Thể loại:
Pyotr I của Nga
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mục từ “Peter Đại đế” dẫn đến bài này. Xin đọc về một vị vua xứ Aragon tại bài
Peter III của Aragon.
Pyotr I (tiếng Nga: Пётр Алексеевич Романов, Пётр I, Пётр Великий), có sách viết theo tiếng Anh là Peter I hay tiếng Pháp là Pierre I (s. 10 tháng 6 năm 1672 tại Moskva – mất 8 tháng 2 năm 1725 tại Sankt-Peterburg) là Sa hoàng của nước Nga cũ và sau đó là Hoàng đế của Đế quốc Nga (từ năm 1721), đồng cai trị với vua anh Ivan V – một người yếu ớt và dễ bệnh tật – trước năm 1696. Ông được tôn là Pyotr Đại đế (hay Pierre Đại đế, Pi-e Đại đế, tiếng Nga: Пётр Великий, Pyotr Velikiy). Ông được xem là một trong những nhà cải cách kiệt xuất trong lịch sử Nga.[1]
Vua Pyotr Đại đế đã tiến hành cuộc cải tổ lớn lao tại nước Nga Sa hoàng. Trong những năm 1697 – 1698 ông đi vòng quanh Tây Âu, học được những điều mới lạ ở đó và truyền vào Nga. Dưới triều ông, nước Nga có nền kinh tế phát triển và thành lập thể chế nghị viện. Trong việc xây dựng đất nước, Pyotr thường tham vấn những cố vấn tài ba người nước ngoài.[2] Nhờ vậy, dưới triều đại không lâu dài của ông (1696 – 1725), nước Nga trở thành một đế quốc hùng cường trên thế giới thời đó, Hải quân Nga được thành lập. Người Nga đã có đủ sức giành chiến thắng trước hai cựu thù vào thời đó là đế quốc Ottoman và Thụy Điển, nhằm tái chiếm các lãnh thổ đã mất và lấy đường thông ra biển.[2]
Năm 1703, ông hạ lệnh cho xây dựng thành phố Sankt-Peterburg. Chính tại đây, năm 1782 người ta đã hoàn thành việc xây cất tượng Pyotr I – tức tượng “Kị sĩ đồng”.[3] Sankt-Peterburg trở thành một “thành Venezia của phương Bắc”, và trở thành kinh đô nước Nga vào năm 1712. Người ta đã ca ngợi ông như một vị “Đại đế Ross toàn nước Nga”, hay “Cha của Tổ quốc”.[4]
Thân thế
Pyotr Đại đế khi còn nhỏ tuổi.
Qua cuộc hôn nhân thứ nhất của mình, Nga hoàng Aleksei I có hai hoàng tử và sáu công chúa[5]. Trong số đó có Fyodor (Theodore) sau này lên làm vua ở tuổi 15 tuổi. Fyodor là con trai trưởng của Hoàng hậu quá cố Maria Ilyinichna Miloslavskaya, tức là anh cùng cha khác mẹ của Pyotr, lên ngôi vua. Hoàng tử Fyodor là một người yếu đuối, nhưng đã được Aleksei I phong làm Thái tử một năm trước khi ông vua này qua đời.[5]
Người con trai thứ của Aleksei I là Ivan (còn gọi là John) còn xấu số hơn cả hoàng tử Fyodor: Ivan gần như bị mù và câm, lại còn rất ốm yếu và mắc phải chứng co giật. Trong sáu người con gái của vợ cả Aleksei I, công chúa Sophia được nhiều người châu Âu biết đến hơn cả. Sophia là người có tài năng, sau này đã bất hòa với vua Pyotr Đại đế.[6]
Người vợ thứ hai của Aleksei I là con gái của boyar Narishkin. Bà đã sinh hạ hoàng tử Pyotr và công chúa Natalia. Năm 1672, Pyotr chào đời ngày 30 tháng 5 – tức ngày 10 tháng 6 theo lịch mới, lên bốn tuổi khi Nga hoàng Aleksei qua đời[6]. Ông có tên đầy đủ là Pyotr Alekseyevich Romanov (Пётр Алексеевич Романов).
Vua nhỏ mất quyền
Nga hoàng Aleksei I giao việc dạy dỗ hoàng tử Pyotr cho một số gia sư, nổi bật hơn cả là Nikita Zotov, Patrick Gordon và Paul Menesius. Ngày 29 tháng 1 năm 1676, Nga hoàng Aleksei I qua đời, truyền ngôi vua cho Fyodor III. Trong suốt thời gian này, cuộc đời thơ ấu của hoàng thân Pyotr trải qua bình lặng, Artamon Matveev – bạn của Aleksei I – nắm phần lớn quyền hành trong triều đình. Nga hoàng Fyodor III qua đời năm 1682 sau sáu năm trị quốc, hưởng dương 20 tuổi. Do Fyodor III không có con, tranh cãi về việc ai là người thừa kế ngôi vua nảy sinh giữa hai gia tộc Naryshkin và Miloslavsky. Pyotr, lúc đó 10 tuổi cùng với người anh cùng cha khác mẹ là Ivan, 17 tuổi là hai ứng viên của ngôi vua Nga. Do Ivan là một người yếu đuối, Hội đồng Boyar Duma của tầng lớp quý tộc Nga đã tôn Pyotr làm vua, mẹ ông là Natalia trở thành Thái hậu nhiếp chính. Theo truyền thống Nga, nhân dân Moskva đã được thông báo về việc phong vương cho Pyotr, và họ đồng ý. Ông được Tổng Giám mục và đa số lãnh chúa địa phương ủng hộ. Song Natalia lại là người hiền lành, lương thiện, thiếu tinh thần phấn đấu và trí tuệ cũng bình thường[7] và vì thế bà không hợp với vị trí nhiếp chính.
Vài tháng sau, người chị cùng cha khác mẹ của Pyotr, tức chị ruột của Ivan, Sophia Alekseyevna, đã xách động Cấm vệ quân Streltsy làm loạn. Trong cuộc nổi dậy của Cấm vệ quân Streltsy, một số người thân và bạn bè của Pyotr bị giết hại, trong số đó có Matveev. Bản thân Pyotr đã chứng kiến được một số vụ giết người trong cuộc bạo động này.[8] Sau cuộc nổi dậy từ tháng 4 đến tháng 5 năm 1682 của quân Streltsy, công chúa Sophia, gia tộc Miloslavsky (phe cánh của Ivan), cùng đồng minh của họ đã cho Ivan và Pyotr trị vì bên nhau với danh nghĩa đồng Sa hoàng – Ivan là Sa hoàng có vị thế cao hơn – là Sa hoàng đệ nhất, còn Pyotr chỉ là Sa hoàng đệ nhị. Công chúa Sofia Alekseyevna được cử làm Phụ chính. Quyền lực trong triều đình thực sự nằm trong tay Sofia.
Trưởng thành ở thôn dã
Trong thời gian Sofia điều hành việc nước, Pyotr rời xa kinh đô Moskva, lớn lên nơi thôn dã. Khi Pyotr lên 14, ông và mẹ là Natalia đến cư ngụ ở Cung điện Preobrazhenskoe, trong ngôi làng cùng tên dọc bờ sông Yauza, cách Moskva khoảng 5 km. Những trò chơi tập đánh trận mà Pyotr ưa thích biến nơi này thành một doanh trại quân đội hoàn chỉnh. Tổng cộng có 300 thiếu nhi và trai trẻ, sống trong những khu doanh trại, tập luyện như quân đội, sử dụng ngôn ngữ của quân đội và lĩnh lương theo chế độ quân đội. Một trong những thiếu niên này là Aleksandr Danilovich Menshikov, sau này trở thành đại thần thân thiết nhất của Pyotr. Pyotr xem tất cả thiếu niên đồng trang lứa như là bạn của mình, từ nhóm nhỏ này ông gây dựng nên Lữ đoàn Preobrazhenskoe. Đây cũng là lữ đoàn đầu tiên của lực lượng Cảnh vệ Hoàng gia mà lữ đoàn trưởng luôn luôn là Nga hoàng, mãi cho đến khi chế độ Nga hoàng bị Cách mạng Tháng Hai lật đổ vào năm 1917.
Không bao lâu, mọi doanh trại trong ngôi làng nhỏ bé Preobrazhenskoe đều chật lính, các doanh trại mới được xây dựng thêm ở ngôi làng Semyonovsky gần đó; với thời gian, đội quân này phát triển thành Lữ đoàn Semyonovsky, và là lữ đoàn thứ hai của lực lượng Cảnh vệ Hoàng gia. Mỗi lữ đoàn lúc sơ khai có 300 quân, được tổ chức thành bộ binh, kỵ binh và pháo binh giống như bên quân đội thực thụ. Lữ đoàn Cảnh vệ Hoàng gia cũng có hệ thống quân hàm, với sĩ quan trận địa, đội hậu cần, ban hành chính, ban quân lương, lính thổi kèn, lính đánh trống,… như bên quân đội.
Pyotr I lúc trẻ trong quân phục
kỵ binh. Trong chuyến đi Tây Âu, Pyotr đã tặng tấm hình này cho vua Anh William III.
Trong thời gian này, một thương nhân già người Hà Lan tên là Franz Timmerman đã dạy cho Nga hoàng Pyotr số học, hình học, cách tính toán đạn đạo,…[9] Đối với Pyotr, Timmerman vừa là chuyên gia tư vấn vừa là người bạn, và ông luôn giữ ông thầy bên mình để trả lời các câu hỏi liên tục tuôn ra từ vị Nga hoàng nhỏ tuổi.
Chính Timmerman và Pyotr tìm thấy một chiếc thuyền mục nát kiểu Anh, được một người Hà Lan khác sửa chữa, và ông này chỉ dẫn Pyotr lái chiếc thuyền. Nga hoàng Pyotr gọi chiếc thuyền này là “Thủy tổ của Hải quân Nga”, hiện được trưng bày ở Bảo tàng Hải quân Nga ở thành phố Sankt-Peterburg.
Sau đó, Nga hoàng Pyotr học đóng thuyền trên bờ hồ Pleschev, cách kinh đô Moskva gần 140 kilômét về phía đông bắc. Việc tình cờ tìm thấy chiếc thuyền và những bài học lái thuyền đầu tiên cùng với việc đóng những chiếc tàu khu trục nhỏ và thuyền buồm đầu tiên khởi đầu cho lòng đam mê biển và ước muốn học hỏi từ các nước Tây Âu của ông.
Vào ngày 27 tháng 1 năm 1689, Pyotr lên 17 tuổi và nghe theo lời mẹ, cưới Evdokiya Fyodorovna Lopukhina[10] – một cô gái xuất thân trong tầng lớp quý tộc, lúc đó lên 20. Họ có ba người con, trong số đó có Aleksei sống đến tuổi trưởng thành và Aleksandr qua đời 7 tháng sau khi ra đời. Tuy nhiên, mười năm sau, sau chuyến đi Tây Âu ông đã buộc Lopukhina trở thành một nữ tu sĩ và cuộc hôn nhân kết thúc.
Giành lại quyền lực
Pyotr Đại đế trong bộ chiến bào.
Sau bảy năm làm phụ chính bên cạnh vua em Ivan cũng yếu ớt như Fyodor, Sofia toan tính chuyện trừ diệt Pyotr và phế bỏ Ivan để chính thức làm nữ hoàng. Bấy giờ, Sophia đã bị mất uy tín sau thất bại trong hai cuộc chiến tranh vùng Krym. Nhờ sự ủng hộ của đông đảo quý tộc lúc đó, Pyotr I biết được ý định của Sofia. Ông còn được sự hỗ trợ đắc lực của 2 quân đoàn cấm vệ và các sĩ quan trong vệ đội hoàng gia, vì thế Pyotr không khó khăn bẻ gãy được ý định binh biến của Sofia.
Cuộc khủng hoảng bùng nổ vào ngày 17 tháng 8 năm 1689 giữa hai phe của Sofia và Pyotr Đại đế. Kết quả là Sofia bị lật đổ, bị tước bỏ hoàn toàn quyền hành rồi sau này bị đưa vào nữ tu viện Novodevichy. Từ đó, dù trên danh nghĩa, Ivan và Pyotr tiếp tục trị vì bên nhau nhưng trên thực tế quyền hành hoàn toàn do Pyotr nắm.
Trong 5 năm tiếp theo, Pyotr quay trở về Preobrazhenskoe và hồ Pleschev, vẫn sống theo lối sống thiếu niên thiếu quy củ, thiếu trách nhiệm, hoàn toàn dửng dưng với chính sự. Trước thời gian này, triều đình được điều hành bởi một nhóm nhỏ đã từng ủng hộ và dìu dắt ông trong cuộc đối đầu với Sofia và Thái hậu Nataliya Naryshkina. Năm 1694, khi Nataliya qua đời, Pyotr I trở thành một ông vua độc lập,[11] dù ông vẫn đồng trị vì với ông vua bất lực Ivan V.
Trong hai năm 1693 và 1694, Pyotr I đi đến Arkhangelsk để quan sát những hoạt động của một bến cảng, cách tập lái tàu biển, đặt mua chiếc tàu đầu tiên và đóng thêm tàu cho Hải quân Nga. Nhận thấy tầm quan trọng của nền hàng hải, ông càng quyết tâm học hỏi điều hay từ Tây Âu và chú tâm đến việc xây dựng cảng biển.
Ngày 8 tháng 3 năm 1696, Nga hoàng Ivan V thình lình qua đời, khi mới 29 tuổi. Từ đó, Pyotr Đại đế là vị Nga hoàng duy nhất, là nhà cầm quyền tối cao độc nhất của đất nước Nga.
Những hoạt động mở rộng lãnh thổ
Chiến tranh Nga-Ottoman và mở cửa biển Azov
-
Quân Nga đánh chiếm Azov năm 1696.
Khi vua Pyotr Đại đế lên ngôi, nước Nga tuy có lãnh thổ rộng lớn nhưng không có đường thông ra biển Baltic hoặc biển Đen để thông thương với các nước Tây Âu có trình độ văn minh khá cao khi đó. Vì vậy, ông quyết định dùng chiến tranh để mở rộng lãnh thổ, lấy đường thông ra biển.
Để tiến ra biển Đen, trước tiên người Nga phải lấy được pháo đài Azov, thông ra biển Azov. Khi đó biển Azov nằm trong tầm kiểm soát của Hãn quốc Krym, do sắc tộc Tatar cai trị dưới sự bảo trợ của đế quốc Ottoman. Tháng 1 năm 1695, ông mang 3 vạn quân tấn công Azov.
Để đề phòng sự tấn công của Nga, Khan Selim I của hãn quốc Krym (1692 – 1699) đã cho xây nhiều đồn lũy tại sông Đông là con đường từ biển Azov chảy ra. Tình hình chiến sự ban đầu bất lợi cho ông vì khi đó Nga chưa có hải quân nên không thể cô lập được pháo đài Azov, ngược lại quân địch lại được hải quân tiếp viện nên chống quân Nga rất hiệu quả. Chính vì vậy, cuộc tấn công của Nga hoàng Pyotr bị thất bại.
Hiểu được nguyên nhân thất bại, Pyotr ra sức xây dựng hải quân. Từ mùa thu năm 1695, xưởng đóng tàu khởi động. Đích thân ông tới công xưởng, cầm búa và vào làm việc với công nhân[12]. Do sự thúc đẩy nhanh chóng, tháng 5 năm 1696, xưởng đã đóng xong 18 chiếc thuyền có buồm, 7 chiếc thuyền trang bị súng đại bác và 1300 chiếc thuyền vận tải chuyên chở binh lính và quân nhu.
Ngay tháng 5 năm 1696, Pyotr Đại đế phát động tấn công Azov lần thứ 2. Cuối tháng, lục quân Nga kéo tới chân thành và công phá. Trên mặt biển, quân Nga và viện binh Krym cũng đụng độ dữ dội. Kết quả thủy quân Nga đánh bại quân Krym. Viện binh Krym phải rút, pháo đài Azov bị cô lập. Quân Nga phong tỏa cửa sông Đông. Bị quân Nga tấn công cả trên bộ và từ biển, đến ngày 18 tháng 7, quân trong thành phải ra hàng.
Lấy được Azov là Pyotr có bàn đạp tiến ra làm chủ biển Đen, nhưng tình hình sau đó lại thay đổi. Không lâu sau, người Thổ Ottoman ký hòa ước với đế quốc Áo – một kẻ thù truyền kiếp của họ. Vì thế Nga bị mất đi một đồng minh và sẽ phải một mình đương đầu với Ottoman. Pyotr nhận thấy mình chưa đủ thực lực để một mình đánh bại quốc gia này. Ông quyết định tạm thời buông mục tiêu tiến ra biển Đen và quay sang mục tiêu biển Baltic.
Đại chiến Bắc Âu
-
Sang một số nước Tây Âu (1697 – 1698)
Năm 1697, vua Pyotr Đại đế – dưới cái tên “binh nhất Pyotr Mikhailovich” – dẫn một đoàn sứ thần hơn 250 người, mà sử gia gọi là Đại Phái bộ Sứ thần đến một số nước Tây Âu. Mục đích của chuyến đi là nhằm thành lập liên minh chống Ottoman[10], và còn để tìm nguồn nhân lực, mua vũ khí và trang thiết bị cho Hải quân Nga và “đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Pyotr không đi với tư cách là Nga hoàng mà giấu tung tích, giả dạng là một nhân viên của các đại sứ. Qua chuyến đi này, “liên minh chống Thổ” mà ông mong muốn đã không được thành lập, do Pháp là một đồng minh truyền thống của đế quốc Ottoman, còn Áo thì mong muốn giữ hòa bình ở phía Đông trong khi họ thực hiện những cuộc chiến tranh ở phía Tây. Hơn nữa, lúc này nhiều nước châu Âu đang quan tâm đến vấn đề ai là người thừa kế vua Tây Ban Nha Carlos II không có con, chứ không phải là cuộc chiến với Nhà vua Thổ Nhĩ Kỳ.
Dù “Đại Phái bộ Sứ thần” đã không thành công trong việc kêu gọi các vua chúa châu Âu thành lập một liên minh chống Ottoman, điều này không có nghĩa là họ dừng bước. Đến Hà Lan, Nga hoàng Pyotr I đã học hỏi được nhiều điều về đời sống của người Tây Âu. Ông đã học cách đóng tàu ở Zaandam (tại đây, căn nhà ông ở hiện nay là bảo tàng) và Amsterdam – nơi ông đã cùng với bạn bè ngày đêm lao động ròng rã, với thành quả là đóng được một tàu chiến sau hai tháng.[2] Khi về nước, ông đã vận dụng kiến thức mà ông học được ở Hà Lan đã xây dựng Hải quân Nga Sa hoàng.[13] Pyotr Đại đế và Thị trưởng Amsterdam Nicolaas Witsen đàm luận với nhau mỗi ngày, và ông hỏi làm thế nào có thể làm việc một cách yên tĩnh để học nghề đóng tàu, trong khi bị bao quanh bởi người tò mò lạ mặt nhìn tọc mạch, và Witsen có ngay một đề xuất. Trong vòng bốn tháng Nga hoàng đến làm việc tại xưởng đóng tàu lớn nhất thế giới, thuộc về Công ty Đông Ấn Hà Lan. Nga hoàng đã tham gia vào việc đóng một con tàu buôn Anh-Ấn đặc biệt dàng cho ông: “Tàu buôn Thánh Phêrô và Phaolô”. Trong thời gian ở đây Nga hoàng đã gặp gỡ nhiều người thợ tài hoa, chẳng hạn như những người đã chế tạo các âu thuyền, xây dựng các pháo đài, các thợ đóng tàu và những thủy thủ, trong số đó có phó đô đốc Cornelis Cruys – sau này là người dưới quyền của Franz Lefort, cố vấn về các vấn đề hàng hải của Pyotr Đại đế. Bên cạnh đó, Pyotr cũng thăm Frederik Ruysch – người đã dạy ông cách nhổ răng và bắt những con bướm. Ông – một vị vua ham học hỏi và vận dụng cho việc dựng nước – cũng được đón chào bởi họa sĩ vẽ cảnh biển Ludolf Bakhuysen và nhà phát minh ống vòi rồng Jan van der Heyden. Vào ngày 16 tháng 1 năm 1698 Pyotr tổ chức buổi liên hoan chia tay và mời Johan Huydecoper van Maarsseveen đến dự tiệc. Trong buổi tiệc, Johan Huydecoper van Maarsseveen ngồi giữa Lefort và Nga hoàng, cùng cạn ly với họ.
Trấn áp cuộc nổi dậy của lực lượng Cẩm vệ
Streltsy.
Tại Vương quốc Anh, ông đã gặp gỡ vua William III, thăm Greenwich và Oxford, được vẽ bởi ông Godfrey Kneller và chứng kiến một cuộc diễu hành của Hải quân Hoàng gia Anh tại Deptford. Ông đã được học về nghề hải quân tại Anh.[2] Ông còn đến thành phố non trẻ Manchester để học về các xây dựng thành phố, mà sau này ông sẽ vận dụng để xây dựng Sankt Peterburg. Sau đó, Đại Phái bộ Sứ thần đã đến Leipzig, Dresden và Viên. Ông đã nói chuyện với vua Ba Lan August II và hoàng đế La Mã Thần thánh Leopold I. Đại Phái bộ Sứ thần đã không đến thành Venezia. Chuyến đi của Pyotr Đại đế đã bị rút ngắn vào năm 1698, khi ông phải trở về Nga đánh dẹp cuộc nổi dậy của Cấm vệ quân Streltsy. Tuy nhiên, trước khi nhà vua trở về từ Anh, quân đội Nga đã dập tắt cuộc nổi dậy một cách dễ dàng. Trong quân đội Nga hoàng, chỉ một binh sĩ thiệt mạng trong vụ nổi dậy này. Tuy thế nhưng Nga hoàng Pyotr đã xét xử phiến quân một cách tàn bạo: 1.200 phiến quân bị tra tấn và hành hình, và Pyotr đã hạ lệnh cho quân lính bêu thi hài của họ tại nơi công cộng để cảnh cáo những tên phản nghịch trong tương lai.[14] Lực lượng Cấm vệ quân Streltsy bị giải tán, do họ nổi dậy để đưa công chúa Sophia lên làm vua nên Sophia bị bắt phải trở thành một nữ tu sĩ.
Tác động của chuyến đi vô cùng rộng lớn. Ông trở về Nga với quyết tâm cải tổ đất nước theo đường hướng của Tây Âu. Theo ý nghĩa nào đó, ảnh hưởng đi theo vòng tròn: Tây Âu ảnh hưởng đến cá nhân Pyotr, ông ảnh hưởng mạnh mẽ đến nước Nga, và nước Nga, một khi đã hiện đại hóa và vươn lên, có tầm ảnh hưởng mới và mạnh hơn đến Tây Âu. Vì thế, đối với cả ba – Pyotr, nước Nga và Tây Âu – việc lập và gởi Đại Phái bộ Sứ thần là một thời điểm bước ngoặt.
Chuẩn bị chiến tranh
Ngày 9 tháng 8 năm 1700, Pyotr Đại đế tuyên bố chiến tranh với đế quốc Thụy Điển, giải thích mục tiêu là để chiếm lại hai tỉnh Ingria và Karelia. Hai tỉnh này, ở phía bắc và nam của sông Neva, cộng với hồ Ladoga và các pháo đài Nöteborg, Narva và Riga, lúc trước thuộc về Nga. Hòa ước Nga–Thụy Điển năm 1664 tái xác nhận các vùng đất này thuộc Thụy Điển. Tuy thế, trong ý nghĩ của Pyotr, đấy là những lãnh thổ của Nga mà ông muốn đoạt lại để mở đường thông thương ra biển. Chiến tranh kéo dài hơn 20 năm, với nhiều nước Bắc Âu can dự vào, nên sử gia gọi là Đại chiến Bắc Âu.
Đây là cuộc chạm trán giữa Pyotr Đại đế và vua Thụy Điển Karl XII – hai vị vua trẻ tuổi. Thụy Điển là một đế quốc hùng mạnh ở Bắc Âu khi đó, có hải quân mạnh, đồng thời đã chiếm được Karelia và một vùng đất rộng lớn nằm dọc theo bờ biển Baltic, phong tỏa đường biển của Nga.
Để chuẩn bị chiến tranh với Thụy Điển, ông ký Hiệp ước Liên minh phương Bắc với Ba Lan và Đan Mạch vào năm 1696. Đồng thời, để yên ổn phương nam, dốc toàn lực vào cuộc chiến phương Bắc, ông ký hòa ước với đế quốc Ottoman có hiệu lực trong 30 năm.
Từ thất bại đầu tiên
-
Sau khi tuyên chiến với đế quốc Thụy Điển, Pyotr I mở cuộc tấn công vào vùng đất chiến lược Narva. Quân Thụy Điển được trang bị và huấn luyện tốt, chỉ với 1 vạn người đã đánh bại quân Nga đông hơn gấp vài lần và bắt được hàng ngàn tù binh[15].
Cũng như trong cuộc chiến với đế quốc Ottoman, thất bại đầu tiên không khiến Pyotr I nản lòng. Ông quyết tâm tìm cách phục thù. Ông ra lệnh trưng binh trên toàn quốc, nhanh chóng xây dựng được 10 quân đoàn mới; cho thống kê chuông thánh đường trên toàn quốc và trưng dụng 1/4 số chuông vào việc đúc đại bác. Ông tuyển lựa 250 thanh niên vào trường huấn luyện pháo binh và công binh, mua 15.000 khẩu súng trường từ nước ngoài để trang bị cho quân đội. Bản thân ông tự mình đi khắp đất nước để thị sát việc chuẩn bị và đôn đốc tái phát động cuộc chiến chống Thụy Điển[15].
Mở cửa sông Neva
Năm 1701, lợi dụng lúc quân chủ lực Thụy Điển đi đánh Ba Lan, vua Pyotr Đại đế tấn công vào các đồn lũy của Thụy Điển ở dọc bờ biển Baltic. Sau nhiều ngày tấn công, sang năm 1702, quân Nga chiếm được Nöteborg nằm trên cửa sông Neva. Ông đổi tên nơi này thành “Schlysselburg”, nghĩa là “thành phố chìa khóa”, với ngụ ý lấy thành phố này làm chìa khóa mở cửa con sông Neva ra biển lớn.
Tiếp đó, quân đội Nga lại mở các cuộc tấn công vào vùng tam giác sông Neva. Nhằm bảo vệ cho cửa ra của sông Neva, Pyotr Đại đế huy động hàng vạn nông nô đến xây dựng đồn lũy trên hòn đảo gần đó. Sau này, ông cho xây dựng thành phố nằm sát ven biển là Sankt-Peterburg làm cửa ngõ đi ra các nước Tây Âu.
Tháng 8 năm 1704, quân đội Nga lại tấn công Narva và lần này chiếm được. Trong những năm 1708 và 1709, vua Pyotr Đại đế thân chinh, đánh tan những cuộc tấn công lên bộ của quân Thụy Điển trong chiến dịch Nesnaya và chiến dịch Poltava. Giai đoạn đầu của cuộc đại chiến Bắc Âu kết thúc bằng chiến thắng của quân Nga.
Năm 1710, vua Pyotr Đại đế đã chiếm được xứ Latvia thuộc đế quốc Thụy Điển.[16] Ngày 16 tháng 8 cùng năm, ông ký kết bản tuyên ngôn công bố việc sáp nhập vùng Estonia vào nước Nga Sa hoàng. Bản tuyên ngôn này ghi nhận:[17]
“ |
Nhà vua Thụy Điển, do ngoan cố, đã không để cho Trẫm và Thần dân được chung sống hòa bình. Đây hoàn toàn là lý do tối hậu khiến chúng ta đã tiến quân vào vùng đất Estonia, để củng cố quyền thống trị của chúng ta đối với hải cảng của nó và cũng để bảo vệ nước Nga chống họa xâm lược. Đặc biệt, chúng ta đã nhận thấy sự cần thấy phải có sự phù hộ của Thượng đế để cai quản thị trấn Revel… |
” |
— Tuyên ngôn về việc sáp nhập Estonia
|
Chiến tranh với Ottoman (1710 – 1711)
-
Sau chiến bại tại Poltava, Karl XII chạy sang đế quốc Ottoman, và lôi kéo sultan Ahmed III vào cuộc chiến. Ngày 20 tháng 11 năm 1710 Ahmed III tuyên chiến với nước Nga Sa hoàng.
Năm 1711, Pyotr Đại đế khởi xướng chiến dịch Pruth. Trong chiến dịch này, ông cùng với tướng Boris Sheremetev xâm chiếm lãnh thổ nhà Ottoman ở Moldavia, với sự ủng hộ của Vương công xứ Moldavia. Ngày 9 tháng 4 năm 1711, Đại Vizia Ottoman là Baltaci Mehmet Pasha rời kinh đô để đem quân đến đánh quân Nga tại Prut.[18] Quân Ottoman do Đại Vizia chỉ huy đánh bại quân Nga trong trận chiến quyết định tại Stănileşti.
Ngày 21 tháng 7 năm 1711, hai bên ký kết Hiệp định Pruth:[18] Nga phải nhượng lại pháo đài Azov cho đế quốc Ottoman và mất những pháo đài vùng Biển Đen mà Pyotr đã chiếm năm 1697[19].
Thất bại của quân Nga trong cuộc chiến này có nhiều nguyên nhân. Pyotr đã từ bỏ chiến lược thận trọng thường thấy lúc trước đã được áp dụng thành công đối với Karl. Thay vào đó ông đã thủ vai trò của Karl mà hung hăng dẫn quân vào đế quốc Ottoman, dựa vào sự hỗ trợ và tiếp viện của xứ Moldavia – một đồng minh không đáng tin cậy. Ông đã nghe thông tin sai lạc về sức mạnh quân Ottoman, và đã tính toán sai lầm về tốc độ hành quân của họ.[20]
Tiến ra biển Baltic
Tháng 7 năm 1714, giai đoạn hai của cuộc Đại chiến Bắc Âu tái diễn. Quân Nga và quân Thụy Điển gặp nhau ở eo biển Hanko. Hải quân Nga áp dụng cập mạn đánh sáp lá cà và giành thắng lợi lớn, thu được một bộ phận của hạm đội hải quân Thụy Điển.
Sau trận Hanko, Thụy Điển lâm vào thế yếu và buộc phải đàm phán với Nga tại quần đảo Aland năm 1718. Nhưng cuộc đàm phán diễn biến chậm chạp. Thụy Điển hy vọng Vương quốc Anh sẽ tham chiến giúp mình nhưng người Anh muốn duy trì cục diện cân bằng ở châu Âu nên chỉ đưa ra mặt trận một hạm đội nhỏ để kiềm chế sức tấn công của quân đội Nga.
Trong khi đàm phán đang tiếp tục, vào đêm 30 tháng 11 năm 1718, vua Thụy Điển Karl XII tử trận khi đang dẫn quân công hãm pháo đài Frederiksten ở Na Uy.
Không sợ hãi áp lực của hải quân Anh, vua Pyotr Đại đế mở cuộc tấn công lớn và giành thắng lợi vang dội trước Hải quân Thụy Điển năm 1720. Quân Thụy Điển bị thiệt hại nặng, phải mở lại hội đàm với Nga tại Nystad (Phần Lan). Cuối cùng Hòa ước Nystad giữa Nga và Thụy Điển được chính thức ký kết ngày 30 tháng 8 theo lịch cũ Julius[21] (tức 10 tháng 9 năm 1721). Theo Hòa ước Thụy Điển cắt nhường cho đế quốc Nga vĩnh viễn các vùng Livonia, Ingria và Estonia, cùng với Karelia kéo dài đến Vyborg.
Sau này, Pyotr hồi tưởng lại cuộc chiến kéo dài 21 năm với đế quốc Thụy Điển, ông nói:
“ |
Đó là giai đoạn phải bỏ ra thời gian gấp ba lần để học xong một mái trường hy sinh bằng máu, đầy rẫy những nguy hiểm. Tất cả những nhà trường thông thường khác chỉ cần học bảy năm là tốt nghiệp, nhưng chúng ta phải học ở nhà trường này với thời gian tốn gấp 3 lần. Cảm tạ trời đất, thành tích tốt nghiệp của chúng ta tốt không còn cách nào hơn. |
” |
— Pyotr Đại đế
|
Tiến về phía nam và phía đông
-
Ngay trong thời kỳ chiến tranh với Thụy Điển, Pyotr đã phái một đoàn khảo sát vùng Trung Á, thuyết phục Hãn quốc Khiva thần phục Nga và tìm hiểu con đường đến Ấn Độ.
Về phía Xibia, ông phái quân chiếm một vùng đất rộng lớn tại thượng du sông Irtish và xâm chiếm dần dần vùng lãnh thổ Yarkanr sát biên giới Trung Quốc dưới thời nhà Thanh. Ông còn phái quân đánh sang đế quốc Mãn Thanh, tiến sâu tới Vạn Lý Trường Thành. Sau này, trước sự chống trả quyết liệt của quân Mãn Thanh, quân Nga mới rút lui[22].
Nhân lý do các thương nhân Nga bị đánh và cướp ở vùng Samarkand, tháng 7 năm 1722, ông điều quân tấn công đế quốc Safavid của người Ba Tư. Quân đội Đế quốc Nga lần lượt đánh chiếm Baku, Sari, Resht.
Năm 1723, vua nhà Safavid là Tahmasp II phải ký hòa ước với đế quốc Nga. Vua Safavid cắt Nienschanzt cho Nga và đổi lại Nga phải bảo vệ nhà Safavid trước những cuộc tấn công của đế quốc Ottoman. Ông muốn nhân cơ hội đó để tiến sang Tây Á và Ấn Độ, nhưng gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của người Thổ Ottoman nên tham vọng của ông không thực hiện được.
Chính sách
-
Thay đổi tập tục
Tranh biếm họa thể hiện chính sách bắt dân Nga cắt
râu theo kiểu phương Tây của Pyotr Đại đế
Sau chuyến đi học tập ở nước ngoài 18 tháng, trở về nước, vua Pyotr Đại đế đã thực hiện hàng loạt chính sách cải cách trong nước.
Người Nga vốn có truyền thống để những bộ râu dài và đẹp, nhưng Pyotr I đã hạ lệnh cắt ngắn râu trong toàn quốc. Người dân muốn để râu dài phải nộp 30 rouble, lãnh chúa và quan lại muốn để râu phải nộp 60 rouble, riêng tầng lớp phú thương phải nộp 100 rouble. Ông cho làm một tấm bản đồng nhỏ như biên lai thu tiền để được để râu. Ngoại lệ duy nhất để râu không phải đóng thuế là hàng giáo phẩm của Giáo hội.
Sau đó ông ban lệnh bỏ tục mặc áo thụng (kaftany) xùng xình của người Nga. Cách ăn mặc truyền thống của giới quý tộc Nga là: áo lót ngắn thêu hoa bên trong, ngoài mặc áo lụa màu sặc sỡ rồi khoác thêm áo dài, phía ngoài lại khoác thêm một chiếc áo dài hơn mà từ trên xuống dưới đều kết nhiều nút. Cách ăn mặc đó dù đẹp nhưng làm trở ngại mọi hoạt động. Vì vậy Pyotr ra lệnh cắt hết tay áo quá rộng. Ông ban bố cáo quy định: “dân cư Moskva và các thành thị khác, áo dài bên ngoài chỉ được đến đầu gối, còn áo lót bên trong phải ngắn hơn áo ngoài”.
Kinh tế
Vua Pyotr Đại đế đã thông qua biện pháp cho vay ưu đãi để đẩy mạnh phát triển công nghiệp, bước đầu tạo nền tảng cho nền công nghiệp Nga. Khi ông qua đời, số nhà xưởng ở đế quốc Nga tăng từ 21 lên 240[23].
Những ngành liên quan đến vũ khí như luyện kim, đóng tàu được đặc biệt nâng đỡ. Tại vùng Ural, người ta thành lập 10 xưởng luyện kim. Cuối triều vua Pyotr, vào năm 1725, sản lượng gang tăng từ 1000 fud năm 1700 lên 815.000 fud, không những thỏa mãn nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu.
Thương mại
Vua Pyotr Đại đế áp dụng chính sách bảo hộ quan thuế, đẩy mạnh xuất khẩu. Cán cân thương mại của đế quốc Nga khi đó luôn trong tình trạng xuất siêu[24].
Để tạo điều kiện cho sự phát triển của thương mại trong nước, Nga hoàng Pyotr I còn huy động hàng trăm ngàn nông nô đi đào kênh và xây bến cảng.
Quân sự
Pyotr Đại đế cho tăng nguồn quân phí để phục vụ chiến tranh, cải cách chế độ quân dịch và các điều lệ quân sự, mua sắm những loại vũ khí tiên tiến ở nước ngoài. Đồng thời, ông khuyến khích các công xưởng trong nước phát triển chế tạo vũ khí mới, đóng tàu bè, đúc đại bác.
Ông xây dựng một đội quân đầy đủ những các loại binh chủng như bộ binh, kỵ binh, pháo binh, công binh,… gồm những đội quân chính quy có trình độ tiên tiến; cộng thêm một hải đội lớn mạnh gồm 52 chiến hạm, mấy trăm loại thuyền tốc độ cao và 128.000 thủy quân[24].
Văn hóa, khoa học giáo dục
Nhằm xóa bỏ sự lạc hậu của nước Nga, Pyotr I chủ trương xây dựng hàng loạt trường học mới, dạy đủ các ngành khoa học: toán học, hàng hải, y học, xây dựng, đóng tàu, khai thác mỏ,…
Ông còn phái du học sinh đến các nước Tây Âu để học hỏi, quy định tất cả con em quý tộc đều phải đi học và phải giỏi một ngoại ngữ, nếu không được như vậy sẽ bị tước đoạt quyền thừa kế. Thậm chí ông quy định học sinh nào không tốt nghiệp sẽ không cho phép kết hôn.
Năm 1725, việc xây dựng cung điện Mùa hè Peterhof được hoàn tất. Cung điện Peterhof (tên tiếng Hà Lan của “cung đình của vua Pyotr”) được khởi công xây dựng theo lệnh của Pyotr Đại đế vào năm 1714, tại thị trấn Peterhof thuộc quận Petrodvortsovy tại kinh đô Sankt-Peterburg. Cung điện được xây dựng bởi nhiều nhà kiến trúc nổi tiếng của châu Âu thời bấy giờ. Cung điện Peterhof được mệnh danh “Versailles của nước Nga”.[25]
Pyotr Đại đế cho rằng đối tượng giáo dục không chỉ hạn chế trong giới quý tộc, ông cho phép con em dân thường cũng được đi học. Ông cho dịch hàng ngàn cuốn sách khoa học kỹ thuật và lịch sử các quốc gia khác.
Ông còn cho xây dựng ở Moskva một y viện ngoại khoa có phòng mổ đầu tiên. Ở tất cả các thành phố đều có nhà thuốc.
Pyotr I cho xây các bảo tàng, xưởng in, thư viện và kịch viện đầu tiên ở Nga. Năm 1703, tờ báo đầu tiên ở Nga được phát hành mang tên Vedomosti. Năm 1721, 30 nhà vẽ bản đồ nhận chỉ thị của hoàng đế đề vẽ tấm bản đồ nước Nga. Năm 1724, trước khi qua đời, ông vẫn dốc tâm xây dựng Viện Khoa học Nga.
Bộ máy hành chính
Pyotr I xóa bỏ Viện Duma quý tộc là cơ quan ngày càng bất mãn trước những cải cách của ông[26]. Ông xóa bỏ bộ máy nhà nước cồng kềnh, trách nhiệm không rõ ràng, xây dựng chính quyền tối cao tập quyền, tự mình lập ra Viện Tham nghị gồm 9 thành viên do ông chỉ định và 9 hội đồng có tính chất quản lý toàn quốc, chịu trách nhiệm về các lĩnh vực khác nhau. Về mặt hành chính, ông chia đế quốc Nga thành 8 vùng và 50 tỉnh.
Năm 1714, đích thân ông chủ sự soạn thảo và ban bố bản “Quy định đẳng cấp của quan chức”, chia các chức quan văn võ làm 14 bậc. Ông dựa vào trình độ trí thức, tài năng, đóng góp của các quan mà quyết định thăng hay giáng cấp. Một trong những trường hợp điển hình của việc phát hiện và trọng dụng nhân tài của Pyotr chính là việc đưa một người thợ làm bánh Menshikov lên làm Tổng đốc thành phố Sankt-Peterburg và sau này Menshikov trở thành một trong những nhân vật có tiếng trong nước.
Trong những năm cuối đời, Pyotr tiếp tục cải cách. Ngày 22 tháng 10 năm 1721, ít lâu sau khi Nga ký hòa ước với Thụy Điển, ông được tôn làm Hoàng đế toàn Nga. Một số người đề nghị ông xưng Hoàng đế của phương Đông, nhưng ông từ chối. Sau bài diễn văn của Tổng Giám mục xứ Pskov năm 1721, quan Chưởng ấn Gavrila Golovkin, đã thêm “Đại đế, Người cha của nước Nga, Hoàng đế toàn Nga” vào những tước hiệu của Pyotr I. Vua Ba Lan August II, vua Phổ Friedrich Wilhelm I và vua Thụy Điển Fredrik I đã công nhận Pyotr là một Hoàng đế, nhưng các vua châu Âu khác lại không công nhận.
Địa vị của quý tộc cũ bị hạn chế, xuất hiện thêm một bộ phận quý tộc mới. Nga hoàng tỏ ra nghiêm khắc với tầng lớp quý tộc và đối xử công bằng giữa họ với dân thường. Có nhà quý tộc vì báo cáo sai danh sách tân binh với ông đã bị nọc ra đánh bằng roi trước công chúng.
Trong quan hệ giữa triều đình và giáo hội, ông xóa bỏ chế độ đại giáo trưởng (Ober prokuror) và thay vào đó là Viện Tôn giáo Thần Thánh (Holy Synod), đưa tôn giáo vào sự khống chế của chế độ Nga hoàng.
Qua đời
Mùa đông năm 1724, Nga hoàng Pyotr I vốn rất mạnh khỏe bỗng nhiên ốm nằm liệt giường. Có nhiều nguyên nhân khiến sức khỏe của ông suy sút, nhưng nguyên nhân trực tiếp là 1 chiến hạm từ Kronshtadt trở về kinh đô Sankt-Peterburg bị mắc cạn ở vịnh Phần Lan, thủy thủ trên tàu nhảy xuống có thể bị lạnh chết. Khi đó ông không kể tới tính mạng của mình, cũng tự nhảy xuống nước để cứu nguy cho con tàu. Sau đó tàu được cứu, mọi người bình an trở về, còn Pyotr thì bị cảm lạnh[27].
Một số nguyên nhân khác được nêu ra là do cuộc đời ông nhiều năm bôn ba chinh chiến, tiêu hao sức khỏe; ông lại là người hay uống rượu. Ngoài ra, còn hai sự kiện lúc tuổi cao tác động không tốt đến tâm lý ông. Thứ nhất là việc người con trai trưởng là Aleksei tham gia đảo chính và bị xử tử. Sự việc thứ hai là người vợ yêu của ông – Ekaterina bị tai tiếng ngoại tình với một viên hầu cận[27].
Giữa tháng 1 năm 1725, bệnh tình của Pyotr Đại đế ngày càng xấu. Ông bị bí tiểu; dù một bác sĩ người Anh đã thông nước tiểu cho ông, rút ra gần 4 kg nước tiểu để giảm đau đớn cho hoàng đế, nhưng trình độ y học khi đó không cho phép chữa khỏi bệnh cho ông.
Lúc 6 giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1725, Pyotr Đại đế qua đời. Ông trị nước được 43 năm, hưởng thọ 53 tuổi. Ngày 8 tháng 3, lễ tang Nga hoàng được tổ chức tại giáo đường Peterburg.
Những sự kiện đầu tiên của nước Nga dưới thời Pyotr I
Đồng tiền kỷ niệm 300 ngày đại thắng Poltava (8/7/1709).
Rất nhiều sự kiện xảy ra và thành tựu đạt được lần đầu tiên dưới triều vua Pyotr Đại đế. Dưới đây là vài nét chính:
- Thuyền buồm không những có thể đi xuôi chiều gió, mà còn có thể đi ngược lại chiều gió. (Pyotr là người Nga đầu tiên lái loại thuyền này, trên sông Yauza, cách Moskva khoảng 5 km.)
- Căn cứ đầu tiên của Hải quân Nga (ở Taganrog, trên bờ Biển Azov, do Pyotr chọn địa điểm).
- Đô đốc người Nga đầu tiên (Fyodor Matveyevich Apraksin).
- Một hạm đội Nga vượt đại dương, khởi hành từ cảng của Nga và trở về cảng của Nga, do tướng lĩnh Hải quân Nga chỉ huy. Pyotr lái một tàu trong hạm đội này.
- Quy định quốc kỳ của Nga cho đến khi đế quốc Nga cáo chung vào năm 1917, rồi được phục hồi cho nước Nga hiện nay. Sau khi con tàu khu trục được đặt mua từ Hà Lan về đến Nga, Pyotr quyết định dựa trên cờ của Hà Lan – từ trên xuống dưới là ba màu đỏ, trắng và xanh – để tạo nên lá cờ của Hải quân Nga – từ trên xuống dưới là trắng, xanh và đỏ. Lá cờ này sau được sử dụng làm quốc kỳ.
- Sa hoàng học đóng tàu từ lễ đặt ki cho đến công đoạn cuối cùng, và được cấp chứng chỉ tốt nghiệp thợ đòng tàu chuyên môn.
- Huân chương đầu tiên: Huân chương Thánh Anđrê, là phần thưởng danh dự ở cấp cao nhất mà Sa hoàng ban tặng cùng với tước vị Hiệp sĩ, áp dụng cho đến khi chế độ quân chủ chuyên chế Nga sụp đổ sau Cách mạng Tháng Hai năm 1917.
- Áp dụng niên lịch theo Tây Âu.
- Cử hành lễ ở tất cả thánh đường nước Nga vào ngày đầu năm theo niên lịch mới. Thêm nữa, Pyotr Đại đế ra lệnh mọi người trang hoàng nhà cửa trong dịp này, và mọi công dân Moskva phải “biểu lộ niềm hạnh phúc bằng cách lớn tiếng chúc mừng lẫn nhau”.
- Phụ nữ Hoàng gia được giải thoát khỏi chế độ biệt lập hà khắc trong cấm cung.
- Mọi quyết định về hôn nhân phải là tự nguyện, hai bên trai gái phải gặp nhau ít nhất sáu tuần trước khi kết hôn, mỗi bên có quyền tự do từ chối bên kia, và việc chú rể vung cây roi trong ngày cưới như là biểu trưng cho quyền hành phải được thay thế bằng nụ hôn thể hiện tình yêu.
- Hệ thống chữ cái mới để in sách Nga văn.
- Tàu chiến nước Nga, mang cờ hiệu của Sa hoàng, thực hiện một cuộc hải hành đơn độc và tự do trên vùng biển do sultan của đế quốc Ottoman kiểm soát.
- Thành phố Sankt-Peterburg được xây dựng từ bãi đầm lầy, trở thành kinh đô mới của nước Nga Sa hoàng.
- Trường Toán học và Hải hành (ở Moskva).
- Bãi bỏ tước hiệu boyar, thiết lập hệ thống tước hiệu giống như Tây Âu.
- Thành lập Thượng viện.
- Thành lập Viện Hàn lâm Khoa học Nga.
- Thành lập bảng Cấp bậc của Đế quốc Nga, gồm thang cấp bậc cho ba ngành: quân đội, dân sự và tòa án, được sử dụng đến năm 1917.
- Bắt đầu đào Kênh Ladoga (được hơn 30 km khi Pyotr Đại đế qua đời, hoàn tất năm 1932).
- Kết hôn giữa công chúa Nga và người Tây Âu.
- Cho phép Sa hoàng đương quyền chỉ định người kế vị (nhưng Pyotr Đại đế không hành xử quyền này).
Nhận định
Bầy chuột Nga khóc “con mèo” Pyotr Đại đế.
Là một trong những nhân vật kiệt xuất của lịch sử thế giới và được nhân dân Nga bình chọn là nhân vật lịch sử vĩ đại nhất của Nga (vượt cả Stalin và Lenin)[28], ông đã có thành tựu lớn lao trong công cuộc hiện đại hóa đất nước ông. Ông đã đẩy mạnh một nước Nga lạc hậu, đi sau Tây Âu dường như hàng trăm năm, trong một thời gian ngắn vượt lên thành một trong năm đại đế quốc của châu Âu,[29] được những nước châu Âu còn lại kiêng nể. Vì Pyotr Đại đế có tố chất đa dạng: sục sôi và gan lì, vừa bao dung vừa tàn nhẫn, vừa mềm mỏng vừa cố chấp, tình cảm ở mặt này nhưng cứng rắn ở mặt khác…, nhưng cuối cùng tạo nên khúc ngoặt cực kỳ quan trọng trong lịch sử nước Nga[22].
Lịch sử đã dành cho vua Pyotr Đại đế nhiều lời khen ngợi. Có lẽ lời khen ngợi đi đầu là tầm nhìn chiến lược của ông, kế đến là nhận thức rồi quyết tâm. Những tầm nhìn, nhận thức và quyết tâm ấy thiếu vắng hầu như trong cả nước Nga thời bấy giờ. Chỉ một mình ông có tầm nhìn sâu rộng, nhận thức đúng đắn, rồi có quyết tâm sắt đá để đi đến đích. Chẳng hạn, trong khi bao triều đại trước đều không nhận ra là nước Nga bao la chỉ có một cảng biển thông ra bên ngoài thế giới trong sáu tháng mỗi năm, không có hải quân, và cả nước Nga mãn nguyện với đội thuyền đi theo dòng nước trên sông; chỉ riêng vua Pyotr Đại đế nhận ra đó là những khiếm khuyết vô cùng hệ trọng trong chiến lược xây dựng kinh tế và quân sự cho đất nước ông. Chính ông đã nhận thức được công dụng diệu kỳ của một chiếc thuyền buồm không những có thể đi xuôi chiều gió, mà còn có thể đi ngược lại chiều gió – điều mà loại thuyền bè Nga hồi ấy không thực hiện được. Quyết tâm xây dựng cảng biển và tạo dựng nên hải quân Nga khởi phát từ tầm nhìn và nhận thức như thế.
Với bao hoài bão nung nấu nhằm hiện đại hóa nước Nga nằm kề bên Tây Âu lúc ấy đã tiến bộ khá xa, vua Pyotr Đại đế tự mình đóng một chiếc thuyền và học cách điều khiển nó, tổ chức riêng cho mình một đội quân và tập trận thường xuyên để cuối cùng chuyển thành đội quân tinh nhuệ hơn hẳn lực lượng nòng cốt của triều đình, tổ chức một phái bộ sứ thần đi Tây Âu để học hỏi và tuyển chọn nhân tài về giúp cho triều đình của mình, vào vai thợ mộc học nghề ở Hà Lan để tự tay đóng một tàu chiến bắt đầu từ những súc gỗ thô sơ cho đến khi hạ thủy. Và còn nhiều việc làm quyết đoán nữa, như ra lệnh tịch thu chuông nhà thờ để đúc đại bác phục vụ công cuộc chống ngoại xâm mặc cho giáo hội đầy quyền uy phản đối. Hoặc đòi hỏi các tầng lớp tăng lữ, quý tộc và thương nhân – có thế lực mạnh nhất thời bấy giờ – góp chi phí vào việc xây dựng hải quân; ai không làm sẽ bị tịch thu gia sản, ai kêu nài sẽ phải đóng góp thêm. Hoặc ra lệnh đàn ông Nga phải cắt râu cho gọn và tất cả người Nga phải chuyển trang phục truyền thống sang kiểu gọn nhẹ – mục đích sâu xa là để dân Nga tăng năng suất làm việc – mặc cho chống đối của giáo hội uy quyền và thói ù lì muốn duy trì cách sống lâu đời.
Một công trình vĩ đại khác – khá điên rồ và mạo hiểm – là tiến hành xây dựng nên thành phố Sankt-Peterburg bề thế từ bãi đầm lầy ngay cả trong những năm tháng chiến tranh, ngay cả khi vùng đất mới được chiếm từ Thụy Điển, chưa có hòa ước để hợp thức hóa là thuộc Nga vĩnh viễn, có nghĩa là Thụy Điển có quyền chiếm lại bất cứ lúc nào. Quyết tâm ấy thể hiện qua chính sách là có thể nhượng bộ Thụy Điển bất cứ điều gì ngoại trừ trả lại Sankt-Peterburg, nhằm mở một đường giao thông hàng hải và căn cứ hải quân Nga. Quyết tâm này được lưu truyền mãi về sau, với kết quả là Sankt-Peterburg vẫn đứng vững trước các cuộc tấn công của vua Karl XII của Thụy Điển, cũng như của Hoàng đế Napoléon I của Pháp và Adolf Hitler của Đức Quốc xã sau này.
Việc đánh giá Pyotr Đại đế có thể theo hai xu hướng. Một là cho rằng thành quả đều do cá nhân Pyotr: trong khi cả triều đình, cả giáo hội, cả các giới quý tộc và thương nhân – là những thế lực quan trọng thời bấy giờ ở Nga – không ai thiên về cải tổ và hiện đại hóa như ông (nhiều người còn chống đối, ngay cả người vợ đầu và con trai trưởng của ông). Riêng các cận thần và các cấp chỉ huy quân sự của ông chỉ thực thi sách lược của ông và nhận mệnh lệnh của ông mà thừa hành, nên sự đánh giá càng làm nổi bật cá nhân của Pyotr Đại đế trong việc biết trọng dụng nhân tài dù cho họ là người Nga hoặc người nước ngoài. Cũng nên ghi nhận là Pyotr Đại đế đã làm được nhiều việc nhờ ông có uy quyền tuyệt đối, có quyền ban hành luật theo ý muốn, ngay cả có quyền xử tử hình bất cứ ai đi ngược lại ý ông. Nếu trong một thể chế quân chủ lập hiến hoặc hệ thống dân chủ như thời nay, chỉ một cá nhân như Pyotr Đại đế hẳn sẽ không thể làm được gì nhiều trong bối cảnh xã hội nhân văn nước Nga trì trệ như thế. Bằng chứng là một số cải tổ hành chính của Pyotr Đại đế, tuy có cơ sở chính đáng nhưng đã không thành công vì thái độ ù lì của các cấp địa phương.
Xu hướng thứ hai trong việc đánh giá Pyotr Đại đế thì cho rằng những thành tựu là do sở thích cá nhân từ thời niên thiếu, rồi vì bản thân là một Sa hoàng, muốn gì cũng được, nên có điều kiện từ đồ chơi đi lên trò chơi, và từ trò chơi biến ra hành động thực sự. Có nghĩa là những hành động không nằm trong chiến lược tổng thể nào để phát triển đất nước. Ý kiến khác là xem vai trò cá nhân của ông không phải là yếu tố quyết định, trong khi phê phán ông về chế độ độc đoán, hà khắc – đôi lúc tàn bạo – theo kiểu phong kiến. Và trong công cuộc cải tổ, ông đã làm mất đi một vài giá trị truyền thống của xã hội Nga. Rộng ra hơn, những tầng lớp thấp trong xã hội Nga, đặc biệt là nông dân, không được hưởng lợi trực tiếp từ thành quả của ông. Trái lại, họ còn khổ sở hơn vì phải trực tiếp hoặc gián tiếp chịu gánh nặng để xây dựng căn cứ hải quân, xây thành phố Sankt-Peterburg, chi phí cho cuộc chiến với Thụy Điển,… Chiều hướng đánh giá này cũng có cái lý của nó, tùy cảm quan của từng người. Chẳng hạn, có thể biện luận rằng một khi nước Nga đã trở nên hiện đại hóa thì dần dà đời sống nông dân Nga cũng được nâng cao hơn.
Tượng Pyotr Đại đế tại cố đô Sankt-Peterburg.
Dù sao đi nữa, không ai có thể phủ nhận công lao của Pyotr Đại đế trong công cuộc xây dựng lực lượng quân sự và hiện đại hóa đất nước Nga, như là việc tạo dựng nên hải quân và đội thương thuyền hàng hải từ con số không: không tàu thuyền, không có công nghệ đóng tàu, không có ai biết lái tàu biển. Và còn nữa: từ “chuyện nhỏ” như thiết lập trường xóa mù chữ và dạy toán cấp cơ sở, trường kỹ thuật đào tạo thợ chuyên môn, xưởng in, cho đến việc cải tổ hành chính, hoàn thiện cơ sở pháp luật, xây dựng hệ thống đường sá, kênh đào vĩ đại, hoàn thiện thành phố Sankt-Peterburg, nâng cao vai trò người phụ nữ, lập nên Viện Hàn lâm Khoa học,…[30]
Qua đó tố chất của Pyotr Đại đế được hiện rõ: trong khi sở thích cá nhân của ông thời thơ ấu tập trung vào vài lĩnh vực như quân sự và hàng hải, khi đã là Sa hoàng độc tôn và có cơ hội đi ra nước ngoài, sự quan tâm học hỏi của ông lại trở nên bao quát. Ông đi viếng thăm đủ mọi nơi: nhà máy chế biến, xưởng cưa, nhà máy in, xưởng se sợi, nhà máy giấy, xưởng cơ khí, viện bảo tàng, vườn thực vật, phòng thí nghiệm,… Ông đến viếng và hỏi han các kiến trúc sư, nhà điêu khắc, kỹ sư, nhà thiên nhiên học, người phát minh kính hiển vi, giáo sư giải phẫu học,… Ông cũng học hỏi từ người hành nghề tầm thường nhất để biết cách vá quần áo của mình, đóng một đôi dép cho riêng mình, và còn tập tháo ráp đồng hồ. Khi thơ thẩn đi xem phố xá, chợ búa nước người, ông vẫn có thái độ nghiêm túc như khi đi gặp các nhà khoa học, không phải như một du khách nhàn nhã mà như du học sinh: muốn nghe, muốn thấy, muốn phân tích tại sao dân Nga quá nghèo và dân Tây Âu quá giàu. Và từ đó, du học sinh có tên giả là Pyotr Mikhailov đi đến những câu trả lời nằm ở ngoại thương, cảng biển, đội thương thuyền, ngay cả sự phóng khoáng về tôn giáo. Tức là, phân tích và kết luận của ông không phải là manh mún theo sở thích cá nhân, mà trở thành khá đồng bộ, tổng thể trong sách lược phát triển đất nước Nga.
Một thế kỷ sau khi ông qua đời, sự ngưỡng mộ đối với vua Pyotr Đại đế trở thành gần như là lòng sùng bái, với vô số lời ca ngợi nồng nàn về ông xuất phát từ những nhà khoa học, văn nghệ sĩ,… kiệt xuất. Cùng với nữ hoàng Ekaterina II, ông là một trong hai nhà lãnh đạo được Thủ tướng Nga Vladimir Vladimirovich Putin đề cao nhất trong lịch sử Nga.[31]
Lẽ tự nhiên là có ý kiến khác biệt. Sau khi vua Pyotr Đại đế qua đời, người dân dấy lên niềm hy vọng là gánh nặng làm nghĩa vụ và đóng thuế sẽ giảm bớt. Trong thế kỷ 19, người có óc bảo thủ vấn vương với những giá trị truyền thống của nước Nga cũ chê trách Pyotr là người đầu tiên mở cánh cửa để đón tiếp ý tưởng và sáng kiến của phương Tây. Có người cho rằng, duới thời Pyotr Đại đế, người Nga trở thành những công dân của thế giới nhưng theo vài phương diện không còn là công dân Nga nữa. Tranh luận trên quy mô lớn đã nổ ra giữa hai trường phái: một bên là bảo thủ lên án sự nhiễm bẩn và phá hủy của nền văn hóa cùng các định chế của nước Nga cũ; bên kia là “Tây hóa” vốn ngưỡng mộ và ca ngợi Pyotr Đại đế vì đã chế ngự quá khứ và thúc đẩy nước Nga đi lên con đường tiến bộ.
Riêng vua Pyotr Đại đế thì có đầu óc thực tế và triết lý khi nghĩ người khác xem ông là như thế nào và sẽ nhớ về ông ra sao. Trong cuộc trò chuyện với một đại sứ nước ngoài, Pyotr hỏi nước ngoài nghĩ về ông ra sao.
Vị đại sứ đáp:
- “Thưa Hoàng thượng, mọi người đều có đánh giá cao nhất về Ngài. Đặc biệt là cả thế giới ngạc nhiên về trí thông minh và thiên tài mà Ngài đã thể hiện trong việc điều hành những kế hoạch quy mô do Ngài khai sáng, và đã khiến cho tên tuổi vinh quang của Ngài lan xa ra mọi miền”.
Pyotr nói một cách nóng nảy:
- “Được rồi, được rồi, điều đó có thể đúng, nhưng quân vương nào cũng được người đối diện tâng bốc như thế. Mục tiêu của tôi không phải là muốn nhìn thấy mặt tốt, mà để biết người ta phán xét về tôi ra sao theo mặt trái của vấn đề. Tôi mong ông hãy nói cho tôi biết, dù nó là ra sao chăng nữa”.
Vị đại sứ gập người thấp xuống, nói:
- “Thưa Ngài, vì Ngài đã hạ lệnh, tôi sẽ nói cho Ngài biết mọi mặt xấu mà tôi đã nghe. Họ bảo rằng Ngài là một quân vương độc đoán và nghiêm khắc, đối xử với thần dân của mình một cách cứng rắn, người luôn sẵn sàng trừng phạt mà không có khả năng tha thứ cho lỗi lầm”.
Pyotr Đại đế mỉm cười và lắc đầu nói:
“ |
Ông bạn, chưa hết đâu. Tôi hiện thân là nhà độc tài hà khắc; đó là ý kiến mà nước ngoài nghĩ về tôi. Nhưng làm thế nào họ phán xét cho đúng được? Họ không biết rõ về những hoàn cảnh mà tôi đã lâm vào trong giai đoạn đầu của triều đại tôi, họ không biết có bao nhiêu người chống đối những kế hoạch của tôi, đi nghịch lại với những dự án hữu ích nhất của tôi và bắt buộc tôi phải nghiêm khắc. Nhưng tôi không hề đối xử với ai một cách tàn nhẫn hoặc chứng tỏ là người độc tài. Trái lại, tôi luôn yêu cầu thần dân tôi hãy thể hiện óc suy nghĩ và lòng yêu nước, hãy tỏ ra công bằng với những sách lược đúng đắn của tôi mà ủng hộ cho những sách lược này. Và tôi không bao giờ quên bày tỏ lòng trọng vọng của mình bằng cách ban phát ân huệ cho họ. |
” |
— Pyotr Đại đế
|
Tranh cãi về Pyotr Đại đế và về những cải tổ của ông không bao giờ chấm dứt. Ông đã được thần tượng hóa mà cũng bị kết án, được phân tích hết lần này qua lần khác, và rồi vẫn là con người huyền bí. Một tố chất mà không ai có thể tranh cãi là năng lượng làm việc ngút ngàn của ông. Chính Pyotr Đại đế đã viết: “Không nên để mất một thời khắc nào, chúng ta phải trút ra hết năng lượng để làm việc”. Ông có một sức mạnh của thiên nhiên, và có lẽ vì lý do này không thể có sự phán xét cuối cùng về ông.
Điểm giống với Julius Caesar
Trong lịch sử, nhiều nhân vật không chỉ có những điểm tương đồng nhau về ngoại hình mà còn về sự nghiệp nữa. Trong số những trường hợp này có Pyotr Đại đế và nhà độc tài La Mã Julius Caesar, họ có những điểm giống như sau:[33]
- Trong lịch sử La Mã cổ đại, Julius Caesar là nhà lãnh đạo đầu tiên tự phong mình làm “hoàng đế”. Còn trong lịch sử Nga, Pyotr là vị vua đầu tiên trở thành “hoàng đế”.
- Vào năm 46 trước Công nguyên, Julius Caesar đã đề xướng cải tổ về lịch. Kết quả của cuộc cải tổ này là người La Mã xem ngày 1 tháng 1 là ngày đầu tiên của năm. Tương tự với Caesar, ngày 15 tháng 12 năm 1699 Pyotr Đại đế ban bố Thánh chỉ về việc thiết lập những loại lịch mới.
- Julius Caesar và Pyotr Đại đế đều là những ông vua quan tâm đến việc quân sự. Họ đã đặt ra Bộ Tham mưu cùng với những cơ quan có trách nhiệm với vấn đề đường xá, kỹ thuật,… [33]
Các câu nói nổi tiếng
“ |
Không phải là anh đến gần mũi tên hòn đạn, mà chúng nó đến gần anh. Em hãy ra lệnh cho chúng nó ngưng bắn. |
” |
— Thư trả lời em gái Natalia khi biết ông quá hăng say chiến đấu, cầu khẩn vua anh không nên đến gần tầm đạn của đối thủ.
|
“ |
Bớt nghi lễ nhưng thêm hăng hái và thêm trung thành đối với Ta và Đất nước – đấy là cách bày tỏ lòng kính trọng Sa hoàng. |
” |
— Trong chỉ dụ quy định thần dân không cần phải quỳ gối hoặc nằm phủ phục trước sự hiện diện của Nga hoàng.
|
“ |
Đừng buồn do vận rủi vừa qua, vì thành công liên tiếp khiến cho nhiều người thân bại danh liệt. Hãy quên đi và cố khích lệ binh sĩ của ông. |
” |
— Thư viết cho Sheremetev.
|
“ |
Binh sĩ không nên nghĩ mình chiến đấu cho Pyotr, mà cho chế độ của Sa hoàng được nhân dân giao phó cho Pyotr… Phải biết rằng ông ấy không quý trọng mạng sống của mình, nhưng nên hiểu rằng nước Nga phải trường tồn trong tình hiếu thảo, thanh danh và phồn thịnh. |
” |
— Lời hiệu triệu binh sĩ Nga trước Trận Poltava.
|
“ |
Binh sĩ không thể được no bụng với các lời hứa hão huyền, mà họ cần kho quân nhu đầy đủ. |
” |
— Tuyên bố với phía Đan Mạch khi thảo luận việc hợp lực đánh Thụy Điển.
|
“ |
Ta không cổ vũ con gây chiến tranh mà không có lý do đúng phép tắc. |
” |
— Thư viết cho con trai, Thái tử Aleksei.
|
“ |
Cần thiết phải giải thích những quyền lợi của đất nước là gì, và làm cho dân chúng hiểu được những điều này. |
” |
— Chỉ thị cho các bá quan trong triều.
|
“ |
Ta tự biết mình có lỗi vì dễ nóng giận. Vì lý do này mà ta không cảm thấy bị xúc phạm bởi những người nói cho ta biết điều ấy và can gián ta, như Ekaterina của ta. |
” |
— Câu tâm sự với người chung quanh.
|
“ |
Ai biết được? Nó có thể không lạ với ngươi, nhưng lạ với ta. Hãy cho ta xem mọi thứ. |
” |
— Câu thường nói với quan chức địa phương khi hỏi han địa phương ấy có cái gì lạ không.
|
Gia quyến
Pyotr Đại đế có hai người vợ và có với họ tổng cộng mười bốn người con nhưng chỉ ba trong số họ sống tới tuổi trưởng thành. Con trưởng của ông, Thái tử Aleksei bị tình nghi tham gia âm mưu lật đổ vua cha. Alexei đã thú tội trong quá trình tra khảo thực hiện bởi tòa án thế tục (không thuộc Nhà thờ), nơi trước đó ông đã bị luận tội và kết án để thi hành. Bản án chỉ được thực hiện khi có chữ ký xác nhận của Nga hoàng Pyotr, nhưng Aleksei đã chết trong tù trước khi Pyotr đưa ra quyết định của mình. Nguyên nhân dẫn đến cái chết của Aleksei nhiều khả năng nhất là do Thái tử này đã bị thương khi bị tra tấn.[34]
Sau đây là danh sách các con của Pyotr Đại đế:
Tên |
Sinh |
Mất |
Ghi chú |
Con của Eudoxia Lopukhina |
Aleksei Petrovich, Thái tử của Nga |
18 tháng 2 năm 1690 |
26 tháng 6 năm 1718 |
Cưới Công chúa Charlotte của Brunswick-Wolfenbüttel năm 1711; có con. |
Aleksandr Petrovich, Đại công tước của Nga |
13 tháng 10 năm 1691 |
14 tháng 5 năm 1692 |
|
Pavel Petrovich, Đại công tước của Nga |
1693 |
1693 |
|
Con của Ekaterina I |
Pavel Petrovich |
1704 |
1707 |
Sinh và chết trước khi cha mẹ chính thức kết hôn. |
Pyotr Petrovich |
1705 |
1707 |
Sinh và chết trước khi cha mẹ chính thức kết hôn. |
Ekaterina Petrovna |
7 tháng 2 năm 1707 |
1708 |
Sinh và chết trước khi chính thức kết hôn. |
Anna Petrovna, Công chúa của Nga |
27 tháng 1 năm 1708 |
15 tháng 5 năm 1728 |
Kết hôn năm 1725 với Karl Friedrich, Công tước của Holstein-Gottorp; có con. |
Nữ hoàng Elizaveta I |
29 tháng 12 năm 1709 |
5 tháng 1 năm 1762 |
Kết hôn không đăng đối năm 1742 với Aleksei Grigorievich, Bá tước Razumovsky; không có con |
Maria Petrovna, Đại Công nương của Nga |
20 tháng 3 năm 1713 |
27 tháng 5 năm 1715 |
|
Margarita Petrovna, Đại Công nương của Nga |
19 tháng 9 năm 1714 |
7 tháng 6 năm 1715 |
|
Pyotr Petrovich, Đại Công tước của Nga |
15 tháng 11 năm 1715 |
19 tháng 4 năm 1719 |
|
Pavel Petrovich, Đại Công tước của Nga |
13 tháng 1 năm 1717 |
14 tháng 1 năm 1717 |
|
Natalia Petrovna, Đại Công nương của Nga |
31 tháng 8 năm 1718 |
15 tháng 3 năm 1725 |
|
Một người con gái chết non |
1720 |
1720 |
|
Pyotr Petrovich, Đại Công tước của Nga |
7 tháng 10 năm 1723 |
7 tháng 10 năm 1723 |
|
Chú thích
- ^ TT Bush nghiên cứu tiểu sử Piotr Đại đế trước khi tới Moskva
- ^ a ă â b Đi một ngày đàng, học một sàng khôn
- ^ Mục từ “Xanh Pêtecbua” trong Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam
- ^ Nữ hoàng Ekaterina Đệ nhị: Điều không ghi trên bia mộ
- ^ a ă “The history of Peter the Great, emperor of Russia”, Tập 1, của Voltaire, Tobias George Smollett, tr. 55
- ^ a ă “The history of Peter the Great, emperor of Russia”, Tập 1, của Voltaire, Tobias George Smollett, tr. 56
- ^ Thẩm Kiên, sách đã dẫn, tr 214
- ^ Riasanovsky, Nicholas (2000). A History of Russia. Oxford: Oxford University Press. tr. 214.
- ^ Thẩm Kiên, sách đã dẫn, tr 216
- ^ a ă Riasanovsky, Nicholas (2000). A History of Russia. Oxford: Oxford University Press. tr. 218.
- ^ Riasanovsky, Nicholas (2000). A History of Russia, sixth edition. tr. 216.
- ^ Thẩm Kiên, sách đã dẫn, tr 219
- ^ Farquhar, Michael (2001). A Treasure of Royal Scandals, p.176. Penguin Books, New York. ISBN 0-7394-2025-9.
- ^ Riasanovsky, Nicholas (2000). A History of Russia, sixth edition. tr. 220.
- ^ a ă Thẩm Kiên, sách đã dẫn, tr 221
- ^ www.cpv.org.vn – Latvía (Latvia)
- ^ Evgeniĭ Viktorovich Anisimov, sách đã dẫn, tr. 127. Tạm dịch từ nguyên văn: “the Swedish king, because of his known stubbornness, gives us no peace, so that for the true attainment of this just ultimate purpose we have been compelled to direct our armed forces into Estland so as to control consolidate control of its seaport and thereby defend ourselves from any invasion. In particular we have considered it essential with God’s aid to control the town of Revel…”
- ^ a ă Những sự kiện dưới triều vua Ahmed III Khan (1673-1736)
- ^ Riasanovsky, Nicholas (2000). A History of Russia, sixth edition. tr. 224.
- ^ Peter the Great – His life and world của Robert K. Massie, NXB: Sphere Books Ltd., London, 1980.
- ^ tiếng Nga: Ништадтский мирный договор между Россией и Швецией, 30 августа 1721 г. Text of the Treaty of Nystad in Russian
- ^ a ă Thẩm Kiên, sách đã dẫn, tr 225
- ^ Thẩm Kiên, sách đã dẫn, tr 229
- ^ a ă Thẩm Kiên, sách đã dẫn, tr 230
- ^ Versailles của nước Nga
- ^ Thẩm Kiên, sách đã dẫn, tr 231
- ^ a ă Thẩm Kiên, sách đã dẫn, tr 234
- ^ Công bố danh sách người Nga vĩ đại nhất
- ^ Điểm lại sự tồn vong của các đế quốc trên thế giới
- ^ Thẩm Kiên, sách đã dẫn, tr 237
- ^ Thủ tướng Putin: Tôi không tiêu diệt các nhà tỷ phú
- ^ Tsar Nicholas II: Biography
- ^ a ă Hiện tượng người giống nhau khoa học đang tìm lời giải – Xa lộ Tin tức
- ^ Massie, Robert K. (1980). Peter the Great, His Life and Real World. New York: Alfred A. Knopf. tr. 76,377,707. ISBN 9780307291455.
Tài liệu tham khảo
- Peter the Great – His life and world – Robert K. Massie, Nhà xuất bản: Sphere Books Ltd., London, 1980.
- “The history of Peter the Great, emperor of Russia” – Voltaire, Tobias Smollett, Nhà xuất bản: Leavitt & Allen, 1857
- Thập đại tùng thư: 10 đại hoàng đế thế giới, Thẩm Kiên chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 2003
- Mục từ Piôt I Đại đế trong Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam
- Đi học ngày đàng, học một ngày khôn
- Evgeniĭ Viktorovich Anisimov, The reforms of Peter the Great: progress through coercion in Russia, M.E. Sharpe, 1993.
- Bushkovitch, Paul A. (tháng 1 năm 1990). “The Epiphany Ceremony of the Russian Court in the Sixteenth and Seventeenth Centuries”. Russian Review (Blackwell Publishing on behalf of The Editors and Board of Trustees of the Russian Review) 49 (1): 1–17. doi:10.2307/130080. JSTOR 10.2307/130080. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2009.
- Gordon, Alexander (1755). The History of Peter the Great, Emperor of Russia: To which is Prefixed a Short General History of the Country from the Rise of that Monarchy: and an Account of the Author’s Life. London and Aberdeen: F. Douglass and W. Murray.
- Graham, Stephen Peter the Great: A Life of Peter I of Russia called The Great Biographical work with 367 pages, plus Index. Not Illustrated, other than a black and white frontispiece portrait of Peter the Great.
- Hughes, Lindsey. Russia in the Age of Peter the Great. New Haven, CT; London: Yale University Press, 1998 (hardcover, ISBN 0-300-07539-1; paperback, ISBN 0-300-08266-5).
- Hughes, Lindsey. Peter the Great and the West: New Perspectives (Studies in Russian and Eastern European History). New York: Palgrave Macmillan, 2001 (hardcover, ISBN 0-333-92009-0).
- Hughes, Lindsey. Peter the Great: A Biography. New Haven, CT; London: Yale University Press, 2002 (hardcover, ISBN 0-300-09426-4); 2004 (paperback, ISBN 0-300-10300-X).
- Massie, Robert K. (tháng 10 năm 1981). Peter the Great: His Life and World. New York City: Ballantine Books. ISBN 0345298063.
- Troyat, Henri. Peter the Great. New York: E.P. Dutton, 1987 (hardcover, ISBN 0-525-24547-2
Xem thêm
Liên kết ngoài
 |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Pyotr I của Nga |
Tiếng Nga
Gia Long
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Gia Long (chữ Hán: 嘉隆; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820), hay còn gọi là Nguyễn Thế Tổ (阮世祖), là vị Hoàng đế đã thành lập nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (阮福暎, thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820.
Là cháu của vị chúa Nguyễn cuối cùng ở Đàng Trong, sau khi gần như toàn bộ gia tộc bị quân Tây Sơn bắt giết năm 1777, Nguyễn Ánh phải trốn chạy và bắt đầu cuộc chiến 25 năm với Tây Sơn để khôi phục lại cơ nghiệp của dòng tộc. Sau nhiều thất bại lớn và phải cầu viện sự giúp đỡ của Xiêm La và Pháp, ông giữ vững được Nam Hà và đến năm 1802 thì đánh bại quân Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, thống nhất Việt Nam sau nhiều thế kỷ nội chiến.
Triều đại của Gia Long được đánh dấu bằng việc chính thức sử dụng quốc hiệu Việt Nam với cương thổ rộng lớn nhất cho đến thời đó, kéo dài từ biên giới với Trung Quốc tới vịnh Thái Lan, gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa[1]; thay thế các cải cách có xu hướng tự do của triều Tây Sơn bằng nền giáo dục và điều hành xã hội theo Nho giáo khắc nghiệt hơn; định đô tại Phú Xuân. Ngoài ra, ông còn là người mở đường cho các ảnh hưởng của người Pháp ở Việt Nam qua việc mời họ giúp xây dựng các thành trì lớn, huấn luyện quân đội và khoan thứ cho việc truyền đạo Công giáo. Dưới sự cai trị của ông, Việt Nam trở thành một thế lực quân sự hùng mạnh ở Đông Dương, cùng Xiêm La phân chia ảnh hưởng đối với Chân Lạp.
Thời trẻ
Nguyễn Ánh sinh vào ngày 15 tháng giêng năm Nhâm Ngọ (tức ngày 8 tháng 2 năm 1762), là con trai thứ ba của Nguyễn Phúc Luân và Nguyễn Thị Hoàn[2]. Khi còn nhỏ Nguyễn Ánh còn có tên khác là Nguyễn Phúc Chủng (阮福種) và Noãn (暖). Năm ông 4 tuổi, cha ông bị quyền thần Trương Phúc Loan bắt giam và chết trong ngục. Năm ông 9 tuổi (1771), khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ. Năm ông 13 tuổi (1775), chúa Nguyễn bị chúa Trịnh và quân Tây Sơn đánh kẹp từ hai mặt. Nguyễn Ánh và bốn anh em trong nhà đi theo chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Quảng Nam rồi vượt biển vào Gia Định[2][3]. Trong thời gian nội bộ chúa Nguyễn đang xẩy ra tranh chấp giữa phe ủng hộ Nguyễn Phúc Thuần của Đỗ Thanh Nhơn và phe ủng hộ Nguyễn Phúc Dương của Lý Tài, Nguyễn Ánh trú tại Ba Giồng với quân Đông Sơn[4].
Năm 1777, cả Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần, Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương, vài người anh em ruột của Nguyễn Ánh và nhiều người khác trong gia tộc chúa Nguyễn bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ bắt giết hết, chỉ có một mình ông thoát nạn ở Long Xuyên (khu vực Cà Mau hiện nay)[3][5][6]. Ông chạy ra đảo Thổ Chu[6] và được Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine), một Giám mục người Pháp, che chở[7].
Thất thế ở Nam Hà
Xưng vương
-
Sau chừng một tháng trốn chạy, khi Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đã về Quy Nhơn thì Nguyễn Ánh lại xuất hiện ở Long Xuyên, tiến lên Sa Đéc với Đỗ Thanh Nhơn và Lê Văn Quân[6]; ông ra hịch cáo quân và thu nhận được thêm một đội quân cùng các tướng Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phước Khuông, Tống Phước Luông và Hồ Văn Lân[6]… Tháng 11 năm 1777, ông tập hợp một đạo quân mặc toàn áo tang bất ngờ tấn công dinh Long Hồ và sau đó nhanh chóng đuổi quan trấn thủ Tây Sơn tại Gia Định là Tổng đốc Chu (hay Tổng đốc Châu), lấy lại thành Sài Côn tháng 12 cùng năm.
Năm 1778, khi Nguyễn Ánh được 17 tuổi, các tướng tôn ông làm Đại nguyên súy Nhiếp quốc chính[8]. Và cũng chỉ trong tháng 2 năm 1778, Tây Sơn phái Tổng đốc Chu, Tư khấu Uy và Hộ giá Phạm Ngạn vào đánh Gia Định. Họ nhanh chóng đánh chiếm các vùng Trấn Biên, Phiên Trấn và một số khu vực ven biển[9]. Nguyễn Ánh để Đỗ Thanh Nhơn giữ Gia Định rồi cùng Lê Văn Quân và Nguyễn Văn Hoằng đi đánh nhau ở khu vực Bến Lức. Tại Bến Lức, quân Nguyễn chặn được Tây Sơn rồi sau đó mở cuộc phản công, ngăn chặn và đẩy lùi được thủy binh Tây Sơn do Tư khấu Uy chỉ huy ở Bến Nghé rồi chiếm lại được Trấn Biên[9]. Thủy binh của Phạm Ngạn thì bị Lê Văn Duyệt phá, buộc ông này phải rút về lại Quy Nhơn[9].
Suốt các năm sau 1778 và 1779, Nguyễn Ánh ra sức củng cố và mở mang Phiên An trấn (vùng Sài Gòn-Gia Định-Long An hiện giờ) với mục đích biến vùng này thành căn cứ địa chống Tây Sơn[10]. Ông cho tổ chức phân chia hành chính[11] đất Gia Định dưới sự cố vấn của Bá Đa Lộc[12], đặt quan coi giữ, đóng thuyền, trữ lương chuẩn bị, xây dựng chiến lũy phòng thủ và củng cố lực lượng thủy bộ[2][13][14]. Trong đó Nguyễn Ánh đặc biệt quan tâm tới thủy binh: khi ngay sau khi vừa được tôn làm đại nguyên soái, ông liền cho đóng ngay 50 chiến hạm đầu nhọn gọi là Long Lâm Thuyền[15]. Hai năm sau, tướng Đỗ Thanh Nhơn lại đưa ra sáng kiến đóng thủy sư hai bánh (thuyền hai lái)[16]. Năm 1779, Chân Lạp tranh thủ quân Việt đang gặp rối loạn mà nổi dậy, Nguyễn Ánh bèn sai binh đi chiếm Chân Lạp và biến quốc gia này thành chư hầu[14][17]. Tháng 1 năm 1780, Nguyễn Ánh xưng vương, dùng theo niên hiệu Cảnh Hưng của nhà Lê và lấy ấn “Đại Việt quốc Nguyễn chúa Vĩnh Trấn chi bửu” làm ấn truyền quốc[18], phong cho Đỗ Thanh Nhơn chức Ngoại hữu, Phụ chính, Thượng tướng công[19]. Cùng năm, người Miên ở Trà Vinh dưới sự chỉ huy của tù trưởng Ốc Nha lợi dụng tình hình nổi lên chống Nguyễn Ánh, ông sai Đỗ Thanh Nhơn và Dương Công Trừng đi đánh dẹp[20][21]. Nguyễn Ánh ngoài ra còn cho đặt quan hệ ngoại giao với Xiêm La[17].
Đỗ Thanh Nhơn vì có nhiều công lớn nên được Nguyễn Ánh đãi trọng[22], nhưng lại có biểu hiện hung bạo, cậy công lấn lướt quyền hành với Nguyễn Ánh, tạo thêm vây cánh thậm chí muốn giành quyền lực[22][23]. Thấy vậy, tướng Tống Phúc Thiêm bèn bày mưu để giết Đỗ Thanh Nhơn[22]. Tháng 3 năm 1781, Nguyễn Ánh cùng Tống Phúc Thiêm lập mưu giả bệnh, gọi Thanh Nhơn đến rồi sai võ sĩ giết chết[22][23]. Đây là một việc gây nhiều tai hại cho Nguyễn Ánh: sau đó dù ông đã nhanh chóng đưa ra chính sách chia cắt để làm suy yếu quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn nhưng họ vẫn phản lại Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh phải ra sức đánh dẹp mãi, trong việc đánh dẹp này Thống binh Tống Văn Phước tử trận[17][22].
Quan hệ với Xiêm La
Tháng 10 năm 1781, Xiêm La đưa quân sang đánh Chân Lạp. Nguyễn Ánh cho quân sang cứu Chân Lạp. Khi quân Việt và quân Xiêm còn đang đánh nhau thì ở Xiêm La, vua Xiêm La là Trịnh Quốc Anh bắt vợ con hai tướng Xiêm chỉ huy rồi sau đó lại loạn Phan Nha Văn Sản nổ ra. Hai tướng Xiêm là Chất Tri và Sô si buộc phải thỏa hiệp với quân Việt, thề cứu nhau trong lúc hoạn nạn rồi rút về nước dẹp loạn Phan Nha Văn Sản và giết quốc vương Trịnh Quốc Anh. Chất Tri lên ngôi, tức vua Rama I của Xiêm La, mở đầu nhà Chakri[17]. Chính biến ở Xiêm khiến quan hệ giữa Nguyễn Ánh và Xiêm thay đổi: từ chỗ đối kháng trở thành đồng minh.
Thất thế trước Tây Sơn
Lược đồ một số địa danh ở Gia Định cuối thế kỷ thứ 18 (riêng địa danh
Long Xuyên thế kỷ 18 nay là Cà Mau,
Long Xuyên trong bản đồ này chỉ là địa danh từ cuối thế kỷ 19 khi thuộc Pháp).
Đến thời điểm mùa hè năm 1781, quân đội của Nguyễn Ánh phát triển lên đến khoảng 3 vạn người với 80 chiến thuyền đi biển, 3 thuyền lớn[24] và 2 tàu đánh thuê Bồ Đào Nha do Giám mục Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh mời được[22][25]. Ông bèn tổ chức tấn công Tây Sơn đánh tới tận đất Phú Yên nhưng sau cùng phải rút chạy vì gặp bộ binh rất mạnh của Tây Sơn[25]. Tức giận vì tốn kém nhưng không thu được kết quả, quan lại Gia Định để cho một người phụ việc của Bá Đa Lộc là cai cơ Manuel[a] lập mưu giết chết các tay lính đánh thuê Bồ Đào Nha và cướp tàu của họ[25].
Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ cùng vua Thái Đức mang quân thuỷ bộ Nam tiến. Tây Sơn đụng trận dữ dội ở sông Ngã Bảy và cửa biển Cần Giờ với quân Nguyễn do chính Nguyễn Ánh chỉ huy. Dù lực lượng thuyền của Tây Sơn yếu hơn, nhưng nhờ lòng can đảm họ đã phá tan quân Nguyễn đồng thời buộc Manuel tự sát, tuy vậy cũng thiệt hại khá nhiều binh lực[26]. Nguyễn Ánh thất trận bỏ chạy về Ba Giồng, rồi có khi trốn sang tận rừng Romdoul, Chân Lạp[27] (rừng Romdoul là khoảng khu vực phía bắc tỉnh Svay Rieng). Tây Sơn đuổi theo vào cuối tháng 4, bắt vua quan Chân Lạp hàng phục và buộc tất cả những người Việt ở đấy phải về nước nhưng Nguyễn Ánh lại trốn kịp.
Vua Thái Đức khi chiếm lại Nam bộ gặp phải sự chống đối mạnh của người Hoa ủng hộ Nguyễn Ánh tại đây. Sự chống đối này khiến cho Đô đốc Phạm Ngạn, người vốn rất thân thiết với Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, tử trận và đồng thời binh lính Tây Sơn thương vong nhiều trong khi đánh dẹp[28][29]. Hay tin, Nguyễn Nhạc rất đau đớn và để trả thù, ông tiến hành tàn sát hơn một vạn người Hoa ở vùng Gia Định và tàn phá nặng nề vùng Cù Lao Phố[28][29]. Vụ tàn sát này cộng với vụ tương tự trước kia Tây Sơn thực hiện ở Hội An khiến cho cộng đồng người Hoa giàu có, vốn dĩ trước đã có cảm tình nhiều hơn với Nguyễn Ánh, quay sang ủng hộ Nguyễn Ánh hết lòng cho đến hết cuộc chiến của mình khiến cho ông có được một nguồn lực kinh tế rất lớn[30][31]. Ngoài ra, việc này còn cản chân Tây Sơn trong việc truy bắt Nguyễn Ánh, khiến cho Nguyễn Ánh có cơ hội quay trở về Giồng Lữ, một đô đốc Tây Sơn là Nguyễn Học đem quân đuổi theo Ánh bị quân Nguyễn bắt giết khiến cho Nguyễn Ánh có được 80 thuyền của Tây Sơn. Nguyễn Ánh thấy vậy định kéo về chiếm lại Gia Định nhưng đụng Nguyễn Huệ dàn binh quay lưng ra sông đánh bại khiến Nguyễn Ánh phải chạy về Hậu Giang, Rạch Giá, Hà Tiên rồi theo thuyền nhỏ trốn ra Phú Quốc[31].
Hình trang bìa tác phẩm
Gia Long tẩu quốc của
Tân Dân Tử (1875-1955) mô tả về quá trình trốn chạy của Nguyễn Ánh. Trong văn hóa Việt, quá trình Nguyễn Ánh bôn tẩu khắp chốn Nam Hà đã làm nảy sinh cụm từ “Gia Long tẩu quốc” (Gia Long bôn tẩu vì nước). Về sau, cụm từ này sau đó trở thành chủ đề văn học (tác phẩm cùng tên của
Phạm Văn Thình hay Tân Dân Tử) được in chạm vào nhiều bộ bình trà, dĩa sứ ở miền Nam Việt Nam
[32][33].
Nhận thấy Nguyễn Ánh đã hết sức phản kháng, anh em Tây Sơn rút quân về Quy Nhơn, để lại hai hàng tướng của quân Đông Sơn là Đỗ Nhàn Trập và Hộ bộ Lãnh trấn giữ Gia Định[34]. Châu Văn Tiếp, một tướng trước đây từng theo Tây Sơn, cùng Nguyễn Phước Mân lại từ Bình Thuận mang quân vào đánh chiếm được Gia Định và đón Nguyễn Ánh trở về. Nguyễn Ánh tìm cách tổ chức lại Gia Định nhưng quân của ông rất yếu ớt vì các thất bại trước, buộc ông phải sai sứ là Lê Phước Điển và Lê Phước Bình[35] sang Xiêm trước để đề phòng Tây Sơn vào, đồng thời ủy thác cho Bá Đa Lộc chuẩn bị trước thuyền bè để khi Tây Sơn đến có đường mà đi[36]. Tháng 2 năm 1783, Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mang quân Nam tiến. Dù Nguyễn Ánh đã lập tuyến phòng thủ trước[37] nhưng vẫn bị quân Tây Sơn phá tan trong trận đánh ở cửa Cần Giờ.[38] Tướng của Nguyễn Ánh là Nguyễn Phước Mân bị giết chết còn Dương Công Trừng bị bắt sống. Bản thân Nguyễn Ánh buộc phải bỏ chạy về Phú Quốc với tầm 100 quân và 6 tướng.[39] Một tháng sau, Nguyễn Ánh lại tụ tập được một đạo quân người Chân Lạp dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huỳnh Đức quay về Đồng Tuyên[35][36]. Nguyễn Huệ kéo quân đánh phá Đồng Tuyên, bắt hoặc giết hầu như toàn bộ tướng của Nguyễn Ánh[36]. Riêng Nguyễn Ánh nhờ biết bơi nên thoát chết; ông bèn bỏ chạy và đem theo mẹ, và vợ con ra đảo Phú Quốc, ở tại đảo Diệp Thạch (hòn Đá Chồng)[18][35][35][40][40][41]. Sau trận Đồng Tuyên, quân binh người Hoa trở mặt làm phản đánh chiếm Hà Tiên, giết chết tướng của Nguyễn Ánh là Nguyễn Kim Phẩm cùng một người con gái của Ánh tên là Ngọc Hoa. Nguyễn Ánh khi này trốn ra vùng đảo thuộc Vịnh Thái Lan, nơi ông thu nạp được một số hải tặc người Xiêm và Mã Lai đang hoạt động ở đây. Sau đó, Nguyễn Ánh tổ chức tầm 2-3 đợt cướp vùng Hà Tiên để kiếm khí giới và lương thực cho binh lính, nhưng cũng chính các hoạt động này khiến cho nơi trú ẩn của Nguyễn Ánh bị lộ[40].
Tháng 6 âm lịch năm 1783, một tổng suất của quân Tây Sơn là Phan Tuấn Thuận kéo quân ra Đá Chồng truy kích, tình thế bức bách tướng Lê Phước Điển dùng kế hy sinh mặc áo ngự đóng giả Nguyễn Ánh khiến Tây Sơn bắt nhầm[18][40][41]. Riêng Nguyễn Ánh thoát chạy ra được đảo Cổ Long nhưng lại mất hết thuộc tướng. Một tháng sau, dò biết được Ánh đang ở Phú Quốc[41][42], Nguyễn Huệ sai phò mã Trương Văn Đa của Tây Sơn kéo quân vây đánh 3 vòng trùng trùng điệp điệp. Nhưng lúc này bất ngờ có bão biển, các thuyền Tây Sơn phải giãn ra và một số bị đánh đắm[43]. Nguyễn Ánh thừa cơ lên thuyền trốn và sau bảy ngày đêm lênh đênh trên biển, ông quay ra hòn Cổ Cốt rồi lại về Phú Quốc[18][44]. Thời gian này, vì thiếu lương thực binh sĩ Nguyễn Ánh phải đi hái cỏ, đào củ, hay nhờ thuyền gạo của một người đàn bà tên là Hà để có cái ăn[43][44].
Nguyễn Ánh vẫn tiếp tục lần mò tìm cách quay lại Gia Định qua cửa biển Ma Ly (một cửa biển xưa thuộc Bình Thuận ngày nay[45]), Tây Sơn nghe tin liền đuổi bắt khiến ông phải trốn tiếp ra Phú Quốc[43]. Sau đó, Nguyễn Ánh cùng một cai cơ tên Nguyễn Văn Chính quay về Long Xuyên, bắt giết được một vị tướng của Tây Sơn tên là Quản Nguyệt ở cửa sông Ông Đốc. Việc này đã đánh động đến Tây Sơn khiến cho Nguyễn Ánh suýt bị bắt, lại phải trốn và tiếp tục trôi dạt qua các đảo Thổ Chu, Cổ Long, Cổ Cốt sống cuộc đời lưu vong “phẫn chí của một viên bại tướng” với vài trăm binh và thân cận[46].
Nguyễn Ánh khi đang lưu vong ở Xiêm La năm 1783
Chính trong thời gian này, với những khó khăn gặp phải và mối quan hệ của Nguyễn Ánh với Bá Đa Lộc ngày càng thắt chặt, hình ảnh nước Pháp ngày càng lớn dần trong tâm trí của Nguyễn Ánh, kèm theo lời bày của Bá Đa Lộc[47] khiến Nguyễn Ánh nảy sinh ý định cầu viện Pháp. Vào cuối năm 1783, Nguyễn Ánh giao cho Bá Đa Lộc một tờ quốc thư 14 khoản cầu viện Pháp và quốc ấn để vị Giám mục này được toàn quyền thay mặt Nguyễn Ánh[47] sang Pháp cầu viện triều đình vua Louis XVI. Đi kèm với Bá Đa Lộc là con cả của Nguyễn Ánh là Nguyễn Phúc Cảnh[47] và các tướng Phạm Văn Nhơn, Nguyễn Văn Liêm[35]. Sinh mạng của cậu bé về sau trở thành hoàng tử trưởng nhà Nguyễn, khi ấy mới lên 4 tuổi bị đưa ra “thế chấp” “làm con tin” trong cuộc cầu viện này[48][49]. Sau đó Nguyễn Ánh từ biệt gia quyến đi nơi khác[35].
Cầu viện Xiêm La
-
Vũ khí quân Xiêm bỏ lại sau trận Rạch Gầm-Xoài Mút.
Khi Bá Đa Lộc chưa kịp đi vì trái mùa gió[47] thì Nguyễn Ánh liên tiếp gặp những thất bại trước quân Tây Sơn, do đó ông có ý chuyển sang cầu viện Xiêm La[47]. Nguyên trước đó, khi Nguyễn Ánh còn phải lênh đênh trốn chạy, tướng của ông là Châu Văn Tiếp chạy thẳng qua Xiêm cầu cứu. Đến tháng 2 năm Giáp Thìn (tháng 5 năm 1784), vua Xiêm La là Rama I cho tướng Thạt Xỉ Đa đem thuyền sang Hà Tiên đón[50]. Nguyễn Ánh, trước đó nhận được thư của Châu Văn Tiếp, tới Long Xuyên hội kiến tướng Xiêm rồi cùng 30 viên quan và mấy chục tướng sĩ theo sang Xiêm La hội kiến vua Xiêm tại Vọng Các (Bangkok) vào tháng 3 năm 1784[50] mà không màng việc thân tướng là Nguyễn Văn Thành hết sức can ngăn việc cầu ngoại viện này[51].
Vua Xiêm nhân cũng đang có chiến tranh với Tây Sơn nên đồng ý giúp Nguyễn Ánh để dùng ông phân tán lực lượng Tây Sơn[52]. Vua Xiêm cử hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn quân thủy cùng 300 chiến thuyền sang Nam Hà. Ngoài ra còn có 3 vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp, thực chất với ý đồ tạo gọng kìm phía Tây, chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây Sơn[53]. Quân Xiêm La nhanh chóng lấy được Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc[54]. Riêng Châu Văn Tiếp tử trận khi đánh nhau với quân Tây Sơn tại Mân Thít[55]. Thế tiến quân nhanh chóng, quân Xiêm lại ỷ thế làm đủ điều tàn bạo với dân chúng khiến cho Nguyễn Ánh rất thất vọng; ông giao hết việc lại cho thuộc tướng rồi bỏ đi ra các đảo[50][54][56]. Riêng về. Tướng Tây Sơn giữ đất Gia Định là phò mã Trương Văn Đa, thấy quân Xiêm thế lực mạnh, bèn cố thủ tại Gia Định và sai người về Quy Nhơn báo. Vua Tây Sơn sai Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem quân vào đánh. Tây Sơn đã thắng lẫy lừng trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút. Chỉ một trận quyết chiến diễn ra không đầy một ngày đã tiêu diệt gần 2 vạn quân Xiêm, chỉ sót vài nghìn người[57][58] chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Từ sau vụ việc này, Nguyễn Ánh không còn trông mong gì vào Xiêm nữa vì “họ (Xiêm La) sợ quân Tây Sơn như sợ cọp“[57][59]. Các tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương chạy theo đường bộ về Xiêm; còn Nguyễn Ánh bị Tây Sơn truy kích phải trốn đi theo đường thủy qua đảo Thổ Châu rồi về Cổ Cốt với một nhóm nhỏ quân tướng[59].
Thời gian này, cuộc sống của Nguyễn Ánh khốn khổ đến mức Nguyễn Văn Thành phải đi làm ăn cướp nuôi chủ và bị đánh suýt mất mạng[60]. Ít lâu sau, một viên cai cơ tên Trung đem binh Xiêm đến đưa Nguyễn Ánh về Vọng Các, Xiêm La[59]. Thời gian ở Xiêm, Nguyễn Ánh được vua Xiêm cho trú tại khu vực Samsen và Bangpho (hiện nay đều thuộc nội thành Bangkok), binh tướng từ Gia Định nghe tin kéo sang và lực lượng của ông tụ tập lại được khoảng 1000 người[61].
Lưu vong ở Xiêm và Hiệp ước với Pháp
-
Sau một năm chuẩn bị, ngày tháng 12 năm 1784[62] Giám mục Bá Đa Lộc cùng Nguyễn Phúc Cảnh và phái đoàn đem quốc thư của Nguyễn Ánh xuống thuyền đi Malacca rồi sang Pondichéry ở Ấn Độ (thuộc Pháp), còn Nguyễn Ánh đưa mẹ và vợ sang trú ở Long Kì (hay Đông Khoai, Vọng Các)[63]. Với số binh tướng từ Đại Việt mà Nguyễn Ánh thu nhặt được, ông cho tổ chức lại binh tướng trên đất Xiêm rồi lâu lâu cho quân đột kích về Gia Định[59]. Ông đồng thời cũng giúp vua Xiêm đánh Miến Điện và Mã Lai, nên Xiêm La rất hậu đãi[64]. Khoảng năm 1787, thực dân Bồ Đào Nha từ Macao sang Xiêm gặp và đặt vấn đề giúp Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh cũng sai sứ đi, nhưng việc không thành vì những đòi hỏi của Bồ Đào Nha cũng như sự không vừa lòng của vua Xiêm[65][66].
Phần chữ ký trên Hiệp ước Versailles năm 1787.
Do một số vấn đề rắc rối tại Pondichéry, mãi đến tháng 2 năm 1787 Bá Đa Lộc và Nguyễn Phúc Cảnh mới tới hải cảng Lorient ở Pháp và mất một thời gian vận động, đầu tháng 5 năm 1787 họ mới được gặp vua Louis XVI. Ngày 28 tháng 11 năm 1787[67], tại cung điện Versailles, Bá Đa Lộc với tư cách là đại diện của Nguyễn Ánh đã ký với Thượng thư Bộ Ngoại giao Pháp là Armand Marc, một bản hiệp ước “Tương trợ tấn công và phòng thủ” (thường gọi là Hiệp ước Versailles). Hiệp ước này gồm có 10 khoản, nội dung chính là về việc vua Pháp cam kết cung cấp cho Nguyễn Ánh 4 chiếc tàu chiến loại frégaté cùng 1.200 bộ binh 200 pháo binh và 250 lính Cafres (lính da đen châu Phi)[67] và các phương tiện trang bị vũ khí tương ứng; ngược lại Nguyễn Ánh chấp thuận nhường cửa biển Đà Nẵng và quần đảo Côn Lôn cho Pháp, cho phép người Pháp được quyền tự do buôn bán và kiểm soát thương mại của người nước ngoài ở Việt Nam[68], mỗi năm sẽ đóng trả cho Pháp một chiếc tàu giống với loại tàu Pháp viện trợ đồng thời cung cấp lương thực và quân nhu thiết yếu cho Pháp khi Pháp có chiến tranh với một nước khác ở khu vực Viễn Đông[69].
Các sử gia về sau cho rằng tuy là ký kết dưới danh nghĩa Nguyễn Ánh, nhưng người chịu trách nhiệm về việc soạn ra các điều khoản đặc biệt có lợi cho phía Pháp trong hiệp ước này có thể là Giám mục Bá Đa Lộc chứ không phải là chính bản thân Nguyễn Ánh; nếu không có lệnh đình chỉ việc thực thi điều ước thì khi trao đổi văn kiện chưa chắc Nguyễn Ánh đã chịu chấp nhận một hiệp ước bất bình đẳng như thế này[70]. Nhưng dù như thế nào, Hiệp ước Versailles năm 1787 không thành hiện thực[71].
Củng cố thế lực
Về nước
Miếu thờ Gia Long ở khu vực Nước Xoáy, nơi ông đóng quân sau khi về lại Nam Hà từ Xiêm La.
Sau 3 năm lưu vong ở Xiêm, Nguyễn Ánh thấy vua Xiêm ngày càng tỏ ra không vừa lòng vì lực lượng của mình trở nên quá mạnh, ông viết thư cảm ơn rồi ban đêm lặng lẽ trở về vùng Gia Định[72][73]. Nguyễn Ánh về tới Gia Định vào khoảng tháng 8 năm 1787; đóng quân tại Nước Xoáy (Hồi Oa), Sa Đéc thuộc vùng Hậu Giang[41]. Thời gian này ông cũng nhận được sự giúp đỡ mạnh mẽ hơn của người Pháp thông qua Giám mục Bá Đa Lộc. Trong lúc Nguyễn Huệ bận đối phó với quân Thanh tại Bắc Hà (1788-1789), vùng Gia Định dưới quyền Tây Sơn cũng không ổn định, quân Tây Sơn bị cô lập trước dân chúng địa phương vốn có nhiều cảm tình với Chúa Nguyễn nói chung và Nguyễn Ánh nói riêng[74]. Tướng Tây Sơn giữ Long Xuyên là Chưởng cơ Nguyễn Văn Trương hàng quân Nguyễn. Nguyễn Ánh đồng thời lại thu nhận được nhiều binh lính ở địa phương; sau đó ông bèn bắt đầu tổ chức tấn công Tây Sơn[73]. Đông Định vương Nguyễn Lữ nghe tin Nguyễn Ánh trở về vội vã tránh đi nơi khác để Gia Định cho Phạm Văn Tham giữ[75]. Sau đó khi thấy thế quân Nguyễn Ánh ngày càng mạnh, Nguyễn Lữ sợ hãi mang quân bản bộ rút chạy về Quy Nhơn.
Mặc dù sau đó Phạm Văn Tham đã nỗ lực chống trả nhưng vì không nhận được viện binh, lại trúng mưu Nguyễn Ánh ly gián với Nguyễn Lữ[73] và cuối cùng là cái chết vì bệnh của Nguyễn Lữ đã làm thế Tây Sơn ở Gia Định ngày càng yếu đi[75]. Phạm Văn Tham vẫn cố đơn độc chiến đấu, nhiều lần đánh lui quân Nguyễn, có lần đã buộc Nguyễn Ánh và thuộc hạ phải chạy tới tận Cù lao Hổ[76]. Nhưng thế Nguyễn Ánh vẫn còn vững do việc ông đã lập tức tìm cách củng cố thế đứng ngay khi chiếm được Mỹ Tho: ông cho thành lập các dinh trấn, cho các tướng quản lý, và tổ chức lại quân đội[77].
Quân tướng theo Nguyễn Ánh ngày càng đông, Phạm Văn Tham vẫn cố chống cự để chờ viện binh, nhưng lúc đó Thái Đức Hoàng đế chỉ lo phòng bị Bắc Bình vương Nguyễn Huệ ở phía Bắc mà không đoái hoài đến việc cứu phía Nam[78].
Quân Tây Sơn ở Gia Định ngày càng thế cùng sức kiệt và không ngừng bị quân Nguyễn Ánh bao vây chia cắt, chiêu hàng tướng sĩ. Đến năm 1788, Võ Tánh đem hơn 1 vạn quân theo Nguyễn Ánh[79]. Cùng năm, Nguyễn Ánh tấn công và lấy được Gia Định[80], Phạm Văn Tham rút ra ngoài tiếp tục chống trả. Đầu năm 1789, Phạm Văn Tham bị Nguyễn Ánh vây chặt, lại bịt đường ra biển về Quy Nhơn nên buộc phải đầu hàng. Tây Sơn lại mất Nam Hà[80].
Người Pháp giúp đỡ
-
Ngày 27 tháng 12 năm 1787, Bá Đa Lộc cùng Nguyễn Phúc Cảnh rời Pháp và trở lại Pondichéry để đợi sự chi viện từ phía chính quyền Louis, nhưng ngày 14 tháng 7 năm 1789 giai cấp tư sản Pháp đã làm cuộc cách mạng lật đổ triều đại phong kiến Louis, thiết lập nền cộng hòa tư sản, cộng thêm việc Bá tước nhận trách nhiệm chi viện là De Conway vốn có hiềm khích với Bá Đa Lộc đã tấu sàm, nước Pháp tỏ ra không muốn nhắc đến hiệp ước cũ nữa[81]. Chờ mãi không nhận được sự chi viện từ Bá tước De Conway[81], Giám mục Bá Đa Lộc đã tự quyên góp tiền từ các thương gia có ý định đặt cơ sở buôn bán ở Đại Việt cùng với số tiền 15.000 franc Pháp của gia đình mình cho, đem mua súng đạn và tàu chiến. Tháng 7 thì Bá Đa Lộc cùng Nguyễn Phúc Cảnh về đến Gia Định. Các hoạt động quyên góp sau này về tiền hay xây dựng, sửa sang thành Gia Định, Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên, Biên Hòa, Bà Rịa, huấn luyện cơ đội pháo thủ, tổ chức bộ binh và rèn luyện tập binh lính theo lối châu Âu, trung gian mua tàu chiến và vũ khí… đều có sự góp sức của những người Pháp mà do Bá Đa Lộc chiêu mộ, kêu gọi[82]. Việc củng cố Gia Định cộng thêm sự giúp đỡ từ người Pháp đã giúp cho thế lực của Nguyễn Ánh ngày càng mạnh, có thể đối đầu với Tây Sơn[81].
Các hoạt động giúp đỡ Nguyễn Ánh về mặt quân sự của Giám mục Bá Đa Lộc không phải là sự trợ giúp chính thức của chính phủ Pháp mà chỉ là hành động tự nguyện của một nhóm người theo sự vận động cá nhân của Giám mục. Thực tế này đã bị cuộc cách mạng 1789 ở Pháp biến thành một “sự nhập nhằng không rõ ràng” và những biến động liên tục của nước Pháp từ cuộc cách mạng này khiến hơn nửa thế kỷ sau nước Pháp luôn phải hoài nghi và nuôi hy vọng hão huyền về những quyền lợi tại Việt Nam mà họ nghĩ lý ra là họ phải được nhận. Chính phủ Pháp chỉ còn ghi nhớ hiệp ước 1787 về công cuộc trợ giúp của người Pháp đối với Nguyễn Ánh ở Việt Nam, ngoài ra không còn một bằng cớ xác đáng nào về vấn đề đó[71].
Ổn định Nam Hà
Tổ chức chính quyền và chính sách kinh tế
Khi vừa chiếm lại Gia Định, ông bắt đầu tổ chức lại chính quyền bằng cách lựa các viên tham mưu quân đội chuyển qua các bộ lập thành một triều đình, đồng thời cho tăng cường phát triển giáo dục, mở khoa thi[83], thu dùng các nhân sĩ người Việt và Minh Hương đã theo ông trước đó[77]. Ngoài ra, nhiều sĩ phu lục tục ra giúp Nguyễn Ánh, trong đó nổi bật nhất là nhóm học trò của nhà nho Võ Trường Toản[30]. Năm 1788, Nguyễn Ánh cho lập kho Bốn Trấn[c] làm kho chung cho các trấn Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, và Định Tường để thu thuế và làm ngân quỹ cấp lương bổng cho quan lại[84]. Đến tháng 6 năm 1789, ông đưa ra chính sách lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng trên cơ sở số lớn đất đai phì nhiêu nhưng lại bị bỏ hoang nhiều vì cộng đồng di dân chưa định hình và chiến tranh liên miên ở vùng Gia Định[84][85]. Nguyễn Ánh cho đặt nhóm quan điền toán gốm 12 người (một số vị nổi bật là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tòng Châu, Hoàng Minh Khánh) để đi bốn dinh miền Nam là Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, Trấn Định để đốc thúc nhân dân làm việc nông nghiệp, phàm ai lười biếng sẽ bị bắt sung quân[86]. Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn đề ra chính sách là nếu người hoặc nhóm người làm ruộng đất tốt thu trên 100 thùng lúa, còn ruộng đất xấu thu trên 70 thùng lúa thì sẽ được thưởng như sau: dân thường sẽ được miễn việc xâu (những việc quan lại cần nhân công địa phương làm như đào kênh, đắp thành) một năm; phủ binh thì sẽ được miễn đi đánh nhau một năm[84]. Những người dân lậu (người không ở trong sổ bộ quản lý của địa phương) cũng có thể làm ruộng dưới sự quản lý của quan điền toán và được xem như là một người lính; nếu như họ thiếu vốn thì cũng có thể được cho vay trả sau[84]. Từ tháng 10 năm 1790, binh lính cũng được huy động vào việc sản xuất nông nghiệp khi phép Ngụ binh ư nông được thi hành[84][87]. Binh lính được khuyến khích cầy cấy để tận dụng các mảnh đất bị bỏ hoang vì chiến tranh[88]. Nhóm Trung Quân và các nhóm thủy quân được cử đến khai thác vùng Thảo Mộc Câu (sông Vàm Cỏ ngày nay) lập ra trại Đồn Điền dưới sự chỉ huy của chánh cơ Nguyễn Bình. Trại này được nhà nước trợ cấp dụng cụ và giống cây, phần thu hoạch được sẽ sung vào kho công.[89] Các quan địa phương khác cũng phải lập đội đồn điền và nộp thuế theo hạn mức 6 hộc lúa mỗi người trong đội; bất cứ ai tuyển được 10 người trở lên sẽ được làm quan quản trại và trừ tên trong sổ làng (tức là khỏi đi lính)[89]. Số lúa gạo thu được từ các đồn điền này được giữ trong một kho gọi là kho Tích Trữ (về sau đổi thành kho Đồn Điền hay Đồn Điền khố theo âm Hán-Việt)[90][91].
Để có thêm lúa gạo phục vụ chiến tranh, Nguyễn Ánh cho đặt thêm thuế phụ ngoài thuế ruộng (thuế điền) một năm hai kỳ thu là thuế thị túc và thuế thị nạp. Mức thu như sau[89]:
- Năm 1792, từ một tới năm phương lúa trên một người
- Năm 1799, vùng Bình Định và Phú Yên nộp 17 thăng gạo cho mỗi mẫu ruộng
- Năm 1800, mỗi người ở Gia Định nộp hai phương gạo (riêng người già và tàn tật thì chỉ nộp một nửa). Ruộng mỗi mẫu sẽ nộp 1 phương gạo.
Tới năm 1791, Nguyễn Ánh cho đặt một lệ về việc khẩn hoang rằng ba năm đầu từ ngày khẩn hoang sẽ miễn thuế. Ai muốn khẩn hoang phải nộp đơn trước 20 ngày, sau hạn này ruộng sẽ giao cho binh lính, dân chúng không được quyền tranh chấp nữa[92].
Các chính sách cải cách nông nghiệp này đã khiến việc sản xuất lúa gạo ở vùng Gia Định tăng cao và giúp rất lớn cho việc chiến tranh với Tây Sơn của Nguyễn Ánh. Thời gian này, ông có thể nuôi được một đội quân lên đến 30.000 lính và 1.200 thuyền chiến (ước tính năm 1800)[85], cũng như đáp ứng nhu cầu quân nhu các lần ông đi đánh nhau với Tây Sơn ở Diên Khánh (năm 1795 và 1796) và Quy Nhơn (năm 1799) một cách “không hề thiếu thốn”[92]. Một chứng minh khác cho việc dư lúa gạo này là việc năm 1802 có nạn đói lớn ở Gia Định, Nguyễn Ánh lấy kho gạo quân ra phát cho dân và cho giảm thuế ruộng ở Gia Định[92]. Cùng trong thời gian, khi nghe tin quân Thanh giúp Lê Chiêu Thống sang đánh Tây Sơn, Nguyễn Ánh từng sai Phạm Văn Trọng và Lâm Đồ[72] mang thư và chở 50 vạn cân gạo ra giúp quân Thanh nhưng thuyền đi giữa đường bị đắm hết; cũng đồng thời bên Xiêm La có hạn hán, Nguyễn Ánh cho xuất 8.800 vuông gạo để giúp[93].
Ngoài gạo, chính quyền cũng chú trọng tới các mảng nông nghiệp khác, ví dụ như trầu cau dùng cho có dịp phong tục lễ tiết[94]. Đặc biệt, Nguyễn Ánh rất quan tâm đến ngành trồng mía sản xuất đường vì đây là thứ hàng hóa quan trọng dùng để trao đổi buôn bán binh khí: ông đặt ra hạn định mỗi năm dân phải nộp 6000 kg đường, mặt khác cấp vốn cho dân sản xuất để rồi đến mùa cho thu mua hàng hóa với giá chợ. Chính sách này khiến cho sản lượng đường tăng lên trông thấy trong khi giá cả lại hạ xuống[94].
Từ khi quay trở lại Gia Định, Nguyễn Ánh cũng bắt đầu cho đưa các nhóm thợ thủ công ông đưa từ miền Trung Đại Việt vào. Năm 1791, Nguyễn Ánh quy hoạch lại nghề thủ công ở vùng Gia Định: ông cho quy hoạch ra 64 ty thủ công gồm đủ các loại ngành nghề được phân bố khắp các dinh. Khu vực Sài Gòn có sở Nhà Đồ gồm 22 ty trong đó có các ty thợ mộc, thợ sơn, thợ cưa (các ty này là cơ sở quan trọng cho Nguyễn Ánh phát triển thủy quân, ông đề ra chính sách đãi ngộ thợ trong các ty này như là lính chính thức, họ được ăn lương và miễn sưu thuế hằng năm; chỉ phải có lễ mừng cho các quan sở tại).[95] Bên cạnh các ty, còn có tổ chức các đội chuyên trách phục vụ cho các ty và tổ chức gọi là “nậu” gồm dân thợ cùng nghề ở các vùng dân cư hẻo lánh, chưa nên thôn xóm[96]. Đối với các “nậu”, chính quyền chỉ kiểm tra vả thu thuế và thành viên của các nậu chỉ phải trả thuế thân và nộp sản phẩm thay cho sưu dịch[96].
Việc mua bán với nước ngoài cũng được khuyến khích và kiểm soát chặt chẽ (nhất là đối với các mặt hàng có liên quan tới quân sự như kẽm, sắt, đồ đồng, diêm, lưu huỳnh, sắt, gang, chì đen[92][97]), để có thêm nguồn tài chính và binh khí[98]. Tất cả đều phải do nhà nước mua bán và quản lý, ai mua bán lén hoặc quan lại nào không kiểm soát được đều bị tội phạt nặng[97]. Từ trước khi Nguyễn Phúc Cảnh về, Nguyễn Ánh đã đưa ra chính sách mời gọi thuyền nhà Thanh vào buôn bán; hễ thuyền nào có chở các thứ đã kể trên thì quan lại ở Gia Định sẽ mua rồi thanh toán lại bằng gạo tùy theo số hàng ít hay nhiều[97]. Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn thường xuyên cho thuộc cấp đi qua các khu vực do thực dân phương Tây kiểm soát gần Việt Nam để mua binh khí, trong đó quân Nguyễn thường xuyên lui tới nhất là các khu vực lãnh thổ phía Tây như Batavia, Malacca, Transquebar[97].
Mặt khác, Nguyễn Ánh còn gặp khó khăn với cư dân bản địa của vùng Gia Định là người Khmer vì tính nay đầu mai đánh của họ, ông phải cho hai tướng người Khmer của mình về coi các vùng có số dân Khmer đông để thiết lập các khu vực tự trị, đề ra các chính sách và luật lệ hạn chế xung khắc với người Việt[99], việc tương tự cũng diễn ra ở khu vực Hà Tiên[77]. Nguyễn Ánh còn cho xây dựng các lũy đất phòng ngừa các nhóm người Khmer nổi dậy như: lũy Trấn Di ở Ba Trắc và lũy Thanh Sơn ở Ba Lai[100]. Đối với cộng đồng người Hoa, ông đưa ra chính sách đối xử với họ cũng giống như người Việt: cũng phải nộp thuế, đi lính; và lập chức Tổng phủ người Hoa cai quản hai vùng phức tạp Ba Thắc và Trà Vinh[99]. Bên cạnh đó, ông cũng cho kiểm tra dân số để tiện việc bắt lính và thu thuế, đưa ra các chính sách chống trộm cướp và gìn giữ an ninh[101]; các hình thức tệ nạn như phù thủy, đổ bác, đồng bóng, hát xướng đều bị cấm[102]. Đồng thời ông cũng đưa ra chính sách hạn chế nấu rượu để tiết kiệm gạo và cho thuộc quan tổ chức các hoạt động mua vui cho dân chúng[101].
Chính sách quân sự và ngoại giao
Sơ đồ Thành Bát Quái Sài Gòn do
Trương Vĩnh Ký vẽ, Nguyễn Đình Đầu lược dịch và chú giải.
-
Quân Tây Sơn vào thời gian này thường xuyên đột kích Gia Định để lấy lương thực vào mùa gặt. Vì vậy, hành động đầu tiên của Nguyễn Ánh sau khi chiếm được thành Gia Định nhờ các sĩ quan Pháp trong quân đội mình xây dựng một tòa thành kiểu châu Âu trên đất Gia Định.
Tòa thành này bắt đầu được xây dựng vào năm 1789[103], do hai sĩ quan người Pháp là Theodore Lebrun và de Puymanel thiết kế với tổng nhân công xây dựng ước chừng 30.000 người[104]. Việc xây dựng đã buộc quan lại Gia Định phải áp một mức thuế cao và các nhân công lao động bị ép phải làm việc tới mức cực hạn, khiến cho một cuộc nổi loạn nổ ra. Đến năm 1790[103], tòa thành hoàn tất với chu vi khoảng 4176 mét, xây theo theo kiểu Vauban[104], có ba mặt được sông nước che chở[105] có tên là Bát Quái. Sau đó, Nguyễn Ánh cho đặt Phiên An trấn thành Gia Định kinh (kinh thành hay thủ phủ Gia Định)[103]. Tòa thành Bát Quái này đã khiến cho Tây Sơn không bao giờ tìm cách chiếm lại Gia Định nữa, đem đến cho Nguyễn Ánh một lợi thế nhất định trước kẻ thù chính của ông[106]. Nguyễn Ánh tỏ ra rất thích thú về mảng kỹ thuật xây thành quách của phương Tây, ông yêu cầu các sĩ quan Pháp đi về châu Âu để tìm và mang về cho ông các sách và nghiên cứu về chủ đề này[107][108].
Nhằm tăng cường quân đội, kinh tế và phòng thủ, từ tháng 10 năm 1788, Nguyễn Ánh cho người bắt tráng đinh thành lập các phủ binh[98]. Nhiều người Pháp được Nguyễn Ánh đưa vào huấn luyện quân đội; ví dụ như Jean-Marie Dayot được phái huấn luyện chiến thuật cho thủy binh. Và có khoảng tổng cộng 4 sĩ quan 80 binh sĩ người Pháp tham gia đánh trận, chủ yếu ở vai trò trợ chiến dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh người Việt[109]. Đối với vũ khí mà các thuyền buôn của người Châu Âu mang đến, Nguyễn Ánh giao cho các quan chỉ huy quân sự ở Trấn Biên mua lại bằng đường cát[91].
Ở Cần Giờ, Đồng Tranh, Vũng Tàu, Nguyễn Ánh cho dựng các phong hỏa đài. Các Thành Cá Trê, Thành Vàm Cỏ được xây lại, và các tướng thân cận được điều ra đóng quân và tuần tiễu ở các nơi[98]. Kỷ luật quân đội được Nguyễn Ánh siết chặt và ông thực hiện chính sách luân chuyển “binh luôn theo tướng” để đảm bảo khả năng chỉ huy luôn ở mức tốt nhất[110]. Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn cho lựa ra các quân tinh nhuệ, hăng hái đánh kẻ địch của ông để luyện tập kỹ càng và cấp lương hậu, tạo ra một nhóm quân riêng gọi là “quân chiến tâm“[89][111]. Bên cạnh đó, Nguyễn Ánh còn cho lập “Chế tạo cục” là một nhà máy diêm tiêu, đúc súng hỏa mai, đại bác đủ các kích cỡ phục vụ quân sự[100]. Đến khoảng sau trận Thị Nại năm 1782, ông tìm cách củng cố tượng binh qua việc sai người đến Đồng Nai, Bà Rịa bắt voi, tăng cường trao đổi voi với các nước Chân Lạp và Xiêm; lấy từ dân cống nạp và thu từ các trận đánh với Tây Sơn.[112] Mặt khác, ông rất quan tâm đến việc phong thưởng và đãi ngộ binh sĩ tử trận và có công để cổ vũ tinh thần quân lính[87]: ông cho lập sở Hoạn dưỡng để chăm sóc thương binh, và xây các đền Hiển Trung, Sinh Trung để thờ cúng binh sĩ tử trận[113].
Nhận thấy địa thế Gia Định là sông ngòi, biển nhiều, đồng thời thiên nhiên cực kỳ ưu đãi các sản vật và tài nguyên cần thiết như dầu cây rái[114], trám, sơn và đặc biệt là gỗ; Nguyễn Ánh ra sức phát triển ngành đóng thuyền.[110] Từ trước khi chính sách chính thức về “ty” và “nậu” ngành thủ công nghiệp, Nguyễn Ánh đã cho thành lập các nậu dầu rái, trám, sơn nhằm phục vụ cho ngành đóng thuyền: từ năm 1790 lệnh cho dinh Trấn Biên và Phiên Trấn mộ dân lập nậu dầu rái với định mức thuế 8 vò dầu, cho miễn lao dịch chỉ phải nộp thêm thuế thân; từ 1791 lệnh lập cá nậu dầu rái ở đạo Long Xuyên với lệ thuế 5 vò dầu và 100 cây nến, miễn hẳn thuế thân.[115] Đến năm 1799, ông thống nhất lệ thuế tất cả các vùng thành 6 vò dầu rái, 50 cây đèn cầy và nửa cây đèn lớn. Cũng cùng cách tổ chức cho các nậu dầu rái, Nguyễn Ánh từ năm 1790 cũng thành lập các nậu dầu trám với lệ thuế 800 cân dầu trám, 1 cây đèn lớn và 40 cây đèn nhỏ, cho miễn lao dịch chỉ phải nộp thuế thân. Các nậu buồm lá ở Trấn Biên và Phiên Trấn hằng năm phải nộp 80 bó buồm.[115] Đối với gỗ, từ sau 1789, Nguyễn Ánh ra lệ thuế cho các quan coi đạo Trấn Biên, Trấn Định và Vĩnh Trấn phải dự trên số phu cục tượng và các đội nậu biệt nạp phải nộp như sau: 40 người phải nộp đủ gỗ đóng một chiếc sai thuyền; và kết quả của chính sách là đạo Long Xuyên nộp 10 chiếc, Kiên Giang 3 chiếc, và Trấn Giang là 5 chiếc. Để tăng năng suất lấy gỗ, Nguyễn Ánh cấp cho đội lấy gỗ 300 quan tiền mua 300 con trâu chuyên dùng kéo gỗ từ rừng Quang Hóa[115][116].
Có nguyên liệu rồi, Nguyễn Ánh ra sức đốc thúc đóng tàu: năm 1789 ông đóng được 40 chiếc thuyền và 100 chiếc thuyền biển; hai năm sau đóng thêm được 100 chiếc với gỗ ván lấy từ rừng Quang Hóa và rừng Chân Lạp. Đến năm 1793, Nguyễn Ánh cho mua hẳn một chiến hạm cũ của Châu Âu rồi sai người gỡ ra để sao chép lại.[116] Nguyễn Ánh đích thân giám sát việc đóng những chiếc thuyền theo kiểu này[116]. Nhờ tích cực vậy nên ngay cùng năm, quân Nguyễn đóng được những chiến hạm nổi tiếng là Long Ngư, Long Thượng, Long Hưng, Long Phi, Bằng Phi, Phụng Phi, Hồng Nhi, Loan Nhi, Ưng Nhi (trong này quan trọng nhất là ba chiếc Long Phi được trang bị đến 32 khẩu đại bác, Phụng Phi và Bằng Phi có 26 khẩu) với sức chứa trên 300 người mỗi thuyền[116]. Những năm tiếp theo, Nguyễn Ánh vẫn tiếp tục kiên nhẫn cho đóng thêm thuyền như năm 1896 cho đóng thêm 15 chiến hạm hiệu là “Gia” và xếp theo tam tài cùng thập nhị chi: Thiên, Địa, Nhân, Tý, Sửu, Dần, Mão.. cho đến Hợi là đủ 15 chiếc[116]. Đến năm 1800, cho đóng thêm 15 chiếc thuyền biển nữa và 1801 thì có thêm 200 hạm có tên là Anh, Vũ, Thước, Nga, Quyên, Phu, Lệ, Diên, Chiêu, Ly[116]. Nhờ tích cực vậy, có khi mỗi 2 năm mà Nguyễn Ánh đóng thêm gần được 300 pháo hạm và 10 năm thì tổng số thuyền của Nguyễn Ánh lên được gần 1.200 chiếc[116].
Các chính sách phát triển kinh tế-quân sự này đã giúp rất lớn cho quân đội của Nguyễn Ánh, ông đã phát triển lên được một đội quân có thể cạnh tranh nổi với Tây Sơn: theo John Barrow thì quân số của Gia Định đầu thế kỷ 19 lên tới 139.800 người[117]. Thủy binh của Nguyễn Ánh cũng trở nên hùng mạnh và có ưu thế hơn hẳn so với thủy binh của Tây Sơn,[118] chính điều này đã giúp Nguyễn Ánh có khả năng vượt biển đánh thẳng vào cảnh Quy Nhơn của Tây Sơn các năm 1790, 1797, 1798; và Nha Trang vào năm 1793, với trận quyết định tại Thị Nại năm 1801[116]. Cho đến khi kết thúc chiến tranh; Nguyễn Ánh có một số thuyền hùng hậu lên tới 100 chiến hạm, 800 pháo hạm và 500 bán pháo hạm[116].
Tới lúc này, đối với nước Pháp, Nguyễn Ánh bắt đầu tìm đối sách về mặt ngoại giao: khoảng năm 1790, ông viết quốc thư với đại ý “cảm ơn nước Pháp”, nhưng ông không còn cần họ giúp theo hiệp ước hiệp ước Versailles năm 1787 đã ký trước đây nữa[119]. Đồng thời với việc trên là công cuộc giao thiệp với ba nước lớn Xiêm La, Chân Lạp, Vạn Tượng: ông cho quân chiếm đóng Chân Lạp, giữ quan hệ hòa hiếu với Xiêm La để yên ổn với Vạn Tượng (khi này trong tầm khống chế của Xiêm La), ngoài ra còn có quan hệ với một ít quốc gia nhỏ khác[120]. Kết quả là cả ba quốc gia lớn đều có sự giúp đỡ ít nhiều cho Nguyễn Ánh trong cuộc chiến của mình[121].
Bắc tiến thắng lợi
Tây Sơn suy yếu
-
Năm 1790, Nguyễn Ánh sai tướng đem 5000 quân thủy bộ ra đánh chiếm được Phan Rí và Bình Thuận. Đến năm 1792, nương theo gió Nam, ông sai hai tướng Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành cùng hai sĩ quan đánh thuê người Pháp là Dayot và Vannier đánh một trận và đốt phá thủy trại Tây Sơn tại Thị Nại rồi rút về[122].
Sau khi chiến thắng quân Thanh, vua Quang Trung đang chuẩn bị phối hợp với vua anh đem quân vào Nam đánh Gia Định thì đột ngột qua đời (1792), con là Nguyễn Quang Toản còn nhỏ tuổi lên nối ngôi, hiệu là Cảnh Thịnh. Cảnh Thịnh nhỏ tuổi nên thi hành nhiều chính sách yếu kém so với tiên đế và không đủ sức lãnh đạo khiến cho Tây Sơn bắt đầu khủng hoảng và chia rẽ[123]. Loạn lạc liền nổ ra ở Bắc Hà: sĩ phu trung thành với nhà Lê nổi lên tôn Lê Duy Cận làm minh chủ, Duy Cận liên lạc với Nguyễn Ánh để cùng đánh Tây Sơn[124], việc này góp phần làm cho nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Nội bộ Tây Sơn xảy ra tranh chấp, quyền hành rơi vào tay ngoại thích Bùi Đắc Tuyên[125]. Nhân vào thế đó, Nguyễn Ánh ra sức mở các đợt tấn công ra Quy Nhơn theo nguyên tắc đã định trước đó: “Gặp nồm thuật thì tiến, vãn thì về, khi phát thì quân lính đủ mặt, về thì tản ra đồng ruộng“[126]. Dân chúng vùng miền Trung khi này, sau nhiều năm mệt mỏi dưới các tranh chấp nội bộ Tây Sơn, bắt đầu quay sang ủng hộ Nguyễn Ánh; trong dân gian lưu truyền một câu ca dao lục bát thế này[127]:
Lạy trời cho cả gió nồm,
Để cho chúa Nguyễn kéo buồm thẳng ra.
Năm 1793, Nguyễn Ánh cùng các tướng Võ Duy Nguy, Nguyễn Văn Trương, Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Phước Hội, Philippe Vannier, Nguyễn Văn Hòa, Chưởng cơ Cố[128] đem quân đánh Nha Trang, Diên Khánh, Phú Yên rồi tranh thủ đánh tới tận thành Quy Nhơn của vua Thái Đức Nguyễn Nhạc. Vua Thái Đức cầu cứu Phú Xuân. Cảnh Thịnh sai Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng, đô đốc Hố và Chưởng cơ Thiêm đem 17.000 quân, 80 thớt voi và 30 chiếc thuyền chia nhiều đường tiến vào cứu, quân Nguyễn Ánh rút lui[129][130]. Trên đường về ông sai quân đắp thành Diên Khánh để lợi dụng địa thế nơi này làm bàn đạp chống Tây Sơn. Cùng thời gian, quân Phú Xuân của Tây Sơn nhân dịp đánh chiếm luôn đất đai, kho tàng của vua Thái Đức. Lúc đó Nguyễn Nhạc đang bệnh trên giường, nghe tin cơ nghiệp của con mình là Quang Bảo bị chiếm mất uất quá thổ huyết mà qua đời[131][132]. Quang Toản cho an trí Quang Bảo ra huyện Phù Ly và cai quản toàn bộ đất đai của vua bác[131].
Cũng trong thời gian này, Nguyễn Ánh sử dụng mối quan hệ hữu hảo của mình với vua Xiêm để mở thêm một cánh quân từ phía Tây: Nguyễn Ánh yêu cầu vua Xiêm cho Nguyễn Văn Thoại (vốn đang đi sứ đang ở Bangkok) sang Vạn Tượng nhằm cùng với nước này phối hợp đánh Tây Sơn và vua Xiêm đồng ý.[133] Đến khoảng năm 1793, vua Xiêm cho phép Nguyễn Ánh đưa quân vào Vạn Tượng để tạo thêm nghi binh áp lực đối với khu vực trấn Nghệ An của Tây Sơn[133]. Thời gian sau, tướng Nguyễn Văn Thoại cùng với vua Vạn Tượng Inthavong (Chiêu Ấn trong tiếng Việt) đã rất thành công trong kế hoạch quấy rối Tây Sơn từ phía Tây khiến (tuy nhiên việc này cũng cả Xiêm cũng trở nên nghi ngờ mối quan hệ Vạn Tượng-Nguyễn Ánh)[133].
Tháng 3 năm 1794, Quang Toản sai Phạm Văn Hưng và Trần Quang Diệu vào Quy Nhơn. Quân Nguyễn ban đầu gặp Tây Sơn là rút chạy khiến cho Tây Sơn tiến quân nhanh chóng: họ đánh được tới tận vùng Ba Ngòi, Khánh Hòa và sau đó là thủy bộ phối hợp vây thành Diên Khánh (khi này do Nguyễn Phúc Cảnh và Bá Đa Lộc trấn giữ)[134]. Dựa thế thành kiểu mới vững chãi và việc Tây Sơn không có vũ khí công thành hiệu quả, quân Nguyễn thực hiện nội công ngoại kích khiến cho Tây Sơn bị tiêu hao nhiều sinh lực và buộc họ phải rút lui vào ngày 23 tháng 5[135]. Thấy thế, Nguyễn Ánh liền cho quân đuổi theo truy kích tới tận đầm Thị Nại, nơi thủy binh của ông chiếm ưu thế và dồn ép mạnh quân Tây Sơn. Ngoài ra, một số cánh quân Nguyễn khác gồm cả thủy lẫn bộ đánh trận ở nhiều nơi, trong đó họ thắng vài trận quan trọng ở núi Chúa (nay thuộc Ninh Thuận) và Đại Cổ Lũy (Quảng Ngãi) nhưng chẳng thể giữ lâu vì sức của quân Tây Sơn vẫn còn mạnh[136]. Đến năm 1795, Tây Sơn phản công, họ cho quân nhiều lần vào đánh Phú Yên, vây thành Diên Khánh lần nữa, và còn tìm cách mua chuộc Xiêm La với mục đích cô lập Nguyễn Ánh[125], Quân Nguyễn lâm vào thế phòng thủ cũng ra sức chống cự, nhiều lần kìm hãm thậm chí là đánh lại được quân Tây Sơn nhưng vẫn không ngăn được dòng tiến quân của Tây Sơn. Tướng Lê Trung tiến sâu vào lãnh thổ của quân Nguyễn, đánh chiếm được đến tận Phan Rí[137][138]. Nguyễn Ánh ra sức phản công: ông chia các tướng trấn giữ nhiều nơi nhằm kiềm hãm Tây Sơn rồi tự mình đem binh đi cứu Diên Khánh, có lúc đánh ra tận Phú Yên để tạo gọng kiềm kẹp quân Tây Sơn[138]. Mặc cho cố gắng vậy, tới thời điểm tháng 4 năm 1875, nỗ lực của quân Nguyễn không thể phá được Tây Sơn mà chỉ tạo ra thế giằng co qua lại đặc biệt là ở các khu vực Ninh Thuận – Khánh Hòa; trong khi thành Diên Khánh vẫn bị vây chặt[138].
Tuy nhiên, chính khi này nội bộ Tây Sơn lại nổ ra mâu thuẫn, các tướng tranh quyền: Võ Văn Dũng giết thái sư Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở. Quang Toản bất lực không làm gì được khiến Trần Quang Diệu đánh trận, nghe tin đành rút quân chủ lực về giải quyết[139]. Được dịp, quân Nguyễn ra sức tiến quân và giải vây được cho Diên Khánh, đồng thời đánh chặn đường rút của Trần Quang Diệu khiến cho quân Tây Sơn phải khó khăn lắm mới rút đi được[139]. Khi Quang Diệu về tới tới nơi thì nảy sinh mâu thuẫn, suýt đánh nhau với Võ Văn Dũng. May nhờ có Quang Toản sai Phan Huy Ích ra khuyên giải thì cả hai tướng mới đồng ý hòa[139]. Nhưng ngay sau đó Quang Toản lại nghe lời gièm pha tước mất binh quyền của Trần Quang Diệu. Tây Sơn từ đó cứ lục đục mãi, các quan tướng nghi kị giết hại lẫn nhau tạo thêm thuận lợi cho Nguyễn Ánh[140][141].
Thống nhất quốc gia
-
Biến loạn tạm thời dẹp yên nhưng đã làm chính quyền Tây Sơn suy sụp. Một bộ phận tướng lĩnh bất mãn đã bỏ sang theo Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh nhân thời cơ đó ra sức Bắc tiến.
Năm 1797, Nguyễn Ánh cho quân ra đánh Phú Yên, riêng mình thì cùng Nguyễn Phúc Cảnh chỉ huy thủy quân ra tận Quy Nhơn đánh nhau với tướng Tây Sơn là Lê Trung tại Thị Nại thu được nhiều khí giới[142], nhưng khi tới Quy Nhơn thấy thế Tây Sơn thủ mạnh quá đành vòng lên đánh Quảng Nam nhưng được mấy tháng lại rút về[143] vì thuyền chở quân lương từ Gia Định bị ngược gió không lên kịp[142]. Thời gian này, Nguyễn Ánh chiêu dụ Quang Bảo nhưng việc chưa thành vì Quang Toản ra tay trước, bắt và giết được Quang Bảo[142]. Nhưng Tây Sơn lại rơi vào lục đục, Quang Toản nghi ngờ giết hại nhiều triều thần, võ tướng, khiến cho sức chiến đấu suy giảm, thêm nhiều người sang hàng Nguyễn Ánh[144][145].
Trên mặt trận ngoại giao, Nguyễn Ánh vẫn giữ áp lực với Tây Sơn nhằm cô lập họ: ông vẫn giữ liên lạc vào giao thiệp thường xuyên với Rama I nhằm thông báo tình hình với vua Xiêm. Năm 1797, ông sai Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Kế Nhuận và Ngô Nhơn Tĩnh sang Xiêm. Ngay năm sau, năm 1798 lại sai sứ đi tiếp và tới năm 1799, Nguyễn Ánh cho sứ yêu cầu vua Xiêm La cho một đạo quân Chân Lạp và Vạn Tượng đi đến sát biên giới Nghệ An để nghi binh và vua Xiêm đồng ý làm theo[146][147]. Đồng thời, Nguyễn Ánh còn định cho sứ đi ngoại giao với nhà Thanh – Trung Quốc, với mục đích lợi dụng mâu thuẫn và thù hằn của quốc gia này với Tây Sơn, và cả sự có mặt của Lê Chiêu Thống bên đó để khiến Trung Quốc giúp mình. Nhưng việc không thành do khi sứ của Nguyễn Ánh là Ngô Nhơn Tĩnh và Phạm Thận sang đến nơi thì Lê Chiêu Thống đã mất[148].
Cũng trong năm 1799, Nguyễn Ánh tự cầm quân đi đánh thành Quy Nhơn[145], quân Nguyễn lợi dụng khi này Tây Sơn đang lục đục để tiến quân nhanh chóng, đánh chiếm các vùng xung quanh rồi tới vây thành Quy Nhơn, riêng Nguyễn Ánh dựa thế thủy binh có lúc tiến ra tận Quảng Ngãi. Tuy Quang Toản ngay lập tức sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem quân vào cứu nhưng việc này không hiệu quả lắm do bị quân Nguyễn chặn đánh gắt gao[149]. Lương thiếu mà chờ mãi không có viện binh, các quan tướng giữ thành Quy Nhơn của Tây Sơn là Vũ Tuấn, Lê Văn Thanh, Trương Tấn Thúy và Nguyễn Đại Phác cầm hơn 1 vạn quân mở cổng thành đầu hàng[149][150].
Sau khi chiếm được, Nguyễn Ánh bèn đổi tên Quy Nhơn thành Bình Định[151], rồi cho quân tới trấn giữ thành. Đồng thời, Nguyễn Ánh cũng tìm cách thu phục dân chúng vùng Quy Nhơn vì ông biết rất rõ đây là đất phát tích của Tây Sơn: ông tiếp tục chính sách tha thuế của Tây Sơn, trọng dùng hàng binh[152] và ra tay trừng phạt nặng các tướng lĩnh dưới quyền hà hiếp dân chúng vùng này[153]. Cũng vì Quy Nhơn mang tính đất tổ, Tây Sơn ngay lập tức tìm cách chiếm lại. Từ tháng giêng 1800, hai danh tướng Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng kéo quân nam chinh, hai ông tiến quân nhanh chóng vì quân phòng thủ Nguyễn do Võ Tánh chỉ huy chống không nổi cộng thêm nhiều hàng tướng hàng binh của Tây Sơn trong hàng ngũ quân Nguyễn liên tục ra hàng Tây Sơn[154]. Đến tháng 1 năm 1800, quân Tây Sơn bắt đầu vây thành Quy Nhơn. Nguyễn Ánh liền cho quân ra cứu nhưng không tiến được do bị bộ binh Tây Sơn chặn lại, ông thấy thế bèn chia quân đi đánh các nơi và thắng nhiều trận, trong đó có một trận lớn ở trận Thị Nại[155].
Nhận thấy quân Tây Sơn vây Quy Nhơn còn mạnh, Nguyễn Ánh cho người lẻn mang thư đến bảo tướng quân Nguyễn giữ thành là Võ Tánh mở đường máu mà trốn ra nhưng Võ Tánh kiên quyết tử thủ để tạo đều kiện cho Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân[155], chính việc này khiến thời gian hai danh tướng Tây Sơn bị cầm chân lên hơn một năm[156]. Năm 1801, Nguyễn Ánh nhận thấy tinh binh Tây Sơn đều tập trung cả ở chiến trường Quy Nhơn nên mang quân chủ lực vượt biển ra đánh bắc. Tháng 3, quân Nguyễn chiếm được Quảng Nam. Tháng 5 năm 1801, Nguyễn Ánh kéo quân đánh nhau dữ dội với Tây Sơn ở cửa Tư Dung[155]; rồi sau đó đụng Quang Toản ở cửa Eo[155]. Quang Toản thua trận bỏ chạy ra Bắc Hà[157] và đến 3 tháng 5 năm 1801 Nguyễn Ánh giành được Phú Xuân[155].
Trong khi Nguyễn Ánh tái chiếm được Phú Xuân thì sau lưng ông, Võ Tánh cùng các tướng giữ thành Quy Nhơn không chống nổi Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, đã tự sát và quân Tây Sơn tái chiếm Quy Nhơn. Nghe tin Quang Toản bại trận ở Phú Xuân, Trần Quang Diệu đang vây Quy Nhơn sai binh về cứu nhưng bị quân Nguyễn chặn đánh nên quân không về được[157].
Tuy bị mất Quy Nhơn nhưng Nguyễn Ánh vẫn tập trung phần lớn binh tướng đối phó với cuộc phản công của Quang Toản ở phía bắc khi vua Tây Sơn dốc toàn lực ở Bắc Hà được hơn 3 vạn quân kéo vào để chiếm lại Phú Xuân và hiệp sức cho Trần Quang Diệu. Đầu năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại nỗ lực của quân Tây Sơn ở sông Gianh, Quang Toản thua lớn bỏ chạy ra Bắc Hà. Trên đà thắng lợi, Nguyễn Ánh điều quân 3 mặt đánh vào Quy Nhơn. Trần Quang Diệu cùng Vũ Văn Dũng nghe tin Quang Toản đã bại trận, phải bỏ thành mang quân cứu viện ra Nghệ An. Bị quân Nguyễn chặn đường, quân Tây Sơn buộc phải vòng qua đường Vạn Tượng (Lào)[158]. Lúc tới Nghệ An thì thấy thành đã mất, quân sĩ bỏ chạy gần hết, vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân bị bắt[159]. Riêng Vũ Văn Dũng không rõ số phận [b].
Sau khi chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh làm lễ lên ngôi hoàng đế ngày 2 tháng 5 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1802)[160][161]. Để tượng trưng sự thống nhất Nam-Bắc lần đầu tiên sau nhiều năm, Nguyễn Ánh chọn niên hiệu là Gia Long, Gia lấy từ Gia Định và Long lấy từ Thăng Long[162]. Sau đó ông cho người đem toàn bộ ấn sách nhà Thanh trao cho Tây Sơn trả lại và xin phong, rồi sai Lê Văn Duyệt kéo quân tiếp ra Bắc Hà diệt hoàn toàn nhà Tây Sơn[159].
Tháng 6 âm lịch năm 1802, Nguyễn Ánh tiến ra chiếm được Thăng Long, Quang Toản không chống nổi, bỏ chạy và sau đó bị bắt[163]. Nhà Tây Sơn bị tiêu diệt, Nguyễn Ánh chính thức thống nhất quốc gia.
Trả thù Tây Sơn
Sau vài tháng nghỉ ngơi ở Phú Xuân, vào ngày giáp tuất tháng 11 (7 tháng 11 năm Nhâm Tuất, nhằm ngày 1 tháng 12 năm 1802[164]) Nguyễn Ánh tiến hành làm lễ “Hiến Phù” (獻浮, nghĩa là lễ dâng tù) nhằm báo công với tổ tiên; và nhân đó tiến hành trả thù gia đình Quang Toản và những người theo Tây Sơn vô cùng tàn bạo[165]:
- Quang Tự, Quang Điện, Nguyễn Văn Trị rồi các con của Nguyễn Nhạc gồm Thanh, Hán, Dũng bị giết ngay sau khi bị bắt, 31 người có quan hệ huyết thống với Nguyễn Huệ đều bị xử lăng trì[166].
- Quang Toản và những người con khác của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ là Quang Duy, Quang Thiệu và Quang Bàn bị 5 voi xé xác[167][168], đầu bị bỏ vào vò và giam trong ngục[167].
- Nữ tướng Bùi Thị Xuân và con gái bị voi giày[168], chồng bà là Trần Quang Diệu do trước đó đã có lần tỏ ra khoan thứ cho quân Nguyễn[168] nên xin được Nguyễn Ánh tha cho mẹ già 80 tuổi trước khi bị xử chết…
- Lăng mộ nhà Tây Sơn như các lăng của vua Thái Đức và vua Quang Trung bị quật lên, hài cốt bị giã nát quăng đi[167], đầu ba vua Tây Sơn (Thái Đức, Quang Trung và Cảnh Thịnh) và bài vị vợ chồng Nguyễn Huệ thì bị giam trong ngục tối[169][170][171].
- Các quan văn khác của Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích ra hàng thì cho đánh đòn và được tha về (riêng Ngô Thì Nhậm thì bị Đặng Trần Thường trước có thù riêng nên cho người đánh chết)[170].
Việc làm này của ông về sau bị sử sách nói nhiều đến mức độ thiên lệch cả về công và tội của Nguyễn Ánh. Theo phân tích của các sử gia, cuộc báo thù này có hai mục đích:
- Trả thù cho những việc Tây Sơn làm với cho gia tộc và bản thân Nguyễn Ánh trước kia: phá lăng mộ các chúa Nguyễn, giết chết người thân và cả những đắng cay trong những ngày tháng lênh đênh trốn chạy[169][172][173].
- Dùng cuộc trả thù để tỏ rõ uy thế, làm khiếp sợ và buộc những người chống đối (ở đây chủ yếu là các cựu thần Lê–Trịnh) phải quy thuận trước vương triều mới[d]. Có lẽ vì vậy, Nguyễn Ánh không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình trong việc này. Ông tuyên bố: “Trẫm vì chín đời mà trả thù“[174]; nhưng trong các đánh giá về sau về sự việc này, sử sách cho rằng Nguyễn Ánh thực hiện quá tay và “đôi lúc rất tiểu nhân”[173][174].
Cai trị
Các cải cách mang xu hướng mới[175] của nhà Tây Sơn bị Gia Long thay thế bằng kiểu cai trị và một nền giáo dục khắc nghiệt theo phong cách Nho giáo chính thống[176][177].
Tổ chức chính quyền
Bản dập mộc bản nhà Nguyễn miêu tả việc vua Gia Long phái thuỷ quân ra Hoàng Sa đo đạc.
Cuối đời Tây Sơn chính sự thối nát, phong tục hủy hoại nên việc cai trị rất khó khăn, Gia Long phải sắp đặt từ đầu, sửa sang phong tục[178].
Ông đã xếp đặt lại cơ cấu điều hành quốc gia: Nội cung, không đặt hoàng hậu; quan lại, không đặt chức Tể tướng để tránh lộng quyền[179], tổ chức đại khái theo chế độ nhà Lê: tổ chức triều đình gồm có lục bộ là: Lại, Công, Lễ, Hộ, Binh, Hình do thượng thư (tương đương nhự bộ trưởng ngày nay) đứng đầu và tả hữu thị lang giúp việc[179] đô sát viện do Tả, Hữu đô ngự sử đứng đầu với hoạt động can gián vua và đàn hặc các quan[180]; ấn định quyền hạn các chức tước, lương bổng, văn võ theo các cấp bậc. Ông cũng cho thi hành chế độ tiền dưỡng liêm để phòng trừ tệ nạn tham nhũng trong hàng ngũ quan lại nhà Nguyễn.
Về vấn đề chọn kinh đô, ban đầu Gia Long định chọn vùng trấn Nghệ An để dời đô từ Thăng Long vào[181]. Nhưng vì có một viên quan tên là Nguyễn Văn Nhân can gián nên ông bỏ ý định đó và vùng Phú Xuân được chọn[181]. Việc xây dựng kinh thành mới được đích thân ông đôn đốc[182].
Về mặt hành chính, Gia Long phân chia Việt Nam thành 2 tổng trấn: (Bắc Hà, Nam Hà), 2 vùng (miền Trung và Kinh kỳ). Gồm 23 trấn và 4 doanh cụ thể như sau[179][183]:
Tổng trấn Bắc Hà |
Nội trấn (5): Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ, Sơn Tây |
Ngoại trấn (6): Cao Bằng, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Quảng Yên, Thái Nguyên, Tuyên Quang |
-
Vùng miền Trung |
Trấn độc lập (7): Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận. |
Vùng Kinh kỳ |
Doanh (4): Trực Lệ Quảng Đức, Quảng Bình, Quảng Nam và Quảng Trị. |
|
|
Hai vùng tổng trấn Bắc Hà và Nam Hà sẽ do hai quan Tổng trấn đứng đầu cùng với Phó tổng trấn[179], hai vị quan Tống trấn sẽ nắm toàn quyền về luật pháp, kinh tế lẫn quân sự (hệ thống tổ chức này mãi đến đời Minh Mạng mới bị bãi bỏ)[184]. Về các Trấn thì có quan Lưu trấn (gồm Trấn thủ, Cai Bạ và Ký lục). Dưới Trấn là phủ, huyện, châu với các vị quan đứng đầu lần lượt là Tri Phủ, Tri Huyện, Tri Châu[179]. Ngoài ra, Gia Long còn là vị vua đã chính thức xác định chủ quyền của Việt Nam trên khu vực quần đảo Hoàng Sa khi ông chiếm đóng quần đảo này năm 1816[1]. Đây là lần đầu tiên tổ chức hành chính được tổ chức một cách chính quy như thế trên một lãnh thổ thống nhất trong lịch sử Việt Nam[179].
Chính sách đối ngoại
Trung Quốc
Ngay sau khi thắng hoàn toàn Tây Sơn, chiếm cả Bắc Hà, Gia Long liền cho thượng thư Binh bộ là Lê Quang Định đi sứ sang Trung Quốc để cầu phong vì cả lý do ngoại giao lẫn cả quan niệm Thiên tử của Nho giáo về nước lớn nước nhỏ[185]. Đồng thời với việc xin phong, Gia Long cũng yêu cầu được đổi quốc hiệu là Nam Việt. Ban đầu hoàng đế nhà Thanh là Gia Khánh không chấp nhận quốc hiệu “Nam Việt” để tránh lầm với nước Nam Việt của nhà Triệu lúc này đã gồm nhiều phần lãnh thổ của Trung Quốc[185]. Tuy nhiên, Gia Long vẫn kiên trì lập trường của mình dù vua nhà Thanh đã bài bác tới vài lần để tỏ cho Trung Quốc biết nếu không cho đổi thì ông sẽ không thụ phong[185]. Cuối cùng Gia Khánh cho đổi Nam Việt thành Việt Nam thì Gia Long mới chấp nhận[186]. Năm Giáp Tí (1804) nhà Thanh sai quan án sát sứ tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang tuyên phong tại Thăng Long[185], vua Gia Long cho người đem đồ sang cống tạ và lập lệ triều cống: 3 năm một lần[186] (hay 2 năm một lần theo nhà nghiên cứu Đinh Dung[185]); và triều kính 4 năm một lần[185]. Vật phẩm cống nạp được giữ nguyên như lệ thời Tây Sơn lập từ năm 1792 với: dược liệu, ngà voi, sừng tê, tơ lụa (và vẫn bỏ tục cống người vàng)… với giá trị kinh tế không lớn lắm[187]
Pháp
Với người Pháp, ông vẫn tiếp tục những biểu hiện tỏ ra thân mật với người Pháp. Ông trả công hậu hĩ cho những người đã từng theo giúp mình, một số sĩ quan người Pháp cũng được làm quan trong triều đình Huế với những ưu đãi đặc biệt[188]. Về mặt hình thức vua Gia Long là người có những quan hệ tốt với nước Pháp, đối xử với họ như những ân nhân. Chính những biểu hiện đó khiến người ta thường đánh giá Gia Long trong bản chất Nguyễn Ánh, phê phán Gia Long về những hành động khi ông đang còn là Nguyễn Ánh. Do vậy, hình ảnh Gia Long trở nên không tốt đẹp vì sự tồi tệ mà Nguyễn Ánh đã tạo ra trong lịch sử dân tộc[71].
Jean-Baptiste Chaigneau (hay còn gọi là Nguyễn Văn Thắng), người lính Pháp đã theo Gia Long từ trước khi lên ngôi và ở lại làm quan trong triều Gia Long. Sau đó lại trở thành khâm sứ (
consul de France) chính thức đầu tiên của người Pháp ở Đông Dương.
Gia Long mặc dù rất hậu đãi với người Pháp nhưng ông chỉ cho bổng lộc, chức tước mà không ban quyền hạn, do đó họ không chi phối được chính sự nhà Nguyễn. Nhà vua thường cảnh tỉnh các triều thần về mối đe dọa sự an nguy của quốc gia từ sự thông thương và truyền đạo của Pháp. Nhà vua đã nhiều lần tỏ ra rất hài lòng về việc trước kia không nhận được cứu viện của triều đình Louis XVI[189]. Khoảng năm 1818, thuyền chiến Pháp “La Cybèle” chở theo bá tước Achille de Kergariou cập cảng, xin được gặp nhà vua để bàn việc thực hiện hiệp ước trước kia nhưng do Kergariou không có quốc thư nên Gia Long không tiếp[190]. Khi thuyền trưởng tàu La Cybèle đòi Gia Long thực hiện các điều khoản trong hiệp ước trước kia, ông sai quan đáp lại rằng do trước Pháp không thực hiện thì nay bỏ, phớt lờ hoàn toàn các vị quan người Pháp trong triều đình[188][191][192][193]. Việc thất bại liên tục cố gắng tạo dựng mối quan hệ đặc biệt cho người Pháp ở Việt Nam làm cho các ông quan Pháp trong triều chán chường. Đến độ khoảng một năm sau, 1819, khi người Pháp lại tiếp tục quay trở lại qua hai tàu “La Rose” và “La Henri” thì Chaigneau xin đi theo luôn vì lý do “thăm nhà” và “đi tìm vắcxin đậu mùa“[190][193][194]. Tuy nhiên, việc ông mời các sĩ quan Pháp huấn luyện quân đội và củng cố thành trì cho nhà Nguyễn cũng làm cho ông trở thành người mở đầu cho ảnh hưởng của người Pháp tại Việt Nam[195].
Các nước phương Tây khác
Gia Long hầu như không có chính sách giao thiệp chính thức với các quốc gia thuộc thế giới phương Tây khác ngoài Pháp: đơn cử như năm 1804, nước Anh sai một sứ giả tên là John W. Roberts tới xin dâng lễ vật và quốc thư với mong được mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn, Quảng Nam nhưng mọi việc chẳng đến đâu. Nguyên nhân thất bại của Roberts là tại vì một sứ giả tiền trạm trong là Thuyền trưởng Allan trong khi mang quốc thư của David Lance (một nhà quản lý ở công ty Đông Ấn, cấp trên của Roberts) khi tới gặp Gia Long thông báo về chuyến viếng thăm của Robert có hơi lỡ lời khi nói chuyện về vấn đề Trà Sơn; việc này cộng với sự kiện nước Anh chiếm Ấn Độ trước đó và sự dèm pha của Chaigneau và Vannier khiến Gia Long nghi ngờ mục đích của người Anh rồi sau đó từ chối luôn[196][197]. Sau đó họ còn tiếp tục dâng thư xin hai ba lần nữa nhưng đều bất thành[188].
Đối với người Mỹ, khoảng năm 1803, một thuyền của Hoa Kỳ tên là “Frame” dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Jeremiah Briggs đến Đà Nẵng rồi sau đó, dưới lời khuyên của người Pháp, đã đi ra Huế để gặp Gia Long[198]. Sau khi đến Huế và rời thuyền khoảng 6 ngày, Briggs đã được Gia Long cho phép buôn bán ở Việt Nam[199]. Thời gian sau đó, nhiều thuyền khác của người Mỹ tới Việt Nam: ví dụ ngày 7 tháng 6 năm 1819, một tàu tên là “Franklin” với thuyền trưởng khác là ông John White đã ghé vao vùng Nam Hà và được quan Tổng trấn đón tiếp chu đáo[197][199]. Sau đó, White rời Việt Nam đến Manila, Philippines rồi quay lại cùng với một tàu khác tên là “‘Marmion” với thuyền trưởng John Brown[200] và tìm cách buôn bán ở Việt Nam nhưng bất thành[201]. Ngoài hai tàu trên còn có một số tàu Mỹ khác viếng thăm Việt Nam nhưng hầu như không có hoạt động gì đáng kể như tàu “Aurora of Salem” của thuyền trưởng Robert Gould hay “Beverly” của thuyền trưởng John Garner[201]. Sau thời gian đó, người Mỹ không còn viếng thăm Việt Nam lần nào nữa mãi cho đến năm 1831, dưới thời Minh Mạng[197].
Tuy chính sách nhìn chung là lạnh nhạt vậy, Gia Long vẫn giữ gìn nhưng không thắt chặt mối liên lạc chính thức cũng như các cam kết chính trị với chính phủ phương Tây để khỏi sa vào những lỗi lầm dẫn đến số phận như Ấn Độ[202]. Bên cạnh đó, ông còn thi hành một chính sách “giúp đỡ người từ xa tới” của Nho giáo: tàu thuyền của bất kỳ nước nào gặp rắc rối trong vùng lãnh hải của Việt Nam đều được giúp đỡ tùy theo mức độ cần thiết; điều mà các vua Nguyễn sau đều noi theo[193].
Với các nước khu vực Đông Nam Á
Với ba quốc gia láng giềng là Chân Lạp, Xiêm La, và Vạn Tượng; thời kỳ Gia Long cai trị cũng là thời kỳ Việt Nam khẳng định ảnh hưởng của mình.
Năm Nhâm Tuất (1802), vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân không theo Xiêm La nữa mà sai sứ đến xin được thần phục vua Gia Long nước Đại Việt. Ngày 2 tháng 9, Gia Long phong cho Nặc Ong Chân làm Quốc vương Cao Miên rồi sai Ngô Nhơn Tĩnh, Trần Công Đàn làm Chánh phó sứ mang sắc phong và ấn mạ vàng có núm hình lạc đà đến Chân Lạp, làm lễ sách phong, rồi định ra lệ cống tiến mỗi 3 năm 1 lần[186], lấy năm Đinh Mão (1807) làm đầu[203].
Ba người em của Nặc Ông Chân (Ang Chan II) là Nặc Ông Nguyên (Ang Suguon), Nặc Ông Lem tức Nặc Ông Em (Ang Im), và Nặc Ông Đôn (Ang Duong) muốn tranh quyền của anh mình nên sang Xiêm La cầu cứu. Xiêm La đòi Nặc Ông Chân chia quyền nhưng ông từ chối, Xiêm La liền cho quân sang đánh và buộc Nặc Ông Chân bỏ chạy sang cầu cứu Việt Nam. Vua Gia Long viết thư trách cứ Xiêm La và Xiêm La đáp lại là họ chỉ giúp anh em Nặc Ông Chân giảng hòa chứ không đối kháng với Việt Nam. Gia Long liền cho Lê Văn Duyệt kéo 10.000 quân sang buộc Xiêm La cho Nặc Ông Chân về nước và rút quân hoàn toàn ra khỏi Chân Lạp[204]. Lê Văn Duyệt dâng sớ xin xây thành Nam Vang (Phnom Penh) và thành La-Lêm. Khi xây xong Gia Long cho Nguyễn Văn Thoại đem 1.000 quân sang trấn giữ và xác lập quyền “bảo hộ” của Việt Nam tại Chân Lạp[205].
Đối với Xiêm La, ngay trước khi lên ngôi, Gia Long đã từng sáu lần cho sứ mang hoa vàng hoa bạc sang tặng vua Rama I nhằm cảm ơn Xiêm giúp đỡ; và dù ngay sau khi lên ngôi gặp phải vấn đề Chân Lạp thì mối quan hệ Việt Nam-Xiêm La vẫn được cả hai nước cố gắng giữ gìn[206]. Gia Long còn nhiều lần bày tỏ sự lo ngại của ông nếu ngôi vua Xiêm bị bỏ trống, và ông đã nhiều lần gây áp lực lên triều vua Rama I chọn ra một thái tử nối ngôi (đặc biệt vào các năm 1804 và 1805)[206]. Cuối cùng vua Xiêm cũng chọn Rama II, một người được triều Gia Long yêu thích[206]. Tuy vậy, nhà vua vẫn đề phòng Xiêm La, điều này được thể hiện qua việc ông đã nhiều lần xét đến việc thành lập liên minh với Miến Điện để chống Xiêm (khi này Miến Điện và Xiêm La đang có chiến tranh) nhưng vẫn chưa quyết, để rồi sau này vị vua nối ngôi Minh Mạng từ chối hẳn việc Miến Điện[207]. Đối với Vạn Tượng, Việt Nam và Xiêm La hình thành một thế giằng co ảnh hưởng: vua Vạn Tượng Inthavong trước kia có cùng hỗ trợ Gia Long đánh Tây Sơn thường tỏ ra ngả về phía Việt Nam nhiều hơn là phía Xiêm dù lúc này cả Xiêm và Việt Nam đều đang có ảnh hưởng tại Vạn Tượng[207]. Gia Long đưa ra nhiều chính sách chiêu dụ Inthavong: tại Việt Nam, Inthavong được đón tiếp dưới danh hiệu quốc vương, trong khi ở Xiêm ông vua này chỉ được gọi là Chao (lãnh chúa); và vào khoảng năm 1802 Gia Long công nhận quyền cai trị của Inthavong trên đất Xiang Khouang[207]. Vị vua nối ngôi của Inthavong là Chao Anou cũng tiếp tục chính sách tương tự, và Việt Nam tuy vẫn đối xử tốt với Vạn Tượng nhưng vẫn vị nể Xiêm trong vấn đề về Anou[207].
Chính sách kinh tế
Nhìn chung, Gia Long không quan tâm đến thương mại[208]. Ông đã nhiều lần từ chối người Anh khi họ đến xin được mua bán, ngay cả người Pháp khi đến mua bán cũng không được thuận lợi mấy[188], triều Nguyễn dưới thời ông không khuyến khích cũng như không chào mời các thuyền buôn phương Tây[209]. Triều đình bấy giờ không có ý đóng cửa với phương Tây nhưng theo cách nhìn của hàng ngũ Nho sĩ ở Việt Nam, việc giao thương với phương Tây là không đáng tin cậy; cũng đồng thời với đó là sự lo ngại sự xâm lược bằng quân sự và truyền giáo của họ[210] đã dẫn đến chính sách như trên.
Ngoài một số trung tâm thương mại thành thị được phát triển ở các thành phố và cảng biển chính, phần lớn hoạt động mua bán vẫn diễn ra trên các con sông. Triều đình nắm giữ độc quyền thương mại ở các mặt hàng có giá trị cao như ngà voi, sừng nai, bạch đậu khấu, vàng…[211] Mức thuế mua bán cao, việc cấp giấy phép khó khăn trong việc xuất khẩu gạo, muối, và kim loại cũng gây kìm hãm sự phát triển của thương mại[212]. Quan hệ thương mại quan trọng với Trung Quốc nằm trong tay các thương gia người Hoa và quan lại, trong khi các thương gia người Việt thì bị hạn chế ở mảng buôn bán trong nước[211].
Về mặt nông nghiệp, ruộng đất cũng được quản lý bằng các điền bạ ghi rõ về tình trạng, vị trí thứ hạng đất ruộng. Mỗi làng làm 3 quyển gửi lên bộ đóng dấu, 1 quyển sẽ lưu lại bộ, 1 quyển lưu lại tỉnh và 1 quyển gửi trả về làng. Bên cạnh đó, để bảo đảm đất cày cho mọi người nông dân, Gia Long ngay từ khi mới lên ngôi đã ra lệnh cấm trao đổi buôn bán ruộng công; và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại công điền công thổ trong đó cho phép điển cố[e] tối đa 3 năm[213][214]. Ngoài ra, Gia Long còn cho ban Lệ quân điền về cũng về vấn đề ruộng công này, trong đó thời hạn chia ruộng đất được rút xuống ba năm và đối tượng chia ruộng trước hết nhằm ưu đãi quan lại và quân lính[215]. Tuy nhiên, chính sách này không hiệu quả lắm do tỉ lệ ruộng công còn rất ít, mà tỉ lệ cấp lại lớn hơn hẳn thời Lê Sơ[216]. Và tình trạng người dân không có đất vẫn còn là một vấn đề[211]. Nhà Nguyễn thời vua Gia Long nhìn chung rất đề cao và khuyến khích nông nghiệp tuy nhiên lại tỏ ra thiếu kinh nghiệm trị thủy các vùng phía Bắc dù cho nhà vua đã cho đầu tư đắp đê không ít[217].
Về công nghiệp, triều đình nắm độc quyền trong ngành khai thác khoáng sản[211], họ cho các thương nhân người Hoa khai thác để thu thuế[188]. Các phường đội, thợ thủ công đều chịu sự quản lý của triều đình, hầu hết thợ có kỹ năng và nguyên liệu thô đều được đưa vào các xưởng thủ công của triều đình ở Huế[211].
Dưới thời Gia Long, việc thu thuế được tổ chức lại, phân ra nhiều thứ thuế kèm theo các chính sách quản lý và miễn trừ thích hợp[218]. Thứ thuế quan trọng đầu tiên là thuế điền (hay thuế ruộng, thuế tính trên ruộng): ruộng được chia làm 4 hạng chịu 3 mức thuế khác nhau qua hình thức nộp thóc[219]:
Loại ruộng |
Thuế (thăng thóc) |
Nhất đẳng |
20 |
Nhị đẳng |
15 |
Tam đẳng |
10 |
Đồng niên |
10 |
Loại thuế thứ hai là thuế đinh (thuế thân), đánh theo từng địa phương, tính theo từng suất đồng niên[219]. Ban đầu triều Gia Long còn có cả việc phân biệt cả cư dân chính hộ (dân cư trú lâu) và khách hộ (dân từ nơi khác đến cư trú) khi tính thuế; nhưng lệ này về sau không được duy trì[220]:
Vùng |
Thuế thân |
Mân tiền |
Điệu tiền |
Cước mễ |
Nghệ An ra đến nội ngoại Thanh Hoá |
1 quan 2 tiền |
1 tiền |
không có |
2 bát |
Năm nội trấn Bắc thành và phủ Phụng Thiên |
1 quan 2 tiền |
1 tiền |
6 tiền |
2 bát |
Sáu ngoại thành trấn Bắc thành |
6 tiền |
1 tiền |
3 tiền |
1 bát |
Ngoài hai loại thuế trên còn có thuế sản vật. Thuế sản vật thường đi kèm với các ưu đãi miễn giảm các loại thuế khác, ví dụ về một số loại thuế sản vật[213]:
- Thuế quế
Vùng quế |
Mức thuế (nộp theo đồng niên) |
Nghệ An |
120 cân |
Thanh Hóa |
70 cân |
Sau khi nộp sẽ được giảm trừ thuế đinhNếu tìm được cây quế phải báo quan làm giấy để đẵn mới hợp pháp. Quan sẽ lấy 1 nửa, dân 1 nửa. |
- Thuế yến sào
Thuế |
Mức thuế |
Đồng niên |
8 lạng |
Đánh vào người đi lấy yến ở các đảo hạt Quảng NamSau khi nộp sẽ miễn việc binh lính |
Ngoài các thứ thuế trên, còn có các loại thuế: thuế sâm, thuế hương, thuế chiếu, thuế gỗ, thuế từ việc cho phép khai thác mỏ đều có quy định riêng, thường tiền thuế sẽ nộp bằng tiền hay là bằng sản vật.
Việc thu thuế sẽ theo các định kỳ được gọi là các vụ thuế chia theo các vùng[221]:
Vùng |
Vụ thuế |
Quảng Bình ra tới Bình Thuận |
tháng 4 đến tháng 7 |
Nghệ An ra đến ngoài Thanh Hoá và các trấn ở Bắc thành |
2 vụ: tháng 4 đến tháng 6; tháng 10 đến tháng 11 |
Thuế sẽ được giảm nếu địa phương gặp thiên tai địch họa dựa theo mức độ thiệt hại. Ngoài ra, nếu nhà nào có người đi làm đường, đào sông, xây thành…; cũng được giảm thuế[222]. Nếu đã nộp thuế sản vật thì miễn thuế đinh[221], thuế dành cho các thương thuyền nước ngoài cũng được định lại: cứ dựa trên kích thước thuyền mà đánh thuế nhiều hay ít[213].. Để tạo cơ sở tính thuế[211], cùng với điền bạ (để quản lý ruộng đã nêu) dân chúng được quản lý qua sổ đinh bạ: 5 năm làm một lần mọi người từ thường dân tới quan lại từ 18 tuổi đến 59 tuổi đều phải được thống kê vào sổ đinh[213].
Để giải quyết vấn đề tiền tệ, vua Gia Long cho lập xưởng đúc tiền tại Bắc Thành, về sau ở cả Gia Định thành và ở các trấn để đúc tiền đồng và tiền kẽm ngoài ra còn cho đúc vàng bạc theo nén và lượng với tỉ lệ quy đổi một lượng vàng đổi lấy 10 lượng bạc để phục vụ cho lưu thông thương mại trong nước[222]. Mỗi đồng tiền kẽm nặng 7 phân, một mặt in chữ “Gia Long thông bảo“, một mặt in chữ “thất phân”, mỗi quan tiền nặng 2 cân 10 lạng[222].
Đồng thời với tiền tệ là việc đo lường: vua Gia Long cho chuẩn hóa lại các thước vuông đo ruộng có trước đó, chế ra thước đo ruộng mới là loại thước đồng hai mặt khắc chữ: một mặt Gia Long cửu niên thu bát nguyệt và mặt kia là ban hành đạc điền xích, công bộ đường kính tạo[222]. Năm 1813, vua Gia Long cho làm ra cân thiên bình, cấp cho các doanh, trấn, để dùng vào việc cân đo kim loại và sản vật địa phương. Riêng hai kim loại màu là vàng và bạc thì dùng cân trung bình[222].
Chính sách xã hội
Thấy các quan đầu triều của mình đều chỉ là quan võ, Gia Long lưu ý đến việc học hành thi cử trong nước để tuyển lựa quan văn. Ông tổ chức lại các Văn Miếu, thờ Khổng Tử, thực hiện chính sách trọng Nho học[223]. Ông cho thành lập Quốc Tử Giám ở Phú Xuân để dạy con quan, tổ chức thi Hương theo định kỳ để tuyển chọn nhân tài[223]. Ngoài ra, ông còn đặt thêm chức đốc học ở các trấn, và cho dùng những người có công danh ở đời nhà Lê, để coi việc dạy dỗ ở địa phương[223]. Ông cũng sai Binh bộ thượng thư[224] Lê Quang Định làm bộ sách 10 quyển Nhất thống địa dư chí vào năm 1806[225], ghi nhận về tình hình địa lý, chính trị… các mặt của Việt Nam trên cơ sở điều tra đã thực hiện trước đó[225], đồng thời cho tìm các sách dã sử về nhà Lê và nhà Tây Sơn để sửa lại quốc sử[224]. Thời của Gia Long là thời thịnh của thơ văn quốc âm với nhiều tác phẩm kiệt xuất: Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, Truyện Kiều của Nguyễn Du; và một bài văn tế tướng sĩ không rõ tác giả do Nguyễn Văn Thành ra chủ tế[224].
Về luật pháp, Gia Long cho soạn bộ luật mới có tên gọi là Hoàng Việt luật lệ (còn được gọi là “luật Gia Long”), do Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành chủ biên bao gồm 22 quyển và 398 điều[226], bộ luật này, dù có đôi chỗ cải biến, gần như lấy nguyên mẫu là luật nhà Thanh[223] cho nên nhìn tổng thể khá khắc nghiệt và không được tiến bộ như bộ luật Hồng Đức của nhà Lê[227].
Là vua một nước rộng lớn, mới thống nhất sau mấy trăm năm nội chiến với nhiều phe phái tranh giành xâu xé nhau xuất hiện liên tục[228], cộng thêm chính sách thuế khóa cao và cưỡng bức xây dựng lớn[229]; sự bất bình của tầng lớp sĩ phu hoài nhớ Lê triều[230], và nạn đói thường xuyên diễn ra ở vài khu vực khắp nước nên Gia Long thường xuyên phải đối mặt với các phong trào chống đối ở khắp ba miền Việt Nam (đặc biệt ở khu vực Bắc Hà) với khoảng 73 phong trào trong suốt thời kỳ ông trị vì[231]. Để ổn định tình hình Bắc Hà, ông thi hành một chính sách hai mặt[232]: một mặt Gia Long tỏ vẻ tôn trọng nhà Lê, ông phong quan tước cho con cháu nhà Lê (ví dụ như Lê Duy Hoán được phong 1016 tự dân và 10000 mẫu tự điển)[233][234]; vời dùng các cựu thần Lê triều như Nguyễn Duy Hợp, Lê Duy Đản, Ngô Xiêm…[230]. Ngoài ra, ông còn cho giữ gìn lăng tẩm, đền miếu các vua Lê, cho sửa chữa lại Lam Kinh, xây đền Lê Bố Vệ, cho tổ chức lễ thờ tế vua Lê ở cấp quốc gia hằng năm cũng như “phong bách thần trong nước cho triều Lê”[232]. Một mặt Gia Long tìm cách làm giảm tình cảm của dân chúng bằng cách giảm ảnh hưởng của triều Lê: cho phá hoàng thành Thăng Long nhà Lê xây và thay thế bằng hoàng thành nhỏ hơn rất nhiều, thay chữ Long (龍) mang nghĩa là rồng trong Thăng Long (升龍) thành Long (隆) mang nghĩa là thịnh vượng; và hủy sáu trường thi hương Bắc Hà[232]. Đồng thời, vua Gia Long còn cho lập các kho vận trữ lúa gạo (kho Bình Chuẩn Thương), cắt cử quan lại chăm lo việc cứu đói dân chúng.
Tuy thế, các cuộc nổi dậy vẫn nổ ra ở khắp các khu vực Bắc Hà từ Nghệ An tới khu vực Tây Bắc với nhiều lý do khác nhau, trong đó đó danh nghĩa tôn phù nhà Lê trở thành một lý do nổi dậy phổ biến (ngoài ra còn có cả một số trường hợp xưng con cháu triều Lý và triều Mạc[235])[236]. Lực lượng nổi dậy bao gồm các tộc người thiểu số ở vùng miền núi như người Hoa, người Nùng: trong đó một số vụ nổi tiếng và kéo dài nhiều năm như cuộc nổi dậy của Lý Văn Phúc (vùng Thái Nguyên); Dương Đình Cúc (vùng Thái Nguyên), Lê Đắc Lộc và Thân Vạn Đồng (vùng Bảo Lộc), Mã Sĩ Anh (vùng Hưng Hóa); các con cháu nhà Lê như Lê Duy Hoán[233]; các nhóm cướp phát triển lên như Cao Văn Dũng và Nguyễn Tình (vùng Sơn Tây và Hải Dương), Vũ Đình Khanh (vùng Sơn Nam Hạ), các tù trưởng người Mường như Quách Tất Thúc (khu vực Thanh Hóa)…[237] Để đối phó, Gia Long đã ra sức đánh dẹp, thi hành nhiều chính sách vỗ an và cử nhiều tướng tài như Lê Chất, Lê Văn Duyệt lưu đóng ở khu vực Bắc Thành nhiều năm nhưng vẫn không sao hết được[237]. Ở các khu vực miền Trung, các phong trào nổi dậy chủ yếu chỉ mang tính lẻ tẻ[238], tuy cũng có phong trào lớn như là cuộc nổi dậy của người Thượng ở Đá Vách kéo dài qua tận các đời vua sau[239]. Khu vực Nam Hà thì chủ yếu xuất hiện nạn cướp bóc hay gây rối loạn mất an ninh; mãi đến khi Gia Long cử Lê Văn Duyệt vào làm Tổng trấn cai quản vùng này thì tình hình mới ổn định[240].
Vấn đề đường xá được Gia Long chú trọng vì tầm quan trọng cả về kinh tế và chính trị: ông lệnh cho các quan phải đào đắp sửa sang các con đường, dân địa phương cũng phải tham gia vào việc làm cầu đắp đường theo tỷ lệ 15.000 trượng đường thì phát cho dân 10.000 phương gạo. Từ ải Nam Quan đến Bình Thuận có chừng 98 nhà trạm, mỗi trạm cách nhau chừng 4.000 trượng, dùng để làm nơi khách bộ hành nghỉ ngơi. Từ Bình Thuận trở vào phía Nam đến Hà Tiên thì đi bằng đường thủy[241]. Ở các trấn lại đặt ra kho thóc chứa thóc gạo, để phòng khi mất mùa đói kém thì lấy phát chẩn[241]. Ngoài ra, ông còn tiếp tục chính sách khai hoang vùng đồng bằng sông Cửu Long: triều đình bỏ tiền đào kênh Vĩnh Tế và kênh Thụy Hà để tạo cơ sở cho việc khai hoang và xác định biên giới Việt Nam và Cao Miên[226][242]. Còn ở Bắc Hà, ông cũng thực hiện việc đắp đê, kè với một khối lượng “lớn nhất so với các triều trước” và cho lập Nha Đê Chính để quản lý vấn đề này[217][226].
Về mặt tôn giáo, triều vua Gia Long có chính sách chuộng về Nho giáo, nên chính sách về tôn giáo của Gia Long là ngược hẳn so với chính sách tôn giáo của nhà Tây Sơn[211]. Các chỉ dụ của ông đã quy định nên nhiều chính sách có tính ngược đãi đối với những người theo Phật giáo và Lão giáo[211]. Công giáo cũng được khoan thứ vì mối quan hệ của ông với người Pháp và các giáo sĩ không bị cấm đoán và được tự do đi truyền đạo khắp nơi[243]. Nhìn chung, chính sách của Nguyễn Ánh đối với Công giáo là một chính sách không bảo vệ cũng như không bài bác[244]. Tuy vậy, Gia Long vẫn cảnh giác và ra các biện pháp phòng ngừa vấn đề truyền bá đạo Công giáo xâm hại tới trật tự xã hội, văn hóa truyền thống; nguy cơ các thế lực phương Tây thâm nhập Việt Nam thông qua các giáo sĩ[245].
Chính sách quân sự
Vì cuộc nội chiến kéo dài với Nhà Tây Sơn, Gia Long đã có được một đội quân tương đối mạnh, được trang bị khí tài và tổ chức theo kiểu phương Tây. Một người nước ngoài vào thời gian này nhận xét:” … Những cuộc hành quân của vua Nam kỳ (ý chỉ Nguyễn Ánh) giống nhau một cách kỳ lạ với những cuộc hành binh của Đệ nhất Cộng hòa Pháp, giống nhau về tổ chức, về vũ khi và nhất là về ảnh hưởng của các nhà quân sự Pháp cuối thể kỷ XVIII“[246].
Sau chiến tranh, ông ban thưởng cho binh lính, lập đền thờ người tử trận, rồi tinh giản quân đội bằng cách cho những người lính già giải ngũ[218]. Sau đó, ông đặt ra cách tuyển quân linh hoạt: khu vực từ Quảng Bình vào đến Bình Thuận thì cứ 3 nam tuyển 1 lính; từ Biên Hoà trở vào thì cứ 5 nam đinh tuyển lấy 1 lính; từ Hà Tĩnh trở ra đến 5 nội trấn ở Bắc thành thì cứ 7 nam đinh tuyển lấy 1 lính. Còn 6 ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng Hoá, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên, thì cứ 10 nam đinh tuyển lấy một lính[218]. Về bộ binh, ngoài các đơn vị lính thường là lính cơ, lính mộ ở các trấn; khu vực kinh thành có thêm các loại lính tinh nhuệ gồm thân binh, cấm binh, tinh binh. Thân binh chia làm các vệ gồm 500 người kèm thêm 50 người tập quân nhạc. Ngoài ra quân lính còn được tổ chức thành các biền binh ban lệ gồm 3 phiên: trong đó 2 phiên về quán, còn một phiên ở lại thay đổi cho nhau luân phiên[218]. Tổng số binh của triều đình lên đến gần 140.000 và có thể huy động tăng thêm rất lớn (theo M Chaigneau ghi nhận thì thường trực tầm 8 vạn và tổng số có thể huy động khi cần là 20 vạn quân)[246][247].
Vũ khí cho quân đội gồm súng tay thạch cơ điểu thương, đại bác và gươm giáo[218]. Khu vực kinh thành có ba trường tập bắn dành cho quân đội[218]. Ngoài ra, Gia Long còn cho chế tạo nhiều loại vũ khí và trang bị theo mẫu đã mua của Phương Tây, chính sách mà vua Minh Mạng cũng tiếp nối thực hiện.[248] Lực lượng hải quân cũng được chú trọng vì địa thế đường biển dài của Việt Nam. Gia Long cho tuyển mộ các cư dân sống gần biển về doanh Quảng Đức và doanh Quảng Nam lập thành 6 vệ thuỷ quân đóng tại kinh thành[218]. Còn ở các cửa biển đều có một cơ lính thủy và đặt súng để phòng thủ và trông giữ việc đi lại của tàu nước ngoài[218]. Ngoài ra, người ta còn ghi nhận là vua Gia Long đã cho đóng loại thuyền lớn kiểu Tây bọc đồng để đi lại tuần tra biển[218].
Giết hại công thần
Khi ở ngôi hoàng đế, Gia Long đã giết hại hai công thần lập quốc là Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường[249].
Nguyễn Văn Thành
Nguyễn Văn Thành (1758–1817) là người theo Nguyễn Ánh từ ngày đầu ông khởi binh chống Tây Sơn ở Quy Nhơn lập được nhiều công to đứng đầu công thần. Sau chiến tranh, Thành là người ổn định trấn Bắc Hà, sau lại về kinh làm Trung quân, tổng tài làm sách luật và quốc sử.
Mọi việc bắt đầu từ con trai Thành là Cử nhân Nguyễn Văn Thuyên làm một bài thơ mời hai người ở Thanh Hóa là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận qua tay một người chuyển tên là Nguyễn Trương Hiệu. Bài thơ đại khái như sau:
Phiên âm Hán Việt |
Dịch nôm |
Văn đạo Ái Châu đa tuấn kiệt,Hư hoài trắc tịch dục cầu ty.
Vô tâm cửu bảo Kinh Sơn phác,
Thiện tướng phương tri ký Bắc kỳ.
U cốc hữu hương thiên lý viễn,
Cao cương minh phượng cửu thiên tri.
Thử hồi nhược đắc sơn trung tể,
Tà ngã kinh luân chuyển hoá ky. |
Ái Châu nghe nói lắm người hay,Ao ước cầu hiền đã bấy nay.
Ngọc phác Kinh Sơn tài sẵn đó,
Ngựa kỳ Ký Bắc biết lâu thay.
Mùi hương hang tối xa nghìn dặm,
Tiếng phượng gò cao suốt chín mây.
Sơn tể phen này dù gặp gỡ,
Giúp nhau xoay đổi hội cơ này. |
Nhưng Nguyễn Trương Hiệu lại đem bài thơ đi báo cho người vốn nhiều hiềm kích với Nguyễn Văn Thành là Lê Văn Duyệt. Kết quả là Nguyễn Văn Thuyên bị bắt giam vì lời thơ bị cho là quá ngông cuồng, và có ý tạo phản, truất ngôi vua. Mọi cố gắng kêu oan của Nguyễn Văn Thành đều không được Gia Long chấp nhận. Thành buộc phải uống thuốc độc tự tử trong ngục vào năm Đinh Sửu (1817), Nguyễn Văn Thuyên thì bị xử án chém[249].
Đặng Trần Thường
Đặng Trần Thường (1759-1813) đậu sinh đồ về cuối đời nhà Lê, từ chối giúp Tây Sơn sau khi nhà Lê mất mà đi theo Nguyễn Ánh, lập được nhiều công trạng làm lên tới chức Tán Lý[249].
Một lần, vì làm gian Sắc phong thần cho Hoàng Ngũ Phúc vốn là tướng của chúa Trịnh vào bậc phúc thần, triều đình kết án phải tội chém, nhưng Thường lại được tha. Đặng Trần Thường trước có hiềm khích với Lê Chất, nên Lê Chất mới bới những việc sai phạm của Thường ra như khi ra coi tàu binh ở Bắc Thành đã có giấu thuế đầm ao và dinh điền. Đặng Trần Thường lại bị bắt giam. Trong ngục, Thường tỏ ý mỉa mai. Việc đó đến tai đình thần, nên khi kết án, đình thần xử tội giảo[250].
Tương truyền Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm bài “Hàn Vương tôn phú” bằng quốc âm để ví mình như Hàn Tín đời nhà Hán[249][250].
Qua đời
-
Tháng 11 năm Mậu Dần (1818), Gia Long lâm bệnh[209], ông hạ chiếu cho Thái tử Nguyễn Phúc Đảm thay ông quyết việc nước và cho gọi hai đại thần là Lê Văn Duyệt và Phạm Đăng Hưng đến hầu. Ông dặn Thái tử Đảm[209]:
“ |
Đấy là cơ nghiệp gian nan của trẫm, nay giao cho con, con nên cẩn thận giữ gìn… Ta cũng sắp chết, không nói gì, chỉ có một việc là ngày sau phải cẩn thận chớ nên gây hấn ngoài biên |
” |
Rồi Gia Long sai Thái tử Đảm chép lại lời mình, Nguyễn Phúc Đảm chép một cách ngập ngừng ý muốn bỏ chữ “băng“, Gia Long cầm bút viết luôn chữ đó vào[251].
Bệnh ngày càng nặng dần, và Gia Long cố gắng giấu điều này[194]. Đây cũng là một trong nhiều nguyên nhân Gia Long bí mật triệu bác sĩ Treillard của tàu buôn Pháp Henri, khi này đang được mời để trị bệnh cho công chúa thứ chín[252], vào cung chữa bệnh cho ông[194]. Treillard (có thể có cả sự giúp đỡ của bác sĩ J. M. Despiau, một bác sĩ người Pháp thân cận của vua Gia Long) bí mật điều trị cho nhà vua trong khoảng bốn tháng[253]. Và sau đó vị bác sĩ này cùng với đoàn người trên tàu Henri rời đi vào khoảng ngày 2 tháng 11 năm 1819[194].
Năm tháng sau đó, sức khỏe nhà vua ngày càng suy yếu dần và đến ngày 19 tháng Chạp năm Kỷ Mão (tức ngày 3 tháng 2 năm 1820),[254] vua Gia Long qua đời, hưởng thọ 59 tuổi, ở ngôi 18 năm, miếu hiệu là Thế Tổ (世祖)[255].
Về nguyên nhân qua đời, nhà nghiên cứu-lương y Lê Hưng VKD sau khi nghiên cứu “ngự dược nhật ký” năm Kỷ Mão – 1819 (nhật ký ghi chép lại 94 lần kê toa (gồm 24 bài thuốc) của Thái y viện triều Nguyễn đã dùng để chữa bệnh cho Gia Long), cho rằng nhà vua có thể đã bị chứng xơ gan cổ chướng mà qua đời. Ông còn nhận xét ““Phải chi thời đó có khả năng “cận lâm sàng” như hiện nay thì vị vua “khai sáng triều Nguyễn” đã có thể sống vượt qua năm Kỷ Mão 1819 (vì phát hiện được sớm bệnh trạng thuộc hệ tiêu hoá, do ký sinh trùng tai hại gây ra… tổn thương gan)“[256].
Chôn cất và thờ cúng
-
Mộ Gia Long trong khuôn viên Lăng Thiên Thọ. Được chôn cạnh Gia Long là bà Thừa Thiên Cao hoàng hậu Tống Thị Lan.
Gia Long được chôn tại Lăng Thiên Thọ (hay còn gọi là Lăng Gia Long), nằm ở núi Thiên Thọ, cách Huế khoảng 16 km về phía Tây Nam thuộc làng Định Môn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Khu lăng mộ được đích thân ông chọn và đốc thúc xây dựng từ năm 1814 và hoàn thành ít lâu sau khi ông qua đời vào năm 1820[257]. Ngoài Gia Long còn có hai bà vợ của ông là hoàng hậu Thuận Thiên và Thừa Thiên đều được chôn ở vùng này.
Sách Hoàng tộc lược biên có viết:
- Lăng của Ngài là lăng Thiên Thọ, thuộc địa phận làng Định Môn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Lăng Bà Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu và Bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, nguyên phối và đệ nhị phối của Ngài cũng đều táng tại vùng ấy cả. Ngài và hai Bà đều thờ tại Chánh án Thế Miếu và tại Chánh án điện Phụng Tiên ở Kinh Thành Nội.
Ngoài ra, Gia Long còn được tôn thờ tại Chánh Án Miếu ở Thế Miếu trong Đại Nội kinh thành Huế. Về sau, vua con Minh Mạng đặt thụy hiệu cho ông là Khai thiên Hoằng đạo Lập kỷ Thùy thống Thần văn Thánh vũ Tuấn đức Long công Chí nhân Đại hiếu Cao Hoàng đế (開天弘道立紀垂統神文聖武俊德隆功至仁大孝高皇帝)[258].
Truyền ngôi cho Minh Mạng
-
Mặc dù có nhiều đình thần phản đối nhưng ông vẫn chọn vị hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm làm người kế vị thay vì chọn dòng đích là con trai của hoàng tử Cảnh là Mỹ Đường bất chấp có nhiều đại thần phản đối. Hoàng tử Đảm vốn là người hay bài xích đạo Công giáo và không có chút cảm tình nào với người Pháp – tư tưởng này hợp với Gia Long. Gia Long đã dặn trong di chiếu rất rõ với Minh Mạng rằng hãy đối xử tử tế với người Âu nhưng hết sức cảnh giác trước các tham vọng của họ[71].
Lý do thực sự Gia Long chọn hoàng tử Đảm nối ngôi vẫn chưa chắc chắn. Theo sử gia Nguyễn Quang Trung Tiến, tiến sĩ khoa học thuộc Trường đại học Khoa học (Đại học Huế), lý do Gia Long không chọn Mỹ Đường là vì sợ những ảnh hưởng của Pháp đến triều đình: Mỹ Đường vốn là người chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Công giáo từ người Pháp giống như cha của ông[71]. Còn học giả Nicole-Dominique Le, học giả thuộc Viện Nghiên Cứu và Khảo Cứu các Nhân Chủng và Văn Hóa khác nhau tại Paris (Pháp), lại cho rằng lý do quan trọng nhất Gia Long chọn Đảm là tại vì danh tiếng của hoàng tử như là một người sùng Nho giáo cứng rắn trong các vấn đề tôn giáo[259]. Bà Nicole-Dominique Le còn cho rằng Gia Long xem Đảm là hoàng tử nhà Nguyễn được chuẩn bị tốt nhất để bảo vệ sự độc lập văn hóa Việt Nam khỏi các thách thức sắp đến của các quốc gia Châu Âu; và khỏi sự hiện diện đã có của họ tại Việt Nam là các giáo sĩ Công giáo[259].
Cuộc sống cá nhân
Ngoại hình và tính cách
Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường qua tài liệu của L.Barizy, một quan thư lại của triều đình Gia Định và các giáo sĩ phương Tây mô tả Nguyễn Ánh là “dáng người cao trung bình, vẻ mặt đều đặn, nhẹ nhõm“, “màu da đỏ hồng, rám nắng vì dầu dãi..“[260]. Sử nhà Nguyễn thì không tả về ngoại hình, chỉ đề cao về mặt tính cách của Nguyễn Ánh với những lời lẽ như sau “thông duệ túc thành“, “trung thành hết mực với Duệ Tông“, “biết chia ngọt sẻ bùi với thuộc tướng“, “ứng phó lẹ làng” với các tình thế trong cuộc sống, ông có cả những tính cách của một chính trị gia-võ tướng lãnh đạo một đám quan-binh hỗn độn, nhiều thành phần từ tặc khấu mà ra với đủ sắc tộc (Việt, Hoa, Xiêm, Chàm, Mã Lai, Tây Phương)[260]. Sử nhà Nguyễn còn cho biết: Nguyễn Ánh biết bắn súng điểu thương và bơi rất giỏi[261].
Giáo sĩ Lelabousse viết trong một bức thư ngày 14 tháng 4 năm 1800, Nguyễn Ánh là một người “nóng nảy“, “đoản tính“; nhờ có Bá Đa Lộc dạy bảo thường ông mới bỏ được các tính đó[261]. Ngoài ra, Nguyễn Ánh cương quyết nhưng không hung tàn, nghiêm khắc nhưng phải theo đúng lệ luật; là người trí tuệ, ham và dễ học hỏi, biết ơn, bao dung và tế nhị; có khả năng chịu đựng nghịch cảnh[261]. Ngoài ra ông giáo sĩ còn miêu tả lúc trẻ Nguyễn Ánh mê rượu, nhưng từ khi lên làm chúa ông bỏ hẳn[261]. Tạ Chí Đại Trường đánh giá “Gia Long là một Nguyễn Ánh được tập thành trong biến cố. Tuổi trẻ, gặp gia biến quá sớm, trước một kẻ thù gần như là vô địch, bị rượt đuổi tận hang cùng ngõ hẻm, ông mang nhiều mặc cảm yếu ớt, hay than thở và bị bắt buộc mong đợi, trông cậy ở người nhiều. Nhưng tình thế giúp ông tự chủ dần dần. Việc khu trừ Đỗ Thanh Nhân là một ví dụ điển hình“[262].
Tác giả Nghia M. Vo, mô tả Nguyễn Ánh là một người biết dùng người, ông có khả năng tụ tập được nhiều phe phái kình chống nhau; nhiều người thuộc nhiều sắc tộc[263]. Ông sẵn sàng trọng dụng người tài, bất kể sắc tộc (Nguyễn Văn Tôn, một người Miên); hay nguồn gốc xuất thân (Lê Văn Duyệt, một thái giám)[263]. Ngoài ra, Nghia M. Vo còn mô tả Nguyễn Ánh là một người làm việc rất chăm chỉ như kiến[264]. Về thời kỳ Gia Long, giáo sư đại học Western Connecticut State Wynn Wilcox mô tả ông là một chính trị gia có hiểu biết, người hiểu và có thể tác động vào tính phức tạp của triều đình ngay khi ông đang hấp hối[194]. Bách khoa toàn thư Anh thì ghi nhận ông là một vị vua cẩn trọng, bảo thủ, điều đã ảnh hưởng tới các triều vua nối ngôi ông[265]. Còn nhà nghiên cứu Đông Á Joseph Buttinger thì mô tả Gia Long là một Nho sĩ nghiêm khắc[266].
Gia quyến
Dấu “Tôn nhân phủ ấn”, ấn tín của Tôn Nhân Phủ.
Trong dòng họ, ông giao cho người chú Tôn Thất Thăng lo việc gia huấn trong thân tộc, làm phả hệ Tôn Thất, đặt chức Tôn Nhân Lệnh, Tôn Nhân Phủ quản trị quốc tộc.
Về vợ con của ông như sau:
- Vợ
- Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, húy Tống Thị Lan[267], con ông Thái Bảo Khuông Quận Công, húy Tống Phước Khuông và bà Quốc Phu Nhân Lê Thị. Bà được Nguyễn Ánh cưới về năm ông được 18 tuổi, tính tình bà cẩn trọng, đoan trang rất được ông quý mến. Ghi chép về hành trạng của bà không có nhiều chỉ có một số chi tiết như vào năm 1783, khi Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đánh đem hết gia quyến chạy ra đảo Phú Quốc, bà đã giao con mình là hoàng tử Cảnh khi ấy mới 4 tuổi cho Giám mục Pigneau de Béhaine sang Pháp cầu viện, nhà vua giao cho bà nửa thoi vàng làm tin rồi sang Xiêm. Sau đó, bà là người đã đứng ra chăm sóc cả gia đình Nguyễn Ánh khi ông còn phiêu bạt, thậm chí có lần đánh trống đốc binh cứu được Nguyễn Ánh khi ông bị Tây Sơn vây ngặt[268]. Sau khi Nguyễn Ánh chiếm lại được Phú Xuân và lên ngôi hoàng đế, ông hỏi bà về nửa thoi vàng năm xưa, bà đưa ra và vua Gia Long mừng rỡ nói: “Vàng này còn giữ được, đó thật là ân trời đã giúp trong lúc nguy nan, chẳng nên quên lãng. Vậy phải để dành về sau cho con cháu biết.” rồi lấy nửa thoi còn lại ráp thành hoàn chỉnh rồi giao hết cho bà[269][270]. Bà qua đời năm 1814, hiệp táng tại lăng Thiên Thọ, làng Định Môn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.
- Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, huý Trần Thị Đang[269], con ông Lễ Bộ Tham Tri Trần Hưng Đạt. Bà Trần Thị Đang sinh tại làng Văn Xá, Hương Trà, Thừa Thiên; là người giỏi thơ văn, cần kiệm liêm chính. Bà theo vua Gia Long những ngày ông còn long đong phiêu bạt nên rất được ông quý mến. Bà chính là mẹ của hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm, người mà sau này là vua Minh Mạng[269]. Bà qua đời năm 1846. Lăng của bà là Thiên Thọ Hữu, trong khu vực Thiên Thọ Lăng. Hai bà Hoàng Hậu trên đều tôn thờ tại Án Chánh Miếu ở Thế Miếu trong Đại Nội kinh thành Huế.
- Ngoài các người vợ kể trên, vua Gia Long còn có gần trăm bà[270] phi khác là con của các quan tiến cung[272]. Để tránh làm tổn thương các quan, nhà vua không thể từ chối được việc dâng tiến này nên dù có tuổi ông vẫn phải nạp phi[272]. Hậu cung thường xảy ra xung đột và vua Gia Long tỏ ra không ưa thích chốn hậu cung như thế, có lần ông đã từng miêu tả việc này trong câu nói: “Chốc nữa trẫm sẽ ở giữa một đám yêu phụ làm trẫm đinh tai nhức óc“[273] và câu đánh giá về phụ nữ của ông: “Trẫm muốn sửa đổi lại cả thế giới, nhất là đàn bà, vì họ đều đáng ghê sợ hơn đàn ông“[274].
- Con cái
Vua Gia Long có 15 hoàng tử và 18 công chúa.[258][275]
Chân dung hoàng tử cả Nguyễn Phúc Cảnh do họa sĩ
Maupérin vẽ tại Pháp vào năm 1787.
- Anh Duệ hoàng thái tử Nguyễn Phúc Cảnh [英睿皇太子阮福景], mẹ là Thừa Thiên Cao hoàng hậu.
- Thuận An Đôn Mẫn công Nguyễn Phúc Hy [順安敦敏公阮福曦; 1782 – 21 tháng 5, 1801], mẹ là Thừa Thiên Cao hoàng hậu.
- Thiệu Uy công Nguyễn Phúc Tuấn [绍威公阮福晙], mẹ là Lâm chiêu dung, lên 12 tuổi thì chết.
- Thánh Tổ Nhân hoàng đế Nguyễn Phúc Đảm, mẹ là Thuận Thiên Cao hoàng hậu.
- Kiến An Cung Thuận vương Nguyễn Phúc Đài [建安恭慎王阮福旲; 5 tháng 10, 1795 – 14 tháng 11, 1849], mẹ là Thuận Thiên Cao hoàng hậu.
- Định Viễn quận vương Nguyễn Phúc Bính [定遠郡王阮福平; 6 tháng 9, 1797 – 16 tháng 8, 1863], mẹ là Dương tiệp dư.
- Diên Khánh Cung Chánh vương Nguyễn Phúc Tấn [延慶恭正王 阮福晉; 21 tháng 3, 1799 – 17 tháng 7, 1854], mẹ là Chiêu nghi Nguyễn Hữu thị.
- Điện Bàn Cung Đốc công Nguyễn Phúc Phổ [奠盤恭篤公 阮福普; 1798 – 1860], mẹ không rõ.
- Thiệu Hóa Cung Lương quận vương Nguyễn Phúc Chẩn [紹化恭良郡王阮福晆; 1802 – 1824], mẹ là Thuận Thiên Cao hoàng hậu.
- Quảng Uy Cung Trực công Nguyễn Phúc Quân [廣威恭直公阮福昀; 20 tháng 8, 1809 – 26 tháng 5, 1829], mẹ là Cung Thận Đức phi.
- Thường Tín Ôn Tĩnh quận công Nguyễn Phúc Cự [常信溫靜郡公阮福昛; 1810 – 1849], mẹ là Cung Thận Đức phi.
- An Khánh Trang Mẫn quận vương Nguyễn Phúc Quang [安慶莊敏郡王阮福光; 1811 – 1845], mẹ là Trịnh mỹ nhân.
- Từ Sơn công Nguyễn Phúc Mão [慈山公 阮福昴; 25 tháng 10, 1813 – 18 tháng 8, 1868], mẹ là Nguyễn chiêu dung.
- Nam Cung hoàng thái tử Nguyễn Phúc Bảo Thiên [南宮皇太子 阮福保天].
- Bình Thái Đoan Tuệ công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Châu [平泰端慧公主 阮福玉珠; 1780 – 1847], mẹ là Phạm chiêu dung.
- Bình Hưng Uyển Thục công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Quỳnh [平興婉淑公主 阮福玉瓊; 1787 – 18499], mẹ là Lâm chiêu dung.
- Bảo Lộc Trinh Hòa công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Anh [保祿貞和公主 阮福玉瑛; 1789 – 1850], mẹ là Lâm chiêu dung.
- Tĩnh Chất công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Chân [靜質公主 阮福玉珍; 1790 – 1820], mẹ là Hoàng chiêu dung.
- Bảo Thuận Trinh Tuệ công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Xuyên [保順貞慧公主 阮福玉玔; 1790 – 1850], mẹ là Phạm chiêu dung.
- Trang Khiết công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Ngoạn [莊潔公主 阮福玉玩; 1794 – 1827], mẹ là Tống thứ nhân.
- An Thái Nhu Hòa công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Nga [安泰柔和公主阮福玉珴; 1795 – 1855], mẹ là Dương tài nhân.
- Uyển Thục công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Cửu [婉淑公主 阮福玉玖; 1801 – 1846], mẹ là Dương tiệp dư.
- Nghĩa Hòa Cung Khiết công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Nguyệt [義和恭潔公主阮福玉玥; 1802 – 1846], mẹ là Tống chiêu dung.
- An Nghĩa Trinh Lệ công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Ngôn [安義貞麗公主 阮福玉琂; 1802 – 1855], mẹ là Cung Thận Đức phi.
- Hoàng nữ Nguyễn Phúc Ngọc Mân [阮福玉玟]
- Trinh Ý công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Khuê [貞懿公主 阮福玉珪; 1806 – 1828], mẹ là Cung Thận Đức phi.
- Định Hòa Đoan Nhàn công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Cơ [定和端嫻公主 阮福玉璣; 1806 – 1855], mẹ là Nguyễn mỹ nhân.
- Hoàng nữ Nguyễn Phúc Ngọc Thiều [阮福玉玿], mẹ là Tài nhân Nguyễn Viết thị, một tuổi chết.
- Hoàng nữ Nguyễn Phúc Ngọc Lý [阮福玉理], mẹ là Trần tài nhân. Năm Gia Long thứ 18, lúc đó chúa 11 tuổi thì chết.
- Nhu Khiết công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Thành [柔潔公主 阮福玉珹; 1812 – 1830], định gả cho Hồ Văn Thập, là con Phúc quốc công Hồ Văn Bôi. Nhưng mùa đông năm đó, chúa chết khi mới 18 tuổi.
- Hoàng nữ Nguyễn Phúc Ngọc Bích [阮福玉碧], mẹ là Trần mỹ nhân. Năm Gia Long thứ 13, chết khi 8 tuổi.
- Hoàng nữ Nguyễn Phúc Ngọc Trinh [阮福玉珵], mẹ là Đặng tài nhân. Năm Gia Long thứ 14, chúa chết khi 7 tuổi.
Nhận định
Nguyễn Ánh là vị vua có công khi thống nhất Việt Nam sau gần 300 năm chia cắt và chiến tranh kể từ thời Nam Bắc triều tới hết thời Tây Sơn (1533-1802). Sau đây là một số lời nhận xét của các sử gia, nhà nghiên cứu về ông:
- Nhận định chung
“ |
Vua Thể tổ là ông vua có tài trí, rất khôn ngoan, trong 25 năm trời, chống nhau với Tây Sơn, trải bao nhiêu lần hoạn nạn, thế mà không bao giờ ngã lòng, cứ một niềm lo sợ khôi phục. Ngài lại có cái đức tính rất tốt của những kẻ lập nghiệp lớn, là cái đức tính biết chọn người mà dùng, khiến cho những kẻ hào kiệt ai cũng nức lòng mà theo giúp. Bởi vậy cho nên không những là ngài khôi phục được nghiệp cũ, mà lại thống nhất được sơn hà, và sửa sang được mọi việc, làm cho nước ta lúc bấy giờ thành một nước cường đại, từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy.
Công nghiệp của ngài thì to thật, tài trí của ngài thì cao thật, nhưng chỉ hiềm có một điều là khi công việc xong rồi, ngài không bảo toàn cho những công thần, mà lại lấy những chuyện nhỏ nhặt đem giết hại những người có công với ngài, khiến cho hậu thế ai xem đến những chuyện ấy, cũng nhớ đến vua Hán Cao, và lại thở dài mà thương tiếc cho những người ham mê hai chữ công danh về đời áp chế ngày xưa. |
” |
—Trần Trọng Kim[255] |
“ |
Cũng còn có ý kiến cho rằng triều đại nhà Nguyễn từ đời vua Gia Long trở đi là triều đại phong kiến tàn ác, khắc nghiệt. Thực ra, đây chưa hẳn là do Gia Long có chính sách lạc hậu, phản động. Tình hình loạn lạc, đói kém đã diễn ra suốt thế kỷ XIX cho đến khi Pháp xâm lược. Nhà Nguyễn bất lực nên phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Riêng Gia Long, sự cố gắng chấn hưng lại rõ ràng, cần phải có sự công bằng, không định kiến không bị ảnh hưởng thiên lệch mà đặt lại vấn đề Gia Long cho đúng sự thật ở nơi ông. |
” |
—Vũ Ngọc Khánh[276] |
- Vai trò với khu vực Nam Bộ, Việt Nam
- Sử gia Tạ Chí Đại Trường nhận xét những việc làm của Nguyễn Ánh ở miền Nam như sau: “…chính sách đồn điền nhằm vào việc khai phá đất đai làm ruộng bằng cách khiến moi người không dừng được, phải tham gia với sự đôn đốc, kiểm soát, trợ giúp của chính phủ. Đó là một chính sách nông nghiệp cưỡng ép, có từ xưa nhưng bây giờ lại được áp dụng trên một quy mô rộng lớn, khiến vùng Gia Định trở nên phồn thịnh, sản xuất dồi dào quyến rũ được đám dân nghèo đói Bình Thuận, Phú Yên.. bỏ xứ chạy vào làm tăng dân số, uy tín nội bộ cho Nguyễn Ánh, để dư gạo giúp Xiêm đói, giúp Thanh đánh Tây Sơn và cuối cùng để đủ binh lương cho quân lính dùng khi tràn ra phía Bắc đánh đám người kiệt hiệt đã làm ông khốn đốn khi xưa“[93].
- Đánh giá chung về thành quả khai khẩn mà Nguyễn Ánh đã làm ở miền Nam của Việt Nam, sử gia Trần Trọng Kim có nói “Cách Nguyễn Vương khai khẩn đất Gia Định thật là khôn khéo, khiến cho đất Nam Việt trước là