|
|
|
Thứ sáu, Ngày 2 Tháng 10 Năm 2015
|
|
|
Âm lịch: Ngày 20 Tháng 8 Năm 2015 Ngày Julius: 2457298 |
Bát tự: Giờ Mậu Tí, ngày Tân Hợi, tháng ất Dậu, năm ất Mùi |
|
0:00 |
Giờ: Mậu Tí |
Ngày Hắc đạo |
Sao: NGuyên Vũ |
Giờ Hoàng đạo |
Kỷ Sửu, Nhâm Thìn, Giáp Ngọ, ất Mùi, Mậu Tuất, Kỷ Hợi |
Giờ Hắc đạo |
Mậu Tí, Canh Dần, Tân Mão, Qúy Tỵ, Bính Thân, đinh Dậu |
Năm |
Kim |
Sa trung kim |
Mùa: Mùa thu |
Vượng: Kim
Khắc: Hỏa |
Quý |
Ngày |
Kim |
Thoa xuyến kim |
Vàng trang sức |
Tuổi xung |
Ất Tị, Kỷ Tị, Ất Hợi |
Tiết khí |
Giữa: Thu phân (Giữa thu) – Hàn lộ (Mát mẻ) |
Sao |
Cang |
|
Ngũ hành |
Kim |
|
Động vật |
Rồng |
|
Trực |
Mãn |
– Tốt cho các việc xuất hành, sửa kho, dựng nhà, mở tiệm.
– Xấu cho các việc chôn cất, thưa kiện, xuất vốn, nhậm chức. |
Xuất hành |
Hỷ thần |
Tây Nam |
Tài thần |
Tây Nam |
Kê thần |
Đông Bắc |
Cát tinh |
Tốt |
Kỵ |
Thiên đức hợp |
Tốt mọi việc |
|
Thiên phú |
Tốt mọi việc, nhất là xây dựng nhà cửa, khai trương và an táng |
|
Thiên Quý |
Tốt mọi việc |
|
Lộc khố |
Tốt cho việc cầu tài, khai trương, giao dịch |
|
Nguyệt giải |
Tốt mọi việc |
|
Yếu yên |
Tốt mọi việc, nhất là giá thú |
|
Dịch Mã |
Tốt mọi việc, nhất là xuất hành |
|
Sát tinh |
Kỵ |
Ghi chú |
Thổ ôn (thiên cẩu) |
Kỵ xây dựng, đào ao, đào giếng, xấu về tế tự |
|
Hoang vu |
Xấu mọi việc |
|
Trùng Tang |
Kỵ giá thú, an táng, khởi công xây nhà |
|
Huyền Vũ |
Kỵ mai táng |
|
Quả tú |
Xấu với giá thú |
|
Sát chủ |
Xấu mọi việc |
|
Thiên địa chuyển sát |
Kỵ động thổ |
|
Tứ thời đại mộ |
Kỵ an táng |
|
Dương thác |
Kỵ xuất hành, giá thú, an táng |
|
Mặt trời |
Giờ mọc |
Giờ lặn |
Hà Nội |
05:50 |
17:41 |
TP.Hồ Chí Minh |
05:44 |
17:41 |
|
Bạch Hổ |
Hắc đạo |
|
1:00 |
Giờ: Kỷ Sửu |
Ngọc Đường |
Hoàng đạo |
|
3:00 |
Giờ: Canh Dần |
Thiên Lao |
Hắc đạo |
|
5:00 |
Giờ: Tân Mão |
NGuyên Vũ |
Hắc đạo |
|
7:00 |
Giờ: Nhâm Thìn |
Tư Mệnh |
Hoàng đạo |
|
9:00 |
Giờ: Qúy Tỵ |
Câu Trận |
Hắc đạo |
|
11:00 |
Giờ: Giáp Ngọ |
Thanh Long |
Hoàng đạo |
|
13:00 |
Giờ: ất Mùi |
Minh Đường |
Hoàng đạo |
|
15:00 |
Giờ: Bính Thân |
Thiên Hình |
Hắc đạo |
|
17:00 |
Giờ: đinh Dậu |
Chu Tước |
Hắc đạo |
|
19:00 |
Giờ: Mậu Tuất |
Kinh Quỹ |
Hoàng đạo |
|
21:00 |
Giờ: Kỷ Hợi |
Kim Được |
Hoàng đạo |
|
23:00 |
Giờ: Mậu Tí |
Bạch Hổ |
Hắc đạo |
|
|
Lịch vạn niên 2015, ngày 20 tháng 8, năm 2015 – Âm lịch
Xem ngày giờ tốt và hướng xuất hành
Trong một tháng có 2 loại ngày tốt, ngày xấu; trong một ngày lại có 6 giờ tốt, 6 giờ xấu gọi chung là Ngày/giờ Hoàng đạo (tốt) và Ngày/giờ Hắc đạo (xấu). Người Việt Nam từ xưa đều có phong tục chọn ngày tốt và giờ tốt để làm những việc lớn như cưới hỏi, khởi công làm nhà, nhập trạch, ký kết, kinh doanh v.v.v.
Ngày 20 tháng 8, năm 2015 là ngày Hắc đạo , các giờ tốt trong ngày này là: Kỷ Sửu, Nhâm Thìn, Giáp Ngọ, ất Mùi, Mậu Tuất, Kỷ Hợi
Trong ngày này, các tuổi xung khắc nên cẩn thận trong chuyện đi lại, xuất hành, nói chuyện và làm các việc đại sự là: Ất Tị, Kỷ Tị, Ất Hợi
Xuất hành hướng Đông Bắc gặp Hỷ thần: niềm vui, may mắn, thuận lợi. Xuất hành hướng Nam gặp Tài thần: tài lộc, tiền của, giao dịch thuận lợi.
Xem sao tốt và việc nên làm và nên kiêng
Trong Lịch vạn niên, có 12 trực được sắp xếp theo tuần hoàn phân bổ vào từng ngày. Mỗi trực có tính chất riêng, tốt/xấu tùy từng công việc. Ngày 20 tháng 8, năm 2015 là Trực Mãn: Tốt cho các việc xuất hành, sửa kho, dựng nhà, mở tiệm. Xấu cho các việc chôn cất, thưa kiện, xuất vốn, nhậm chức.
Mỗi ngày đều có nhiều sao Tốt (Cát tinh) và sao Xấu (Hung tinh). Các sao Đại cát (rất tốt cho mọi việc) như Thiên đức, Nguyệt đức, Thiên ân, Nguyệt ân. Có những sao Đại hung (rất xấu cho mọi việc) như Kiếp sát, Trùng tang, Thiên cương. Cũng có những sao xấu tùy mọi việc như Cô thần, Quả tú, Nguyệt hư, Không phòng, Xích khẩu… – xấu cho hôn thú, cưới hỏi, đám hỏi nói chung cần tránh. Hoặc ngày có Thiên hỏa, Nguyệt phá, Địa phá… xấu cho khởi công xây dựng, động thổ, sửa chữa nhà cửa nói chung cần tránh.
Khi tính làm việc đại sự, cần kiểm tra ngày Hoàng Đạo, Hắc Đạo. Xem công việc cụ thể nào, để tránh những sao xấu. Chọn các giờ Hoàng đạo để thực hiện (hoặc làm tượng trưng lấy giờ)
Mahatma Gandhi
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mahātmā Gāndhī (2 tháng 10 năm 1869 – 30 tháng 1 năm 1948), nguyên tên đầy đủ là Mohandas Karamchand Gandhi (Devanagari: मोहनदास करमचन्द गांधी; Gujarati: મોહનદાસ કરમચંદ ગાંધી), là anh hùng dân tộc Ấn Độ, đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của hàng triệu người dân. Trong suốt cuộc đời, ông phản đối tất cả các hình thức khủng bố bạo lực và thay vào đó, chỉ áp dụng những tiêu chuẩn đạo đức tối cao. Nguyên lí bất bạo lực (còn gọi là bất hại) được ông đề xướng với tên Chấp trì chân lí (sa. satyāgraha) đã ảnh hưởng đến các phong trào đấu tranh bất bạo động trong và ngoài nước cho đến ngày nay, bao gồm phong trào Vận động Quyền công dân tại Hoa Kỳ (American Civil Rights Movement) được dẫn đầu bởi Martin Luther King, Jr..
Từ lúc lãnh đạo cuộc đấu tranh giành tự do và đứng đầu đảng Quốc dân Đại hội Ấn Độ (Indian National Congress) năm 1918, ông được hàng triệu dân Ấn Độ gọi một cách tôn kính là Mahātmā, nghĩa là “Linh hồn lớn”, “Vĩ nhân” hoặc “Đại nhân”. Danh hiệu có gốc tiếng Phạn này được triết gia và người đoạt giải Nobel văn chương Rabindranath Tagore dùng lần đầu khi đón chào Gandhi tại Mumbai (hay Bombay) ngày 9 tháng 1 năm 1915. Mặc dù Gandhi không hài lòng với những cách gọi tôn vinh nhưng đến ngày nay, danh hiệu Mahātmā Gāndhī vẫn thường được dùng hơn tên Mohandas Gāndhī trên thế giới. Ngoài việc được xem là một trong những môn đồ Ấn Độ giáo và những nhà lãnh đạo Ấn Độ vĩ đại nhất, ông còn được nhiều người Ấn tôn kính như một Quốc phụ (gọi theo tiếng Hindi là Bapu). Ngày sinh của ông, 2 tháng 10, là ngày lễ quốc gia của Ấn Độ. Năm 2007, Liên Hiệp Quốc ra nghị quyết lấy ngày 2 tháng 10 là Ngày Quốc tế Bất Bạo động.”[1][2]
Bằng phương tiện bất hợp tác, Gandhi đã dẫn khởi nền độc lập Ấn Độ, đưa nước mình thoát sự đô hộ của Anh, khích lệ những người dân bị đô hộ khác phấn đấu cho nền độc lập của nước nhà và đả đảo triệt để Đế quốc Anh. Nguyên lí Chấp trì chân lí của Gandhi (có gốc tiếng Phạn: satya là “chân lí” và ā-graha là “nắm lấy”, “nắm chặt”), cũng thường được dịch là “con đường chân thật”, “truy tầm chân lí”, đã cảm kích những người chủ trương hành động giành tự do như Đạt-lại Lạt-ma Đăng-châu Gia-mục-thố (Tenzin Gyatso), Lech Wałęsa, Stephen Biko, Aung San Suu Kyi và Nelson Mandela. Tuy nhiên, không phải tất cả những nhà lãnh đạo nêu trên đều theo nguyên tắc bất bạo lực và bất kháng cự khắt khe của Gandhi.
Gandhi thường nói là nguyên tắc của ông đơn giản, lấy từ niềm tin truyền thống của Ấn Độ giáo: Chân lí (satya) và bất bạo lực (ahiṃsā). Chính ông nói rằng: “Tôi chẳng có gì mới mẻ để dạy đời. Chân lí và bất bạo lực đều có từ xưa nay”.
Thời niên thiếu
Gandi, bên trái, năm 13 tuổi
Mohandas Karamchand Gandhi[3] sinh trong một gia đình Ấn Độ giáo thuộc cộng đồng Modh (một nhóm thương gia ở Gujarat), tại Porbandar, bang Gujarat, Ấn Độ vào năm 1869.[4] Ông là con của Karamchand Gandhi, một người giữ chức “diwan” (có thể gọi là “Tổng bộ trưởng”) của Porbandar, và bà Putlibai, người vợ thứ tư của Karamchand, theo Ấn Độ giáo phái thờ thần Tì-thấp-nô (sa. vaiṣṇava). Nữ thủ tướng Ấn Độ sau này, Indira Gandhi, và con trai của bà, Rajiv Gandhi, không bà con gì với Gandhi.
Lớn lên với một bà mẹ sùng tín Tì-thấp-nô trong một môi trường được ảnh hưởng bởi những người theo Kì-na giáo tại Gujarat, Gandhi sớm cảm nhận nguyên tắc bất hại, ăn chay, phương pháp nhịn ăn để thanh lọc tâm thức cũng như sự khoan dung lẫn nhau của các tín đồ và tông phái. Ông sinh ra trong giai cấp thứ ba của xã hội Ấn là Phệ-xá (sa. vaiśya, giai cấp thương gia). Tháng 5 năm 1882, vào tuổi 13, ông cưới cô Kasturba Makharji, 14 tuổi, qua một sự mai mối.[5] Hai ông bà sau có bốn con trai: Harilal Gandhi, sinh năm 1888; Manilal Gandhi, sinh năm 1892; Ramdas Gandhi; sinh năm 1897 và Devdas Gandhi, sinh năm 1900.[5]
Gandhi là một sinh viên trung bình tại Porbandar và sau đó là tại Rajkot. Ông đậu khoá thi vào Đại học Mumbai năm 1887 với số điểm vừa đủ, và vào học viện Samaldas tại Bhavnagar. Tuy nhiên, ông không lưu ở đây lâu vì gia đình muốn ông trở thành luật sư để giữ truyền thống nắm quyền cao tại Gujarat.[6] Không cảm thấy thú vị tại học viện Samaldas, Gandhi liền nắm thời cơ du học nước Anh, một nước được ông xem là “quốc gia của những triết gia và thi nhân, trung tâm đích thực của nền văn minh”.
Gandi khi còn là sinh viên ở London
Vào tuổi 19, Gandhi vào Đại học College London (một trường thuộc Đại học London) học ngành luật. Trong thời gian tại London, thủ đô của đế quốc, ông chịu ảnh hưởng của lời nguyện với bà mẹ trước mặt một vị tăng Kì-na giáo là Becharji, đó là giữ giới luật Ấn Độ giáo không ăn thịt và uống rượu sau khi rời Ấn Độ. Mặc dù đã thử bắt chước văn minh người Anh, ví dụ như học nhảy, nhưng Gandhi không ăn được thịt cừu và cải bắp bà chủ nhà trọ nấu cho mình.[7] Bà chỉ ông đến một trong những tiệm chay hiếm hoi tại London thời đó.[8] Nhưng thay vì đơn thuần làm toại nguyện bà mẹ, ông đọc sách và đổi sang ăn chay ngay trên phương diện tri thức. Ông vào “Hội người ăn chay”, được cử làm uỷ viên ban chấp hành và lập ra một nhánh địa phương của nó. Về sau, ông cho rằng công việc này đã giúp ông thu thập những kinh nghiệm giá trị trong việc quản lí và duy trì một tổ chức. Một số người ăn chay ông đã gặp là thành viên của hiệp hội Thần Trí học (hoặc Thông Thiên học), được bà Helena Petrovna Blavatsky thành lập vào năm 1875 để hỗ trợ tình người năm châu. Những nhà Thần Trí học này chuyên tâm nghiên cứu kinh điển Phật giáo và Ấn Độ giáo. Họ khuyến khích Gandhi đọc Chí Tôn ca.[8] Mặc dù từ trước đây không tỏ vẻ hứng thú về tôn giáo, ông bắt đầu đọc những tác phẩm nói về Ấn Độ giáo, Kitô giáo, Phật giáo và các tôn giáo khác.
Ông trở về Ấn Độ sau khi được phép làm luật sư vào tháng 6 năm 1891, và khi trở về ông mới biết mẹ mình đã qua đời, và gia đình đã giấu kín chuyện này.[8] Thành tựu của ông trong việc mở văn phòng luật sư tại Mumbai chỉ hạn chế vì thời đó có rất nhiều người làm nghề này và Gandhi không phải là một luật sư năng nổ tại pháp tòa. Ông nộp đơn xin dạy bán thời gian tại trường trung học Mumbai, nhưng bị từ chối. Cuối cùng, ông trở về Rajkot sống một cuộc sống khiêm tốn bằng cách soạn lời thỉnh nguyện cho những người tố tụng, nhưng rồi cũng phải đình chỉ công việc này vì xung đột với một quan viên người Anh. Trong tự truyện của mình, Gandhi miêu tả sự kiện này như một sự cố gắng du thuyết không kết quả vì lợi ích của người anh trai. Dưới bầu không khí này (1893), ông chấp nhận một hợp đồng lâu dài của một công ty Ấn Độ, nhậm chức tại Natal, Nam Phi.[9]
Phong trào vận động quyền công dân tại Nam Phi
Vào thời điểm này, Gandhi là một người trầm tính, khiêm cung không chú tâm về chính trị. Ông đọc báo lần đầu tiên năm lên 18 và thường run sợ khi bước ra tòa thuyết trình. Nam Phi đã biến đổi ông một cách sâu sắc khi ông chứng kiến sự hạ nhục và đàn áp mà cộng đồng Ấn Độ thường phải chịu đựng nơi đây. Vào một ngày, khi quan tòa thành phố Durban yêu cầu Gandhi gỡ khăn xếp (turban) trên đầu, ông từ chối và hùng hồn bước ra khỏi tòa. Một bước ngoặt trong cuộc đời thường được các truyện kí thừa nhận – có thể xem là chất xúc tác cho chủ nghĩa hành động của ông – xảy ra ít lâu sau, khi ông bắt đầu một cuộc hành trình đến Pretoria.[10] Ông bị vất ra khỏi xe lửa tại Pietermaritzburg sau khi từ chối chuyển từ toa xe hạng nhất đến toa hạng ba, vốn thường được những người da màu sử dụng mặc dù đã mua vé hạng nhất.[11] Không lâu sau, trong cuộc hành trình bằng xe ngựa, ông bị người lái xe đánh vì từ khước nhường chỗ cho một du khách châu Âu.[12] Ông cũng kham chịu nhiều khổ đau khác như bị loại ra nhiều khách sạn vì chỉ màu da của mình. Kinh nghiệm này khiến Gandhi quan sát kĩ hơn những thống khổ người đồng hương phải chịu đựng tại Nam Phi trong thời gian ông làm việc tại Pretoria.[13] Chính trong thời gian tại Nam Phi, qua sự chứng kiến tận mắt chế độ kì thị chủng tộc, thành kiến và bất công, Gandhi bắt đầu thám vấn địa vị trong xã hội của những người đồng hương và của chính mình.
Khi hợp đồng làm việc chấm dứt, Gandhi thu xếp trở về Ấn Độ. Tuy nhiên, trong buổi tiệc tiễn đưa tại Durban, ông tình cờ đọc một bài báo nói về một dự thảo pháp luật được Hội đồng lập pháp Natal đề nghị nhằm loại bỏ quyền bầu cử của người di dân Ấn Độ. Khi đưa việc này ra thảo luận với những người đồng hương, họ than không đủ kiến thức để phản đối dự thảo và khẩn khoản yêu cầu Gandhi ở lại giúp họ. Ông phổ biến một số kiến nghị đến cả hai, Viện Lập Pháp Natal và chính quyền Anh để phản đối dự thảo. Mặc dù không ngăn được việc dự thảo này được duyệt, cuộc đấu tranh của ông đã thành công trong việc soi rọi những điểm bất bình của người Ấn tại Nam Phi. Những người hỗ trợ thuyết phục ông lưu lại Durban để tiếp tục đấu tranh chống sự bất công được áp dụng đối với người Ấn tại đây. Ông lập Hội nghị Ấn Độ tại Natal năm 1894 và chính mình giữ vai bí thư. Qua tổ chức này, ông đã chuyển hóa cộng đồng người Ấn tại Nam Phi thành một lực lượng chính trị hỗn tạp, làm tràn ngập chính quyền cũng như báo chí với những lời trần thuật về sự bất mãn của người Ấn và những bằng chứng của sự kì thị nơi người Anh tại Nam Phi.
Năm 1896, Gandhi trở về Ấn Độ với mục đích mang vợ con sang Nam Phi. Năm 1897, khi trở lại Nam Phi, ông bị một nhóm bạo lực da trắng tấn công và tìm cách sát hại bằng tư hình. Như một dấu hiệu đầu tiên của thước đo nội tâm ảnh hưởng đến những cuộc đấu tranh sau này, Gandhi khước từ việc tố cáo bất cứ cá nhân nào của nhóm bạo lực, nói rằng việc không tìm sự bồi thường tại tòa án dựa trên cơ sở lỗi lầm cá nhân là một trong những nguyên tắc chính của ông.
Khi Chiến tranh Nam Phi bắt đầu, Gandhi chủ trương là người Ấn phải hỗ trợ chiến tranh để hợp pháp hóa yêu cầu trở thành công dân chính thức. Ông tổ chức một nhóm tình nguyện cứu thương gồm 300 người Ấn Độ và 800 người làm mướn. Tuy nhiên, sau khi chiến tranh kết thúc, tình trạng của người Ấn tại Nam Phi không khả quan hơn, vẫn tiếp tục sa đoạ. Năm 1906, chính quyền Transvaal công bố một pháp án mới, bắt người Ấn Độ của thuộc địa phải kí chứng. Tại một cuộc biểu tình lớn được tổ chức tại Johannesburg vào tháng 9 ngay trong năm đó, Gandhi lần đầu áp dụng nguyên tắc Chấp trì chân lí và đấu tranh bất bạo lực, khuyên các người đồng hương phản bác luật mới và chịu đựng hình phạt để thực hiện việc này thay vì phản kháng bằng phương tiện bạo lực. Dự án này được áp dụng, dẫn đến một cuộc tranh đấu kéo dài 7 năm với hơn 7000 người Ấn bị bắt giam (trong đó có Gandhi, bị bắt bỏ tù nhiều lần), đánh đập, thậm chí bị bắn vì đình công, từ chối không kí chứng, đốt giấy kí chứng hoặc tham gia những cuộc kháng cự bất bạo động khác. Mặc dù chính quyền thành công trong việc đàn áp những người Ấn phản đối, tiếng thét gào của công chúng trước những phương pháp tàn bạo được áp dụng bởi chính quyền Nam Phi cho những người phản đối yên lặng hòa bình này cuối cùng đã bắt buộc tướng Jan Christian Smuts luận bàn một phương án thoả hiệp với Gandhi.
Trong những năm sống tại Nam Phi, Gandhi đã lấy cảm hứng từ quyển Chí Tôn ca cũng như những tác phẩm của Lev Nikolayevich Tolstoy (đặc biệt là quyển “Thiên đường nằm trong Bạn”), người đã trải qua một sự chuyển biến tôn giáo sâu sắc với niềm tin vào một dạng “chủ nghĩa vô chính phủ” của Kitô giáo. Gandhi dịch bài “Thư gửi đến một môn đồ Ấn Độ giáo” (A Letter to a Hindu) của Tolstoi, được viết vào năm 1908 để phản ứng những đồng hương Ấn Độ theo chủ nghĩa dân tộc một cách hung bạo. Hai người viết thư cho nhau cho đến khi Tolstoi mất vào năm 1910. Bức thư của Tolstoi dùng triết học Ấn Độ có nguồn từ các Phệ-đà và những lời khuyên của Hắc thiên để hướng đến phong trào chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ đang tiến triển. Gandhi cũng bị ảnh hưởng lớn qua tiểu luận nổi danh của Henry David Thoreau là “Sự không phục tòng của công chúng”. Những năm lưu trú tại Nam Phi với tư cách một người chủ trương hành động chuyên về xã hội chính trị chính là thời kì những khái niệm và kĩ thuật của phương pháp bất hợp tác và phản đối bất bạo lực được phát triển. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu, ông quyết định trở về Ấn Độ, mang theo tất cả những gì ông đã học được từ những kinh nghiệm tại Nam Phi.
Phong trào đấu tranh giành độc lập Ấn Độ
-
Như đã thực hiện trong cuộc chiến Nam Phi, Gandhi khuyến khích việc ủng hộ người Anh trong cuộc chiến (Thế chiến thứ nhất) và chủ động khích lệ người Ấn tham gia quân đội. Khác với quan niệm của nhiều người khác, cách biện luận duy lí của ông cho trường hợp này là quyền công dân đầy đủ, tự do và quyền lợi trong Đế quốc Anh, và như vậy thì việc giúp nó phòng vệ không có gì sai. Ông thuyết trình trước Quốc dân Đại hội Ấn Độ, nhưng phần lớn là chính ông được hướng dẫn vào những chủ đề Ấn Độ, chính trị và công chúng Ấn qua Gopal Krishna Gokhale, nhà lãnh đạo được tôn trọng nhất của đảng Quốc dân Đại hội bấy giờ.
Champaran và Kheda
Những thành tích lớn đầu tiên của Gandhi xảy ra vào năm 1918 với cuộc kích động tại Champaran và phong trào Chấp trì chân lí tại Kheda mặc dù ông chỉ thực hiện trên mặt danh nghĩa trong trường hợp thứ hai và người chính chủ đạo là Sardar Vallabhbhai Patel, cánh tay phải của Gandhi. Tại Champaran, một khu vực nằm trong tiểu bang Bihar, ông tổ chức cuộc kháng cự cùng với hơn 10.000 nông dân không có đất, nông nô và những nông gia nghèo khổ có số lượng đất không đáng kể. Họ bị ép buộc phải trồng indigo và những nông sản bán được trên thị trường thay vì gieo trồng những loại cung cấp thực phẩm cần thiết cho sự sinh tồn của họ. Bị đàn áp bởi dân binh của điền chủ (phần lớn là người Anh), họ được trả công rất ít nên cuộc sống rất vất vả cơ hàn. Thôn làng của họ rất dơ bẩn, thiếu vệ sinh. Những vấn đề như uống rượu, kì thị dân ti tiện (untouchable) và khăn che (purdah) ngày càng lan tràn. Giờ đây, ngay trước một cuộc chống đói kinh hoàng, thực dân Anh lại đưa ra một loại thuế tàn ác, cứ y vào sự gia tăng theo chu kì mà thu thuế. Tình thế rất tuyệt vọng và tại Kheda, bang Gujarat thì sự việc nhìn chung cũng không khác.
Gandhi lập một Già-lam tại đó, tổ chức một nhóm người bao gồm người giúp cố cựu và người mới từ địa phương. Ông tổ chức một công trình nghiên cứu để có được một tổng quan về các thôn làng, xem xét những sự tàn bạo và những tình tiết thống khổ bao gồm những trạng thái thoái hóa của cuộc sống nói chung. Lập cơ sở trên lòng tự tin của người làng, Gandhi bắt đầu chỉnh lí các thôn xóm, lập trường học và bệnh viện, khuyến khích chủ làng xoá bỏ những việc hủ nát như phân biệt tiện dân, bắt phụ nữ mang khăn che và áp chế họ.
Nhưng cuộc phát động có tổ chức đầu tiên của Gandhi xảy ra khi ông bị cảnh sát bắt giam với lí do gây bạo động và được yêu cầu rời địa phương này. Hàng trăm nghìn người biểu tình chống đối, vây quanh nhà giam, các trạm cảnh sát và quan tòa đòi trả tự do lại cho ông, một sự việc pháp tòa không muốn nhưng sau cũng phải thực hiện. Gandhi đứng đầu những cuộc biểu tình có tổ chức chống lại điền chủ, và họ, dưới sự lãnh đạo của chính quyền Anh, đã kí một hiệp định đảm bảo trả lương cao hơn và kiểm soát việc cho nông dân nghèo địa phương thuê đất, xoá bỏ việc tăng thuế cũng như việc thu thuế đến khi nạn đói chấm dứt. Chính trong thời gian kích động này, Gandhi được quần chúng tôn xưng là Bapu (người cha già dân tộc) và Mahātmā (tâm hồn vĩ đại). Tại Kheda, Patel đại diện các nông gia trong những cuộc thương lượng với chính quyền Anh với kết quả là họ tạm dừng thu thuế, đảm bảo trợ cấp. Tất cả những người bị tù đều được thả ra. Danh tiếng Gandhi từ đây như một ngọn lửa lan truyền khắp nước và ông đã trở thành năng lực ảnh hưởng nhất định trong phong trào chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ.
Phát động phong trào bất hợp tác
Dự thảo pháp luật Rowlatt được duyệt năm 1919, cho phép chính phủ bắt giam những người bị vu khống gây loạn mà không cần đưa ra tòa duyệt. Gandhi và đảng Quốc dân Đại hội tổ chức những cuộc biểu tình lớn phản đối và đình công, và tất cả những cuộc phản đối này đều được tổ chức rất hòa bình trên khắp nước. Tất cả những thành phố và thị xã lớn đều đóng cửa; các hoạt động cơ quan chính phủ đều phải được quân đội đảm nhiệm. Hàng nghìn người bị bắt giam, lệnh giới nghiêm được áp dụng ở nhiều vùng của Ấn Độ. Tại Punjab, cuộc đại tàn sát ở Amritsar với 379 người dân bị giết bởi quân đội Anh và Ấn Độ đã gây chấn thương nặng nề cho đất nước, gia tăng phẫn oán nơi quần chúng cũng như những hành vi bạo lực.
Gandhi phê bình cả hai, hành vi của người Anh và bạo lực phục thù của người Ấn. Ông viết một bài phân ưu cùng với những nạn nhân Anh và lên án những cuộc bạo động. Bài này ban đầu bị phản đối trong đảng, nhưng được chấp thuận sau một bài thuyết giảng của Gandhi mà trong đó, ông đề cao nguyên tắc là tất cả những hành vi bạo lực đều có hại, không thể được biện minh[14]. Người Ấn không mang tội vì sự kì thị của người Anh, và không nên trừng phạt công dân Anh vô tội.
Nhưng sau cuộc tàn sát lớn và bạo lực này, Gandhi nhận thức được là không chỉ người Ấn chưa được chuẩn bị cho việc kháng cự số đông, mà sự cai trị của người Anh đích thật tàn ác và nó có bản chất là đàn áp. Gandhi giờ đây chú tâm đến việc giành quyền tự trị và quyền quản lí tất cả những cơ quan chính quyền Ấn Độ, vươn đến trạng thái tự chủ (svarāj), nghĩa là sự tự chủ toàn vẹn về mặt cá nhân, tâm linh và chính trị.
Tháng 4 năm 1920, Gandhi được bầu làm chủ tịch hội Liên hiệp Tự trị Toàn Ấn Độ (All India Home Rule League). Ông được trao uy quyền chấp hành trong đảng Quốc dân Đại hội tháng 12 năm 1921. Dưới sự lãnh đạo của Gandhi, Quốc dân Đại hội được tổ chức lại với một hiến pháp mới có mục đích là tự chủ. Ai cũng có thể trở thành đảng viên sau khi đóng một lệ phí trên danh nghĩa. Một tổ chức có giai cấp của các uỷ ban được thành lập nhằm cải thiện kỉ luật và kiểm soát những phong trào từ trước đến giờ không có định hình và khuếch tán, chuyển biến đảng từ một tổ chức tinh duệ số ít thành một đảng lớn với sức lôi cuốn toàn quốc. Gandhi mở rộng mặt trận bất bạo lực, bao gồm chính sách “bản quốc” (svadeshi) – nghĩa là tẩy chay những sản phẩm ngoại lai, đặc biệt là những sản phẩm Anh. Liên hệ với chính sách này là sự ủng hộ việc mang y phục tự dệt ở nhà, được gọi là khadi, của ông, khuyên tất cả các người Ấn ăn mặc như vậy thay vì dùng đồ vải của người Anh. Gandhi khuyến cáo toàn dân, nam cũng như nữ, mỗi ngày dành chút thời gian để dệt vải ủng hộ phong trào đấu tranh giành độc lập[15]. Đây là chiến thuật nhằm khắc sâu kỉ luật và sự cống hiến để loại trừ những người không có thiện ý và những người hoài bão, và bao gồm phụ nữ vào phong trào ở một thời điểm mà nhiều người cho rằng, những việc làm như vậy không đáng trọng cho phụ nữ.
Thêm vào việc tẩy chay các sản phẩm Anh, Gandhi cũng khuyến khích dân chúng tẩy chay các cơ quan giáo dục và pháp tòa Anh, từ chức không làm cho chính quyền, từ chối không đóng thuế và huỷ bỏ những danh hiệu, huy chương Anh. Chương trình mới này đã đạt được sức lôi cuốn và thành công rộng lớn, gia lực cho người Ấn chưa từng có từ xưa nay. Nhưng khi phong trào vừa đạt đỉnh điểm thì đã chấm dứt một cách đột ngột vì một cuộc xung đột bạo lực tại thị xã Chauri Chaura, bang Uttar Pradesh vào tháng 2 năm 1922. Lo ngại phong trào sẽ quay về phương tiện bạo lực và tin chắc rằng sự việc này có thể lật đổ tất cả những công trình của mình, Gandhi liền huỷ bỏ chiến dịch bất phục tòng[16]. Giờ đây, như một người đã phô bày nhược điểm của mình, Gandhi bị bắt bỏ tù ngày 10 tháng 3 năm 1922, bị đưa ra tòa vì lí do gây loạn và kết án sáu năm tù. Đây không phải lần đầu Gandhi vị bỏ tù nhưng là lần bị giam cầm lâu nhất. Bắt đầu từ ngày 18 tháng 3 năm 1922, ông ngồi tù khoảng hai năm và được thả tháng 2 năm 1924 sau một ca mổ viêm ruột thừa.
Không có nhân cách hùng mạnh của Gandhi để kiềm chế các người đồng sự, đảng Quốc dân Đại hội bắt đầu tan vỡ, phân thành hai phái trong thời gian ông ngồi tù. Một phái được dẫn đầu bởi Chitta Ranjan Das và Motilal Nehru, ủng hộ việc đảng tham dự cơ quan lập pháp. Phái thứ hai được dẫn đầu mởi Chakravarti Rajagopalachari và Sardar Vallabhbhai Patel, phản đối việc này. Thêm vào đó là việc hợp tác giữa tín đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo mạnh mẽ trong những chiến dịch bất bạo động giờ đây sa sút. Gandhi tìm cách bắc cầu nối những điểm sai biệt này bằng nhiều phương tiện, bao gồm một cuộc tuyệt thực ba tuần mùa thu năm 1924, nhưng chỉ với kết quả hạn chế[17].
Những năm 1930: Hội đồng Simon, Chấp trì chân lí muối
Gandhi trong cuộc hành trình Chấp trì chân lí Muối năm 1930
Trong hầu hết những năm thuộc thập niên 1920–30, Gandhi đứng bên ngoài ánh đèn công chúng. Ông chú trọng đến việc giải quyết cái nêm giữa đảng Swaraj và Quốc dân Đại hội, và khai mở các phương pháp chống kì thị dân vô giai cấp, uống rượu, thiếu học và nghèo đói. Ông trở về địa vị hàng đầu vào năm 1928. Một năm trước đó, chính quyền Anh đề cử một hội đồng cải cách hiến pháp dưới sự lãnh đạo của Sir John Simon mà không có tên một người Ấn nào trong hội đồng. Kết quả của việc này là sự tẩy chay hội đồng của các đảng Ấn Độ. Gandhi thúc đẩy một nghị quyết thông qua Quốc dân Đại hội Calcutta vào tháng 12 năm 1928, kêu gọi chính quyền Anh đảm bảo địa vị chủ quyền (dominion status) trong vòng một năm hoặc là sẽ đối đầu một chiến dịch bất bạo lực mới với mục đích giành độc lập hoàn toàn cho đất nước.
Ngày 26 tháng 1 năm 1930 được Quốc dân Đại hội Ấn Độ – lúc đó đang hội họp tại Lahore – đề cao là ngày kỉ niệm độc lập Ấn Độ. Nó được tưởng niệm bởi hầu hết tất cả những tổ chức chính trị Ấn Độ khác, những tổ chức nỗ lực giành độc lập đất nước hoặc tiến đến việc trao quyền xã hội chính trị cho những cộng đồng khác nhau.
Như đã tuyên bố trước đây, vào tháng ba năm 1930, ông phát động một chiến dịch Chấp trì chân lí phản đối thuế muối, được nhấn mạnh bởi cuộc Hành trình muối (Salt March) đến Dandi nổi tiếng kéo dài từ 21 tháng 3 đến 6 tháng 4 năm 1930. Ông đi bộ 400 km từ Ahmedabad đến Dandi để lấy muối cho riêng mình. Hàng nghìn dân chúng Ấn Độ tham gia cuộc hành trình đến bờ biển này. Hành trình muối này là một trong những chiến dịch thành công nhất của ông với kết quả là hơn 60.000 người bị bắt giam. Chính quyền, được đại diện qua Lord Irwin, quyết định thương lượng với Gandhi.
Hiệp ước Gandhi-Irwin được đóng dấu tháng 3 năm 1931. Trong đó, chính quyền Anh đồng ý thả tất cả những tù nhân chính trị để bù cho việc đình chỉ cuộc vận động bất phục tòng. Thêm vào đó, Gandhi được mời sang Anh tham dự hội nghị bàn tròn (Round Table Conference) tại Luân Đôn với tư cách người đại diện duy nhất của Quốc dân Đại hội Ấn Độ. Hội nghị này là một thất vọng cho Gandhi cũng như những người theo chủ nghĩa dân tộc bởi vì nó chỉ lưu ý đến những tiểu vương cũng như những nhóm thiểu số Ấn Độ hơn là một sự phó truyền quyền lực (transfer of power). Ngoài ra, người thừa kế Lord Irwin là Lord Willingdon đã bắt đầu một chiến dịch mới để đàn áp những đại biểu chủ nghĩa dân tộc.
Một lần nữa, Gandhi bị bắt giam, và chính quyền tìm cách đập tan ảnh hưởng của ông bằng cách cách li hoàn toàn ông và các người đi theo ủng hộ. Chiến lược này không hiệu quả. Năm 1932, qua chiến dịch của B. R. Ambedkar – lãnh tụ của những người Dalit – chính quyền đảm bảo cho dân ti tiện Dalit những khu bầu cử riêng trong hiến pháp mới. Để phản đối việc này, Gandhi bắt đầu một cuộc tuyệt thực 6 ngày vào tháng 9 năm 1932, thành công trong việc buộc chính quyền tiếp nhận một hệ thống công bằng hơn qua sự thương lượng qua trung gian là ông Palwankar Baloo, vốn là một người Dalit chơi ngoạn bản cầu (cricketer), sau trở thành nhà chính trị. Đây cũng là khởi điểm của một chiến dịch mới của Gandhi với mục đích cải thiện cuộc sống của dân ti tiện, những người được ông gọi là Harijan, “con của trời Hari”. Ngày 8 tháng 5 năm 1933, Gandhi bắt đầu một cuộc tuyệt thực 21 ngày để phản đối sự đàn áp của người Anh tại Ấn Độ[18]. Mùa hè năm 1934, ông ba lần bị mưu hại không thành công.
Khi đảng Quốc dân Đại hội Ấn Độ tranh luận về tuyển cử và chấp nhận quyền chính trị dưới kế hoạch liên bang, Gandhi quyết định rời đảng. Ông hoàn toàn không chống đối phương án này của đảng nhưng cảm thấy rằng nếu ông rút lui thì hình tượng của ông đối với thường dân Ấn Độ sẽ ngưng đè nén toàn thể hội viên của đảng vốn có bản chất đa dạng: thành viên theo chủ nghĩa cộng sản, xã hội, công đoàn, sinh viên, tôn giáo bảo thủ, kinh doanh và quyền sở hữu. Gandhi cũng không muốn mình là mục tiêu của sự tuyên truyền của chính quyền Anh khi lãnh đạo một đảng đã có lần tạm thời thừa nhận sự phù hợp chính trị với chính quyền Anh.
Gandhi trở về địa vị lãnh đạo năm 1936 khi Jawaharlal Nehru nắm chức chủ tịch và Quốc dân Đại hội đang họp tại Lucknow. Mặc dù Gandhi mong muốn sự tập trung tuyệt đối vào việc giành độc lập, không chú tâm vào việc suy đoán về chính quyền Ấn Độ tương lai, nhưng ông không ngăn được việc Quốc dân Đại hội chọn chủ nghĩa xã hội là mục tiêu.
Gandhi cũng phê bình Subhas Chandra Bose và việc ông thăng tiến, nhậm chức chủ tịch vào năm 1938. Trong khi một số sử gia cho rằng đây là một cuộc tranh quyền giữa hai nhà lãnh đạo lớn thì Gandhi cơ bản phản đối việc Bose không thừa nhận nguyên tắc bất bạo lực cũng như dân quyền, hai điểm được Gandhi xem là nền tảng cho cuộc đấu tranh. Nguyện vọng phát động một cuộc khởi nghĩa khắp nơi chống chính quyền Anh của Bose không hàm dung việc chuẩn bị không dùng bạo lực của những người tham gia và trong năm đầu giữ quyền chủ tịch, Bose tập trung vào việc đưa những người thân cận lên nắm những chức quan trọng.
Bose được nhậm chức lần thứ hai mặc dù bị Gandhi chỉ trích, nhưng rời Quốc dân Đại hội khi tất cả những thành viên chức cao khác từ chức hàng loạt để phản đối việc ông từ bỏ những nguyên tắc Gandhi đã đưa vào trong những năm đầu thập niên 1920[19]. Năm 1938-1939, tất cả những ứng cử viên của Quốc dân Đại hội từ chức khi Quốc hội phản đối sự sáp nhập Ấn Độ một mặt vào Thế chiến thứ hai mà không tham vấn những đại biểu được bầu.
Gandhi tiếp tục cuộc đấu tranh chống sự kì thị dân Dalit, khuyến khích việc dệt tay và các ngành kĩ nghệ tại gia khác. Ông cũng cố gắng kiến lập một hệ thống giáo dục mới thích hợp cho những vùng thôn dã. Gandhi sống giản dị trong những năm này trong một thôn làng trung tâm Ấn Độ với tên Sevagram. Ngày 3 tháng 3 năm 1939, ông lại tuyệt thực một lần nữa.
“Làm hay chết”: Thế chiến thứ hai và “Rời Ấn Độ”
Thế chiến thứ hai bùng nổ năm 1939 khi Đức quốc xã xâm lấn Ba Lan. Gandhi hoàn toàn đồng cảm với nạn nhân của sự xâm chiếm này. Sau khi cân nhắc kĩ cùng những người đồng nghiệp trong Quốc hội, ông công bố rằng Ấn Độ không thể tham gia một cuộc chiến với mục đích bề ngoài là giành tự do dân chủ trong khi chính tự do dân chủ này bị phủ nhận tại Ấn Độ. Gandhi nói rằng ông sẽ hỗ trợ người Anh nếu họ cho ông thấy cách áp dụng mục đích của cuộc chiến tại Ấn Độ sau chiến tranh. Phản ứng của chính quyền Anh hoàn toàn phủ định. Họ bắt đầu tạo sự căng thẳng giữa môn đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Khi chiến tranh tiến hành, Gandhi nâng cao yêu cầu, thảo một nghị quyết kêu gọi người Anh “Rời Ấn Độ” (Quit India)[20].
Đây là sự phản đối quyết định nhất, cực lực nhất của Gandhi và đảng Quốc dân Đại hội với mục tiêu xác nhận việc người Anh rời nước Ấn. Gandhi bị một số người trong Quốc hội và một số nhóm chính trị khác – thuộc cả hai mặt, theo Anh và chống Anh – chỉ trích. Một số người cho rằng, đối lập người Anh trong thời đoạn chiến đấu sinh tử của họ là một việc phi đạo đức trong khi một số người khác lại cho rằng Gandhi chưa thực hiện đủ yêu cầu. Nhiều đảng chính trị phản đối lời kêu gọi của Gandhi. Ngoài sức khoẻ và tuổi tác ra, đây có lẽ là bước tiến dẫn cuối cùng của Gandhi.
Nó đã dẫn khởi một cuộc vận động đấu tranh giành độc lập Ấn Độ lớn nhất cho đến bây giờ – với sự bắt giam số đông và bạo lực ở một mức độ chưa từng có.[21] Hàng nghìn người kháng cự bị sát hại hoặc bị thương dưới nòng súng cảnh sát, và hàng trăm nghìn người đấu tranh giành độc lập bị bắt giam. Gandhi và những người hỗ trợ ông nói rõ rằng họ sẽ không giúp người Anh trong thế chiến nếu Ấn Độ không được đảm bảo tự do ngay lập tức. Gandhi thậm chí nói rằng không thể đình chỉ cuộc vận động trong thời điểm này ngay trong trường hợp những hành vi bạo lực cá nhân xảy ra. Ông cho rằng, tình trạng “vô chính phủ có tổ chức” xung quanh ông “nguy hiểm hơn là vô chính phủ thật sự”. Ông yêu cầu tất cả những thành viên Quốc hội và dân chúng duy trì kỉ luật hòa bình và “làm hay chết” vì tự do tuyệt đối.
Gandhi và toàn bộ ban chấp hành Quốc hội bị bắt giam ngày 9 tháng 8 năm 1942 tại Mumbai bởi lực lượng quân đội nước Anh. Gandhi bị giam hai năm trong điện Aga Khan tại Pune. Tại đây, Gandhi trải qua những nỗi khổ lớn nhất của cuộc đời, đó là cái chết của vợ Kasturbai chỉ vài tháng sau khi Mahadev Desai – người thư kí được ông xem như con trai – chết vì bị nhồi máu cơ tim vào tuổi 42. Gandhi được thả trước khi chiến tranh chấm dứt vì sức khoẻ sa sút và một ca mổ cần thiết. Chính quyền Anh không muốn ông chết trong tù vì đây là một sự kiện có thể làm lòng căm phẫn của công chúng vượt khỏi tầm kiểm soát.
Mặc dù sự đàn áp tàn nhẫn này mang đến một trạng thái trật tự tương đối tại Ấn Độ cuối năm 1943, nhưng phong trào “Rời Ấn Độ” đã thành công với những mục tiêu của nó. Khi chiến tranh chấm dứt, người Anh đã đưa ra những dấu hiệu rõ ràng là quyền cai trị sẽ được chuyển đến tay Ấn Độ. Gandhi đình chỉ cuộc đấu tranh, những người lãnh đạo Quốc hội và khoảng 100.000 người tù chính trị được thả. Sau 90 năm phấn đấu, tự do giờ đây nằm trong tầm tay Ấn Độ.
Tự do và sự phân chia Ấn Độ
-
Gandhi khuyên Quốc hội từ khước những đề nghị trong kế hoạch của phái đoàn chính phủ Anh năm 1946 vì ông rất nghi ngờ việc chia quyền với Liên minh Hồi giáo (Muslim League) cũng như sự phân chia và hạ giảm chính quyền trung ương có thể xảy ra. Gandhi cảnh cáo sự tập hợp được đề nghị dành cho những liên bang có số đông người Hồi. Tuy nhiên, đây là một trong những lần ít ỏi mà Quốc hội không nghe lời Gandhi (nhưng không đặt câu hỏi về quyền lãnh đạo) vì những người cầm đầu không những muốn lập chính quyền nhanh như có thể khi người Anh trao quyền lại, mà còn muốn ngăn cản Mohammed Ali Jinnah và Liên minh Hồi giáo đạt vị trí ngang hàng với đảng Quốc dân Đại hội, vốn có bản chất dân tộc và hiện thế hơn.
Trong thời gian 1946-1947, hơn 5000 dân bị sát hại. Liên minh được ủng hộ mạnh ở những bang có nhiều người theo Hồi giáo như Punjab, Bengal, Sindh, NWFP (North-West Frontier Province, Pakistan) và Baluchistan. Kế hoạch phân chia được ban lãnh đạo Quốc hội thừa nhận là phương pháp duy nhất để ngăn cản một cuộc nội chiến lớn giữa môn đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo.
Những nhà lãnh đạo cố cựu của Quốc hội biết rõ Gandhi sẽ phản đối cực lực sự phân chia, nhưng họ cũng thừa biết là Quốc hội không tiến bước nếu không có sự thoả thuận của ông vì sự hỗ trợ trong đảng và toàn quốc dành cho Gandhi rất sâu rộng. Những người bạn đồng nghiệp thân cận nhất của ông đã chấp nhận việc phân chia như phương án giải đáp tốt nhất, và Sardar Patel cố gắng thuyết phục Gandhi đây là con đường duy nhất để tránh cuộc nội chiến. Gandhi cuối cùng xuôi lòng, tán đồng bước thực hiện này.
Gandhi có ảnh hưởng lớn trong các cộng đồng Ấn Độ giáo và Hồi giáo tại Ấn Độ. Tương truyền chỉ sự hiện diện của ông thôi cũng đủ chấm dứt các cuộc bạo động. Ông phản đối kịch liệt tất cả những kế hoạch phân chia Ấn Độ thành hai quốc gia độc lập. Liên minh Hồi giáo luận cứ rằng thiểu số người Hồi giáo sẽ bị bức áp một cách có hệ thống bởi phần lớn môn đồ Ấn Độ giáo trong một quốc gia Ấn Độ thống nhất, và một quốc gia riêng cho người theo Hồi giáo là một giải pháp hợp lí. Tuy nhiên, nhiều người Hồi giáo ở trung tâm Ấn Độ – vốn chung sống với người Ấn giáo, đạo Sikhs, Phật giáo, Kì-na giáo, đạo Parsi, Kitô giáo và đạo Do Thái – lại muốn một quốc gia Ấn Độ thống nhất. Nhưng Jinnah ra lệnh hỗ trợ rộng rãi các vùng Tây Punjab, Sindh, NWFP và Đông Bengal, tất cả những vùng đã hợp thành dạng Pakistan và Bangladesh ngày nay. Xứ sở mới của người theo Hồi giáo được kiến lập từ các vùng Đông và Tây Ấn Độ. Ban đầu nó được gọi là Tây và Đông Pakistan, và giờ đây tương ưng với Pakistan và Bangladesh. Ngày trao quyền chính trị, Gandhi không ăn mừng độc lập cùng với công chúng Ấn Độ mà chỉ đơn độc tại Kolkata, đau buồn về sự phân chia và tiếp tục công việc nhằm chấm dứt bạo lực.
Đời sống cá nhân trong thời kì đấu tranh
Gandhi và vợ Kasturba đi khắp nước và lưu trú ở những Già-lam ở Gujarat và Maharashtra hoặc tại nhà những người bạn và những người hâm mộ. Những lần đến Delhi, họ ngụ tại tòa nhà Birla (Birla House) được cấp bởi người bạn thân là Ghanshyamdas Birla. Một thời Gandhi trú tại chung cư Bhangi (Bhangi Colony), trung tâm của sự việc chống kì thị giai cấp của ông.
Gandhi là một người say mê viết thư, luôn thử nghiệm các cách điều chế ăn uống, trau dồi nhận thức tôn giáo và triết học, nhưng chủ yếu là tư duy về các sự kiện chính trị. Ông cũng đã chỉ đạo những công việc trong một Già-lam và chỉ dẫn các môn đệ trong những vấn đề cá nhân.
Bị ám sát
Ngày 30 tháng 1 năm 1948, trên đường đến một nơi thờ tụng, Gandhi bị bắn chết bởi Nathuram Godse tại tòa nhà Birla ở New Delhi. Godse là một môn đồ Ấn giáo cực đoan được người đương thời cho là có mối quan hệ với cánh cực hữu của các tổ chức Ấn Độ giáo như Hindu Mahasabha. Tổ chức này cho Gandhi là người chịu trách nhiệm cho việc chính quyền suy nhược vì đã khăng khăng bắt buộc nộp một khoản tiền cho Pakistan. Godse và người cùng âm mưu là Narayan Apte sau bị đưa ra tòa kết án, và bị xử tử ngày 15 tháng 11 năm 1949. Vinayak Damodar Savarkar, chủ tịch của Hindu Mahasabha, một nhà cách mạng và môn đồ Ấn giáo cực đoan bị tố cáo là người nắm đầu dây của mưu đồ này, nhưng sau được giải tội vì thiếu bằng chứng.
Tương truyền câu nói trước khi chết của Gandhi là “Ô kìa Rama!” (Hey Ram!) và nó được xem là câu tôn kính hướng đến thần Rama, là một dấu hiệu gợi cảm tâm linh Gandhi cũng như lí tưởng đạt sự thống nhất với hòa bình vĩnh hằng của ông. Câu này được khắc vào đài tưởng niệm của ông tại New Delhi. Có người nghi vấn về tính có thật của câu này nhưng một số người đã chứng kiến và xác nhận ông đã nói như thế[22]. Một vài nguồn ghi lại những lời cuối của ông là “He Ram, He Ram” hoặc “Rama, Rama”, và nó cũng tường thuật rằng ông lăn xuống đất, chắp hai tay trước ngực ở tư thế chào.
Nguyên tắc: Chấp trì chân lí
-
Như đã nói trong phần dẫn nhập, nguyên tắc chính của Gandhi là Satyāgraha, “Chấp trì chân lí” và người thực hiện việc này được gọi là một Satyāgrahī. Trong nhiều bài viết, Gandhi định nghĩa Chấp trì chân lí như sau (Collected Works of Mahatma Gandhi [CWMG], Vol. 16, p. 9-10):
- Chấp trì chân lí là gì? Chấp trì chân lí không phải là năng lực thể chất. Người chấp trì chân lí không tổn thương đối thủ; ông ta không tìm cách huỷ diệt người ấy. Một người chấp trì chân lí không bao giờ dùng súng. Không có lòng sân ác hoặc bất cứ tâm bất thiện nào khác khi ứng dụng chấp trì chân lí.
- Chấp trì chân lí là một năng lực tâm linh thanh tịnh. Chân lí chính là thể chất của linh hồn. Đây là nguyên do vì sao năng lực này được gọi là chấp trì chân lí. Linh hồn bao gồm trí huệ. Ngọn lửa của lòng từ bi bùng cháy trong nó. Nếu một ai đó tổn thương ta vì vô minh thì ta thắng họ bằng tình thương. Bất hại là pháp tối cao (sa. ahiṃsā paramo dharmaḥ). Nó chính là sự chứng minh của năng lực tình thương. Bất hại là trạng thái ngủ. Khi tỉnh thức thì nó là tình thương. Được chỉ đạo bởi tình thương, thế giới tiến bước…
Theo Gandhi thì nguyên tắc Chấp trì chân lí nên đi xa hơn, ảnh hưởng nhiều hơn những dạng kháng cự xưa nay như Kháng cự thụ động, bất phục tòng của công chúng và bất hợp tác. Chấp trì chân lí bao gồm cả ba dạng này, nhưng lại tiến xa hơn (Harijan, 21.07.1940):
- Theo nghĩa thường gặp thì chấp trì chân lí có nghĩa là thế lực của chân lí (truth force)…. Bạo lực là sự phủ nhận năng lực tâm linh to lớn này, một năng lực chỉ có thể được sử dụng hoặc phát triển bởi những người hoàn toàn lìa xa bạo lực. Nó là một năng lực có thể được áp dụng bởi cá nhân hoặc cộng đồng, và nó cũng có thể được ứng dụng trong lãnh vực chính trị hoặc tại gia…. Tính năng có thể được áp dụng mọi nơi của nó chính là sự biểu hiện của tính trường tồn cũng như vô địch của nó. Nó có thể được áp dụng bởi đàn ông, đàn bà và trẻ em…. Những người tự thấy mình yếu hèn không thể dùng năng lực này được. Chỉ những người nhận thức được một cái gì đó của con người siêu việt bản năng thô bạo trong mình và năng lực thứ hai này luôn quy hướng về nó thì những người này mới có thể là những người kháng cự thụ động hữu hiệu.
Lúc đầu, Gandhi xem Chấp trì chân lí như là kháng cự thụ động, nhưng sau ông từ khước cách dùng này, bởi vì đối với ông, “thụ động” chỉ đến một trạng thái thừa nhận định mệnh, một cách thầm nhận những gì bất công và như vậy, nó hạ thấp năng lực nằm trong từ “kháng cự”. Theo Gandhi, kháng cự đòi hỏi một tư thái anh hùng và năng nỗ hơn là trạng thái thụ động hoặc khoan nhượng.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là đặc điểm nào đưa Chấp trì chân lí lên cao hơn ba dạng kia? Ba thành phần chính của nguyên tắc Chấp trì chân lí sẽ làm sáng tỏ sự việc, đó là Chân lí (sa. satya), Bất hại (sa. ahiṃsā) và Khổ hạnh (sa. tapas)
Chân lí
Gandhi phân biệt hai loại chân lí, chân lí tương đối và chân lí tuyệt đối. Trong trường hợp Chấp trì chân lí thì chân lí tương đối đóng vai trò chính. Trong phần dẫn nhập của Tự truyện, Gandhi ghi như sau:
- Nhưng đối với tôi, chân lí là một nguyên tắc căn bản bao gồm nhiều nguyên tắc khác. Chân lí này không chỉ là sự chân thật trong lời nói, mà cũng là sự chân thật trong tư duy, và cũng không chỉ là chân lí tương đối của khái niệm của chúng ta, mà là chân lí tuyệt đối, chân lí vĩnh hằng, và đó là Thượng đế. Có rất nhiều cách định nghĩa Thượng đế bởi vì Ngài có rất nhiều cách thể hiện. Chúng chinh phục tôi với sự kinh ngạc và kính trọng và tôi tê liệt trong một khoảnh khắc. Nhưng tôi chỉ tôn kính Thượng đế như chân lí. Tôi chưa tìm thấy Ngài, nhưng tôi tìm Ngài. Tôi sẵn sàng cống hiến những gì quý báu nhất của tôi để đi tìm. Ngay cả trường hợp sự cống hiến này đòi hỏi ngay sinh mệnh của tôi thì tôi hi vọng là sẽ sẵn lòng hiến dâng nó. Nhưng khi nào tôi chưa trực chứng chân lí tuyệt đối thì cho đến khi ấy, tôi phải nắm giữ chân lí tương đối như tôi hiểu nó. Trong thời gian này thì chân lí tương đối phải là ngọn đèn, tấm mộc và vật che chở của tôi.
Trong nguyên tắc Chấp trì chân lí, chân lí tương đối – mang khái niệm thực dụng để tìm chân lí – quan trọng hơn các khái niệm về Thượng đế, Brahman hoặc chân lí tuyệt đối. Trong khi khái niệm chân lí tuyệt đối của Gandhi bị ảnh hưởng về mặt siêu hình thì mặt khác, khái niệm chân lí tương đối, như cơ sở của chấp trì chân lí, lại rất khoa học và chính xác. Chỉ qua sự áp dụng và thực nghiệm ta mới biết được lập trường nào đứng gần chân lí tuyệt đối hơn.
Nhưng, để không bị tấm màn vô minh và huyễn giác mê hoặc, người ta phải giữ những giới luật nhất định. Chúng được hàm dung trong hai thành phần khác của Chấp trì chân lí, là Bất hại và Khổ hạnh.
Bất hại
Bất hại cũng được hiểu là Bất bạo động. Theo Gandhi, chỉ một con đường dẫn đến chân lí, và con đường này mang tên Bất hại. Theo ông, chỉ nguyên tắc bất hại mới hòa hợp với quy luật vũ trụ là Dharma. Nguyên tắc bất hại toàn hảo đòi hỏi một niềm tin vào tính nhất thể của sự sống.
Theo nguyên tắc Chấp trì chân lí, sinh mệnh của toàn thể được đặt cao hơn sinh mệnh của cá nhân và như vậy, nó đòi hỏi một tấm lòng vị tha và vô uý. Để đạt được đẳng cấp này, người ta phải tu luyện thân tâm, cụ thể là thực hiện các phép tu khổ hạnh.
Khổ hạnh
Tapas – được dịch là Khổ hạnh ở đây – có nguyên nghĩa theo Ấn Độ giáo là “sự nóng”, một “ngọn lửa” có thể đốt cháy các nghiệp trước đây. Thuật ngữ này sau được dùng để chỉ sự hành hạ thể xác, tuyệt dục, lãnh đạm đối với các cảm nhận khổ lạc,… Tuy nhiên, dạng Khổ hạnh Gandhi đề cao không phải là dạng ẩn lánh vào rừng mà là dạng hết lòng phục vụ những người xung quanh, trong xã hội (CWMG, Vol. 73, S. 43-44).
- Đây là một thử nghiệm mới. Bất bạo lực chưa được áp dụng trong chính trị. Bất bạo lực cũng đã được áp dụng thời xưa. Nhưng nó lúc nào cũng là việc làm của một cá nhân. Những người như thế sau này ẩn tránh trong núi hoặc sống đơn độc trong các thôn làng. Họ không lưu tâm đến hạnh phúc chung. Tôi đã bắt đầu một phong trào mới. Bất bạo lực, nếu chỉ giới hạn ở một cá nhân thôi thì chẳng phải là pháp tối cao. Tôi không kính phục một người thực hiện bất bạo lực trong một hang động. Bất bạo lực như vậy chẳng có sở dụng gì cho tôi. Tôi tin vào một dạng bất bạo lực có thể được thực hiện trong thế gian với những hiện thực rõ ràng. Tôi chẳng lưu tâm đến sự giải thoát của một người thực hiện bất bạo lực sau khi từ khước thế gian. Tôi chẳng để ý đến một sự giải thoát cá nhân loại trừ những người khác ra. Người ta có thể đạt giải thoát qua việc phục vụ người khác. Đây chính là lí do tôi đến đây để thuyết giảng sự việc cho quý vị.
Năng lực của một tâm thức chấp nhận khổ đau với chủ ý có khả năng dung hòa bạo lực. Giữ chặt chân lí mình cho là đúng có thể gây khổ đau nhiều dạng, ví như mất mát của cải, mang thương tích, thậm chí tử vong. Nhưng Gandhi lại đòi hỏi ở những người đi theo mình một sự kham khổ tuyệt đối vì ông quan niệm rằng, mức độ khổ đau chính là thước đo chiều sâu tình thương của người chấp trì chân lí dành cho đối thủ cũng như của tính chất nghiêm trọng của niềm tin của ông ấy (CWMG, Vol. 17, trang 374).
Ăn chay
Mặc dù có thử ăn thịt lúc còn nhỏ nhưng Gandhi sau này trở thành một người ăn chay tuyệt đối. Ông viết sách về chủ đề này trong thời gian du học tại Luân Đôn, sau khi gặp người tranh đấu cho việc ăn chay là Henry Stephens Salt ở những cuộc hội họp của Hội người ăn chay. Nguyên tắc ăn chay có truyền thống lâu đời trong các tôn giáo Ấn Độ như Ấn Độ giáo, Kì-na giáo và Phật giáo, và trong tiểu bang của Gandhi, Gujarat, phần lớn môn đồ Ấn giáo đều ăn chay. Ông thử nhiều cách ăn và kết luận rằng, ăn chay đủ cung cấp chất dinh dưỡng tối thiểu cho thân thể. Tuy nhiên, cách ăn của ông cũng linh hoạt và ông cũng không ngần ngại khi ăn trứng như bài viết “chìa khoá sức khoẻ” (Key to Health) năm 1948 cho thấy. Ông thường nhịn ăn lâu ngày, dùng nhịn ăn như một vũ khí chính trị. Ông từ chối không ăn cho đến chết hoặc cho đến khi những yêu cầu của ông được thực hiện.
Sống tuyệt dục
Gandhi sống tuyệt dục từ năm 36 tuổi. Quyết định này của ông bị ảnh hưởng mạnh bởi khái niệm Phạm hạnh (sa. brahmacarya) trong các tôn giáo Ấn Độ, tức là sự thanh tịnh của tâm linh và hành động, có mối liên hệ trực tiếp với việc tu khổ hạnh (sa. tapas) được nhắc bên trên. Tuy vậy, Gandhi không tin đây là một việc mỗi người nên làm. Trong Tự truyện, ông có nhắc lại cuộc phấn đấu chống lại sự thôi thúc tính dục và những cuộc ghen tuông vì bà Kasturba. Ông cho rằng, sống tuyệt dục là trách nhiệm riêng của ông để có thể phát triển lòng từ bi thay vì đam mê nhục dục.
Im lặng
Gandhi giữ giới không nói một ngày trong tuần. Ông tin là không nói sẽ mang đến sự an tĩnh nội tâm. Giới không nói bắt nguồn từ truyền thống Ấn giáo, mouna “tịnh khẩu” và śānti “tịch tĩnh”. Trong những ngày này, ông trao đổi với những người xung quanh bằng cách viết trên giấy. Từ năm 37 tuổi, hơn ba năm liền ông không đọc báo vì cho rằng, trạng thái huyên náo của sự kiện thế giới làm tâm ông hỗn loạn hơn là hỗn loạn nội tâm sẵn có.
Y phục
Trở về Ấn Độ sau khi làm luật sư thành công tại Nam Phi, ông từ khước mặc y phục phương Tây – cách ăn mặc được ông liên tưởng đến phú quý và thành công. Ông ăn mặc để người nghèo nhất Ấn Độ cũng có thể chấp nhận. Gandhi khuyến khích việc mặc y phục tự dệt (khadi). Ông và môn đệ dệt vải từ sợi chỉ tự se và khuyến khích người khác cũng làm như thế. Mặc dù công nhân Ấn Độ thường ngồi không vì thất nghiệp, họ vẫn mua quần áo sản xuất bởi người Anh. Gandhi cho rằng, nếu người Ấn tự sản xuất vải, họ sẽ gây một chấn động kinh tế cho các tổ chức Anh tại Ấn Độ. Qua sự việc này, biểu tượng bánh xe se chỉ sau này được đưa vào lá cờ của Quốc dân Đại hội Ấn Độ.
Tôn giáo
Mặc dù sinh ra trong một gia đình Ấn Độ giáo, Gandhi vẫn giữ thái độ phê phán phần lớn các tôn giáo, bao gồm cả Ấn Độ giáo. Trong Tự truyện, ông ghi như sau:
- Như vậy, nếu tôi không thừa nhận Thiên chúa giáo là toàn hảo hoặc vĩ đại nhất thì tôi cũng chẳng tin Ấn Độ giáo được như vậy. Những nhược điểm của Ấn Độ giáo đập ngay vào mắt tôi. Nếu kì thị người ti tiện (untouchability) là một thành phần của Ấn Độ giáo thì nó là thành phần hủ nát hoặc là một cục bướu. Tôi không thể hiểu lí do tồn tại của đa số phe phái và giai cấp xã hội. Thế nào là ý nghĩa của câu nói “Phệ-đà là những lời cảm hứng của Thượng đế”? Nếu chúng được truyền cảm, thì tại sao Thánh kinh và Koran lại không? Khi các người bạn Thiên chúa giáo tìm cách thuyết phục cải đạo, các người bạn Hồi giáo cũng làm như vậy. Abdullah Sheth liên tục khuyến dụ tôi nghiên cứu Hồi giáo và dĩ nhiên là ông ta luôn có những gì để nói về cái đẹp của nó.
Và ông cũng nói thêm:
- Khi mất cơ sở đạo đức, chúng ta mất lòng thành tín. Không có gì ta có thể gọi là Đạo đức siêu việt tôn giáo. Con người không thể giả dối, ác hại hoặc phóng dật rồi sau đó xác định là có Thượng đế bên cạnh.
Nhưng Gandhi phê phán tính đạo đức giả trong tôn giáo có tổ chức hơn là những nguyên tắc cơ bản của chúng. Ông nói như sau về Ấn Độ giáo:
- Ấn Độ giáo, như tôi hiểu, làm tôi mãn nguyện hoàn toàn, vun đầy thể chất của tôi…. khi hoài nghi lai vãng, khi thất vọng đối diện tôi, và khi tôi không còn thấy một tia sáng nào ở chân trời, lúc đó tôi mở quyển Chí tôn ca, tìm đọc một câu an ủi; và ngay lập tức, tôi có được một nụ cười ngay trong nỗi lo bức bách. Cuộc đời tôi đầy những thảm kịch và nếu chúng không để lại hiệu quả hiển nhiên không thể tẩy đi được nơi tôi thì đó kết quả của những lời dạy trong Chí tôn ca.
Quan niệm Jihad của Hồi giáo cũng có thể được hiểu là một cuộc đấu tranh bất bạo động hoặc Chấp trì chân lí như Gandhi đã áp dụng. Ông nói như sau về Hồi giáo:
- Những lời dạy của Muhammad là kho báu trí huệ, không những cho môn đồ Hồi giáo, mà cho toàn nhân loại.
Sau này, khi được hỏi có phải là môn đồ Ấn giáo hay không, ông ứng đáp:
- Đúng, tôi là môn đồ Ấn giáo. Tôi cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo, một tín đồ Hồi giáo, một Phật tử và một môn đồ Do Thái.
Gandhi tin rằng, tinh hoa của mỗi tôn giáo là chân lí và tình thương. Ông bị ảnh hưởng lớn bởi giáo lí bất kháng cự (nonresistance) và “đưa má thứ hai” ra (khi bị đánh một bên má) của Thiên chúa giáo, và ông có lần nói là nếu Thiên chúa giáo được áp dụng như trong Bài giảng trên núi thì ông là một tín đồ Thiên chúa giáo.
Niềm tin
Mặc dù rất kính trọng nhau nhưng Gandhi và Rabindranath Tagore tranh luận dai dẳng nhiều lần và các cuộc tranh luận này là những ví dụ tiêu biểu cho những quan điểm triết học dị biệt giữa hai danh nhân Ấn Độ vĩ đại nhất thời đó. Ngày 15 tháng 1 năm 1934, một cơn động đất xảy ra tại Bihar, gây tử vong và thiệt hại lớn. Gandhi tin chắc rằng sự việc xảy ra vì tội lỗi của những môn đồ Ấn giáo thuộc giai cấp cao, vì họ không cho những kẻ ti tiện vào đền thờ. Tagore phản đối cực lực lập trường của Gandhi, cho rằng, một cơn động đất chỉ có thể xảy ra trên cơ sở năng lực thiên nhiên, không phải vì lí do đạo đức cho dù việc kì thị người vô giai cấp đáng chê trách như thế nào đi nữa.
Tưởng niệm
Gandhi không được giải Nobel bao giờ mặc dù được đề cử năm lần từ 1937 đến 1948. Vài thập niên sau, Hội đồng giải Nobel công bố sự ân hận đã bỏ lỡ thời cơ và họ cũng thừa nhận là những ý kiến bị phân chia bởi tư tưởng dân tộc đã ngăn cản việc trao giải cho Gandhi. Khi Đạt-lại Lạt-ma thứ 14 nhận giải năm 1989, chủ tịch hội cũng đã nói là “đây cũng là một phần cống phẩm để tưởng niệm Gandhi”. Viện bảo tàng điện tử của hiệp hội giải Nobel có một bài về mục này [23].
Tạp chí Time gọi Gandhi là người thứ hai sau Albert Einstein trong mục “Nhân vật thế kỉ” và có một bài viết với những chủ mục viết tường tận của Dalai Lama, Lech Wałęsa, Martin Luther King, Jr. và Nelson Mandela với tên “Những người con của Gandhi” (Children of Gandhi), với mục đích nhận thức ảnh hưởng của Gandhi đến những người lãnh đạo tương lai.
Chính quyền Ấn Độ trao giải Hòa bình Gandhi cho những người phục vụ xã hội, những người lãnh đạo trên thế giới và lãnh đạo công dân xuất sắc. Nelson Mandela, người dẫn đầu cuộc đấu tranh chống kì thị chủng tộc và phân li quốc gia là người ngoài Ấn Độ nổi danh được trao giải này.
Năm 1996, chính phủ Ấn Độ phát hành một loạt tiền giấy có hình Gandhi bào gồm những tờ 5, 10, 20, 50, 100, 500 và 1000 rupee.
Hình tượng trong nghệ thuật
Cách trình bày cuộc đời Gandhi nổi tiếng nhất có lẽ là bộ phim Gandhi (1982), được đạo diễn bởi Richard Attenborough và diễn viên Ben Kingsley (chính ông là người nửa phần Gujarati) trong vai chính. Tuy nhiên, bộ phim sau này bị chỉ trích bởi các học giả hậu thực dân. Họ luận cứ là bộ phim miêu tả Gandhi như một người dùng một tay đưa Ấn Độ đến sự độc lập và bỏ qua những nhân vật quan trọng khác (của cả hai nhóm, tinh duệ và cấp dưới) trong cuộc kháng chiến chống thực dân. Bộ phim The Making of the Mahatma, với Shyam Benegal đạo diễn và Rajat Kapur trong vai chính là một phim nói về 21 năm hoạt động của Gandhi tại Nam Phi.
Philip Glass soạn ca kịch Satyagraha nói về sự nghiệp của Gandhi.
Có nhiều tượng Gandhi nổi tiếng tại Anh, đáng lưu ý nhất là tượng ở Tavistock Gardens, Luân Đôn, gần Đại học College London, nơi ông đã học luật.
Tại Hoa Kỳ, người ta có thể chiêm ngưỡng tượng Gandhi bên ngoài Ferry Building tại San Francisco, tại Hermann Park, Houston Garden Center ở Houston, tại Union Square Park ở Thành phố New York, tại Martin Luther King, Jr. National Historic Site ở Atlanta, bên ngoài Thảo cầm viên Honolulu ở Kapiolani Park, Hawaii, ở Village of Skokie (một vùng bên ngoài Chicago, Illinois), và gần tòa đại sừ Ấn Độ ở khu phố Dupont Circle của Washington, DC.
Thành phố Pietermaritzburg, Nam Phi, nơi Gandhi bị tống ra khỏi toa xe năm 1893, giờ đây có một bức tượng tưởng niệm hình tượng người đấu tranh giành độc lập Ấn Độ, được dựng lên 100 năm sau khi sự kiện xảy ra.
Cũng có những hình tượng Gandhi ở các thành phố khác như Moskva, Paris, Amsterdam, Barcelona, Lisbon, Canberra, San Fernando, Trinidad và Tobago. Chính phủ Ấn Độ tặng tượng Gandhi cho thành phố Winnipeg, tỉnh Manitoba, Canada, để tỏ lòng ủng hộ viện bảo tàng dân quyền tương lai được lập ở đây (Canadian Museum for Human Rights)[24].
Cũng có một bức tượng bán thân to lớn của Gandhi trước thư viện của Đại học Laurentian ở Sudbury, Ontario[25]. Tại St. Louis, một bức tượng bán thân của Gandhi đứng trước International Institute[26].
Phê bình
Nhiều nhà sử học và chú giải đã phê bình Gandhi vì cái nhìn của ông về Adolf Hitler và Chủ nghĩa Đức quốc xã, bao gồm những lời trần thuật là người Do Thái có thể đạt được tình thương của Thượng đế nếu họ sẵn lòng đi đến cái chết như những cảm tử chết vì nghĩa.[27]. Penn và Teller, trong một đoạn của chương trình “Bullshit!” (“Holier than Thou”), đã tấn công Gandhi một phần về tính đạo đức giả qua những lập trường tiền hậu bất nhất trí trong khi thực hiện bất bạo lực, thái độ không thích hợp về phía phụ nữ và những lời nói có bản chất kì thị chủng tộc. Gandhi nói trước công chúng tại Mumbai, 26 tháng 9 năm 1896 (Collected Works, quyển II, trang 74) về người châu Phi như sau:
- Cuộc chiến của chúng ta là một cuộc đấu tranh chống sự suy đồi mà người châu Âu tìm cách áp đặt vào chúng ta. Họ muốn hạ cấp chúng ta thành một Kaffir (tên gọi hạ miệt, chỉ người Phi da đen) thô tục với việc làm là săn bắt, với hoài bão duy nhất là sưu tập một số gia súc nhất định để mua được một người vợ và sau đó sống một cuộc sống lười nhác và loã lộ.
Tagore nhận xét về ông như sau:
Ông ngừng lại ở ngưỡng cửa các căn nhà tồi tàn của hằng ngàn người cùng khốn, y phục của ông y hệt y phục của họ. Ông nói với họ bằng ngôn ngữ của họ. Đó mới thực là một chân lí sinh động chứ không phải chỉ là những lời suông trong sách vở. Vì vậy mà tiếng tôn xưng Mahatma (Thánh) mà dân Ấn tặng ông đã thành tên thực của ông. Ai là người cảm thấy như ông rằng tất cả mọi người Ấn chính là da thịt của mình, máu mủ của mình? Khi tình thương tới gõ cửa Ấn Độ thì cửa đã mở toang chờ sẵn rồi… Nghe tiếng gọi của Gandhi, Ấn Độ xông ngay tới một cảnh vinh quang cao quý mới, như hồi xưa, rất xa xăm, khi Phật Tổ tuyên bố đạo từ bi, thương yêu cả mọi sinh vật.[28]
Xem thêm
Thư mục tham khảo
- M. Blume: Satyagraha. Wahrheit und Gewaltfreiheit, Yoga und Widerstand bei Gandhi. Gladenbach 1987.
- J. Bondurant: Conquest of Violence, Princeton 1958.
- M. Chatterjee: Gandhi’s Religious Thought, London 1983.
- Gandhi: Hind Swaraj in Iyer: Writings (Bd. I, S. 199-264).
- Gandhi: Multimedia, E-book. CD-ROM Version. New Delhi: Publications Division, Ministry of Information and Broadcasting, 1999. (The Collected Works of Mahatma Gandhi).
- Harijan. A journal of applied Gandhiism, New York 1933-54.
- J.L. Garfield: The Satya in Satyagraha.
- R.N. Iyer: The Moral and Political Thought of Mahatma Gandhi, New York 1973.
- J.T.F. Jordens: Gandhi’s Religion. A Homespun Shawl, Basingstoke 1998.
- B. Parekh: Gandhi’s Political Philosophy, Delhi 1995.
- U. Prell: Ziviler Ungehorsam, Berlin 1984.
- G. Richards: The Philosophy of Gandhi, London 1982.
- R.J. Terchek: Gandhi, New Delhi 2001.
- Young India, Ahmedabad 1919-32.
- Gandhi: A Photo biography by Peter Rühe ISBN 0714892793
- The Essential Gandhi: An Anthology of His Writings on His Life, Work, and Ideas by Louis Fischer ISBN 1400030501
- Gandhi: A Life by Yogesh Chadha ISBN 0471350621
- Gandhi (1982), phim của Richard Attenborough.
- Gandhi and India: A Century in Focus by Sofri, Gianni (1995) ISBN 1900624125
- The Kingdom of God is Within You by Leo Tolstoy (1894) ISBN 0803294042
- An Autobiography, or the Story of My Experiments with Truth M.K. Gandhi (1929).
- Patel: A Life by Rajmohan Gandhi.
- Exploring Jo’burg with Gandhi, Lucille Davie.
Chú thích
- ^ Chaudhury, Nilova (15 June 2007). “October 2 is global non-violence day”. hindustantimes.com (Hindustan Times). Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2007.
- ^ “General Assembly adopts texts on day of non-violence,…”. un.org (United Nations). 15 June 2007. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2007.
- ^ Todd & Marty (2012), tr. 8. The name Gandhi means “grocer”, although Mohandas’s father and grandfather were politicians not grocers.
- ^ Miller (2002), tr. 9.
- ^ a ă Mohanty (2011).
- ^ Gandhi, (1940). Chapter “Preparation for England”.
- ^ Gandhi, Rajmohan (2006), tr. 20–21.
- ^ a ă â Brown, (1991).
- ^ Tendulkar (1951).
- ^ (1969). “The Journal of Modern African Studies“.
- ^ Fischer, (2002).
- ^ Gandhi, (1940). “Chapter “More Hardships”“.
- ^ Parekh, (2001).
- ^ R. Gandhi, Patel: A Life, p. 82.
- ^ R. Gandhi, Patel: A Life, p. 89.
- ^ R. Gandhi, Patel: A Life, p. 105.
- ^ R. Gandhi, Patel: A Life, p. 131.
- ^ R. Gandhi, Patel: A Life, pp. 230–32.
- ^ R. Gandhi, Patel: A Life, pp. 277–81.
- ^ R. Gandhi, Patel: A Life, p. 309.
- ^ R. Gandhi, Patel: A Life, p. 318.
- ^ Vinay Lal. ‘Hey Ram’: The Politics of Gandhi’s Last Words. Humanscape 8, no. 1 (tháng 1 năm 2001): pp. 34–38.
- ^ Mahatma Gandhi, the Missing Laureate
- ^ MCC ATTENDS UNVEILING OF GANDHI STATUE
- ^ Đại học Laurentian
- ^ International Institute
- ^ Richard Grenier, The Gandhi Nobody Knows
David Lewis Schaefer, What Did Gandhi Do
- ^ Lịch sử văn minh Ấn Độ, Will Durant, Người dịch: Nguyễn Hiến Lê, Chương IX, mục VI. MAHATMA GANDHI.
Liên kết ngoài
Thể loại:
Lương Thế Vinh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lương Thế Vinh (chữ Hán: 梁世榮,; 1441–1496 [1]), còn gọi là Trạng Lường, tên tự là Cảnh Nghị, tên hiệu là Thụy Hiên, là một nhà toán học, Phật học, nhà thơ Việt Nam thời Lê sơ. Ông đỗ trạng nguyên dưới triều Lê Thánh Tông và làm quan tại viện Hàn Lâm. Ông là một trong 28 nhà thơ của hội Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông lập năm 1495.
Tiểu sử
Lương Thế Vinh sinh ngày 1 tháng Tám năm Tân Dậu (tức 17 tháng 8 năm 1441) [1] tại làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, trấn Sơn Nam (nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Từ nhỏ Lương Thế Vinh đã nổi tiếng về khả năng học mau thuộc, nhanh hiểu, và khả năng sáng tạo trong các trò chơi như đá bóng, thả diều, câu cá, bẫy chim.
Năm 1463, Lương Thế Vinh đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ nhất danh (trạng nguyên) khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4, đời Lê Thánh Tông.[2]
Vua Lê Thánh Tông ban tặng Cờ hoa Tam Khôi cho ba vị đỗ đầu:
- Trạng nguyên Lương Thế Vinh
- Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh
- Thám hoa Quách Đình Bảo
- Thiên hạ cộng tri danh – (Thiên hạ đều biết tên)
Các năm sau đó, ông làm quan với các chức Trực học sĩ, Thị thư và Chưởng viện sự ở viện Hàn lâm.
Ông mất ngày 26 tháng 8 năm Bính Thìn (tức 2 tháng 10 năm 1496) tại quê nhà, thọ 55 tuổi [1].
Khi ông qua đời, vua Lê Thánh Tông rất thương tiếc và viết một bài thơ khóc Trạng:
- Chiếu thư thượng đế xuống đêm qua
- Gióng khách chương đài kiếp tại nhà
- Cẩm tú mấy hàng về động ngọc
- Thánh hiền ba chén ướt hồn hoa
- Khí thiên đã lại thu sơn nhạc
- Danh lạ còn truyền để quốc gia
- Khuất ngón tay than tài cái thế
- Lấy ai làm Trạng nước Nam ta
Giai thoại
Về sự sáng tạo của Lương Thế Vinh hồi nhỏ, có giai thoại kể rằng một lần trong lúc đang chơi bóng với các bạn, quả bóng lăn xuống một hố hẹp và sâu, tưởng như không lấy lên được. Lương Thế Vinh đã nghĩ ra cách lấy bóng lên bằng việc đổ nước vào hố và lợi dụng việc bóng nổi trên nước để lấy lại quả bóng.
Về phong cách học tập của Lương Thế Vinh, có giai thoại so sánh ông với Quách Đình Bảo cũng là người nổi tiếng về thông minh, học giỏi ở vùng Sơn Nam (Ngày nay thuộc Thái Bình và Nam Định). Khi sắp đến kỳ thi của triều đình, Quách Đình Bảo thì ngày đêm dùi mài kinh sử quên ngủ, quên ăn; còn Vinh thì thư giãn, thả diều cùng bạn bè. Kì thi đó Quách Đình Bảo đỗ đầu nhưng đến khoa thi Đình (kì thi Quốc gia) Quý Mùi năm Quang Thuận thứ tư, đời vua Lê Thánh Tông (1463) Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên (đỗ đầu), Quách Đình Bảo chỉ đỗ thám hoa (đỗ thứ 3).
Sự sáng tạo khoa học của Lương Thế Vinh được truyền khẩu qua câu chuyện ông tiếp đón sứ nhà Minh là Chu Hy. Hy đã nghe nói về Lương Thế Vinh, không những nổi tiếng về văn chương âm nhạc, mà còn tinh thông toán học, nên thách đố Vinh cân một con voi. Lương Thế Vinh đưa voi lên một chiếc thuyền rồi đánh dấu mép nước bên thuyền, sau đó dắt voi lên. Tiếp theo, ông ra lệnh đổ đá hộc xuống thuyền, cho đến lúc thuyền chìm xuống đến đúng dấu cũ. Việc còn lại là đưa từng viên đá lên cân và cộng kết quả. Chu Hy thán phục ông nhưng tiếp tục đố ông đo bề dày của một tờ giấy xé ra từ một quyển sách. Khi nghe ông nói chỉ cần đo bề dày cả cuốn sách rồi chia đều cho số tờ là ra ngay kết quả, Chu Hy ngửa mặt lên trời than: “Nước Nam quả có lắm người tài!”. Lương Thế Vinh đáp lại rằng người nghĩ ra cách cân voi thật sự là Tào Xung, con của Tào Tháo. Điều này càng khiến cho sứ giả hổ thẹn vì chưa thuộc sử nước nhà.
Lương Thế Vinh cũng được gắn với một vài giai thoại với vua quan nhà Lê. Các giai thoại này cho thấy ông ứng đáp thông minh với vua, có các lời khuyên hợp lý cho vua và răn dạy các quan dưới cấp bỏ thói hách dịch nhân dân.
Tác phẩm
Về toán học, Lương Thế Vinh đã để lại
Về lịch sử hát chèo:
Về Phật học:
Lương Thế Vinh nổi tiếng với tài năng toán học. Quyển Đại thành toán pháp của ông được đưa vào chương trình thi cử suốt 450 năm trong lịch sử giáo dục Việt Nam. Ông cũng được xem là người chế ra bàn tính gẩy cho người Việt, lúc đầu làm bằng đất rồi bằng trúc, bằng gỗ, sơn màu khác nhau, đẹp và dễ tính, dễ nhớ. Các chuyện truyền miệng dân gian còn cho biết tài năng của ông được thể hiện từ khi nhỏ tuổi. Ông được nhân dân gọi tên là Trạng Lường sau khi đỗ trạng nguyên.
Ngoài công việc hàn lâm trong triều, Lương Thế Vinh còn được vua giao việc thảo những văn thư ngoại giao với nhà Minh. Triều Minh thường khen ngợi những văn thư ngoại giao này.
Dù là một nhà nho lỗi lạc, Lương Thế Vinh cũng sáng tác văn Nôm. Ông được cho là tác giả của Thập giới Cô hồn Quốc ngữ văn, còn gọi là Phật kinh Thập giới. Đây là áng văn Nôm cổ gồm đoạn mở đầu và 10 đoạn nói về 10 giới cô hồn: Thiền tăng, đạo sĩ, quan liêu, nho sĩ, thiên văn-địa lý, lương y, tướng quân, hoa nương, thương cổ và đãng tử. Mỗi đoạn có một bài tán và kết thúc bằng bài kệ 8 câu. Vì sáng tác Phật kinh Thập giới, Lương Thế Vinh bị các bạn đồng nghiệp chê và ông không được ghi tên trong văn miếu Khổng Tử.
Tuy nhiên, Nhất Hạnh cho rằng Lương Thế Vinh không viết bài này vì bài kệ của đoạn về Thiền tăng có giọng đùa bỡn, không phù hợp với một người có nhiều cảm tình với Phật giáo như Lương Thế Vinh. Theo Lê Mạnh Thát, Thập giới cô hồn văn là một tác phẩm của vua Lê Thánh Tông (1442 – 1497).
Lương Thế Vinh cũng quan tâm nghiên cứu về âm nhạc dân gian, như hát chèo. Ông được vua Lê Thánh Tông giao cho cùng Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận chế định ra các lễ nhạc của triều đình.
Lương Thế Vinh được nhận định là có tính cách bình dị, mến dân, trung thực và khả năng châm biếm khôi hài trong việc răn dạy từ vua đến quan.
Xem thêm
Chú thích
Liên kết ngoài
|
Đô Nguyên soái |
|
|
Phó Nguyên soái |
|
|
Thành viên |
|
|
Khác |
|
|
Thể loại:
Trận Moskva (1941)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Về các trận chiến khác đã diễn ra tại Moskva, xin xem trang định hướng Trận Moskva
|
Các xe tăng T-26 của Liên Xô chuẩn bị cho cuộc phản công ở ngoại vi Moskva, mùa đông 1941-1942 |
. |
|
Tham chiến |

Đức Quốc xã |

Liên Xô |
Chỉ huy |
Walther von Brauchitsch,
Fedor von Bock,
Heinz Guderian,
Hermann Hoth,
Erich Höpner |
G. K. Zhukov,
B. M. Shaposhnikov
A. M. Vasilevsky
I. S. Koniev
A. I. Yeryomenko |
|
|
Lực lượng |
Tổng số binh lực được huy động trong toàn bộ chiến dịch theo Liên Xô:
1.929.406 người, 72[2] đến 78[3] sư đoàn.1.700 xe tăng
14.000 pháo và súng cối
1.390 máy bay
[4] |
Giai đoạn phòng ngự:
1.250.000 người[5],
Giai đoạn phản công:
1.021.700 người[6],
hơn 10.500 pháo và súng cối
(trong đó có 1.200 pháo chống tăng),
1.044 xe tăng, 545 máy bay,[2] |
Tổn thất |
theo Liên Xô:
Tháng 10 và 11-1941: 145.000
Tháng 12-1941: 103.600
Tháng 1-1942: 144.900
Tháng 2-1942: 108.700 người
Tháng 3-1942: 79.700
Tổng số: 581.900 người chết [7] |
Giai đoạn phòng ngự:
514.338 chết, bị bắt hoặc mất tích (41,1%)
143.941 bị thương[5]
Giai đoạn phản công:
139.586 chết và mất tích (13,7%)
231.369 bị thương.[6] |
. |
|
Trận Moskva là một trong những trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Xô-Đức và Thế chiến thứ hai vào cuối năm 1941 và đầu năm 1942. Với quân số và vũ khí tham chiến hết sức đông đảo, trận quyết chiến này kéo dài tới bảy tháng.[8] Đây là trận đánh giữa quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc Xã vì thành phố Moskva, thủ đô của Liên bang Xô Viết. Trận này có tầm quan trọng bậc nhất cả về quân sự, chính trị cũng như tâm lý trong Thế chiến thứ hai. Vốn quân Đức đã gần chiếm được thủ đô Moskva, họ vấp phải sự kháng cự hết sức mãnh liệt của quân Liên Xô, và chịu nhiều mất mát. Để rồi, một cuộc phản công mang tính chiến lược của quân Liên Xô đã dập tắt hoàn toàn kế hoạch của Đức Quốc xã nhằm nhanh chóng đánh thắng Liên Xô.[9] Đầu năm 1942, quân Đức đã đẩy lui hẳn khỏi Moskva.[10] Sau trận đánh này, cho dù Liên Xô chỉ tạm thời giành thế thượng phong,[1] với sự thất bại hoàn toàn của chiến tranh đánh nhanh thắng nhanh của Đức, nước Đức Quốc xã buộc phải chấp nhận tiến hành chiến tranh tiêu hao kéo dài với đối thủ là cường quốc rộng lớn nhất thế giới, đông dân với tiềm lực chiến tranh ngày càng được huy động mạnh hơn. Như một chiến thắng bước ngoặt của quân đội Liên Xô trong suốt cuộc chiến[1], thất bại lớn đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã ngay trước cửa ngõ Moskva đã báo trước thất bại của nước Đức Quốc xã trong toàn bộ cuộc chiến tranh. Lần đầu tiên, các “chiến binh vô địch” của Hitler đã phải tháo chạy trước một đối thủ hùng mạnh. Hồng quân Liên Xô đã chiến đấu với tất cả sự kiên trì, nỗ lực và quả cảm.[9][10] Cùng với thất bại trong trận không chiến tại Anh Quốc, thảm họa Moskva – một thất bại mà người Đức không thể tưởng đến[9] – cho thấy nền Đệ tam Đế chế Đức đã bắt đầu xuống dốc ngay từ trên đỉnh cao của mình.[11] Sau thất bại này, nước Đức bước vào năm 1942 với cơn đại chiến chưa xong trên cả hai mặt trận.[12] Cũng sau thắng lợi của quân Liên Xô ở trận Moskva, đời sống của thị dân thành phố này trở lại yên bình như xưa, dù đại thắng này vẫn chưa đem lại thất bại hoàn toàn cho phát xít Đức trong cuộc chiến.[10][13] Vốn trong chiến thắng quan trọng ấy, thị dân (trong đó có cả phụ nữ) và các đội du kích Moskva đã đóng góp rất đáng kể và gây khó khăn to lớn cho quân Đức.[9]
Sau toàn bại này, người Đức bắt đầu liên tưởng đến chiến bại của Napoleon trong cuộc xâm lược nước Nga hồi năm 1812.[9] Hitler tức giận, đã cách chức nhiều bại tướng và đích thân nắm quyền chỉ huy quân đội[10]. Thảm họa Moskva, cùng với các chiến bại ở trận Leningrad và trận Stalingrad, đánh dấu sự thất bại của Hitler trong việc xâm chiếm Liên bang Xô viết,[11] khắc hẳn với cuộc chinh phạt nhiều nước Âu lục của ông.[10]
Tình thế chiến trường Xô – Đức tại mặt trận Moskva
Moskva là mục tiêu cuối cùng của Chiến dịch Barbarossa. Các nhà chiến lược của nước Đức Quốc xã cho rằng: Chừng nào Moskva còn tồn tại với tư cách là một trung tâm chỉ huy chiến lược của Quân đội Xô Viết, chừng nào nó còn là nguồn động viên cổ vũ cho quân đội và người dân Xô Viết thì chừng đó, “Đế chế thứ ba” chưa thể có một chiến thắng quyết định trước Liên Xô.[14]
Do kết quả của Chiến dịch Smolensk, đến cuối tháng 9 năm 1941, các đơn vị chủ yếu của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) chỉ còn cách Moskva hơn 300 km. Tuyến mặt trận trải dài hơn 300 km từ Ostaskoye qua phía Đông Smolensk – Tây Briansk đến Shotshka. Ngoài các tập đoàn quân xe tăng 2, 3, các tập đoàn quân dã chiến 2, 4, 9; Thống chế Fedor von Bock còn được tăng cường thêm tập đoàn quân xe tăng 4 rút từ Cụm tập đoàn quân Bắc và hai quân đoàn bộ binh cơ giới lấy từ lực lượng dự bị của Lục quân Đức. Tổng số binh lực của Cụm tập đoàn quân Trung tâm lên đến 77 sư đoàn, trong đó có 13 sư đoàn xe tăng, 8 sư đoàn cơ giới với 1,1 triệu sĩ quan và binh sĩ, khoảng 1.700 xe tăng, hơn 14.000 pháo và súng cối, 950 máy bay chiến đấu.[15][16]
Mặc dù các chiến dịch phản công của quân đội Xô Viết tại Smolensk và Yelnya đã chặn đứng ý đồ chiếm Moskva trong hành tiến trong tháng 8, tháng 9 của Bộ chỉ huy tối cao quân đội Đức nhưng tình thế của Quân đội Liên Xô trên hướng Tây Moskva vẫn chứa đựng những nguy cơ hết sức nghiêm trọng. Tại mặt trận phía Tây, Quân đội Liên Xô có ba phương diện quân tham gia phòng thủ Moskva: Phương diện quân Tây, giữ tuyến mặt trận từ Ostaskoye đến Yelnia; Phương diện quân Dự bị giữ tuyến mặt trận từ Yelnia đến Roslavl, một phần của Phương diện quân này bố trí ngay ở phía sau lưng phương diện quân Tây từ Rzhev đến khu Vyazma – Yukhnov; Phương diện quân Briansk phòng thủ từ Lyudinovo, qua phía Tây Briansk đến Shotshka. Tổng số binh lực của ba phương diện quân này về hình thức thì có đến 14 tập đoàn quân nhưng do đã bị thiệt hại nặng sau trận Smolensk nên khi quân đội Đức Quốc xã bắt đầu tấn công, quân số của các đơn vị này chỉ còn hơn 800.000 sĩ quan và binh sĩ, 782 xe tăng, 6.808 pháo và súng cối, 545 máy bay chiến đấu.[17]
Với ưu thế về binh lực gấp 1,25 lần về bộ binh, 2,2 lần về xe tăng, 2,1 lần về pháo và súng cối, 1,7 lần về máy bay, các chiến lược gia của Đế chế thứ ba cho rằng việc tiêu diệt chế độ Xô Viết có thể tính được từng ngày. Trong nhật lệnh ngày 30 tháng 9, Hitler tuyên bố: “Hôm nay, bắt đầu cuộc chiến đấu cuối cùng có tính chất quyết định. Nơi Moskva đang tồn tại hiện nay sẽ trở thành một vùng biển rộng lớn vĩnh viễn chôn vùi thủ đô của người Nga mãi mãi khỏi thế giới văn minh này”.
Joseph Goebbels, bộ trưởng tuyên truyền Đức còn lệnh cho báo chí Đức giành chỗ để đăng “những thông tin giờ chót về sự thất thủ của Moskva” trong số sẽ ra ngày 12 tháng 10.[18] Với một loạt thắng lợi của quân đội Đức Quốc xã trong suốt Chiến dịch Barbarossa, thực chất thái độ lạc quan của người Đức không hề vô căn cứ.[9]
Binh lực hai bên tham chiến
Quân đội Đức Quốc xã
- Tập đoàn quân 9 của tướng Adolf Strauß gồm có:
-
- Quân đoàn bộ binh 23 của tướng Alfred Shubert
- Quân đoàn xe tăng 3 (tướng Adolf Strauß trực tiếp chỉ huy quân đoàn này)
- Các sư đoàn bộ binh độc lập 102, 206, 251, 256
-
- Quân đoàn xe tăng 5 của tướng Richard Ruoff có các sư đoàn 5, 35 và 106
- Quân đoàn xe tăng 6 của tướng Otto von Forster có các sư đoàn 26 và 110
- Quân đoàn cơ giới 41 của tướng Georg Hans Reinhardt có các sư đoàn xe tăng 1, sư đoàn bộ binh 6 và sư đoàn mô tô cơ giới 36.
- Quân đoàn cơ giới 56 của tướng Fridric Shols có các sư đoàn xe tăng 6, 7 và sư đoàn bộ binh 129.
- Tập đoàn quân 4 của tướng Günther von Kluge gồm có:
-
- Quân đoàn bộ binh 9 của tướng German Geyer có các sư đoàn 137, 183, 263 và 292.
- Quân đoàn bộ binh 7 của tướng Veber Farmbarkh có các sư đoàn 7, 23, 169 và 197.
- Quân đoàn bộ binh 20 của tướng Frish Matern có các sư đoàn 15, 78 và 268.
- Tập đoàn quân xe tăng 4 của tướng Erich Hopner được điều từ Cụm tập đoàn quân Bắc đến, gồm có:
-
- Quân đoàn cơ giới 40 của tướng Georg Stumme gồm các sư đoàn xe tăng 2, 10 và sư đoàn bộ binh 258
- Quân đoàn cơ giới 46 của tướng Gherder von Vittinhoff-Shiler có các sư đoàn xe tăng 5, 11 và sư đoàn bộ binh 252
- Quân đoàn cơ giới 57 của tướng Alfred Kunser có sư đoàn xe tăng 20, sư đoàn cơ giới 3 và sư đoàn cơ giới SS “Đế chế”.
- Quân đoàn bộ binh 12 của tướng Verner Shrot có các sư đoàn bộ binh 34 và 98.
- Tập đoàn quân 2 của tướng Maximilian von Weichs gồm có:
-
- Quân đoàn bộ binh 13 của tướng Hans Felber có các sư đoàn 17 và 260.
- Quân đoàn bộ binh 43 của tướng Gotthard Heinrici có các sư đoàn 52 và 131.
- Quân đoàn bộ binh 53 của tướng Karl Vaizenberger có các sư đoàn 56 và 167.
- Các sư đoàn dự bị 2 và 112.
-
- Quân đoàn xe tăng 47 của tướng Julian Lemenzen có các sư đoàn xe tăng 17, 18 và sư đoàn mô tô cơ giới 29.
- Quân đoàn xe tăng 24 của tướng Gheire von Shverpenburg có các sư đoàn xe tăng 3, 4 và sư đoàn mô tô cơ giới 10.
- Quân đoàn xe tăng 48 của tướng Werner Kempf có các sư đoàn xe tăng 9, sư đoàn 16 và sư đoàn mô tô cơ giới 25.
- Quân đoàn biệt kích 35 của tướng Robert Kempf có các sư đoàn cơ giới 95, 195, 262, 293 và sư đoàn kỵ binh 1.
- Quân đoàn biệt kích 38 của tướng Hans Mess có các sư đoàn cơ giới 45 và 134.
- Cụm dự bị chiến dịch gồm sư đoàn xe tăng 19, sư đoàn cơ giới 900 và sư đoàn cơ giới “Đại Đức”.
- Bảo vệ hậu tuyến mặt trận có các sư đoàn bộ binh 339 và 707, các sư đoàn cảnh vệ 221, 286, 403 và 454 và lữ đoàn kỵ binh SS.
- Tập đoàn quân không quân 2 của tướng Albert Kesselring có 1320 máy bay yểm hộ các cuộc tấn công từ trên không.
Quân đội Liên Xô
-
-
- Tập đoàn quân 22 do Thiếu tướng V. A. Yushkevic chỉ huy
- Tập đoàn quân 29 do Trung tướng I. I. Maslennikov chỉ huy
- Tập đoàn quân 30 do Thiếu tướng B. A. Khomenko chỉ huy
- Tập đoàn quân 16 do Trung tướng M. F. Lukin chỉ huy
- Tập đoàn quân 19 do Trung tướng K. K. Rokossovsky chỉ huy
- Tập đoàn quân 20 do Trung tướng F. A. Ershakov chỉ huy
-
- Tư lệnh: Nguyên soái S. M. Budyonny
- Các đơn vị bố trí phía sau Phương diện quân Tây:
-
- Tập đoàn quân 31 do Thiếu tướng V. N. Dalmatov chỉ huy
- Tập đoàn quân 49 do Trung tướng I. G. Zakharkin chỉ huy
- Tập đoàn quân 32 do Thiếu tướng S. V. Vishnevsky chỉ huy
- Tập đoàn quân 33 do Đại tá D. N. Onuprienko chỉ huy
- Các đơn vị bố trí trên tuyến đầu:
-
- Tập đoàn quân 24 do Thiếu tướng K. I. Rakutin chỉ huy
- Tập đoàn quân 43 do Thiếu tướng P. P. Sobenikov chỉ huy
- Phương diện quân Briansk:
-
-
- Tập đoàn quân 50 do Thiếu tướng M. P. Petrov chỉ huy
- Tập đoàn quân 3 do Thiếu tướng Ya. K. Kreizer chỉ huy
- Tập đoàn quân 13 do Thiếu tướng A. M. Gorodniansky chỉ huy
- Cụm chiến dịch do Thiếu tướng A. N. Ermakov chỉ huy.
Không quân của ba phương diện quân của Liên Xô có tổng cộng 568 máy bay gồm 210 máy bay ném bom, 265 máy bay tiêm kích, 36 máy bay cường kích, 37 máy bay trinh sát. Ngoài ra, trong quá trình phản công, quân đội Liên Xô đã huy động thêm 368 máy bay ném bom tầm xa và 9 máy bay trinh sát.[19]
Kế hoạch “Typhoon” của Đức và ý đồ phòng thủ của Liên Xô
Kế hoạch “Typhoon”
Ý đồ của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) định hợp vây hai Phương diện quân Tây và Dự bị của Liên Xô, tháng 9 năm 1941
Đến trước trận Moskva, Cụm tập đoàn quân Trung tâm vẫn là lực lượng mạnh nhất của Quân đội Đức Quốc xã trên chiến trường Xô-Đức. Nó chiếm 68% tổng số xe tăng Đức với tập đoàn quân xe tăng 2 của tướng Guderian, tập đoàn quân xe tăng 3 của tướng Hoth và tập đoàn quân xe tăng 4 của tướng Hopner. Đạo quân này cũng có trong tay 38% bộ binh Đức trên chiến trường với các ba tập đoàn quân dã chiến, hai quân đoàn bộ binh cơ giới. Khi vạch kế hoạch này, Bộ chỉ huy Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức do Thống chế Fedor von Bock chỉ huy vẫn áp dụng chiến thuật quen thuộc của quân đội Đức đã đem lại nhiều thành công trên chiến trường Tây Âu và mấy tháng chiến tranh đầu tiên với Liên Xô. Đó là việc sử dụng các mũi đột kích sâu, ồ ạt và nhanh chóng bằng xe tăng trên các khu vực xung yếu của mặt trận Quân đội Liên Xô, hình thành ba đòn vu hồi liên tiếp từ Dukhovshina (dải của tập đoàn quân xe tăng 3), Roslavl (dải của tập đoàn quân xe tăng 4) và Shotshka (dải của tập đoàn quân xe tăng 2); bao vây chủ lực của Quân đội Liên Xô tại các tuyến Rjiev – Viazma (tuyến ngoài) và Volokolamsk – Mojaiysk – Kaluga (tuyến trong), cuối cùng, hội quân tại tuyến Ryazan – Noghinsk, kết thúc chiến dịch.[20] Theo tính toán của Quân đội Đức Quốc xã, với ưu thế vượt trội về xe tăng, pháo binh và không quân, mọi việc sẽ diễn ra tương tự như ở Belorussia cuối tháng 6, ở Uman và phía Đông Kiev cuối tháng 9 năm 1941.
Ý đồ phòng thủ của Liên Xô
Để bảo vệ Moskva quân đội Xô Viết cho thiết lập ba tuyến phòng thủ: tuyến ngoài: Rzhev (Ржев) – Viazma (Вязьма) – Briansk (Брянск) cách thủ đô khoảng 200–500 km; tuyến trong: Volokolamsk (Волоколамск) – Mozhaisk (Можайск) – Kaluga (Калуга) cách Moskva thoảng 100–150 km và tuyến cuối cùng là vành đai xung quanh thành phố. Phương diện quân Tây do Trung tướng Koniev chỉ huy gồm các tập đoàn quân 22, 29, 30, 19, 16, 20 lần lượt bố trí từ Dvina Tây xuống Yelnia. Do coi trọng hướng Tây, 2/3 binh lực của Phương diện quân Dự bị do Nguyên soái Budyonny gồm các tập đoàn quân 31, 48, 32, 33 được bố trí ngay phía sau Phương diện quân Tây. Một phần ba binh lực của Phương diện quân này (các tập đoàn quân 24 và 43) phòng ngự trong dải Yelnia – Roslap. Mặc dù trước đó, trinh sát đường không của Phương diện quân Tây Bắc đã thấy nhiều đoàn xe tăng Đức di chuyển từ Cụm tập đoàn quân Bắc xuống phía Nam nhưng trinh sát mặt đất lại không nắm được địch tình nên Bộ tư lệnh Phương diện quân Dự bị không biết rằng đối diện với hai tập đoàn quân này là tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) còn sung sức mới được điều từ mặt trận Leningrad về và nằm trong dải tiến công của tập đoàn quân dã chiến 4. Phương diện quân Briansk gồm các tập đoàn quân 3, 13 đã suy yếu trong các trận đánh hồi mùa thu năm 1941 phòng thủ hướng Tây Nam. Trong tay tướng Yeryomenko, tư lệnh phương diện quân chỉ có lữ đoàn xe tăng 17 chống lại tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức).[21]
Nhân dân Moskva đã thành lập 12 sư đoàn dân quân gồm những công nhân, kỹ sư, nhân viên kỹ thuật, bác sỹ, giáo sư, văn nghệ sỹ… vừa đánh địch vừa học quân sự. 40 đội du kích ra đời tiến hành quấy rối, phá hoại ở sau lưng quân Đức. Hơn 12 nghìn đội cứu hỏa tình nguyện với sự tham gia của 20 vạn người đã được thành lập để bảo vệ thủ đô.
Lực lượng dự bị chiến lược của Quân đội Liên Xô còn đang được xây dựng tại Ural, Trung Á và Povonge. Khi bắt đầu chiến dịch phòng ngự, Bộ Tổng Tư lệnh Liên Xô cũng chưa thể tính đến việc điều quân từ Viễn Đông về do chưa xác định rõ thái độ của Nhật Bản.[22]
Diễn biến trận đánh
Đợt thứ nhất
Xe tăng Panzer III (Đức) tấn công gần làng Skirmanovo, khu vực Moskva, mùa đông năm 1941
Sáng sớm ngày 30 tháng 9, ba tập đoàn quân xe tăng Đức bắt đầu đột phá mặt trận sau hơn một giờ dùng không quân và pháo binh bắn phá dọn đường. Các cánh quân xe tăng Đức ồ ạt tấn công tuyến phòng thủ Rzhev – Viazma – Briansk còn chưa chuẩn bị xong, nhanh chóng đẩy lùi các tập đoàn quân của Phương diện quân Tây, Phương diện quân Dự bị và Phương diện quân Briansk.
- Tại cánh Bắc, trên tuyến Verdino (Вердино) – Yelnia (Елня), tập đoàn quân xe tăng 3 của tướng Hoth và tập đoàn quân bộ binh 9 đột phá lách qua sườn trái tập đoàn quân 30, đẩy lùi cuộc phản kích của các tập đoàn quân số 19 và 30 của Phương diện quân Tây (Liên Xô) chiếm Kholm Zhikovsky. Sau đó tập đoàn quân xe tăng số 3 chọc thủng tiếp giáp giữa 2 tập đoàn quân 32 và 43 của phương diện quân Dự bị ồ ạt tiến về bắc Viazma vào ngày 6 tháng 10.Đến ngày 10 tháng 10 tập đoàn quân xe tăng số 3 đã thọc sâu đánh chiếm Suchevka (Сычевка) và Gjask phối hợp khép chặt vòng vây 2 phương diện quân. Tướng Hoth tách một quân đoàn xe tăng tiếp tục phát triển tấn công theo hướng Kalinin (Калинин), hai quân đoàn còn lại đánh xuống phía Đông Viazma, hình thành cánh quân vây bọc phía Bắc. Tướng I. S. Koniev tổ chức phản kích từ phía Bắc vào tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) nhưng không thành công. Các tập đoàn quân 22, 29 và 31 bị đẩy lùi về tuyến Ostakoiye – Sytshevka.[23]
- Tại khu vực giữa mặt trận, tập đoàn quân xe tăng 4 của tướng Hopner và tập đoàn quân bộ binh số 4 từ bàn đạp Roslavl (Рославль) đột kích vào tiếp giáp giữa tập đoàn quân 43 (Phương diện quân Tây) và tập đoàn quân 50 (Phương diện quân Briansk).Sau khi chia cắt các tập đoàn quân số 24, 43, 50 của Phương diện quân Dự bị (Liên Xô), tập đoàn xe tăng số 4 chia 2 hướng: một vòng qua sườn tập đoàn quân 32 (Phương diện quân Dự bị) tiến về phía nam Viazma vào ngày 6 tháng 10 vây bọc Phương diện quân Dự bị; hướng thứ hai đã đột kích rất sâu đến tuyến Milyatino (Милятино) – Yukhnov và hướng thẳng đến Maloyaroslavets (Малоярославец). Mũi đột kích thứ yếu nhưng rất mạnh gồm các đơn vị xe tăng và cơ giới của tập đoàn quân xe tăng số 4 vòng lên phía Bắc, tiến đánh Viazma, cùng tập đoàn quân xe tăng 3 hợp vây bốn tập đoàn quân 19, 20, 24 và 32 (Liên Xô) tại phía Đông Viazma. Các tập đoàn quân này đã kịch chiến với hai tập đoàn quân xe tăng và một tập đoàn quân bộ binh Đức trong vòng vây, thu hút về mình 28 sư đoàn quân Đức trong gần hai tuần lễ trước khi liều chết phá vây để về với quân nhà.[24]
Người dân Moskva đào hào chống tăng, tháng 10 năm 1941
- Tại cánh Nam, tập đoàn quân xe tăng 2 và tập đoàn quân bộ binh dã chiến 2 từ các bàn đạp Shostka (Шостка) và Unetsha tấn công Phương diện quân Briansk. Mũi tấn công chủ yếu của tập đoàn quân xe tăng 2 hướng về khu vực Tula (Тула) – Serpukhov. Ngày 3 tháng 10, ba sư đoàn bộ binh mô tô của tập đoàn quân xe tăng 2 đã đột kích qua Oryol (Орел) và tiến dọc theo con đường cái Oryol (Орел) – Tula (Тула). Bộ Tổng tư lệnh Xô Viết lấy từ Phương diện quân Tây Nam Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 và từ lực lượng dự bị hai lữ đoàn xe tăng đến khu vực bị đột phá và chặn mũi tiến công này của quân Đức. Nhưng đến ngày 6 tháng 10, mũi thứ yếu của tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) đã chọc thủ mặt trận và tiếp tục tiến quân lên phía Bắc, đánh chiếm Briansk, phối hợp với tập đoàn quân bộ binh dã chiến 2 hợp vây các tập đoàn quân 3 và 13 (Liên Xô) tại Briansk. Tuy nhiên các đơn vị của các tập đoàn quân này đã nỗ lực phá vây và còn có sự trợ giúp của tập đoàn quân 40 (thuộc Phương diện quân Tây Nam) tập kích liên tục vào sườn phải tập đoàn quân xe tăng Đức nên hai tập đoàn quân số 3 và 13 tại Briansk đã thoát vây và lùi đến Phatezh (Фатеж) và Ponuri (Поныри). Đức buộc phải điều các đơn vị xe tăng từ phía bắc xuống phía Nam để truy đuổi các tập đoàn quân phá vây này, vì vậy việc bao vây tập đoàn quân 50 không thực hiện được. Đêm mùng 1 rạng ngày 2 tháng 10, Bộ Tổng tham mưu Xô Viết cấp tốc thành lập bốn cụm không quân gồm 4 sư đoàn máy bay ném bom tầm xa tiến hành không kích vào đội hình hành tiến của Tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức). Tập đoàn quân 50 (Liên Xô) cũng tránh khỏi bị bao vây và rút lui kịp thời về Belev (Белев), lập tuyến phòng thủ và sau này là lực lượng chủ lực phòng thủ Tula, khu công nghiệp vũ khí quan trọng của Liên Xô. Tại Mtsensk (Мценск) các đơn vị Xô viết đã phản kích chặn đứng các đơn vị tăng Đức từ Oryol tới, tạo thời gian cho tập đoàn quân 50 củng cố tuyến phòng thủ vững chắc tại Tula.[21]
Mặc dù đã nhanh chóng phá vỡ tuyến phòng thủ thứ nhất Rzhev – Viazma – Briansk của Liên Xô, tiến được từ 100 km đến 200 km nhưng các cánh quân xe tăng Đức đã bị sa lầy vào việc tiêu diệt các vòng vây do sức kháng cự của các đơn vị Liên Xô không hề giảm, kể cả khi bị vây. Họ chiến đấu đến người cuối cùng, viên đạn cuối cùng. Một bộ phận các đơn vị bị vây đã thoát được qua tuyến mặt trận, một bộ phận khác trở thành các đội du kích lớn và tổ chức đánh phá các đoàn xe và căn cứ hậu cần trong hậu tuyến quân Đức. Quân đội Liên Xô có thời gian vài ngày để điều động lực lượng dự bị củng cố tuyến phòng thủ thứ hai Volokolamsk – Mozhaisk – Kaluga. Ngày 9 tháng 10, Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô quyết định hợp nhất những gì còn lại của Phương diện quân Tây và Phương diện quân Dự bị. Đại tướng G. K. Zhukov được triệu tập từ Leningrad về và được giao chỉ huy Phương diện quân Tây (hợp nhất), tướng I. S. Koniev làm phó tư lệnh, (sau đó được chỉ định làm tư lệnh Phương diện quân Kalinin). Đến ngày 13 tháng 10, các tập đoàn quân 29, 30 và 31 tiếp tục phòng ngự quyết liệt trên hướng Volokolamsk. Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô đã tái lập tập đoàn quân 16 do Trung tướng K. K. Rokossovsky chỉ huy để tăng cường trấn giữ hướng Volokolamsk, thành lập tập đoàn quân 5 do Thiếu tướng Lelyushenko chỉ huy để phòng ngự hướng Mojaiysk. Tập đoàn quân 33 của tướng K. A. Meretskov giữ hướng Naro – Fominsk; tập đoàn quân 43 phòng thủ Malo – Yaloroslavesh, tập đoàn quân 49 giữ Kaluga. Tổng cộng, đã có 8 tập đoàn quân Liên Xô được triển khai phòng ngự trên tuyến hai, chặn giữ các ngả đường vào Moskva từ các hướng Tây Bắc, Tây và Tây Nam trước khi đợt tấn công thứ hai của quân Đức bắt đầu.[25]
Tổ lái xe tăng của D. Lavrienko giữa hai trận đánh, ngoại ô Moskva, 1-10-1941. Lavrienko đã tiêu diệt được 52 xe tăng Đức trước khi hy sinh trong chiến dịch này.
Đến ngày 11 tháng 10, quân Đức đã đẩy tuyến mặt trận đến gần Moskva thêm từ 50 đến 100 km, từ Kalinin, qua Volokolamsk, Mojaiysk, Kaluga, bị đứt đoạn ở Duvna – Plavsk, sau đó tiếp tục từ Mostensk, qua Ponyri đến phía Bắc Kursk. Bên cạnh tương quan lực lượng và phương tiện có tỷ lệ hơn hẳn về phía Quân đội Đức Quốc xã, việc chỉ huy tác chiến yếu kém cũng là một trong những nguyên nhân thất bại của Quân đội Liên Xô trong đợt một. Tại cuộc họp đầu tiên của Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây (hợp nhất), Đại tướng G. K. Zhukov vạch rõ sai lầm của S. M. Budyonny và I. S. Koniev là đã không xác định được hướng đột kích chính của quân Đức, không kịp thời chủ động kéo lực lượng từ những hướng chưa bị uy hiếp để tấn công vào bên sườn các cánh quân chủ yếu của đối phương. Vì vậy, quân Đức đã tạo được ưu thế tuyệt đối với các cú đánh tập trung, tạo nên các cửa mở mà các Bộ tư lệnh phương diện quân không thể bịt lại được do không còn lực lượng dự bị.[26] Thượng tướng A. M. Vasilievsky cho rằng nguyên nhân thất bại còn là do tất cả các đơn vị trên các tuyến phòng ngự của ba phương diện quân “Tây”, “Dự bị” và “Briansk” đều bố trí dàn đều trên toàn bộ tuyến mặt trận.
Phương diện quân Dự bị lại bố trí ngay sau lưng Phương diện quân Tây trên một tuyến kéo dài đến hơn 200 km trong khi tình hình mặt trận cho thấy phải phân chia mặt trận thành ba địa đoạn và giao cho từng phương diện quân trách nhiệm phòng thủ trên địa đoạn của mình. Đội hình tác chiến bị kéo giãn và chồng chéo đã làm cho các phương diện quân không tập trung được lực lượng và phương tiện trên các hướng đột kích chủ yếu của quân Đức.[27]
Đợt thứ hai
Hệ thống chiến lũy và vật cản chống tăng trên đường phố Moskva, mùa đông 1941
Sau khi mất tuyến phòng thủ thứ nhất tình hình Moskva nguy ngập: trong khoảng 10 ngày, từ 14 tập đoàn quân phòng thủ, nay chỉ còn 8 tập đoàn quân bảo vệ tuyến Volokolamsk – Mozhaisk – Kaluga với 9 vạn sĩ quan và binh sỹ (tương đương với biên chế đầy đủ của một tập đoàn quân); 4 tập đoàn quân bị bao vây, một phần bị tiêu diệt và bị bắt, một phần tan rã; 2 tập đoàn quân bị đẩy xa Moskva xuống phía Tây Nam. Có đến 662.000 sĩ quan và binh sĩ Xô Viết bị bắt làm tù binh tại khu vực Rezhev – Viazma.[28] Trong những giờ phút nghiêm trọng nhất, đã có lúc Stalin yêu cầu Zhukov nói thẳng, nói thật liệu có thể giữ được Moskva không. G. K. Zhukov cam đoan sẽ giữa được nếu có thêm hai tập đoàn quân và 200 xe tăng. I. V. Stalin đáp ứng tất cả các yêu cầu của G. K. Zhukov về bộ binh và các phương tiện. Riêng xe tăng thì không còn dự trữ.[29]
Rạng sáng ngày 5 tháng 10, Hội đồng Quốc phòng Nhà nước Xô Viết thông qua Nghị quyết về việc bảo vệ Moskva; điều động 11 sư đoàn bộ binh, 16 lữ đoàn xe tăng, hơn 40 trung đoàn pháo lấy từ các phương diện quân khác và các quân khu nội địa: Ural, Kazal, Perm, Samara, Trung Á, Viễn Đông.[30] Quân số nhiều sư đoàn được bổ sung bằng các đơn vị dân quân và phụ nữ; nhiều trung đoàn bộ binh và pháo binh chống tăng gồm toàn phụ nữ chưa kịp huấn luyện, nhiều đơn vị chỉ được trang bị chống tăng bằng chai xăng. Tuy trình độ huấn luyện chiến đấu của các đơn vị Hồng quân lúc này chưa thành thạo nhưng tinh thần quyết tâm tử thủ bảo vệ thủ đô của họ lại rất cao. Quân đội Xô Viết tập trung các lực lượng còn lại tại bốn hướng chính là Volokolamsk, Mozaisk, Maloyaroslavets và Kaluga. Hàng trăm nghìn đảng viên Cộng sản và đoàn viên thanh niên Cộng sản Moskva đã lên đường ra mặt trận. Khoảng 25 vạn công dân Moskva, chủ yếu là phụ nữ và thanh thiếu niên đã tham gia xây dựng các công trình phòng thủ thành phố, đào 128 km hào giao thông phục vụ chiến đấu, 72 km hào chống tăng, lắp đặt 52.500 chướng ngại vật chống tăng.[31]
Ngày 19 tháng 10, Hội đồng quốc phòng đã ra lệnh giới nghiêm Moskva và các vùng phụ cận. Khu vực nội đô được chia thành các ô vuông phòng thủ để sẵn sàng chiến đấu trong thành phố. Trong tình trạng bị vây hãm, Moskva vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Tất cả các nhà máy xí nghiệp của thủ đô tập trung sản xuất vũ khí và thiết bị chiến đấu. Mọi người làm việc 12-18 giờ một ngày. Một bộ phận nhà máy công nghiệp, phần lớn các công sở, những người không có nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu, người già và trẻ em đã được lệnh sơ tán. Quân dân Moskva hưởng ứng lời kêu gọi: “Chiến đấu bảo vệ Moskva đến giọt máu cuối cùng!”.[32]
Trung tướng K. K. Rokossovsky, tư lệnh Tập đoàn quân 16 trong chiến dịch phản công tại khu vực Moskva ngày 10-12-1941 (Ảnh của RIA NOVOSTI)
Trong những sự kiện mùa đông 1941-1942 tại Moskva, điệp viên Richard Sorge đã phát huy tác dụng lần cuối cùng trước khi bị cơ quan phản gián Nhật Bản bắt giữ. Ngày 14 tháng 9 năm 1941, Richard Sorge đã chuyển 3 bức điện cho Cục 4 – GPU khẳng định: “Chính phủ Nhật Bản quyết định không tấn công Liên Xô trong năm nay. Theo đại sứ Ott, một cuộc chiến tranh giữa Nhật và Liên Xô không còn đặt ra nữa”.[33] Từ nội dung nguồn tin đầu tiên của Richard Sorge được chứng minh là đúng bởi các nguồn tin xác minh khác của các điệp viên GPU tại Đức, Pháp, Italia; Bộ Tổng tư lệnh Xô Viết đã nhanh chóng điều động tập đoàn quân xung kích 1 và tập đoàn quân 20 từ Phương diện quân Viễn Đông, tập đoàn quân 61 từ Quân khu Ural, tập đoàn quân 10 từ Quân khu Trung Á về Moskva. Đến đầu tháng 11, bốn tập đoàn quân này đã có mặt ở Moskva và đóng vai trò quan trọng trong trận phòng ngự – phản công mùa Đông của Quân đội Xô Viết tại mặt trận này.[34]
Về phía quân Đức chỉ tập trung được một nửa lực lượng xe tăng, lại phải phân tán theo các hướng nên sức đột kích giảm sút rất nhiều. Khí hậu bắt đầu lạnh và việc tiếp vận cũng khó khăn hơn. Việc hỗ trợ tấn công bằng không quân trong thời tiết xấu và xa các sân bay thực hiện được rất khó khăn. Vì thế bộ binh Đức cũng bắt buộc phải tham chiến mà có ít phương tiện hỗ trợ. Các đơn vị xe tăng Đức bắt đầu tiến công vào các lớp phòng thủ vành đai có chiều sâu nhưng được hỗ trợ rất ít về pháo binh và không quân.
Ngày 14 tháng 10 năm 1941 quân Đức tổng tấn công tuyến phòng thủ thứ hai của Quân đội Liên Xô. Để tránh hệ thống vật cản chống tăng tại hướng chính diện, Bộ tư lệnh tập đoàn quân Trung tâm điều tập đoàn quân xe tăng 3 của tướng Hoth và một bộ phận tập đoàn quân xe tăng số 4 của Hopner tấn công vào Kalinin (Калинин), Klin (Клин) và Volokolamsk (Волоколамск) trên hướng Tây Bắc mặt trận. Tập đoàn quân 9 (Đức) kiềm chế Phương diện quân Tây Bắc, bảo vệ sườn trái cho tập đoàn quân xe tăng 3. Trong ngày hôm đó Quân đoàn xe tăng 9 của Tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) đánh bật tập đoàn quân 31 (Liên Xô) ra ngoại ô phía Bắc Kalinin (Калинин) và chiếm thành phố này. Ngày 15 tháng 10, thành phố Volokolamsk (Волоколамск) bị chiếm. Tập đoàn quân xe tăng 2 của tướng Heinz Guderian và Quân đoàn cơ giới 2 (Đức) tấn công hướng Tây Nam lên Duvna, Tula, Dedilovo, Xerpukhov, Kasira. Hai mũi xe tăng này sẽ hình hai “gọng kìm thép” thọc sâu vây bọc Moskva từ phía Bắc và Nam, hợp điểm tại khu vực Noghinsk (Ногинск), 60 km phía đông Moskva. Quân đoàn cơ giới 57 (thuộc tập đoàn quân xe tăng 4) phối hợp với các tập đoàn quân bộ binh 4, 9 (Đức) tấn công kiềm chế chính diện tuyến phòng thủ Xô Viết tại Mozaisk, Maloyaroslavets và Kaluga. Tập đoàn quân 2 và Quân đoàn xe tăng 48 (Đức) được giao nhiệm vụ chia cắt, kiềm chế và đẩy lùi Phương diện quân Briansk, bảo vệ sườn phải cho tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức).[35] Chiến sự vẫn tiếp diễn cực kỳ ác liệt và đẫm máu trên ba hướng chính:
- Tại cánh bắc: Ngày 14 tháng 10, các mũi tấn công của tập đoàn quân xe tăng số 3 và tập đoàn quân số 9 đầu tiên đã đột phá tuyến phòng ngự yếu của tập đoàn quân 30 (Liên Xô), tiến đến ngoại vi thành phố Kalinin. Ngày 15 tháng 10, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô thành lập Phương diện quân Kalinin do Trung tướng Koniev chỉ huy gồm các tập đoàn quân 22, 29, 30 và 33 lấy từ cánh trái của Phương diện quân Tây; các sư đoàn bộ binh độc lập 183, 185, 246, các sư đoàn kỵ binh 46, 54 và lữ đoàn xe tăng 8 lấy từ cánh phải của Phương diện quân Tây Bắc. Cánh trái của Phương diện quân Kalinin gồm các tập đoàn quân 29 và 33 (Liên Xô) đã buộc tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) phải dừng lại trước cửa ngõ thành phố Kalinin. Các quân đoàn xe tăng 58 và 60 của tập đoàn quân xe tăng 4 cũng không thể phát triển tấn công nhanh hơn và phải dừng lại trước tuyến Volokolamsk – Mozhaisk do các tập đoàn quân 32 và 16 (tái lập) phòng thủ. Riêng thành phố Volokolamsk đã ba lần chuyển từ tay quân đội Liên Xô sang tay quân Đức và ngược lại. Ngày 17 tháng 10, tướng Koniev chuyển giao tập đoàn quân 30 cho Phương diện quân Tây để bố trí phòng thủ vùng hồ chứa nước Volga. Tư lệnh tập đoàn quân, Trung tướng Khomenko bị huyền chức, Thiếu tướng D. D. Leliushenko thay thế.[36]
Xe tăng T-26 của Liên Xô chuẩn bị phản công
- Tại cánh nam: Do phải đuổi theo các tập đoàn quân số 3 và 13 của Liên Xô nên quân đoàn xe tăng 48 thuộc tập đoàn quân xe tăng 2 của Guderian phải tách ra để hỗ trợ cho tập đoàn quân 2 tấn công về hướng Livny (Ливны). Đến ngày 18 tháng 10, chủ lực của tập đoàn quân xe tăng này đã chiếm được Mtsensk (Мценск) và tiến về Tula (Тула). Các xe tăng của Guderian sau khi tấn công đột phá ban đầu cuối tháng 10 đã đến được Tula. Tại đây quân Đức gặp sự chống cự rất kiên cường của quân phòng thủ và người dân Tula với nòng cốt là tập đoàn quân 50. Xe tăng Đức đã không thể chiếm được thành phố trong hành tiến và phải đi vòng lên phía bắc về hướng Kashira (Кащира) nhưng đã bị tập đoàn quân 49 (Liên Xô) chặn đứng trước cửa ngõ thị trấn Serebiannye Prudy. Tại hướng này, lần đầu tiên trong chiến tranh Hồng quân đã tung một lực lượng lớn cấp lữ đoàn loại xe tăng T-34 được nâng cấp với tính năng vượt xa xe tăng Đức xe tăng Panzer IV [cần dẫn nguồn]gây thiệt hại và hoang mang lớn trong lực lượng xe tăng thiết giáp Đức[cần dẫn nguồn]. Kể từ đây quân Đức bắt đầu mất dần ưu thế về chất lượng xe tăng. Việc quân đội Liên Xô phòng thủ thành công tại thành phố Tula đã tạo nên một bàn đạp chiến lược để liên tục phản kích vào sườn trái cánh quân Guderian, ngăn chặn xe tăng Đức thọc sâu bao vây Moskva ở cánh nam. Đây là một trong các nhân tố quyết định phòng thủ vững chắc Moskva. Đại tướng Liên Xô G.K. Zhukov, Tư lệnh Phương diện quân Tây, đã đánh giá rất cao vai trò của thành phố Nga cổ Tula trong trận phòng thủ thắng lợi trước cửa ngõ Moskva [37]
- Tại khu vực giữa mặt trận: Đây là nơi chiến sự diễn ra nhiều trận đánh căng thẳng nhất do tuyến mặt trận chỉ còn cách Moskva hơn 50 km. Quân đoàn cơ giới 48 của tập đoàn quân xe tăng 4 và tập đoàn quân bộ binh 4 (Đức) đã tiến lên qua hai tuyến phòng thủ của các tập đoàn quân 5, 33 và 49; đánh chiếm các thành phố Dorokhovo, Mozaisk, Bobrovsk, Maloiaroslavesv và Kaluga. Tuy nhiên, đến tuyến Dedovsk – Naro Fominsk – Kubinka – Tarusha – Aleksina thì quân Đức bị chặn lại trước sức chống trả quyết liệt và các tập đoàn quân 5, 33 và 43 (Liên Xô). Sử dụng tất cả các vũ khí chống tăng có trong tay, kể cả mìn, thủ pháo và chai xăng, họ đã bắt tập đoàn quân xe tăng số 4 phải chịu những tổn thất rất nặng nề tại các thành phố này.[38]
Kỵ binh Liên Xô bên một xe tăng Pz-III (Đức) bị tiêu diệt gần Kryukovo, Moskva, 20-12-1941
Kết thúc đợt tấn công thứ hai, Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đẩy lùi Phương diện quân Tây (Liên Xô) thêm từ 15 đến 50 km về phía Moskva nhưng không chọc thủng được mặt trận. Quân đội Liên Xô vẫn giữ vững được mối liên kết bên sườn giữa các đơn vị và lùi dần về tuyến Turghinovo – Volokolamsk – Dorokho – Naro-fominsk (Наро-Фоминск) – Serpukhov (Серпухов) – Aleksina để cố thủ. Đến cuối tháng 10 năm 1941 tuyến phòng thủ dựa vào sông Nara (Нара) của Phương diện quân Tây đã ổn định. Thế trận phòng ngự của các phương diện quân Kalinin và Briansk cũng được thiết lập.[39] Càng lùi về phía sau, mật độ phòng thủ của quân đội Xô Viết càng cao vì đã bố trí được tuyến phòng ngự với nhiều cứ điểm theo chiều sâu dày đặc. Sĩ quan chiến sĩ của Quân đội Liên Xô cũng đã sử dụng thành thạo chiến thuật tổng hợp chống xe tăng bằng súng, pháo chống tăng, mìn, thủ pháo, chai cháy. Các trung đoàn dân quân trực tiếp tham chiến lần lượt được bổ sung cho quân đội chính quy với những người lính đã qua trận mạc. Trong khi đó mật độ tấn công của Đức càng suy giảm. Qua 20 ngày tấn công với các kết quả hạn chế, theo phía Liên Xô thì Cụm tập đoàn quân Trung tâm đã bị tổn thất 155.000 sĩ quan và binh lính, gần 800 xe tăng, trên 300 pháo và khoảng 1.800 máy bay.[40]
Do đã sử dụng hết lực lượng dự bị, Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đã không còn người và phương tiện để bổ sung. Điều kiện thời tiết bất lợi gây lầy lội đường xá là cản trở đáng kể đối với hậu cần cho quân đội Đức. Tuyến vận tải tiếp tế của quân đội Đức liên tục bị du kích Liên Xô đánh phá, hàng chục đoàn tàu bị nổ mìn lật nhào. Tuy quân Đức vẫn liên tục tấn công nhưng xung lực và độ nguy hiểm đã suy giảm trước tuyến phòng thủ rất rắn chắc của Quân đội Liên Xô. Cuộc chiến tạm kết thúc vào ngày 30 tháng 10. Với sức chiến đấu bị giảm sút nghiêm trọng do tổn thất và mệt mỏi, quân Đức phải ngừng tiến công để chuẩn bị cho những nỗ lực cuối cùng.[41]
Đợt thứ ba, những nỗ lực cuối cùng của quân Đức
Các chiến sĩ phòng thủ Moskva ngày 10 tháng 10 năm 1941
Buổi tối ngày 6 tháng 11, tại nhà ga xe điện ngầm Mayakovsskaia đã diễn ra cuộc mít tinh kỷ niệm 24 năm Cách mạng tháng 10 Nga. Sáng ngày 7 tháng 11 năm 1941 để nâng cao tinh thần cho chiến sỹ và toàn dân Liên Xô trong cuộc đấu tranh một mất một còn với kẻ thù nguy hiểm, Hội đồng Quốc phòng Nhà nước và Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Liên Xô vẫn tổ chức cuộc duyệt binh hàng năm theo truyền thống tại Quảng trường đỏ. Tại cuộc duyệt binh này, I. V. Stalin thay mặt Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô Viết kêu gọi quân và dân Liên Xô tiếp tục anh dũng chiến đấu, tiêu diệt quân thù, bảo vệ Tổ quốc Liên Xô, giải phóng cho các dân tộc:
“ |
Toàn thế giới đang coi các đồng chí là lực lượng có thể tiêu diệt bè lũ xâm lược phát xít Đức. Nhân dân các nước bị nô dịch ở Châu Âu hiện đang sống dưới ách của bọn xâm lược Đức, đang coi các đồng chí là những người giải phóng cho họ. Các đồng chí được giao phó một sứ mệnh vĩ đại, sứ mệnh giải phóng. Các đồng chí hãy tỏ ra xứng đáng với sứ mệnh ấy! Hãy để hình tượng dũng cảm và vĩ đại của các danh tướng như Aleksandr Nevsky, Dmitry Donskoy, Kuzma Minin, Dmitry Pozharsky, Aleksandr Suvorov, Mikhail Kutuzov cổ vũ các đồng chí trong cuộc chiến tranh này. Mong các đồng chí hãy siết chặt hàng ngũ dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng của Lenin vĩ đại. |
” |
—I.V.Stalin, [42]. |
Buổi sáng ngày 7/11, trần mây thấp, dày đã che chở bầu trời Moskva. Tình báo và Không quân Đức hoàn toàn bất ngờ. Tại tổng hành dinh của mình, Hitler rất tình cờ mở radio, nghe thấy tiếng nhạc duyệt binh và tiếng ủng lính trên mặt đường. Lúc đầu Hitler tưởng là buổi diễu binh của quân Đức, nhưng khi nghe thấy các khẩu lệnh bằng tiếng Nga thì Hitler hiểu điều gì đang xảy ra. Hitler lập tức nhấc điện thoại mắng Tư lệnh Không quân là “đồ ngu” và cho phép 1 giờ để sửa lỗi. Ngay lập tức, Không quân Đức cất cánh nhưng đã không thể đến được Moskva, nhiều chiếc đã bị bắn hạ. Khi đó, Stalin đang đứng trên lễ đài Lăng Lênin nghe tin thời tiết đã mỉm cười: “Cả ông trời cũng che chở cho Đảng Bônsêvich!”[43]
Các đơn vị bộ binh, pháo binh, xe tăng Liên Xô sau khi diễu binh qua Lăng Lenin đã tiến thẳng ra mặt trận. Cuộc duyệt binh ấy có ý nghĩa quan trọng, gia tăng quân thanh sĩ khí của các chiến sĩ Liên Xô, đồng thời củng cố sự kiên quyết không đầu hàng của thị dân Moskva.[13]
Trong hai tuần chiến sự tạm lắng, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô đã củng cố các tuyến phòng ngự. Trong trường hợp không giữ được Moskva, họ đã có kế hoạch phòng ngự trên tuyến Vytegrad, Rybinsk, Gorky, Saratov, Stalingrad, Astrakhan. Tại tuyến này, 10 tập đoàn quân dự bị đang được xây dựng. Cũng trong hai tuần lễ này, Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đã tổ chức xong hai cánh quân xung kích gồm 51 sư đoàn, trong đó có 13 sư đoàn xe tăng và 8 sư đoàn cơ giới ở hướng Klin, Iskra, Solnezhnogorsk (Bắc) và hướng Tula, Kasira (Nam).[44] Từ 15 tháng 11 năm 1941 quân Đức huy động những lực lượng cuối cùng cho nỗ lực cuối cùng để đánh chiếm thủ đô Xô Viết. Các trận đánh diễn ra trong điều kiện rất bất lợi cho phía Đức, thời tiết lạnh giá tuyết rơi làm sức chiến đấu của bộ binh và sự cơ động của xe tăng giảm sút.Việc tiếp vận rất khó khăn, các lực lượng dự bị không còn. Sự hỗ trợ bởi không quân hầu như không thực hiện được. Pháo binh Hông quân thực tế đã đè bẹp pháo binh Đức gây tổn thất nặng cho các đơn vị quân Đức, hỗ trợ mạnh cho việc phòng thủ phản công tích cực của Hồng quân. Các đơn vị của Hồng quân cố thủ trong các tuyến phòng ngự có chiều sâu bố trí tầng lớp có các phương tiện chống tăng sẵn sàng gây tổn thất nặng cho quân Đức.
Trận đấu xe tăng ngày 25 tháng 11 tại Istra
- Tại cánh Bắc: Ngày 15 tháng 11 tập đoàn quân xe tăng số 4 (Đức) tấn công tập đoàn quân 16 (Liên Xô) chiếm Ixtra (Истра). 400 xe tăng Đức của tập đoàn quân xe tăng 4 tấn công vào 150 xe tăng hạng nhẹ của các tập đoàn quân 16, đánh chiếm thành phố Volokolamsk. Đến ngày 28 tháng 11, các chi đội phái đi trước của sư đoàn xe tăng 20 (tập đoàn quân xe tăng 4 Đức) tiến đến kênh đào Moskva – Volga. Ngày 29 tháng 11, tập đoàn quân xung kích 1 do Trung tướng V. I. Kuznesov chỉ huy lấy từ lực lượng dự bị đã chặn đứng đoàn xe tăng Đức tại ở kênh đào gần Dmitrov (Дмитров) và Yakhroma (Яхрома). Ở phía cực Bắc của mặt trận, tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) đột phá qua dải phòng ngự của tập đoàn quân 30, tiến đến phía Nam hồ chứa nước Volga, bờ nam sông Shoshi và khu vực Teriaevaiya – Svoboda. Tại đây, hơn 300 xe tăng Đức đã nhanh chóng đánh tan lữ đoàn xe tăng của tập đoàn quân 30 (Liên Xô) chỉ có 56 xe tăng hạng nhẹ và chiếm thành phố Klin. Ngày 25 tháng 11 quân Đức chiếm Solnhechnogorsk (Солнечногорск) và cuối tháng 11 quân Đức đã xông đến được Krasnaia Poliana (Красная поляна) và Kriukovo (Крюково) cách Moskva 20 km, điểm gần Moskva nhất mà quân Đức đạt được trong suốt chiến dịch. Từ tháp chuông nhà thờ của hai thị trấn này, một số sĩ quan Đức đã nhìn thấy những mái vòm hình củ hành của Điện Kremli qua ống nhòm.[42][45]
- Ở giữa mặt trận: Lợi dụng sự thụ động và tấn công yếu ớt của tập đoàn quân 4 Đức, Bộ Tư lệnh Phương diện quân Tây đã rút bớt một phần lực lượng ở đây để tăng viện cho cánh Bắc và cánh Nam. Ngày 1 tháng 12, tập đoàn quân 4 Đức mới đột phá vào chỗ tiếp giáp giữa tập đoàn quân 5 và tập đoàn quân 33 (Liên Xô) và lao đến Kubilka thì vấp phải bãi mìn dày đặc. Hàng chục xe tăng Đức bị phá huỷ. Sử dụng các trận địa pháo chống tăng với mật độ cao, hai tập đoàn quân 5 và 33 (Liên Xô) đã chặn được cánh quân cơ giới Đức tại Alukovo, cách Moskva 25 km. Đến ngày 4 tháng 11, họ đẩy lùi và tiêu diệt cánh quân chủ lực của tập đoàn quân 4 (Đức) tại Golishyno, 50 xe tăng Đức vị phá huỷ, hơn 10.000 quân Đức thiệt mạng trong trận này.[46]
- Tại cánh Nam: Các sư đoàn xe tăng 3, 4, 17 của tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) chuyển sang tấn công vào ngày 18 tháng 11. Ngày 21 tháng 11, các đơn vị xe tăng Đức vòng qua Tula đánh chiếm Stalinogorsk (Сталиногорск), chiếm Venev (Венев) tiến về hướng Kashira (Кащира). Cùng ngày, quân đoàn cơ giới 47 (Đức) tiến đánh Reviakino (Ревякино) để bao vây Tula nhưng không thành. Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây đã điều động tăng cường cho hướng này sư đoàn xe tăng 112 do đại tá A. L. Ghetman chỉ huy, các lữ đoàn xe tăng 9 và 11, các tiểu đoàn xe tăng 35 và 127, sư đoàn bộ binh 173, trung đoàn pháo phản lực 15, quân đoàn kỵ binh 3. Tập đoàn quân 49 từ cánh chính diện cũng chuyển hướng cùng các đơn vị tăng viện phản kích chặn đánh quyết liệt vào ngày 27 tháng 11 tại Kasira và đẩy các đơn vị xe tăng số 2 của Đức về Mordvec (Мордвес). Sau 12 ngày nỗ lực đột phá rất ác liệt về phía bắc hướng đến Kashira và gặp sự chống trả kiên quyết của Hồng quân, đến 30 tháng 11 năm 1941, tư lệnh tập đoàn quân xe tăng 2, tướng Guderian đã tự ý chuyển sang phòng ngự mà không cần mệnh lệnh của Hitler. Quyết định này của Guderian đã cứu cho tập đoàn quân xe tăng Đức khi chỉ vài ngày sau, Quân đội Liên Xô tổng phản công trên toàn mặt trận.[47]
Cuộc duyệt binh tại Quảng trường Đỏ ngày 7 tháng 11 năm 1941.
Sau 20 ngày tấn công, quân Đức đã tiến được hàng chục km, có nơi chỉ cách Moskva 20 km. Những trận đánh ác liệt đã diễn ra trên một chiến tuyến trải dài từ Kalinin đến Tula. Dù bị tổn thất nặng, các đơn vị quân đội Liên Xô đã chiến đấu đến cùng để bảo vệ thủ đô. Trong trận đánh ngày 16 tháng 11 tại nhà ga Dubosekova và khu vực ngã ba Duboseskva, phía nam Volokolamsk, 28 sĩ quan và binh sỹ thuộc sư đoàn bộ binh 316 của tướng Panfilov đã chống chọi với 50 xe tăng Đức. Sau 4 giờ chiến đấu họ đã tiêu diệt 18 xe tăng và hàng trăm lính Đức và tử trận gần hết, chỉ còn lại 6 người. Chính trị viên đại đội V.G. Clotshcov đã đưa lời kêu gọi các đồng đội trong đơn vị mà sau này đã trở thành lời thề chung của tất cả các lực lượng quân đội Liên Xô đang chiến đấu trước cửa ngõ Moskva:
“ |
Nước Nga rộng lớn, nhưng chúng ta quyết không lùi. Vì sau lưng là Moskva! |
” |
—V.G. Kolotshcov, [48]. |
Đầu tháng 12 năm 1941 qua ba đợt tấn công bị tổn thất rất nặng nề, tăng viện và tiếp tế khó khăn, quân đội Đức đã bị chặn đứng tại cửa ngõ Moskva. Từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 12, toàn bộ Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức phải chuyển sang thế trận phòng ngự. Quân đội Liên Xô đã giành được thế chủ động. Những lực lượng dự bị của Đức về cơ bản đã được sử dụng hết. Các tập đoàn quân xe tăng Đức thuộc Cụm tập đoàn quân Trung tâm đã tổn thất quá nặng trước sức chống cự không mệt mỏi của quân đội Liên Xô.[49] Ngày 29 tháng 11, tướng Zhukov đề nghị Tổng tư lệnh tối cao I. V. Stalin chuyển cho Phương diện quân Tây các tập đoàn quân xung kích 1 và 10 để tổ chức phản công, hất quân Đức ra xa thủ đô Moskva.[50]
Quân đội Liên Xô phản công
Bố trí binh lực và kế hoạch phản công
Đại tướng G. K. Zhukov, Tư lệnh Phương diện quân Tây (Liên Xô) vạch kế hoạch phản công tại khu vực Moskva, tháng 10 năm 1941
Những ngày cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1941 là thời điểm có tính bản lề của trận đánh trên vùng ngoại vi Moskva. Cụm tập đoàn quân Trung tâm của quân đội Đức quốc xã đã kiệt quệ về binh lực và phương tiện. Cuối tháng 11, tập đoàn quân xung kích 1 và tập đoàn quân 20 đã được điều động từ các quân khu Viễn Đông và Siberi đến khu vực Yakhroma (Яхрома), Krasnaia Poliana (Красная поляна) và Kriukovo (Крюково) phía Bắc Moskva. Các tập đoàn quân dự bị 10 và 61 đã có mặt tại khu vực Magnitogorsk, Kashira (Кащира) và Reviakino (Ревякино). Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô đã điều động tăng cường cho Phương diện quân Kalinin hai trung đoàn pháo chiến dịch 1, 7 và trung đoàn pháo phản lực số 2; điều động cho Phương dịên quân Tây các trung đoàn pháo chiến dịch 3, 4 và trung đoàn pháo phản lực số 3. Cánh trái của Phương diện quân Tây còn được tăng cường quân đoàn kỵ binh cận vệ 1.
Đến ngày 1 tháng 12, Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) chỉ còn lại 800.000 quân, 10.400 pháo và súng cối, khoảng 1.000 xe tăng và hơn 600 máy bay. Quân đội Liên Xô đã huy động 760.000 quân, 5.200 pháo, 415 dàn pháo phản lực “Kachiusa”, 670 xe tăng, 860 máy bay.[51] Mặc dù xét toàn bộ so sánh lực lượng, Quân đội Liên Xô không chiếm được ưu thế nhưng với đà suy yếu của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức), Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô vẫn tin tưởng rằng cuộc tổng phản công tại Moskva sẽ thắng lợi. Theo phương án của Zhukov, Phương diện quân Kalinin sẽ bắt đầu tấn công ngày 5 tháng 12 với mũi đột kích sâu của kỵ binh dọc theo đường sắt Rzhev – Viazhma, chia cắt hậu phương của tập đoàn quân xe tăng 3 và tập đoàn quân 9 (Đức). Cùng ngày, cánh phải của Phương diện quân Tây cũng bắt đầu tấn công từ khu vực Dmitrov (Дмитров) và Yakhroma (Яхрома), dồn tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) về phía Tây. Ngày 6 tháng 12, cánh trái của Phương diện quân Tây bắt đầu phản công từ chỗ lõm Stalinogorsk (Сталиногорск), Kashira (Кащира) và Reviakino (Ревякино), đẩy lùi và chia cắt tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức); cánh phải của Phương diện quân Tây Nam tiến công Elesh, kiềm chế tập đoàn quân 2 (Đức). Ở giữa mặt trận, các tập đoàn quân 5, 33, 49 hoạt động tích cực để kiềm chế tập đoàn quân xe tăng 4 và tập đoàn quân dã chiến 4 (Đức) và chuyển sang phản công ngày 7 tháng 12.[52].
Đợt phản công thứ nhất
Pháo binh Liên Xô trong chiến dịch phòng ngự – phản công Moskva, ngày 3 tháng 12 năm 1941
Ngày 5 tháng 12, Phương diện quân Kalinin đã thọc sâu vào phía sau tiền duyên phòng ngự của tập đoàn quân dã chiến 9 tại phía Bắc Istra. Đến ngày 15 tháng 12, các tập đoàn quân 22 và 39 đã đánh chiếm Moloshino, các tập đoàn quân 29 và 31 đánh chiếm Starisha và tiến đến ngoại vi Rzhev. Tại cánh phải của Phương diện quân Tây, từ ngày 6 đến 15 tháng 12, tập đoàn quân 30 phối hợp với tập đoàn quân 31 đánh chiếm Turghinovo; tập đoàn quân xung kích 1 và tập đoàn quân 20 sau khi hợp vây và tiêu diệt các đơn vị phòng ngự phía trước của tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) tại khu vực Roggatshevo, Sonezhnogorsk và thành phố Klin đã tiến đến ngoại vi thành phố Volokolamsk. Ngày 8 tháng 12, tập đoàn quân 16 đã phát triển tấn công đến hồ chứa nước Istra, bao vây Volokolamsk từ hướng Tây Nam. Tại giữa mặt trận, ngày 11 tháng 12, tập đoàn quân 5 từ Kubinka đã tấn công đánh chiếm Dorokhov và Ruzha, yểm hộ sườn trái của tập đoàn quân 16. Trong trận đánh chiếm Ruzha, Thiếu tướng L. M. Dovator, Tư lệnh Quân đoàn kỵ binh 2 (Liên Xô) tử trận và được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.[53].
Mặc dù theo kế hoạch chung, ngày 6 tháng 12, cánh trái của Phương diện quân Tây mới triển khai tấn công; nhưng phát hiện thấy các đơn vị của tập đoàn quân xe tăng (Đức) đã chuyển sang phòng ngự từ ngày 30 tháng 11 nên tướng P. A. Belov, Tư lệnh Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 quyết định tấn công vào ngày 3 tháng 12. Cùng với tập đoàn quân 50 do Thiếu tướng V. X. Popov chỉ huy từ Tula đánh ra, tập đoàn quân 10 tấn công chính diện, các đơn vị này đã đánh thiệt hại nặng các sư đoàn xe tăng 3, 17 và sư đoàn cơ giới 29 của tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức). Tập đoàn quân xe tăng 2 được ví như cơn lốc một thời tung hoành trên chiến trường Ba Lan, Pháp, Bỉ, Hà Lan đã phải bỏ lại hơn 70 xác xe tăng trước thành phố Stalinogorsk (Сталиногорск) và rút chạy về Venev (Венев). Cuộc tấn công ngày 18 tháng 12 của tập đoàn quân 61 vào Gorbachevo (Горбачево), Xukhinichi (Сухиничи) và Volovo hướng lên phía sau thành phố Venev (Венев) đã tiêu hao nặng các đơn vị sườn phải của tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức), làm cho tập đoàn quân này có nguy cơ bị hợp vây ở khu vực Venev (Венев) – Mikhailovssk, buộc nó phải tiếp tục vội vã rút lui xa hơn nữa về phía Tây, bỏ lại Uzlovaya (Узловая).[54].
Cuộc chiến trên cánh đồng tuyết gần Moskva, 1941
Ngày 15 tháng 12, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Liên Xô yêu cầu Tư lệnh Phương diện quân Tây Nam phải hành động tích cực hơn vì tập đoàn quân 3 của Phương diện quân này đã tụt lại 100 km, làm cho sườn phải của Phương diện quân Tây (các tập đoàn quân 10 và 61) bị hở sườn trái và có nguy cơ bị tập đoàn quân 2 (Đức) đột kích từ hướng Mostensk. Thi hành mệnh lệnh, ngày 21 tháng 12, cánh phải của Phương diện quân Tây Nam gồm các tập đoàn quân 3, 13, 40 đã hợp vây tiêu diệt 1 quân đoàn Đức tại Khomutovo (Хомутово). Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô cũng điều chỉnh lại việc tập trung ba tập đoàn quân một cách không hợp lý trước Volokolamsk và điều tập đoàn quân 30 tiến chiếm Starisha, cắt đường giao thông và cô lập cánh trái của tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) tại Shokhovskaiya.[55] Đến ngày 20 tháng 12 năm 1941, Phương diện quân Tây đã tiến đến tuyến mặt trận tại Oresky, Starisha, sông Lama, sông Ruzha, Malo-Yaloslaved, Tikhonova, Kaluga, Duvna, Suchinitshi, Beliov, Moshensk, Novosin. Tuy thành phố Volokolamsk vẫn nằm trong tay quân Đức nhưng về cơ bản, Quân đội Liên Xô đã khôi phục lại hình thế trước khi quân Đức mở chiến dịch “Typhoon”. Các binh đoàn xe tăng và bộ binh dã chiến Đức đã bị đẩy lùi về phía Tây từ 25 đến 60 km. Riêng tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) phải rút ra xa đến 100 km.[56] Nhận thấy Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đã bị thiệt hại nặng và lực lượng dự bị của Liên Xô vẫn còn khá dồi dào; Bộ Tổng tư lệnh quân đội Xô Viết tiếp tục tấn công, không cho quân Đức tổ chức phòng thủ vững chắc trên tuyến mặt trận mới lui về.[57]
Đợt phản công thứ hai
Quân trượt tuyết Xô Viết phản công tại khu vực Staraiya Russa, mặt trận Kalinin
Đợt phản công thứ hai của các phương diện quân Liên Xô tại khu vực Moskva và vùng phụ cận nằm trong ý đồ tổng tấn công của Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô trên ba hướng chủ yếu của mặt trận Xô-Đức. Ý đồ này do Stalin đưa ra tại cuộc họp của Đại bản doanh ngày 5 tháng 1 năm 1942 với sự ủng hộ của Nguyên soái S. K. Timoshenko, Tư lệnh Phương diện quân Tây Nam. Tại cuộc họp này, tướng Zhukov khuyến nghị chỉ nên tiếp tục tấn công ở khu vục phía Tây Moskva, thanh toán bàn đạp nguy hiểm của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) tại Rzhev – Viazhma và giải vây cho Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 đang bị vây hãm tại đây. Việc mở các cuộc phản công trên các hướng khác chưa thể thực hiện vì lực lượng dự bị của Quân đội Liên Xô về cơ bản đã được sử dụng hết. Bộ trưởng dân ủy Công nhiệp quốc phòng N. A. Voznesensky cũng thừa nhận việc không đủ phương tiện vật chất để tấn công đồng loạt trên tất cả các mặt trận. Tuy nhiên Stalin đã dùng quyền Tổng tư lệnh tối cao để tự mình quyết định và ký chỉ lệnh của Đại bản doanh gửi các Phương diện quân yêu cầu chuyển sang tổng phản công trong thời gian ngắn nhất.[58]
Bản đồ mô tả cuộc phản công mùa đông 1941-1942 của quân đội Liên Xô tại khu vực phía Tây Moskva.
Vạch đỏ đứt quãng: Trận tuyến ngày 5-12-1941.
Vạch đỏ liền: Trận tuyến ngày 10-2-1942
Thực hiện mệnh lệnh này, ngày 7 tháng 1 năm 1942, các phương diện quân Tây và Kalinin tiếp tục tấn công. Tại cánh bắc, Phương diện quân Kalinin phối hợp với Phương diện quân Tây Bắc mở chiến dịch hợp vây quân đoàn xung kích 2 (Đức) tại Spat – Demiyansk, đánh chiếm Kholm, Velikie Luki, Velizh và Belyi. Phương diện quân Tây sử dụng các tập đoàn quân 16, 20 và xung kích 1 tiếp tục vượt qua Volokolamsk tiến công tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) tại khu vực Sytshevka – Rzhev. Ở giữa mặt trận, các tập đoàn quân 5 và 33 tiếp tục tấn công theo hướng chung đến Mozhaisk và Gzhask; các tập đoàn quân 43, 49, 50 đánh chiếm Yukhnov, Kondrov và phát triển đến Viazhma. Ở cách nam, tập đoàn quân 10 tấn công vào Kirov. Cánh phải của Phương diện quân Tây Nam và Phương diện quân Briansk tiếp tục kiềm chế tập đoàn quân xe tăng 2 và tập đoàn quân 2 (Đức).[57]
Sau một tháng giao chiến, các tập đoàn quân xung kích 3, 4 ở cánh trái Phương diện quân Tây Bắc và tập đoàn quân 22 ở cánh phải của Phương diện quân Kalinin đã tiến đến các cửa ngõ Velikie Luki, Demidov và Velizh nhưng phải dừng lại vì không còn lực lượng dự bị để tiếp tục tiến công. Các tập đoàn quân 29 và 39 ở cánh trái Phương diện quân Kalinin không chiếm được Rzhev, làm cho tập đoàn quân 33 tiếp tục bị rơi vào vòng vây tại Viazhma cùng với Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1. Ngày 12 tháng 1, các tập đoàn quân 20, xung kích 1 và quân đoàn kỵ binh 2 đánh chiếm Volokolamsk. Đến ngày 17 tháng 1, cánh phải của Phương diện quân Tây đã cắt đứt đường sắt Moskva – Rzhev tại Sokhovskaiya. Trong khi cuộc tấn công đang tiến triển tốt thì ngày 19 tháng 1, Tổng tư lệnh Stalin chỉ thị cho tướng Zhukov trả Tập đoàn quân xung kích 1 về lực lượng dự bị của Bộ Tổng tư lệnh tối cao. Hành động này đã làm cho cánh phải của Phương diện quân Tây yếu hẳn đi, không còn đủ sức để đột phá đến tuyến Rzhev – Viazma. Đến ngày 10 tháng 2, Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đã nhận được 15 sư đoàn rút từ Pháp và Nam Tư sang, bố trí trận địa phòng ngự vững chắc tại khu Rzhev – Viazhma. Các phương diện quân Kalinin, Tây và Briansk không còn lực lượng để phát triển tấn công và phải dừng lại trước tuyến phòng ngự sông Lama của quân Đức.[59]
Kết quả và những ảnh hưởng của chiến dịch
Quân đội Liên Xô thu hồi thành phố Yukhnov, ngày 10 tháng 4 năm 1942. (Ảnh của RIA NOVOSSTI)
Với cả triệu binh sĩ và dân thường, cùng với hàng nghìn xe tăng, súng cối, đại bác và máy bay chiến đấu, trận đánh Moskva trở thành một trong những trận chiến quy mô lớn nhất của cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai. Trận chiến đã kéo dài đến bảy tháng.[8] Trận này trở thành một thất bại của Hitler trong việc đánh chiếm ba địa bàn quan trọng của Liên Xô là Moskva, Leningrad và Stalingrad – cuối cùng dẫn đến chiến bại của ông trong cuộc xâm chiếm Liên Xô.[11] Với cuộc phản công chiến lược của mình, quân đội Liên Xô đã kết liễu kế hoạch chấm dứt nhanh gọn cuộc chiến tranh của nền Đệ tam Đế chế Đức.[9] Thắng lợi tại Moskva đã nêu bật sự kiên quyết của Liên Xô trong nỗ lực chiến tranh của mình,[10] và sau thất bại này, nước Đức bước vào năm 1942 mà chưa thể chấm dứt cơn đại chiến trên cả hai mặt trận.[12]
Kết quả
Một nhóm Quân đội Đức Quốc xã hạ vũ khí đầu hàng Quân đội Liên Xô tại khu vực Moskva ngày 20 tháng 12 năm 1941
Là một thắng lợi có ý nghĩa hết sức to lớn,[9] Chiến dịch phòng ngự-phản công của Hồng quân Xô Viết tại khu vực Moskva mùa Đông 1941-1942 đã làm tiêu tan huyền thoại về sự bách chiến bách thắng của Quân đội Đức Quốc xã. Theo nguồn từ Nguyên soái Liên Xô Vasilievski thì đây là trận thua lớn nhất từ đầu Thế chiến thứ hai của quân đội Đức với hơn 50 vạn sĩ quan và binh sĩ bị tiêu diệt, hơn 70 vạn quân nhân bị thương, hơn 50 sư đoàn Đức bị đánh tan, 1.300 xe tăng, 2.500 đại bác, hơn 15.000 xe cơ giới khác bị Quân đội Liên Xô phá hủy hoặc thu giữ.[60] Trong đó phải kể đến tổn thất rất cao của Quân đội Đức trong những đợt công kích ác liệt nhằm chiếm đoạt thành Moskva.[9] Quân đội Liên Xô cũng chịu tổn thất lên đến gần 1.200.000 người, trong đó có hơn 662.000 quân nhân chết, bị thương hoặc bị bắt làm tù binh trong đợt tấn công đầu tiên của quân Đức tại khu vực Rzhev – Viazhma.[61] Mặc dù ngày 3 tháng 1 năm 1942, Hitler đã ra chỉ lệnh cho quân Đức không được lùi một bước nhưng Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức vẫn bị hất xa ra khỏi Moskva từ 150 đến 300 km. Tuy trận Moskva đến đầu tháng 1 năm 1942 được coi là hoàn thành nhưng cuộc tấn công của quân đội Xô Viết còn tiếp tục phát triển thành tổng tấn công trên toàn mặt trận Xô – Đức trong những tháng đông – xuân của năm 1942 với các cuộc tấn công tại Tikhville, Rostov, cuộc đổ bộ đánh chiếm căn bàn đạp Kerch – Feodosiya trên bán đảo Krym. Mặc dù bị chặn đứng trước chân tường thủ đô Liên Xô nhưng tiềm lực của nước Đức Quốc xã vẫn còn rất mạnh, hoàn toàn chưa thể đổ vỡ sau đại bại ấy. Quân đội Liên Xô tuy tạm thời giành lại quyền chủ động chiến lược nhưng vẫn chưa có đủ lực lượng dự bị mạnh để phát huy chiến quả, giành thắng lợi quyết định trong cuộc chiến. Song, dẫu sao đi nữa thì chiến thắng tại Moskva cũng trở thành một bước ngoặt cho cuộc Chiến tranh Xô – Đức.[1][10] Toàn thắng tại trận Moskva cho thấy sức chiến đấu của quân đội Liên Xô càng quyết liệt khi quân đội Đức càng tiến sát đến mục tiêu của mình, khiến cho quân Đức hoàn toàn thất bại sau một loạt thắng lợi của họ.[9]
Thắng lợi quan trọng của quân đội Liên Xô tại cổng thành Moskva cũng ghi dấu chiến công của lực lượng du kích Xô Viết hồi ấy, đã gây khó khăn cho quân lực Đức Quốc xã[9]. Sau chiến thắng của quân Liên Xô trong trận Moskva, tình hình thủ đô được cải thiện. Vào Mùa Xuân năm 1942, những công xưởng và cửa hàng bị rời bỏ đã trở lại hoạt động, cuộc sống của người dân Moskva trở lại bình thường.[13] Chính trong những ngày ác chiến tại Moskva, nhân dân thủ đô, trong đó có cả nhiều phụ nữ, cũng đóng góp rất lớn cho chiến thắng, với việc xây dựng hệ thống phòng thủ trong đó có các chiến hào, hào chống tăng, v.v…[9]
Đánh giá
Báo Sao đỏ của Quân đội Liên Xô ra ngày 10 tháng 5 năm 1942 tuyên truyền về thắng lợi của Chiến dịch phản công chiến lựoc tại khu vực Moskva mùa Đông 1941-1942. (Ảnh của RIA NOVOSSTI)
Đánh giá về ý nghĩa và nguyên nhân chiến thắng, Nguyên soái Zhukov viết trong bài viết “THẮNG LỢI CỦA LIÊN XÔ VÀ SỰ BẤT LỰC CỦA NHỮNG KẺ XUYÊN TẠC LỊCH SỬ đăng trên tập san “Người cộng sản” số 1, tháng Giêng, 1970″ như sau:
Nhiều tướng lĩnh và nhà viết sử tư sản đổ lỗi tất cả cho bùn lầy và đường xấu. Họ đang cố tìm cách giải thích kế hoạch chiếm Mát-xcơ-va của Hít-le bị tan vỡ không phải vì các chiến sĩ Xô-viết có tinh thần anh dũng và các cán bộ chỉ huy của họ tài giỏi và quả cảm, mà vì thời tiết xấu, đường sá đi lại khó khăn và băng giá. Nhưng chính mắt tôi đã trông thấy trong bùn lầy và trên các con đường xấu đó hàng ngàn, hàng ngàn người Mát-xcơ-va, nói chung chưa quen làm đất, đá đã rời những gian nhà đầy đủ tiện nghi ở thành phố đi đào các hố chống tăng, hào giao thông, đắp những ụ đất làm các vật chặn đường, hàng rào dây thép gai, khuân vác những bao cát. Bùn đất bám vào chân họ, vào bánh các xe chở đất, bùn đất đã làm cho các lưỡi xẻng thêm nặng, mà ngay khi không có bùn đất bám, xẻng đó đã không phù hợp với bàn tay phụ nữ. Đối với những kẻ muốn lấy thời tiết xấu để che lấp nguyên nhân thực sự của các thất bại ở Mát-xcơ-va, cần nói thêm rằng, tháng 10-1941, đường sá chỉ lầy lội trong một thời gian tương đối ngắn. Đầu tháng 11 bắt đầu rét, tuyết rơi thì đất đai và đường sá đều dễ đi rồi.
Không phải! Mưa và tuyết không thể chặn được bước tiến của quân địch ở Mát-xcơ-va. Chính là đạo quân hơn 1 triệu tên lính phát-xít tinh nhuệ đã vấp phải tinh thần vững như thép, lòng dũng cảm và khí phách anh hùng của các chiến sĩ Xô-viết có sự hậu thuẫn của nhân dân, của Thủ đô và Tổ quốc…
Không, không phải là thời tiết, mà là con người, những người Xô-viết! Đó là những ngày đặc biệt không bao giờ quên được, những ngày mà hoài bão duy nhất là bảo vệ Tổ quốc và lòng yêu nước vĩ đại của toàn thể nhân dân Liên Xô đã thôi thúc mọi người xông lên lập chiến công.[62]
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng binh lính Đức bị tổn thất rất nhiều vì tê cóng và bệnh dịch. Một số sư đoàn Đức rơi rụng chỉ còn 50% thực lực[63]. Quân Đức đã thiếu chuẩn bị trang bị, chiến thuật tác chiến mùa đông, trong khi lực lượng Liên Xô thì đã chuẩn bị chu đáo và rất quen thuộc với tác chiến trong điều kiện băng giá. Tướng Erhard Raus – người nổi danh trong giới quân sự Đức với tư cách là một trong những nhà chiến thuật lỗi lạc trong chiến tranh thiết giáp đã ghi lại nhiệt độ trung bình hàng ngày gần Moscow trong suốt chặng đầu của tháng 12 năm 1941 như sau: ngày 1/12: -7 độ C, 2.12: -6 độ C, 3/12: -9 độ C, 4/12: -36 độ C, 5/12 -37 độ C, 6/12: -37 độ C, 7/12: -6 độ C, 8/12: -8 độ C. Những ngày sau đó trong tháng, nhiệt độ giảm không dưới – 45 độ C. Sư đoàn Thiết giáp số 6 của tướng Raus báo cáo mỗi ngày có khoảng 800 ca cóng lạnh. Nhiệt độ thấp nhất đo được trong toàn bộ kế hoạch này là -53 độ C (khu vực tây bắc Moscow vào ngày 26 tháng 1 năm 1942) trong khi trang thiết bị của Đức bắt đầu hỏng hóc khi nhiệt độ xuống -20 độ C. Các loại vũ khí không thể khởi động được, đặc biệt là các vũ khí chống tăng, chất lỏng giảm giật cho pháo đều đông cứng, dầu bôi trơn cho các vũ khí chính xác và súng máy cũng vậy. Tháp pháo của xe tăng thì không thể xoay được, và xe tăng thì phải hoạt động liên tục để tránh bị đông cứng. Trong khi đó, vũ khí của Hồng quân đều được thiết kế để vẫn đảm bảo độ tin cậy trong điều kiện lạnh khắc nghiệt như vậy, và quân Đức phải lui bước trước các đợt phản công dũng mãnh của bộ binh Nga. Hàng ngàn binh sĩ Đức đã bị đóng băng đến chết trong bộ đồng phục mùa hè vốn dành cho một chiến dịch ngắn ngủi.[63]
Về mặt điều kiện khách quan, mùa đông khắc nghiệt và “công bằng” như nhau với cả hai bên, nhưng về mặt tự chuẩn bị, quân Nga đã làm chu đáo hơn quân Đức và đó cũng là một trong những yếu tố tạo nên thắng lợi của họ.
Đến trận Moskva năm 1941 thì chuỗi trận bất bại của Hitler chấm dứt. Lần đầu tiên kể từ sau hai năm chiến thắng liên tiếp, đoàn binh của Hitler đã phải triệt thoái trước một kẻ thù hùng mạnh.[9] Cùng với chiến bại của lực lượng Không quân Đức trong trận không chiến tại Anh Quốc, thất bại hoàn toàn trong trận Moskva đánh dấu từ xuống dốc của nền Đệ tam Đế chế Đức ngay từ đỉnh cao vinh quang của nó.[11] Nhiều nhà phân tích quân sự cho rằng giới cầm quyền và các tướng lĩnh Đức Quốc xã đã bị những thắng lợi nhanh chóng hồi mùa hè năm 1941 “ru ngủ” và đánh giá thấp sức kháng cự, tinh thần chiến đấu và khả năng tổ chức các chiến dịch phản công lớn của Liên Xô. Toàn bộ lực lượng mà quân đội Đức huy động tấn công Moskva chỉ đủ sức chọc thủng mặt trận Liên Xô ở Viazhma, Briansk và uy hiếp tuyến phòng thủ thứ ba của Liên Xô. Sau đợt tấn công thứ nhất, Bộ chỉ huy Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) vẫn tiếp tục chiến thuật cũ mà không hề biết rằng Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô đã phát hiện ra hai cánh quân lớn của Đức tập trung ở phía Bắc và phía Nam Moskva. Do đó, Quân đội Liên Xô đã xây dựng tại hai khu vực này các trận địa phòng ngự có chiều sâu với nhiều tuyến, nhiều lớp; lấy xe tăng và pháo chống tăng làm chủ lực và lần lượt bẻ gãy những “quả đấm” xung kích của ba tập đoàn quân xe tăng 2, 3, 4, sức mạnh tấn công chính của quân đội Đức. Một trong các sai lầm khác của Bộ tư lệnh cụm tập đoàn quân Trung tâm là sử dụng xe tăng rộng rãi nhưng lại huy động ít bộ binh yểm hộ. Sự đơn độc của các đơn vị xe tăng Đức trên các hướng tấn công chính đã tạo điều kiện cho xe tăng và pháo chống tăng Liên Xô dàn trận phối hợp với bộ binh đánh những trận tiêu diệt lớn mặc dù quân Đức có nhiều xe tăng hơn. Do quá tin tưởng vào kế hoạch hợp vây của hai tập đoàn quân xe tăng và hai tập đoàn quân xung kích ở hai bên sườn, Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) cũng hành động “lừng chừng” ở tuyến giữa mặt trận mặc dù họ có đủ lực lượng; tạo điều kiện cho Phương diện quân Tây (Liên Xô) tự do rút bớt các lực lượng ở giữa mặt trận để điều sang hai cánh, chặn đứng các cánh quân xung kích của Đức.[64]
Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô và Bộ tư lệnh các phương diện quân Tây, Dự bị, Briansk, Kalinin và kể cả Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô cũng mắc một số sai lầm, nhất là vào giai đoạn đầu của chiến dịch. Việc bố trí dàn trải và chồng chéo các lực lượng của Phương diện quân Tây và Phương diện quân Dự bị hồi tháng 9 năm 1941 đã làm cho việc chỉ huy bị rối loạn. Hai tập đoàn quân 24 và 43 phòng ngự trên tuyến đầu bên cánh trái của Phương diện quân Tây nhưng lại thuộc Phương diện quân Dự bị mà sở chỉ huy của nó lại đặt ở tận Viazhma cách đó gần 200 km. Đến khi tập đoàn quân xe tăng 4 tấn công thì các tập đoàn quân này bị cắt rời khỏi chủ lực Phương diện quân Dự bị và nhanh chóng bị bao vây. Trong đợt một, Bộ tư lệnh hai phương diện quân Tây và Dự bị cũng không xác định được hướng tấn công chính của hai cánh quân xe tăng Đức nên không thể bịt được các cửa mở mà xe tăng Đức đã đột phá. Vào giai đoạn cuối chiến dịch, khi Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đã suy yếu và rút lui, lẽ ra phải tăng cường thêm 4 tập đoàn quân cho các phương diện quân Tây, Kalinin và Briansk để truy kích và đẩy quân Đức ra xa Moskva hơn nữa thì I. V. Stalin lại rút bớt Tập đoàn quân Xung kích 1 của Phương diện quân Tây, điều hai tập đoàn quân dự bị khác đến các hướng Tikhvill và Rostov để thực hiện tổng phản công một cách dàn trải trong khi tiềm lực của quân Đức ở cả hướng Tây, Tây Bắc và Tây Nam vẫn còn rất mạnh. Điều này đã làm cho cuộc tấn công vào “chỗ lồi” Rzhev – Viazhma của Quân đội Liên Xô phải thực hiện trong tình trạng không có lực lượng dự bị chiến dịch và do đó không thành công. Tập đoàn quân 33, quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 và lữ đoàn đổ bộ đường không 8 phải tác chiến trong vòng vây của quân Đức tại đây đến cuối tháng 5 năm 1942 mới thoát vây với thiệt hại nặng nề [65]
Ảnh hưởng
Kết thúc giai đoạn phòng thủ Moskva. Quân đoàn kỵ binh 2 Ukraina của tướng P. A. Belov được phong danh hiệu “Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1”, ngày 26 tháng 11 năm 1941
Vô cùng tức giận do thất bại ngay trước chân thành Moskva, Hitler lập tức phế truất chức vụ Tổng tư lệnh Lục quân Đức của Thống chế Walther von Brauchitsch và tự mình đứng vào chức vụ này. Ông ta cũng cách chức Tư lệnh Cụm Tập đoàn quân Trung tâm của Thống chế Fedor von Bock (mặc dầu khi ấy Von Bock không được khỏe); cách chức Tư lệnh Tập đoàn quân xe tăng 2 của tướng Heinz Wilhelm Guderian cùng hàng chục tướng khác.[10][66] Chiến thắng của Liên Xô tại trận Moskva cũng làm phân hoá nội bộ phe Trục. Các nước Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ phải cân nhắc lại khả năng tham chiến chống Liên Xô. Người Đức cũng bắt đầu nghi ngờ vào thiên tài của Fuhrer, sự hoài nghi và phản đối trong lòng nước Đức được nhen nhóm cùng với tâm lý lo lắng và bi quan tăng lên khi họ nhớ đến thất bại của Napoleon trong cuộc chiến tranh năm 1812. Các nhà chiêm tinh học bắt đầu lao vào nghiên cứu số mệnh của Napoleon và của cả Hitler.[67] Tướng Gluther Blumentritt, Tham mưu trưởng của Tập đoàn quân thứ tư của Đức, đã đọc lại Hồi ký của một viên tướng của Napoleon là Armand Augustin Louis de Caulaincourt, trong đó kể về Mùa Đông Nga khủng khiếp và sự thất bại hoàn toàn của Napoleon I.[9] Việc nước Đức Quốc xã bắt đầu gây sức ép, đòi hỏi các nước chư hầu của mình phải đưa thêm nhiều binh đoàn mới sang mặt trận Xô-Đức để “chia xẻ” trách nhiệm với quân đội Đức đã làm cho tình hình chính trị bên trong những nước đó bắt đầu mất ổn định.[68]
Huân chương phòng thủ Moskva 1941 của Nhà nước Liên Xô
Lần đầu tiên quân đội vô địch của Đức Quốc xã đã bị thất bại trong một trận đánh có tầm chiến lược. Uy thế của quân đội Đức từng làm mưa làm gió trên chiến trường Châu Âu đã bị chôn vùi trong trận Moskva. Nó đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của Kế hoạch Barbarossa, buộc giới cầm quyền phát xít Đức phải đưa ra một kế hoạch mới để tiếp tục cuộc chiến tại mặt trận Xô-Đức với những mục tiêu hạn chế hơn. Kể từ thời điểm này, nước Đức Quốc xã phải chấp nhận kiểu chiến tranh lâu dài tiêu hao cường độ cao với Liên Xô – một cường quốc rộng lớn nhất thế giới có số dân đông, tiềm lực chiến tranh vô cùng to lớn đang ngày càng được huy động nhiều hơn. Chiến tranh càng kéo dài thì càng bất lợi cho Đức Quốc xã vì nước này chưa sẵn sàng cho kiểu chiến tranh tiêu hao như thế và tiềm lực chiến lược của nước Đức Quốc xã kém xa tiềm lực của đối phương. Hơn nữa, các lợi thế về tư duy quân sự, khả năng tác chiến, ưu thế vũ khí của quân đội Đức Quốc xã chỉ có tính tạm thời. Chiến tranh càng kéo dài và nhất là khi các tiềm năng của Liên Xô được phát huy, các ưu thế đó sẽ về tay quân đội Xô Viết. Do đó chiến thắng của Hồng quân tại Moskva trong năm 1941 khắc nghiệt nhất của chiến tranh là điềm báo trước cho thất bại của Đức trong toàn bộ cuộc chiến.[69]
Trong những ngày diễn ra cuộc phản công lớn của Quân đội Liên Xô trước cửa ngõ Moskva, Khối đồng minh toàn thế giới chống phát xít ra đời. Ngày 1 tháng 1 năm 1942, tại Washington, trên cơ sở “Hiến chương Đại Tây Dương” đã được các cường quốc Hoa Kỳ và Anh ký kết hồi tháng 8 năm 1940, Liên Xô và 23 nước khác đã ký thỏa ước tham gia Hiến chương này, mở đường cho việc toàn cầu hoá khối Đồng minh chống phát xít. Chính phủ các đồng minh Anh, Mỹ đã thực sự tin rằng Liên Xô hoàn toàn có khả năng tự mình chống chọi lại được sức mạnh khủng khiếp của nước Đức quốc xã. Sự tin tưởng ấy đã dẫn đến các hiệp ước hợp tác và giúp đỡ nhau trong chiến tranh giữa Liên Xô với Anh và Mỹ được ký kết trong nửa đầu năm 1942. Uy tín quốc tế của Liên Xô tăng mạnh, thiện cảm đối với Liên Xô lên cao trong dư luận các nước đồng minh tạo thuận lợi cho các nỗ lực chung chống phát xít. Các quốc gia, các vùng đất đang bị Đức Quốc xã chiếm đóng bắt đầu hy vọng vào tương lai được giải phóng và điều đó làm cho họ mạnh dạn xây dựng các tổ chức, các lực lượng kháng chiến, chống phát xít Đức ngay tại những vùng đất bị chiếm đóng của Liên Xô và các nước khác.[70]
Tham khảo
Chú thích
- ^ a ă â b David Reynolds, Aleksandr Oganovich Chubarʹi︠a︡n, Allies at war: the Soviet, American, and British experience, 1939-1945, trang 41
- ^ a ă Л. Н. Лопуховский. 1941. Вяземская катастрофа. 2-е изд., перераб. и испр. — М.: Яуза, Эксмо, 2008. ISBN 978-5-699-30305-2
- ^ А. В. Исаев. Котлы 41-го: История ВОВ, которую мы не знали. — М.: Эксмо, 2005. ISBN 5-699-12899-9
- ^ Мягков Михаил Юрьевич “Вермахт у ворот Москвы, 1941-1942” – Глава I. Путь на Москву
- ^ a ă Гриф секретности снят: Потери Вооруженных Сил СССР в войнах, боевых действиях и военных конфликтах: Стат. исслед./ Г. Ф. Кривошеев, В. М. Андроников, П. Д. Буриков. — М.: Воениздат, 1993. МОСКОВСКАЯ СТРАТЕГИЧЕСКАЯ ОБОРОНИТЕЛЬНАЯ ОПЕРАЦИЯ
- ^ a ă Гриф секретности снят: Потери Вооруженных Сил СССР в войнах, боевых действиях и военных конфликтах: Стат. исслед./ Г. Ф. Кривошеев, В. М. Андроников, П. Д. Буриков. — М.: Воениздат, 1993. МОСКОВСКАЯ СТРАТЕГИЧЕСКАЯ НАСТУПАТЕЛЬНАЯ ОПЕРАЦИЯ
- ^ Мягков Михаил Юрьевич “Вермахт у ворот Москвы, 1941-1942” – Глава II. Поворот
- ^ a ă David Reynolds, Aleksandr Oganovich Chubarʹi︠a︡n, Allies at war: the Soviet, American, and British experience, 1939-1945, trang 40
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l Leonid D. Grenkevich, David M. Glantz, The Soviet partisan movement, 1941-1944: a critical historiographical analysis, các trang 175-176.
- ^ a ă â b c d đ e Spencer Tucker, Battles That Changed History: An Encyclopedia of World Conflict, trang 474
- ^ a ă â b Kurt Frank Reinhardt, Gerhart Hoffmeister, Frederic Christian Tubach, Germany, 2000 Years: From the Nazi era to German unification, các trang 42-43.
- ^ a ă H. P. Willmott, The great crusade: a new complete history of the Second World War, trang 155
- ^ a ă â David Reynolds, Aleksandr Oganovich Chubarʹi︠a︡n, Allies at war: the Soviet, American, and British experience, 1939-1945, trang 268
- ^ A. M. Vasilievski. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 66
- ^ Grigori Doberin. Những bí mật của Thế chiến thứ hai. trang 124
- ^ A. M. Vasilievski. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 67
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. trang 209.
- ^ Fabrian von Schlabreldorff. Những trận đánh của Hitler. Zurich. 1946; dẫn theo Albert Axell. Nguyên soái Zhukov – Người chiến thắng Hitler. NXB Công an nhân dân. Hà Nội. 2006. trang 131.
- ^ А. В. Исаев. Котлы 41-го: История ВОВ, которую мы не знали. — М.: Эксмо, 2005. ISBN 5-699-12899-9 Лев Лопуховский пишет о 545 самолётах
- ^ A. M. Vasilievsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 66
- ^ a ă A. M. Vasilievsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 68
- ^ X. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chién tranh. Tập 1. trang 51-52.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. trang 209-210.
- ^ X. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh. Tập 1. trang 53.
- ^ A. M. Vasilievsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 71-72.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. trang 210.
- ^ A. M. Vasilievsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 68-69.
- ^ Albert Axell. Nguyên soái Zhukov, người chiến thắng Hitler. trang 135.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. trang 237.
- ^ A. M. Vasilievsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 69-70.
- ^ Albert Axell. Nguyên soái Zhukov, người chiến thắng Hitler. trang 137.
- ^ X. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh. Tập 1. trang 54.
- ^ Goliakov – Ponidovski. Richard Sorge, nhà tình báo thời đại. Dịch giả: Ngô Vi Thiện – Trần Quang Vinh. NXB Công an nhân dân. Hà Nội. 1983. trang 244-245.
- ^ A. M. Vasilievsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 78.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. trang 246-247.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. trang 236.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. Trang 247-248
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. Trang 229-231
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. Trang 228-229
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. Trang 243-244
- ^ A. M. Vasilievsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 74-75.
- ^ a ă S. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh. Tập 1. trang 61.
- ^ http://antg.cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Nhung-nuoc-co-chien-luoc-cua-Stalin-truoc-the-chien-II-300607/
- ^ A. M. Vasilievsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 76-77.
- ^ Albert Axell. Nguyên soái Zhukov, người chiến thắng Hitler. trang 141
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. trang 242-243.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. trang 237-239.
- ^ Grigori Doberin. Những bí mật của Thế chiến thứ hai. Trang 127.
- ^ A. M. Vasilevsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 77-78.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. trang 250.
- ^ A. M. Vasilievsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 78-80.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. trang 252.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. trang 253-254.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. trang 254.
- ^ A. M. Vailievski. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 85.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. trang 255-256.
- ^ a ă A. M. Vailievski. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 86.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. trang 258-259.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. trang 260-262.
- ^ A. M. Vasilievski. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 87-88
- ^ John Erickson, Barbarossa: The Axis and the Allies, table 12.4
- ^ G.K.Zukov – THẮNG LỢI CỦA LIÊN XÔ VÀ SỰ BẤT LỰC CỦA NHƯNG KẺ XUYÊN TẠC LỊCH SỬ. Bài đăng trên tập san “Người cộng sản” số 1, tháng Giêng, 1970.
- ^ a ă [1]
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. tập 2. trang 247-248.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. tập 2. trang 256, 266.
- ^ Grigori Doberin. Những bí mật của Thế chiến thứ hai. trang 130.
- ^ Alan Fredbery. Behind steel wall. London. 1944. page 60-61.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. tập 2. trang 271.
- ^ Paul Karel. The Russia war of Hitler. London. 1964. page 191-192.
- ^ Grigori Doberin. Những bí mật của Thế chiến thứ hai. trang 136-143
Thư mục
- Đại Bách khoa toàn thư Xô viết, Moskva, 1973–1978
- G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 2. Dịch giả: Nguyễn Hải Sa – Lê Bá Phán. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội. 1987
- A. M. Vasilievski. Sự nghiệp cả cuộc đời. Bản tiếng Việt. Nhà xuất bản Tiến Bộ. Moskva. 1985.
- Albert Axell. Nguyên soái Zhukov, người chiến thắng Hitler. Dịch giả: Việt Linh. Nhà xuất bản Công an nhan dân. Hà Nội. 2006
- X. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh. Bản tiếng Việt. Nhà xuất bản Tiến bộ. Moskva. 1983.
- Grigori Doberin. Những bí mật của Thế chiến thứ hai. Nhà xuất bản Sự Thật. Hà Nội. 1986.
- Goliakov – Ponidovski. Richard Sorge, nhà tình báo thời đại. Dịch giả: Ngô Vi Thiện – Trần Quang Vinh. Nhà xuất bản Công an nhân dân. Hà Nội. 1983.
- John Erickson, Barbarossa: The Axis and the Allies
- Alan Fredbery. Behind steel wall. London. 1944
- Paul Karel. The Russia war of Hitler. London. 1964
- Từ điển bách khoa “Chiến tranh giữ nước vĩ đại 1941-1945” – Nhà xuất bản Bách khoa toàn thư Xô Viết 1985 – tiếng Nga Энциклопедия: “Великая Отечественная Война 1941-1945” – Изд. Советская Энциклопедия 1985.
- Các hồi ký chiến tranh của tướng lĩnh Xô Viết trên Dự án hồi ký
- David Reynolds, Aleksandr Oganovich Chubarʹi︠a︡n, Allies at war: the Soviet, American, and British experience, 1939-1945, Palgrave Macmillan, 1994. ISBN 0-312-10259-3.
- Spencer Tucker, Battles That Changed History: An Encyclopedia of World Conflict, ABC-CLIO, 11-11-2010. ISBN 1-59884-429-6.
- Kurt Frank Reinhardt, Gerhart Hoffmeister, Frederic Christian Tubach, Germany, 2000 Years: From the Nazi era to German unification, Continuum International Publishing Group, 1988. ISBN 0-8264-0601-7.
- Leonid D. Grenkevich, David M. Glantz, The Soviet partisan movement, 1941-1944: a critical historiographical analysis, Routledge, 31-03-1999. ISBN 0-7146-4874-4.
- H. P. Willmott, The great crusade: a new complete history of the Second World War, Potomac Books, Inc., 01-07-2008. ISBN 1-59797-191-X.
Liên kết ngoài
|
|