Chào ngày mới 5 tháng 11


Di sản thế giới tại Việt Nam 2 Cố đô Huế, ảnh tư liệu nguồn BQLDT Cố đô Huế, (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

DẠY VÀ HỌC 5 THÁNG 11
Hoàng Long và
Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sống Du lịch sinh thái Việt; Hà Nội mãi trong tim; Chùa Một Cột Hà Nội; Vào Tràng An Bái Đính; Thăm Hoa Lư Cúc Phương; Nguyễn Minh Không Bái Đính; Món ngon ở Ninh Bình; Nguyên Ngọc về Tây Nguyên; Nguồn Son nối Phong Nha; #hoangkimlong, #Banmai; #Thungdung, #dayvahoc, #cltvn; #vietnamhoc; Việt Nam tâm thế mới; Việt Nam con đường xanh; Ban mai chợt tỉnh thức; Ngày mới Ngọc cho đời; Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Long cây lương thực; Cây Lương Thực Food Crops; 500 năm nông nghiệp Brazil; Đỗ Phủ thương đọc lại; Chuyện cổ tích người lớn; Kho báu đỉnh Tuyết Sơn; Đến với bài thơ hay; Nguồn Son nối Phong Nha; Mái trường bên dòng Gianh; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Nguyễn Du tâm hồn Việt; Ngày 5 tháng 11 năm 1879 là ngày mất James Clerk Maxwell (sinh ngày 13 tháng 6 năm 1831), James Clerk Maxwell là nhà vật lý học người Scotland.có ảnh hưởng lớn nhất đến vật lý học thế kỷ 20, mở ra lối đi cho vật lý hiện đại, đặt cơ sở cho thuyết tương đối hẹp và cơ học lượng tử, bức xạ điện từ, bắc cầu nối điện học, từ học, và ánh sáng như là biểu hiện của cùng một hiện tượng. Ông đóng góp khoa học chỉ xếp sau Isaac Newton và Albert Einstein  Phương trình Maxwell của trường điện từ đã được gọi là “lần thống nhất vĩ đại thứ hai trong vật lý” sau lần thống nhất bởi Isaac Newton. Ngày 5 tháng 11 năm 1138, Lý Anh Tông tức hoàng thái tử Thiên Tộ lên ngôi hoàng đế triều Lý khi mới ba tuổi. Lý Anh Tông trị vì được 36 năm, là vị vua đời thứ 5 sau Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông. Đỗ Anh Vũ là người nhiếp chính. Ngày 5 tháng 11 năm 2007 Trung Quốc đưa tàu không gian không người lái Hằng Nga 1 lần đầu tiên đi vào quỹ đạo Mặt Trăng. Bài viết chọn lọc ngày 5 tháng 11:Du lịch sinh thái Việt; Hà Nội mãi trong tim; Chùa Một Cột Hà Nội; Vào Tràng An Bái Đính; Thăm Hoa Lư Cúc Phương; Nguyễn Minh Không Bái Đính; Món ngon ở Ninh Bình; Nguyên Ngọc về Tây Nguyên; Nguồn Son nối Phong Nha; #hoangkimlong, #Banmai; #Thungdung, #dayvahoc, #cltvn; #vietnamhoc; Việt Nam tâm thế mới; Việt Nam con đường xanh; Ban mai chợt tỉnh thức; Ngày mới Ngọc cho đời; Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Long cây lương thực; Cây Lương Thực Food Crops; 500 năm nông nghiệp Brazil; Đỗ Phủ thương đọc lại; Chuyện cổ tích người lớn; Kho báu đỉnh Tuyết Sơn; Đến với bài thơ hay; Nguồn Son nối Phong Nha; Mái trường bên dòng Gianh; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Nguyễn Du tâm hồn Việt; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Ta về trời đất Hồng Lam; Những cuốn sách tôi yêu; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Đến với Tây Nguyên mới; Nguyễn Du làm Ngư Tiều; Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng; Nhớ thầy Nguyễn Quốc Toàn; Dạy học nghề làm vườn; Hãy để tôi đọc lại; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và: https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-5-thang-11 và  m/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và: https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-5-thang-11

ĐỀN NGỌC SƠN HỒ GƯƠM
Minh Sơn Hoàng Bá Chuân

Tô điểm Hà Thành một hạt châu
Ấy hồ Lục Thủy tiếng từ lâu
Trăng vờn cổ thụ mây lồng nước
Tháp hướng trời xanh gió lộng cầu
Kiếm bạc hưng bang rùa vẫn ngậm
Bút son kiến quốc hạc đương chầu
Trùng trùng lá biếc hoa phơi gấm
Kìa tượng Vua Lê chót vót cao (*)

1966
(Đã in trong tuyển tập Ngàn năm thương nhớ
NXB Hội Nhà Văn xuất bản năm 2004 nhân kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội)

(*) Video nhạc Việt yêu thích https://youtu.be/04WaTLNxg2A

HÀ NỘI MÃI TRONG TIM
Hoàng Kim

Đền Ngọc Sơn Hồ Gươm
Hoàng Thành ngọc cho đời
Tháp Bút viết trời xanh
Trăng rằm sen Tây Hồ

Việt Nam học tinh hoa
Việt Nam ngời di sản
Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Tứ Trấn Đất Thăng Long

Hà Nội mãi trong tim

VIỆT NAM HỌC TINH HOA
Hoàng Kim


Việt Nam ngời di sản
Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Hà Nội mãi trong tim
Tứ Trấn Đất Thăng Long

Đền Kim Liên Hà Nội Theo truyền hình An Viên https://www.facebook.com/anvientvbchannel/videos/357366486357824/ Chủ tịch UBND TP Hà Nội Chu Ngọc Anh: Đích thân trao Bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt đền Kim Liên ngày 20 tháng 4 năm 2022. “Thăng Long tứ trấn” hay “Tứ trấn Thăng Long” là cụm từ để chỉ 4 di tích tiêu biểu, trấn giữ bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc của kinh thành Thăng Long, là các đền: Bạch Mã, Voi Phục, Kim Liên và Trấn Vũ. Việt Nam Học Tinh Hoa https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-hoc-tinh-hoa tích hợp thông tin này tại chuyên mục Hà Nội mãi trong tim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ha-noi-mai-trong-tim#vietnamhoc; #cnm365 #cltvn #Thungdung

DẤU XƯA THẦY BẠN QUÝ
Hoàng Kim


Thăm thẳm trời sông Thương
Dấu xưa thầy bạn quý
Quê Mẹ vùng di sản
Hà Nội mãi trong tim


Bấm vào bốn đường dẫn để đọc bài đầy đủ và xem ảnh chọn lọc tại https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/dau-xua-thay-ban-quy/

NGUYỄN MINH KHÔNG BÁI ĐÍNH
Hoàng Kim

Cao Sơn thăm chốn cũ
Tràng An bao đổi thay
Minh Không thầy hái thuốc
Lững lờ mây trắng bay.

Trước khi lên Yên Tử
Vua Trần vào ở đây
Động thiêng trong núi thắm
Hạ Long cạn nơi này.

Hoa Lư, Tứ giác nước
Kẽm Trống, Dục Thúy Sơn,
“Quá Thần Phù hải khẩu”
Nhớ Nguyễn Trãi Ức Trai.

Đinh, Lê vùng khởi nghiệp
Lý, Trần, Nguyễn …vươn dài
Kỳ Lân trời bảng lãng
Hoàng Long sông chảy hoài

Sông Hoàng Long chảy hoài

Sông Hoàng Long sông Hoàng Long
Nguồn nước yêu thương chảy giữa lòng
Bái Đính Tràng An nôi người Việt
Cao Sơn thăm thẳm đức Minh Không

Minh Không Lý Quốc Sư

Thiền sư Nguyễn Minh Không (15 tháng 10 năm 1065-1141) là “đức thánh Nguyễn” trong dân gian Việt, thầy thuốc nổi tiếng Kinh Dược Sư và sư tổ của nghề đúc đồng Việt Nam được vua ban quốc tính Minh Không Lý Quốc Sư. Ông tu tại đền Cao Sơn chùa Bái Đính cổ, nay được coi là một trong những điểm hội tụ huyền thoại cao nhất về mặt tâm linh văn hóa lịch sử dân tộc Việt thuộc quần thể danh thắng Tràng An, tỉnh Ninh Bình, một vùng du lịch tổng hợp được UNESCO công nhận là di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Ngày 31 tháng 10 năm 1138 là ngày mất Lý Thần Tông, Hoàng đế thứ năm của nhà Lý, Việt Nam liên quan tới thiền sư Nguyễn Minh Không huyền thoại Bái Đính và Kinh Dược Sư.

Nguyễn Minh Không Lý Quốc sư tên húy là Nguyễn Chí Thành ngày sinh 15 tháng 10 năm 1065 tại Điềm Xá, phủ Tràng An (nay là làng Điềm Xá, xã Gia Thắng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình). Cha của thiền sư Nguyễn Minh Không là ông Nguyễn Sùng, quê ở Điềm Xá, phủ Tràng An. Mẹ là bà Dương Thị Mỹ, quê ở Phả Lại, phủ Từ Sơn (nay làng Phả Lại, xã Đức Long, Quế Võ, Bắc Ninh, nơi giáp với phường Phả Lại, thị xã Chí Linh, Hải Dương). Vợ chồng ông Nguyễn Sùng tuy nghèo nhưng luôn chăm lo làm việc thiện. Hai ông bà sinh hạ được một người con trai khôi ngô, tuấn tú, đặt tên là Nguyễn Chí Thành. Cha mẹ mất sớm, Chí Thành làm ngư dân đánh bắt cá, sinh sống trên sông Hoàng Long.

Theo Thiền Uyển Tập Anh, Nguyễn Minh Không Lý Quốc Sư là thiền sư thuộc thế hệ thứ mười ba của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Đây là thiền phái Phật giáo do thiền sư người Ấn Độ vào Việt Nam khoảng năm 580 trụ trì tại chùa Pháp Vân, ngày nay gọi là chùa Dâu ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Thiền phái phương Nam này được mở rộng và truyền thừa, sau đó mới đến các thiền phái Vô Thông Ngôn và Thảo Đường. Đến thời nhà Lý (1009-1225) thì Phật giáo Việt Nam đã ở giai đoạn cực thịnh, được coi là quốc giáo và có ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều người dân Đại Việt thời ấy tu hành học đạo và Chí Thành là một trong số ấy.

Thiền sư Nguyễn Minh Không là một vị thầy thuốc rất giỏi. Câu chuyện học đạo và truyền đạo của Minh Không Lý Quốc sư có nhiều huyền thoại và truyền thuyết khác nhau. Đối chiếu chính sử, thư tịch cổ, sử liệu, thần phả với dã sử và những thông tin lễ hội văn hóa dân gian của các địa phương miền Bắc đã cho thấy: Thiền sư Minh Không đã chữa được nhiều bệnh cho dân mà đặc biệt là bệnh của vua Lý Thần Tông cuồng loạn “hóa hổ” mà nhiều danh y đương thời đã bó tay, nên được đức vua ban quốc tính họ Lý và phong làm Quốc sư. Sách chính sử Đại Việt sử ký toàn thư – Kỷ nhà Lý, phần viết về vua Lý Thần Tông, viết: “Tân Hợi, Thuận Thiên năm thứ 4 (1131). Dựng nhà cho đại sư Minh Không”. Đến “Bính Thìn, Thiên Chương Bảo Tự năm thứ 4 (1136), tháng 3 (…) Vua (Lý Thần Tông) bệnh nặng, chữa thuốc không khỏi, nhà sư Minh Không chữa khỏi, phong làm Quốc sư và còn sai dựng một tòa Tịnh xá ở bên cạnh chùa Sùng Khánh, để mỗi khi Quốc sư có việc lên Kinh Thành, sẽ lấy đó làm chỗ nghỉ. Sau này, khi Quốc sư viên tịch, tòa Tịnh xá được dùng làm ngôi đền thờ, gọi là đền Lý Quốc sư. Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư Quốc sư viên tịch vào năm Tân Dậu, niên hiệu Đại Định thứ 2 (1141) đời vua Lý Anh Tông: “Mùa thu, tháng 8, quốc sư Minh Không mất”. “Mỗi khi có tai ương hạn lụt, Quốc sư đều ứng hiện giúp dân”. Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục viết: “Bính Thìn, năm thứ 4 (1136), tháng 3, mùa xuân (…)  Nhà vua đã khỏi tật; ban hiệu Quốc sư cho Minh Không, ngoài ra còn ban tô thuế mấy trăm hộ để ngài được hưởng dụng”.

Thiền  sư Nguyễn Minh Không được các làng nghề đúc đồng Việt Nam suy tôn là ông tổ của nghề đúc đồng. Người Việt cổ trước đó đã đúc trống đồng và vua Đinh Tiên Hoàng trị vì năm 968 – 979 đã cho đúc tiền đồng đầu tiên trong lịch sử. Nhưng đến triều Lý, Quốc sư Nguyễn Minh Không đã trực tiếp chỉ đạo và tham gia gây dựng nhiều công trình Phật giáo làm nghề đúc đồng trở nên hoàn thiện và tinh xảo. Lý Quốc Sư là người đúc tượng Phật chùa Quỳnh Lâm; đúc đỉnh đồng trên tháp Báo Thiên, góp phần tạo nên “An Nam Tứ đại khí” là những báu vật nổi tiếng của nước Đại Việt thời Lý – Trần. Ông là người sưu tầm và phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa của văn minh Đông Sơn, văn minh người Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng. Ngày nay ở thôn Tống Xá có đền thờ ông tổ của nghề đúc đồng Việt Nam với sự tích thiền sư Nguyễn Minh Không đầu năm 1118  đến chùa Tống Xá ở Nam Định, đã hướng dẫn dân làng nghề đúc đồng và chọn đất sét tốt ở cánh đồng Hố để làm khuôn đúc, đến thời Lê có bắc thêm cầu nên gọi là cánh đồng Cầu Hố. Những làng nghề đúc đồng lâu đời như làng nghề Yên Xá, Tống Xá ở Ý Yên, lễ hội chợ Viềng (Nam Định),  phố nghề Ngũ Xã, phố Lò Đúc (Hà Nội), Đình làng Chè, làng Rỵ (Thiệu Hoá, Thanh Hóa), các làng nghề đồng Châu Mỹ, Long Thượng, Đông Mai (Hưng Yên) và Đào Viên, Điện Tiền (Bắc Ninh) đều thờ và tôn vinh Nguyễn Minh Không Lý Quốc sư là ông tổ đúc đồng. Một số nơi như làng nghề đúc đồng Đông Sơn, Thanh Hóa và đền thờ sư tổ nghề đồng ở số 5 phố Châu Long, Hoàn Kiếm thì Tổ sư nghề đúc đồng là ông Khổng Minh Không. Các tài liệu lịch sử không có Khổng Minh Không mà do dân gian đã hòa nhập hai ông là tổ sư nghề đồng Việt Nam là  thiền sư Nguyễn Minh Không và thiền sư Không Lộ thành Khổng Minh Không. Điều này tìm thấy cả trong văn bia chùa Keo và chùa La Vân (Thái Bình), cũng như chùa Keo Nam Định.

Quốc sư Nguyễn Minh Không là vị thiền sư sáng lập nên nhiều ngôi chùa nhất ở Việt Nam. Nhiều ngôi chùa lớn còn tồn tại đến ngày nay như: chùa Bái Đính, chùa Cổ Lễ, chùa Non Nước, chùa Địch Lộng, chùa Quỳnh Lâm, chùa Am Tiên, chùa Trông, chùa Kim Liên, chùa Hàm Long,… Huyền sử kể rằng Nguyễn Chí Thành lớn lên sang Tây Trúc học đạo. Ông chính là Không Lộ thiền sư đã kết nghĩa anh em với thiền sư Từ Đạo Hạnh và thiền sư Nguyễn Giác Hải là hai vị chân sư có uy tín đương thời; cũng có dẫn liệu cho rằng Không Lộ thiền sư và Nguyễn Minh Không thiền sư là 2 người khác nhau. Minh Không tu học với thiền sư Từ Đạo Hạnh và hai người có nhân duyên với nhau. Sau này khi Từ Đạo Hạnh hóa, đầu thai là Dương Hoán, được vua Nhân Tông yêu quý lập làm Hoàng Thái tử kế vị ngai vàng tức Lý Thần Tông hoàng đế. Khi vua Lý Thần Tông bệnh nặng tháng 3 năm 1136, lông lá mọc khắp cơ thể, gầm thét như hổ suốt ngày, các danh y tài giỏi đều bó tay thì Minh Không đã chữa cho vua khỏi bệnh. Huyền thoại này có trong Thiền Uyển Tập Anh. Nguyễn Chí Thành sau khi tu hành đắc đạo thành thiền sư Minh Không đã trở về quê nhà đã dựng ngôi chùa nhỏ Viên Quang để tu hành, sau đó đại sư lập nhiều chùa ở vùng châu thổ sông Hồng, làm thầy thuốc chữa bệnh cho dân và làm nghề đúc đồng. Trong suốt cuộc đời, trên cương vị quốc sư thống lĩnh lực lượng phật giáo quốc gia, Nguyễn Minh Không đã dựng tới 500 ngôi chùa trên đất Đại Việt

Nguyễn Minh Không Lý Quốc sư là thiền sư “đức thánh Nguyễn” tứ bất tử trong dân gian Việt.  Minh Không Lý Quốc sư qua đời năm 1141, niên hiệu Thái Bình thứ 22, thọ 76 tuổi. Hiện nay ở vùng châu thổ sông Hồng rất nhiều nơi có đền thờ ông như ở Ninh Bình, Bắc Ninh, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Thái Bình, Quảng Ninh, Hưng Yên, Bắc Giang… Tại núi Dương Sơn, có chùa Lạc Khoái xã Gia Lạc (Gia Viễn, Ninh Bình) còn câu đối: Điềm Xá chung linh sinh Nguyễn thánh / Hoa Lư dục tú xuất Đinh Hoàng. Trong tín ngưỡng Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng có 4 vị thần trong nhóm tứ bất tử đó là Tản Viên Sơn thần, Phù Đổng Thiên vương, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh Công chúa. Tuy nhiên, thực tế các vị thánh trong tứ bất tử từng được ghi chép còn có Lý Quốc Sư.[12] Sách Tiên phả dịch lục của Kiều Oánh Mậu người làng Đường Lâm là nhà học giả cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, trong lời Án có viết: “Tên các vị Tứ bất tử của nước ta, người đời Minh cho là: Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đúng là như vậy. Vì bấy giờ Tiên chúa (Liễu Hạnh) chưa giáng sinh nên người đời chưa thể lưu truyền, sách vở chưa thể ghi chép. Nay chép tiếp vào.” Theo bài Thiền sư Nguyễn Minh Không và một số lễ hội Phật giáo tiêu biểu ở miền Bắc đăng tại Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 4 năm 2014 thì “đức thánh Nguyễn”  hiện được thờ ở nhiều đền chùa trên khắp cả  nước, tập trung nhiều tại các địa phương miền Bắc, tiêu biểu như chùa Viên Quang (Ninh Bình), chùa Keo (Thái Bình), chùa Cổ Lễ (Nam Định), chùa Ngũ Xã (Hà Nội), chùa Trông (Hải Dương), chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh). Tại những chùa này, hàng năm đều có mở hội tưởng nhớ và tôn vinh công đức của Nguyễn Minh Không Lý Quốc Sư.

Huyền thoại chùa Bái Đính

Đức Thánh Nguyễn Minh Không Lý Quốc sư được thờ rất nhiều nơi trong vùng tam giác châu huyền thoại Bắc Bộ. Đền thờ Đức Thánh Nguyễn tiêu biểu nhất là tại khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính là nơi thiền sư Minh Không đã tu tập nhiều năm trước khi đến đây tìm cây thuốc và phương thuốc bí truyền chữa lành bệnh cho vua Lý Thần Tông . Núi Cao Sơn phía sau chùa Bái Đính thiên nhiên cẩm tú, sông núi hữu tình, không khác gì câu chuyện cổ Từ Thức gặp Tiên là nơi lưu dấu nhiều huyền thoại về Người. Tôi đã đến đây, đúng là nơi tiên cảnh Bồng Lai nơi cõi thực.

Trong không gian văn hóa Hoa Lư tứ trấn có bốn đền thờ Thần Thiên Tôn, Thần Cao Sơn, Thần Quý Minh, Thần Khổng Lồ trấn giữ bốn hướng đông tây nam bắc của cố đô Hoa Lư, giúp đỡ, che chở người dân của vùng đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần. Lý Quốc sư được xem như vị Thần Khổng Lồ trấn trạch phía Bắc trong Hoa Lư tứ trấn.

Nơi thờ tiêu biểu nhất là đền thờ đức Thánh Nguyễn trên mảnh đất sinh ra ông thuộc địa phận hai xã Gia Thắng – Gia Tiến, Gia Viễn. Xưa đây là chùa Viên Quang, sau khi ông mất nhân dân biến Viên Quang Tự thành đền thờ trấn Bắc Hoa Lư tứ trấn..

Tại ngôi đền cổ khu trung tâm di tích động Hoa Lư thì tượng ông được phối thờ cùng với tượng vua Đinh Tiên Hoàng. Lý Quốc Sư cũng được thờ ở đình Ngô Đồng, xã Gia Phú, Gia Viễn; đền thờ Tô Hiến Thành và chùa Lạc Khoái ở bên sông Hoàng Long gắn với giai thoại tuổi thơ ông hay cụm di tích miếu Bồ Vi – đình Vật ở xóm 10, thôn Bồ Vi, thị trấn Yên Thịnh, Yên Mô. Ông cũng được thờ ở chùa Nhất Trụ và động Am Tiên ở cố đô Hoa Lư. Tại đền Thượng xã Khánh Phú và đền Tam Thánh ở xã Khánh An, Yên Khánh ông được suy tôn là đức thánh cả.

Tam giác châu Bắc Bộ

Tam giác châu Bắc Hà với ba đỉnh Việt Trì, Ninh Bình, Quảng Ninh, có sông Hoàng Long và cửa Thần Phù chảy giữa lòng là nôi của người Việt cổ . Vùng đất địa linh nhân kiệt này đặc biệt quan trọng cho sự trường tồn dân tộc Việt “đấu tranh giành quyền sống với vạn vật”. Hoàng Kim trong  thơ “Dạo chơi non nước Việt“ đã trích dẫn tổng kết Lịch sử Việt Nam của giáo sư sử học Đào Duy Anh: “Dân tộc Việt trên bốn ngàn năm dựng nước và mở nước được chia làm hai giai đoạn, đó là đấu tranh giành quyền sống với vạn vật ở vùng tam giác châu Bắc Bộ và sự nghiệp gian nan tiến thủ của tổ tiên để mở rộng hy vọng tương lai dân tộc bằng công cuộc Nam Tiến.

Tam giác châu Bắc Bộ có đỉnh là Tản Viên của dãy núi Ba Vì ở Việt Trì thuộc tỉnh Phú Thọ, nằm ở tả ngạn sông Hồng, bên kia là huyện Ba Vì, Hà Nội. Việt Trì là thành phố địa chính trị văn hóa lịch sử Việt Nam, nơi có kinh đô Văn Lang, kinh đô đầu tiên của người Việt, quê hương đất tổ vua Hùng, cửa ngõ vùng Tây Bắc, đầu mối giao thông nối giữa các tỉnh trung du và miền núi phía bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, nằm trên hành lang kinh tế Hải Phòng – Hà Nội – Côn Minh (Trung Quốc). Việt Trì cũng là thành phố ngã ba sông nơi hợp lưu của sông Thao, sông Lô, sông Đà thành sông Hồng. Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đá Chông (K9) – Ba Vì – Hà Nội thuộc cụm di tích lịch sử văn hóa Ba Đình là di sản văn hóa đặc biệt của Việt Nam

Đỉnh thứ hai của tam giác châu huyền thoại Bắc Bộ ở núi Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh nơi có Quần thể di tích danh thắng Yên Tử ở Bắc Giang và Quảng Ninh. Đây là quần thể danh thắng đặc biệt nổi tiếng liên tỉnh đầu tiên ở Việt Nam được đệ trình Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO xem xét, công nhận là Di sản thế giới. Nối Việt Trì – Quảng Ninh là dải Tam Đảo rồi 99 ngọn Nham Biền của các dãy núi vòng cung Đông Triều tạo nên thế hiểm “trường thành chắn Bắc” của bề dày núi non hiểm trở khoảng 400 km núi đá che chắn mặt Bắc của thủ đô Hà Nội non sông Việt.

Đỉnh thứ ba của tam giác châu huyền thoại Bắc Bộ ở núi Mây Bạc của Dãy núi Tam Điệp thuộc khu vực Tam Điệp–Tràng An của ba tỉnh  Hòa Bình, Ninh Bình và Thanh Hóa. Dãy núi Tam Điệp là dải núi cuối cùng của dãy núi Ba Vì từ đỉnh tam giác châu Tản Viên, Việt Trì rồi 99 ngọn chạy dọc sông Đáy mà tới vùng Thần Phù – Nga Sơn đâm ra gần sát biển theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Đây cũng là vùng quần thể di sản thế giới Tràng An nơi có chùa Bái Đính là quần thể chùa có nhiều kỷ lục châu Á và Việt Nam được xác lập như chùa có tượng Phật bằng đồng dát vàng lớn nhất châu Á, chùa có hành lang La Hán dài nhất châu Á, chùa có tượng Di lặc bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á… Dãy núi Tam Điệp và khu vực Tam Điệp–Tràng An đã là một cái nôi của loài người Việt cổ thuộc nền văn hóa Tràng An thời kỳ đồ đá cũ và một số hang động ở Tam Điệp có di chỉ cư trú của con người thời văn hoá Hoà Bình. Vùng đất này cũng là chốn tổ của nghề lúa châu Á và Thế Giới. Dãy núi Tam Điệp cắt ngang vùng đồng bằng duyên hải thành 2 phần châu thổ sông Hồng và sông Mã nên nó được xem là ranh giới giữa miền Bắc và miền Trung. Dãy núi Tam Điệp là bức tường thành thiên nhiên lợi hại ngăn cách hai vùng Ninh Bình – Thanh Hoá và án ngữ các đường thuỷ bộ từ Bắc vào Nam, đường bộ qua đèo Tam Điệp, đường thuỷ qua cửa Thần Phù. Dãy núi Tam Điệp chứa đựng nhiều giá trị địa chính trị, lịch sử, văn hóa với vai trò là cái nôi của người tiền sử, với những căn cứ quân sự và danh thắng rất nổi tiếng như cửa Thần Phù, phòng tuyến Tam Điệp, động Người Xưa, hang Con Moong, rừng Cúc Phương, hồ Yên Quang, hồ Đồng Chương,  hồ Yên Thắng, núi Cao Sơn, …

Dãy núi Tam Điệp nối liền với Dãy núi Trường Sơn (trong tiếng Lào là Phu Luông) là dãy núi dài nhất Việt Nam và Lào, dài khoảng 1.100 km. Dãy núi Trường Sơn tiếp nối với dãy núi Ba Vì và Dãy núi Tam Điệp , bắt đầu từ thượng nguồn sông Cả trên đất Lào giáp Nghệ An tới tận cực nam Trung Bộ. Nó bao gồm toàn bộ các dãy núi nhỏ hơn ở Bắc Trung Bộ và các khối núi, cao nguyên Nam Trung Bộ, xếp thành hình cánh cung lớn mà mặt lồi quay ra Biển Đông. Trường Sơn được chia thành Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam, ngăn cách bởi đèo Hải Vân và núi Bạch Mã. Dãy núi Trường Sơn là xương sống để nối liến hình thế Bắc Nam liền một giải.

Hà Nội có vị trí trọng yếu đặc biệt trong tam giác châu huyền thoại Bắc bộ, cùng với Hưng Yên, Cổ Loa … là những địa danh đặc biệt trong nghiên cứu lịch sử văn hóa dân tộc mà chúng ta sẽ trở lại trong những chuyên mục trao đổi sâu hơn. Giáo sư Trần Quốc Vượng trong lời tựa cuốn sách “Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình” do tác giả Trương Đình Tuyển chủ biên (Nhà Xuất bản Thế Giới, Hà Nội, 678 trang xuất bản năm 2004 ) đã giúp chúng ta thông tin để hiểu sâu hơn những lời trao lại của tiền nhân về địa thế hiểm yếu của non sông Việt trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi:

Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác

Hình thế núi sông hòa quyện với con người đã tạo nên văn hóa và bản sắc dân tộc Việt. Minh Không Lý Quốc sư, huyền thoại chùa Bái Đính, Tam giác châu huyền thoại, là những thông tin quý địa linh nhân kiệt của dân tộc Việt xin lưu lại để nhớ và hiến tặng bạn đọc.

Hình ảnh tư liệu và tài liệu tham khảo chính

“Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”.
(ca dao cổ)

(1) Từ điển Bách Khoa Mở Wikipedia Tiếng Việt mục Lý Quốc sư đã cập nhật tới ngày 17 tháng 10 năm 2015 với một bản đúc kết tổng hợp và 43 tài liệu tham khảo.

(2) Thiền Uyển Tập Anh  nguyên bản chữ Hán khắc in năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715) là một cuốn sách cổ của Phật giáo Việt Nam ghi lại các tông phái thiền học và sự tích các vị thiền sư nổi tiếng vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh Lê Lý một số vị lớp sau còn sống đến đầu triều Trần, do Ngô Đức Thọ – Nguyễn Thúy Nga dịch và chú thích, Phân Viện Nghiên cứu Phật học, Nhà Xuất bản Văn học 1990.

(3) Tỳ Ni Đa Lưu Chi : phiên âm tiếng phạn Vinitaruci, đây là dòng thiền phương Nam do thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi người Ấn Độ đến Việt Nam năm 580 thời Hậu Chu, trù trì ở chùa Pháp Vân, ngày nay gọi là chùa Dâu ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh đã được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử tại Quyết định số 313- VH/ QĐ ngày 28- 4- 1962.

(4) Tóm tắt thông tin một số lễ hội đức thánh Nguyễn. Theo Thiền sư Nguyễn Minh Không và một số lễ hội Phật giáo tiêu biểu ở miền Bắc, Ths.Trần Mạnh Quang – Viện Nghiên cứu Tôn giáo Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 4 năm 2014.

(5) Lễ hội chùa Viên Quang: Ngôi chùa nhỏ này được Thiền sư Nguyễn Minh Không dựng tại quê hương Đàm Xá sau khi đắc đạo, ngài đã tu trì Phật pháp tại đây cho đến lúc viên tịch, nay thuộc địa phận hai xã Gia Thắng, Gia Tiến, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Nhân dân về sau đã biến chùa Viên Quang thành nơi thờ tự Ngài (gọi là đền Thánh Nguyễn), được xưng tụng là một trong “Hoa Lư tứ trấn”. Lễ hội tưởng nhớ “đức Thánh Nguyễn” hội chùa Viên Quang lại được diễn ra ngày mồng 6 và 7/3 Âm lịch. Phần lễ gồm nghi thức dâng hương chư Phật, tế rước Đức Thánh Nguyễn. Phần hội nhộn nhịp với nhiều trò chơi dân gian đặc sắc. Có một chi tiết đậm màu huyền hoặc trong lễ hội là người dự hội sẽ được chiêm ngưỡng cây đèn đá cao hơn một mét, tương truyền khi Thiền sư Nguyễn Minh Không ngồi thiền tịnh, cây đèn đá này tự nhiên mọc lên, ánh đèn sáng tỏ tới tận trời cao, chim thú theo đó mà kéo về chầu tụ xung quanh.

(6) Lễ hội chùa Keo là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam với lịch sử gần 400 năm với tên chữ là Thần Quang tự, ở xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.  Theo Thánh tổ thực lục diễn ca lưu giữ ở chùa thì ban đầu chùa có tên gọi là Nghiêm Quang Tự, sư tổ của chùa chính là Lý Quốc Sư. Lễ hội chùa Keo diễn ra từ ngày 13 đến ngày 15/9 Âm lịch với nhiều nghi lễ tôn giáo và tập tục cổ truyền. Phần lễ của hội chùa Keo bắt đầu từ sáng ngày 13/9 với nghi thức dâng hương tế bái tại ban thờ sư tổ cùng chư Phật. Tiếp sau là nghi thức rước kiệu quy mô lớn, phỏng lại các sự tích giúp Vua giúp nước của sư tổ xưa. Đi đầu đám rước là đôi ngựa hồng, ngựa bạch với đầy đủ yên cương, chân ngựa có 4 bánh, do các trai làng khỏe mạnh kéo. Theo sau là 8 lá cờ thần, có đội bát bửu, lỗ bộ cùng 42 người vác đồ tế khí hộ tống. Kiệu Thánh là cỗ kiệu bát cống uy nghi, hai bên là những người cầm quạt che kín. Đám rước với hàng nghìn người tham dự, mô phỏng sự tích nhà Vua mời Ngài vào cung chữa bệnh. Chiều ngày 14, tại tòa Giá Roi thực hiện nghi lễ Chầu Thánh. Ngày 15, đám rước hoàn cung. Phần hội chùa Keo đáng chú ý với nhiều trò chơi dân gian cùng các hoạt động biểu diễn nghệ thuật độc đáo. Chiều ngày 13 diễn ra các cuộc thi bơi chải sôi động, gợi nhớ lại tích ngài làm phép đưa thuyền về kinh sư trong một đêm. Tối ngày 13 còn có thêm các cuộc thi kèn, trống. Chiều ngày 14, hội lại rộn ràng với các điệu múa chèo cạn, múa “ếch vồ” mang đậm chất phóng khoáng của vùng dân cư ven sông nước. Song song với những hoạt động hội ngoài trời, bên trong chùa cũng nhộn nhịp với các cuộc thi diễn xướng về đề tài: hương, đăng, hoa, trà, quả, thực. Qua 3 ngày 3 đêm, lễ hội chùa Keo đã thể hiện được tấm lòng thành kính của người dân nơi đây đối với Thiền sư Nguyễn Minh Không – vị Thiền sư có nhiều công lao giúp dân giúp nước thời nhà Lý. Đồng thời qua đó cũng phản ánh thêm nét sinh hoạt tín ngưỡng cộng đồng của nền văn hóa nông nghiệp đồng bằng Bắc bộ.

(7) Lễ hội chùa Cổ Lễ “Dù ai buôn bán trăm nghề. Mười tư tháng Chín thì về hội Ông”. Hội chùa Cổ Lễ được diễn ra từ ngày 13 đến 16/9 Âm lịch tại chùa Cổ Lễ, thuộc thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Tương truyền sau khi đắc đạo, Thiền sư Nguyễn Minh Không đã về đây dựng chùa. Ngoài tu giảng Phật pháp, ngài còn bốc thuốc chữa bệnh giúp dân, đúc nên “Tứ đại khí” lừng danh, được người dân ca tụng, tôn xưng ông Tổ nghề đúc đồng. Hội chùa Cổ Lễ được đánh giá là một trong những lễ hội truyền thống còn bảo lưu được nhiều giá trị văn hóa cổ truyền. Phần lễ có các nghi thức dâng hương cúng Phật, tế rước Thánh sư Minh Không. Lễ rước chính được tổ chức vào 14/9 Âm lịch – tương truyền là ngày Thánh Đản sinh. Đám rước kiệu Thánh từ chùa vòng đi quanh làng. Dẫn đầu là đội múa lân sư mở đường, đi sau là đội tế nam quan, nữ quan, nghi trượng, bát bửu, biểu lệnh. Đặc biệt, một bảo vật rất có giá trị ở chùa Cổ Lễ, khẳng định niềm tự hào về vị Thánh sư đúc đồng của tín đồ, phật tử và người dân nơi đây là quả chuông cao hơn 4m, nặng 9 tấn, được đúc với nhiều họa tiết tinh xảo. Phần hội ngoài các trò chơi dân gian như đấu vật, cờ người, tổ tôm, múa rối nước thì đặc sắc nhất là hội thi bơi chải. Đây là hoạt động diễn ra trong suốt thời gian tổ chức lễ hội, kỷ niệm sự tích Thiền sư Nguyễn Minh Không xuôi theo đường thủy lên kinh chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông. Theo quan niệm dân gian tại hội chùa Cổ Lễ thì “Hễ mà bơi chải râm ran; Thánh cho đôi chữ bình an đời đời” nên các cuộc thi tài vô cùng sôi động và quyết liệt. Chải được nhà chùa phối hợp cùng ban tổ chức mời các nghệ nhân lành nghề đóng. Các họ tham gia tuyển chọn trai tráng tập luyện, chuẩn bị đầy đủ trang phục, dụng cụ thi đấu. Chiều 12/9 Âm lịch các họ tổ chức rước kiệu lên chùa hầu Thánh, trên cạn là kiệu rước, đội bát âm, dưới nước có các đội bơi chải, gọi là nghi thức “bơi chầu Thánh”. Sáng 13/9 Âm lịch, sau khi nhà sư trụ trì chùa Cổ Lễ làm lễ tẩy uế các chải, hội bơi chải chính thức được bắt đầu. Trên mỗi chải có khoảng 16 người, gồm 12 tay bơi, 1 người lái 1 tay mõ, 1 tay cờ và 1 tay tát nước. Các chải phân biệt qua màu sắc xanh, đỏ, tím, vàng. Trong 4 ngày hội (13 – 16), mỗi ngày các chải thi đấu 4 vòng quanh sông, thành tích được tính theo điểm số quy định. Chải thắng cuộc là chải có sự phối hợp nhịp nhàng, khéo léo nhất giữa các thành viên. năm nào chải của họ nào thắng thì cả họ năm đó tin rằng sẽ được Thánh phù hộ cho may mắn.

(8) Lễ hội chùa Ngũ Xã: Chùa Ngũ Xã hay còn gọi là chùa Thần Quang thuộc địa phận làng Ngũ Xã, vốn nổi tiếng với nghề đúc đồng đất Thăng Long xưa, nay là phố Ngũ Xã, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, Hà Nội. Theo bia Thần Quang tự bi ký tại đây thì chùa có niên đại từ thế kỷ XVIII, thờ Phật cùng Thiền sư Nguyễn Minh Không – được dân làng Ngũ Xã xưng tụng là Đức Thánh Tổ Thành Hoàng, Tổ sư nghề đúc đồng. Tên gọi Thần Quang tự của chùa được đặt theo tên chữ chùa Keo (Thần Quang Tự) ngôi chùa gốc thờ Thiền sư Nguyễn Minh Không ở Thái Bình. Hàng năm, cứ đến ngày mồng 1/11 Âm lịch, chùa Ngũ Xã lại cùng với dân làng mở hội tưởng nhớ vị tổ nghề đúc đồng – Thiền sư Nguyễn Minh Không. Hội Ngũ Xã gắn với truyền thuyết trâu vàng hồ Tây, truyện xưa kể rằng khi Thiền sư Nguyễn Minh Không ra Thăng Long có đúc một quả chuông đồng. Chuông đúc xong đánh lên tiếng vang rất xa. Trâu vàng trong kho của nhà Tống bên Trung Quốc nghe thấy tưởng tiếng trâu mẹ gọi bèn vùng lên chạy sang. Sợ hai nước vì thế mà hiểu lầm, sinh ra chiến tranh nên Thiền sư Nguyễn Minh Không cho đẩy chuông xuống hồ, trâu vàng theo đó cũng nhảy xuống rồi lặn mất. Chùa Ngũ Xã hiện nay còn lưu giữ một pho tượng Phật A Di Đà bằng đồng tọa trên đài sen cao gần 4m, nặng hơn 10 tấn, là kiệt tác đúc đồng của nghệ nhân Ngũ Xã, từng được sách Kỷ lục Việt Nam năm 2010 ghi nhận là pho tượng Phật A Di Đà bằng đồng lâu đời nhất Việt nam hiện còn với nhiều giá trị lịch sử và thẩm mỹ quý báu. Hội chùa Ngũ Xã diễn ra trang trọng với nghi thức dâng hương thỉnh Phật, thỉnh Tổ. Dân làng Ngũ Xã coi đây là lễ giỗ Tổ chung của làng, các họ đều bày soạn cỗ tế với xôi gà, hoa quả thịnh soạn. Phần hội tiếp theo với màn hát văn, quan họ cùng nhiều trò chơi dân gian sôi nổi như đấu cờ, chọi gà. Ngoài ra, du khách tới hội còn được chiêm ngưỡng triển lãm các sản phẩm đúc đồng truyền thống Ngũ Xã như đỉnh đồng, lư hương, hạc, tượng tinh xảo.

(9) Lễ hội chùa Trông: Ấn ban phong tặng Quốc sư Linh cấp thiêm gia Thánh tổ (Ấn ban phong tặng Quốc sư Linh thiêng ban thêm Thánh tổ) Đó là đôi câu đối tại chùa Trông ca ngợi công tích Thiền sư Nguyễn Minh Không. Chùa Trông tên chữ là Hưng Long tự, thuộc địa phận xã Hưng Long, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Tương truyền chùa được Thiền sư Nguyễn Minh Không dựng nên vào khoảng thế kỷ XII, đời vua Lý Thần Tông. Sự tích chùa kể rằng, hai làng Hán Lý, Hào Khê (xã Hưng Long) xưa vốn là một làng, cũng chính là quê mẹ của ngài. Sau khi ngài chữa khỏi bệnh cho nhà Vua đã không màng danh lợi, mà dời gót thiền về đây dựng chùa, rồi hóa trên ngọn núi Tam Viên. Để ghi nhớ công ơn, hàng năm từ 15 đến 26/3 Âm lịch, nhà chùa cùng với nhân dân Hán Lý, Hào Khê lại mở hội tôn vinh Ngài. Hội chùa Trông diễn ra trang trọng với nhiều nghi lễ tế rước trang nghiêm. Trong đó, quan trọng nhất là các lễ: rước nước (15/3), “xuất đông nhập tây” (20/3) và lễ tế Thánh về trời (26/3). Lễ rước nước bắt đầu vào ngày 15/3. Đây là nghi lễ xin nước để cầu mong Thánh tổ Nguyễn Minh Không che chở. Ngay từ sáng sớm, người dân trong xã đã tập trung về chùa, đợi có hiệu lệnh của chủ tế sẽ xuất hành ra đê sông Luộc. Tại đây, Ban tổ chức bố trí sẵn 2 thuyền rước, vật phẩm mang theo có chóe sứ, thau đồng, gáo đồng, bát bửu, trống cái, trống con… mỗi thuyền chở khoảng 20 người, bơi ra đến giữa dòng sông lấy nước gọi là nước “Thanh thủy”, thời gian lấy nước thường vào đúng 12 giờ trưa. Nước sau đó được đưa trở lại chùa, dùng để dâng lên tế lễ, tắm tượng, thay áo mới cho Thánh. Áo cũ thay ra được chia thành nhiều mảnh, với quan niệm là “lộc Thánh” ban cho các giáp. Qua mấy ngày hội hè rộn rã, đến 20/3, hội tổ chức lễ “xuất đông, nhập tây”. Đây là nghi lễ tưởng nhớ ân đức Thánh tổ Nguyễn Minh Không cùng thân mẫu, thân phụ Ngài. Đoàn rước gồm 3 kiệu là kiệu Thánh tổ, kiệu thân phụ và kiệu thân mẫu Thánh. Các kiệu đi theo cung đường “nghinh thần”: từ cổng phải chùa (phía đông) ở Hán Lý vòng qua Hào Khê đến cổng Tam Viên (nơi ngài hóa, còn gọi là Mả Thầy) rồi trở về chùa theo cổng trái (phía tây). Tiếp sau đó sẽ tiến hành nghi thức tế Thánh. Theo lệ, tế phẩm phải gồm lục lễ là hương, đăng, hoa, quả, trà, oản. Thời gian tế khoảng 2 đến 3 tiếng, đến cuối buổi tế mới đọc chúc văn. Kết thúc lễ hội chùa Trông là nghi lễ tế Thánh về trời vào sáng ngày 26/3. Toàn thể tín đồ, phật tử, người dân tham dự thành kính dâng hương trước tượng đức Thánh. Lễ tế được kết thúc trước giờ Ngọ (12 giờ trưa) vì tương truyền rằng đó là giờ thiêng để Thánh về cõi Phật. Ngoài phần lễ chính, lễ hội chùa Trông còn có phần hội với nhiều hoạt động sôi nổi như hát chèo, múa hoa đăng, chọi gà, vật võ cổ truyền cùng nhiều trò chơi dân gian phong phú, đặc sắc khác.

(10) Lễ hội chùa Quỳnh Lâm: Thuộc địa phận xã Tràng an, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, chùa Quỳnh Lâm nổi tiếng là ngôi chùa cổ, từng được xem là một trong những trung tâm Phật giáo Đại Việt xưa. Tương truyền chùa được khởi dựng cuối thế kỷ V đầu thế kỷ VI thời Tiền Lý. Sang thế kỷ XI-XII, Thiền sư Nguyễn Minh Không từng có thời gian tu tập ở chùa. Ngài đã đúc cho chùa pho tượng Phật Di Lặc bằng đồng nguyên khối, cao hơn 6 trượng – dân gian quen gọi là tượng Phật Quỳnh Lâm, được xưng tụng là một trong “Tứ đại khí” của nước Nam. Ngoài ra tại chùa, ngài còn tạc thêm một tấm bia đá có chiều cao gần 2,5m, bề ngang khoảng 1,5m. Sang thế kỷ XIV, với sự vận động tích cực của trụ trì chùa lúc đó là Trúc Lâm nhị Tổ Pháp Loa, chùa Quỳnh Lâm đã trở thành “Đệ nhất danh lam”, cơ sở tu tập, truyền kinh, giảng đạo hàng đầu cả nước. Dẫu qua bao thăng trầm của lịch sử, cứ mồng 1 đến mồng 4/2 Âm lịch hàng năm, chùa Quỳnh Lâm lại mở hội tưởng nhớ đến công ơn hộ quốc tý dân, hoằng dương Phật pháp của các vị sư tổ, trong đó, Thiền sư Nguyễn Minh Không là vị Sư tổ với nhiều huyền tích xoay quanh. Tượng Phật Quỳnh Lâm ngài đúc hiện chỉ còn trong ghi chép của sử sách, bia đá cao lớn với hoa văn uốn lượn ghi dấu tạc của ngài cũng mai một qua thời gian. Nhưng trong tâm thức dân gian, tới lễ hội chùa Quỳnh Lâm, tín đồ, phật tử và khách hành hương luôn hướng tới ngài với tấm lòng thành kính nhất. Khai lễ chùa là màn tế rước,  dâng hương chư Phật cùng các vị sư tổ. Ngoài tín đồ, phật tử và du khách, các làng của xã Tràng An theo truyền thống cũng tới chùa tế bái. Ai nấy đều trang nghiêm, cầu mong cho tâm hồn luôn được an lạc, thanh thản. Tiếp sau phần lễ là phần hội chùa với những nét văn hóa đặc sắc. Các chương trình nghệ thuật chọn lọc, nhiều trò chơi dân gian độc đáo, kèm theo là những hoạt động thể thao sôi nổi, đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí của mọi người. Lễ hội chùa Quỳnh Lâm có thể nói là sự hài hòa giữa truyền thống tôn giáo mà cụ thể ở đây là Phật giáo với truyền thống văn hóa dân tộc, được biểu hiện rõ nét qua hành tích, công nghiệp của vị sư tổ – Thiền sư Nguyễn Minh Không. Ngoài những lễ hội Phật giáo tiêu biểu ở miền Bắc có liên quan tới Thiền sư Nguyễn Minh Không đã nêu trên, còn một số lễ hội Phật giáo khác có liên quan tới Ngài, trong khuôn khổ quy định của bài viết chúng tôi chưa có điều kiện đề cập được hết. Hy vọng có dịp trở lại, chúng tôi sẽ trình bày vấn đề được đầy đủ và chi tiết hơn.” (lược trích từ Thiền sư Nguyễn Minh Không và một số lễ hội Phật giáo tiêu biểu ở miền Bắc, Ths.Trần Mạnh Quang – Viện Nghiên cứu Tôn giáo Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 4 năm 2014).

MÓN NGON Ở NINH BÌNH
Hoàng Kim

Dù xa rồi vẫn nhớ
Món ngon ở Ninh Bình
Chén rượu mừng gặp mặt
#Thungdung vui bạn hiền

Vào Tràng An Bái Đính
Thăm Hoa Lư Cúc Phương
Kỳ Lân trời bảng lãng
Hoàng Long sông chảy hoài

Minh Đỉnh Danh Lam
Lê Thánh Tông

Đính Sơn danh tiếng thực cao xa
Che chở kinh thành tự thuở xưa
Nhân kiệt, địa linh nên vượng khí
Núi thiêng cảnh đẹp vững sơn hà.”

Vào Tràng An Bái Đính
Nhiều năm trước đến thăm
Nhớ thịt dê cơm cơm cháy
Chuyện đời vui trăm năm

Người thân hẹn gặp lại
Tràng An xa mà gần …

Đinh Văn Lữ hát rằng:

“Tràng An đón bạn bao nỗi nhớ
Hẹn ngày hội ngộ chốn Hoa Lư
Thung Nham vẫy gọi mời bạn hữu
Đàn chim Việt vui đón bạn hiền.

Cúc Phương Bái Đính ngàn năm đợi
Mừng bạn về thăm phát tích xưa
Bờ cõi đất Nam muôn đời thịnh
“Đại Cồ hương quốc vạn đại xuân

Hoa Lư chốn tổ nôi trồng lúa
Thịt dê cơm cháy cùng bạn quý
Ta bạn chia vui vạn nẻo đường
Tràng An Bái Đính thiên vạn cổ

Di sản thiên nhiên mãi trường tồn
Bồ đào rượu ngọt chén lưu ly
Ôm ghì kỷ niệm mãi nhâm nhi
Ra về xin hẹn luôn lui tới

Mong cho sức khỏe mãi xuân thì”

Cụ Quang Hoạch tiếp lời

LÀM SAO PHẢI XOẮN

Các bạn hưu gặp nhau
Không việc gì phải xoắn
Ra biển – Thì cứ lặn
Lên rừng – Thì cứ leo
Thích cao – Thì cứ trèo
Thích thấp – Thì cứ ngụp
Răng yếu – Thì ăn súp
Răng khoẻ – Thì nhai xương
Còn sức – Chơi bốn phương
Yếu mệt – Thì nằm nghỉ
Không bận tâm suy nghĩ
Danh vọng với tiền tài
Con cái – Đúng hay sai
Tự nó – Rồi sẽ hiểu
Không đợi con báo hiếu
Không buộc người trả ơn
Không thù hận căm hờn
Không chi ly tính toán
Sống vô tư, đơn giản
Giúp được ai thì làm
Không chắt bóp, tham lam
Không so bì, ích kỷ
Để cho đầu óc nghỉ
Luyện cho sức dẻo dai
Luyện giấc ngủ sâu, dài
Luyện ăn, uống ngon miệng
Vui đâu – Thì cứ đến
Cho thư thái tâm hồn
Sức khoẻ – Phải bảo tồn
Khám định kỳ- Nên nhớ
Nhỡ có bệnh – Không sợ
Tìm ra cách – Dung hoà
Trong vũ trụ – Bao la
Con người luôn nhỏ bé
Hãy sống – Cho vui vẻ
Được nhiều, ít – Tuỳ thiên
Về Giời… lẽ tự nhiên
Cũng không cần phải xoắn.

Ai rồi cũng sẽ già
Việc gì mà phải xoắn ?
Đời cũng đâu phải ngắn
Cứ vui vẻ sống thôi
Còn khoẻ mạnh cứ chơi
Quên tuổi già đi nhé
Miễn làm sao ta khỏe
Con cháu đỡ phải lo
Giờ thằng bé thằng to
Về hưu bằng nhau hết
Tiền nhiều nhưng khi chết
Có mang đi được đâu
Nên giờ có nghèo giàu
Đều là không quan trọng
Giờ chẳng ham danh vọng
Chẳng mơ chức mơ quyền
Miễn sao có ít tiền
Không phải nhờ con cháu
Gặp nhau thì tán gẫu
Còn khoẻ đi chơi xa
Yếu thì ở lại nhà
Buôn dưa và chém gió
Con cái _ kệ chúng nó
Đừng can thiệp sâu vào
Chúng bảo mình tào lao
Ôm rơm cho rặm bụng
Miễn chúng chịu làm lụng
Không gây họa được rồi
Đời chúng phải lo thôi
Mình lo sao cho đặng
Trải gừng cay muối mặn
Giờ mình sống cho mình
Mình phải đẹp phải xinh
Thảnh thơi cùng cuộc sống
Cuộc đời luôn sôi động
Kệ ! Chẳng phải nghĩ suy
Giờ chẳng thể suy bì
Ai thua và ai được
Đời vẫn đang phía trước
Chân ta tự bước thôi
Dẹp bớt đi cái tôi
Cuộc sống thêm sôi động
Ai cũng đều phải sống
Ai rồi cũng sẽ già
Cứ kệ nó đi nha
Việc gì mà phải xoắn ?
Khà khà….

QH Sưu tầm TĐK


Cụ Hoàng Kim góp vui

Về hưu cuốc đất trồng rau,
Nhàn tênh hôm sớm, giải dầu #Thungdung
Rượu bia thuốc lá chẳng màng
Chính liêm cần kiệm không phiền lụy ai
Thảnh thơi nắng sớm mưa mai
Giúp con, dạy cháu, khuyến ai cần mình
An nhàn, đức độ, công minh
Tìm lành, lánh dữ, hoàng thành  HƯU TU.

Về hưu việc cứ lu bù
Kiệm cần vẫn quý từng xu, từng đồng
Làm thêm đâu phải buồn lòng
Mà quen lao động thong dong tối ngày
Người thân đùa bảo đi cày
Vì không lười được, hưu này HƯU TRÂU.

Về hưu chẳng thiết đi đâu
Nấu cơm, dạy cháu, nhặt rau, quét nhà
Giúp con, khuyến học, trông già
Kiêm luôn bảo vệ coi nhà, giữ xe  
Chẳng màng điều tiếng khen chê  
Vui làm HƯU CHÓ vợ thuê việc nhà

Về hưu vẫn rộng đường xa
Lưng còn lấm đất đâu là HƯU NON.
Chẳng hề lạc lối làm ăn
Cơ may thời vận khó khăn nghiệp mình
Mới hay đá nát ngọc lành
Nhân duyên tiền định trời dành phận cho.

Về hưu lẫn thẩn làm thơ
Thiên cơ nhân quả cứ ngờ rằng hay
Mã tiền khóa luận đúng sai
Đức năng thắng số vui say việc đời
Trần Đoàn thỏa chí rong chơi
Thênh thênh bạn quý ấy thời HƯU HÂM

Cuộc đời thoáng chốc trăm năm
Đồng dao người lớn tri âm thành vè:

“Ai ơi lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau” (7).

“Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời hiếu hạnh làm câu trau mình” (3):

“Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm” (1)
 
“Trai khôn thì được vợ chiều
Gái ngoan thì được chồng yêu suốt đời” (2).

“Nên thợ nên thầy nhờ có học
No ăn no mặc bởi hay làm” (4) .

“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lượng
Không bằng kinh sử một vài pho”(5).

“Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau
. (6)

xem tiếp: https://hoangkimlong.wordpress.com/tho-vui-nhung-ngay-nhan/

Những câu thơ trích dẫn : (1) (2) (6) Ca dao người Việt cổ; (3) (7) Nguyễn Đình Chiểu: (4) Nguyễn Trãi; (5) Lê Quý Đôn

Nguồn: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vao-trang-an-bai-dinh

500 NĂM NÔNG NGHIỆP BRAZIL
Hoàng Kim
.

Tôi kể về một thoáng Brazil đất nước con người và  500 năm nông nghiệp Brazil. Các chính khách chuyên gia hàng đầu Brazil đã soi lại 500 năm nông nghiệp Brazil trong sự hòa quyện với lịch sử đất nước và thương mại. Họ đã lần tìm trong những biến động của lịch sử vùng đất với các yếu tố nguồn lực căn bản Đất đai và Thức ăn (Land and Food) để bảo tồn và phát triển.

Vùng đất mới Rio của Brazil lần đầu tiên được khám phá vào ngày 1 tháng 1 năm 1502 do một đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha. Họ trở thành những người châu Âu đầu tiên tìm đến nơi này, hệt như cậu bé chăn cừu tìm thấy ốc đảo sa mạc trong hành trình tìm kho báu ở Kim Tự Tháp mà Paulo Coelho đã kể trong “O Alquimista” là kiệt tác của tâm hồn mà tôi đã viết ở Ngọc lục bảo Paulo Coelho. Thành phố Rio de Janeiro là thành phố đẹp giữa núi và biển, di sản thế giới được công nhận bởi UNESCO, một trong bảy kỳ quan thế giới mới.

Embrapa là tập đoàn nghiên cứu và phát triển nông nghiệp Brazil lâu năm và khá hoàn hảo để đảm bảo các giải pháp khoa học và biến đổi phát triển bền vững. Trang web của chính họ là www.embrapa.br. Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam hiện nay có đúc kết kinh nghiệm của Embrapa khi tái cấu trúc theo sự tư vấn của các chuyên giao FAO và UNDP. Trong những bài học lớn của đất nước này có Đất và Thức ăn, 500 năm nông nghiệp Brazil (Land and Food 500 years of Agriculture in Brazil).

Brazil đất nước và con người

Brazil khái lược bốn yếu tố chính: Đất nước (đất đai và thức ăn); Con người (tộc người, ngôn ngữ, văn hóa); Môi trường sống (khí hậu, danh thắng, vấn đề chung); Chế độ và  Kinh tế hiện trạng.

Nước Cộng hòa Liên bang Brasil gọi tắt Brasil  là quốc gia lớn nhất Nam Mỹ, với tổng diện tích 8.516.000 km², dân số 200,4 triệu người (năm 2013), lớn thứ năm trên thế giới về diện tích và dân số. Brazil là vùng nói tiếng Bồ Đào Nha duy nhất ở châu Mỹ và lớn nhất trên thế giới. Thủ đô của Brazil tại Brasilia, đơn vị tiền tệ là Real Brazil. Tổng thống đương nhiệm là bà Dilma Vana Rousseff sinh ngày 14 tháng 12, 1947. Bà là nhà kinh tế, chính khách lỗi lạc thuộc Đảng Công nhân, đắc cử chức tổng thống Brasil từ năm 2010 và là người phụ nữ đầu tiên thắng cử tổng thống Brasil. Vị trí Brazil trong chỉ mục xếp hạng quốc tế:

  • Xếp thứ 5 trên thế giới về dân số (Xem Danh sách các nước theo số dân).
  • Xếp thứ 5 trên thế giới về diện tích (Xem Danh sách các nước theo diện tích).
  • Xếp thứ 70/177 quốc gia về chỉ số phát triển con người (Xem Danh sách các quốc gia theo thứ tự về Chỉ số phát triển con người).
  • Xếp thứ 10 thế giới về GDP (theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF).
  • Xếp thứ 111/157 quốc gia về mức độ tự do kinh tế.
  • Xếp thứ 70/163 quốc gia về Chỉ số nhận thức tham nhũng.

VietnamBrazilBrazil ở cách Việt Nam một biển rộng Thái Bình Dương và có nhiều tương đồng so với Trung Quốc. Việt Nam soi vào Trung Quốc quá khứ và soi vào Brazil hiện tại sẽ chứng ngộ nhiều điều sâu sắc của sự bảo tồn và phát triển. Brazil là một trong bốn nước nền kinh tế mới nổi BRIC (Brazil, Russia, India, China) đang ở giai đoạn phát triển kinh tế và quy mô tương đồng. Brazil có khí hậu trải dài trên năm dạng khí hậu khác nhau: xích đạo, nhiệt đới, nhiệt đới khô, núi cao và cận nhiệt đới. Hơn một nửa nước Brazil có điều kiện sinh thái tương đồng và gần giống khí hậu thủy thổ của Việt Nam.

Brazil là một nước cộng hòa liên bang được hình thành bởi liên hiệp của quận liên bang gồm 26 bang và 5.564 khu tự quản. Brasil tiếp giáp với 11 nước và vùng lãnh thổ Nam Mỹ: phía bắc giáp với Venezuela, Guyana, Suriname và Guyane thuộc Pháp; phía tây bắc giáp Colombia, phía tây giáp Bolivia và Peru, phía tây nam giáp Argentina và Paraguay, phía nam giáp  Uruguay, phía đông Brazil giáp Đại Tây Dương với đường bờ biển dài 7.491 km.

Môi trường tự nhiên Brasil được coi là quê hương của môi trường tự nhiên hoang dã phong phú, có nhiều tài nguyên tự nhiên ở các khu được bảo tồn. Brasil là quốc gia có diện tích lớn thứ năm trên thế giới, chỉ đứng sau Nga, Canada, Mỹ và Trung Quốc. Brasil là một trong những nước có nhiều hệ thống sông lớn nhất trên thế giới. Nước này có tổng cộng 8 bồn địa lớn, nước của các con sông đi qua các bồn địa này để thoát ra Đại Tây Dương. Sông Amazon là con sông lớn nhất thế giới tính theo dung lượng nước với lưu vực rộng lớn và màu mỡ đã tạo điều kiện cho những cánh rừng mưa nhiệt đới hùng vĩ phát triển cùng với một hệ thống sinh vật phong phú. Kế đến là  hệ thống sông Paraná và phụ lưu của nó.

Sông Iguaçu nơi có thác nước Iguaçu nổi tiếng thế giới nằm giữa Brazil và Achentina. Bên cạnh đó còn có các sông Negro, São Francisco, Xingu, Madeira và Tapajos. Một số hòn đảo và đảo san hô trên Đại Tây Dương như Fernando de Noronha, Đảo san hô Rocas, Saint Peter và Paul Rocks, và Trindade và Martim Vaz cũng thuộc chủ quyền của Brasil. Địa hình của Brasil phân bố rất đa dạng và phức tạp.

Người Brasil hiện nay có tổ tiên khá đa dạng, gồm người da đỏ Châu Mỹ (chủ yếu là người Tupi và Guarani), người Châu Âu (chủ yếu là Bồ Đào Nha, Ý, Đức, Tây Ban Nha) và người Châu Phi (chủ yếu là Bantu và Yorùbá), với một số cộng đồng thiểu số Châu Á (chủ yếu là Nhật Bản), Liban, và Ả Rập Syria. Miền nam Brasil với đa số dân là con cháu người Âu còn ở phía đông nam và trung tây Brasil số lượng người da trắng tương đương người Phi và những người Brasil đa chủng khác. Đông bắc Brasil có đa số dân là con cháu người Bồ Đào Nha và Châu Phi, trong khi miền bắc Brasil có số lượng hậu duệ người da đỏ Châu Mỹ lớn nhất nước. Cơ cấu dân nhập cư Brasil có 79 triệu người Châu Phi và người đa chủng; 13 triệu người Ả Rập, chủ yếu từ Syria và Liban ở Đông Địa Trung Hải; 1,6 triệu người Châu Á, chủ yếu từ Nhật Bản; Những nhóm người đa chủng đông đảo nhất là người thuộc bán đảo Iberia, Ý và người Đức ở Trung Âu. Các nhóm thiểu số gồm người Slav (đa số là người Ba Lan, Ukraina và Nga). Những nhóm nhỏ hơn gồm người Armenia, người Phần Lan, người Pháp, người Hy Lạp, người Hungary, người Romania, người Anh và người Ireland. Trong số các nhóm thiểu số còn có 200.000 người Do Thái, chủ yếu là Ashkenazi. Theo hiến pháp năm 1988 của Brasil, phân biệt chủng tộc là một tội không được bảo lãnh và buộc phải ngồi tù. Đạo luật này được thi hành rất chặt chẽ. Người Brasil ngày nay phần lớn là người da trắng có tổ tiên gốc là người Bồ Đào Nha nhiều nhất vì nước này là thuộc địa của đế chế Bồ Đào Nha từ thế kỷ 16 đến thế kỉ 18 và tỷ lệ người Bồ Đào Nha và người Ý nhập cư khá cao  trong thế kỷ 19 và thế kỉ 20. Những khu định cư Bồ Đào Nha bắt đầu xuất hiện tại Brasil sau năm 1532 và cho tới nay người Bồ Đào Nha vẫn là những người Châu Âu duy nhất thực hiện thành công chính sách thực dân ở nước này và nền văn hóa Brasil chủ yếu dựa trên văn hoá Bồ Đào Nha. Các nước Châu Âu khác như Hà Lan và người Pháp cũng đã từng tìm cách thực dân hóa Brasil trong thế kỷ 17 nhưng không thành công. Người da đỏ bản xứ Brasil (khoảng 3-5 triệu người) phần lớn đã bị tiêu diệt hay đồng hóa bởi người Bồ Đào Nha. Những cuộc hôn nhân lai chủng giữa người Bồ Đào Nha và những người Brasil bản xứ từ thời kỳ đầu thực dân hoá Brasil, đến nay Brasil có gần một triệu người dân bản xứ và người lai bản xứ, chiếm gần  1% dân số nước này. Cộng đồng dân cư lớn thứ hai ở Brasil là người da đen, con cháu của những người nô lệ Châu Phi bị bắt tới đây từ thế kỷ 16 tới thế kỷ 19. Người da đen châu Phi có trên ba triệu người Angola, Nigeria, Benin, Togo, Ghana, Côte d’Ivoire và São Tomé e Príncipe đã bị bán qua Brasil cho tới khi chế độ buôn bán nô lệ chấm dứt vào năm 1850. Những người Châu Phi này sau đó đã lai tạp với người Bồ Đào Nha, trở thành một bộ phận dân cư lai khá lớn tại Brasil. Những nhóm người da trắng và da vàng của Châu Âu và châu Á tơi đây bắt đầu từ thế kỷ 19 với sự khuyến khích của chính phủ Brasil để thay thế nguồn nhân lực và lao động cũ là các cộng đồng nhân công và nô lệ. Người lai giữa các chủng tộc tạo nên một bản sắc đa chủng tộc đa văn hóa mà yếu tố chủ đạo là văn hóa ngôn ngữ Bồ Đào Nha.

Ngôn ngữ chính thức duy nhất tại Brasil là tiếng Bồ Đào Nha. Toàn bộ dân chúng sử dụng thứ tiếng này làm ngôn ngữ duy nhất được sử dụng trong các trường học, trên các phương tiện truyền thông, trong kinh doanh và mọi mục đích hành chính. Tiếng Bồ Đào Nha trở thành sinh tử phù đặc trưng riêng quốc gia ở Brasil và đã  phát triển độc lập với tiếng mẹ đẻ và trải qua ít sự thay đổi ngữ âm hơn so với tiếng Bồ Đào Nha gốc, vì thế nó thường được gọi là ngôn ngữ gốc “Camões”, vốn đã tồn tại ở thế kỷ 16, tương tự như thứ ngôn ngữ ở phía nam Brasil ngày nay, chứ không phải như ngôn ngữ nước Bồ Đào Nha hiện tại đã bị châu Âu pha tạp. Tiếng Bồ Đào Nha ở Brasil có ảnh hưởng rất lớn tới các ngôn ngữ da đỏ Châu Mỹ và ngôn ngữ Châu Phi. Những phương ngữ Bồ Đào Nha tại Brazil có nhiều khác biệt lớn với nhau về âm điệu, từ vựng và chính tả. Nhiều ngôn ngữ bản xứ được sử dụng hàng ngày trong các cộng đồng thổ dân. Hiện nay việc dạy các ngôn ngữ bản xứ đang được khuyến khích. Một số ngôn ngữ khác được con cháu những người nhập cư sử dụng, họ thường có khả năng nói cả hai thứ tiếng, tại các cộng đồng nông nghiệp ở phía nam Brasil. Tiếng Anh là một phần trong chương trình giảng dạy của các trường cao học, nhưng ít người Brasil thực sự thông thạo ngôn ngữ này. Đa số những người sử dụng tiếng Bồ Đào Nha đều có thể hiểu tiếng Tây Ban Nha ở mức độ này hay mức độ khác vì sự tương đồng giữa hai ngôn ngữ cùng hệ Latinh.

Tôn giáo chủ yếu tại Brasil là Công giáo Rôma. Brasil là nước có cộng đồng người theo đạo Công giáo lớn nhất trên thế giới. tiếp đến là đạo Tin lành, Hồi giáo, Phật giáo. Cơ cấu tôn giáo của người dân Brasil như sau (theo cuộc điều tra của IBGE) 64,6% dân số theo Công giáo; 22,2% dân số theo Đạo Tin lành; 8,0% dân số tự cho mình là người theo Thuyết bất khả tri hay Thuyết vô thần; 2,0% dân số theo Thuyết thông linh; 2,7% dân số là thành viên của các tôn giáo khác. Một số tôn giáo đó là Mormon (227.000 tín đồ), Nhân chứng Jehovah (1.393.000 tín đồ), Phật giáo (244.000 tín đồ), Do Thái giáo (107.000 tín đồ), và Hồi giáo (35.000 tín đồ); 0,3% dân số theo các tôn giáo truyền thống Châu Phi như Candomblé, Macumba và Umbanda; 0,1% không biết; Một số người theo tôn giáo pha trộn giữa các tôn giáo khác nhau, như Công giáo, Candomblé, và tổng hợp các tôn giáo truyền thống Châu Phi.

Chế độ chính trị ở Brasil được chia thành các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoạt động của các nhánh này diễn ra độc lập với nhau và đồng thời được kiểm tra và điều chỉnh cân bằng sao cho thích hợp. Nhánh hành pháp và lập pháp được tổ chức ở cả 4 thực thể chính trị, trong khi nhánh tư pháp chỉ được tổ chức ở cấp Liên bang và bang. Theo hiến pháp, Brasil là một quốc gia theo thể chế cộng hòa liên bang, được tạo lập dựa trên 4 thực thể chính trị là Liên bang, bang, các chính quyền thành phố tự trị và quận liên bang. Không có sự phân cấp cụ thể nào về quyền lực giữa các thực thể chính trị này. Nhánh hành pháp được thực thi bởi chính phủ, trong khi nhánh lập pháp được thực thi bởi cả chính phủ và hai viện của quốc hội Brasil. Nhánh tư pháp hoạt động riêng rẽ với hai nhánh trên. Về nhánh hành pháp, người đứng đầu nhà nước là tổng thống Brasil có nhiệm kỳ 4 năm và được phép nắm tối đa 2 nhiệm kỳ. Đương kim tổng thống hiện nay của nước này là bà Dilma Rousseff, đắc cử tháng 10 năm 2010. Tổng thống có quyền chỉ định thủ tướng liên bang, có vai trò hỗ trợ cho tổng thống trong việc điều hành đất nước. Về nhánh lập pháp, Quốc hội của Brasil được chia làm 2 viện: thượng viện và hạ viện. Thượng viện Liên bang Brasil gồm có 81 ghế, phân bố đều mỗi 3 ghế cho 26 bang và quận liên bang (thủ đô) và có nhiệm kỳ 8 năm. Hạ viện có tổng cộng 513 ghế, được bầu cử theo nhiệm kỳ 4 năm và phân bố theo tỉ lệ bang. Một trong những nguyên tắc chính trị của nền cộng hòa là hệ thống đa đảng, như một sự đảm bảo về tự do chính trị. Hiện nay có tổng cộng 15 đảng chính trị lớn nhỏ có ghế trong Quốc hội Brasil. Bốn đảng lớn nhất hiện nay là Đảng Công nhân Brasil (PT), Đảng Dân chủ Xã hội Brasil (PSDB), Đảng Vận động Dân chủ Brasil (PMDB) và Đảng Dân chủ (tiền thân là Đảng Mặt trận Tự do – PFL). Luật pháp của Brasil dựa trên luật La Mã – Germania truyền thống. Hiến pháp Liên bang, được thông qua vào ngày 5 tháng 10 năm 1988 là bộ luật cơ bản nhất của Brasil. Tất cả những quyết định của nhánh lập pháp và tòa án đều phải dựa trên Hiến pháp Brasil. Các bang của Brasil đều có hiến pháp riêng của bang mình, nhưng không được trái với Hiến pháp Liên bang. Các chính quyền thành phố và quận liên bang không có hiến pháp riêng mà có bộ luật của riêng mình, gọi là luật cơ bản. Quyền lực pháp lý được thực thi bởi nhánh tư pháp, mặc dù trong một số trường hợp đặc biệt Hiến pháp Brasil cũng cho phép Thượng viện Liên bang thông qua những quyết định về mặt luật pháp. Cơ quan quyền lực cao nhất trong ngành tư pháp của Brasil là Tòa án Liên bang Tối cao. Tuy nhiên hệ thống tư pháp của Brasil bị chỉ trích làm việc kém hiệu quả trong vài thập kỉ qua trong việc thực hiện nốt các bước cuối của việc xét xử. Các vụ kiện cáo thường mất tới vài năm để giải quyết và đi đến phán quyết cuối cùng.

Brasil phát triển chính sách ngoại giao độc lập song song với phát triển kinh tế. Những năm gần đây, Brasil ngày càng tăng cường quan hệ với các nước Mỹ Latinh láng giềng, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong các sứ mệnh của Liên Hiệp Quốc. Chính sách ngoại giao của Brasil là có quan điểm hòa bình trong các vấn đề tranh chấp quốc tế và không can thiệp vào tình hình nước khác. Brasil là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới và Khối Thị trường chung Nam Mỹ … Brasil thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 8 tháng 5 năm 1989.  Quân đội Brasil bao gồm 3 bộ phận chính là lục quân, hải quân và không quân. Lực lượng cảnh sát được coi là một nhánh của quân đội trong hiến pháp nhưng nằm dưới sự chỉ huy của mỗi bang. Brasil là quốc gia có lực lượng quân đội lớn nhất Mỹ Latinh, với tổng quân số là 28,7 vạn quân nhân vào năm 2006. Tổng thống Brasil cũng là tổng chỉ huy quân đội của nước này. Chi phí cho quân sự của Brasil năm 2006 ước tính đạt khoảng 2,6% GDP. Brasil có chế độ nghĩa vụ quân sự dành cho nam giới tuổi từ 21-45, kéo dài trong khoảng 9 đến 12 tháng, còn tự nguyện thì tuổi từ 17-45. Tuy nhiên, với một nước có dân số lớn như Brasil thì đa phần nam giới nước này không phải gọi nhập ngũ. Brasil là nước đầu tiên tại Nam Mỹ chấp nhận phụ nữ phục vụ trong quân ngũ vào thập niên 1980. Vai trò chủ yếu của quân đội Brasil là bảo vệ chủ quyền quốc gia và tham gia vào các chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tại nước ngoài. Brasil là quốc gia dẫn đầu khu vực Mỹ Latinh về chính trị và kinh tế. Tuy nhiên, những bất ổn về kinh tế và xã hội trong lòng Brasil đã ngăn cản nước này tiến lên trở thành một cường quốc có ảnh hưởng lớn trên thế giới.

Kinh tế Brasil là nền kinh tế lớn thứ tám trên thế giới dựa trên GDP danh nghĩa và xếp thứ bảy dựa trên GDP sức mua tương đương. Brasil là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Cải cách kinh tế đã đem lại cho đất nước sự công nhận mới của quốc tế. Brasil là thành viên sáng lập của Liên Hiệp Quốc, G20, CPLP, Liên minh Latin, Tổ chức các bang Ibero-Mỹ, Mercosul và Liên minh các Quốc gia Nam Mỹ và là một trong bốn nước BRIC, biểu tượng của sự chuyển dịch quyền lực kinh tế thế giới từ nhóm nước G7 sang các nước đang phát triển mà ước đoán đến năm 2027 các nền kinh tế BRIC sẽ vượt qua nhóm G7. Brasil có nền kinh tế đa dạng ở mức thu nhập trung bình cao với mức độ phát triển rất khác nhau. Cơ cấu kinh tế của Brazil là: công nghiệp đa dạng,  nông nghiệp, dịch vụ,  gia công và khai mỏ.  Brasil có nguồn lao động dồi dào và GDP vượt xa nhiều quốc gia Mỹ Latinh khác. Brasil hiện nay đã mở rộng sự hiện diện của mình trong nền kinh tế thế giới với các sản phẩm xuất khẩu chính gồm: 1) nhóm sản phẩm của công nghiệp đa dạng (máy bay, xe ô tô, quặng sắt, thép, thiết bị điện tử. .); 2) nhóm sản phẩm nông sản và nông sản chế biến (cà phê,  đậu nành, nước cam,… ) nhóm sản phẩm gia công, tiểu thủ công và mỹ nghệ (dệt may, giày dép …). Brazil có đa số các ngành công nghiệp lớn của nằm ở phía nam và phía đông nam, còn vùng đông bắc là vùng nghèo nhất ở Brasil, nhưng hiện đang thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài. Brasil có lĩnh vực công nghiệp phát triển nhất Mỹ Latinh gồm các ngành công nghiệp đa dạng sản xuất ô tô, thép, hóa dầu tới máy tính, máy bay và các sản phẩm tiêu dùng.  Các công ty Brasil và các công ty đa quốc gia đầu tư mạnh vào công nghệ và thiết bị mới, một phần lớn trong số đó được nhập khẩu từ các công ty Bắc Mỹ nhờ nền kinh tế phát triển khá ổn định và kế hoạch Real. Brasil cũng sở hữu một nền công nghiệp dịch vụ đa dạng và có chất lượng cao. Những năm đầu thập niên 1990, lĩnh vực ngân hàng chiếm tới 16% GDP. Công nghiệp dịch vụ tài chính nước này, dù trải qua một quá trình tái cơ cấu rộng lớn, đã cung cấp tiền vốn cho nhiều công ty trong nước sản xuất ra các loại hàng hóa phong phú, lôi cuốn nhiều nhà đầu tư nước ngoài mới, kể cả các công ty tài chính lớn của Mỹ. Thị trường chứng khoán São Paulo và Rio de Janeiro đang trải qua quá trình hợp nhất. Brasil là nền kinh tế mới nổi, các vấn nạn chính cản trở sự phát triển là tham nhũng, nghèo đói, mù chữ.

500 năm nông nghiệp Brazil

Các chính khách chuyên gia hàng đầu Brazil đã soi lại 500 năm nông nghiệp trong sự hòa quyện với lịch sử đất nước và thương mại. Họ đã lần tìm trong những rối loạn và biến động của lịch sử đất nước các yếu tố nguồn lực căn bản Đất đai và Thức ăn (Land and Food) để bảo tồn và phát triển. Gắn lịch sử các ngành hàng chính của đất nước với đất đai và thức ăn cùng với lịch sử và văn hóa của một vùng đất để thấu hiểu tâm linh vũ trụ và lòng người. Chúng ta đang đối thoại với nông nghiệp Brazil một trang sách mở. Tôi giật mình tự hỏi Việt Nam các vua chúa, tổng thống, chính khách và chuyên gia các triều đại đã thực sự coi trọng tựa đề sách này chưa?

Brasil là quốc gia có tài nguyên môi trường và độ đa dạng sinh học cao nhất thế giới, hơn hẳn so với mọi quốc gia khác. Bắc Brasil là những vùng đất thấp được che phủ bởi rừng Amazon. Nam Brazil có địa hình chủ yếu là đồi núi với nhiều dãy núi cao vùng bờ biển giáp Đại Tây Dương. Đỉnh núi cao nhất Brasil là đỉnh Pico da Neblina, cao 3.014 m thuộc cao nguyên Guiana. Nước này có số lượng động vật có vú nhiều nhất trên thế giới, đứng thứ nhì về tổng số các loài lưỡng cư và bướm, thứ ba thế giới về các loài chim và thứ năm thế giới về các loại bò sát. Rừng nhiệt đới Amazon là ngôi nhà của nhiều loài thực vật và động vật độc đáo tại Brasil. Về thực vật, ở Brasil người ta đã phát hiện được hơn 55.000 loài, xếp thứ nhất trên thế giới và 30% trong số đó là những loài thực vật đặc hữu của Brasil. Khu vực Rừng Đại Tây Dương là nơi tập trung rất nhiều các loài thực vật khác nhau, bao gồm các loài nhiệt đới, cận nhiệt đới và rừng ngập mặn. Vùng Pantanal là một vùng đất ẩm và là nhà của khoảng 3500 loài thực vật trong khi Cerrado là một trong những vùng savan đa dạng nhất trên thế giới. Về động vật, Brasil nổi tiếng với các loài báo jaguar, báo sư tử, thú ăn kiến, cá piranha, loài trăn khổng lồ anaconda… và rất nhiều các loài linh trưởng, chim và côn trùng khác chỉ có tại đất nước này. Tuy nhiên trong những thập kỉ gần đây, sự phát triển kinh tế và gia tăng dân số quá mức đang có nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên của Brasil. Sự phá rừng lấy gỗ và đất canh tác, bao gồm cả hợp pháp và bất hợp pháp đang tàn phá những khu rừng lớn tại nước này, đe dọa gây ra những thảm họa nghiêm trọng về môi trường. Từ năm 2002 đến năm 2006, rừng Amazon đã bị mất đi một phần diện tích xấp xỉ nước Áo. Dự kiến đến năm 2020, ít nhất 50% các loài sinh vật tại Brasil sẽ đứng trước bờ vực tuyệt chủng. Chính phủ Brasil trước tình hình này, đã ban hành nhiều chính sách nhằm bảo về môi trường. Một mạng lưới các khu vực bảo vệ đã được thiết lập trên diện tích hơn 2 triệu km² (khoảng một phần tư diện tích Brasil) để bảo vệ những vùng rừng và các hệ sinh thái tại nước này. Dẫu vậy việc bảo vệ môi trường tại Brasil cũng gặp nhiều khó khăn.

Lịch sử Brasil khái lược được chia làm hai thời kỳ: Thời kỳ tiền Colombo và thời kỳ hậu Colombo.

Thời kỳ tiền Colombo. Con người cổ Brazil theo hóa thách khảo cổ đã có ít nhất 8000 năm. Ai là người đầu tiên đến Brasil vẫn còn là điều tranh cãi. Một số nhà khảo cổ học cho rằng những thợ săn châu Á di cư qua eo biển Bering qua Alaska, xuống châu Mỹ rồi đến Brasil là những cư dân đầu tiên. Một số nhà khảo cổ khác lại cho rằng người châu Úc và châu Phi là những cư dân cổ hơn tại Brasil. Trong khi người da đỏ bản địa hiển nhiên là đã có từ trước ở Brasil nhưng tộc người vùng này theo di chỉ là những cư dân  du mục săn bắn, đánh bắt cá và trồng trọt, họ không có chữ viết và không có những dấu vết công trình kiến trúc quy mô gửi lại hậu thế cho nên việc tìm hiểu về họ rất khó khăn.

Brasilthodan
Thổ dân Brasil – tranh của Jean-Baptiste Debret Thuộc địa Brasil 1509. Người châu Âu khi tìm ra Brasil thì cho rằng mật độ thổ dân ở Brasil rất thấp, dân số chỉ có khoảng một triệu người nhưng chưa thể hoàn toàn tin vì đây là sử liệu của phía “người da trắng Bồ Đào Nha” và có tàn sát người da đỏ của suốt thời kỳ đầu . Ngày nay, thổ dân da đỏ ở Brasil một phần bị lai với các chủng tộc khác hoặc sống nguyên thủy trong những rừng Amazon. Người da đỏ ở phía tây dãy núi Andes thì phát triển những quốc gia thành thị có nền văn hóa cao hơn, tiêu biểu như Đế chế Inca ở Peru.

Thời kỳ hậu Colombo tại Brazil được tính từ khi  Brasil được khám phá bởi nhà thám hiểm Pedro Álvares Cabral người Bồ Đào Nha vào ngày 22 tháng 4 năm 1500. Một cách vắn tắt, lịch sử Brazil từ thế kỷ 15 cho đến ngày nay được chia thành sáu phân kỳ: 1) Thuộc địa Brasil;  2) Đế chế Brasil; 3) Nền Cộng hòa cũ (1889-1930);  4) Chủ nghĩa dân túy và sự phát triển (1930-1964); 5) Chế độ độc tài quân sự (1964-1985); 6) Brasil từ năm 1985 đến nay. Câu chuyện này đã được kể ởTừ Điển Bách Khoa Mở Wikipedia tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Bồ Đào Nha mục từ Brazil.

1) Thuộc địa Brasil của Bồ Đào Nha.  Người Bồ Đào Nha thời kỳ đầu khai thác thuộc địa Brazil quan tâm nhất là cây vang (trong tiếng Bồ Đào Nha là Pau-Brasil), một loại cây cung cấp nhựa để làm phẩm nhuộm màu đỏ trong may mặc. Tên gọi Brasil bắt nguồn từ tên của mặt hàng xuất khẩu chủ lực này.  Hoạt động thương mại chính đầu tiên của người Bồ Đào Nha là tổ chức trồng trọt và buôn bán với Trung Quốc, Ấn Độ Indonesia là những nước cần nhiều phẩm nhuộm vải may mặc này.  Người Pháp và Hà Lan cũng muốn lập thuộc địa tại Brasil song cuối cùng đều thất bại trước người Bồ Đào Nha. Sang thế kỉ 17, mía đường dần thay thế cây vang để trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Brasil. Các quý tộc và chủ đất người Bồ Đào Nha đã lập ra các đồn điền trồng mía rộng lớn và bắt hàng triệu người da đen từ châu Phi sang làm nô lệ làm việc trên các đồn điền này. Người da đen bị đối xử rất khắc nghiệt nên họ đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh, mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa năm 1835 tại Salvador, Bahia song không thành công.

2) Thời kỳ đế chế Bồ Đào Nha tại Brazil. Năm 1808, hoàng gia Bồ Đào Nha cùng chính phủ đã di cư đến thủ đô lúc bấy giờ của Brasil là Rio de Janeiro. Đây là sự di cư xuyên lục địa của một hoàng tộc duy nhất trong lịch sử để trốn chạy khỏi sự truy quét của quân đội Napoléon . Năm 1815, vua João VI của Bồ Đào Nha tuyên bố Brasil là một vương quốc hợp nhất với Bồ Đào Nha và Algarve (nay là miền nam Bồ Đào Nha). Brasil từ đó, quyền nhiếp chính vẫn nằm trong tay của Bồ Đào Nha nhưng danh nghĩa thì không còn là một thuộc địa nữa. Năm 1821, con trai ông là Pedro lên nối ngôi vua Brasil khi vua cha João VI trở về Bồ Đào Nha. Ngày 7 tháng 9 năm 1822, Pedro đã tuyên bố thành lập Đế chế Brasil độc lập khi phong trào đấu tranh của người dân Brasil dâng cao đói hỏi ly khai khỏi Bồ Đào Nha “Độc lập hay là Chết”. Vua Pedro tự phong làm Hoàng đế Pedro I của Brasil và thường được biết đến với tên gọi Dom Pedro. Hoàng đế Pedro I trở về Bồ Đào Nha vào năm 1831 do những bất đồng với các chính trị gia Brasil. Con trai ông là vua Pedro II lên ngôi năm 1840 khi mới 14 tuổi sau 9 năm chế độ nhiếp chính. Pedro II đã xây dựng một chế độ quân chủ gần giống nghị viện kéo dài đến năm 1889 khi ông bị phế truất trong một cuộc đảo chính để thành lập nước cộng hòa. Vua Pedro II trước khi kết thúc thời gian cai trị của mình, đã xóa bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ tại Brasil vào năm 1888. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến ông bị giới chủ nô căm ghét và loại bỏ khỏi ngai vàng.

3) Nền Cộng hòa cũ (1889-1930)đã phế truất vua và bầu Tổng thống. Vua Pedro II bị phế truất vào ngày 15 tháng 11 năm 1889 trong một cuộc đảo chính quân sự của những người cộng hòa. Tướng Deodero de Fonseca, người lãnh đạo cuộc đảo chính đã trở thành tổng thống trên thực tế đầu tiên của Brasil. Tên của đất nước được đổi thành Cộng hòa Hợp chúng quốc Brasil (đến năm 1967 thì đổi lại thành Cộng hòa Liên bang Brasil như ngày nay). Trong khoảng thời gian từ năm 1889 đến năm 1930, Brasil là một quốc gia với chính phủ theo thể chế dân chủ lập hiến, với chức tổng thống luân phiên giữa hai bang lớn là São Paulo và Minas Gerais. Cuối thế kỉ 19, cũng là thời kỳ lên ngôi của cây cà phê trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Brasil thay cho mía đường. Việc buôn bán cà phê với nước ngoài đã làm nên sự thịnh vượng của Brasil về mặt kinh tế, đồng thời cũng thu hút một số lượng đáng kể người nhập cư đến từ các quốc gia châu Âu, chủ yếu là Italia và Đức. Dân số tăng lên cùng với nguồn nhân công dồi dào đã cho phép đất nước Brasil phát triển các ngành công nghiệp và mở rộng lãnh thổ vào sâu hơn trong lục địa. Thời kỳ này, với tên gọi là “Nền Cộng hòa cũ” kết thúc năm 1930 do cuộc đảo chính quân sự mà sau đó Getúlio Vargas lên chức tổng thống.

4) Chủ nghĩa dân túy và sự phát triển (1930-1964) Getúlio Vargas lên nắm quyền sau cuộc đảo chính của giới quân sự năm 1930. Tổng thống Getúlio Vargas đã cai trị Brasil  như một nhà độc tài xen kẽ với những thời kỳ dân chủ  trong suốt hai nhiệm kỳ 1930-1934 và 1937-1945. Chính phủ Brasil sau những năm 1930 vẫn hướng trọng tâm vào các dự án phát triển nông nghiệp, công nghiệp và mở mang vùng lãnh thổ nội địa rộng lớn của Brasil và tiếp tục thành công trong việc tạn dụng sức mạnh nông nghiệp làm giá đở kinh tế cho sự phát triển lành mạnh ít nợ nần.  Tổng thống Getúlio Vargas tiếp tục được bầu làm tổng thống Brasil trong khoảng thời gian 1951-1954. Getúlio Vargas đã có những ý tưởng mới về nền chính trị của Brasil để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển đất nước. Ông hiểu rằng trong bối cảnh nền công nghiệp đang phát triển mạnh tại Brasil lúc bấy giờ, những người công nhân sẽ trở thành một thế lực chính trị đông đảo tại đây, kèm theo một hình thức quyền lực chính trị mới – chủ nghĩa dân túy. Nắm bắt được điều đó, tổng thống Vargas đã kiểm soát nền chính trị của Brasil một cách tương đối ổn định trong vòng 15 năm đến khi ông tự tử vào năm 1954. Sau hai giai đoạn độc tài dưới thời tổng thống Getúlio Vargas, nhìn chung chế độ dân chủ đã chiếm ưu thế tại Brasil trong khoảng thời gian 1945-1964. Một trong những sự kiện quan trọng diễn ra trong thời kỳ này là thủ đô của Brasil được chuyển từ thành phố Rio de Janeiro sang thành phố Brasilia.

5) Chế độ độc tài quân sự (1964-1985).  Xu hướng phát triển ổn định bền vững bị chỉ trích và phản đối mạnh mẽ của các lý thuyết gia và tướng lĩnh tham vọng muốn đẩy nhanh tiến trình tăng trưởng nóng kinh tế. Những khủng hoảng về mặt kinh tế, xã hội đã dẫn tới cuộc đảo chính của giới quân sự vào năm 1964. Cuộc đảo chính đã nhận được sự giúp đỡ của một số chính trị gia quan trọng, ví dụ như José de Magalhães Pinto, thống đốc bang Minas Gerais và nhận được sự hậu thuẫn của chính phủ Mỹ. Rốt cuộc, sau đảo chính, một chính phủ độc tài quân sự được thiết lập tại Brasil trong vòng 21 năm với việc quân đội kiểm soát toàn bộ nền chính trị của đất nước. Kinh tế Brasil trong những năm đầu tiên sau đảo chính, vẫn tiếp tục tăng trưởng nhanh do các chính sách cải cách kinh tế được ban hành, nhưng sau một thời gian thì bộc lộ những khuyết tật phải trả gía khiến nền kinh tế Brasil lâm vào tình trạng khó khăn. Nợ nước ngoài tăng nhanh trong khi hàng ngàn người Brasil bị chính phủ độc tài quân sự trục xuất, bắt giữ, tra tấn và thậm chí bị giết hại.

6) Brasil từ năm 1985 đến nay trở lại với tiến trình dân chủ. Năm 1985, Tancredo Neves được bầu làm tổng thống nhưng ông đã qua đời trước khi tuyên thệ nhậm chức, phó tổng thống José Sarney được cử lên thay thế. Vào tháng 12 năm 1989, Fernando Collor de Mello được bầu làm tổng thống và ông đã dành những năm đầu tiên của nhiệm kỳ để khắc phục tình trạng siêu lạm phát của Brasil, lúc bấy giờ đã đạt mức 25% mỗi tháng. Những tổng thống kế nhiệm ông đã tiếp tục duy trì các chính sách kinh tế mở như tự do thương mại và tiến hành tư nhân hóa các xí nghiệp của nhà nước.Tháng 1 năm 1995, Fernando Henrique Cardoso nhậm chức tổng thống Brasil sau khi đánh bại ứng cử viên cánh tả Lula da Silva. Ông đã có những kế hoạch cải cách kinh tế hiệu quả và đưa Brasil vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998. Năm 2000, tổng thống Condor đã yêu cầu phải công khai những tài liệu về mạng lưới các chế độ độc tài quân sự tại Nam Mỹ. Ngày nay, một trong những vấn đề khó khăn nhất của đất nước Brasil là sự bất bình đẳng trong thu nhập cũng như nhiều vấn đề xã hội nhức nhối khác. Vào thập niên 1990, vẫn còn khoảng một phần tư dân số Brasil sống dưới mức 1 đô la Mỹ một ngày trong khi có nhiều kẻ giàu có bất chính. Những căng thẳng về xã hội và kinh tế này đã giúp ứng cử viên cánh tả Lula de Silva thắng cử tổng thống vào năm 2002. Sau khi nhậm chức, các chính sách kinh tế dưới thời tổng thống Cardoso vẫn được duy trì. Mặc dù có một vài tai tiếng trong chính phủ song nhiều chính sách xóa đói giảm nghèo của tổng thống Silva đã thu được thành công nhất định. Ông đã nâng mức lương tối thiểu từ 200 real lên 350 real trong vòng 4 năm, xây dựng chương trình Fome Zero (Không có người đói) để giải quyết nạn đói trong tầng lớp người nghèo tại Brasil. Những chính sách nhằm giảm tỉ lệ thất nghiệp và sự phụ thuộc vào dầu lửa cũng đã mang lại hiệu quả tích cực. Sau nhiều thập kỷ có mức lạm phát cao và nhiều nỗ lực kiểm soát, Brasil đã thực thi một chương trình ổn định kinh tế với tên gọi Kế hoạch Real (được đặt theo tên đồng tiền tệ mới real) vào tháng 7 năm 1994 trong thời kỳ nắm quyền của tổng thống Itamar Franco. Tỷ lệ lạm phát vốn từng đạt mức gần 5.000% thời điểm cuối năm 1993, đã giảm rõ rệt, ở mức thấp 2,5% vào năm 1998. Việc thông qua Luật Trách nhiệm Thuế năm 2000 đã cải thiện tình trạng thu thuế từ địa phương và từ các chính phủ liên bang, dù vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng và cải thiện các dịch vụ xã hội. Brasil là quốc gia đứng thứ mười thế giới về tiêu dùng năng lượng và thứ nhất tại khu vực Mỹ Latinh. Tuy nhiên, Brasil cũng lại là nước khai thác dầu mỏ và khí đốt nhiều nhất trong khu vực và là nhà sản xuất năng lượng ethanol lớn nhất trên thế giới. Brasil với sự đi tiên phong trong lĩnh vực sản xuất ethanol, được mệnh danh là một cường quốc về năng lượng sinh học của thế giới. Năng lượng ethanol ở Brasil được sản xuất từ cây mía, loại cây được trồng rất phổ biến tại Brasil. Chương trình đã thành công khi giảm số ô tô chạy bằng dầu hỏa tại Brasil, từ đó giảm sự phụ thuộc của nước này vào các nguồn dầu nhập khẩu. Brasil đứng thứ ba thế giới về sản lượng thủy điện, chỉ sau Trung Quốc và Canada. Năm 2004, thủy điện chiếm tới 83% tổng năng lượng sản xuất ra tại nước này. Brasil cùng với Paraguay sở hữu đập nước Itaipu, nhà máy thủy điện lớn nhất thế giới hiện nay.

Nông nghiệp Brazil đi theo những bước thăng trầm của lịch sử đất nước. 500 năm có những đúc kết sâu sắc được nhìn lại tổng thể đưới những cặp mắt am hiểu và tỉnh táo của các chính khách lãnh đạo. Từ khi người Bồ Đào Nha xâm chiếm Brasil làm thuộc địa, nền khoa học kĩ thuật tại vùng đất này hầu như không được chú trọng phát triển bởi chính sách ngu dân để dễ thao túng và cai trị. Brazil tuy là một thuộc địa rộng lớn và có vai trò quan trọng đối với chính quốc Bồ Đào Nha nhưng lại là một vùng đất nghèo nàn và thất học. Mãi cho đến tận đầu thế kỉ 19, tại Brasil vẫn không có bất kỳ một trường đại học nào trong khi các thuộc địa láng giềng của Tây Ban Nha đã có những trường đại học đầu tiên ngay từ thế kỉ 16. Sự thay đổi chính sách giáo dục là từ năm 1807, hoàng gia Bồ Đào Nha buộc phải đến Rio de Janeiro để tránh cuộc tấn công của Napoléon I và đã khởi đầu cho thời kỳ phát triển khoa học và văn hóa tại vùng đất này. Từ đó đến nay việc nghiên cứu khoa học tại Brasil ngày nay được thực hiện rộng rãi trong khắp các trường đại học và học viện, với 73% nguồn quỹ được lấy từ những nguồn của chính phủ. Một số học viện khoa học nổi tiếng của Brasil là Học viện Oswaldo Cruz, Học viện Butantan, Trung tâm Công nghệ Vũ trụ của không quân, Tổ chức Nghiên cứu Nông nghiệp Brasil và INPE. Brasil là quốc gia có cơ sở tốt nhất Mỹ Latinh trong lĩnh vực hàng không vũ trụ. Vào ngày 14 tháng 10 năm 1997, Cơ quan Hàng không vũ trụ Brasil đã ký với NASA về việc cung cấp các phần thiết bị cho ISS. Urani cũng được làm giàu tại Nhà máy Năng lượng Nguyên tử Resende để giải quyết phần nào nhu cầu năng lượng của quốc gia. Brasil cũng là một trong hai nước ở khu vực Mỹ Latinh có phòng thí nghiệm máy gia tốc Synchrotron, một hệ thống thiết bị nhằm nghiên cứu nhiều ngành khoa học khác nhau như vật lí, hóa học, khoa học vật liệu và khoa học đời sống.

Nhiều vấn đề nông nghiệp Brazil đang được tỉnh táo nhìn lại sau 500 năm, gợi cho Việt Nam những góc nhìn tham chiếu về bảo tồn và phát triển nông nghiệp bền vững. Đó là “Kiệt tác của tâm hồn”.

Thật may mắn khi gặp được kiệt tác của tâm hồn khai mở hạnh phúc lòng ta tỉnh lặng và yêu thương hơn.

VUI ĐI DƯỚI MẶT TRỜI
Hoàng Kim

Hãy lên đường đi em
Ban mai vừa mới rạng
Vui đi dưới mặt trời
Một niềm tin thắp lửa

Ta như ong làm mật
Cuộc đời đầy hương hoa
Thời an nhiên vẫy gọi
Vui đời khỏe cho ta.

ĐỖ PHỦ THƯƠNG ĐỌC LẠI
Hoàng Kim

Văn chương lưu muôn đời
Bậc thầy gương vạn thuở
Thi thánh và thi sử
Đỗ Phủ Đặng Dung ơi

Dụng kiếm dưới trăng soi
Hùng tâm thiên cổ lụy
Bậc danh sĩ tinh hoa
Bút thần hơn kiếm ý

‘Lều tranh nát gió thu’
‘Bát trận đồ’ ‘Xuân vọng’
Đỗ Phủ thương đọc lại
Sao Mai soi tỏ lòng.

Đỗ Phủ là Thi thánh Thi sử Trung Quốc do đức độ cao thượng, tài thơ văn tuyệt vời. Đỗ Phủ cùng Lý Bạch là hai nhà thơ vĩ đại nhất thời nhà Đường. Thơ Đỗ Phủ nổi tiếng vì phong cách đơn giản và thanh lịch đặc sắc bậc nhất trong thơ cổ điển Trung Quốc. Tầm vóc Đỗ Phủ sánh với Victor Hugo và Shakespeare. Thơ Đỗ Phủ ảnh hưởng sâu sắc tới văn hóa cổ điển Trung Quốc và văn học hiện đại Nhật Bản. Cụ Nguyễn Du đã từng thán phục Đỗ Phủ “Thiên cổ văn chương thiên cổ sư Bình sinh bội phục vị thường ly” (Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời Bình sinh bái phục không lúc nào ngớt). Cụ Hồ Chí Minh trong Di chúc đã có trích thơ Đỗ Phủ. Cuộc đời Đỗ Phủ là tấm gương phản chiếu đất nước Trung Hoa thời loạn khi đời sống nhân dân tột cùng điêu đứng vì thường xuyên biến động. Đỗ Phủ bộ sưu tập thơ được bảo tồn khoảng 1500 bài thơ đều là tuyệt phẩm. Thi Viện hiện có Đỗ Phủ trực tuyến 1450 bài. Dưới đây là Đỗ Phủ những bài thơ bi tráng phổ biến nhiều người đọc.

ĐỌC ĐỖ PHỦ NHỚ ĐẶNG DUNG

Ngày 8 tháng 12 năm 757, Đỗ Phủ về kinh thành Trường An làm quan trong triều vua Đường Huyền Tông sau loạn An Sử. Bài thơ nổi tiếng của Đỗ Phủ ‘Xem người đẹp múa kiếm’ gợi cho người Việt Nam nhớ bài thơ bi tráng ‘Thuật hoài’ đêm thanh mài kiếm của Đặng Dung Bài này đã được giới thiệu tại “Đọc Đỗ Phủ nhớ Đặng Dung” .

Xem người đẹp múa kiếm
Đỗ Phủ
(Bản dịch của Nguyễn Minh)

Người đẹp họ Công Tôn thủa trước
Múa kiếm lên cả nước rung rinh
Vững lòng như núi cũng kinh
Đất trời cũng phải vị tình ngả nghiêng.

Sáng như Nghệ bắn văng vầng nhật
Uyển chuyển như tiên đáp lưng rồng
Tới như sấm sét bão bùng
Ngưng như biển lặng sông trong hiền hòa.

Tài hoa mãi cũng ra mai một
Học trò cưng sau rốt truyền nghề
Nữ nhi Lâm Dĩnh quán quê
Tới thành Bạch Đế diễn phô kiếm tài.

Câu hỏi đáp cùng người trao đổi
Nhìn người nay thương tới người xưa
Tám ngàn cung nữ của vua
Công Tôn múa kiếm mới vừa long nhan.

Năm mươi năm như bàn tay lật
Gió bụi nay phủ khắp cung rồi
Lê Viên phường hát tàn phai
Dư âm nữ nhạc còn nơi chiều vàng.

Gò Kim Túc cây hàng cung kính
Cỏ xác xơ thành đá Cù Đường
Tiệc hoa đàn sáo chợt ngưng
Sau vui buồn đến, mặt trăng ló rồi.

Thân già về chẳng có nơi
Chân chai núi vắng rã rời bước đi.

Nguyên tác Đỗ Phủ

七言古詩

杜甫

觀公孫大娘弟子舞劍器行并序

大歷二年十月十九日夔府別駕元持宅見臨潁李十二 娘舞劍器,壯其蔚跂。問其所師,曰︰余公孫大娘 弟子也。開元三載,余尚童稚,記於郾城觀公孫氏 舞劍器渾脫。瀏灕頓挫,獨出冠時。自高頭宜春梨 園二伎坊內人,洎外供奉,曉是舞者,聖文神武皇 帝初,公孫一人而已。玉貌錦衣,況余白首!今茲 弟子亦匪盛顏。既辨其由來,知波瀾莫二。撫事慷 慨,聊為劍器行。昔者吳人張旭善草書書帖,數嘗 於鄴縣見公孫大娘舞西河劍器,自此草書長進,豪 蕩感激。即公孫可知矣!

昔有佳人公孫氏, 一舞劍器動四方。
觀者如山色沮喪, 天地為之久低昂。
霍如羿射九日落, 矯如群帝驂龍翔,
來如雷霆收震怒, 罷如江海凝清光。
絳唇珠袖兩寂寞, 晚有弟子傳芬芳。
臨潁美人在白帝, 妙舞此曲神揚揚。
與余問答既有以, 感時撫事增惋傷。
先帝侍女八千人, 公孫劍器初第一。
五十年間似反掌, 風塵澒洞昏王室。
梨園子弟散如煙, 女樂餘姿映寒日。
金粟堆前木已拱, 瞿塘石城草蕭瑟。
玳筵急管曲復終, 樂極哀來月東出。
老夫不知其所往? 足繭荒山轉愁疾。

Quan Công Tôn đại nương đệ tử vũ kiếm khí hành
Tích hữu giai nhân Công Tôn thị Nhất vũ kiếm khí động tứ phương.
Quan giả như sơn sắc trở táng,
Thiên địa vi chi cửu đê ngang.
Quắc như Nghệ xạ cửu nhật lạc,
Kiểu như quần đế tham long tường.
Lai như lôi đình thu chấn nộ,
Bãi như giang hải ngưng thanh quang.
Giáng thần châu tự lưỡng tịch mịch,
Vãn hữu đệ tử truyền phân phương.
Lâm Dĩnh mĩ nhân tại Bạch Đế,
Diệu vũ thử khúc thần dương dương.
Dữ dư vấn đáp ký hữu dĩ,
Cảm thì phủ sự tằng uyển thương.
Tiên đế thị nữ bát thiên nhân,
Công Tôn kiếm khí sơ đệ nhất.
Ngũ thật niên gian tự phản chưởng,
Phong trần hồng động hôn vương thất.
Lê viên đệ tử tán như yên,
Nữ nhạc dư tư ánh hàn nhật.
Kim túc đôi tiền mộc dĩ củng,
Cù Đường thạch thành thảo tiêu sắt.
Đại diên cấp quản khúc phục chung,
Lạc cực ai lai nguyệt đông xuất.
Lão phu bất tri kỳ sở vãng,
Túc kiển hoang sơn chuyển sầu tật.

Dịch nghĩa

Bài hành xem học trò của đại nương Công Tôn múa điệu kiếm khí

Xưa có người đẹp họ Công Tôn,
Mỗi lần múa điệu kiếm khí, bốn phương rung động.
Người xem vững như núi cũng khiếp đảm.
Trời đất theo nhịp múa mà lên cao xuống thấp.
Sáng rực như Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời,
Vững vàng như các chúa tiên cỡi rồng lượn.
Đến khi sấm sét thu hết cơn giận dữ,
Dừng như sông bể đọng ánh sáng trong veo.
Làm môi thắm, tay áo ngọc nay đã vắng tênh,
Về già có cô học trò để truyền nghề.
ấy là người đẹp xứ Lâm Dĩnh ở thành Bạch Đế.
Múa khúc tuyệt diệu này, thần thái hiên ngang.
Cùng ta trò chuyện trong chốc lát,
Cảm thời thế nhiều ngang trái mà xót thương !
Thị nữ của tiên đế có tám nghìn người,
Kiếm khí của Công Tôn đứng hàng đầu.
Khoảng năm chục năm trôi qua tựa như trở bàn tay,
Gió bụi tơi bời tối tăm cả cung vua.
Đệ tử Lê viên tan tác như khói,
Phong tư đội nữ nhạc chỉ còn ánh nắng lạnh lẽo.
Trước gò Kim Túc, côi cối chầu hầu,
Nơi thành đá Cù Đường, cỏ xác xơ buồn bã.
Trên tiệc, khúc sáo dồn dập đã dứt
Vui xong sinh buồn, trăng mọc trời đông.
Già này chẳng biết sẽ đi về đâu,
Chân chai lê trong núi hoang theo nỗi sầu.

Thuật hoài
Đặng Dung
Bản dịch của Phan Kế Bính

Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.

Nguyên tác Đặng Dung

感懷
世事悠悠奈老何
無窮天地入酣歌
時來屠釣成功易
運去英 雄飲恨多
致主有懷扶地軸
洗兵無路挽天河
國讎未報頭先白
幾度龍泉戴月磨

Phiên âm Hán-Việt:

Cảm hoài
Thế sự du du [2] nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca[3].
Thời lai đồ điếu [4] thành công dị.
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ [5] hữu hoài phù địa trục[6],
Tẩy binh [7] vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo [8] đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền [9] đới nguyệt ma.

Chép theo Ngữ văn 10 (nâng cao), sách đã dẫn. Có bản chép khác: Thế lộ (câu 1), Nhập thù ca (câu 2), Sự khứ (câu 4), Trí chúa hữu tâm (câu 5), vị phục (câu 7).

Dịch nghĩa:
Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào?
Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca.
Khi gặp thời, người làm nghề hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ thành công,
Lúc lỡ vận, bậc anh hùng đành phải nuốt hận nhiều.
Giúp chúa, những mong xoay trục đất lại,
Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống.
Thù nước chưa trả được mà mái tóc đã bạc sớm,
Bao phen mang gươm báu mài dưới bóng trăng.

THIẾU LĂNG THƠ “BÁT TRẬN ĐỒ”

Đỗ Phủ thăm Bát trận đồ do Khổng Minh thời Tam quốc dựng thành tại huyện Phụng Tiết tỉnh Tứ Xuyên. Tướng Ngô là Lục Tốn bị quân Thục vây hăm tại đây nhưng nhờ được nhạc phụ của Khổng Minh là Hoàng Thừa Ngạn chỉ đường nên ra thoát. Khổng Minh chưa ra khỏi nhà tranh đă biết thiên hạ thế chia làm ba Thục Ngô Ngụy (tam phân quốc) Thụ liên Ngô kháng Ngụy là đại kế xoay chuyển tình thế. Lưu Bị đánh Đông Ngô để trả thù cho Quan Vân Trường, bị thua to về tay Lục Tốn. Khổng Mình với “bát trận đồ” thể hiện minh triết và tầm nhìn sâu sắc của Khổng Minh. Đỗ Phủ thơ kiệt tác ‘Bát trận đồ” chỉ vỏn vẹn 23 chữ đã khái quát Tam Quốc và bài học bi tráng lịch sử.

Bát trận đồ
Đỗ Phủ
Bản dịch của Phan Kế Bính

Công trùm thế tam phân,
Tiếng thơm đồ bát trận.
Nước chảy đá trơ trơ,
Đánh Ngô còn để giận.

八陣圖

功蓋三分國,
名成八陣圖。
江流石不轉,
遺恨失吞吳。
Bát trận đồ

Công cái tam phân quốc,
Danh thành Bát trận đồ.
Giang lưu thạch bất chuyển,
Di hận thất thôn Ngô.
Dịch nghĩa

Công lớn trùm khắp, nước chia làm ba,
Nổi danh trận đồ Bát quái.
Nước sông cứ chảy đá không lay chuyển,
Để lại hận đã thất kế thôn tính Ngô.

ĐỖ PHỦ THI THÁNH THI SỬ

Năm Chí Đức thứ 2 ( 757) đời Đường, Đỗ Phủ bị kẹt lại trong thành Tràng An đã lọt vào tay loạn tướng An Lộc Sơn. Núi sông vẫn như cũ nhưng nước mất nhà tan. Xuân về nhưng thành Tràng An hoang tàn sau nguy biến. Đỗ Phủ xuân vọng lời thơ cảm khái và bi thương. Khoảng 1500 bài thơ của ông lời vào châu ngọc như sử thi khắc vào đá. Văn hóa Trung Quốc cổ điển, văn học Nhật Bản rất trọng bút pháp sử thi tuyệt diệu này

Xuân vọng
Đỗ Phủ
Bản dịch của Trần Trọng Kim

Nước phá tan, núi sông còn đó
Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu
Cảm thời hoa rỏ dòng châu
Biệt ly tủi giận, chim đau nỗi lòng
Ba tháng khói lửa ròng không ngớt
Bức thư nhà, giá đắt bạc muôn
Gãi đầu tóc bạc ngắn ngun
Dường như hết thảy, e khôn búi tròn.

Nguồn: Trần Trọng Kim, Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995
春望

國破山河在,
城春草木深。
感時花濺淚,
恨別鳥驚心。
烽火連三月,
家書抵萬金。
白頭搔更短,
渾欲不勝簪。
Xuân vọng

Quốc phá sơn hà tại,
Thành xuân thảo mộc thâm.
Cảm thì hoa tiễn lệ,
Hận biệt điểu kinh tâm.
Phong hoả liên tam nguyệt,
Gia thư để vạn kim.
Bạch đầu tao cánh đoản,
Hồn dục bất thăng trâm.
Dịch nghĩa

Núi sông còn đó mà nước mất rồi,
Thành ngày xuân hoang tàn, cỏ cây rậm rạp.
Cảm thương thời thế mà hoa ướt lệ,
như con chim bị tên, kinh sợ sự chia lìa.
Khói lửa báo giặc giã cháy suốt ba tháng liền.
Thư nhà lúc này đáng vạn đồng.
Gãi mái đầu bạc thấy càng thêm thưa, ngắn,
Muốn cài trâm mà chẳng được.
(Năm 757)

Mao ốc vị thu phong sở phá ca là kiệt tác Thi Thánh của Đỗ Phủ. Hiện nay, bảo tàng Du Fu Caotang, nằm bên cạnh Công viên Huanhuaxi ở quận Qingyang của Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên có lưu giữ những di vật của ông. Bảo tàng Du Fu Caotang có diện tích 24 ha, được công bố thành lập vào ngày 4 tháng 3 năm 1961 là đợt đầu tiên của các địa điểm bảo vệ di tích văn hóa trọng điểm quốc gia Trung Quốc. Tái công bố là địa điểm bảo vệ di tích văn hóa đầu tiên ở tỉnh Tứ Xuyên vào ngày 7 tháng 7 năm 1980

Lều tranh bị phá do gió thu
Đỗ Phủ
Bản dịch của Nguyễn Minh

Gió mùa thu hú cơn cuồng nộ
Cuốn phăng ngay mái cỏ nhà tôi
Qua sông cỏ rải tơi bời
Trên cao vướng mắc khơi khơi trên cành
Dưới thấp thì chìm trong ao nhỏ
Trẻ xóm nam khi dễ ông già
Nỡ làm giặc cướp trước nhà
Ngang nhiên ôm cỏ mang qua nhà mình
Kêu khô cổ không giành được chúng
Trở về nhà gậy chống thở than
Lát sau gió mạnh cũng tan
Trời chiều đen tối, không gian mịt mù
Chăn vải cũ lạnh như tấm sắt
Con cưng nằm đạp rách tan hoang
Đầu giường nước dột mênh mang
Hạt mưa không ngớt rơi tràn thâu đêm
Từ khi loạn ít đêm ngủ được
Nay mưa rơi ướt át chịu sao
Uớc chi có một toà nào
Rộng ngàn căn hộ, bọc bao muôn người
Mưa gió lớn khôn lay chuyển nổi
Vững như non mãi mãi an toàn
Bao giờ toà đó thành hoàn
Thì nhà mái lật, cũng cam lòng này.
茅屋為秋風所破歌

八月秋高風怒號,
卷我屋上三重茅。
茅飛渡江灑江郊,
高者掛罥長林梢,
下者飄轉沉塘坳。
南村群童欺我老無力,
忍能對面為盜賊。
公然抱茅入竹去,
唇焦口燥呼不得,
歸來倚杖自歎息。
俄頃風定雲墨色,
秋天漠漠向昏黑。
布衾多年冷似鐵,
驕兒惡臥踏裡裂。
床頭屋漏無干處,
雨腳如麻未斷絕。
自經喪亂少睡眠,
長夜沾濕何由徹!
安得廣廈千萬間,
大庇天下寒士俱歡顏,
風雨不動安如山!
嗚呼!何時眼前突兀見此屋,
吾廬獨破受凍死亦足!
Mao ốc vị thu phong sở phá ca

Bát nguyệt thu cao phong nộ hào,
Quyển ngã ốc thượng tam trùng mao.
Mao phi độ giang sái giang giao.
Cao giả quái quyến trường lâm sao,
Hạ giả phiêu chuyển trầm đường ao.
Nam thôn quần đồng khi ngã lão vô lực,
Nhẫn năng đối diện vi đạo tặc.
Công nhiên bão mao nhập trúc khứ,
Thần tiều khẩu táo hô bất đắc.
Qui lai ỷ trượng tự thán tức.
Nga khoảnh phong định vân mặc sắc,
Thu thiên mạc mạc hướng hôn hắc.
Bố khâm đa niên lãnh tự thiết.
Kiều nhi ác ngoạ đạp lý liệt.
Sàng đầu ốc lậu vô can xứ,
Vũ cước như ma vị đoạn tuyệt.
Tự kinh táng loạn thiểu thuỵ miên,
Trường dạ chiêm thấp hà do triệt.
An đắc quảng hạ thiên vạn gian,
Ðại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan,
Phong vũ bất động an như san.
Ô hô, hà thời nhãn tiền đột ngột kiến thử ốc,
Ngô lư độc phá thụ đống tử diệc túc.
Dịch nghĩa

Tháng tám, trời thu cao, gió giận dữ gào thét,
Cuốn đi ba lớp cỏ tranh trên mái nhà ta.
Cỏ tranh bay qua sông, rải xuống miền đất bên sông.
Cao thì vắt vẻo treo trên ngọn cây rừng;
Thấp thì tả tơi rơi chìm xuống ao nước.
Lũ trẻ xóm nam khinh ta già yếu,
Nhẫn tâm làm giặc cướp ngay trước mặt ta.
Chúng công khai ôm cỏ tranh đi vào trong xóm trúc;
Ta khô môi rát miệng, kêu thét mà không được.
Trở về, chống gậy, thở than.
Một lát sau, gió yên mây đen như mực.
Trời thu bát ngát đen tối lúc chiều tà.
Chiếc chăn vải dùng nhiều năm, lạnh như sắt,
Bị đứa con thơ khó ngủ đạp rách toang.
Ở đầu giường mái nhà dột, không chổ nào khô;
Vết mưa nhiều như gai vẫn còn chưa hết.
Từ khi gặp cơn loạn lạc, mình ít ngủ,
Suốt đêm dài ướt đẫm, biết làm sao hết được!
Mong sao có được ngàn vạn gian nhà lớn,
Để giúp cho các hàn sĩ trong thiên hạ đều được vui vẻ,
Không bị kinh động vì mưa gió, yên ổn như núi non!
Hỡi ôi, biết bao giờ được trông thấy nhà này đứng cao sững trước mắt,
Dù cho riêng nhà ta bị phá vỡ, mình có chịu rét đến chết, cũng thoả lòng!
(Năm 761)

Đỗ Phủ Thi Thánh Thi Sử thời nhà Đường Trung Hoa với bài thơ Xem người đẹp múa kiếm ca ngợi tài nghệ múa kiếm tuyệt luân của mỹ nhân Công Tôn Đại Nương. Đọc thơ Đỗ Phủ liên tưởng tới bài thơ ‘Thuật hoài’ của tráng sĩ Đặng Dung, danh tướng thời Hậu Trần của Việt Nam đêm thanh mài kiếm, ngẫm kỹ thấy có sự tương đồng. Đọc các bài “Bát trận đồ” “Xuân vọng” “Túp lều tranh nát dưới gió thu” càng thêm cảm khái.

Ôi, danh sĩ tinh hoa đức độ tài năng thời nào cũng có, gặp thời nhiễu loạn, đành vàng lầm trong cát, nhưng nhân cách vẫn lồng lộng như gương trời buổi sớm.

Nguồn: Đỗ Phủ thương đọc lại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/do-phu-thuong-doc-lai/; đọc thêm: Nắng Đông Lời Thầy dặn Thung dung Lời thương Đối thoại với Thiền sư

CẦU BẠCH SÔNG NGỌC LAM KINH
Đỗ Dung ảnh đẹp bạn mình thật duyên

Hoàng Kim

MAY MÀ…
Lê Đình Cánh 

May mà Huế ở Thừa Thiên
Kinh kỳ thuở trước còn nguyên cổ thành
Tháp xưa còn tiếng chuông lành
Tường rêu còn nhuộm sứ sành sắc lam.

May mà Huế ở trời Nam
Còn câu đối cũ dựng am sách nghèo
Nhà vườn còn gác trăng treo
Còn diều khuê các bơi chèo gió xanh.

Nếu mà Huế ở xứ Thanh
Lầu son ngói nát, Cổ thành gạch tan
Hán Nôm nghìn tuổi thành than
Nền xưa dấu cũ hoang tàn nắng mưa.

Đến với bài thơ hay
Lời bình của Bulukhin

Lê Đình Cánh là một trong những nhà thơ mà tôi yêu thich. Trong khi lục bát Đồng Đức Bốn xuất thần, bạo liệt, có lúc bụi bặm… Lục bát Nguyễn Duy tài hoa mà hóm hỉnh, thì lục bát Lê Đình Cánh cứ rỉ rả mà thâm trầm sâu cay. Thọ Xuân là quê ông,”May mà” là bài thơ ông nói về quê mình?? Ở đó có Lam Kinh, một khu di tích rộng khoảng 30 ha ở xã Xuân Lam. Lam Kinh có đến 14 công trình di tích như Ngọ môn, Sân rồng, Chính điện Lam Kinh, Khu thái miếu triều Lê sơ, Lăng mộ các vua và hoàng hậu, Vĩnh lăng, Bia Vĩnh Lăng, Hựu lăng, Chiêu lăng, Dụ lăng, Kinh lăng, Khu đền thờ Lê Lợi, Khu đền thờ Lê Lai, Đền thờ Bố Vệ. Nhà nước đã bỏ ra vô số công sức và tiền của để tôn tạo phục chế lại Lam Kinh nhưng rồi không hiểu sao vong linh các vua Lê cứ hỏi nhau nơi đây là đâu nhỉ? Có phải là Lam Kinh vàng son trên đất Thọ Xuân không? Lê Đình Cánh làm thơ chứ không làm vua nên ông không hỏi thế. Mà hỏi ai? và ai trả lời? ông chỉ hú vía thốt lên “may mà” nghe sao mà ai oán. 

May mà Huế ở Thừa Thiên
Kinh kỳ thuở trước còn nguyên cổ thành 

Đọc đến đó chưa ai hiểu nhà thơ nói gì. Thì Huế vẫn còn cho nên Unesco mới phong tặng danh hiệu Di sản văn hoá của nhân loại chứ sao. Tiếp theo tác giả vẫn tiếp tục rỉ rả với cố đô Huế

May mà Huế ở trời Nam
Còn câu đối cũ dựng am sách nghèo…

Thế rồi đột ngột như cầu thủ nhà nghề phạt trực tiếp 11 mét. Tác giả cho bóng vào gôn 

Nếu mà Huế ở xứ Thanh 
Lầu son ngói nát cổ thành gạch tan

Lê Đình Cánh tuyệt nhiên không nói đến Lam Kinh, vì sao vậy? vì Xứ Thanh là phát tích nhiều triều đại vua chúa chứ đâu chỉ có các đời vua thời hậu Lê. Có lẽ những Lê Hoàn, những chúa Trịnh, chúa Nguyễn rồi vua Nguyễn cũng không còn lăng tẩm mà về vì hậu duệ thời a còng đang làm cái việc gọi là duy tu và tôn tạo các di tích lich sử và văn hoá…

                                                      Nguồn từ Blog HOCMOINGAY

Đá Dựng Đại Lãnh

NỐT LẶNG BÊN ĐỜI
Hoàng Kim

Ta vừa mới Đùa vui cùng Thuận Nghĩa
Nay thung dung dạo gót ngắm Đôi bờ
Nốt lặng bên đời sớm xuân thưởng thức
Nghe tơ trời gió mát lẫn vào thơ.

Mượn và trả, thơ hay đong cõi thực
Bến trần gian đò mỏng… , Thiếu mùa đông
Tiếng chuông chùa, nghe đêm, nốt lặng
Rụng nắng, Vòng quay…, chầm chậm trời chiều.

Mượn và trả
Nguyễn Duệ Mai

Cho em mượn, nắng và mây anh nhé
Để lang thang cùng với cánh chim trời
Cho em mượn, gió và mưa anh nhé
Để yếu mềm cùng với mảnh buồm trôi
Cho em mượn những câu thơ anh nhé
Để lẳng lơ cùng nốt lặng bên đời
Cho em mượn cây cọ màu anh nhé
Để ngoại tình cùng bức vẽ tinh khôi

Em sẽ trả
Đôi vai mình bé nhỏ
Cho anh gục đầu…
Nơi cõi thực đầy vơi…

Bến trần gian đò mỏng…
Nguyễn Duệ Mai

Cần bao nhiêu giọt nắng
Mới thành một mùa vàng?
Cần bao nhiêu khoảnh khắc
Mới xếp được thời gian?

Ta như hai giọt nắng
Không thể gộp thành chiều
Ta như hai cung bậc
Không thể gộp thành yêu!

Cánh chim không lẻ bạn
Vẫn lạc giữa cuộc đời
Con thuyền neo bãi cạn
Vẫn mơ ngày xa khơi…

Bến trần gian đò mỏng
Xô lệch mái chèo đời
Buông câu thơ khỏa sóng
Buồn đầy rồi sẽ vơi…

Thiếu một mùa đông
Nguyễn Duệ Mai

Ta đã vẽ được mùa xuân
Bằng những sắc xanh hy vọng
Có đàn Én chao cánh mỏng
Cây non hé búp yên bình

Ta đã vẽ được mùa hạ
Đôi lằn nắng lửa mưa giông
Đỏ chói ngang trời tia chớp
Bão tan đất lại mềm lòng

Ta đã vẽ được mùa thu
Thấp đằm sắc vàng của nắng
Thầm lặng từng làn mây trắng
Du miên theo ký ức về…

Nhưng chưa vẽ được mùa đông
Tô màu gì cho gió bấc?
Hay là mông lung ánh mắt?
Hay là bôi xám toàn khung?

Bởi không vẽ được mùa đông
Nên vòng luân hồi còn khuyết

Làm sao tu cho trọn kiếp
Khi còn thiếu một mùa đông?!

Tiếng chuông chùa
Nguyễn Duệ Mai

Ta đi mượn tiếng chuông chùa
Đem về gọi nắng để xua mưa dầm
Chuông kêu, đời vẫn lặng câm
Nắng chang chang nắng, mưa dầm dầm mưa!

Hỏi sư, chẳng thấy sư thưa
Chỉ nghe tiếng lá lạc mùa gọi nhau…

Rụng nắng
Nguyễn Duệ Mai
Một chiều,
Rung gốc thời gian
Bao nhiêu hoa nắng
Rụng vàng xuống tay!

Sao không thành quả trên cây
Mà rơi hoang phí thế này…
Nắng ơi!

Vòng quay…
Nguyễn Duệ Mai

Khoác chiều hờ hững trên vai
Ta đi theo vệt nắng cài nghiêng nghiêng

Lá vàng rụng nửa hàng hiên
Mà hồn còn lạc ở miền cỏ hoa

Tuổi qua
Cảm xúc chưa qua
Tình còn
Mộng đã rời xa mất rồi

Xuân tàn
Hạ cũng chơi vơi
Thu chờ se sắt
Đông trôi lặng trầm

Chênh vênh một khúc nguyệt cầm
Nghe thời gian vọng thì thầm bên tai

Khoác chiều chầm chậm lên vai
Bánh xe duyên phận nối dài vòng quay…


ĐẾN VỚI BÀI THƠ HAY
Hoàng Kim

Sáng nay vui với trẻ thơ.
Buổi chiều ướm thử giày xưa giật mình.
Thơ hay đẹp cả lời bình
Mai vàng, mây thắm, lung linh sắc màu

ƯỚM THỬ GIÀY XƯA
Duệ Mai

Dừng chân,
Ướm thử giày xưa
Gót qua dâu bể
Còn vừa nữa đâu!

Ngỡ như mới giập bã trầu
Mà thời gian đã nhuốm màu bạc vôi!
Dấu son trải dọc đường đời
Chỉ mình mình biết sạn rơi kẽ nào…

Tháo ra, dốc hết lao xao
Lót thêm lành lặn, trả vào khôi nguyên.
Giày xưa
Da hãy còn mềm
Chân nay
Chai đã cứng thêm mấy phần!

Thở dài, đóng lại tần ngần
Lạc giày, lạc cả bước chân…
Thôi đành!


GIÀY VÀ THƠ
Lời bình của Thanh Vân

Tôi có một anh bạn làm phóng viên viết về mảng thời trang và văn hoá ở một tờ báo ăn khách nọ. Hắn biết tôi thích ngắm gái đẹp, lại có chút năng khiếu “hỏi xoáy đáp xoay “ nên mỗi lần đi phỏng vấn hoa hậu, người mẫu, hắn thường rủ tôi đi cùng. Năm trước, nhờ có tôi mà bài phỏng vấn hoa hậu X của hắn, báo bán chạy như tôm tươi, hắn được Tổng biên tập khen và thưởng cho một tháng du lịch đảo Phú Quốc để theo dõi và viết bài đưa tin về cuộc thi hoa hậu Việt Nam 2014. Tôi còn nhớ như in lần đó, khi nàng ô sin đẹp tuyệt trần (tôi đã tưởng nhầm là hoa hậu) ra mở cổng và dẫn chúng tôi vào phòng khách là lúc hoa hậu X đang thử giày để tối đi dự event từ thiện. Ở một góc phòng khách, một cái tủ to tướng cơ man là giày được trưng bày như ở một cửa hàng giày thời trang trong siêu thị Tràng Tiền Plaza. Như bạn bè người thân trong nhà, nàng vẫy hắn và tôi đến bên gian hàng, nàng chỉ từng đôi, từng đôi một, giới thiệu tên hãng và xuất xứ của nó. Tôi hỏi nàng đây là cửa hàng giày cũ hay giày mới. Giọng nàng ngọt ngào và tự hào : giày xưa đấy anh . Nó đã in dấu chân em trên đại lộ Paris, đại lộ thành Rome, đại lộ Holywood v.v…Buổi phỏng vấn nàng về từ thiện lại thành buổi phỏng vấn về thời trang giày và những bước đi trên sàn catwalk . Nàng hết thử đôi này đến đôi khác, dạo những bước chân uyển chuyển. Anh bạn tôi hết đứng, lại ngồi, lại khom lưng qùi gối chụp ảnh nàng lia lịa. Còn tôi vừa ngắm nàng vừa hỏi nàng những câu hỏi bâng quơ về giày. Tôi còn nhớ một số câu hỏi đại loại như sau:
– Màu sắc giày em yêu thích là màu gì?.
– Em thích màu hồng, màu tím, màu của bình minh và màu của thủy chung.
– Vì sao em lại thích bộ sưu tập giày ?.
– Vì giày gắn liền với bước chân. Nhiều bước chân cộng lại là lịch sử của cuộc đời…
– Em có hay đi lại giày cũ không?
– Thường xuyên. Vì mỗi lần đi giày cũ em như trở về quá khứ.
– Bây giờ đi lại đôi giày lúc đăng quang hoa hậu em thấy chân mình còn vừa không? Một câu hỏi khó và một thoáng bối rối trên khuôn mặt nàng:
– Vẫn vừa. Bàn chân em vẫn không thay đổi, vẫn size 36 như lúc đăng quang.
……..Khi tôi nói chuyện với nàng, anh bạn phóng viên của tôi đã mở máy ghi âm ghi lại tất cả để làm tư liệu bài viết. Ngồi trên xe lúc ra về, hắn lại mở ra nghe và bình luận. Hắn khen nàng là hoa hậu Việt Nam thông minh nhất từ trước đến nay. Hắn khuyên tôi nên viết một bài thơ về nàng, về những đôi giày của nàng. Hắn hứa sẽ đăng trên báo của hắn và trả nhuận bút cao hơn mọi người.

……..Hắn cứ tưởng làm thơ là dễ lắm, dễ hơn viết những câu chuyện lá cải của hắn. Đã mấy tháng nay, đầu óc tôi mụ mị, chẳng viết nỗi một câu thơ nào. Nàng thơ bỏ tôi mà đi thật rồi. Để duy trì và tìm lại cảm xúc thơ, đêm nào tôi cũng miệt mài đọc thơ cho đến tận một giờ sáng rồi mới đi ngủ. Thơ trên báo Văn Nghệ Già, Văn Nghệ Trẻ, Văn Nghệ Quân Đội, Tác Phẩm Mới, thơ trên Facebook, thơ trên các trang Web, thơ tập bạn bè tặng v.v…Giữa núi thơ biển chữ tôi đâm hoang mang. Tập thơ Mùa thu gõ cửa -Lão Chiếu ( tên thật là Nguyễn Thanh Quang ) tặng tôi đã hơn tháng vẫn chưa đọc. Tôi nghĩ lão là anh vô danh tiểu tốt trong làng Văn, lão biên tập và xuất bản chắc có gì hay mà đọc. Ừ lão có nhã ý tặng thì đọc xem sao, biết đâu gặp được bài thơ hay?. Và khi đọc xong tập thơ này, tôi thấy mình đã hiểu sai lão. Với hơn một trăm bài thơ của 54 tác giả tôi đã như lạc vào một vườn hoa đầy hương sắc. Có rất nhiều câu thơ lấp lánh và nhiều bài thơ long lanh, thực sự là thơ. Ví dụ như Lời Thị Màu ( Hoàng Kim Hương ), Khúc em xa, Viết trước cổng chùa ( Đặng Khánh Cường ), Chị ngồi giặt áo ( Nguyễn Lâm Cẩn ), Hà Nội sang mùa ( Đỗ Minh Ngọc ), Gia điệu thu Hà Nội ( Nguyễn Thị Lan Anh ), Đi qua chiều Hà Nội (Dương Thu Hương) v.v…Trong đó tôi ấn tượng nhất là ba bài : Dắt mùa, Vết nứt và Ướm thử giày xưa của Duệ Mai. Trong ba bài tôi lại tâm đắc bài Ướm thử giày xưa. Vì đây là bài thơ viết về giày mà anh bạn tôi đặt hàng viết cho cô hoa hậu trong chuyến đi phỏng vấn mà tôi không sao viết nổi. Bạn thử đọc bài thơ này của Duệ Mai :

Dừng chân,
Ướm thử giày xưa
Gót qua dâu bể
Còn vừa nữa đâu!

Ngỡ như mới giập bã trầu
Mà thời gian đã nhuốm màu bạc vôi!
Dấu son trải dọc đường đời
Chỉ mình mình biết sạn rơi kẽ nào…

Tháo ra, dốc hết lao xao
Lót thêm lành lặn, trả vào khôi nguyên.
Giày xưa
Da hãy còn mềm
Chân nay
Chai đã cứng thêm mấy phần!

Thở dài, đóng lại tần ngần
Lạc giày, lạc cả bước chân…
Thôi đành!

Bài thơ thật gọn gàng xinh xắn , câu chữ giản dị , nhưng thật ám ảnh và ma mị. Bàn chân khi đã đến tuổi trưởng thành mấy khi thay đổi. Bao năm tôi vẫn đi cỡ giày 41. Nàng hoa hậu vẫn đi giày cỡ 36 đấy thôi. Thế mà Duệ Mai ướm lại giày xưa thì không vừa “ Gót qua dâu bể/ Còn vừa nữa đâu …” Chỉ thi nhân mới nói được câu này. Không vừa giày, vì trải qua dâu bể , bàn chân đã mòn đi. Cuộc đời con người là cõi tạm trần gian. Thời gian như làn mây bay qua đầu, như nước chảy qua cầu. Mỗi bàn chân gắn với một đôi giày và một số phận. Khổ đau, hạnh phúc mỗi mình ta biết. Đôi giày như người tri âm, tri kỷ biết sẻ chia , biết sạn rơi kẽ chân nào . Một khoảng thời gian, một chặng đường của một con người thường gắn bó một đôi giày. Cất giữ giày cũ là cất giữ quá khứ. Ướm thử giày cũ là để trở về với quá khứ. Và chẳng ai sống mãi với quá khứ. Rồi đành lòng gói lại quá khứ để bước tiếp với đôi giày mới và bước chân mới. Bài thơ đã chọn được một thi tứ độc đáo. Mượn giày để nói về nhân tình thế thái, nỗi buồn vui cuộc đời người.
…….Tôi đã hơi dông dài. Nhưng thật thiếu sót khi bỏ qua nghệ thuật con chữ của bài thơ này. Về hình thơ chẳng có gì mới , là thể lục bát ngắt câu mà nhiều nhà thơ hiện nay hay dùng . Nhưng sự gieo con chữ trong bài thơ Ướm thử giày xưa của Duệ Mai thì rất tài hoa . Ngôn từ rất gợi và rất ẩn dụ, nói ít hiểu nhiều: gót qua dâu bể, dấu son trải dọc đường đời, dốc hết lao xao, lót thêm lành lặn, trả vào khôi nguyên, đóng lại tần ngần, lạc giày, lạc cả bước chân. Nói về thời gian Duệ Mai cũng có cách nói rất mới , rất khác người. Chị ví thời gian đời người con gái như người nhai miếng trầu, mới đầu là đỏ thắm, là nồng say, cuối cùng là xác bã trắng, nhạt thếch : Ngỡ như mới giập bã trầu / Mà thời gian đã nhuốm màu bạc vôi!. Bài thơ là toàn bích. Nhưng chữ thôi đành kết thúc bài thơ sao an phận quá. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại cũng chẳng biết dùng chữ nào khác. Nó cũng như câu chào tạm biệt hẹn gặp lại mà mọi cuộc chia tay đều có.
……..Đến bây giờ tôi vẫn chưa biết Duệ Mai là ai, là nhà thơ chuyên nghiệp hay là người viết để giải toả lòng mình. Nàng có đẹp như thơ của nàng không? Nếu nàng còn trẻ và đi thi hoa hậu, nếu phần thi vấn đáp là câu hỏi : Bạn nghĩ gì khi đi lại đôi giày cũ của mình? Với ý thơ này tôi chắc nàng sẽ được điểm cao nhất phần thi vấn đáp. Nhưng ngôi hoa hậu, á hậu 1, á hậu 2 chẳng thuộc về nàng…

Thanh Vân  (mây thắm)

Xem tiếp:
Đến với bài thơ hay

DSC09855

ĐẾN VỚI BÀI THƠ HAY
Hoàng Kim

Đọc “Em tôi” của Lê Thuận Nghĩa “Bao người miếng ngập giữa làng. Hạt mè hột đậu em rang đợi người. Trúc xinh đình rộng phỡn phơi. Em tôi lặng chín cả thời xưa nay.”,  tôi nhớ Hoàng Ngọc Dộ trang thơ khát vọngHôm nay anh được chén cơm ngon. Cửa miệng anh ăn nuốt chả trơn. Bởi lẽ ngày dài em lam lũ. Mà sao chỉ được bữa cơm tròn.

EM TÔI
Lê Thuận Nghĩa

Bao người cũ đã mới rồi
Chỉ còn em vẫn kín thời ngày xưa
Đèo heo mấy bận mút mùa
Mờ môi hút gió nhặt thưa nụ cười

Bao người đã bỏ cuộc chơi
Riêng em nhặt nắng cuối trời ra hong…
Bò hóc mắm ủ lòng tong
Để cho bò tó ấm cùng hốc hang

Bao người miếng ngập giữa làng
Hạt mè hột đậu em rang đợi người
Trúc xinh đình rộng phỡn phơi
Em tôi lặng chín cả thời xưa nay

Không lời gửi cuối đuôi mày
Mà nghe đến tận ngất ngây mùa màng
Không lời yểm dụ kim thang
Em tôi bí rợ tập tàng hồn Quê

Em tôi
Cõi mộng
Tôi về….

SỚM THU
Hoàng Kim

Ngâm nga một chút
Bài thơ thật hiền
Nhớ con, nhớ cháu
Huế mùa bình yên.

Thanh Bình giỏi quá!
Anh Vinh thật tài!
Sớm Thu nắng ấm
Trong lành mắt ai.

THU
Tác giả: Phan Thị Thanh Bình

Thu về quyến rũ
Em vội vàng chi
Ngắm thu một chút
Nghe thu thầm thì

Heo may gọi lá
Quyện vào gót chân
Nhắc em khe khẽ
Đông đang đến gần

Nắng vàng trải mật
Hoa sữa thơm nồng
Em quay quắt nhớ
Một thời mắt trong…

PTTB

Kim Hoàng
Thơ hay ảnh đẹp Nguyên Hùng
Bình an ngày mới, vui cùng SỚM THU

Thơ Lục Bát Xứ Nghệ
Sang trọng và Hào hoa
Lời hẹn tình quê vẹn
Đàn Đá thương Bến Xưa

Đọc “Lục Bát Xứ Nghệ”
Nhớ “Nốt lặng bên đời”
Đỗ Phủ thương đọc lại
Thác nước giữa lòng người

Sớm Thu thơ giữa lòng

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365 bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video nhạc tuyển yêu thích

Chỉ tình yêu ở lại

Ban mai chợt tỉnh thức

Vuonxuan

KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

Advertisement