Nếu được nói một câu ngắn gọn về tiểu sử Einstein, tôi có thể nói rằng “ông là con người tự do nhất mà tôi đã từng biết”, và một câu về sự nghiệp khoa học của ông, tôi có thể viết “giỏi hơn bất kỳ ai trước hoặc sau ông, ông biết cách phát minh ra các nguyên lý bất biến và biết cách sử dụng các định luật thống kê”.[81]
Sự nghiệp khoa học
Trong suốt cuộc đời ông, Einstein xuất bản rất nhiều sách và hàng trăm bài báo. Phần lớn về vật lý, nhưng một số ít bày tỏ quan điểm chính trị cánh tả về chủ nghĩa hòa bình, chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa phục quốc Do thái.[10][12] Ngoài các nghiên cứu của cá nhân ông, ông còn hợp tác với nhiều nhà khoa học khác về các lĩnh vực khoa học như: Thống kê Bose–Einstein, máy làm lạnh Einstein và nhiều nghiên cứu khác.[82]
Vật lý những năm 1900
Các bài báo ban đầu của Einstein bắt nguồn từ sự cố gắng chứng minh rằng nguyên tử tồn tại và có kích thước hữu hạn khác không.[83] Tại thời điểm ông viết bài báo đầu tiên năm 1902, các nhà vật lý vẫn chưa chấp nhận hoàn toàn rằng nguyên tử tồn tại thực sự, mặc dù các nhà hóa học đã có những chứng cứ cụ thể từ các công trình của Antoine Lavoisier trước một thế kỷ. Lý do các nhà vật lý vẫn nghi ngờ vì không có một lý thuyết nào ở thế kỷ 19 có thể giải thích đầy đủ tính chất của vật chất từ các tính chất của nguyên tử.
Ludwig Boltzmann là nhà vật lý thống kê hàng đầu của thế kỷ 19, người đã đấu tranh nhiều năm để thuyết phục cộng đồng khoa học chấp nhận nguyên tử tồn tại. Boltzmann đã đưa ra cách giải thích các định luật nhiệt động học, gợi ý rằng định luật tăng entropy có tính thống kê. Theo cách suy nghĩ của Boltzmann, entropy là logarit của số các trạng thái một hệ có được cấu hình bên trong. Lý do entropy tăng chỉ bởi vì xác suất để một hệ từ trạng thái đặc biệt với chỉ vài cấu hình bên trong chuyển sang hệ có nhiều trạng thái hơn là lớn. Trong khi cách giải thích thống kê của Boltzmann về entropy được công nhận rộng rãi ngày nay, và Einstein đã tin vào điều này, tại thời điểm đầu thế kỷ 20 nó ít được mọi người để ý đến.
Ý tưởng thống kê được áp dụng thành công nhất khi giải thích tính chất của chất khí. James Clerk Maxwell, một nhà vật lý học hàng đầu khác, đã tìm ra định luật phân bố vận tốc của các nguyên tử trong chất khí, và ông đi đến một kết luận ngạc nhiên là tính nhớt của chất khí có thể độc lập với mật độ của nó. Về mặt trực giác, ma sát trong chất khí dường như bằng không khi mật độ đi về không, nhưng điều này không phải vậy, bởi vì đường di chuyển tự do trung bình của các nguyên tử trở lên rộng hơn tại mật độ thấp. Những thí nghiệm tiếp sau của Maxwell và vợ ông xác nhận tiên đoán kì lạ này. Các thí nghiệm khác trên chất khí và chân không, sử dụng một trống quay tách, cho thấy các nguyên tử trong chất khí có các vận tốc phân bố tuân theo định luật phân bố của Maxwell.
Bên cạnh những thành công này, cũng có những mâu thuẫn. Maxwell chú ý rằng tại nhiệt độ thấp, lý thuyết nguyên tử tiên đoán nhiệt dung riêng quá lớn. Trong cơ học thống kê cổ điển, mọi dao động điều hòa đơn giản (chuyển động kiểu lò xo) có nhiệt năng kBT ở nhiệt độ trung bình T, do vậy nhiệt dung riêng của mọi lò xo là hằng số BoltzmannkB. Một chất rắn đơn nguyên tử với Nnguyên tử có thể được xem là N quả cầu nhỏ tương ứng với N nguyên tử gắn vào mỗi vị trí nút mạng với 3N lò xo, do vậy nhiệt dung riêng của chất rắn là 3NkB, một kết quả của định luật Dulong–Petit. Định luật đúng cho nhiệt độ phòng, nhưng không đúng đối với nhiệt độ lạnh hơn. Tại gần 0K, nhiệt dung riêng bằng không.
Tương tự, một chất khí cấu thành từ phân tử hai nguyên tử có thể được xem là hai quả cầu gắn với nhau bởi một lò xo. Lò xo này có năng lượng kBT tại nhiệt độ cao, và cộng thêm vào một lượng nhiệt kB cho nhiệt dung riêng ở nhiệt độ khoảng 1000 độ, nhưng tại nhiệt độ thấp lượng nhiệt thêm này sẽ biến mất. Tại 0 độ, mọi nhiệt dung riêng do sự quay và rung động đều biến mất. Kết quả này mâu thuẫn với vật lý cổ điển.
Những mâu thuẫn rõ ràng nhất là trong lý thuyết về sóng ánh sáng. Các sóng liên tục trong một hộp được coi như vô số lò xo chuyển động, mỗi cái tương ứng với sóng đứng. Mỗi sóng đứng có một nhiệt dung riêng xác định kB, do đó tổng nhiệt dung riêng của sóng liên tục giống ánh sáng trở thành vô hạn trong cơ học cổ điển. Điều này rõ ràng là vi phạm đối với định luật bảo toàn năng lượng.
Những mâu thuẫn này dẫn đến nhiều người nói rằng nguyên tử không có tính vật lý, mà là toán học. Đáng chú ý trong số những người hoài nghi là Ernst Mach, người theo triết học thực chứng mà đã dẫn ông đến nhu cầu là nếu nguyên tử tồn tại, thì nó có thể nhìn thấy được.[84] Mach tin rằng những nguyên tử này là một giả tưởng hữu dụng, mà trong thực tế chúng được giả sử là nhỏ vô hạn, do vậy số Avogadro là vô hạn, hoặc rất lớn để coi như vô hạn, và kB là vô cùng nhỏ. Có những thí nghiệm có thể giải thích được bằng lý thuyết nguyên tử, nhưng lại có những thí nghiệm thì không thể giải thích được, và nó vẫn luôn là thế.
Einstein đã phản đối quan điểm này. Suốt sự nghiệp của mình, ông là một nhà duy thực. Ông tin rằng một lý thuyết phù hợp duy nhất có thể giải thích được mọi quan sát, lý thuyết này sẽ là một mô tả về cái thực sự đã diễn ra, và những điều ẩn sau nó. Từ đó ông cho rằng quan điểm về nguyên tử là đúng. Điều này dẫn ông đầu tiên đến với nhiệt động học, rồi đến vật lý thống kê, và lý thuyết nhiệt dung riêng của chất rắn.
Năm 1905, trong khi làm việc ở phòng cấp phát bằng sáng chế, tạp chí tiếng Đức hàng đầu Annalen der Physik đã xuất bản bốn bài báo của Einstein. Bốn bài báo sau này được coi là một cuộc cách mạng trong vật lý, và năm 1905 trở thành “năm kỳ diệu của Einstein”.
Ngày 30 tháng Tư năm 1905, Einstein hoàn thành luận án của mình dưới sự hướng dẫn của Alfred Kleiner, giáo sư vật lý thực nghiệm. Einstein được trao bằng tiến sĩ ở Đại học Zurich. Luận án của ông với tên “Một cách mới xác định kích thước phân tử”.[43]
Thăng giáng nhiệt động và vật lý thống kê
Các bài báo sớm nhất của Einstein đề cập đến nhiệt động học. Trong đó ông cố gắng giải thích các hiện tượng từ quan điểm thống kê của nguyên tử.[83]
Nghiên cứu của ông trong năm 1903 và 1904 tập trung vào hiệu ứng kích thước nguyên tử hữu hạn tác động đến hiện tượng tán xạ. Giống như nghiên cứu của Maxwell, sự hữu hạn của kích thước nguyên tử dẫn đến các hiệu ứng có thể quan sát được. Nghiên cứu này nằm trong vấn đề chính của vật lý ở thời đại ông đó là tìm cách quan sát và chứng minh nguyên tử tồn tại. Chúng cũng là nội dung chính trong luận án tiến sĩ của ông.[85]
Kết quả chính đầu tiên của ông trong lĩnh vực này là lý thuyết thăng giáng nhiệt động. Khi ở trạng thái cân bằng, một hệ có entropy cực đại, và theo cách hiểu của thống kê, nó chỉ có thăng giáng nhỏ. Einstein chỉ ra rằng thăng giáng thống kê của vật thể vĩ mô, có thể được hoàn toàn xác định bởi đạo hàm bậc hai của entropy.
Nghiên cứu cách kiểm tra quan hệ này, ông đã có đột phá lớn năm 1905. Ông nhận ra rằng lý thuyết này tiên đoán một hiệu ứng quan sát được cho một vật có thể di chuyển xung quanh tự do khi nằm trong môi trường nguyên tử hoạt động. Vì vật có vận tốc ngẫu nhiên do vậy nó có thể di chuyển ngẫu nhiên, giống như một nguyên tử đơn lẻ. Động năng trung bình của vật này là , và thời gian giảm thăng giáng có thể được xác định hoàn toàn bởi định luật ma sát.
Định luật ma sát cho quả cầu nhỏ trong chất lỏng nhớt giống nước được khám phá bởi George Stokes. Ông chỉ ra đối với vận tốc nhỏ, lực ma sát tỉ lệ với vận tốc, và bán kính của hạt. Quan hệ này được sử dụng để tính toán hạt chuyển động được một quãng đường bao nhiêu trong nước do chuyển động nhiệt ngẫu nhiên của nó, và Einstein chú ý là với những quả cầu kích thước khoảng một micron, chúng có thể di chuyển với vận tốc vài micron trong một giây. Chuyển động này đã được quan sát bởi nhà thực vật học Robert Brown dưới kính hiển vi, hay chuyển động Brown. Einstein đã đồng nhất chuyển động này với tiên đoán của lý thuyết ông đưa ra. Từ thăng giáng gây ra chuyển động Brown cũng chính là thăng giáng vận tốc của các nguyên tử, nên việc đo chính xác chuyển động Brown sử dụng lý thuyết của Einstein đã cho thấy hằng số Boltzmann là khác không và cho phép đo được số Avogadro.
Các thí nghiệm này được thực hiện vài năm sau đó, cho một ước lượng thô về số Avogadro phù hợp với ước lượng chính xác hơn của lý thuyết vật đen của Max Planck, và thí nghiệm đo điện tích của Robert Millikan.[86] Không như các phương pháp khác, đòi hỏi của Einstein cần rất ít các điều giả sử lý thuyết hay vật lý mới, vì đã trực tiếp đo chuyển động của nguyên tử qua các hạt nhìn thấy được.
Lý thuyết của Einstein về chuyển động Brown là bài báo đầu tiên về lĩnh vực vật lý thống kê. Nó thiết lập mối liên hệ giữa thăng giáng nhiệt động và sự tiêu tán năng lượng. Điều này được Einstein chỉ ra là đúng đối với thăng giáng độc lập thời gian, nhưng trong bài báo về chuyển động Brown ông chỉ ra rằng tỉ số nghỉ động học (dynamical relaxation rates) được tính toán từ cơ học cổ điển có thể được dùng là tỉ số nghỉ thống kê (statistical relaxation rates) để dẫn ra định luật khuếch tán động học. Những quan hệ này gọi là phương trình Einstein trong lý thuyết động học phân tử.
Lý thuyết về chuyển động Brown đã mở đầu năm kỳ diệu của Einstein, nhưng nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thuyết phục các nhà vật lý chấp nhận thuyết nguyên tử.[83]
Thí nghiệm tưởng tượng và nguyên lý vật lý tiên nghiệm
Suy nghĩ của Einstein phải trải qua một sự thay đổi vào năm 1905. Ông đã hiểu rằng các tính chất lượng tử của ánh sáng có nghĩa là các phương trình Maxwell chỉ là lý thuyết xấp xỉ. Ông biết rằng các định luật mới có thể thay thế chúng, nhưng ông chưa biết làm thế nào để tìm ra các định luật này. Ông cảm thấy rằng ước đoán các mối quan hệ hình thức sẽ không đi đến đâu.
Thay vào đó ông quyết định tập trung vào các nguyên lý tiên nghiệm, chúng nói rằng các định luật vật lý có thể được hiểu là thỏa mãn trong những trường hợp rất rộng thậm chí trong những phạm vi mà chúng chưa từng được áp dụng hay kiểm nghiệm. Một ví dụ được các nhà vật lý chấp nhận rộng rãi của nguyên lý tiên nghiệm đó là tính bất biến quay (hay tính đối xứng quay, nói rằng các định luật vật lý là bất biến nếu chúng ta quay toàn bộ không gian chứa hệ theo một hướng khác). Nếu một lực mới được khám phá trong vật lý, lực này có thể lập tức được hiểu nó có tính bất biến quay mà không cần phải suy xét. Einstein đã hướng tìm các nguyên lý mới theo phương pháp bất biến này, để tìm ra các ý tưởng vật lý mới. Khi các nguyên lý cần tìm đã đủ, thì vật lý mới sẽ là lý thuyết phù hợp đơn giản nhất với các nguyên lý và các định luật đã được biết trước đó.
Nguyên lý tiên nghiệm tổng quát đầu tiên do Einstein tìm ra là nguyên lý tương đối,[87] theo đó chuyển động tịnh tiến đều không phân biệt được với trạng thái đứng im. Nguyên lý này được Hermann Minkowski mở rộng cho cả tính bất biến quay từ không gian vào không-thời gian. Những nguyên lý khác giả thiết bởi Einstein và sau đó mới được chứng minh là nguyên lý tương đương và nguyên lý bất biến đoạn nhiệt của số lượng tử. Một nguyên lý tổng quát khác của Einstein, còn gọi là nguyên lý Mach, vẫn còn là vấn đề đang được tranh luận giữa các nhà khoa học.
Việc sử dụng các nguyên lý tiên nghiệm là một phương pháp đặc biệt độc đáo trong các nghiên cứu đầu tiên của Einstein, và nó trở thành một công cụ tiêu chuẩn trong vật lý hiện đại.
Lý thuyết tương đối hẹp
Bài báo năm 1905 của ông về điện động lực học các vật thể chuyển động giới thiệu ra lý thuyết tương đối hẹp, cho thấy tốc độ ánh sáng độc lập với trạng thái chuyển động của quan sát viên đã đòi hỏi những sự thay đổi cơ bản về khái niệm của sự đồng thời. Những hề quả của kết luận này bao gồm sự giãn thời gian và co độ dài (theo hướng chuyển động) của vật thể chuyển động tương đối đối với hệ quy chiếu của quan sát viên. Bài báo này cũng bác bỏ sự tồn tại của ête (vật lý) – một trong những vấn đề lớn của thời đó.[88]
Trong bài báo về sự tương đương khối lượng-năng lượng, vấn đề này cũng đã được quan tâm tới trước đó bởi các khái niệm khác, Einstein đã rút ra từ các phương trình của thuyết tương đối hẹp hệ thức nổi tiếng trong thế kỷ 20: E = mc2.[89][90] Hệ thức này cho thấy một khối lượng nhỏ tương đương với một năng lượng khổng lồ và nó là cơ sở cho lý thuyết năng lượng hạt nhân.[91]
Nhiều năm sau đó, công trình của Einstein về thuyết tương đối đặc biệt năm 1905 vẫn còn là đề tài tranh cãi, nhưng ngay từ ban đầu nó đã được các nhà vật lý lớn ủng hộ, khởi đầu là Max Planck.[92][93]
Photon
Trong một bài báo năm 1905,[94] Einstein đã đặt ra một tiên đề đó là ánh sáng bao gồm các hạt rời rạc gọi là lượng tử. Lượng tử ánh sáng của Einstein hầu như bị các nhà vật lý bác bỏ khi ông mới giới thiệu ý tưởng này, trong đó có Max Planck và Niels Bohr. Ý tưởng này chỉ được chấp nhận rộng rãi vào năm 1919, nhờ những thí nghiệm chi tiết của Robert Millikan về hiệu ứng quang điện thực hiện vào năm 1914,[95] và phép đo sự tán xạ Compton của Arthur Compton.[96]
Bài báo của Einstein về các hạt ánh sáng hầu hết xuất phát từ các nghiên cứu về nhiệt động lực học. Ông không bị thúc đẩy bởi các thí nghiệm về hiệu ứng quang điện, mà không phù hợp với lý thuyết của ông trong vòng 50 năm sau. Einstein quan tâm đến entropy của ánh sáng tại nhiệt độ T, và phân nó thành hai phần bao gồm phần tần số thấp và phần tần số cao. Phần ánh sáng tần số cao được miêu tả bởi định luật Wien, có entropy giống hệt với entropy của các phân tử khí cổ điển.[96]
Từ entropy là số logarit của các trạng thái khả dĩ, Einstein kết luận là số các trạng thái của ánh sáng bước sóng ngắn trong một hộp với thể tích V bằng với số các trạng thái của một nhóm các hạt lượng tử trong cùng hộp. Do ông (không giống với những người khác) cảm thấy dễ chịu với cách giải thích thống kê, ông tin rằng tiên đề về ánh sáng được lượng tử hóa là một công cụ giải thích tính hợp lý cho entropy.
Điều này dẫn ông đến kết luận là mỗi sóng với tần số f sẽ đồng hành với một tập hợp các photon, mỗi hạt ứng với năng lượng hf, trong đó h là hằng số Planck. Ông không thể bàn luận thêm, bởi vì Einstein không dám chắc các hạt liên hệ như thế nào với sóng. Nhưng ông đề nghị là ý tưởng này có thể giải thích các kết quả thí nghiệm khác, như hiệu ứng quang điện.[97]
Lượng tử hóa dao động nguyên tử
Eiinstein tiếp tục nghiên cứu về cơ học lượng tử vào năm 1906, tìm cách giải thích sự dị thường của nhiệt dung riêng trong các chất rắn. Đây là ứng dụng đầu tiên của lý thuyết lượng tử vào một hệ cơ học. Từ định luật Planck về phân bố bức xạ điện từ không cho kết quả về giá trị nhiệt dung riêng vô hạn, cùng ý tưởng này có thể được áp dụng cho chất rắn để khắc phục vấn đề nhiệt dung riêng vô hạn trong các chất này. Einstein đã chỉ ra một mô hình đơn giản với giả thuyết là chuyển động của các nguyên tử trong chất rắn bị lượng tử hóa để giải thích tại sao nhiệt dung riêng của chất rắn lại trở về không khi tiến gần đến độ không tuyệt đối.[96]
Mô hình của Einstein coi mỗi nguyên tử được kết nối với một lò xo tưởng tượng. Thay vì liên kết tất cả các nguyên tử với nhau, mà sẽ dẫn đến các sóng đứng với các loại tần số khác nhau, Einstein tưởng tượng ra mỗi nguyên tử được gắn tại một điểm trong không gian bởi chỉ một lò xo. Điều này không đúng về mặt vật lý, nhưng lý thuyết vẫn tiên đoán giá trị hữu hạn nhiệt dung riêng là 3NkB, do số các dao động độc lập đều giống nhau.
Einstein từ đó giả sử là chuyển động trong mô hình này bị lượng tử hóa, tuân theo định luật Planck, do vậy mỗi chuyển động độc lập của lò xo có năng lượng bằng một số nguyên lần hf, trong đó f là tần số dao động. Với giả sử này, ông áp dụng phương pháp thống kê của Boltzmann để tính ra năng lượng trung bình của mỗi lò xo trong một khoảng thời gian. Kết quả thu được giống với kết quả của Planck cho ánh sáng: tại nhiệt độ mà kBT nhỏ hơn hf, chuyển động bị ngưng lại (đóng băng), và nhiệt dung riêng tiến về 0.
Và Einstein kết luận là cơ học lượng tử có thể giải quyết được các vấn đề lớn trong vật lý cổ điển, như tính dị thường của nhiệt dung riêng. Các hạt hàm ý trong công thức trên bây giờ được gọi là photon. Vì mọi lò xo trong lý thuyết của Einstein đều có độ cứng như nhau, nên chúng dao động như nhau tại cùng một nhiệt độ, và điều này dẫn đến tiên đoán là nhiệt dung riêng tiến về 0 theo hàm lũy thừa khi nhiệt độ giảm đi về 0K.
Nghiên cứu này là nền tảng của vật lý vật chất ngưng tụ sau này.
Nguyên lý đoạn nhiệt và các biến tác động góc
Trong thập niên 1910, lý thuyết lượng tử đã mở rộng phạm vi áp dụng cho nhiều hệ thống khác nhau. Sau khi Ernest Rutherford khám phá ra sự tồn tại các hạt nhân và đề xuất các electron có quỹ đạo quanh hạt nhân giống như quỹ đạo của các hành tinh, Niels Bohr đã áp dụng các tiên đề của cơ học lượng tử được Planck và Einstein đưa ra và phát triển để giải thích chuyển động của electron trong nguyên tử, và của bảng tuần hoàn các nguyên tố.
Einstein đã đóng góp vào những phát triển này bằng liên hệ chúng với các tư tưởng của Wilhelm Wien năm 1898. Wien đã đưa ra giả thuyết về “bất biến đoạn nhiệt” của trạng thái cân bằng nhiệt cho phép mọi bức xạ của vật đen tại các nhiệt độ khác nhau được dẫn ra từ ‘định luật dịch chuyển Wien. Einstein năm 1911 đã chú ý đến là cùng nguyên lý đoạn nhiệt này cũng chỉ ra các đại lượng bị lượng tử hóa trong chuyển động cơ học bất kì phải là bất biến đoạn nhiệt. Arnold Sommerfeld đã đồng nhất bất biến đoạn nhiệt này là biến tác dụng của cơ học cổ điển. Định luật tác dụng thay đổi được bị lượng tử hóa là nguyên lý cơ sở của thuyết lượng tử khi nó được biết từ 1900 đến 1925. (hay lý thuyết lượng tử cổ điển)
Lưỡng tính sóng – hạt
Mặc dù cục cấp bằng sáng chế đã bổ nhiệm Einstein làm nhân viên kĩ thuật kiểm tra hạng hai năm 1906, nhưng ông không hề từ bỏ sự nghiệp khoa học của mình. Năm 1908, ông trở thành giảng viên thỉnh giảng (privatdozent) tại trường Đại học Bern.[98] Trong “über die Entwicklung unserer Anschauungen über das Wesen und die Konstitution der Strahlung” (“The Development of Our Views on the Composition and Essence of Radiation“), về sự lượng tử hóa của ánh sáng, và trong một bài báo đầu năm 1909, Einstein chỉ ra rằng lượng tử năng lượng của Planck phải có động lượng và có thể cư xử như các hạt điểm độc lập. Bài báo này đưa ra khái niệm photon (mặc dù Gilbert N. Lewis đặt tên gọi photon mãi tới năm 1926) và mở ra khái niệm lưỡng tính sóng-hạt trong cơ học lượng tử. Dựa trên ý tưởng của Planck và của Einstein về sóng có bản chất hạt, nhà vật lý Louis de Broglie đặt ra vấn đề ngược là hạt vật chất có bản chất sóng và khai sinh ra nguyên lý lưỡng tính sóng hạt của vật chất.[99]
Lý thuyết giới hạn trắng đục
Einstein đã quay trở lại vấn đề nhiễu loạn nhiệt động học, với suy nghĩ tìm cách giải quyết những sự thay đổi mật độ trong chất lỏng tại điểm giới hạn của nó. Thông thường, nhiễu loạn mật độ được khử bởi đạo hàm bậc hai của năng lượng tự do theo mật độ. Tại điểm giới hạn này, đạo hàm bằng không, dẫn đến những nhiễu loạn lớn. Hiệu ứng nhiễu loạn mật độ mà theo đó mọi bước sóng của ánh sáng bị tán xạ khi đi vào môi trường khác, làm cho chất lỏng nhìn trắng như sữa. Einstein liên hệ hiện tượng này với hiện tượng tán xạ Raleigh, mà xảy ra khi độ lớn nhiễu loạn nhỏ hơn bước sóng, và hiện tượng này đã giải thích hiện tượng tại sao bầu trời có màu xanh.[100]
Năng lượng điểm không
Trực giác vật lý của Einstein đã dẫn ông chú ý đến các năng lượng dao động Planck không thể có điểm không. Ông sửa lại giả thuyết Planck bằng cách cho trạng thái năng lượng thấp nhất của một đối tượng dao động bằng với 1⁄2hf, bằng một nửa khoảng năng lượng giữa hai mức. Sự thay đổi này được nghiên cứu cùng với Otto Stern, trên cơ sở của nhiệt động học phân tử hai nguyên tử mà có thể tách ra thành hai nguyên tử tự do.
Nguyên lý tương đương
Năm 1907, khi còn đang làm việc tại cuc bằng sáng chế, Einstein đã có cái mà ông gọi là “ý tưởng hạnh phúc nhất” trong đời ông. Ông nhận ra là nguyên lý tương đối có thể mở rộng sang trường hấp dẫn. Ông suy nghĩ về trường hợp thang máy chuyển động với gia tốc đều nhưng không phải đặt trong trường hấp dẫn, và ông nhận ra là nó không thể khác biệt so với trường hợp thang máy im trong trường hấp dẫn không thay đổi.[101] Ông áp dụng thuyết tương đối hẹp để thấy tốc độ của các đồng hồ tại đỉnh thang máy gia tốc lên trên sẽ nhanh hơn tốc độ của đồng hồ ở sàn thang máy. Ông kết luận là tốc độ của đồng hồ phụ thuộc vào vị trí của chúng trong trường hấp dẫn, và hiệu giữa hai tốc độ đồng hồ tỉ lệ với thế năng hấp dẫn theo xấp xỉ bậc nhất.
Mặc du sự xấp xỉ này là thô, nó cho phép ông tính được độ lệch của tia sáng do hấp dẫn. Điều này làm cho ông tin tưởng rằng lý thuyết vô hướng về hấp dẫn được đề xuất bởi Gunnar Nordström là không đúng. Nhưng giá trị thực cho độ lệch mà ông tính ra nhỏ đi 2 lần so với giá trị thực, do xấp xỉ ông sử dụng không còn thỏa mãn đối với các vật thể di chuyển gần vận tốc của ánh sáng. Khi Einstein hoàn thiện thuyết tương đối tổng quát, ông đã sửa lại thiếu sót này và tiên đoán được giá trị đúng của độ lệch tia sáng đi gần Mặt Trời.
Từ Praha, Einstein đăng một bài báo về các hiệu ứng của hấp dẫn tác động lên ánh sáng, đặc biệt là dịch chuyển đỏ do hấp dẫn và độ lệch ánh sáng do hấp dẫn. Bài báo đã thúc đẩy các nhà thiên văn học xác định độ lệch tia sáng trong quá trình quan sát nhật thực. [102] Nhà thiên văn người Đức Erwin Finlay-Freundlich đã công bố tiên đoán của Einstein ra toàn thế giới để cộng đồng các nhà khoa học được biết đến.[103]
Einstein đã suy nghĩ về bản chất trường hấp dẫn trong các năm 1909-1912, nghiên cứu các tính chất của chúng bằng các thí nghiệm tưởng tượng đơn giản. Trong đó có thí nghiệm về một cái đĩa quay. Einstein tưởng tượng ra một quan sát viên thực hiện các thí nghiệm trên 1 cái bàn quay. Ông chú ý rằng quan sát viên có thể đo được một giá trị khác cho hằng số toán học pi so với trong hình học Euclid. Lý do là vì bán kính của một đường tròn là không đổi do được đo với một cái thước không bị co độ dài, nhưng theo thuyết tương đối hẹp chu vi của đường tròn dường như lớn hơn do cái thước dùng để đo chu vi bị co ngắn lại.
Mặt khác Einstein tin tưởng rằng các định luật vật lý là cục bộ, được miêu tả bởi các hệ tọa độ cục bộ, ông kết luận rằng không thời gian có thể bị cong. Điều này dẫn ông đến nghiên cứu hình học Riemann, và hình thành lên ngôn ngữ của thuyết tương đối tổng quát.
Thuyết tương đối rộng
Năm 1912, Einstein trở lại Thụy Sĩ để nhận chức danh giáo sư tại nơi ông từng học, trường ETH. Khi ông trở lại Zurich, ngay lập tức ông đến thăm người bạn cùng lớp đại học ETH là Marcel Grossmann, bây giờ trở thành giáo sư toán học. Einstein đã hỏi Grossmann có thứ hình học miêu tả không gian cong không và ông ta đã giới thiệu cho ông hình học Riemann và tổng quát hơn là hình học vi phân. Theo đề nghị của nhà toán học người Ý Tullio Levi-Civita, Einstein bắt đầu khám phá ra sự hữu ích của nguyên lý hiệp biến tổng quát (cơ bản là sử dụng tenxơ) cho lý thuyết hấp dẫn mới của ông. Có lúc Einstein nghĩ rằng có một số sai lầm với cách tiếp cận này, nhưng sau đó ông đã quay trở lại với nó, và cuối năm 1915, ông đã công bố thuyết tương đối rộng theo dạng ngày nay của lý thuyết.[104] Lý thuyết này giải thích hấp dẫn là do sự cong của không thời gian do vật chất, ảnh hưởng tới chuyển động quán tính của các vật chất khác. Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Liên minh trung tâm chỉ có thể được thực hiện tại các viện Hàn lâm của liên minh này, vì lí do an ninh quốc gia. Một vài nghiên cứu của Einstein đã đến được Vương quốc Anh và Hoa Kỳ thông qua nỗ lỗ lực của nhà vật lý người Áo Paul Ehrenfest và của các nhà vật lý người Hà Lan, đặc biệt là Nobel gia Hendrik Lorentz và Willem de Sitter của Đại học Leiden. Sau khi chiến tranh kết thúc, Einstein vẫn duy trì mối liên hệ của ông với trường Đại học Leiden, và nhận làm giáo sư đặc biệt cho trường này trong mười năm, từ 1920 đến 1930, Einstein thường xuyên đến Hà Lan để giảng dạy.[105]
Năm 1917, một vài nhà thiên văn học chấp nhận lời đề xuất năm 1911 của Einstein khi ông ở Praha. Đài quan sát núi Wilson ở California, Hoa kì, công bố kết quả phân tích phổ của Mặt Trời cho thấy không có sự dịch chuyển đỏ do hấp dẫn.[106] Năm 1918, Đài quan sát Lick, cũng ở California, thông báo rằng rất khó có thể bác bỏ được tiên đoán của Einstein, mặc dù kết quả của họ không được công bố.[107]
Tuy nhiên vào tháng 5 năm 1919, một đội các nhà thiên văn học do Arthur Stanley Eddington dẫn đầu đã xác nhận rằng tiên đoán của Einstein về sự bẻ cong của tia sáng do hấp dẫn của Mặt Trời trong khi chụp các bức ảnh trong quá trình nhật thực tại Príncipe, một hòn đảo nằm phía tây châu Phi đồng thời với một đoàn thám hiểm ở Sobral, phía bắc Brasil.[103] Nobel gia Max Born tán dương thuyết tương đối tổng quát như là “một kỳ công lớn nhất của tư duy con người về tự nhiên”;[109] và Nobel gia người Anh Paul Dirac nói “nó có thể là khám phá khoa học lớn nhất đã từng được phát hiện”.[110] Các phương tiện thông tin quốc tế lan truyền khám phá này khiến Einstein trở nên nổi tiếng khắp thế giới.
Đã có những ý kiến cho rằng việc kiểm tra lại các bức ảnh của đoàn thám hiểm Eddington cho thấy độ lớn sai số của thí nghiệm bằng với kết quả thu được từ hiệu ứng mà Eddington đã đo để chứng minh, và đoàn thám hiểm người Anh năm 1962 đã kết luận là phương pháp đã đo là không đủ tin cậy.[49] Sự bẻ cong của tia sáng trong quá trình nhật thực đã được xác nhận bởi các quan sát chính xác hơn sau đó.[111] Về sau, nhiều thí nghiệm sau này đã xác nhận các tiên đoán của thuyết tương đối rộng.[104] Cùng với sự mới nổi tiếng của Einstein, nhiều nhà khoa học Đức thời đó đã có nhứng động thái để chống lại Einstein cũng như các công trình của ông.[112][113]
Vũ trụ học
Năm 1917, Einstein đã áp dụng thuyết tương đối rộng cho mô hình cấu trúc của vũ trụ trên toàn bộ. Theo dòng suy nghĩ đương thời, ông muốn vũ trụ là vĩnh hằng và bất biến, nhưng trong thuyết mới của ông, sau một thời gian dài lực hấp dẫn có thể hút vật chất về nhau dẫn tới vũ trụ co lại. Để sửa điều này, Einstein đã thay đổi nhỏ thuyết tương đối tổng quát bằng cách đưa ra một khái niệm mới, hằng số vũ trụ học. Với một hằng số vũ trụ dương, cân bằng chống lại lực hấp dẫn, vũ trụ có thể là quả cầu tĩnh vĩnh hằng[114]
Einstein tin tưởng rằng một vũ trụ tĩnh có tính đối xứng cầu sẽ phù hợp về mặt triết học, bởi vì nó tuân theo nguyên lý Mach. Ông đã chỉ ra rằng thuyết tương đối tổng quát gắn chặt với nguyên lý Mach trong trường hợp mở rộng hiệu ứng kéo hệ quy chiếu bằng trường hấp dẫn từ, nhưng ông biết rằng ý tưởng của Mach sẽ không đúng nếu vũ trụ cứ mở rộng ra vô hạn. Trong một vũ trụ đóng, ông tin rằng nguyên lý Mach sẽ được thỏa mãn.
Nguyên lý Mach cũng đã gây ra rất nhiều tranh cãi trong nhiều năm.
Thuyết lượng tử hiện đại
Năm 1917, tại đỉnh cao của công việc nghiên cứu thuyết tương đối, Einstein xuất bản một bài báo trong ”Physikalische Zeitschrift đề xuất khả năng tồn tại phát xạ kích thích, một quá trình vật lý giúp hiện thực được maser và laser.[116] Bài báo này chỉ ra rằng tính thống kê của sự hấp thụ và bức xạ ánh sáng chỉ có thể phù hợp với định luật phân bố Planck khi sự bức xạ của ánh sáng trong một chế độ với n photon sẽ gần với tính thống kê hơn so với sự bức xạ của ánh sáng trong chế độ không có photon. Bài báo này có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển sau này của cơ học lượng tử, bởi vì nó là bài báo đầu tiên chỉ ra tính thống kê của sự chuyển dịch trạng thái nguyên tử tuân theo những định luật đơn giản. Einstein đã phát hiện ra nghiên cứu của Louis de Broglie, và đã ủng hộ những ý tưởng của ông, khi Einstein lần đầu tiên nhận được những ý tưởng phác thảo này. Một bài báo lớn khác trong thời kì này, Einstein đã viết ra phương trình sóng cho các sóng de Broglie, trong đó Einstein đã đề xuất từ phương trình Hamilton–Jacobi của cơ học. Bài báo này đã khích lệ các nghiên cứu của Schrödinger năm 1926.
Thống kê Bose–Einstein
Năm 1924, Einstein nhận được một miêu tả về mô hình thống kê từ nhà vật lý người Ấn Độ Satyendra Nath Bose, trên cơ sở một phương pháp đếm với giả sử ánh sáng có thể được hiểu là khí của các hạt không thể phân biệt được. Einstein chú ý tới rằng thống kê của Bose có thể áp dụng cho một số nguyên tử có tính chất tương tự các hạt ánh sáng được đề xuất, và ông gửi bản dịch bài báo của Bose tới tạp chí Zeitschrift für Physik. Einstein cũng tự viết các bài báo miêu tả mô hình thống kê này và những hệ quả của nó, bao gồm hiện tượng ngưng tụ Bose-Einstein mà trong một số trường hợp đặc biệt có thể xuất hiện tại nhiệt độ rất thấp..[7] Cho đến tận năm 1995, vật chất ngưng tụ lần đầu tiên đã được tạo ra bằng thực nghiệm bởi Eric Allin Cornell và Carl Wieman nhờ sử dụng các thiết bị siêu lạnh được lắp đặt tại NIST–phòng thí nghiệm JILA tại Đại học Colorado ở Boulder.[117] Thống kê Bose-Einstein bây giờ được sử dụng để miêu tả hành xử của những hạt có spin nguyên, các boson. Những phác thảo của Einstein cho nghiên cứu này có thể xem tại “Einstein Archive” trong thư viện của đại học Leiden.[82]
Giả tenxơ năng lượng động lượng
Thuyết tương đối rộng bao gồm một không thời gian động lực, do vậy nó rất khó để tìm cách thống nhất các đại lượng bảo toàn năng lượng và động lượng. Định lý Noether cho phép những đại lượng được xác định từ hàm Lagrangian với bất biến tịnh tiến, nhưng hiệp biến tổng quát làm cho bất biến tịnh tiến trở thành một phần của đối xứng gauge. Tenxơ ứng suất – năng lượng trong phương trình trường Einstein không chứa năng lượng trường hấp dẫn, bởi vì theo nguyên lý tương đương bằng việc lựa chọn hệ quy chiếu cục bộ thích hợp, trường hấp dẫn sẽ biết mất. Năng lượng và động lượng bao hàm cả năng lượng hấp dẫn được dẫn ra từ thuyết tương đối rộng theo định lý Noether không phải là một tenxơ thực vì lý do như vậy.
Einstein lập luận rằng điều này là đúng với những lý do cơ bản, bởi vì trường hấp dẫn có thể xuất hiện hoặc biến mất bằng cách chọn các tọa độ. Ông ủng hộ rằng giả tenxơ không hiệp biến năng lượng động lượng thực chất là cách miêu tả tốt nhất sự phân bố năng lượng và động lượng trong một trường hấp dẫn.[118][119] Cách tiếp cận này đã được phát triển bởi Lev Landau và Evgeny Lifshitz,[120] và những người khác, và đã trở thành một tiêu chuẩn.
Việc sử dụng các đối tượng không-hiệp biến như các giả tenxơ đã bị phê phán nhiều bởi Erwin Schrödinger và những người khác năm 1917.
Thuyết trường thống nhất
Tiếp theo nghiên cứu của ông về thuyết tương đối tổng quát, Einstein bắt tay vào chuỗi những cố gắng để tổng quát hóa lý thuyết hình học của ông về hấp dẫn, cho phép kết hợp được với tương tác điện từ. Năm 1950, ông miêu tả “thuyết trường thống nhất” của ông trong tạp chí Scientific American với tiêu đề “Về lý thuyết tổng quát của hấp dẫn”.[121] Mặc dù ông tiếp tục được ca ngợi cho các công trình của ông, Einstein đã dần dần bị đơn độc trong con đường nghiên cứu thuyết thống nhất này, và những nỗ lực của ông đã hoàn toàn bị thất bại.
Trong việc theo đuổi một lý thuyết thống nhất các lực cơ bản của tự nhiên, Einstein đã bỏ qua một số hướng phát triển chính của vật lý thời đó, điển hình nhất là việc nghiên cứu các lực hạt nhân mạnh và lực hạt nhân yếu, chúng chưa được hiểu triệt để cho đến tận nhiều năm sau khi ông mất. Mặt khác, các xu hướng vật lý lại chủ yếu bỏ qua các phương pháp tiếp cận của ông đối với lý thuyết thống nhất; với cơ học lượng tử là khuôn khổ chính, lý thuyết mà ông không chấp nhận hoàn toàn về tính mô tả thực tại của nó. Giấc mơ của Einstein để thống nhất mọi định luật vật lý khác với hấp dẫn đã thôi thúc một cuộc tìm kiếm hiện đại cho một lý thuyết của mọi vật và đặc biệt là thuyết dây, trong đấy các trường hình học được kết hợp với lý thuyết trường lượng tử hay hấp dẫn lượng tử.
Lỗ sâu
Trong nghiên cứu thuyết trường thống nhất, Einstein đã hợp tác với các nhà khoa học khác để đưa ra mô hình về một lỗ sâu.[122] Mục đích của ông là thiết lập mô hình các hạt cơ bản với các tích (điện tích) của chúng như là một nghiệm của phương trình trường hấp dẫn, được đăng trong một bài báo với tiêu đề “Liệu trường hấp dẫn đóng một vai trò quan trọng trong cấu tạo của các hạt cơ bản?”. Những nghiệm này cắt và dán các lỗ đen Schwarzschild để tạo ra một cầu nối giữa hai miền không gian.
Nếu cuối một lỗ sâu mang điện tích dương, thì đầu kia của lỗ sâu phải mang điện tích âm. Những tính chất này dẫn Einstein đến sự tin tưởng rằng cặp các hạt và phản hạt có thể được miêu tả theo cách này.
Lý thuyết Einstein–Cartan
Để có thể kết hợp spin của các hạt điểm vào trong thuyết tương đối tổng quát, liên thông aphin cần được tổng quát hóa để bao gồm được phần phản xứng, gọi là tenxơ xoắn. Năm 1922 nhà toán học Élie Cartan lần đầu tiên tiếp cận với đề xuất này[123] và tiếp tục mở rộng lý thuyết trong các năm sau.[124] Einstein cũng tham gia vào phát triển lý thuyết này vào năm 1928 với những nỗ lực không thành công khi sử dụng tenxơ xoắn để miêu tả trường điện từ trong thuyết trường thống nhất của ông.[125]
Nghịch lý Einstein–Podolsky–Rosen
Năm 1935, Einstein trở lại với cơ học lượng tử. Ông đã xét sự ảnh hưởng như thế nào của một hạt trong hệ hai hạt vướng víu với nhau đối với hạt kia. Ông đưa ra cùng với các cộng sự của ông rằng, bằng cách thực hiện các phép đo khác nhau trên một hạt ở rất xa, hoặc là về vị trí hoặc về động lượng, và các tính chất của hạt đối tác trong cặp vướng víu này có thể được khám phá mà không làm ảnh hưởng đến trạng thái của chính nó.
Einstein do vậy đã sử dụng tính thực tại cục bộ để kết luận là những hạt khác có những tính chất này đã được định sẵn. Nguyên lý ông đề xuất là nếu có thể xác định được câu trả lời về vị trí hay động lượng qua phép đo một hạt đối tác, mà không ảnh hưởng đến hạt kia, thì các hạt thực sự có giá trị chính xác về vị trí hoặc động lượng, điều này mâu thuẫn với nguyên lý bất định Heisenberg.
Nguyên lý này được rút ra từ quá trình phản bác của Einstein về cơ học lượng tử. Là một nguyên lý vật lý, nó đã được chứng minh là không tương thích với các kết quả thí nghiệm.
Các phương trình chuyển động
Thuyết tương đối rộng có hai định luật cơ bản; – phương trình trường Einstein miêu tả sự cong của không gian, và phương trình trắc địa miêu tả sự di chuyển của các hạt trong trường hấp dẫn.
Do các phương trình trong thuyết tương đôi tổng quát là phi tuyến, một lượng năng lượng xác định một trường hấp dẫn thuần túy, giống như hố đen, sẽ di chuyển trên một quỹ đạo được xác định bởi chính phương trình trường Einstein, không cần tới các định luật mới. Vì thế EInstein đề xuất rằng quỹ đạo của một nghiệm kì dị, giống như hố đen, có thể được xác định là một đường trắc địa từ chính thuyết tương đối rộng.
Phương trình này được Einstein, Infeld và Hoffmann viết ra cho các vật thể hạt điểm không có mô men động lượng, và bởi Roy Kerr cho các vật thể quay.
Cộng tác với những nhà khoa học khác
Ngoài sự cộng tác trong một thời gian dài với các nhà khoa học Leopold Infeld, Nathan Rosen, Peter Bergmann và những người khác, Einstein cũng từng cộng tác trong một thời gian ngắn với nhiều nhà khoa học.
Tranh luận Bohr-Einstein
Tranh luận Bohr-Einstein là chuỗi các sự kiện phê bình giữa hai trong số những người sáng lập ra cơ học lượng tử là Albert Einstein và Niels Bohr về bản chất thực tại của lý thuyết này. Tranh luận của hai người không chỉ có ý nghĩa trong triết học của khoa học mà còn là động lực để các nhà lý thuyết và thực nghiệm lượng tử khám phá ra những tính chất mới đồng thời bổ sung cho nền tảng lý thuyết.[126][127][128]
Thí nghiệm Einstein-de Haas
Einstein và De Haas đã chứng tỏ rằng sự từ hóa là do chuyển động của các electron mà ngày nay được biết là spin. Để chỉ ra điều này, họ đảo ngược sự từ hóa trong một thanh thép treo trên một con lắc xoắn. Hai người quan sát thấy rằng thanh thép bị quay đi một góc, bởi vì mô men động lượng của electron bị thay đổi khi thay đổi sự từ hóa. Thí nghiệm này cần sự tinh tế, bởi vì mô men động lượng gắn với electron là nhỏ, nhưng nó cũng đủ để chứng minh chuyển động của electron vì một lý do nào đó ảnh hưởng đến sự từ hóa.[129][130]
Mô hình khí Schrödinger
Einstein gợi ý cho Erwin Schrödinger rằng ông có thể suy lại được sự thống kê của khí Bose–Einstein bằng xét đến một hộp. Sau đó mỗi chuyển động lượng tưr khả dĩ của một hạt trong một hộp được gắn với một dao động tử điều hòa độc lập. Lượng tử hóa những dao động tử này, mỗi mức có một số nguyên tương ứng, sẽ là số các hạt trong hộp.
Phương pháp này là một phần của lượng tử hóa chính tắc, nhưng nó đi ngược lại cơ học lượng tử hiện đại. Erwin Schrödinger áp dụng điều này để dẫn ra các tính chất nhiệt động của khí lý tưởng bán cổ điển. Schrödinger đã đề nghị Einstein để đưa thêm ông vào đồng tác giả, nhưng Einstein đã từ chối lời mời này.[131]
Tình yêu âm nhạc
Einstein bắt đầu cảm thụ âm nhạc từ khi còn nhỏ tuổi. Mẹ ông chơi dương cầm khá giỏi và muốn ông học đàn vĩ cầm, không chỉ để truyền dẫn cho ông niềm yêu thích âm nhạc mà còn giúp ông hòa nhập với nền văn hóa Đức. Theo nhạc trưởng Leon Botstein, Einstein có thể đã bắt đầu chơi nhạc từ lúc 5 tuổi nhưng chưa thể hiện niềm thích thú với âm nhạc khi đó.[132]
Tuy nhiên, bước sang tuổi 13, ông được học bản sonata vĩ cầm của Mozart. “Einstein trở lên yêu thích” âm nhạc Mozart, Botstein viết, và học chơi vĩ cầm một cách tự nguyện hơn. Theo Einstein, ông tự học chơi đàn bằng cách “thực hành có hệ thống”, và nói rằng “say mê là một người thầy tốt hơn ý thức trách nhiệm.”[132] Khi 17 tuổi, ông trình bày bản sonata vĩ cầm của Beethoven trong một kỳ kiểm tra âm nhạc ở Aarau, và giáo viên chấm điểm đã nhận xét khi ông kết thúc là “xuất sắc và thể hiện nội dung tuyệt vời.” Điều gây ấn tượng cho người giáo viên là, theo Botstein, Einstein “thể hiện sâu sắc tình yêu âm nhạc, một phẩm chất vẫn còn đang được hình thành. Âm nhạc có một ý nghĩa kỳ lạ đối với sinh viên này.”[132]
Botstein lưu ý rằng âm nhạc đảm nhận một vai trò quan trọng và lâu dài trong cuộc sống kể từ thời gian đó của Einstein. Mặc dù chưa lúc nào ông nghĩ rằng sẽ theo đuổi sự nghiệp âm nhạc, nhưng ông thường tham gia chơi nhạc thính phòng với một vài nghệ sĩ, thường trình diễn cho nhóm vài người bạn. Âm nhạc thính phòng là một phần trong cuộc sống của ông khi còn ở Bern, Zurich, và Berlin, nơi ông chơi nhạc cùng Max Planck và những người khác. Năm 1931, trong thời gian đến Viện Công nghệ California, ông đến thăm gia đình Zoellner ở Los Angeles và chơi một số bản nhạc của Beethoven và Mozart cùng với các thành viên của nhóm tứ tấu Zoellner. Einstein sau đó trao cho người đại diện gia đình một bức ảnh lưu niệm chụp ông cùng với chữ ký.[133][134] Âm nhạc không chỉ là niềm vui thích mà còn giúp ông trong công việc. Bà Elsa nói “âm nhạc giúp ông khi đang suy nghĩ về các lý thuyết. Ông mải mê nghiên cứu, quay trở ra giải trí bằng đánh vài đoạn hợp âm piano, rồi tiếp tục trở lại công việc”.[135]
Quan điểm chính trị
Einstein là người ủng hộ chủ nghĩa xã hội và phê phán chủ nghĩa tư bản.[136][137] Ông phản đối phong trào Quốc Xã đang tăng lúc bấy giờ và sau đó cố gắng lên tiếng giảm bớt sự náo động của việc hình thành nước Israel. Fred Jerome trong quyển Quan điểm của Einstein về nhà nước Israel và chủ nghĩa phục quốc Do Thái cho rằng Einstein là một nhà văn hóa phục quốc Do Thái, người ủng hộ ý tưởng về một tổ quốc Do Thái nhưng phản đối việc hình thành một nhà nước Do Thái ở Palestine “với đường biên giới, quân đội, và một hệ thống pháp quyền riêng.” Thay vào đó, ông ủng hộ một nhà nước liên bang gồm 2 quốc gia với “cơ cấu chức năng liên tục, hỗn hợp, quản trị, kinh tế, và xã hội.”[138][139]
Trong cuộc Cách mạng tháng 11 ở Đức, Einstein đã ký vào một kháng nghị làm tiền đề cho đại hội tự do và dân chủ toàn quốc,[140][141] được công bố ở tờ tin tức Berliner Tageblatt vào ngày 16 tháng 11, 1918[142] và ông trở thành đảng viên của Đảng Dân chủ Đức. Sau Thế chiến thứ II, khi sự thù hằn giữa các nước đồng minh cũ trở nên căng thẳng, Einstein viết, “Tôi không biết Chiến tranh Thế giới lần thứ III người ta sẽ dùng vũ khí gì, nhưng tôi có thể nói với bạn con người có thể sử dụng vũ khí gì ở Chiến tranh Thế giới thứ IV – đá![143] Einstein 1949 Cùng với With Albert Schweitzer và Bertrand Russell, Einstein đã vận động để dừng việc thử nghiệm hạt nhân và bom trong tương lai. Trước lúc mất, Einstein đã ký vào bản tuyên ngôn Russell–Einstein, mà sau đó đã dẫn tới hội nghị Pugwash về Khoa học và Hòa bình Thế giới.[144]
Einstein là thành viên của nhiều nhóm quyền công dân, bao gồm đại hội Princeton của Hiệp hội quốc gia vì sự tiến bộ của người da màu (NAACP). khi W. E. B. Du Bois bị cáo buộc làm gián điệp Cộng sản, Einstein đã tình nguyện làm nhân chứng, và cáo buộc đã được bác bỏ ngay sau đó. Tình bạn của Einstein với nhà hoạt động Paul Robeson, người cùng với ông giữ chức đồng chủ tịch của Cuộc vận động người Mỹ chấm dứt kiểu hành hình Lynch phân biệt đối xử với người da đen, kéo dài đến 20 năm.[145]
Einstein từng nói “Chính trị là nhất thời, còn phương trình là vĩnh cửu.”[146] Ông đã từ chối lời đề nghị làm tổng thống Israel vào năm 1952.[147]
Quan điểm tôn giáo
Trên nghi vấn của quan điểm khoa học (quyết định luận) dẫn tới câu hỏi về lập trường của Einstein về quyết định luận thần học, liệu ông có tin vào Chúa, hay vào một vị thần nào đó hay không. Năm 1929, Einstein đã nói với giáo sĩ Do Thái Herbert S. Goldstein rằng “Tôi tin vào Chúa của Spinoza, người mà biểu lộ chính mình trong nguyên lý hài hòa của thế giới, không phải là một vị Chúa có số mệnh và hành động của một con người. “[148] Trong một bức thư năm 1954, ông viết, “Tôi không tin vào một Chúa nhân cách hóa và tôi không bao giờ phủ định điều này và tôi đã biểu thị điều đó một cách rõ ràng.”[149] Trong một bức thư gửi triết gia Erik Gutkind, Einstein nói rõ, “Danh từ Chúa đối với tôi không gì khác ngoài sự thể hiện và là sản phẩm của sự yếu đuối của loài người, Kinh thánh là tập hợp những điều đáng kính, nhưng vẫn còn nguyên sơ, huyền ảo tuy nhiên khá là ngây ngô.”[150]
Báo chí đã cho đăng tải lặp đi lặp lại để thể hiện Albert Einstein là một người “khiêu khích” tôn giáo với phát biểu như sau của ông:
“ | Đúng là, dĩ nhiên, một hiểu lầm về những gì bạn được đọc về nhận thức tôn giáo của tôi, một hiểu lầm được lặp lại một cách có hệ thống. Tôi không tin vào một vị Chúa nhân cách hóa và tôi không bao giờ phủ định điều này và tôi đã biểu thị điều đó một cách rõ ràng. Nếu có thứ gì đối với tôi được gọi là tôn giáo thì đó là sự thán phục vô tận dành cho cấu trúc thế giới mà khoa học của chúng ta có thể khám phá ra. | ” |
Ông cũng có nhắc qua một chút về đạo Phật trên tờ New York Times số ra 09.11 năm 1930 như sau[152]:
“Một người được giác ngộ bởi tôn giáo, đối với tôi có vẻ như là người cố gắng đến khả năng cực đại của bản thân, giải thoát mình khỏi những xiềng xích của những ham muốn ích kỷ của mình và đi sâu, chìm đắm trong những suy nghĩ, cảm xúc và nguyện vọng, những cái mà người đó luôn giữ chặt, vì giá trị của siêu-bản ngã cá nhân. Tôi thấy rằng, dường như cái quan trọng là sức mạnh của những thứ (nội dung) nằm trong siêu bản ngã… chứ không cần quan tâm đến bất kỳ một nỗ lực nào được thực hiện để thống nhất những điều này với một đấng thiên chúa, nếu không thì nó có thể không khả thi khi tính Phật và Spinoza là như loại hình tôn giáo nhân cách. Theo đó, người mộ đạo theo cảm giác (có ý thức) rằng, họ không hề nghi ngờ gì về tầm quan trọng của các đối tượng nằm trong siêu bản ngã này và về các mục tiêu, cái mà không cần và cũng không có đủ khả năng xây dựng nên dựa trên một nền tảng khoa học hợp lý… Theo cách hiểu này, tôn giáo là nỗ lực lâu đời của nhân loại để trở nên rõ ràng và được nhận thức hoàn toàn đầy đủ về những giá trị và mục tiêu, và không ngừng củng cố cũng như mở rộng ảnh hưởng của nó. Nếu mọi người quan niệm về tôn giáo và khoa học theo những định nghĩa này, thì một cuộc xung đột giữa tôn giáo và khoa học dường như là không thể. Vì đối với khoa học chỉ có thể xác định nó “là gì”, chứ không phải nó “nên là gì” …”
Giải thưởng
Trong cuộc đời cống hiến nghiên cứu khoa học, Albert Einstein đã nhận được nhiều giải thưởng quốc tế. Tên của ông cũng được lấy để đặt cho nhiều giải thưởng.
- Giải thưởng đoạt được
- Giải Nobel Vật lý 1921[153]
- Huy chương Matteucci 1921[154]
- Huy chương Copley 1925[155]
- Huy chương Max Planck đầu tiên 1929[156]
- The Franklin Institute Awards 1935: Albert Einstein The Franklin Institute</ref>
- Giải thưởng mang tên ông
- Giải thưởng Albert Einstein do Lewis and Rosa Strauss Memorial Fund thành lập năm 1951 nhằm trao cho các công trình vật lý lý thuyết nổi bật trong khoa học tự nhiên.
- Huy chương Albert Einstein do Hội Albert Einstein lập 1979 trao hàng năm cho những người có cống hiến xuất sắc liên quan tới công trình của Albert Einstein
- Giải Einstein của Hội Vật lý Hoa Kỳ thành lập năm 2003 trao 2 năm một lần cho những người có thành tựu nổi bật trong lãnh vực tương tác hấp dẫn.
- Giải Khoa học thế giới Albert Einstein do Hội đồng Văn hóa Thế giới lập năm 1984 trao hàng năm cho các công trình nhìn nhận và khuyến khích các người có công nghiên cứu và phát triển khoa học kỹ thuật đem lại lợi ích thiết thực cho nhân loại.
- Albert Einstein Peace Prize được khởi động từ năm 1979 nhân dịp 100 năm ngày sinh Albert Einstein, trao cho những người đã đóng góp cho hòa bình thế giới.[157] Giải thưởng đầu tiên được trao cho Alva Reimer Myrdal[158]
Vinh danh
Để ghi nhớ công lao của Einstein, ngoài những công thức, phương trình và hiện tượng trong vật lý mang tên ông (như phương trình trường Einstein, vành Einstein…) còn có rất nhiều thứ khác được gán cho tên của ông như:
- Một núi lửa được phát hiện năm 1952 trên bán cầu bắc, phần không nhìn thấy của Mặt Trăng được đặt tên theo tên ông: Hố va chạm Einstein.[159]
- Một tiểu hành tinh vòng trong vành đai chính phát hiện năm 1973 được đặt tên theo tên ông: 2001 Einstein
- Các nhà hóa học đặt tên của ông cho nguyên tố thứ 99 trong bảng tuần hoàn Einsteini.
Ảnh hưởng của Albert Einstein trong văn hóa
Những dấu mốc trong cuộc đời của Einstein
-
[hiện]Các dấu mốc trong cuộc đời của ông
Các bài viết
- Các bài báo của Albert Einstein được dùng tham khảo trong bài này. Danh sách đầy đủ các bài viết của ông có ở Danh sách các bài báo khoa học của Albert Einstein.
- Einstein, Albert (1901), “Folgerungen aus den Capillaritätserscheinungen (Conclusions Drawn from the Phenomena of Capillarity)”, Annalen der Physik 4 (3): 513, Bibcode:1901AnP…309..513E, doi:10.1002/andp.19013090306
- Einstein, Albert (26 tháng 9 năm 2015), “Über einen die Erzeugung und Verwandlung des Lichtes betreffenden heuristischen Gesichtspunkt (On a Heuristic Viewpoint Concerning the Production and Transformation of Light)” (PDF), Annalen der Physik 17 (6): 132–148, Bibcode:1905AnP…322..132E, doi:10.1002/andp.19053220607 Đây là bài báo của Năm kỳ diệu về hiệu ứng quang điện mà tạp chí Annalen der Physik nhận được 18 thảng 3.
- Einstein, Albert (26 tháng 9 năm 2015), A new determination of molecular dimensions. Luận án tiến sĩ hoàn thành 30 tháng 4 và nộp 20 tháng 7.
- Einstein, Albert (26 tháng 9 năm 2015), “On the Motion – Required by the Molecular Kinetic Theory of Heat – of Small Particles Suspended in a Stationary Liquid”, Annalen der Physik 17 (8): 549–560, Bibcode:1905AnP…322..549E, doi:10.1002/andp.19053220806. Đây là bài báo của Năm kỳ diệu về chuyển động Brown gửi tới tạp chí ngày 11 tháng 5.
- Einstein, Albert (26 tháng 9 năm 2015), “On the Electrodynamics of Moving Bodies”, Annalen der Physik 17 (10): 891–921, Bibcode:1905AnP…322..891E, doi:10.1002/andp.19053221004. Đây là bài báo của Năm kỳ diệu về thuyết tương đối hẹp gửi tới tạp chí 30 tháng 6.
- Einstein, Albert (26 tháng 9 năm 2015), “Does the Inertia of a Body Depend Upon Its Energy Content?”, Annalen der Physik 18 (13): 639–641, Bibcode:1905AnP…323..639E, doi:10.1002/andp.19053231314. Đây là bài báo của Năm kỳ diệu về công thức E = mc2 tạp chí nhận được vào ngày 27 tháng 9.
- Einstein, Albert (1915), “Die Feldgleichungen der Gravitation (The Field Equations of Gravitation)”, Königlich Preussische Akademie der Wissenschaften: 844–847
- Einstein, Albert (26 tháng 9 năm 2015), “Kosmologische Betrachtungen zur allgemeinen Relativitätstheorie (Cosmological Considerations in the General Theory of Relativity)”, Königlich Preussische Akademie der Wissenschaften
- Einstein, Albert (26 tháng 9 năm 2015), “Zur Quantentheorie der Strahlung (On the Quantum Mechanics of Radiation)”, Physikalische Zeitschrift 18: 121–128, Bibcode:1917PhyZ…18..121E
- Einstein, Albert (ngày 11 tháng 7 năm 1923), “Fundamental Ideas and Problems of the Theory of Relativity”, Nobel Lectures, Physics 1901–1921 (PDF), Amsterdam: Elsevier Publishing Company, Bản gốc lưu trữ (PDF) ngày 10 tháng 2 năm 2007, truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2007
- Einstein, Albert (1924), “Quantentheorie des einatomigen idealen Gases (Quantum theory of monatomic ideal gases)”, Sitzungsberichte der Preussichen Akademie der Wissenschaften Physikalisch-Mathematische Klasse: 261–267. Bài viết đầu tiên trong loạt bài về lĩnh vực này.
- Einstein, Albert (1926), “Die Ursache der Mäanderbildung der Flussläufe und des sogenannten Baerschen Gesetzes”, Die Naturwissenschaften 14 (11): 223–224, Bibcode:1926NW…..14..223E, doi:10.1007/BF01510300. On Baer’s law and meanders in the courses of rivers.
- Einstein, Albert; Podolsky, Boris; Rosen, Nathan (ngày 15 tháng 5 năm 1935), “Can Quantum-Mechanical Description of Physical Reality Be Considered Complete?”, Physical Review 47 (10): 777–780, Bibcode:1935PhRv…47..777E, doi:10.1103/PhysRev.47.777
- Einstein, Albert (1940), “On Science and Religion”, Nature (Edinburgh: Scottish Academic) 146 (3706): 605, Bibcode:1940Natur.146..605E, doi:10.1038/146605a0, ISBN 0-7073-0453-9
- Einstein, Albert và đồng nghiệp (ngày 4 tháng 12 năm 1948), “To the editors of The New York Times”, New York Times (Melville, NY: AIP, American Inst. of Physics), ISBN 0-7354-0359-7
- Einstein, Albert (tháng 5 năm 1949), “Why Socialism?”, Monthly Review, Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2006, truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2006
- Einstein, Albert (1950), “On the Generalized Theory of Gravitation”, Scientific American, CLXXXII (4): 13–17
- Einstein, Albert (1954), Ideas and Opinions, New York: Random House, ISBN 0-517-00393-7
- Einstein, Albert (1969), Albert Einstein, Hedwig und Max Born: Briefwechsel 1916–1955 (bằng tiếng Đức), Munich: Nymphenburger Verlagshandlung, ISBN 3-88682-005-X
- Einstein, Albert (1979), Autobiographical Notes, Paul Arthur Schilpp , Chicago: Open Court, ISBN 0-87548-352-6. Thí nghiệm tưởng tượng đuổi theo tia sáng miêu tả trong trang 48–51.
- Collected Papers: Stachel, John, Martin J. Klein, a. J. Kox, Michel Janssen, R. Schulmann, Diana Komos Buchwald and others (Eds.) (1987–2006), The Collected Papers of Albert Einstein, Vol. 1–10, Princeton University Press Further information about the volumes published so far can be found on the webpages of the Einstein Papers Project and on the Princeton University Press Einstein Page
Xem thêm
Ghi chú
- ^ Sự phát triển trí thông minh của Albert được nuôi dạy chu đáo tại nhà. Mẹ cậu, một người tài năng về piano, dạy cho bọn trẻ niềm say mê âm nhạc. Bố cậu thường đọc to các tác phẩm của Schiller và Heine cho gia đình nghe. Bác Jakob đố Albert các câu đố toán học, mà cậu giải được với “niềm thích thú sâu đậm”. Đáng chú ý nhất là Max Talmud, một sinh viên y khoa Do thái nghèo từ Ba lan, “một người trong cộng đồng Do thái mà nhận được bữa ăn miễn phí từ gia đình Einstein.” Talmud đến vào các tối thứ Năm trong khoảng sáu năm, và ” giành các kiến thức của mình để kiểm tra những điều lôi cuốn Albert.” Talmud đã đọc cho Albert và thảo luận nhiều cuốn sách cùng với cậu. Bao gồm khoảng hai mươi cuốn sách phổ biến khoa học mà đã thuyết phục Albert rằng “rất nhiều câu chuyện trong Kinh thánh là không đúng”, và một quyển về hình học phẳng khiến Albert tự tìm tòi về toán học trong các năm đi học tiểu học. Talmud thậm chí còn đọc cho Albert các tác phẩm của Kant; và kết quả là Einstein đã kể cho các bạn cùng lớp về Kant một cách “đầy sinh động và thuyết phục”[19]
Chú thích
- ^ “Mohammad Raziuddin Siddiqui”. Ias.ac.in. Ngày 2 tháng 1 năm 1998. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 6 năm 2004. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2011.
- ^ Zahar, Élie (2001), Poincaré’s Philosophy. From Conventionalism to Phenomenology, Carus Publishing Company, Chapter 2, p.41, ISBN 0-8126-9435-X.
- ^ Whittaker, E. (1955). “Albert Einstein. 1879-1955”. Biographical Memoirs of Fellows of the Royal Society 1: 37–67. doi:10.1098/rsbm.1955.0005. JSTOR 769242.
- ^ David Bodanis, E = mc2: A Biography of the World’s Most Famous Equation (New York: Walker, 2000).
- ^ “The Nobel Prize in Physics 1921”. Nobel Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2007.
- ^ a ă “Scientific Background on the Nobel Prize in Physics 2011. The accelerating universe.” (page 2) Nobelprize.org.
- ^ a ă Einstein 1924
- ^ a ă â b Pais, Abraham (1982): Subtle is the Lord: The science and the life of Albert Einstein. Oxford University Press, trang 440
- ^ Hans-Josef, Küpper (2000). “Various things about Albert Einstein”. einstein-website.de. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2009.
- ^ a ă Paul Arthur Schilpp, editor (1951), Albert Einstein: Philosopher-Scientist, Volume II, New York: Harper and Brothers Publishers (Harper Torchbook edition), tr. 730–746His non-scientific works include: About Zionism: Speeches and Lectures by Professor Albert Einstein (1930), “Why War?” (1933, co-authored by Sigmund Freud), The World As I See It (1934), Out of My Later Years (1950), and a book on science for the general reader, The Evolution of Physics (1938, co-authored by Leopold Infeld).
- ^ Einstein 1979
- ^ a ă â b Albert Einstein – Biography, Quỹ Nobel, truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2007
- ^ John J. Stachel (2002), Einstein from “B” to “Z”, Springer, tr. 59–61, ISBN 978-0-8176-4143-6, truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011
- ^ a ă “The Legend of the Dull-Witted Child Who Grew Up to Be a Genius”. Albert Einstein archives. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Frequently asked questions”. einstein-website.de. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Left Handed Einstein”. Being Left Handed.com. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2012.
- ^ Schilpp (Ed.), P. A. (1979), Albert Einstein – Autobiographical Notes, Open Court Publishing Company, tr. 8–9
- ^ Dudley Herschbach, “Einstein hồi sinh viên,” Department of Chemistry and Chemical Biology, Harvard University, Cambridge, MA, USA, page 3, web: HarvardChem-Einstein-PDF: Max Talmud thăm vào các ngày thứ Năm trong vòng sáu năm.
- ^ Einstein & Faith. Walter Isaacson Thursday, Apr.ngày 1 tháng 5 năm 2007. Những điều khơi dậy trí thông minh của Einstein đến từ một sinh viên nghèo người cùng ăn tối với gia đình Albert một lần trong tuần. Đó là một phong tục cũ của người Do thái cần phải mời một học giả tôn giáo (religious scholar) đến dự bữa ăn Sabbath; thay vào đó gia đình Einstein đã mời một sinh viên y đến vào thứ Năm hàng tuần. Tên của anh ta là Max Talmud, ông đến gia đình Einstein khi ông 21 tuổi và Albert mới 10 tuổi [https://www.chem.purdue.edu/courses/chm374/Articles%20etc/Herschbach_Einstein_2005.pdf Einstein as a Student, các trang 3–5.
- ^ A. Fölsing, Albert Einstein, 1997, các trang 30-31.
- ^ Albert Einstein Collected Papers, vol. 1 (1987), doc. 5.
- ^ Mehra, Jagdish (2001), “Albert Einstein’s first paper”, The Golden Age of Physics, World Scientific, ISBN 981-02-4985-3
- ^ A. Fölsing, Albert Einstein, 1997, các trang 36-37.
- ^ Highfield & Carter (1993, tr. 21,31,56–57)
- ^ A. Fölsing, Albert Einstein, 1997, p. 40.
- ^ Fölsing 1997, p. 82.
- ^ Collected Papers, vol. 1, docs. 21-27.
- ^ Albert Einstein Collected Papers, vol.ngày 1 tháng 1 năm 1987, doc. 67.
- ^ Troemel-Ploetz, D., “Mileva Einstein-Marić: The Woman Who Did Einstein’s Mathematics”, Women’s Studies Int. Forum, vol. 13, no. 5, các trang 415–432, 1990.
- ^ Walker, Evan Harris (tháng 2 năm 1989), Did Einstein Espouse his Spouse’s Ideas? (PDF), Physics Today, doi:10.1063/1.2810898, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2012.
- ^ Pais, A., Einstein Lived Here, Oxford University Press, 1994, các trang 1–29.
- ^ Holton, G., Einstein, History, and Other Passions, Harvard University Press, 1996, các trang 177–193.
- ^ Stachel, J., Einstein from B to Z, Birkhäuser, 2002, các trang 26–38; 39–55. philoscience.unibe.ch
- ^ Martinez, A. A., “Handling evidence in history: the case of Einstein’s wife.” School Science Review, 86 (316), March 2005, các trang 49–56. PDF
- ^ This conclusion is from Einstein’s correspondence with Marić. Lieserl is first mentioned in a letter from Einstein to Marić (who was staying with her family in or near Novi Sad at the time of Lieserl’s birth) dated ngày 4 tháng 2 năm 1902 (Collected papers Vol. 1, document 134).
- ^ Short life history: Lieserl Einstein-Maric
- ^ Highfield & Carter 1993, tr. 193
- ^ Highfield & Carter 1993, tr. 216
- ^ Bây giờ là Viện sở hữu trí tuệ liên bang Thụy Sĩ – The Swiss Federal Institute of Intellectual Property, truy cập 16 tháng 10 năm 2006. Xem thêm FAQ about Einstein and the Institute
- ^ Peter Galison, “Einstein’s Clocks: The Question of Time” Critical Inquiry 26, no. 2 (Winter 2000): 355–389.
- ^ Gallison, Question of Time.
- ^ Galison, Peter (2003), Einstein’s Clocks, Poincaré’s Maps: Empires of Time, New York: W.W. Norton, ISBN 0-393-02001-0
- ^ a ă Einstein 1905b
- ^ “Eine Neue Bestimmung der Moleküldimensionen” (PDF). ETH Zürich. 1905. doi:10.1002/andp.19063240204. Truy cập 26/9/2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|accessdate=
(trợ giúp) - ^ “Universität Zürich: Geschichte”. Uzh.ch. Ngày 2 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2011.
- ^ Kant, Horst. “Albert Einstein and the Kaiser Wilhelm Institute for Physics in Berlin”. in Renn, Jürgen. “Albert Einstein – Chief Engineer of the Universe: One Hundred Authors for Einstein.” Ed. Renn, Jürgen. Wiley-VCH. 2005. các trang 166–169. ISBN 3-527-40574-7
- ^ Calaprice, Alice; Lipscombe, Trevor (2005), Albert Einstein: a biography, Greenwood Publishing Group, tr. xix, ISBN 0-313-33080-8, Timeline, p. xix
- ^ a ă Heilbron, 2000, p. 84.
- ^ a ă Andrzej, Stasiak (2003), “Myths in science”, EMBO Reports 4 (3): 236, doi:10.1038/sj.embor.embor779, truy cập 22 tháng 1, 2013
- ^ Kennefick, Daniel (tháng 3 năm 2009). “Testing relativity from the 1919 eclipse— a question of bias”. Physics Today (College Park, MD: American Institute of Physics): 37–42. ISSN 0031-9228.
- ^ Hoffman and Dukas (1972), các trang 145–148; Fölsing (1997), các trang 499–508.
- ^ a ă â b c Isaacson, Walter. Einstein: His Life and Universe, Simon & Schuster (2007)
- ^ a ă â b c d Isaacson, Walter. Einstein: His Life and Universe, Simon & Schuster (2007) các trang 407–410
- ^ Fölsing (1997), p. 659.
- ^ Isaacson (2007), p. 404.
- ^ Hoffman, B. (1972), các trang 165–171
- ^ Fölsing, A. (1997), các trang 666–677.
- ^ Clark (1971), p. 619.
- ^ Fölsing (1997), các trang 649, 678.
- ^ Clark (1971), p.642.
- ^ Fölsing (1997), các trang 686-687.
- ^ “In Brief”. Institute for Advanced Study. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2010.
- ^ Evans-Pritchard, Ambrose (ngày 29 tháng 8 năm 2010). “Obama could kill fossil fuels overnight with a nuclear dash for thorium”. The Daily Telegraph (London).
- ^ Gosling, F.G. The Manhattan Project: Making the Atomic Bomb, U.S. Department of Energy, History Division (January 1999) p. vii
- ^ Diehl, Sarah J.; Moltz, James Clay. Nuclear Weapons and Nonproliferation: a Reference Handbook, ABC-CLIO (2008) p. 218
- ^ a ă Stern, Fritz. Essay, “Einstein’s Germany”, E = Einstein: His Life, His Thought, and His Influence on Our Culture, Sterling Publishing (2006) các trang 97–118
- ^ Einstein: The Life and Times by Ronald Clark. page 752
- ^ Fred Jerome, Rodger Taylor (2006) Einstein on Race and Racism Rutgers University Press, 2006.
- ^ Calaprice, Alice (2005) The new quotable Einstein. các trang148–149 Princeton University Press, 2005. See also Odyssey in Climate Modeling, Global Warming, and Advising Five Presidents
- ^ “North America: early 20th Century Albert Einstein (1879-1955)”. International Vegetarian
- ^ Jon Wynne-Tyson (1985), The Extended Circle
- ^ a ă “ISRAEL: Einstein Declines”. Time magazine. Ngày 1 tháng 12 năm 1952. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2010.
- ^ Vì sao bác học Einstein không muốn trở thành Tổng thống Israel? Văn Hòa, An ninh thế giới, 7:10, 27/08/2005 (theo Historia)
- ^ “Einstein in Princeton / Scientist, Humanitarian, Cultural Icon”. Historical Society of Princeton. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2010.
- ^ The Case of the Scientist with a Pulsating Mass, 14 tháng 6 năm 2002, truy cập 11 tháng 6 năm 2007
- ^ Albert Einstein Archives (tháng 4 năm 1955), Draft of projected Telecast Israel Independence Day, tháng 4 năm 1955 (last statement ever written), Einstein Archives Online: Albert_Einstein, truy cập 21/3/2012 Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|accessdate=
(trợ giúp) Bản lưu 7/6/2003 - ^ Cohen, J.R.; Graver, L.M. (tháng 11 năm 1995). “The ruptured abdominal aortic aneurysm of Albert Einstein”. Surgery, Gynecology & Obstetrics 170 (5): 455–8. ISSN 0039-6087. PMID 2183375.
- ^ O’Connor, J.J.; Robertson, E.F. (1997), “Albert Einstein”, The MacTutor History of Mathematics archive, School of Mathematics and Statistics, University of St. Andrews, truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2007
- ^ Dr. Albert Einstein Dies in Sleep at 76. World Mourns Loss of Great Scientist., New York Times, 19 tháng 4 năm 1955,
Princeton, New Jersey, 18 tháng 4 năm 1955. Dr. Albert Einstein, one of the great thinkers of the ages, died in his sleep here early today.
- ^ The Long, Strange Journey of Einstein’s Brain, truy cập 3 tháng 10 năm 2007
- ^ Pais, Abraham (1982), Subtle is the Lord. The Science and the Life of Albert Einstein, Oxford University Press, tr. xi, ISBN 019853907X
- ^ a ă “Einstein archive at the Instituut-Lorentz.” Instituut-Lorentz. 2005. Truy cập 21 tháng 11 năm 2005.
- ^ a ă â Hans-Josef Kuepper. “List of Scientific Publications of Albert Einstein”. Einstein-website.de. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2013 tiếng Đức. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|accessdate=
(trợ giúp) - ^ Điều này trở thành có thể đến khi phát triển các thiết bị dò hạt anpha ở đầu thế kỷ 20. Rutherford mời Mach xem màn hình nhấp nháy trong phòng tối, nơi mà bản thân các hạt anpha va đập vào và được nhìn trực tiếp trên man tối.
- ^ có thể xem tại đây
- ^ Điện tích của 1 mol electron đã được đo theo hằng số Faraday. Chia cho điện tích của 1 electron ta được số Avogadro.
- ^ Major, Fouad G. (2007). The quantum beat: principles and applications of atomic clocks (ấn bản 2). Springer. tr. 142. ISBN 0-387-69533-8.
- ^ Einstein 1905d
- ^ Hawking, S. W. (2001), Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ, Bantam Books, ISBN 0-55-380202-X
- ^ Schwartz, J.; McGuinness, M. (1979), Einstein cho người mới bắt đầu, Pantheon Books, ISBN 0-39-450588-3
- ^ Einstein 1905e
- ^ Thảo luận về sự chấp nhận thuyết tương đối trên toàn thế giới, cũng như những phản đối, xem bài viết của Thomas F.Glick, ed., The Comparative Reception of Relativity (Kluwer Academic Publishers, 1987), ISBN 90-277-2498-9.
- ^ Pais, Abraham (1982), Subtle is the Lord. The Science and the Life of Albert Einstein, Oxford University Press, tr. 382–386, ISBN 019853907X
- ^ Einstein, Albert (1905), “Über einen die Erzeugung und Verwandlung des Lichtes betreffenden heuristischen Gesichtspunkt” (PDF), Annalen der Physik 17: 132–148, truy cập 27 tháng 6 năm 2009
- ^ Millikan, R. (1914). “A Direct Determination of “h“”. Physical Review 4 (1): 73–75. Bibcode:1914PhRv….4R..73M. doi:10.1103/PhysRev.4.73.2.
- ^ a ă â Pais, Abraham (1982), Subtle is the Lord. The Science and the Life of Albert Einstein, Oxford University Press, tr. Ch 6, ISBN 019853907X
- ^ Einstein 1905a.
- ^ Pais, Abraham (1982), Subtle is the Lord. The Science and the Life of Albert Einstein, Oxford University Press, tr. 522, ISBN 019853907X
- ^ O’Connor, John J.; Robertson, Edmund F., “Albert Einstein”, Bộ lưu trữ lịch sử toán học MacTutor
- ^ Levenson, Thomas. “Einstein: Genius Among Geniuses.” Public Broadcasting Service. 2005. Truy cập 25 tháng 2 năm 2006. bản lưu 02/02/1999
- ^ Einstein, A., “Relativitätsprinzip und die aus demselben gezogenen Folgerungen (On the Relativity Principle and the Conclusions Drawn from It)”, Jahrbuch der Radioaktivität (Yearbook of Radioactivity) 4: 411–462 page 454 (Wir betrachen zwei Bewegung systeme…)
- ^ Einstein, Albert (1911), “On the Influence of Gravity on the Propagation of Light”, Annalen der Physik 35: 898–908, doi:10.1002/andp.19113401005 (also in Collected Papers Vol. 3, document 23)
- ^ a ă Crelinsten, Jeffrey. “Einstein’s Jury: The Race to Test Relativity.” Princeton University Press. 2006. Truy cập 13 tháng 3 năm 2007. ISBN 978-0-691-12310-3
- ^ a ă Einstein 1915
- ^ Two friends in Leiden, truy cập 11 tháng 6 năm 2007
- ^ Crelinsten, Jeffrey (2006), Einstein’s Jury: The Race to Test Relativity, Princeton University Press, tr. 103–108, ISBN 978-0-691-12310-3, truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2007
- ^ Crelinsten, Jeffrey (2006), Einstein’s Jury: The Race to Test Relativity, Princeton University Press, tr. 114–119, ISBN 978-0-691-12310-3, truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2007
- ^ Andrzej, Stasiak (2003), “Myths in science”, EMBO reports 4 (3): 236, doi:10.1038/sj.embor.embor779, truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2007
- ^ The genius of space and time, The Guardian, 17 tháng 9 năm 2005, truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2007
- ^ Jürgen Schmidhuber. “Albert Einstein (1879–1955) and the ’Greatest Scientific Discovery Ever’.” 2006. Truy cập 4 tháng 10 năm 2006.
- ^ See the table in MathPages Bending Light
- ^ Hentschel, Klaus and Ann M. (1996), Physics and National Socialism: An Anthology of Primary Sources, Birkhaeuser Verlag, xxi, ISBN 3-76-435312-0
- ^ For a discussion of nhà thiên văn họcs’ attitudes and debates about relativity, see Crelinsten, Jeffrey (2006), Einstein’s Jury: The Race to Test Relativity, Princeton University Press, ISBN 0691123101, especially chapters 6, 9, 10 and 11.
- ^ Einstein 1917a
- ^ Kant, Horst. “Albert Einstein and the Kaiser Wilhelm Institute for Physics in Berlin.” in Renn, Jürgen. “Albert Einstein – Chief Engineer of the Universe: One Hundred Authors for Einstein.” Ed. Renn, Jürgen. Wiley-VCH. 2005. các trang 166–169. ISBN = 3527405747
- ^ Einstein 1917b
- ^ Cornell and Wieman Share 2001 Nobel Prize in Physics, 9 tháng 10 năm 2001, truy cập 11 tháng 6 năm 2007 bản lưu 24/11/2001
- ^ Albert Einstein, Das hamiltonisches Prinzip und allgemeine Relativitätstheorie (The Hamiltonian principle and general relativity). Sitzungsber. preuss. Acad. Wiss. 1916, 2, 1111–1116.
- ^ Albert Einstein, Der Energiesatz in der allgemeinen Relativitätstheorie. (An energy conservation law in general relativity). Sitzungsber. preuss. Acad. Wiss. 1918, 1, 448–459
- ^ Lev Davidovich Landau & Evgeny Mikhailovich Lifshitz, The Classical Theory of Fields, (1951), Pergamon Press, ISBN 7-5062-4256-7 ch 11, ph #96
- ^ Einstein 1950
- ^ Einstein, Albert and Rosen, Nathan (1935). “The Particle Problem in the General Theory of Relativity”. Physical Review 48: 73. Bibcode:1935PhRv…48…73E. doi:10.1103/PhysRev.48.73.
- ^ Élie Cartan. “Sur une généralisation de la notion de courbure de Riemann et les espaces à torsion.” C. R. Acad. Sci. (Paris), 174:593–595, 1922.
- ^ Élie Cartan. “Sur les variétés à connexion affine et la théorie de la relativité généralisée.” Part I: Ann. Éc. Norm. 40: 325–412 and ibid. 41: 1–25; Part II: ibid. 42: 17–88
- ^ Hubert F. M. Goenner. “On the History of Unified Field Theories.” Living Rev. Relativity, 7, (2004), 2.
- ^ Bohr N. “Discussions with Einstein on Epistemological Problems in Atomic Physics“. The Value of Knowledge: A Miniature Library of Philosophy. Marxists Internet Archive. Lấy từ bản gốc ngày 13 tháng 9, 2010. Truy cập 30 tháng 8, 2010. Lấy từ Albert Einstein: Philosopher-Scientist (1949), xuất bản bởi Ấn hành Đại học Cambridge University, 1949. Ghi chép lại của Niels Bohr về cuộc hội thoại với Einstein.
- ^ Einstein 1969. A reprint of this book was published by Edition Erbrich in 1982, ISBN 3-88682-005-X
- ^ Einstein 1935
- ^ A. Einstein, W. J. de Haas, Experimenteller Nachweis der Ampereschen Molekularströme, Deutsche Physikalische Gesellschaft, Verhandlungen 17, các trang 152–170 (1915).
- ^ A Pais. Subtle is the Lord: The science and the life of Albert Einstein. Oxford University Press, trang 245
- ^ Moore, Walter (1989), Schrödinger: Life and Thought, Cambridge: Cambridge University Press, ISBN 0-521-43767-9
- ^ a ă â Botstein, Leon; Galison, Peter; Holton, Gerald James; Schweber, Silvan S. Einstein for the 21st century: His Legacy in Science, Art, and Modern Culture, Princeton Univ. Press (2008) các trang 161-164
- ^ Cariaga, Daniel, “Not Taking It with You: A Tale of Two Estates,” Los Angeles Times, ngày 22 tháng 12 năm 1985. Truy cập April 2012.
- ^ Auction listing by RR Auction, auction closed ngày 13 tháng 10 năm 2010.
- ^ Einstein and his love of music Physics world – January 2005
- ^ “I am convinced there is only one way to eliminate (the) grave evils (of capitalism), namely through the establishment of a socialist economy, accompanied by an educational system which would be oriented toward social goals. In such an economy, the means of production are owned by society itself and are utilized in a planned fashion. A planned economy, which adjusts production to the needs of the community, would distribute the work to be done among all those able to work and would guarantee a livelihood to every man, woman, and child. The education of the individual, in addition to promoting his own innate abilities, would attempt to develop in him a sense of responsibility for his fellow-men in place of the glorification of power and success in our present society.” trong Why Socialism? bởi Albert Einstein, Monthly Review, tháng 5 1949
- ^ David E. Rowe and Robert Schulmann (25 tháng 6, 2007). “What Were Einstein’s Politics?”. George Mason University‘s History News Network.
- ^ “Einstein and Complex Analyses of Zionism” Jewish Daily Forward, 24 tháng 7 năm 2009
- ^ “Albert Einstein on Zionism”, Edward Corrigan
- ^ Pulzer, Peter G.J. (2003), Jews and the German state: the political history of a minority, 1848–1933, Blackwell Publishers, ISBN 9780814331309, truy cập 21 tháng 10 năm 2009
- ^ Leonhard, Elke (1993), Von postrevolutionärer Scheinblüte zum politischen Bankrott; Weimars liberale Parteien DDP und DVP (PDF) (bằng tiếng Đức), Sozialdemokratischer Pressedienst, truy cập 21 tháng 10 năm 2009
- ^ Holborn, Hajo (1971), Deutsche Geschichte in der Neuzeit, III (bằng tiếng Đức), R. oldenbourg, ISBN 9783486432510, truy cập 21 tháng 10 năm 2009
- ^ Calaprice, Alice (2005), The new quotable Einstein, Princeton University Press, tr. 173, ISBN 0-691-12075-7 Other versions of the quote exist.
- ^ Butcher, Sandra Ionno (tháng 5 năm 2005), The Origins of the Russell–Einstein Manifesto (PDF), Council of the Pugwash Conferences on Science and World Affairs, truy cập 2 tháng 5, 2007
- ^ Ken Gewertz (12 tháng 4, 2007), Albert Einstein, Civil Rights activist, Harvard University Gazette, truy cập 11 tháng 6, 2007
- ^ Hawking, Stephen W. (2001), The universe in short, Bantam Books, tr. 26, ISBN 9780553802023
- ^ Feldman, Burton (2001), The Nobel prize: a history of genius, controversy, and prestige, Arcade Publishing, tr. 141, ISBN 1-559-70592-2, Trang 141
- ^ Brian, Dennis (1996), Einstein: A Life, New York: John Wiley & Sons, tr. 127, ISBN 0471114596
- ^ “Belief in God a ‘product of human weaknesses’: Einstein letter”, CBC News. Truy cập 16 tháng 12 năm 2009.
- ^ “Letters of Note: The word God is a product of human weakness”, Letters of Note. Truy cập 16 tháng 12 năm 2009.
- ^ From Wikiquote; letter to an atheist (1954) as quoted in Albert Einstein: The Human Side (1981) edited by Helen Dukas and Banesh Hoffman ISBN 0-691-02368-9
- ^ Einstein, Albert (1930). “Religion and Science” New York Times Magazine (Nov. 9): 1-4.
- ^ The Nobel Prize in Physics 1921: Albert Einstein
- ^ “Matteucci” Medal
- ^ Copley Medal | Royal Society
- ^ Preisträger Max Planck nach Jahren: Max-Planck-Medaille
- ^ Letter from the Albert Einstein Peace Prize Foundation to Joshua Lederberg, Norman Cousins, 14/12/1979
- ^ NAMES & FACES” in Boston Globe ngày 14 tháng 3 năm 1980. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2006.
- ^ Planetary Names: Crater, craters: Einstein on Moon IAU
Tham khảo
- Brian, Denis (1996). Einstein: A Life. New York: John Wiley.
- Clark, Ronald (1971). Einstein: The Life and Times. New York: Avon Books.
- Fölsing, Albrecht (1997): Albert Einstein: A Biography. New York: Penguin Viking. (Translated and abridged from the German by Ewald Osers.) ISBN 978-0670855452
- Highfield, Roger; Carter, Paul (1993). The Private Lives of Albert Einstein. London: Faber and Faber. ISBN 978-0-571-16744-9.
- Hoffmann, Banesh, with the collaboration of Helen Dukas (1972): Albert Einstein: Creator and Rebel. London: Hart-Davis, MacGibbon Ltd. ISBN 978-0670111817
- Isaacson, Walter (2007): Einstein: His Life and Universe. Simon & Schuster Paperbacks, New York. ISBN 978-0-7432-6473-0
- Moring, Gary (2004): The complete idiot’s guide to understanding Einstein (1st ed. 2000). Indianapolis IN: Alpha books (Macmillan USA). ISBN 0-02-863180-3
- Pais, Abraham (1982): Subtle is the Lord: The science and the life of Albert Einstein. Oxford University Press. ISBN 978-0198539070. The definitive biography to date.
- Pais, Abraham (1994): Einstein Lived Here. Oxford University Press. ISBN 0-192-80672-6
- Parker, Barry (2000): Einstein’s Brainchild: Relativity Made Relatively Easy!. Prometheus Books. Illustrated by Lori Scoffield-Beer. A review of Einstein’s career and accomplishments, written for the lay public. ISBN 978-1591025221
- Schweber, Sylvan S. (2008): Einstein and Oppenheimer: The Meaning of Genius. Harvard University Press. ISBN 978-0-674-02828-9.
- Oppenheimer, J.R. (1971): “On Albert Einstein,” p. 8–12 in Science and synthesis: an international colloquium organized by Unesco on the tenth anniversary of the death of Albert Einstein and Teilhard de Chardin, Springer-Verlag, 1971, 208 các trang (Lecture delivered at the UNESCO House in Paris on ngày 13 tháng 12 năm 1965.) Also published in The New York Review of Books, ngày 17 tháng 3 năm 1966, On Albert Einstein by Robert Oppenheimer
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Albert Einstein |
Tìm thêm về Albert Einstein tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
![]() |
Từ điển ở Wiktionary |
![]() |
Sách ở Wikibooks |
![]() |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage |
![]() |
Hồ sơ ở Wikiquote |
![]() |
Văn kiện ở Wikisource |
![]() |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons |
![]() |
Tin tức ở Wikinews |
![]() |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Anhxtanh A. tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- Albert Einstein, Thế giới như tôi thấy. Nhà xuất bản Tri Thức 2005
- Lá thư mới tiết lộ cuộc sống tình cảm của Einstein M.T. VnExpress 11/7/2006, 09:36 GMT+7 (theo Reuters)
(tiếng Anh)
- Albert Einstein (German-American physicist) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Albert Einstein Archives, Jerusalem
- Báo cáo về Albert Einstein trên FBI
- Einstein Online.(tiếng Anh) Trang web với thông tin cơ bản về thuyết tương đối
- Einstein Archives online (tiếng Anh) Các tài liệu lưu trữ của Einstein
- Works by Albert Einstein (public domain in Canada)
- The MacTutor History of Mathematics archive, School of Mathematics and Statistics, University of St Andrews, Scotland, Tháng 4 năm 1997, truy cập 31 tháng 01 năm 2013
- Nobelprize.org Biography: Albert Einstein
- Các công trình liên quan hoặc của Albert Einstein trên các thư viện của thư mục (WorldCat)
|
|
- Sinh 1879
- Mất 1955
- Albert Einstein
- Nhà vật lý Đức
- Nhà vật lý Thụy Sĩ
- Nhà vật lý Hoa Kỳ
- Nhà vật lý Do Thái
- Người đoạt giải Nobel Vật lý
- Người Đức đoạt giải Nobel
- Người Thụy Sĩ đoạt giải Nobel
- Người Hoa Kỳ đoạt giải Nobel
- Dự án Manhattan
- Người Mỹ gốc Đức
- Người Mỹ gốc Do Thái
- Nhà vật lý lý thuyết
- Dân chủ xã hội
- Người Zürich
- Kỹ sư Mỹ
- Nhà triết học Mỹ
- Người Berlin
- Người München
Mao Trạch Đông
Mao Trạch Đông 毛泽东 |
|
![]() Mao Trạch Đông |
|
Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc | |
---|---|
Nhiệm kỳ | 20 tháng 3, 1943 – 9 tháng 9, 1976 |
Kế nhiệm | Hoa Quốc Phong |
Phó Chủ tịch | Lưu Thiếu Kỳ Lâm Bưu Chu Ân Lai Hoa Quốc Phong |
Chủ tịch Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | |
Nhiệm kỳ | 27 tháng 9, 1954 – 27 tháng 4, 1959 |
Kế nhiệm | Lưu Thiếu Kỳ |
Phó Chủ tịch | Chu Đức |
Chủ tịch Quân ủy Trung ương | |
Nhiệm kỳ | 8 tháng 9, 1954 – 9 tháng 9, 1976 |
Kế nhiệm | Hoa Quốc Phong |
Chủ tịch Hiệp Chính | |
Nhiệm kỳ | 1 tháng 10, 1949 – 25 tháng 12, 1976 |
Kế nhiệm | Chu Ân Lai |
Ủy viên Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc | |
Đại diện | Khu vực Bắc Kinh (54 – 59; 64 – 76) |
Đảng | ![]() |
Sinh | 26 tháng 12, 1893 Thiều Sơn, Tương Đàm, Hồ Nam, Đại Thanh Quốc |
Mất | 9 tháng 9, 1976 (82 tuổi) Bắc Kinh, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa |
Dân tộc | Hán |
Tôn giáo | Không |
Phu nhân | La Thị (罗一秀) Dương Khai Tuệ (杨开慧) Hạ Tử Trân (贺子珍) Giang Thanh (江青) |
Con cái | Mao Ngạn Anh (毛岸英) Mao Ngạn Thanh (毛岸青) Mao Ngạn Long Lý Mẫn (李敏) Lý Nạp (李讷) |
Chữ kí | ![]() |
Trung văn phồn thể: 毛澤東; giản thể: 毛泽东; phanh âm: Máo Zédōng; 26 tháng 12 năm 1893 – 9 tháng 9 năm 1976), tự Nhuận Chi (潤之) [ban đầu là Vịnh Chi (詠芝), sau đổi là Nhuận Chi (潤芝, chữ “chi” 之 có thêm đầu chữ thảo 艹], bút danh: Tử Nhậm (子任) là Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1943 đến khi qua đời. Dưới sự lãnh đạo của ông, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã giành thắng lợi trong cuộc nội chiến với Quốc Dân Đảng, lập nên nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) năm 1949 và trở thành đảng cầm quyền ở Trung Quốc.
(Ông đã tạo ra một chủ nghĩa Mác-Lênin được Trung Quốc hóa có tên là chủ nghĩa Mao mà ngày nay ban lãnh đạo Trung Quốc gọi là tư tưởng Mao Trạch Đông (Những người theo chủ nghĩa này gọi là những người Mao-ít (Maoist), tương tự như Marxist, Leninist)
Mao Trạch Đông là người có công trong việc gần như thống nhất được Trung Quốc, đưa Trung Quốc thoát khỏi ách áp bức của ngoại quốc kể từ cuộc Chiến tranh Nha phiến cuối thế kỷ 19, nhưng cũng bị phê phán về trách nhiệm của ông trong nạn đói 1959–1961 và những tai họa của Cách mạng văn hóa. Dưới thời ông, nông nghiệp Trung Quốc được tập thể hóa dưới hình thức công xã nhân dân. Chính sách Đại nhảy vọt) trong kinh tế đã để lại những hậu quả tai hại. Mao Trạch Đông cũng là người phát động Đại Cách mạng văn hóa vô sản, thường gọi là Cách mạng văn hóa. Theo một số liệu thống kê[1], Mao Trạch Đông là nhà lãnh đạo đã trực tiếp hay gián tiếp gây ra cái chết cho khoảng 1 triệu người.[2]
Mao Trạch Đông thường được gọi một cách tôn kính tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là Mao Chủ tịch (毛主席). Vào thời đỉnh cao của sự sùng bái cá nhân, ông được tôn là người có bốn cái “vĩ đại”: Người thầy vĩ đại, Lãnh tụ vĩ đại, Thống soái vĩ đại, Người cầm lái vĩ đại (伟大导师,伟大领袖,伟大统帅,伟大舵手 vĩ đại đạo sư, vĩ đại lãnh tụ, vĩ đại thống soái, vĩ đại đà thủ).
Theo một cuộc thăm dò dư luận quần chúng năm 1994 được phối hợp tiến hành bởi Ban Tuyên truyền Trung ương ĐCSTQ, Phòng Nghiên cứu chính trị Trung ương, Phòng Nghiên cứu chính sách Viện Khoa học Xã hội và Uỷ ban Giáo dục quốc gia, sai lầm của Mao được cho là lớn hơn công lao.[3]
Mục lục
Những năm đầu
Là con út trong một gia đình trung nông, Mao Trạch Đông sinh giờ Thìn ngày 19 tháng 11 năm Quý Tị (năm Quang Tự thứ 19) theo âm lịch, tức 26 tháng 12 năm 1893 tại làng Thiều Sơn, huyện Tương Đàm (湘潭縣), tỉnh Hồ Nam. Dòng tộc của ông vào thời nhà Minh đã di cư từ tỉnh Giang Tây đến đây và nhiều đời làm nghề nông.
Trong cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911), lúc này Mao còn là một học sinh 18 tuổi, triều nhà Thanh bị lật đổ, Trung Quốc tuyên bố thành lập chế độ cộng hòa; người lãnh đạo Cách mạng không thành lập được một chính phủ thống nhất và vững vàng, dẫn đến cuộc nội chiến trong một thời gian dài. Khi Mao đang phục vụ trong quân đội tỉnh Hồ Nam. Sau đó Mao trở về trường học. Sau khi tốt nghiệp Trường Sư phạm số 1 tỉnh Hồ Nam vào năm 1918, Mao cùng với người thầy học và là cha vợ tương lai, giáo sư Dương Xương Tế (杨昌济), lên Bắc Kinh, nơi giáo sư Dương nhận một chân giảng dạy tại Đại học Bắc Kinh. Nhờ sự giới thiệu của giáo sư Dương, Mao được vào làm nhân viên thư viện của trường đại học (thư viện do Lý Đại Chiêu phụ trách). Đồng thời Mao học tại chức tại Đại học Bắc Kinh, nghe nhiều học giả hàng đầu như Trần Độc Tú, Hồ Thích (胡適) và Tiền Huyền Đồng (錢玄同) giảng bài. Sau này Mao kết hôn với Dương Khai Tuệ, con gái giáo sư Dương và cũng là sinh viên Đại học Bắc Kinh. (Khi Mao 14 tuổi, bố ông đã sắp xếp cho ông lấy một cô gái cùng làng là La thị (羅氏), nhưng Mao không công nhận cuộc hôn nhân ép buộc này.)
Sau phong trào Ngũ Tứ, Mao về Hồ Nam tổ chức đoàn thanh niên, ra hai tờ báo tuyên truyền cách mạng là Tương Giang bình luận và Tân Hồ Nam. Hai tờ báo này bị đóng cửa và Mao bị trục xuất khỏi Hồ Nam. Năm 1920, Mao đã tham gia tiểu tổ cộng sản ở Trường Sa (Hồ Nam).
Ngày 23 tháng 7 năm 1921, Mao đã tham gia Đại hội lần thứ nhất thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Thượng Hải. Hai năm sau, tại Đại hội lần thứ ba (1923), ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương của Đảng chỉ gồm 5 người. Tháng 1 năm 1924, theo chủ trương Quốc – Cộng hợp tác, Mao Trạch Đông tham dự Đại hội lần thứ nhất Quốc dân Đảng họp ở Quảng Châu và được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng. Sau đó ông lên đường đi Thượng Hải làm việc tại cơ quan Ban chấp hành Quốc dân Đảng, rồi sang năm sau lại về Quảng Châu làm quyền trưởng Ban tuyên truyền của Quốc dân Đảng, rồi kiêm thêm một chân trong Ủy ban vận động nông dân của đảng này. Lúc này ông đã bị Trần Độc Tú đẩy ra khỏi Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản tại Đại hội 4 họp vắng mặt ông vào tháng 1 năm 1925. Tại Đại hội lần thứ hai Quốc dân Đảng (tháng 1 năm 1926), ông lại được bầu làm ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng và làm quyền Trưởng ban Tuyên truyền đến tháng 5 năm 1926.
Sau khi Tưởng Giới Thạch quay sang đàn áp Đảng Cộng sản, Mao Trạch Đông chủ trương đấu tranh vũ trang với Tưởng nhưng không được Trần Độc Tú chấp nhận và bị thất sủng. Mao Trạch Đông bèn lui về quê cho ra đời Báo cáo khảo sát phong trào nông dân Hồ Nam, tác phẩm quan trọng đầu tiên của chủ nghĩa Mao.
Chiến tranh và cách mạng
Mao thoát được bạch sắc khủng bố vào năm 1927 và lãnh đạo Cuộc khởi nghĩa Vụ gặt Mùa thu ở Trường Sa, Hồ Nam nhưng thất bại. Tàn quân du kích chưa đầy 1.000 người của Mao tìm nơi ẩn náu ở vùng núi Tỉnh Cương Sơn, nơi giáp giới giữa hai tỉnh Hồ Nam và Giang Tây. Năm 1928 đội quân này hợp nhất với quân của Chu Đức, lập ra Quân đoàn 4 công nông, do Chu Đức làm Quân đoàn trưởng. Mao đã góp phần xây dựng căn cứ, chính quyền và một quân đội tiến hành chiến tranh du kích có hiệu quả, thực hiện cải cách ruộng đất. Chính tại nơi đây từ 1931 đến 1934, nhà nước Cộng hòa Xô-viết Trung Hoa được lập ra và Mao được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Trung ương lâm thời. Vào thời kỳ này, Mao kết hôn với Hạ Tử Trân, sau khi Dương Khai Tuệ bị lực lượng Quốc dân Đảng giết chết.
Khu Xô-viết này trở thành nơi trú ngụ của Ban Lãnh đạo Đảng Cộng sản chạy trốn sự khủng bố của Tưởng Giới Thạch ở các thành phố lớn, chủ yếu là Thượng Hải. Dưới áp lực của các chiến dịch bao vây càn quét của Quốc dân Đảng, trong nội bộ Ban Lãnh đạo Đảng Cộng sản diễn ra cuộc tranh giành quyền lực và đấu tranh về đường lối và chiến thuật. Phe theo đường lối chính thống của Moskva, mà đại diện là nhóm 28 người Bolshevik, đã thắng thế và Mao dần dần bị gạt ra khỏi các chức vụ quan trọng.
Với quyết tâm tiêu diệt bằng được những người cộng sản, tháng 10 năm 1934 Tưởng Giới Thạch trực tiếp chỉ huy 50 vạn quân bao vây tấn công khu Xô-viết trung ương, buộc Hồng quân phải mở đường máu rời bỏ nơi đây, tiến hành cuộc Vạn lý trường chinh cực kỳ gian khổ, vượt 9.600 km trong suốt một năm trời để đến tỉnh Thiểm Tây xây dựng căn cứ mới. Trên đường trường chinh Mao Trạch Đông đã bước lên nắm quyền lãnh đạo từ Hội nghị Tuân Nghĩa họp vào tháng 1 năm 1935. Tại hội nghị này, Chu Ân Lai ngả về phía Mao, Tổng Bí thư Bác Cổ và cố vấn quân sự Otto Braun (tên Trung Quốc là Lý Đức) bị hạ bệ, Mao vào Ban thường vụ Bộ Chính trị, nắm quyền thực tế và năm 1943 được bầu làm Chủ tịch Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Từ căn cứ mới ở Diên An, Mao đã lãnh đạo những người cộng sản tiến hành cuộc kháng chiến chống Nhật (1937–1945) thông qua hợp tác Quốc–Cộng lần thứ hai. Tại đây, Mao đã củng cố quyền lực trong Đảng Cộng sản bằng cách mở cuộc vận động chỉnh phong. Tại Đại hội lần thứ 7 của Đảng Cộng sản Trung Quốc họp tại Diên An tháng 6 năm 1945, Mao được bầu làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng. Cũng tại Diên An, Mao ly thân với Hạ Tử Trân và lấy Lam Bình, một diễn viên mới tới Diên An mà sau này khuynh đảo chính trường Trung Quốc với tên gọi là Giang Thanh.
Ngay sau khi Chiến tranh Trung-Nhật kết thúc, nội chiến đã diễn ra giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản, kết thúc bằng thắng lợi của Đảng Cộng sản vào năm 1949.
Lãnh đạo Trung Quốc
Mao Trạch Đông thuộc phái tả kiên định, năm 1920, Mao trở thành người Mác xít. Năm 1921, là một trong 21 người sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng mãi đến năm 1935, Mao mới trở thành người lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Trung Quốc sau hai lần thất bại vào năm 1927 và 1934, nhưng cuối cùng cũng vượt qua được nhờ Mao Trạch Đông lên nắm quyền lãnh đạo Đảng, lực lượng của Đảng dần được củng cố mạnh lên. Đến năm 1947, Mao Trạch Đông đã chuẩn bị phát động cuộc tấn công toàn diện vào Chính phủ Quốc Dân Đảng do Tưởng Giới Thạch đứng đầu.
Mao Trạch Đông lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc giành chính quyền năm 1949 và giải phóng toàn bộ đại lục Trung Quốc; trong suốt 27 năm, ông đã kiên trì thực hiện công cuộc cải cách vĩ đại mang ý nghĩa sâu xa trên đất nước Trung Quốc. Sau khi đánh bại Trung Hoa Dân Quốc, Mao cho thiết quân luật ở Trung Quốc. Vấp phải sự phản đối của một số tướng lĩnh then chốt trong guồng máy cộng sản, Mao cho ám sát và đưa đi an trí một số người như: Đặng Tiểu Bình, Chu Đức,…
Từ năm 1949 đến 1976, Mao Trạch Đông luôn là nhân vật quan trọng nhất trong Chính quyền Trung ương Trung Quốc. Mao đã lái Trung Quốc theo con đường chủ nghĩa xã hội không tưởng dựa vào bạo lực. Tiếp đó Mao phát động phong trào Đại nhảy vọt và Công xã hoá, vào thời kỳ cuối những năm 50 của thế kỷ XX – Đây là kế hoạch với ý đồ nhấn mạnh biện pháp sản xuất quy mô nhỏ, sản xuất thủ công, tiến hành cuộc thực nghiệm chủ nghĩa xã hội không tưởng lớn chưa từng thấy nhưng cuối cùng bị thất bại và phải hủy bỏ. Nó gây ra tấn thảm kịch lớn chưa từng thấy trong lịch sử loài người: 37,55 triệu người chết đói.[4]
Kế hoạch tiếp theo mà Mao ủng hộ là cuộc “Đại Cách mạng văn hóa vô sản” vào những năm 60 của thế kỷ XX.
Có điều đặc biệt là khi phát động “Đại nhảy vọt”, Mao Trạch Đông đã hơn 60 tuổi; còn “Đại Cách mạng văn hóa” diễn ra lúc ông gần 70 tuổi; và khi quyết định thiết lập ngoại giao với Hoa Kỳ thì Mao đã gần 80 tuổi.
Qua đời
Mao Trạch Đông qua đời ngày 9 tháng 9 năm 1976, 10 phút sau nửa đêm ở thủ đô Bắc Kinh. [5]
Ông chết vì bệnh xơ cứng teo cơ (tên khoa học amyotrophic lateral sclerosis), ở Hoa Kỳ bệnh này thường được gọi là Lou Gehrig’s hoặc Motor Neurone, cùng một căn bệnh với Stephen Hawking. Sức khỏe của Mao Trạch Đông đã rất kém trong nhiều năm và suy giảm rất rõ rệt trong thời gian vài tháng trước khi chết. Thi hài ông được an táng tại Đại lễ đường nhân dân. Lễ tưởng niệm ông cử hành vào ngày 18 tháng 9 năm 1976 tại quảng trường Thiên An Môn. Trong lễ tưởng niệm có 3 phút mặc niệm. Sau đó thi hài ông được đặt trong Lăng Mao Trạch Đông, mặc dù ông muốn được hỏa táng và là nhà lãnh đạo cấp cao đầu tiên ký văn bản chính thức vào tháng 11 năm 1956 quy định tất cả những người lãnh đạo cấp trung ương sau khi chết sẽ được an táng theo nghi thức hỏa táng. [6]
Đánh giá
Theo cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, của Tân Tử Lăng, do nhà xuất bản Thư Tác Phường ấn hành tháng 7 năm 2007 viết:
“ | Nhân dân đã thức tỉnh. Việc tiếp tục treo ảnh Mao trên Thiên An Môn, tiếp tục để thi hài Mao ở nhà kỷ niệm là lạc hậu so với quần chúng rồi, cần xử lý thỏa đáng đất nước ta triệt để bóng đen Mao Trạch Đông. | ” |
—Tân Tử Lăng |
“ | Đánh giá một nhà chính trị thời kỳ cận đại là rất khó khăn; Có thể so sánh Mao Trạch Đông với Tần Thủy Hoàng; vì họ đều là người Trung Quốc, đều là các nhà cải cách. Nếu so sánh Mao Trạch Đông với Lê Nin cũng là xác đáng, họ đều sống ở thế kỷ 20, Mao Trạch Đông là người kiến tạo Chủ nghĩa Marx ở Trung Quốc, cũng như Lê Nin là người đặt nền móng cho Chủ nghĩa Marx ở nước Nga. Mới nhìn ta thấy Mao Trạch Đông gần như nổi bật hơn Lê Nin vì Trung Quốc có số dân gấp ba lần Liên Xô, nhưng Lê Nin có trước và đã là một tấm gương cho Mao Trạch Đông, có ảnh hưởng đối với Mao Trạch Đông. | ” |
—NXB CTQG |
Gia đình
Những người vợ
- La Thị (羅氏) (1889–1910), do gia đình sắp đặt nhưng Mao không công nhận và hai người chưa hề ăn ở với nhau. Kết hôn năm 1907. Không có con.
- Dương Khai Tuệ (杨开慧, 1901–1930) ở Trường Sa, kết hôn năm 1921, sống với nhau đến năm 1927, bị Quốc dân Đảng hành quyết năm 1930. Bà sinh được 3 người con trai.
- Hạ Tử Trân (贺子珍, 1909? / tháng 8 năm 1910 – 19 tháng 4 năm 1984) người Vĩnh Tân, tỉnh Giang Tây, kết hôn từ tháng 5 năm 1928, đến năm 1937 thì bà sang Liên Xô chữa bệnh. Bà sinh nở 6 lần nhưng 5 con chết non hoặc mất tích và chỉ có Lý Mẫn trưởng thành.
- Giang Thanh (江青): kết hôn từ năm 1938 đến lúc Mao mất. Có 1 con gái là Lý Nạp.
- Theo hồi ký của Lý Chí Thỏa, bác sĩ riêng của ông, Mao đã làm tình với cả trăm người phụ nữ khác. Qua đó ông ta chấp nhận là họ có thể bị lây bệnh hoa liễu, bởi vì chính ông đã bị mắc bệnh này mà không thể chữa khỏi được.[7] Tuy nhiên, một số học giả, những người thân và những người từng làm việc với Mao đã lên tiếng chỉ trích về tính chính xác của những nguồn hồi ký cá nhân như vậy.[8] Một nhóm nghiên cứu gồm ba tác giả đã dẫn những hồ sơ y tế cũ của Mao cho thấy Lý Chí Thỏa chỉ chăm sóc Mao có 1 ngày duy nhất (ngày 3 tháng 6 năm 1957). Như vậy, Lý Chí Thỏa không phải là bác sĩ thường trực của Mao Trạch Đông và vì thế không có khả năng có được những thông tin “riêng tư, bí mật” mà ông viết ra trên sách[9].
Ông nội, cụ và bố mẹ
- Mao Di Xương (毛贻昌), bố, tên tự là Mao Thuận Sinh (毛顺生) (15 tháng 10 năm 1870 – 23 tháng 1 năm 1920)
- Văn Thất Muội (文七妹), mẹ (12 tháng 2 năm 1867 – 5 tháng 10 năm 1919), lấy chồng năm 1885
- Mao Ân Phổ (毛恩普), ông nội
- Mao Tổ Nhân (毛祖人), cụ nội
Anh chị em
Bố mẹ Mao Trạch Đông có cả thảy 5 con trai và 2 con gái. Hai người con trai và cả 2 con gái chết sớm, còn lại 3 anh em Mao Trạch Đông, Mao Trạch Dân, Mao Trạch Đàm. Cũng như Dương Khai Tuệ, Mao Trạch Dân và Mao Trạch Đàm đều bị Quốc dân Đảng giết hại trong thời kỳ nội chiến.
- Mao Trạch Dân (毛泽民, 1895? / 3 tháng 4 năm 1896 – 27 tháng 9 năm 1943), em trai
- Mao Trạch Đàm (毛泽覃, 25 tháng 9 năm 1905 – 26 tháng 4 năm 1935), em trai
- Có hai chị em gái đều chết trẻ, trong đó có Mao Trạch Oanh
Ngoài ra Mao Trạch Kiến (毛泽建, 1905 – 1929) tức Mao Trạch Hồng là chị họ, bị Quốc dân Đảng giết hại năm 1930
Những người con
- Mao Ngạn Anh (毛岸英, 1922-1950): Con trai cả của Dương Khai Tuệ, kết hôn với Lưu Tư Tề (刘思齐), tên khai sinh là Lưu Tùng Lâm (刘松林)
- Mao Ngạn Thanh (毛岸青, 1923-2007): Con trai của Dương Khai Tuệ, kết hôn với Thiệu Hoa (邵华), em gái Lưu Tư Tề, sinh ra con trai là Mao Tân Vũ
- Mao Ngạn Long (1927- 1931?): con trai út của Dương Khai Tuệ, mất tích
- Lý Mẫn (李敏, 1936): Con gái của Hạ Tử Trân, kết hôn với Khổng Lệnh Hoa (孔令华), sinh ra con trai là Khổng Kế Ninh (孔继宁), con gái là Khổng Đông Mai (孔冬梅). Mao từng có biệt danh là Lý Đức Thắng, nên Lý Mẫn lấy họ này?
- Lý Nạp /Nột (李讷, 1940): Con gái của Giang Thanh, kết hôn với Vương Cảnh Thanh (王景清), sinh ra con trai là Vương Hiệu Chi (王效芝). Lý là họ gốc của Giang Thanh
Lưu ý là tên đệm trong từng thế hệ gia đình Mao là giống nhau, tuần tự các đời là Tổ-Ân-Di-Trạch-Ngạn. Các con của Mao Trạch Dân và Mao Trạch Đàm có tên đệm là Viễn.
Các tác phẩm
- Thực tiễn luận (Luận về vấn đề “thực tiễn”)
- Mâu thuẫn luận (Luận về vấn đề “mâu thuẫn”)
- Luận trì cửu chiến (Luận về đánh lâu dài)
- Tân dân chủ chủ nghĩa luận (Luận về chủ nghĩa dân chủ mới)
- Mao Trạch Đông ngữ lục (Tổng hợp các câu nói ấn tượng của Mao Trạch Đông)
- Hồng bảo thư
Những câu nói nổi tiếng
“ | Chính trị là chiến tranh không có đổ máu, chiến tranh là chính trị có đổ máu | ” |
“ | Súng đẻ ra chính quyền | ” |
“ | Nông thôn bao vây thành thị | ” |
“ | trí thức không bằng cục phân | ” |
Báo chí Việt Nam và Mao Trạch Đông
Các bài trên báo Cứu quốc của Mặt trận Liên Việt và báo Nhân Dân:
“ | Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Các Mác – Lênin – Xíttalin và tư tưởng Mao Trạch Đông, nhân loại tiến bộ nhất định thắng lợi hoàn toàn trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập quốc gia, bảo vệ dân chủ, bảo vệ hòa bình chống đế quốc gây chiến[11] | ” |
“ | Chủ tịch Mao Trạch Đông đã áp dụng tài tình chủ nghĩa Mác- Ăngghen – Lênin – Stalin vào hoàn cảnh Trung Quốc, hoàn cảnh một nước nông nghiệp nửa thuộc địa, lãnh đạo nhân dân Trung Quốc đánh tan thế lực phản động, lập nên nước Trung Hoa cộng hòa nhân dân vĩ đại, cùng với Liên Xô làm một thành trì vô cùng vững mạnh cho phong trào hòa bình thế giới, mở đường cho nhân dân các nước nhỏ yếu đứng dậy đấu tranh đòi độc lập và hòa bình. Đặc biệt đối với Việt Nam, Trung Quốc đã giúp đỡ mọi mặt và là một hậu phương chắc chắn cho cuộc kháng chiến của Việt Nam…Kính yêu và tin tưởng vào Đại nguyên soái Stalin và Mao chủ tịch, nhân dân thế giới học tập và quyết tâm thực hiện mỗi lời nói của hai vị lãnh tụ. Vui mừng sinh nhật Đại nguyên soái Stalin, vị lãnh tụ tối cao của nhân loại tiến bộ, và sinh nhật Chủ tịch Mao Trạch Đông, lãnh tụ tối cao của nhân dân châu Á, nhân dân châu Á và thế giới hướng về Liên Xô và Trung Quốc lấy lời nói của hai vị lãnh tụ làm phương châm…Nhân dân Việt Nam kính yêu Đại nguyên soái Stalin và Chủ tịch Mao Trạch Đông và tỏ lòng biết ơn công lao vĩ đại của hai vị lãnh tụ đối với Cách mạng thế giới và Cách mạng Việt Nam.[12] | ” |
“ | Đại tướng rút ra mấy kinh nghiệm và bài học lớn mà chiến dịch này đã đem lại: 1/Tác dụng quyết định của sự chỉ đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch, Chính phủ và Trung ương Đảng Lao động trong sự nhận định tình hình ngay lúc ban đầu. Nhận định này đã căn cứ trên những phân tách dựa theo lý luận Mác – Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông áp dụng vào chiến tranh ở Việt Nam…[13] | ” |
“ | Đại gia đình hòa bình và dân chủ do Liên Xô lãnh đạo đầy tình thân yêu và có một sức mạnh vĩ đại. Chúng tôi tin rằng tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc sẽ cao như núi, sâu như bể…Chúng ta hãy nâng cốc chúc sức khỏe của Mao Chủ tịch, Mặt Trời vĩ đại của phương đông…[14] | ” |
“ | Đứng bên cạnh Liên Xô, công ơn của Trung Quốc với chúng ta thật không sao kể xiết. Tỏ lòng biết ơn Trung Quốc, biết ơn Mao Chủ tịch, chúng ta nguyện ra sức học tập Trung Quốc. Trong những điều mà cách mạng Trung Quốc dạy chúng ta, quý báu nhất là kinh nghiệm áp dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Ăngghen – Lênin-Stalin vào hoàn cảnh một nước phong kiến lạc hậu thuộc địa, nửa thuộc địa. Đó là tư tưởng Mao Trạch Đông, là kinh nghiệm xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, đấu tranh vũ trang và xây dựng Đảng lãnh đạo. Đó là ba pháp bảo đã đưa cách mạng Trung Quốc đến thành công rực rỡ, và đã được Hồ Chủ tịch và Đảng Lao động Việt Nam vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam khiến công cuộc kháng chiến và kiến quốc của ta đã thu được nhiều thắng lợi lớn.[15] | ” |
“ | Với tư tưởng Mao Trạch Đông kết tinh của chủ nghĩa Mác-Lênin-Stalin áp dụng vào thực tiễn phương Đông, Trung Quốc đang soi đường cho các dân tộc châu Á cùng tiến, để cùng nhân dân thế giới đấu tranh giành độc lập dân tộc và một nền hòa bình, hạnh phúc lâu dài.[16] | ” |
“ | Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc như Mao Chủ tịch nói “đã phát triển từ chỗ không đến chỗ có“…Nhưng nắm vững đường lối “đoàn kết toàn dân, tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến” của Mao Chủ tịch và Đảng Cộng sản Trung Quốc, quân đội của nhân dân Trung Quốc càng ngày càng giành được nhiều thắng lợi lớn…Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, trong ngót ba chục năm lịch sử chiến đấu vĩ đại đã chứng tỏ rằng một quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu thì dù phải đương đầu với những kẻ thù hung ác thế nào, nhất định sẽ chiến thắng[16] | ” |
“ | Nhờ có Mao Chủ tịch và Đảng Cộng sản lãnh đạo, áp dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin- Stalin vào hoàn cảnh Trung Quốc, nhờ quân và dân đoàn kết nhất trí, một lòng một dạ tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng, Quân đội giải phóng và nhân dân Trung Quốc đã chiến thắng phát xít Nhật, bè lũ Tưởng Giới Thạch do Mỹ vũ trang và chỉ huy…Mao Chủ tịch và Đảng Cộng sản đã phát động phong trào “chống Mỹ, giúp Triều, giữ nhà, giữ nước“…Sau ba năm chiến đấu anh dũng, quân dân Trung – Triều đã đánh bại đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ký kết đình chiến ở Triều Tiên. Đó là một thắng lợi lớn lao của nhân dân Trung – Triều và của phe hòa bình và dân chủ trên thế giới.[15] | ” |
.
“ | Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch và Đảng Lao động Việt Nam, nhân dân Việt Nam quyết học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, học tập kinh nghiệm Trung Quốc, ra sức tiêu diệt thực dân Pháp và can thiệp Mỹ[17] | ” |
“ | Mỗi lần lên diễn đài, việc đầu tiên của chúng tôi là chuyển lời chào cùng lời chúc thắng lợi của Mao chủ tịch và nhân dân Trung Quốc. Thế là hàng vạn con người đứng cả dậy, tiếng hô Mao Chủ tịch muôn năm, Hồ Chủ tịch muôn năm, tình đoàn kết Việt – Hoa vang lên như sấm[17] | ” |
.
“ | Phong độ nhân từ, lời nói thấm thía của Người cho chúng tôi cái cảm giác như đứng trước Hồ Chủ tịch thân yêu của chúng ta[18] | ” |
“ | Nhân dân Việt Nam tin chắc rằng lực lượng hùng cường và trái tim sắt đá của 600 triệu nhân dân Trung Quốc, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Mao Chủ tịch và Đảng Cộng sản Trung Quốc và được nhân dân châu Á cùng nhân dân thế giới nhiệt liệt đồng tình, nhất định sẽ giành được thắng lợi hoàn toàn, nhất định giải phóng được Đài Loan[19] | ” |
“ | Phổ biến kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân Trung Quốc, Mao Chủ tịch, lãnh tụ tối cao của nhân dân Trung Quốc và nhân dân châu Á, đã nêu rõ cho nhân dân ta thấy con đường đấu tranh trường kỳ, kiên quyết và bền bỉ chống đế quốc là con đường đi tới thành công hoàn toàn [20] | ” |
.
“ | Kính yêu và tin tưởng vào Đại nguyên soái Stalin và Mao Chủ tịch, nhân dân thế giới học tập và quyết tâm thực hiện mỗi lời nói của hai vị lãnh tụ[12] | ” |
.
“ | Thể hiện tình cảm cách mạng cao cả của Chủ tịch Mao Trạch Đông kính mến: “700 triệu nhân dân Trung Quốc là hậu thuẫn vững mạnh của nhân dân Việt Nam, đất nước Trung Quốc bao la là hậu phương đáng tin cậy của nhân dân Việt Nam“, Đảng Cộng sản, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đã luôn luôn dành cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân miền Nam Việt Nam sự đồng tình sâu sắc…[21] | ” |
Kể từ sau năm 1972, khi quan hệ với Trung Quốc xấu đi, báo chí Việt Nam chỉ trích Mao Trạch Đông vì “tư tưởng bá quyền Trung Quốc”. Văn kiện quan trọng “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” của Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố ngày 4/10/1979 viết:
“ | Những người lãnh đạo Trung Quốc coi Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với chiến lược của họ, luôn luôn tìm cách nắm Việt Nam… một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và giàu mạnh, có đường lối độc lập tự chủ và đường lối quốc tế đúng đắn là một cản trở lớn cho chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc, trước hết là cho chính sách bành trướng của họ ở Đông nam châu Á… Họ tập trung mọi cố gắng để dấy lên một cuộc “thập tự chinh quốc tế” của các lực lượng đế quốc và phản động chống Liên Xô dưới chiêu bài “chống bá quyền” theo công thức của chủ tịch Mao Trạch Đông: “Ngồi trên núi xem hổ đánh nhau”.[22] | ” |
Chú thích
- ^ 1900-2000: A century of genocides
- ^ HOW MANY DID COMMUNIST REGIMES MURDER? – By R.J. Rummel
- ^ Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, Tr.5, Nhà xuất bản Thư tác bảng, Hồng Công 2007, Thông tấn xã Việt Nam dịch và in 2009
- ^ Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, Tr.7, Nhà xuất bản Thư tác bảng, Hồng Công 2007, Thông tấn xã Việt Nam dịch và in 2009
- ^ Những năm cuối đời của Mao Trạch Đông qua lời kể
- ^ Những bí mật về việc bảo quản thi hài Mao Trạch Đông
- ^ Jonathan Mirsky: Unmasking the Monster, The New York Review of Books, Nov 17, 1994, S. 22-28 (Rezension zur englischen Ausgabe von Li Zhisui: Ich war Maos Leibarzt. Die persönlichen Erinnerungen des Dr. Li Zhisui an den Vorsitzenden. Lübbe, Bergisch Gladbach 1994).
- ^ DeBorja, Q.M. and Xu L. Dong (eds) (1996). Manufacturing History: Sex, Lies and Random House’s Memoirs of Mao’s Physician. New York: China Study Group. p. 04
- ^ Lin Ke, Xu Tao and Wu Xujun (1995). Lishi de Zhenshi: Mao Zedong Shenbian Gongzuo Renyuan de Zhengyan (The Truth of History: Testimony of the personnel who had worked with Mao Zedong). Hong Kong: Liwen Chubanshe. Page 150
- ^ [1]
- ^ Báo Cứu Quốc ngày 17 Tháng Ba 1952
- ^ a ă Cứu Quốc ngày 23 Tháng Mười Hai 1952
- ^ Tường thuật Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói chuyện về chiến thắng Hòa Bình, Báo Cứu Quốc ngày 9 Tháng Ba 1952
- ^ Nhân Dân ngày 9 Tháng Tám 1954
- ^ a ă Cứu Quốc ngày 2 Tháng Hai 1954
- ^ a ă Cứu Quốc 2 Tháng Hai 1954
- ^ a ă Cứu Quốc ngày 1 Tháng Mười 1952
- ^ Cứu Quốc ngày 19 Tháng Một 1952
- ^ Nhân Dân 21 Tháng Tám 1954
- ^ Cứu Quốc 16 Tháng Hai 1952
- ^ Nhân Dân ngày 13 Tháng Ba 1971
- ^ “Kỳ 75: Mao Trạch Đông – ‘Hoàng đế đỏ’ của Trung Hoa cộng sản!”. Một Thế Giới. Truy cập 24 tháng 9 năm 2015.
Đọc thêm
- Đời tư của Mao Chủ tịch, hồi ký của Lý Chí Thỏa, từng là bác sĩ riêng và người thân tín của Mao từ 1954 đến 1976 (Li, Zhisui (1996). The Private Life of Chairman Mao. Random House. ISBN 0679764437.).
- Becker, Jasper (1998). Hungry Ghosts: Mao’s Secret Famine. Holt Paperbacks. ISBN 0805056688.
- Chang, Jung; Halliday, Jon (2005). Mao: The Unknown Story. Knopf. ISBN 0679422714.
- Cheek, Timothy, ed. Mao Zedong and China’s Revolutions: A Brief History with Documents (The Bedford Series in History and Culture. NY: Palgrave, 2002).
- Cheek, Timothy, ed.A Critical Introduction to Mao (New York: Cambridge University Press, 2010 ISBN 978-0-521-88462-4).
- Dikötter, Frank. Mao’s Great Famine: The History of China’s Most Devastating Catastrophe, 1958–62. Walker & Company, 2010. ISBN 0-8027-7768-6
- Feigon, Lee (2003). Mao: A Reinterpretation. Ivan R. Dee, Publisher. ISBN 1566635225.
- MacFarquhar, Roderick; Schoenhals, Michael (2006). Mao’s Last Revolution. Harvard University Press. ISBN 0674023323.
- Mobo, Gao (2008). The Battle for China’s Past: Mao and the Cultural Revolution. Pluto Press. ISBN 074532780X.
- Schram, Stuart R. (1967). Mao Tse-Tung. Penguin. ISBN 0140208402.
- Schwartz, Benjamin Isadore (1951). Chinese Communism and the Rise of Mao. Harvard University Press. ISBN 0674122518.
- Short, Philip (2001). Mao: A Life. Owl Books. tr. 761. ISBN 0805066381.
- Spence, Jonathan D. (1999). Mao Zedong. Viking. ISBN 0670886696.
- Terrill, Ross (1980). Mao: A Biography. Stanford University Press. ISBN 0804729212.
- Chinese Writers on Writing featuring Mao Zedong. Ed. Arthur Sze. (Trinity University Press, 2010).
- Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, Nhà xuất bản Thư tác bảng, Hồng Công 2007, Thông tấn xã Việt Nam dịch và in 2009
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Mao Trạch Đông |
- BBC 中国丛谈特辑(上)
- BBC 中国丛谈特辑(上)采访录音
- BBC 中国丛谈特辑(下)
- BBC 中国丛谈特辑(下)采访录音
- “Mao: The Unknown Story” on Amazon.com
- 開放出版社 《毛澤東:鮮為人知的故事》中文版
- 《毛澤東:鮮為人知的故事》 英文注釋
- Asia Source biography
- Mao Zedong Biography From Spartacus Educational
- The Mao Zedong Reference Archive at marxists.org
- Collected Works of Mao Zedong at the Maoist Internationalist Movement
- Mao Zedong on propaganda posters Set of propaganda paintings showing Mao Zedong as the great leader of China.
- Other Chinese leaders
- CNN profile
- (tiếng Trung) Sayings of Chairman Mao [2]
- The Oxford Companion to Politics of the World: Mao Zedong
- Uncounted Millions: Mass Death in Mao’s China (July 1994 Washington Post article by Daniel Southerland)
- Getting My Reestimate Of Mao’s Democide Out (blog article by professor R. J. Rummel)
- China must confront dark past, says Mao confidant by Jonathan Watts for The Guardian
- Báo Biên Phòng, Những điều ít biết về bài báo chữ to “Nã pháo vào Bộ Tư lệnh” của Mao Trạch Đông
- Sinh 1893
- Mất 1976
- Người Hồ Nam
- Người Cộng sản
- Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc
- Chủ tịch Trung Quốc
- Người sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc
- Chủ nghĩa Mao
- Độc tài
- Nhà lý luận Mác-xít
- Nhà cách mạng Trung Quốc
- Đảng Cộng sản Trung Quốc
- Lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc
- Lãnh tụ Cộng sản
- Mao Trạch Đông
- Nhà cách mạng
Chu Ân Lai
Chu Ân Lai 周恩来 |
|
---|---|
![]() |
|
Chức vụ
|
|
Nhiệm kỳ | 1 tháng 10 năm 1949 – 8 tháng 1 năm 1976 |
Tiền nhiệm | Không có |
Kế nhiệm | Hoa Quốc Phong |
Thông tin chung
|
|
Đảng phái | Đảng Cộng sản Trung Quốc |
Sinh | 5 tháng 3 năm 1898 Hoài An, Giang Tô |
Mất | 8 tháng 1, 1976 (77 tuổi) Bắc Kinh |
Vợ | Đặng Dĩnh Siêu |
Chu Ân Lai (giản thể: 周恩来; phồn thể: 周恩來; bính âm: Zhōu Ēnlái; Wade-Giles: Chou En-lai) (5 tháng 3 năm 1898 – 8 tháng 1 năm 1976), là một lãnh đạo xuất chúng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, từng giữ chức Thủ tướng Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa từ 1949 cho tới khi ông qua đời tháng 1 năm 1976, và Bộ trưởng ngoại giao từ năm 1949 tới năm 1958. Chu Ân Lai đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh giành quyền lực của Đảng Cộng sản, và sau này trong việc xây dựng nền kinh tế Trung Quốc cũng như tái cơ cấu xã hội Trung Quốc. Trên bình diện quốc tế, Chu Ân Lai là một nhà ngoại giao tài năng, là người ủng hộ sự sống chung hoà bình và từng tham gia vào Hội nghị Geneva năm 1954. Nhờ phẩm chất đạo đức của mình, ông rất được lòng dân chúng, và cái chết của Chu Ân Lai khiến sự ủng hộ của dân chúng tăng mạnh trở thành yếu tố then chốt trong cuộc chuyển giao quyền lực ở Trung Quốc từ Mao Trạch Đông sang Đặng Tiểu Bình.
Mục lục
Tuổi trẻ
Chu Ân Lai sinh tại huyện Sơn Dương, phủ Hoài An (nay là huyện Hoài An), tỉnh Giang Tô, Trung Quốc nhưng quê gốc ở huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang. Gia đình ông, dù thuộc tầng lớp trí thức, nhưng không phong lưu. Ông nội ông là một quan chức cấp thấp trong triều với mức lương ít ỏi. Cha ông liên tục trượt trong các kỳ thi, và trong suốt cuộc đời ông chỉ làm những chân thư ký cấp thấp.
Chu Ân Lai là con trai lớn nhất và cháu đích tôn của họ Chu. Khi chưa tới một tuổi, ông được người em út của cha nhận làm con nuôi, ông này khi ấy đang mỏi mòn vì bệnh lao. Cha ông hy vọng rằng việc nhận con nuôi sẽ giúp người em trai không chết trẻ, nhưng đây là một vấn đề nghiêm trọng đối với một gia đình theo truyền thống Khổng giáo.
Bà Trần, mẹ nuôi của ông, bắt đầu dạy chữ Hán cho ông khi ông mới chập chững. Khi lên bốn tuổi ông đã có thể đọc và viết hàng trăm chữ.
Năm 1907, mẹ đẻ của ông chết vì bệnh lao, và vào mùa hè năm 1908 bà Trần cũng qua đời. Chu Ân Lai mồ côi khi mới lên mười, vì thế mọi người thu xếp để ông rời Hoài An tới thành phố Thẩm Dương ở Mãn Châu sống với người cậu, Yikang. Khi mười hai tuổi, Chu Ân Lai theo học trường Đông Quan, nơi có cách “giáo dục mới,” như toán học và khoa học tự nhiên, cũng như lịch sử Trung Quốc, địa lý và văn học. Các học sinh cũng được tiếp cận với những bản dịch các cuốn sách phương Tây, nơi Chu Ân Lai học được về tự do, dân chủ và các cuộc cách mạng Mỹ, Pháp.
Năm 1913, lúc mười lăm tuổi, Chu Ân Lai tốt nghiệp trường Đông Quan và vào tháng 9 năm ấy ông ghi tên theo học trường Nam Khai tại Thiên Tân. Trong bốn năm tiếp theo ông là một sinh viên siêng năng của ngôi trường truyền giáo Mỹ này. [cần dẫn nguồn] Trong cả thời gian học tập của ông Trung Quốc luôn ở trong tình trạng hỗn loạn. Năm 1911 cuộc Cách mạng Tân Hợi của Tôn Dật Tiên lật đổ nhà Thanh thành lập nước Trung Hoa Dân Quốc. Cuộc Đại chiến thế giới bùng nổ tại Châu Âu khiến sức ép từ những kẻ xâm lược Châu Âu có giảm bớt, nhưng mang lại cho Nhật Bản cơ hội mở rộng tầm ảnh hưởng của mình. Chu Ân Lai thấy rằng Trung Quốc đang bị phá hoại bởi những cuộc can thiệp từ bên ngoài. Ông tham gia các cuộc phản kháng và biểu tình cho đất nước.
Tiếp đó Chu Ân Lai theo học đại học tại Tokyo. Mục tiêu của ông là trở thành một giáo viên để có thể gây ảnh hưởng tới giới trẻ Trung Quốc. Nhưng ông thấy mình không thể tập trung. Ông không thể học và tiếng Nhật của ông cũng kém, khiến ông không theo kịp bài giảng. Tại Nam Khai ông đã viết và phát biểu chống lại sức ép quân sự và chính trị của Nhật tại Trung Quốc và tình trạng rối loạn không thể tránh khỏi trong nước. Ông hô hào các bạn học hành động để cứu vãn Trung Quốc. Câu trả lời của họ là học tập, để trở thành các nhà khoa học và chuyên gia. Trung Quốc cần giới trí thức, cần các bác sĩ có trình độ, kỹ sư và các giáo viên. “Nhưng tại sao?” ông hỏi. “Nếu Trung Quốc đang biến mất, thì học để làm gì?” [cần dẫn nguồn]. Quyết định rời Nhật Bản Chu Ân Lai cũng một phần bị ảnh hưởng bởi quyết định rời Nhật Bản một người bạn học trong trường Nam Khai thời điểm đó, Đồng Quan Hiền (chữ Hoa giản thể: 童冠贤,chữ Hoa phồn thể: 童冠賢).
Đầu tháng 5 năm 1919, thất vọng và không thể hoàn thành công việc học tập, ông rời Nhật Bản. Chu Ân Lai tới Thiên Tân ngày 9 tháng 5, vừa kịp để tham dự Phong trào mùng 4 tháng 5 năm 1919.
Các hoạt động cách mạng
Chu Ân Lai lần đầu tiên nổi tiếng là một nhà hoạt động trên phạm vi quốc gia trong Phong trào mùng 4 tháng 5. Ông đã ghi tên theo học khoa văn trường Đại học Nam Khai, khiến ông có cơ hội tới thăm các khoa trong trường, nhưng ông không bao giờ tới lớp học. Ông trở thành một trong những người tổ chức Hiệp hội Sinh viên Thiên Tân, với mục tiêu công khai là “đấu tranh chống các lãnh chúa và chống chủ nghĩa đế quốc, và cứu Trung Hoa khỏi diệt chủng.” Chu Ân Lai trở thành chủ bút tờ báo của hiệp hội sinh viên, tờ Sinh viên Thiên Tân. Tháng 9, ông thành lập Hội cứu tế (Awareness Society) với mười hai nam giới và tám phụ nữ. Đặng Dĩnh Siêu, cô gái mười lăm tuổi, vợ của Chu Ân Lai sau này, cũng là một thành viên sáng lập. (Nhưng mãi tới ngày 8 tháng 8 năm 1925 họ mới lập gia đình). Chu Ân Lai đóng vai trò then chốt trong việc sáp nhập giữa Hiệp hội Sinh viên Thiên Tân toàn nam giới và Hội Phụ nữ Yêu nước toàn nữ giới.
Tháng 1 năm 1920, cảnh sát bố ráp xưởng in và bắt giữ nhiều thành viên Hội cứu tế. Chu Ân Lai dẫn đầu một nhóm sinh viên phản đối các vụ bắt giữ, và chính ông cũng bị bắt với 28 người khác. Sau phiên toà vào tháng 7, họ chỉ bị kết án một tội nhỏ và được thả. Quốc tế Cộng sản III đã muốn thu nhập Chu Ân Lai vào Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng dù đang nghiên cứu Chủ nghĩa Marx ông vẫn chưa tham gia. Thay vì đi sang Moskva học tập, ông chọn sang Pháp với tư cách một nhà tổ chức sinh viên. Đặng Dĩnh Siêu ở lại chịu trách nhiệm điều hành Hội cứu tế khi ông vắng mặt.
Học tập tại Pháp và những năm tháng ở Châu Âu
Ngày 7 tháng 11 năm 1920, Chu Ân Lai và 196 sinh viên Trung Quốc khác đi thuyền từ Thượng Hải tới Marseilles, Pháp. Tại Marseilles họ được một thành viên Uỷ ban Giáo dục Trung-Pháp tiếp đón và lên tàu hoả tới Paris. Hầu như ngay khi tới nơi, Chu Ân Lai đã rơi vào một cuộc tranh luận giữa các sinh viên và các cơ quan giáo dục đang điều hành chương trình “làm việc và học tập”. Theo đó, các sinh viên sẽ được cho vào làm việc bán thời gian tại các nhà máy và theo học bán thời gian. Tuy nhiên, vì sự tham nhũng và mua chuộc trong Uỷ ban Giáo dục, các sinh viên không được trả tiền. Vì thế, họ đơn giản chỉ là những lao động rẻ tiền cho các ông chủ nhà máy Pháp và đổi lại nhận được rất ít sự giáo dục. Chu Ân Lai đã viết những bài báo gửi về Trung Quốc lên án uỷ ban và các quan chức chính phủ tham nhũng.
Chu Ân Lai tới Anh Quốc vào tháng 1; ông xin và được chấp nhận làm sinh viên tại Đại học Edinburgh. Nhưng mãi tới tháng 10 chương trình học mới bắt đầu, vì thế ông quay lại Pháp, đến ở với Liu Tsingyang và Zhang Shenfu, những người đã thành lập một chi bộ Cộng sản. Chu Ân Lai gia nhập nhóm và được giao phó nhiệm vụ chính trị và tổ chức. Có một số tranh cãi về thời điểm Chu Ân Lai gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Để giữ bí mật các thành viên không mang theo thẻ đảng. Chính Chu Ân Lai đã viết “mùa thu, 1922” trong một lần thẩm tra của Đại hội Đảng lần thứ 7 năm 1945.
Có khoảng 2.000 sinh viên Trung Quốc tại Pháp, khoảng 200 tại Bỉ và Anh và khoảng 300 tới 400 tại Đức. Trong bốn năm tiếp sau, Chu Ân Lai là người phụ trách tuyển mộ, tổ chức và phối hợp các hoạt động của Liên đoàn Thanh niên Xã hội chủ nghĩa. Ông đi lại liên tục giữa Bỉ, Đức và Pháp, hộ tống các thành viên của Đảng qua Berlin đi tàu tới Mátxcơva, học cách tổ chức cách mạng.
Ban đầu, Đảng Cộng sản Trung Quốc, được Trần Độc Tú thành lập tháng 7 năm 1921, từ chối đề xuất của Quốc tế Cộng sản III rằng họ sẽ thành lập một “mặt trận thống nhất” với Quốc Dân Đảng mới ra đời của Tôn Dật Tiên, nhưng vào năm 1923 Đảng Cộng sản đã thay đổi chính sách. Chu Ân Lai khi ấy chịu trách nhiệm phối hợp hoạt động giữa hai phong trào khác biệt chính trị này ở Châu Âu. Rõ ràng ông đã làm việc rất hiệu quả nên được ra lệnh quay trở lại Trung Quốc nhận nhiệm vụ thống nhất mặt trận ở cứ điểm mạnh của Quốc Dân Đảng tại Quảng Châu. Ông tới Hồng Kông tháng 7 năm 1924.
Mặt trận thống nhất thứ nhất
Tháng 1 năm 1924, Tôn Dật Tiên đã chính thức tuyên bố liên minh giữa Quốc Dân Đảng và những người Cộng sản, và một kế hoạch viễn chinh quân sự nhằm thống nhất Trung Quốc và tiêu diệt các lãnh chúa. Viện Hàn lâm Quân sự Whampoa được thành lập vào tháng 3 nhằm đào tạo các vị sĩ quan cho quân đội để đối đầu với các lãnh chúa. Tàu chiến Nga cung cấp vũ khí tại các cảng ở Quảng Châu. Các cố vấn của Quốc tế Cộng sản III từ Mátxcơva cũng có mặt. Tháng 10, một thời gian ngắn sau khi quay trở về từ Châu Âu, Chu Ân Lai được chỉ định làm phó giám đốc ban chính trị Trường quân sự Hoàng Phố tại Quảng Châu.
Chu Ân Lai nhanh chóng nhận ra Quốc Dân Đảng đang lo mưu đồ cho riêng mình. Phe hữu mạnh trong Quốc Dân Đảng phản đối kịch liệt liên minh với Cộng sản. Chu Ân Lai tin rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc, để tồn tại phải có một đội quân của riêng mình. “Quốc Dân Đảng là một liên minh của những lãnh chúa hay phản bội” ông đã nói với người bạn là Nhiếp Vinh Trăn, mới tới từ Moskva và được chỉ định làm phó giám đốc Học viện. Cùng nhau họ đã tổ chức một nhóm các sĩ quan nòng cốt là các thành viên Đảng Cộng sản và theo các nguyên tắc của Marx. Trong một thời gian họ không gặp cản trở nào, thậm chí từ phía cả Tưởng Giới Thạch, giám đốc Trường Hoàng Phố.
Tôn Dật Tiên mất ngày 12 tháng 3 năm 1925. Ngay khi ông mất, rắc rối nảy sinh tại Quảng Châu. Một lãnh chúa tên là Trần Quýnh Minh Tổng trưởng nội chính kiêm Tổng trưởng lục quân, tổng tư lệnh và tỉnh trưởng Việt quân tìm cách chiếm giữ thành phố và tỉnh này. Cuộc Đông Chinh, do Chu Ân Lai lãnh đạo, được tổ chức như một chiến dịch quân sự chống lại Trần. Với những sĩ quan nòng cốt của Đảng Cộng sản họ đã thắng lợi lớn. Chu Ân Lai được thăng chức lãnh đạo phòng thiết quân luật của Trường Hoàng Phố. Ông nhanh chóng dẹp tan một âm mưu lật đổ của một vị lãnh chúa khác trong thành phố. Trần Quýnh Minh một lần nữa tổ chức hành quân vào tháng 10 năm 1925. Một lần nữa Chu Ân Lai lại đánh bại ông tà và lần này chiếm được thành phố Sán Đầu quan trọng trên bờ biển phía nam Trung Quốc. Chu Ân Lai được chỉ định làm uỷ viên đặc biệt của Sán Đầu và vùng xung quanh. Ông bắt đầu xây dựng một nhánh đảng tại Sán Đầu và giữ bí mật tên tuổi những người tham gia.
Ngày 8 tháng 8 năm 1925, ông và Đặng Dĩnh Siêu tổ chức lễ cưới sau một thời gian yêu nhau dài tới năm năm. Họ chưa có con nhưng nhận đỡ đầu nhiều trẻ em mồ côi thuộc đội “cảm tử cách mạng”; một người trong số đó sau này trở thành vị thủ tướng nổi tiếng Lý Bằng.
Sau cái chết của Tôn Dật Tiên, Quốc Dân Đảng nằm dưới sự quản lý của một chế độ tam đầu chế gồm Tưởng Giới Thạch, Liêu Trọng Khải và Uông Tinh Vệ, nhưng vào tháng 8 năm 1925 thành viên cánh tả, Liêu Trọng Khải, bị ám sát. Tưởng Giới Thạch lợi dụng vụ này để tuyên bố thiết quân luật và củng cố quyền kiểm soát của phe cánh hữu. Ngày 18 tháng 3 năm 1926, trong khi Mikhail Borodin, vị cố vấn Quốc tế Cộng sản III người Nga của Mặt trận Thống nhất, đang ở Thượng Hải, Tưởng Giới Thạch đạo diễn một vụ việc mới để cướp quyền của những người Cộng sản. Vị chỉ huy và các thuỷ thủ một thuyền chiến của Quốc Dân Đảng bị bắt tại cảng Hoàng Phố, Xem Vụ việc tàu chiến Trung Sơn. Tiếp sau là những cuộc bố ráp vào Trụ sở Quân đoàn số 1 và Trường Quân sự Hoàng Phố. Tổng cộng 65 đảng viên Cộng sản bị bắt giữ, gồm cả Nhiếp Vinh Trăn. Tình trạng khẩn cấp quốc gia được ban hành và lệnh giới nghiêm được áp dụng. Chu Ân Lai vừa mới quay trở về từ Shantou và cũng bị giữ 48 giờ. Khi được thả ông đối đầu với Tưởng Giới Thạch và buộc tội ông ta phá hoại Mặt trận Thống nhất nhưng Tưởng cho rằng ông ta chỉ tiêu diệt một âm mưu của những người Cộng sản. Khi Borodin từ Thượng Hải quay về ông tin vào lời lẽ của Tưởng Giới Thạch và khiển trách Chu Ân Lai. Theo yêu cầu của Tưởng, Borodin đưa ra một danh sách các thành viên Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng là các thành viên Quốc Dân Đảng. Những thành viên duy nhất thoát khỏi danh sách này là những người mới được Chu Ân Lai tuyển mộ. Tưởng Giới Thạch cách chức tất cả các sĩ quan Đảng Cộng sản khỏi Quân đoàn thứ nhất. Uông Tinh Vệ, bị coi là có cảm tình với những người cộng sản, được thuyết phục ra đi theo một “chuyến nghiên cứu” tại Châu Âu. Chu Ân Lai bị tước mọi trách nhiệm liên quan tới Mặt trận Thống nhất, trao lại quyền điều hành tuyệt đối cho Tưởng Giới Thạch.
Từ Thượng Hải tới Diên An
Sau khi cuộc Bắc phạt bắt đầu, ông trở thành người tuyên truyền tầng lớp lao động. Năm 1926, ông tổ chức một cuộc tổng đình công tại Thượng Hải, mở ngỏ thành phố cho Quốc Dân Đảng. Khi liên minh Quốc-Cộng tan vỡ, Chu Ân Lai phải bỏ trốn trước cuộc khủng bố trắng. Cuối cùng ông tới vùng căn cứ Giang Tây và dần chuyển từ hệ tư tưởng chính thống đô thị sang nhánh Mao ủng hộ cách mạng nông thôn bên trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, và trở thành một thành viên nổi bật của Đảng. Sự chuyển biến này đã hoàn thành ngay từ đầu cuộc Vạn lý Trường chinh, khi vào tháng 1 năm 1935 Chu Ân Lai hoàn toàn ủng hộ Mao trong cuộc đấu tranh với nhóm 28 người bolshevik.
Những năm tại Diên An, Chu Ân Lai là người tích cực ủng hộ một mặt trận thống nhất chống Nhật Bản. Vì thế ông đóng vai trò quan trọng trong sự biến Tây An, giúp Tưởng Giới Thạch được thả, và đàm phán Mặt trận Thống nhất Quốc-Cộng thứ hai, và đưa ra câu nói nổi tiếng “Người Trung Quốc không nên đánh nhau với người Trung Quốc mà với một kẻ thù chung: quân xâm lược”. Trong Chiến tranh Trung-Nhật (1937-1945) Chu Ân Lai đóng vai trò đại sứ trong chính phủ thời chiến của Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh và tham gia vào những cuộc đàm phán thất bại sau Thế chiến II.
Nắm quyền thủ tướng
Năm 1949, với sự thành lập nhà nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Chu Ân Lai lên nắm quyền Thủ tướng và Bộ trưởng ngoại giao. Tháng 6 năm 1953, ông đưa ra năm tuyên bố hoà bình. Ông dẫn đầu phái đoàn Cộng sản Trung Quốc tham gia Hội nghị Geneva và Hội nghị Bandung (1955). Ông đã thoát nạn sau một âm mưu ám sát của phe Quốc Dân Đảng dưới quyền Tưởng Giới Thạch trên đường trở về từ Bandung. Một quả mìn MK7 đã được giấu trên chiếc máy bay thuê Kashmir Princess chở ông. Chu Ân Lai đã đổi máy bay nhưng tất cả 16 người trong đội đều thiệt mạng. Với thái độ ôn hoà và ảnh hưởng trong khối các nước không liên kết thời Chiến tranh Lạnh, chính sách ngoại giao của ông nhằm tăng cường quan hệ với các quốc gia trong vùng như Ấn Độ, Myanma và các nước Đông Nam Á, cũng như các quốc gia Châu Phi. Năm 1958, chức Bộ trưởng ngoại giao được trao lại cho Trần Nghị Chu Ân Lai tiếp tục giữ chức vụ Thủ tướng cho tới khi ông qua đời năm 1976.
Trọng tâm trong nước của ông sau khi trở thành Thủ tướng là nền kinh tế Trung Quốc, đang ở tình trạng lạc hậu sau nhiều thập kỷ chiến tranh. Ông đặt mục tiêu tăng trưởng sản xuất nông nghiệp thông qua việc tái phân phối ruộng đất. Phát triển công nghiệp cũng là một ưu tiên của ông. Ngoài ra ông còn đưa ra những sáng kiến cải cách môi trường đầu tiên ở Trung Quốc. Trong chính phủ, Mao là người vạch chính sách còn Chu Ân Lai là người thực thi.
Năm 1958, Mao Trạch Đông bắt đầu chương trình Đại nhảy vọt, với mục tiêu tăng mức sản xuất công nghiệp và nông nghiệp của Trung Quốc lên những tầm không tưởng. Là nhà quản lý thực tế và được lòng dân, Chu Ân Lai vẫn giữ được chức vụ của mình trong thời gian này. Cách mạng Văn hoá (1966-1976) ảnh hưởng lớn tới ông. Ở những giai đoạn cuối cuộc cách mạng này năm 1975, ông đã đưa ra “bốn hiệu đại hoá” để sửa chữa những sai lầm do nó gây ra.
Nổi tiếng là một nhà ngoại giao có tài, Chu Ân Lai chịu trách nhiệm chính trong việc tái lập các mối quan hệ với phương Tây hồi đầu thập niên 1970. Ông đã chào mừng Tổng thống Richard Nixon tới Trung Quốc tháng 2 năm 1972, và ký kết Thông cáo Thượng Hải.
Sau khi biết mình bị ung thư, ông bắt đầu chuyển giao nhiều trách nhiệm của mình cho Đặng Tiểu Bình. Trong những giai đoạn cuối cuộc Cách mạng Văn hoá, Chu Ân Lai chính là mục tiêu mới của các chiến dịch chính trị của Bè lũ bốn tên của Chủ tịch Mao năm 1975 với khẩu hiệu “chỉ trích Tống Giang, đánh giá Thuỷ hử“, ám chỉ tới một tác phẩm văn học Trung Quốc, coi Chu Ân Lai là một hình mẫu kẻ thất bại chính trị. Ngoài ra chiến dịch Chỉ trích Lâm, Chỉ trích Khổng (Phê Lâm phê Khổng vận động) cũng nhắm mục tiêu vào Thủ tướng Chu Ân Lai bởi ông bị coi là một trong những đối thủ chính trị của Bè lũ bốn tên.
Cái chết và các phản ứng
Năm 1974 Chu Ân Lai phải vào viện vì ung thư bàng quang, nhưng vẫn tiếp tục điều hành công việc từ bên trong bệnh viện, còn Đặng Tiểu Bình là Phó thủ tướng thứ nhất chịu trách nhiệm hầu hết các vấn đề quan trọng của Quốc vụ viện. Chu Ân Lai mất buổi sáng ngày 8 tháng 1 năm 1976, 8 tháng trước Mao Trạch Đông. Trong cuốn sách của mình, Mao: Câu chuyện chưa biết, Jung Chang (Trương Nhung) và Jon Halliday xác nhận rằng Mao cố tình không cho Chu Ân Lai chữa bệnh ung thư bởi ông không muốn Chu Ân Lai sống lâu hơn mình.[1] Nhiều quốc gia trong Phong trào không liên kết đã gửi lời chia buồn trước cái chết của Chu Ân Lai một nhà ngoại giao và nhà thương thuyết nổi tiếng trên trường quốc tế, nhiều nước coi cái chết của ông là một mất mát to lớn. Thi thể ông được hoả thiêu và tro được rải từ máy bay xuống các ngọn đồi và thung lũng, theo đúng nguyện vọng của ông.
Bên trong Trung Quốc, nhóm Bè lũ bốn tên (Giang Thanh và đồng bọn) coi cái chết của Chu là một thuận lợi lớn cho mưu đồ chính trị của họ, bởi vật cản lớn duy nhất còn lại trước ngôi báu quyền lực tuyệt đối ở Trung Quốc của họ đã mất. Sau đám tang Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình đã có bài ca ngợi chính thức, nhưng sau này ông đã bị buộc rời bỏ chính trị sau cái chết của Mao.
Vì Chu Ân Lai quá nổi tiếng trong dân chúng, nhiều đám tang tự phát đã được tổ chức trên khắp Trung Quốc. Bè lũ bốn tên coi những sự kiện này là nguy hiểm, bởi họ sợ nhân dân sẽ sử dụng cơ hội này bày tỏ sự căm ghét với họ. Trong Sự kiện Thiên An Môn tháng 4 năm 1976, Bè lũ bốn tên đã tìm cách đàn áp lễ tang dành cho “Vị Thủ tướng kính yêu”, dẫn tới những cuộc náo loạn. Những bài thơ phản đối Bè lũ bốn tên được gắn lên một số vòng hoa, và các vòng hoa sau đó được đặt tại Tượng đài các Anh hùng Nhân dân. Tuy nhiên, những hành động đó càng làm nhân dân tức giận. Hàng nghìn công nhân-binh sĩ có vũ trang đã đàn áp tàn bạo cuộc phản kháng của nhân dân trên Quảng trường Thiên An Môn, và hàng trăm người bị bắt. Bè lũ bốn tên lên án Đặng Tiểu Bình liên quan tới phong trào và cách bỏ mọi chức vụ chính thức của ông.
Từ khi mất, một căn phòng tưởng niệm đã được dành riêng cho ông và người vợ yêu dấu tại Thiên Tân, được đặt tên là Phòng tưởng niệm Chu Ân Lai và vợ Thiên Tân (天津周恩來鄧穎超紀念館), và một bức tượng đã được dựng lên ở Thành phố Nam Kinh, nơi ông từng làm việc với Quốc Dân Đảng trong thập niên 1940. Một con tem quốc gia cũng được phát hành kỷ niệm một năm ngày mất của ông năm 1977, và một lần nữa năm 1998 kỷ niệm ngày sinh lần thứ 100 của ông.
Di sản
Chu Ân Lai thường được coi là một nhà thương thuyết có tài, một bậc thầy về thực hiện chính sách, một nhà cách mạng toàn tâm, một chính khách thực tế với sự kiên nhẫn vô biên và sự chú trọng đặc biệt tới các chi tiết công việc. Ông cũng nổi tiếng về lao động không mệt mỏi và đạo đức. Ông được coi là vị chính khách cuối cùng của chủ nghĩa Khổng giáo truyền thống. Phong cách chính trị của Chu Ân Lai cần được xem xét theo triết lý chính trị và nhân cách của ông. Ở mức độ lớn hơn, Chu Ân Lai là một nhân vật kết hợp giữa chính khách cộng sản và nền giáo dục Trung Hoa truyền thống: từng có tư tưởng bảo thủ và cực đoan, thực dụng và có ý thức hệ, đồng thời có niềm tin vào trật tự và sự hoà hợp cũng như một lòng tin vào sự phản kháng và cách mạng.
Dù là người có lòng tin tưởng nhiệt thành vào các lý tưởng Cộng sản, lý tưởng cơ bản của nhà nước Trung Hoa hiện đại, Chu Ân Lai thường được nhiều người cho là có ảnh hưởng ôn hoà trên một số tư tưởng thái quá của chế độ Mao, dù ông không có quyền lực cần thiết để có thể đưa lại những thay đổi trong chính sách.[cần dẫn nguồn] Có những ý kiến cho rằng ông đã sử dụng quyền lực của mình để bảo vệ một số địa điểm tôn giáo và hoàng gia cổ Trung Quốc khỏi những cuộc cướp phá của bọn Hồng Vệ Binh của Mao cũng như nhiều tướng lĩnh và lãnh đạo hàng đầu chính phủ khỏi các cuộc thanh trừng.
Dù trong những năm gần đây việc chỉ trích cách lãnh đạo Trung Quốc cũng như các quyết định của họ đã thường xuất hiện hơn ở Trung Quốc, rất ít người Trung Quốc cũng như cộng đồng Trung Quốc ở nước ngoài chỉ trích ông[cần dẫn nguồn]. Nhiều thanh niên Trung Quốc coi ông là thần tượng chính trị của họ và một số học giả thậm chí còn coi ảnh hưởng của ông tới thanh niên Trung Quốc lớn hơn Mao. [cần dẫn nguồn]
Ông là một trong số ít nhà lãnh đạo Trung Quốc thể hiện sự tôn trọng đúng mực đối với các nước nhỏ như Việt Nam. Chu Ân Lai đã từng nói: “Nếu các bạn không thích thì chúng tôi sẽ ra đi ngay” khi Việt Nam khéo léo phản ứng việc Hồng Vệ binh Trung Quốc hô hào các khẩu hiệu của Đại cách mạng văn hóa vô sản ở Hà Nội năm 1967. Và chính ông cũng nhận Hồ Chí Minh là “lão đại ca”.
Gia đình
Phu nhân của ông là bà Đặng Dĩnh Siêu, cố Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XI, XII, Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc từ năm 1983 – 1988, Bí thư thứ hai Ủy ban Kiểm tra – Kỷ luật Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Phụ nữ Trung Quốc.
Mặc dù Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu không có con cái nhưng hai người đã dành rất nhiều tình thương yêu cho những đứa con của các liệt sỹ, như: Tôn Duy Thế (con gái của liệt sỹ Tôn Bính Văn) và Lý My (con gái của liệt sỹ Lý Tiểu Thạch),… Thủ tướng thứ tư của Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Bằng cũng là con nuôi của vợ chồng cố Thủ tướng Chu Ân Lai.
Chú thích
- ^ Chang, Jung; Halliday, Jon. 2005. Mao: The Unknown Story. New York: Knopf. 579-580.
Đọc thêm
- Eldest Son (Con trai cả) của Hàn Tố Âm, một bản tiểu sử tổng thể.
- Có một cuốn sách mới xuất bản năm 2003 tại Hồng Kông, Zhou Enlai’s Later Years (Những năm cuối của Chu Ân Lai) của Gao Wenqian cũng đáng chú ý. Chưa có bản dịch tiếng Anh.
- Một tiểu sử của Chu Ân Lai dự định ra mắt tháng 11 năm 2007, tác giả Gao Wenqian. Public Affairs chịu trách nhiệm xuất bản cuốn sách này.
Xem thêm: Lịch sử Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
Liên kết ngoài
![]() |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
- Zhou Enlai Biography From Spartacus Educational
Tiền nhiệm: Không có |
Thủ tướng Quốc vụ viện 1949–1976 |
Kế nhiệm: Hoa Quốc Phong |
Tiền nhiệm: Không có |
Bộ trưởng Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 1949-1958 |
Kế nhiệm: Trần Nghị |
|
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Chu Ân Lai |
- Sinh 1898
- Mất 1976
- Người vô thần
- Nhân vật Trung Hoa trong Thế chiến II
- Lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc
- Thủ tướng Trung Quốc
- Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
- Nhà cách mạng Trung Quốc
- Người Giang Tô
- Lãnh đạo thời Chiến tranh lạnh
- Nhân vật thời Nội chiến Trung Quốc
Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
- Cây Lương thực 9.2015
- Chào ngày mới 26 tháng 9
- Chỉ còn anh và em cùng tình yêu ở lại
- Chào ngày mới 25 tháng 9
- Chào ngày mới 24 tháng 9
- Bàn cờ thế sự
- Chào ngày mới 23 tháng 9
- Chào ngày mới 22 tháng 9
- Bàn cờ thế sự
- Di sản Walter Scott
- Chào ngày mới 21 tháng 9
- Chào ngày mới 20 tháng 9
- Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc
- Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
- Chào ngày mới 19 tháng 9
- Đọc “nỗi ám ảnh của quá khứ”
- Chào ngày mới 18 tháng 9
- Chào ngày mới 17 tháng 9
- Nguyễn Du 250 năm nhìn lại
- Chào ngày mới 16 tháng 9
- Chào ngày mới 15 tháng 9
- Bàn cờ thế sự
- Chào ngày mới 14 tháng 9
- Chào ngày mới 13 tháng 9
- Cây Lương thực 9.2015
- Chào ngày mới 12 tháng 9
- Tháp Tự Do giấc mơ Mỹ
- Chào ngày mới 11 tháng 9
- Lương tri tỉnh thức
- Chào ngày mới 10 tháng 9
- Chiến tranh và hòa bình
- Chào ngày mới 9 tháng 9
- Những người Việt lỗi lạc ở FAO
- Chuyện vỉa hè
- Chào ngày mới 8 tháng 9
- Chuyện vỉa hè
- Chào ngày mới 7 tháng 9
- Đến Neva nhớ Pie Đại Đế
- Chào ngày mới 6 tháng 9
- Sấm ký đồng dao huyền thoại
- Chào ngày mới 5 tháng 9
- Cây Lương thực 8.2015
- Khoang trời thung dung
- Văn pháp Truyện Kiều
- Chào ngày mới 4 tháng 9
- Chào ngày mới 3 tháng 9
- Việt Nam Hồ Chí Minh
- Chào ngày mới 2 tháng 9
- Chào ngày mới 1 tháng 9
- Tám người thực sự có siêu năng lực
- Chào ngày mới 31 tháng 8
- Ta về hát Bắc Kim Thang
- Chào ngày mới 30 tháng 8
- Sông Thương
- Chào ngày mới 29 tháng 8
- Anh cùng em đến bên tượng Goethe
- Trí tuệ bậc Thầy
- Tôi có một giấc mơ
- Chào ngày mới 28 tháng 8
- Thơ Hoa Mai của Thiệu Ung
- Chào ngày mới 27 tháng 8
- Chào ngày mới 26 tháng 8
- Chào ngày mới 25 tháng 8
- Chào ngày mới 24 tháng 8
- Chào ngày mới 23 tháng 8
- Chào ngày mới 22 tháng 8
- Chào ngày mới 21 tháng 8
- Bài thơ không thể nào quên
- Tháng bảy mưa Ngâu
- Chào ngày mới 20 tháng 8
- Chào ngày mới 19 tháng 8
- Chào ngày mới 18 tháng 8
- Suối nguồn hạnh phúc
- Chào ngày mới 17 tháng 8
- Thơ tình Hồ Núi Cốc
- Chào ngày mới 16 tháng 8
- Quản lý sắn bền vững ở châu Á
- Học để làm ở Ấn Độ
- Chào ngày mới 15 tháng 8
- Hoa xương rồng
- Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương
- Chào ngày mới 13 tháng 8
- Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi
- Chào ngày mới 12 tháng 8
- Từ Mao Trạch Đông đến Tập Cận Bình
- Thơ hay về biển
- Chào ngày mới 11 tháng 8
- Chào ngày mới 10 tháng 8
- Chào ngày mới 9 tháng 8
- Đến với những bài thơ hay
- Ta về trời đất Hồng Lam
- Ong và Hoa
- Chào ngày mới 8 tháng 8
- Bài ca thời gian
- Chào ngày mới 7 tháng 8
- Chào ngày mới 6 tháng 8
Video yêu thích
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học CNM365 Tình yêu cuộc sống Cây Lương thực Dạy và Học Kim on LinkedIn KimYouTube Kim on Facebook