|
|
Thứ tư, Ngày 30 Tháng 9 Năm 2015
|
|
|
Âm lịch: Ngày 18 Tháng 8 Năm 2015 Ngày Julius: 2457296 |
Bát tự: Giờ Giáp Tí, ngày Kỷ Dậu, tháng ất Dậu, năm ất Mùi |
|
0:00 |
Giờ: Giáp Tí |
Ngày Hoàng đạo |
Sao: Ngọc Đường |
Giờ Hoàng đạo |
Giáp Tí, Bính Dần, đinh Mão, Canh Ngọ, Tân Mùi, Qúy Dậu |
Giờ Hắc đạo |
ất Sửu, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Nhâm Thân, Giáp Tuất, ất Hợi |
Năm |
Kim |
Sa trung kim |
Mùa: Mùa thu |
Vượng: Kim
Khắc: Hỏa |
Trọng |
Ngày |
Thổ |
Đại dịch thổ |
Ðất vườn rộng |
Tuổi xung |
Tân Mão, Ất Mão |
Tiết khí |
Giữa: Thu phân (Giữa thu) – Hàn lộ (Mát mẻ) |
Sao |
Chẩn |
|
Ngũ hành |
Thủy |
|
Động vật |
Giun |
|
Trực |
Kiến |
– Tốt cho các việc thi ơn huệ, trồng cây cối
– Xấu cho các việc chôn cất, đào giếng, lợp nhà |
Xuất hành |
Hỷ thần |
Đông Bắc |
Tài thần |
chính Nam |
Kê thần |
Đông Bắc |
Cát tinh |
Tốt |
Kỵ |
Thiên thành |
Tốt mọi việc |
|
Quan nhật |
Tốt mọi việc |
|
Ích Hậu |
Tốt mọi việc, nhất là giá thú |
|
Ngọc đường |
Hoàng Đạo – Tốt mọi việc |
|
Sát tinh |
Kỵ |
Ghi chú |
Thiên hoả, Thiên ngục |
Xấu mọi việc Xấu về lợp nhà |
|
Tiểu Hồng Sa |
Xấu mọi việc |
|
Thổ phủ |
Kỵ xây dựng,động thổ |
|
Nguyệt Hình |
Xấu mọi việc |
|
Nguyệt Kiến chuyển sát |
Kỵ động thổ |
|
Phủ đầu dát |
Kỵ khởi tạo |
|
Mặt trời |
Giờ mọc |
Giờ lặn |
Hà Nội |
05:49 |
17:43 |
TP.Hồ Chí Minh |
05:44 |
17:42 |
|
Tư Mệnh |
Hoàng đạo |
|
1:00 |
Giờ: ất Sửu |
Câu Trận |
Hắc đạo |
|
3:00 |
Giờ: Bính Dần |
Thanh Long |
Hoàng đạo |
|
5:00 |
Giờ: đinh Mão |
Minh Đường |
Hoàng đạo |
|
7:00 |
Giờ: Mậu Thìn |
Thiên Hình |
Hắc đạo |
|
9:00 |
Giờ: Kỷ Tỵ |
Chu Tước |
Hắc đạo |
|
11:00 |
Giờ: Canh Ngọ |
Kinh Quỹ |
Hoàng đạo |
|
13:00 |
Giờ: Tân Mùi |
Kim Được |
Hoàng đạo |
|
15:00 |
Giờ: Nhâm Thân |
Bạch Hổ |
Hắc đạo |
|
17:00 |
Giờ: Qúy Dậu |
Ngọc Đường |
Hoàng đạo |
|
19:00 |
Giờ: Giáp Tuất |
Thiên Lao |
Hắc đạo |
|
21:00 |
Giờ: ất Hợi |
NGuyên Vũ |
Hắc đạo |
|
23:00 |
Giờ: Giáp Tí |
Tư Mệnh |
Hoàng đạo |
|
|
Lịch vạn niên 2015, ngày 18 tháng 8, năm 2015 – Âm lịch
Xem ngày giờ tốt và hướng xuất hành
Trong một tháng có 2 loại ngày tốt, ngày xấu; trong một ngày lại có 6 giờ tốt, 6 giờ xấu gọi chung là Ngày/giờ Hoàng đạo (tốt) và Ngày/giờ Hắc đạo (xấu). Người Việt Nam từ xưa đều có phong tục chọn ngày tốt và giờ tốt để làm những việc lớn như cưới hỏi, khởi công làm nhà, nhập trạch, ký kết, kinh doanh v.v.v.
Ngày 18 tháng 8, năm 2015 là ngày Hoàng đạo , các giờ tốt trong ngày này là: Giáp Tí, Bính Dần, đinh Mão, Canh Ngọ, Tân Mùi, Qúy Dậu
Trong ngày này, các tuổi xung khắc nên cẩn thận trong chuyện đi lại, xuất hành, nói chuyện và làm các việc đại sự là: Tân Mão, Ất Mão
Xuất hành hướng Đông Bắc gặp Hỷ thần: niềm vui, may mắn, thuận lợi. Xuất hành hướng Nam gặp Tài thần: tài lộc, tiền của, giao dịch thuận lợi.
Xem sao tốt và việc nên làm và nên kiêng
Trong Lịch vạn niên, có 12 trực được sắp xếp theo tuần hoàn phân bổ vào từng ngày. Mỗi trực có tính chất riêng, tốt/xấu tùy từng công việc. Ngày 18 tháng 8, năm 2015 là Trực Kiến: Tốt cho các việc thi ơn huệ, trồng cây cối Xấu cho các việc chôn cất, đào giếng, lợp nhà
Mỗi ngày đều có nhiều sao Tốt (Cát tinh) và sao Xấu (Hung tinh). Các sao Đại cát (rất tốt cho mọi việc) như Thiên đức, Nguyệt đức, Thiên ân, Nguyệt ân. Có những sao Đại hung (rất xấu cho mọi việc) như Kiếp sát, Trùng tang, Thiên cương. Cũng có những sao xấu tùy mọi việc như Cô thần, Quả tú, Nguyệt hư, Không phòng, Xích khẩu… – xấu cho hôn thú, cưới hỏi, đám hỏi nói chung cần tránh. Hoặc ngày có Thiên hỏa, Nguyệt phá, Địa phá… xấu cho khởi công xây dựng, động thổ, sửa chữa nhà cửa nói chung cần tránh.
Khi tính làm việc đại sự, cần kiểm tra ngày Hoàng Đạo, Hắc Đạo. Xem công việc cụ thể nào, để tránh những sao xấu. Chọn các giờ Hoàng đạo để thực hiện (hoặc làm tượng trưng lấy giờ)
Botswana
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Botswana, tên chính thức Cộng hoà Botswana (tiếng Tswana: Lefatshe la Botswana, Tiếng Việt: Bốt-xoa-na[1]), là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Nam Phi. Trước kia nó là quốc gia bị bảo hộ Bechuanaland bởi Vương quốc Anh, Botswana đã đổi tên mới và trở thành một quốc gia độc lập bên trong Khối thịnh vượng chung Anh Quốc ngày 30 tháng 9, 1966. Nước này có chung biên giới với Nam Phi ở phía nam và đông nam, Namibia ở phía tây, Zambia ở phía bắc, và Zimbabwe phía đông bắc. Về kinh tế, nước này có quan hệ chặt chẽ với Nam Phi, chủ yếu dựa vào khai mỏ (đặc biệt là kim cương), chăn nuôi gia súc, và du lịch. Đất nước được đặt tên theo nhóm sắc tộc lớn nhất, Tswana.
Lịch sử
-
Từ thế kỷ 13, nhiều bộ lạc du mục từ miền Bắc châu Phi, trong đó có người Suana, đã đến sinh sống ở vùng đất ngày nay thuộc Botswana. Cuối thế kỷ 19, sự thù địch xảy ra giữa người Shona sống tại Botswana và các bộ lạc Ndebele di cư tới lãnh thổ này từ Sa mạc Kalahari. Căng thẳng cũng tăng lên với người định cư Boer từ Transvaal. Sau những lời kêu gọi trợ giúp của các lãnh đạo Batswana Khama III, Bathoen và Sebele, Ngày 31 tháng 3, 1885 chính phủ Anh đặt “Bechuanaland” dưới quyền bảo hộ của nước này. Lãnh thổ phía bắc tiếp tục nằm dưới quyền cai trị trực tiếp với tư cách là Quốc gia bảo hộ Bechuanaland và trở thành Botswana hiện nay, trong khi lãnh thổ phía nam trở thành một phần của Thuộc địa Cape và hiện là một phần của tỉnh phía tây bắc Nam Phi, với đa số người nói tiếng Setswana hiện sống tại Nam Phi.
Khi Liên minh Nam Phi được thành lập năm 1910, những thuộc địa chính của Anh Quốc trong vùng: Quốc gia bảo hộ Bechuanaland, Basutoland (hiện là Lesotho), và Swaziland (“Các Lãnh thổ Cao Uỷ”) không thuộc vào đó, mà được dự định để sáp nhập với nhau sau này. Tuy nhiên, việc sáp nhập sẽ do nhân dân tại vùng đó quyết định, và dù các chính phủ sau này của Nam Phi không ngừng tìm cách đòi Anh Quốc chuyển giao chúng, Anh vẫn giữ các lãnh thổ này và cuối cùng việc chuyển giao đã không xảy ra. Cuộc bầu cử chính phủ Quốc gia năm 1948, dẫn tới việc thiết lập chế độ apartheid, và Nam Phi rút khỏi Khối thịnh vượng chung năm 1961, chấm dứt bất kỳ tham vọng sáp nhập vùng đất này vào Nam Phi.
Trẻ em Palapye, 1987, sau trận mưa đầu tiên sau nhiều năm.
Việc Anh Quốc mở rộng quyền lực trung ương và khuynh hướng chính phủ bộ lạc dẫn tới việc thành lập hai hội đồng tư vấn đại diện Người Phi và Người Âu vào năm 1920. Các tuyên bố năm 1934 quy định quyền của bộ lạc. Một hội đồng tư vấn Âu-Phi được thành lập năm 1951, và hiến pháp năm 1961 thành lập một hội đồng tư vấn lập pháp.
Tháng 6, 1964, Anh Quốc chấp nhận những đề xuất về một chính phủ dân chủ tự quản tại Botswana. Vị trí trụ sở chính phủ được chuyển từ Mafikeng ở Nam Phi tới Gaborone năm 1965. Hiến pháp năm 1965 dẫn tới những cuộc tổng tuyển cử đầu tiên và nền độc lập ngày 30 tháng 9, 1966. Seretse Khama, một lãnh đạo của phong trào độc lập và là người thích hợp nhất cho vị trí lãnh đạo Ngwato, được bầu làm tổng thống đầu tiên, ông tái cử thêm hai lần nữa và chết khi đang tại chức năm 1980. Quyền lực tổng thống được chuyển sang phó tổng thống, Ketumile Masire, ông chính thức trúng cử năm 1984 và tái nhiệm năm 1989 và 1994. Masire nghỉ hưu năm 1998. Chức vụ tổng thống lại được giao cho phó tổng thống, Festus Mogae, ông này chính thức trúng cử năm 1999 và tái trúng cử năm 2004.
Địa lý và Môi trường
Bản đồ Botswana
-
Chủ yếu là cao nguyên bằng phẳng hơi lồi lõm; Sa mạc Kalahari nằm ở phía tây nam
Diện tích 600.370 km² (231.788 dặm²), Botswana là nước lớn thứ 45 trên thế giới (sau Ukraina). Kích thước nước này tương đương với Madagascar, và hơi nhỏ hơn bang Texas của Hoa Kỳ.
Diện tích Botswana chủ yếu bao phủ bởi Sa mạc Kalahari, tới 70% diện tích đất nước. Đồng bằng Okavango, đồng bằng trong đất liền lớn nhất thế giới, nằm ở phía tây bắc. Lòng chảo Makgadikgadi, một lòng chảo muối lớn nằm ở phía bắc.
Botswana có nhiều vùng thiên nhiên hoang dã đa dạng, gồm đồng bằng Okavango, sa mạc Kalahari, các đồng cỏ và savanna, các savana và đồng cỏ là nơi sinh sống của Blue Wildebeest và nhiều loài linh dương cũng như các loại động vật có vú khác.
Chính trị và Chính phủ
-
Quận Botswana
Chính trị Botswana dựa trên mô hình cộng hoà đại diện dân chủ tổng thống, theo đó Tổng thống Benin vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là lãnh đạo chính phủ, và trên một hệ thống đa đảng đa nguyên. Quyền hành pháp do chính phủ đảm nhận. Quyền lập pháp do chính phủ và Nghị viện Botswana đảm nhận. Từ khi giành lại độc lập, hệ thống đảng phái do Đảng Dân chủ Botswana thống trị. Nhánh tư pháp độc lập với lập pháp và hành pháp.
Khu vực hành chính
-
Botswana được chia thành chín quận:
Các quận lại được chia thành 28 khu dưới cấp quận.
- Các khu vực đông dân cư nhất (theo thứ tự giảm dần)
Các thành phố
Thị trấn và Làng mạc
Quân đội
-
Ở thời độc lập Botswana không có các lực lượng quân đội. Chỉ sau khi bị quân đội Rhodesian tấn công, Botswana mới thành lập Lực lượng Phòng vệ Botswana (BDF) để tự vệ năm 1977. Tổng thống là tổng tư lệnh và một ủy ban quốc phòng được tổng thống chỉ định. BDF hiện gồm khoảng 12.000 thành viên.
BDF là một lực lượng vũ trang tốt và có kỷ luật. Sau những thay đổi chính trị tích cực tại Nam Phi và trong vùng, các nhiệm vụ của BDF ngày càng chú trọng vào các hoạt động chống săn trộm, ngăn ngừa thảm hoạ, và giữ gìn hòa bình quốc tế. Hoa Kỳ là nước cung cấp viện trợ duy nhất và lớn nhất cho sự phát triển của BDF, và một phần lớn sĩ quan trong lực lượng này đã được huấn luyện quân sự từ Hoa Kỳ. BDF là một tổ chức phi chính trị và chuyên nghiệp.
Quan hệ nước ngoài
-
Botswana đặt ưu tiên hàng đầu cho việc hội nhập kinh tế và chính trị vào Nam Phi. Nước này tìm cách biến Cộng đồng Phát triển Nam Châu Phi (SADC) thành một tổ chức hữu hiệu để phát triển kinh tế và tăng cường các nỗ lực nhằm đưa vùng này ngày càng có khả năng tự quyết cao hơn trong đối ngoại, giải quyết xung đột, và quản lý tốt. Sau khi chấm dứt thời kỳ apartheid Nam Phi cũng đang tích cực tham gia vào những nỗ lực trên. Botswana có chung quan điểm với châu Phi về hầu hết các vấn đề quốc tế và hiện họ là thành viên của các tổ chức quốc tế như Liên hiệp quốc, Khối thịnh vượng chung và Liên minh Châu Phi (AU). Botswana cũng là thành viên của Tòa án Tội phạm Quốc tế với một Thỏa thuận Miễn trừ Song phương bảo vệ cho quân đội Hoa Kỳ (như được quy định trong Điều 98).
Kinh tế
-
Gia súc tại một hố nước gần Serowe.
Từ khi độc lập, Botswana có mức tăng trưởng thu nhập trên đầu người cao nhất thế giới [2] Tăng trưởng kinh tế trung bình ở mức 9% trong giai đoạn 1966 tới 1999. Chính phủ luôn duy trì một chính sách thuế lành mạnh, dù có thâm hụt ngân sách trong giai đoạn 2002 và 2003, và mức độ nợ nước ngoài không đáng kể. Nước này có tỷ lệ tín dụng tốt nhất Châu Phi[cần dẫn nguồn] và có kho dữ trữ ngoại tệ (hơn $5.1 tỷ năm 2003/2004) tương đương mức nhập khẩu trong hai năm rưỡi. Kỷ lục đáng chú ý của kinh tế Botswana được xây dựng trên nền tảng sử dụng thông minh nguồn thu và số tiền có được từ khai thác kim cương cung cấp cho phát triển kinh tế thông qua các chính sách thuế đáng tin cậy và chính sách đối ngoại cẩn trọng. Debswana, công ty mỏ kim cương duy nhất hoạt động tại Botswana, thuộc 50% sở hữu nhà nước và cung cấp một nửa nguồn thu cho chính phủ.
Tuy nhiên, chi tiêu phát triển kinh tế đã bị cắt giảm 10% giai đoạn 2002-2003 hậu quả của sự tái phát thâm hụt ngân sách và tăng chi tiêu cho các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Botswana bị ảnh hưởng rất nặng bởi đại dịch AIDS; tuổi thọ bình quân chỉ xấp xỉ 40, chỉ hơn Zimbabwe và Swaziland. Gần một phần ba người dân Batswana có HIV, khiến Botswana trở thành nước có tỷ lệ người có HIV đứng hàng thứ hai thế giới, chỉ sau Swaziland. [4] Chính phủ nhận biết rằng HIV/AIDS sẽ ảnh hưởng tới nền kinh tế và đang tìm cách ngăn chặn đại dịch, gồm cung cấp thuốc miễn phí và một chương trình ngăn chặn bệnh truyền từ mẹ sang con trên khắp đất nước.
Một số khoản thâm hụt ngân sách của Botswana có nguyên nhân từ chi phí quân sự cao (khoảng 4% GDP năm 2004, theo CIA World Factbook), mà những lời chỉ trích cho rằng không cần thiết trong hoàn cảnh ít có khả năng xảy ra xung đột quốc tế (dù chính phủ Botswana cũng sử dụng đội quân này cho các chiến dịch đa bên và những hỗ trợ).
Phát triển lĩnh vực tư nhân và đầu tư nước ngoài
Botswana đang tìm cách đa dạng hóa nền kinh tế, không còn phụ thuộc nhiều vào khai thác mỏ, vốn chiếm tới một phần ba GDP, và đã giảm từ mức một nửa GDP trong thập kỷ 1990. Đầu tư và quản lý nước ngoài đang được khuyến khích tại Botswana. Botswana đã hủy bỏ việc kiểm soát trao đổi ngoại tệ năm 1999, và có mức thuế tổng thể thấp (15%), không cấm người nước ngoài sở hữu các công ty, và giữ được mức lạm phát trung bình (7.6% tháng 11, 2004). Chính phủ Botswana hiện dự kiến đưa ra các chính sách mới nhằm thúc đẩy khả năng cạnh tranh, gồm cả một Chiến lược Quản lý Đầu tư Nước ngoài mới, Chính sách Cạnh tranh, Kế hoạch Tư nhân hoá, và Chiến lược Phát triển Xuất khẩu Quốc gia.
Với những thành tựu quản lý kinh tế tốt đã được chứng minh, Botswana được Tổ chức Minh bạch Thế giới xếp hạng là nước có tỷ lệ tham nhũng thấp nhất Châu Phi năm 2004, đứng trước cả nhiều nước Châu Âu và Châu Á. Diễn đàn Kinh tế Thế giới coi Botswana là một trong hai quốc gia mức độ tính cạnh tranh kinh tế cao nhất Châu Phi. Năm 2004 Botswana từng một lần nữa được Moody’s và Standard & Poor’s xếp hạng “A” theo tỷ lệ tín dụng. Thứ hạng này đồng nghĩa Botswana có mức rủi ro tín dụng thấp nhất Châu Phi và hơn cả nhiều nước tại Trung Âu, Đông Á và Mỹ La tinh.
Đầu tư của Mỹ tại Botswana còn ở mức độ khá thấp, nhưng vẫn đang tiếp tục tăng. Các công ty lớn của Mỹ, như H.J. Heinz và AON Corporation, hiện đang có mặt thông qua các dự án đầu tư trực tiếp, trong khi các công ty khác như Kentucky Fried Chicken và Remax, hiện diện thông qua các chi nhánh. Tỷ lệ quyền tín dụng theo Moody’s và Standard & Poor’s đã cho thấy rõ ràng rằng, dù vẫn còn những thách thức như thị trường nhỏ, không có cảng biển, thủ tục hành chính còn rườm ra, Botswana vẫn là một trong những địa điểm đầu tư tốt nhất trong số các nước đang phát triển. Botswana có một Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ gồm 90 thành viên chấp nhận tư cách thành viên từ những chi nhánh công ty Hoa Kỳ.
Vì yếu tố lịch sử và địa lý, Botswana có mối quan hệ bền chặt và tư lâu đời về kinh tế với Nam Phi. Liên minh Thuế quan Nam Phi (SACU), gồm Botswana, Lesotho, Swaziland, và Nam Phi, được thành lập từ năm 1910, và là liên minh thuế quan lâu đời nhất thế giới. Namibia tham gia liên minh năm 1990. Theo thỏa thuận liên minh, Nam Phi đã thu các khoản thuế quan, mua bán và thực hiện nghĩa vụ thuế cho tất cả năm thành viên, và chia theo tỷ lệ nhập khẩu của mỗi thành viên. Công thức chia chính xác và việc đưa ra quyết định về thuế quan — thuộc quyền riêng của Chính phủ Nam Phi — ngày càng gây nhiều tranh cãi, và các thành viên đang tái đàm phán lại thỏa thuận năm 2001. Cơ cấu mới đã được chính thức phê chuẩn và một Ban thư ký SACU đã được thành lập tại Windhoek, Namibia. Sau khi Nam Phi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Botswana cũng tham gia vào tổ chức này; vì thế nhiều loại thuế của SACU đã sụt giảm, khiến các sản phẩm từ biên ngoài có tính cạnh tranh cao hơn trong Botswana. Hiện các nước thành viên SACU và Hoa Kỳ đang đàm phán một hiệp định thương mại tự do. Botswana cũng đang đàm phán một hiệp định thương mại tự do với Mercosur và một Thỏa thuận Đối tác Kinh tế với Liên minh Châu Âu như một phần của SADC.
Tiền tệ của Botswana, đồng Pula, hoàn toàn chuyển đổi được và được định giá theo một rổ tiền tệ, đặc biệt theo đồng Rand của Nam Phi. Lợi tức và đầu tư trực tiếp có thể được đưa ra bên ngoài không bị hạn chế tại Botswana. Chính phủ Botswana đã giải phóng mọi biện pháp quản lý trao đổi ngoại tệ năm 1999. Ngân hàng Trung ương đã phá giá đồng Pula 7.5% vào tháng 2 năm 2004 trong nỗ lực nhằm giữ khả năng cạnh tranh chống lại sự tăng giá của đồng Pula. Tháng 5 năm 2005, một lần nữa đồng Pula lại bị phá giá 12% và chính sách “hạn chế thay đổi tỷ giá” đã được thông qua.
Đa số (70%) lượng điện của Botswana được nhập khẩu từ công ty Eskom của Nam Phi. 80% sản xuất trong nước tập trung ở một nhà máy, Morupule Power Station gần Palapye.[3]
Gaborone là nơi đóng trụ sở của Cộng đồng Phát triển Nam Châu Phi (SADC), hậu duệ của Hội nghị Phối hợp Phát triển Nam Châu Phi (SADCC-được khởi động năm 1980), tập trung vào việc tự do hóa phát triển kinh tế vùng không phụ thuộc vào nước Nam Phi đang còn dưới chế độ apartheid. SADC thu nhận Nam Phi với tư cách một thành viên dân chủ mới từ năm 1994 và đã có nhiều biện pháp khuyến khích tăng trưởng, phát triển và hội nhập kinh tế sâu rộng hơn nữa của Nam Phi. Nghị định thư Thương mại của SADC được đưa ra ngày 1 tháng 9, 2000, kêu gọi bãi bỏ mọi hàng rào thuế quan và phi thuế quan cho thương mại vào năm 2008 giữa 11 nước thành viên đã ký kết. Nếu thành công, nó sẽ tạo cho các công ty Botswana quyền tự do tiếp cận các thị trường rộng lớn trong vùng. Thất bại của SADC trong việc cô lập chính phủ Mugabe tại Zimbabwe đã gây phương hại tới một số cơ hội hợp tác giữa tổ chức này và Hoa Kỳ.
Botswana hiện đang trong quá trình vạch ra một Chương trình Hành động nhằm hạn chế tình trạng lao động trẻ em, được cho là sẽ được thông qua năm 2006-2007.
Tình hình kinh tế năm 2010
Mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong năm 2009 (tăng trưởng âm 5,2%) nhưng nhờ có sự ổn định tương đối về chính trị, quản lý tài chính – ngân sách chặt chẽ, hiệu quả và có nguồn tài nguyên khoáng sản giàu có, kinh tế Botswana đã thoát ra khỏi suy thoái và có mức tăng trưởng đạt 3,1% trong năm 2010.
Về ngoại thương, trong năm 2010, Botswana xuất khẩu một lượng hoá trị giá 4,4 tỷ USD trong đó chủ yếu là các mặt hàng khoáng sản như kim cương, đồng, niken. Dệt may chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu của nước này.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2010 đạt mức 4,5 tỷ USD với hàng hoá nhập khẩu chủ yếu là thực phẩm, máy móc, xăng dầu…
Du lịch
Botswana không phải chỉ có cát và các đầm lấy: trẻ em đang chơi tại Moremi Gorge phía đông Palapye.
Du lịch đóng một vai trò quan trọng tại Botswana. Một số vườn quốc gia và các khu bảo tồn, với sự phong phú các loài động thực vật hoang dã, đang là nơi thu hút nhiều du khách.
Botswana là khung cảnh cho loạt truyện trinh thám được nhiều người ưa thích của Alexander McCall Smith, The No. 1 Ladies’ Detective Agency, và cũng là nơi quay bộ phim năm 1980 The Gods Must Be Crazy.
Văn hoá
-
Nghệ thuật
Ở vùng phía bắc Botswana, phụ nữ trong các làng Etsha và Gumare nổi tiếng về nghề thủ công làm thúng từ Cọ Mokola và các loại thuốc nhuộm địa phương. Những chiếc thúng này nói chung được đan theo ba kiểu: lớn, thúng có nắp để đựng, thúng lớn không nắp để đội các vật trên đầu hay chứa thóc đã quạt sạch, và các thúng dẹt để đựng các loại gạo đã giã. Tính nghệ thuật của những chiếc thúng này được nâng cao nhờ việc sử dụng màu sắc và kiểu thiết kế, hiện tại chúng ngày càng được sản xuất chủ yếu cho mục đích thương mại.
Các cộng đồng thủ công nổi tiếng khác gồm Gốm Thamaga và Dệt Oodi, cả hai đều ở vùng đông nam Botswana.
Những bức họa cổ nhất tại cả Botswana và Nam Phi đều thể hiện cảnh săn bắn, gồm cả những hình người và thú vật, chúng được người Khoisan (Kung San!/Bushmen) sáng tác từ 20.000 năm trước tại sa mạc Kalahari.
Văn học
Bessie Head thường được coi là nhà văn nổi tiếng Botswana. Bà đã chạy trốn chế độ apartheid tại Nam Phi sang sống và sáng tác tại Botswana. Bà đã sống ở đây từ năm 1964 (khi nó vẫn là Quốc gia Bảo hộ Bechuanaland) cho tới khi mất khi 49 tuổi năm 1986. Bà đã sống tại Serowe, và những cuốn sách nổi tiếng nhất của bà, When Rain Clouds Gather, Maru, và A Question of Power đều được sáng tác ở đây.
Botswana là khung cảnh của nhiều tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng của Alexander McCall Smith. Vai chính trong những tiểu thuyết đó, Precious Ramotswe, sống tại Gaborone. Cuốn đầu tiên, The No. 1 Ladies’ Detective Agency xuất hiện năm 1998 tại UK (và 2001 tại US). Những cuốn sách vui vẻ được đón nhận nồng nhiệt vì sự quan tâm tới con người và các màu sắc địa phương.
Norman Rush, là một đạo diễn tại Peace Corps ở Botswana từ năm 1978 đến 1983, thường lấy khung cảnh đất nước làm nền cho những cuốn sách của ông, nói chung thường tập trung vào các cộng đồng xa xứ.
Unity Dow (sinh năm 1959) là một thẩm phán, nhà văn, nhà hoạt động nhân quyền Botswana. Bà xuất thân từ vùng nông thôn và thường coi trọng các giá trị truyền thống Châu Phi. Mẹ bà không thể đọc tiếng Anh, và thường mọi quyết định đều do người đàn ông trong nhà đưa ra. Bà đã học để trở thành một luật sư và đa số thời gian học tập đều diễn ra ở phương tây.
Khi còn là luật sư bà đã được ca ngợi vì những lập trường về nữ quyền của mình. Bà đã đứng nguyên đơn trong một vụ kiện cho phép con cái các phụ nữ quốc tịch bên ngoài được coi là người Batswana. Truyền thống và luật pháp về vấn đề quốc tịch này thường chỉ xét tới quốc tịch người cha. Bà sau này trở thành người phụ nữ đầu tiên làm Thẩm phán Tòa án Botswana.
Bà đã sáng tác ba cuốn sách. Chúng thường đề cập tới sự lo ngại về các vấn đề liên quan tới sự đấu tranh giữa các giá trị truyền thống và Phương Tây. Chúng cũng thể hiện sự quan tâm của bà tới vấn đề giới và sự nghèo đói của đất nước.
Ngày lễ
Tôn giáo
Ước tính có khoảng 70% công dân của nước này tự nhận mình là Kitô hữu. Anh giáo, Methodist chiếm đa số trong các Kitô hữu. Ngoài ra còn có Giáo hội Luther, người Công giáo La Mã, Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm, Báp-tít, Mennonites, Mặc Môn, Nhân chứng Jehovah, và giáo phái Kitô giáo khác.
Theo điều tra dân số năm 2001, cả nước có khoảng 5.000 người Hồi giáo, chủ yếu là gốc Nam Á, 3.000 người theo đạo Hindu và 700 người đạo Bahá’í. Khoảng 20% người dân không tôn giáo.[6]
Giáo dục
-
Botswana đã có những bước tiến bộ vượt bậc trong giáo dục kể từ khi giành lại độc lập năm 1966. Thời ấy có rất ít người trong nước có học thức và chỉ một số phần trăm nhỏ dân cư được đến trường.
Với việc phát hiện ra kim cương và khoản thu do nó mang lại, hệ thống giáo dục đã được chú trọng phát triển lớn. Tất cả học trò đều được đảm bảo mười năm giáo dục căn bản, để được cấp Chứng nhận giáo dục dưới đại học. Gần một nửa số người trong độ tuổi đi học theo học tiếp hai năm dự bị để được cấp Chứng nhận Giáo dục Tổng quát Botswana (BGCSE). Sau khi rời trường, học sinh có thể theo một trong số sáu trường cao đẳng kỹ thuật trong nước, hay trải qua các khóa học nghề. Các sinh viên giỏi nhất vào Đại học Botswana tại Gaborone, một trường hiện đại với số lượng sinh viên lên tới hơn mười nghìn người.
Số lượng không phải lúc nào cũng tương xứng với chất lượng. Các trường tiểu học đặc biệt thiếu thốn cơ sở vật chất và các giáo viên được trả lương thấp hơn đồng nghiệp cấp dự bị. Chính phủ Botswana hy vọng bằng cách đầu tư một khoản tiền lớn vào giáo dục, nền kinh tế đất nước sẽ ít phụ thuộc hơn vào nguồn thu từ kim cương, cũng như vào số lượng lao động lành nghề từ bên ngoài.
Tháng 1 năm 2006, Botswana đã thông báo việc tái thu phí giáo dục sau hai thập kỷ bao cấp[7] dù chính phủ vẫn cấp học bổng toàn phần và chi phí ăn ở cho mọi sinh viên đại học trong nước, cũng như tại trường Đại học Botswana hay nếu công dân muốn theo học những khoa chưa có trong nước, như y tế, họ sẽ được cấp học bổng để theo học ở nước ngoài.
Ghi chú và Tham khảo
- Denbow, James and Thebe, Phenyo C., Culture and Customs of Botswana
Xem thêm
Liên kết ngoài
- Tổng quan
- Hướng dẫn
Thể loại:
Đập Hoover
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hoover Dam |
|
Tên chính thức |
Hoover Dam |
Địa phương |
Clark County, Nevada / Mohave County, Arizona, US |
Tình trạng |
Đang sử dụng |
Khởi công |
1931 |
Khánh thành |
1936 |
Chi phí xây dựng |
49 triệu USD |
Chủ sở hữu |
Chính phủ Mỹ |
Đập và đập tràn |
Đập chính và đập tràn |
Loại đập |
Concrete gravity-arch |
Crest width |
45 ft (14 m) |
Base width |
660 ft (200 m) |
Dung lượng |
3.250.000 cu yd (2.480.000 m3) |
Chắn qua |
Colorado River |
Loại đập tràn |
2 x controlled drum-gate |
Dung tích đập tràn |
400.000 cu ft/s (11.000 m3/s) |
Hồ chứa |
Tạo thành |
Lake Mead |
Dung tích |
28.537.000 acre·ft (35,200 km3) |
Dung tích vận hành |
15.853.000 acre·ft (19,554 km3) |
Dung tích chết |
10.024.000 acre·ft (12,364 km3) |
Lưu vực |
167.800 sq mi (435.000 km2) |
Diện tích bề mặt |
247 sq mi (640 km2)[1] |
Chiều cao cột nước tối đa |
590 ft (180 m) |
Năng lượng trạm |
Trạm phát điện |
Đơn vị vận hành |
U.S. Bureau of Reclamation |
Áp lực cột nước |
590 ft (180 m) (Max) |
Tua bin |
17 main, Francis-type |
Công suất lắp đặt |
2080 MW |
Lượng điện hàng năm |
4.2 billion KWh[2] |
Website
Bureau of Reclamation: Lower Colorado Region – Hoover Dam |
|- !colspan=2 class=”fn org” style=”font-size:100%; text-align:center; background:#A8EDEF”|Hoover Dam |-style=”text-align:center” |colspan=2 style=”background-color:PaleTurquoise; line-height:1.2″|Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ |-style=”text-align:center” |colspan=2 style=”line-height:1.2; background-color:SkyBlue”|Danh lam Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ |- |- |- |- |- |- |-
|- |colspan=2 align=center|
|- |Thành phố gần nhất: |Boulder City, Nevada |- |Toạ độ: | 36°0′56″B 114°44′16″TTọa độ: 36°0′56″B 114°44′16″T |
|- |Xây/Thành lập: |1933 |- |Kiến trúc sư: |Six Companies, Inc. (structural), Gordon Kaufmann (exteriors) |- |Kiểu kiến trúc: |Art Deco |-
|- |Cơ quan chủ quản: |Bureau of Reclamation |- |MPS: |Vehicular Bridges in Arizona MPS (AD) |- |Đưa vào NRHP: |ngày 8 tháng 4 năm 1981[3] |
|- |Công nhận (NHL): |ngày 20 tháng 8 năm 1985[4] |
|- |Số NRHP: |81000382 | |
Đập Hoover, đã từng có tên gọi là đập Boulder, là một đập vòm bê tông trọng lực trong Black Canyon của sông Colorado, trên biên giới giữa các tiểu bang Arizona và Nevada của Hoa Kỳ. Nó được xây dựng giữa năm 1931 và 1936 trong cuộc Đại suy thoái. Việc xây dựng dập là kết quả của một nỗ lực to lớn liên quan đến hàng ngàn công nhân, và lấy đi hơn 100 sinh mạng. Đập được tranh cãi có tên trong danh dự của Tổng thống Herbert Hoover.
Sông Colorado rộng lớn với chiều dài 2.333 km, cung cấp nước tưới cho 1/12 ruộng đất nước Mỹ. Sông bắt đầu từ đầu nguồn thượng lưu dãy núi Rocheuses hướng về Tây Nam xuyên vượt sông Colorado, Utah và chảy qua khe sâu lớn, chảy vào bang New Mexico trước khi rót vào vịnh California, thành sông ranh giới giữa bang Arizona và bang Nevada, bang Arizona và bang Califonia. Sông Colorado là một con sông “dữ dội”. Năm 1905, nó đột nhiên hoàn toàn thay đổi đường đi, hình thành nên hồ Sorton dài 77 km2, đe dọa đánh chìm lòng sông Inpiril bang California. Để khống chế và cải thiện điều kiện tưới nước, đồng thời dùng nó với mục đích phát điện, nhà chức trách quyết định xây dựng một đập nước lớn ở đoạn sông giáp giới bang Arizona và Nevada. Năm 1928, quốc hội xuất tiền, và công trình được khởi công vào năm 1931. Tổng thống lúc bấy giờ là Herbert Hoover hết sức quan tâm đến dự án này, quyết định lấy tên mình đặt là đập nước Hoover. Năm 1936, công trình xây xong, nhưng tổng thống Roosevelt gọi nó là đập nước Borde. Tên này được dùng mãi đến năm 1947, về sau quốc hội mới khôi phục lại tên cũ.
Để xây dựng đập nước này, người ta phải đào 8,2 triệu tấn nham thạch, với số lượng thép tương đương dùng để xây dựng Empire State Building. Nền đập dày 201 m, cao 221 m, suýt soát với độ cao của tòa nhà 70 tầng. Chỗ dựa sát vào phía Bắc đập nước đã thành hồ Mead, một trong những kho nước nhân tạo lớn nhất thế giới, với hình răng cưa không có quy tắc, dài 177 km, tuyến bờ hồ dài 1.323 km.
Ở phía Bắc hồ Mead là công viên quốc gia sa thạch đỏ rộng 14.165 ha. Sa thạch ở đây đang từ màu đỏ như lửa dần biến thành màu tím nhạt. Mưa gió xâm thực, sa thạch bị đẽo gọt thành dạng lọng tròn, tổ ong và các hình trạng lạ lùng độc đáo, giống như đầu và vòi của con voi lớn.
Khoảng 4.000 người đã tham gia xây dựng đập nước Hoover. Hoover nằm tại thị trấn Borde, một khu làng xinh xắn dễ chịu, với đủ nét đặc sắc của cả thành thị và thôn quê.
Tham khảo
Thể loại:
Trường Chinh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trường Chinh (1907–1988) là một chính khách Việt Nam. Ông đã giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam như Tổng bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam (là nhân vật duy nhất hai lần giữ chức Tổng Bí thư), Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (tương đương với Chủ tịch nước bây giờ) và Chủ tịch Quốc hội Việt Nam. Ông còn là một nhà thơ với bút danh Sóng Hồng.
Thân thế
Ông tên thật là Đặng Xuân Khu, sinh ngày 9 tháng 2 năm 1907, ở thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Cụ nội ông là cụ Đặng Xuân Bảng, đỗ Tiến sĩ tam giáp đệ nhất danh năm 1856. Cha ông là cụ Đặng Xuân Viện, là một nhà nho không thành đạt trong đường khoa bảng, là một thành viên trong nhóm Nam Việt đồng thiên hội, là người biên soạn bộ Minh đô sử (gồm 100 quyển đóng thành sách).[1]
Do truyền thống gia đình, được sự giáo dục của cha, từ nhỏ, ông đã làm quen với Tứ thư, Ngũ kinh, thơ Đường và được đào tạo bài bản về văn hóa và lịch sử theo truyền thống Nho học. Khi lớn lên, ông bắt đầu tiếp xúc Tây học và theo học bậc Thành chung tại Nam Định.
Tham gia hoạt động cách mạng
Chịu ảnh hưởng tinh thần yêu nước của cha, từ năm 1925, khi còn học ở bậc Thành Chung (nay là trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong, Thành phố Nam Định), ông đã tham gia phong trào đấu tranh đòi ân xá cho Phan Bội Châu, lãnh đạo cuộc bãi khóa ở Nam Định để truy điệu Phan Chu Trinh. Năm 1926, ông bị trường đuổi học.
Năm 1927, ông chuyển lên Hà Nội, tiếp tục học ở trường Cao đẳng Thương mại và tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Năm 1929, ông tham gia cuộc vận động thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ và trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của đảng này.
Năm 1930, ông được chỉ định vào Ban tuyên truyền cổ động Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm này, ông bị Pháp bắt và kết án 12 năm tù và đày đi Sơn La, đến năm 1936 được trả tự do.
Giai đoạn 1936–1939, ông là Xứ Ủy viên Bắc Kỳ cùng Hoàng Văn Thụ và Hoàng Quốc Việt, đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương trong Ủy ban Mặt trận Dân chủ Bắc Kỳ. Năm 1940, ông được cử làm chủ bút báo Cờ giải phóng, cơ quan của Xứ ủy Bắc Kỳ, kiêm phụ trách các tờ báo tiếng Pháp như Le Travail, Rassemblement, En Avant và báo Tin tức.
Con trai ông là Đặng Ngọc Bích, Đặng Xuân Kỳ, cháu là Đặng Xuân Thanh (hiện nay là Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai) và Đặng Xuân Quang, chắt là Đặng Xuân Quỳnh Trang và Đặng Xuân Quỳnh Hương. Con gái ông là Đặng Việt Nga, kiến trúc sư và chủ nhân Biệt thự Hằng Nga tại Đà Lạt.[2]
Trở thành nhà lãnh đạo chủ chốt
Tại Hội nghị Trung ương 7 họp tại làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh từ ngày 6 đến ngày 9 tháng 11 năm 1940, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương cùng Hoàng Văn Thụ,Hoàng Quốc Việt và được cử làm Quyền Tổng Bí thư Đảng thay Nguyễn Văn Cừ.
Tháng 5 năm 1941, tại Hội nghị Trung ương 8 họp tại Cao Bằng, ông được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, kiêm Trưởng Ban tuyên huấn Trung ương, kiêm Chủ bút báo “Cờ giải phóng” và “Tạp chí Cộng sản”, Trưởng Ban Công vận Trung ương. Năm 1943, ông bị thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt.
Tháng 3 năm 1945, ông triệu tập và chủ trì Hội nghị Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị nổi tiếng “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta“, xác định thời cơ Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Trong giai đoạn chuẩn bị Cách mạng tháng Tám 1945, tại Hội nghị toàn quốc của Đảng do ông chủ trì, ông được cử phụ trách Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc.
Cuối năm 1945, nhằm mục đích tránh những bất lợi về chính trị và tạo điều kiện thuận lợi hơn trong chỉ đạo phong trào Việt Minh, Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào hoạt động bí mật nên tuyên bố tự giải tán, chuyển thành Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương do ông làm Hội trưởng.
Khi cuộc cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra, để xác định mục tiêu và cổ vũ tinh thần cho những người kháng chiến, ông đã viết loạt bài báo nổi tiếng với tựa đề “Kháng chiến nhất định thắng lợi“, đăng trên báo “Sự thật” từ số 70 (4 tháng 3 năm 1947) đến số 81 (1 tháng 8 năm 1947). Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định: “Bác Hồ là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng đề ra đường lối cụ thể, chỉ đạo cụ thể về lý luận với cuốn Kháng chiến nhất định thắng lợi, là do anh Trường Chinh“.[3].
Năm 1951, tại Đại hội lần thứ 2 của Đảng, [đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam], ông được bầu lại vào Ban chấp hành Trung ương và giữ chức Tổng Bí thư cho đến tháng 10 năm 1956. Ngay sau khi ông tái bầu Tổng Bí thư, báo Cứu quốc của Liên Việt đã đăng bài giới thiệu, đánh giá: “Người ta có thể nói, Hồ Chủ tịch là linh hồn của cách mạng và kháng chiến, thì ông Trường Chinh là bàn tay điều khiển, chỉ huy[4].
Vai trò trong cải cách ruộng đất
Từ năm 1938, ông cùng với Võ Nguyên Giáp viết chung một tiểu luận nhỏ có tựa đề “Vấn đề dân cày“, xác định vấn đề cần phải thực hiện cuộc “Cải cách ruộng đất” để có thể tái phân phối lại quyền sử dụng đất đai. Đây cũng là một trong những mục tiêu mà Việt Minh đặt ra và từ đó có được sự ủng hộ của số đông nông dân, vốn chỉ chiếm giữ một tỷ lệ rất nhỏ đất đai. Đường lối cải cách ruộng đất cũng được đưa ra trong Báo cáo chính trị của ông tại Đại hội II của Đảng năm 1951. Quan điểm của ông về cải cách ruộng đất tại bản Luận cương về cách mạng Việt Nam trình Đại hội II:…Đối tượng của cách mạng dân chủ nhân dân và đặc biệt của chính sách cải cách ruộng đất là địa chủ. Nhưng lúc này, để tập trung lực lượng của toàn dân đánh bại kẻ thù chung là thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ, và do chỗ nhận định trong từng lớp địa chủ nước ta còn khả năng phản đế một phần nào, Đảng chủ trương kéo một phần lớn địa chủ (tiểu và trung địa chủ) về phe kháng chiến hay ít nhất làm cho họ trung lập có thiện cảm đối với kháng chiến, đồng thời đánh đổ bọn đại địa chủ phong kiến phản động. Cho nên hiện thời, Đảng chủ trương thừa nhận cho những địa chủ không phản quốc có quyền công dân, quyền có của, không đụng đến quyền sở hữu ruộng đất của họ, và vẫn thừa nhận quyền hưởng công điền của họ. Ta có hạn chế sự bóc lột của họ bằng cách thực hiện giảm tô, giảm tức. Song, khi thi hành, cần phối hợp việc hành chính ra lệnh, quần chúng đòi hỏi, với việc thuyết phục, giải thích, nhưng chủ yếu là thuyết phục, giải thích cho địa chủ hiểu rằng họ giảm tô, giảm tức là làm một phần nghĩa vụ của họ đối với kháng chiến. Khi họ đã giảm, ta bảo đảm cho họ quyền thu địa tô đúng luật. Chính sách của ta hiện nay là: địa chủ phải giảm tô đúng luật, tá điền phải nộp tô đúng giao kèo. Mặt khác, ta vận động họ hiến ruộng cho Nhà nước, mở một con đường tiến bộ cho những địa chủ sáng suốt muốn tự cải tạo. Đồng thời ta khuyến khích họ bỏ vốn vào việc kinh doanh công thương nghiệp.[5].
Năm 1953, giữa lúc Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu chiếm ưu thế trên chiến trường, ông được cử làm Trưởng ban cải cách ruộng đất Trung ương. Cuộc cải cách ban đầu có những kết quả nhất định khi chỉ thực hiện việc tịch thu tài sản, đất đai của những người bị xem là “phản quốc” (theo Pháp, chống lại đất nước), “phản động” (chống lại chính quyền) và chia cho bần nông, cố nông. Chính việc cải cách này đã góp một phần không nhỏ nâng cao sự ủng hộ của dân chúng để dốc toàn lực cho trận chiến quyết định
Tuy nhiên, sau khi nắm được quyền kiểm soát miền Bắc, dưới áp lực của các cố vấn Trung Quốc,cuối năm 1954, chiến dịch cải cách ruộng đất bắt đầu được đẩy mạnh và nhanh, với cường độ lớn. Từ giữa năm 1955 ở một số nơi đã xuất hiện hiện tượng đấu tố tràn lan, mất kiểm soát. Nhiều người bị quy tội sơ sài là “địa chủ, tư sản bóc lột” và bị xử tử hình hay tù khổ sai. Nhiều trường hợp lạm quyền của các cán bộ đội viên đội công tác ruộng đất trong công tác đất đai, dẫn đến trả thù cá nhân, thậm chí bùng phát bạo lực, dẫn đến nhiều cái chết oan ức.
Tuy không trực tiếp và là người chịu trách nhiệm duy nhất về những sai lầm của cấp dưới, nhưng là người lãnh đạo cao nhất của Cải cách ruộng đất, tất nhiên ông phải gánh phần nặng nhất. Tháng 9 năm 1956, trong Hội nghị Trung ương về vấn đề sửa sai cải cách ruộng đất, ông phải từ chức Tổng Bí thư. Sau đó ông đứng đầu chỉ đạo công tác sửa sai, cho đến năm 1958.
Những năm tiếp theo
Năm 1958, ông được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước. Đến năm 1960, ông lại được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, phụ trách công tác Quốc hội và công tác lý luận của Đảng. Cũng trong năm này, ông được Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bầu làm Chủ tịch Quốc hội và đến năm 1976, giữ chức vụ này trong Quốc hội Việt Nam thống nhất cho đến năm 1981.
Năm 1981, ông được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Nỗ lực cuối đời
Ngày 14 tháng 7 năm 1986, tại Hội nghị đặc biệt Ban Chấp hành Trung ương, ông được bầu làm Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam thay cho Lê Duẩn vừa mất.
Tháng 12 năm 1986, tại Đại hội Đảng lần thứ VI, ông rút khỏi các chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước và được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phó trưởng Ban soạn thảo Cương lĩnh và chiến lược kinh tế và kiêm Trưởng tiểu ban soạn thảo Cương lĩnh chính trị của Đảng.
Ông được Nhà nước Việt Nam tặng Huân chương Sao vàng và nhiều Huân chương khác.[cần dẫn nguồn] Ông qua đời ngày 30 tháng 9 năm 1988 do tai nạn bất ngờ[cần dẫn nguồn], thọ 81 tuổi.
Đánh giá
Bên cạnh công lao tổ chức lực lượng chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám, lâu nay một bộ phận dư luận vẫn xem Trường Chinh là một nhân vật nặng phần bảo thủ, không có sáng tạo gì thật mạnh dạn và mới mẻ. Là người phụ trách lý luận của đảng, quan điểm của ông có tính giáo điều. Chính ông đã phê phán quyết liệt việc khoán hộ sản phẩm của Kim Ngọc[6]. Sau đó, cũng chính ông trong vai trò Tổng bí thư đã đóng vai trò quyết định phát động công cuộc Đổi Mới (sau khi Lê Duẩn qua đời), điều Nguyễn Văn Linh viết Báo cáo chính trị, và sau chủ động từ chức, nhường chỗ cho Nguyễn Văn Linh ở Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI. Với vai trò là người tán thành, lãnh đạo đường lối đổi mới, nhằm đưa đất nước thoát khỏi sự khủng hoảng toàn diện trong vòng 10 năm sau ngày thống nhất, ông được cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt gọi là “Tổng bí thư của đổi mới”[7] và nhiều lãnh đạo đảng ca ngợi.
Trong hồi ký của hầu hết các lão thành cách mạng Việt Nam đều có những trang hết sức trân trọng dành cho cố Tổng Bí thư Trường Chinh, coi Trường Chinh như một người thầy, một người bạn lớn trong sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình.
Nhiều cán bộ cấp cao của Đảng Cộng sản Việt Nam và học giả trong nước đánh giá cao ông, là người có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng. Chính ông là người sớm chủ trì Hội nghị Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” tháng 3 năm 1945 và tác giả tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” tập hợp những bài viết của ông đăng trên báo “Sự thật” từ số 70 (4.3.1947) đến số 81 (1.8.1947). Đại tướng Võ Nguyên Giáp có viết “Bác Hồ là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng đề ra đường lối cụ thể, chỉ đạo cụ thể về lý luận với cuốn Kháng chiến nhất định thắng lợi, là do anh Trường Chinh“.[8].
Đóng góp quan trọng nhất của ông là vào công cuộc Đổi mới đưa ra tại Đại hội VI năm 1986. Tạp chí cộng sản có viết: “Cống hiến đặc biệt của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh là đặt nền móng cho công cuộc đổi mới. Năm 1986, với cương vị Tổng Bí thư, đồng chí đã đề ra chủ trương đổi mới.[9].
Trường Chính từng được cho là người có lý luận bảo thủ, nhưng trong những năm cuối đời quan điểm của ông có nhiều thay đổi. Ông Tám Cao kể: Vào dịp nghỉ hè năm 1983, anh Ba Duẩn đi Liên Xô, còn anh Năm (Chủ tịch HĐNN Trường Chinh), anh Tô (Chủ tịch HĐBT Phạm Văn Đồng) và anh Võ Chí Công – Thường trực Ban Bí thư vô Đà Lạt. Nhân cơ hội này, anh Mười Cúc (Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Linh) đã xin ý kiến ba anh trong Bộ Chính trị, mỗi ngày để ra 1 giờ đồng hồ để gặp gỡ, nghe các đồng chí ở dưới cơ sở báo cáo chi tiết những việc đã làm trong thời gian qua. Các anh ấy đều vui vẻ nhận lời…Trước khi xuất phát từ Thành phố Hồ Chí Minh lên Đà Lạt, Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Linh đã nói với các thành viên được Thành ủy lựa chọn, rằng: “Hiện nay có các đồng chí trong Bộ Chính trị đang ở Đà Lạt. Thành phố chúng ta đã đăng ký xin được báo cáo về những việc đã làm của chúng ta trong thời gian qua, cũng như những khó khăn tồn tại để Bộ Chính trị có thêm cơ sở thực tế mà đề ra đường lối chính sách mới. Thường vụ Thành ủy và tôi cử các đồng chí là những người trực tiếp lãnh đạo cơ sở lên Đà Lạt báo cáo. Sứ mệnh của các đồng chí rất nặng nề”…Sáng ngày 12/7/1983, 5 chiếc xe ô tô xuất phát từ Thành phố Hồ Chí Minh, chạy thẳng hướng Đà Lạt. Sáng hôm sau, bắt đầu cuộc họp mà sau này được coi là “Sự kiện Đà Lạt – Cái mốc của công cuộc đổi mới”. Ba vị lãnh đạo cao cấp của Đảng chăm chú lắng nghe rất kỹ từng báo cáo của các lãnh đạo cơ sở. Việc trình bày, báo cáo của các đơn vị cơ sở diễn ra trong 4 ngày, từ 13 đến 16/7/1983. Chiều hôm đó, các đại diện cơ sở trở về TP HCM. Các đồng chí lãnh đạo TP tiếp tục ở lại báo cáo riêng với các đồng chí trong Bộ Chính trị. Đến chiều 18/3/1983, sau khi báo cáo xong, các đồng chí Võ Thành Công, Nguyễn Văn Nam, Lê Văn Quýnh trở về TP HCM, riêng Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Linh còn ở lại làm việc riêng với 3 đồng chí trong Bộ Chính trị. Sáng 20/7/1983, đồng chí Nguyễn Văn Linh lên đường trở về TP HCM…”.
Ông Tám Cao nhận xét: Nhờ công rất lớn của anh Năm thì những đổi mới từ thực tiễn của Thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương khác mới được đúc kết đưa vào Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng. Anh Năm là một nhà lãnh đạo cực kỳ nguyên tắc, nếu chỉ nghe báo cáo thì anh ấy vẫn chưa tin. Chỉ khi nào đi thị sát trực tiếp tại cơ sở, lắng nghe ý kiến của quần chúng, thì anh ấy mới tin tưởng”. “Quả nhiên như vậy, sau 1 tuần lắng nghe báo cáo của lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh và các cơ sở, Chủ tịch Trường Chinh yêu cầu thành phố tổ chức để Chủ tịch tới thăm hàng loạt các nhà máy, đơn vị xé rào… Trong chuyến đi thăm và khảo sát thực tế này, Chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh Mai Chí Thọ là người tháp tùng Chủ tịch HĐNN Trường Chinh. Kết thúc chuyến đi thực tế này, một bữa, Chủ tịch HĐNN Trường Chinh nói nhỏ với Chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh Mai Chí Thọ rằng: “Hóa ra, ở Hà Nội, tôi toàn được nghe những thông tin sai lệch!”.”. “Sự kiện Đà Lạt” và chuyến đi thực tế của Chủ tịch HĐNN Trường Chinh tại Thành phố Hồ Chí Minh chẳng những như một luồng gió mát xoa dịu nỗi ấm ức, bi quan của những đơn vị, những người xé rào, mà còn tạo tiền đề tối quán trọng cho công cuộc đổi mới của dân tộc và được Nghị quyết hóa trong Đại hội lần thứ VI của Đảng’“.[10].
Theo Giáo sư Trần Nhâm: “Tại hội nghị trung ương VI (từ 3/7 đến 10/7/1984), Cố TBT Trường Chinh bắt đầu bài phát biểu của mình về vấn đề cơ chế quản lý. Ông cho rằng nền kinh tế nước ta hiện nay đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý năng động có khả năng bãi bỏ tập trung quan liêu, bảo thủ, trì trệ và bao cấp tràn lan” và “kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng để từng bước cùng với tập thể Bộ Chính trị và Ban Chấp hành T.Ư khóa V xác lập nên mô hình mới, cơ chế mới, đặt nền tảng lý luận cho đường lối đổi mới toàn diện tại Đại hội Đảng VI“.
Giáo sư Lê Văn Viện kể: “Một buổi sáng cuối tháng 9-1986, tôi nhận được tin lập tức theo đoàn cán bộ xuống nhà nghỉ Vạn Hoa – Đồ Sơn (Hải Phòng) họp khẩn cấp với Tổng bí thư Trường Chinh.
Có mặt ở cuộc họp này là toàn bộ tổ biên tập văn kiện Đại hội VI (do ông Hoàng Tùng làm tổ trưởng và ông Đào Duy Tùng làm tổ phó) và một số chuyên viên trong nhóm tư vấn của tổng bí thư. Chính tại đây, ông Trường Chinh tuyên bố: viết lại văn kiện đại hội!“.
Tình thế chuyển ngay lập tức. Ba người “tư duy mới” được bổ sung tổ biên tập là Hà Nghiệp, Trần Đức Nguyên và Lê Văn Viện. Tổng bí thư đích thân giao trọng trách cho tổ văn kiện tổng hợp ý kiến đóng góp và rút lấy tinh thần chung để soạn thảo lại văn kiện cho đại hội đã rất cận kề.
Ông Đào Xuân Sâm, thành viên nhóm cố vấn cho Trường Chinh nhớ: “giữa năm 1986, cả nước thiếu đói trầm trọng. Các dự án kinh tế đầu tư khổng lồ đều không phát huy tác dụng. Nguyên vật liệu khan hiếm khiến các nhà máy sống thoi thóp. Lạm phát lên 300, 400, 500 và 700%… Lòng người từ trong đến ngoài Đảng, từ cơ sở đến trung ương hoang mang và loay hoay không biết lối ra. Tư tưởng chia hai hướng: xé rào để khắc phục khủng hoảng hoặc kiên định, triệt để áp dụng cơ chế kế hoạch, bao cấp. Tổng bí thư (TBT) Lê Duẩn qua đời. Đại hội Đảng lần VI chỉ còn tính từng ngày. Thế nhưng báo cáo chính trị gửi xuống đơn vị, cơ sở bị phản đối dữ dội vì mọi quan điểm, đường lối vẫn không có gì mới. Tức là hướng thoát khủng hoảng vẫn mịt mờ… Đồng chí Trường Chinh lúc đó được Đảng giao tạm thời giữ chức TBT. Ông đi đến một quyết định táo bạo, quyết đoán chưa từng có: viết lại toàn bộ báo cáo chính trị theo quan điểm: quyết tâm đưa đất nước phát triển theo đường lối mới. Chấp nhận hi sinh, mất mát để khắc phục những hậu quả sai lầm.”
Ông Trần Đức Nguyên nhớ: ”giữa lúc những lý luận CNXH trong phát triển kinh tế là kế hoạch tập trung, tự cung tự cấp, quốc doanh tập thể… đang là kim chỉ nam bất biến thì đồng chí Trường Chinh tổ chức hội nghị “Ba quan điểm”. Ba luận điểm quan trọng đi ngược lại đường lối cũ là: phát triển kinh tế nhiều thành phần (thay vì chỉ có quốc doanh và tập thể); chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư (tập trung làm hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng thay vì hàng công nghiệp; bỏ, hoãn các dự án lớn nhưng không hiệu quả…) và đổi mới quản lý (thay vì tập trung quan liêu bao cấp bằng tự chủ và cơ cấu mở). Hội nghị này trở thành “linh hồn” văn kiện Đại hội VI.
Ông Đặng Việt Bích, con trai cố TBT Trường Chinh, nhớ: “Thời đó cha tôi chịu rất nhiều chỉ trích, chống đối, qui chụp của tư tưởng bảo thủ. Nhưng ông rất quyết đoán. Một buổi tối hai cha con ngồi xem tivi, một cán bộ Chính phủ xuất hiện bày tỏ quan điểm chống lại đổi mới. Ông nói ngay: phải thay vị trí này! Và lập tức ông thuyên chuyển công tác của vị đó, kèm theo hàng loạt nhân vật bảo thủ khác”“.[11]
Theo Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh: “Năm 1986, ở cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Trường Chinh đã sớm nhận rõ được xu thế của thời đại, thực trạng của đất nước, yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân, đồng chí đã có nhiều đóng góp rất quan trọng vào việc đề ra chủ trương đổi mới. Vang mãi trong lòng nhân dân ta lời phát biểu của đồng chí trong quá trình chuẩn bị Đại hội VI: Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng sống còn“.[12]
Trường Chinh cũng là người trình bày báo cáo “Bàn về cách mạng Việt Nam” tại Đại hội II của Đảng năm 1951. Trong báo cáo có đề cập đến vấn đề kháng chiến và cải cách ruộng đất. Nội dung cơ bản của bản báo cáo được phản ánh trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam được Đại hội thông qua. Ông cũng là Trưởng ban chỉ đạo trực tiếp cuộc cải cách ruộng đất những năm 1953-1956 và phải từ chức sau đó. Sau đó ông là người chỉ đạo chiến dịch sửa sai. Vào cuối năm 1968, chính Trường Chinh là người phản đối gay gắt hiện tượng “khoán hộ” ở Vĩnh Phú. Theo Giáo sư Trần Nhâm: “” Một ngày trước khi ông mất (Cố TBT Trường Chinh mất vào ngày 30.9.1988), ông còn nói với tôi về chuyện Vĩnh Phú. Tôi có hỏi “sao lúc bấy giờ Bác lại làm to chuyện như vậy?”. Ông điềm tĩnh trả lời tôi rằng, có lẽ lúc bấy giờ nhận thức của mình không bắt kịp với tình hình thực tế, hơn nữa vấn đề nghe báo cáo, nắm thông tin không chính xác.“[12]
Tại Đại hội VI năm 1986 ông được cử làm cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, là phó trưởng ban soạn thảo cương lĩnh và chiến lược kinh tế kiêm trưởng tiểu ban soạn thảo cương lĩnh của đảng. Mặc dù qua đời năm 1988 nhưng “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” thông qua tại đại hội VII có dấu ấn đóng góp của ông.
Một số tác phẩm
- Vấn đề dân cày (viết chung với Võ Nguyên Giáp) (1938);
- Đề cương văn hóa Việt Nam (1943);
- Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (tháng 3 năm 1945);
- Cách mạng Tháng Tám (1946);
- Kháng chiến nhất định thắng lợi (1947);
- Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam (1948);
- Bàn về cách mạng Việt Nam (1951);
- Thơ Sóng Hồng, tập I (1960), tập II (1974).
Gia đình
Vợ là Nguyễn Thị Minh (sinh năm 1912), người cùng làng Hành Thiện.
Bốn người con:
- Đặng Xuân Kỳ, GS, nguyên ủy viên BCH TƯ, nguyên Viện trưởng Viện Mác – Lênin – tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận TƯ, mất năm 2010
- Đặng Việt Nga, Tiến sĩ – Kiến trúc sư
- Đặng Việt Bích, PGS, TS
- Đặng Việt Bắc, sinh năm 1950
Đường Trường Chinh
Tên của ông được đặt cho các đường phố ở Hà Nội (nối đường Đại La với đường Láng),Thành phố Hồ Chí Minh (nối đường Cách Mạng Tháng Tám với đường Xuyên Á), Nam Định (một trong những con đường lớn nhất TP Nam Định, quê hương ông),Đà Nẵng (nối đường Tôn Đức Thắng với quốc lộ 1A), Hải Phòng (nối đường Lê Duẩn với đường Cầu Niệm), Đồng Hới, Quảng Bình (nối đường F.325 với đường Hữu Nghị), Huế (nối đường Tôn Đức Thắng với đường Hoàng Quốc Việt), Tuy Hòa (nối đường Trần Phú với đường Lý Thường Kiệt), Vinh (nối đường Lệ Ninh và đường Trần Hưng Đạo)…
Chú thích
- ^ Theo “Hành Thiện hợp phả” của cụ Đặng Xuân Viện viết năm 1933 và “Đặng tộc phả chí thông khảo” của Thiếu Nam thì tổ họ Đặng làng Hành Thiện là danh tướng Đặng Tất. Ngày 28 tháng 12 năm 1975, ông Đặng Xuân Khu đã về thắp hương tưởng niệm tiên tổ Đặng Tất, Đặng Dung tại nhà thờ họ Đặng ở Nghệ Tĩnh và chụp ảnh chung với gia đình tộc trưởng Đặng Đình Trác. Ông dặn dò: “Dân ta phải biết sử ta, con cháu phải biết tông chi họ hàng”. Bức ảnh này được lưu giữ tại bảo tàng Nghệ An, Viện bảo tàng dân tôc học, Nhà lưu niệm Trường Chinh ở Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định.
- ^ Nữ nghệ sĩ độc lập và “Ngôi nhà kỳ dị”, Tiền Phong, 21/08/2011
- ^ Ðồng chí Trường Chinh – người cộng sản mẫu mực, nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng nước ta
- ^ Báo Cứu Quốc ngày 23 Tháng Ba 1951
- ^ Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr. 40-175
- ^ http://www1.vtc.com.vn/view/125/58277/phim_viet_nam__bi_thu_tinh_uy_-_tap_48.aspx#/
- ^ Võ Văn Kiệt, Trường Chinh – Tổng Bí thư của đổi mới, VietNamNet, 29/01/2007
- ^ Ðồng chí Trường Chinh – người cộng sản mẫu mực, nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng nước ta, Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 08/02/2007
- ^ Đồng chí Trường Chinh, tấm gương chiến sĩ cộng sản kiên cường, suốt đời phấn đấu vì lý tưởng cao đẹp của dân tộc và thời đại, Hòa Mạc, Tạp chí Cộng sản, ngày 29/9/2008
- ^ Những trùm cây xanh trên xa mạc, Việt Báo, 25 Tháng sáu 2006
- ^ Kỷ niệm 100 năm ngày sinh cố TBT Trường Chinh: “Thuyền trưởng” của đổi mới, Việt báo, ngày 09 Tháng hai 2007
- ^ a ă Kỷ niệm 20 năm ngày mất đồng chí Trường Chinh (30-9-1988 – 30-9-2008), CHÂU THANH, Báo SÀI GÒN GIẢI PHÓNG
Tham khảo
|