THẦY NGHỀ NÔNG CHIẾN SĨ Hoàng Kim quý mến tặng anh Trần Mạnh Báo
Bao nhiêu bạn cũ đã đi rồi
Nhớ để mà thương cố gắng thôi
Nhà khoa học xanh gương trung hiếu
Người thầy chiến sĩ đức hi sinh
Dưới đáy đại dương là ngọc quý
Trên đồng chữ nghĩa ấy tinh anh
Doanh nghiệp Thái Bình chăm việc thiện
Giống tốt bội thu vẹn nghĩa tình.
Con đường lúa gạo Việt Nam: Lúa siêu xanh Việt Nam kết nối CAAS IRRI .
Trong một tháng có 2 loại ngày tốt, ngày xấu; trong một ngày lại có 6 giờ tốt, 6 giờ xấu gọi chung là Ngày/giờ Hoàng đạo (tốt) và Ngày/giờ Hắc đạo (xấu). Người Việt Nam từ xưa đều có phong tục chọn ngày tốt và giờ tốt để làm những việc lớn như cưới hỏi, khởi công làm nhà, nhập trạch, ký kết, kinh doanh v.v.v.
Ngày 26 tháng 7, năm 2015 là ngày Hắc đạo , các giờ tốt trong ngày này là: Tân Sửu, Giáp Thìn, Bính Ngọ, đinh Mùi, Canh Tuất, Tân Hợi
Trong ngày này, các tuổi xung khắc nên cẩn thận trong chuyện đi lại, xuất hành, nói chuyện và làm các việc đại sự là: Kỷ Tỵ, Qúy Tỵ, Qúy Mùi, Qúy Sửu
Xuất hành hướng Đông Bắc gặp Hỷ thần: niềm vui, may mắn, thuận lợi. Xuất hành hướng Nam gặp Tài thần: tài lộc, tiền của, giao dịch thuận lợi.
Xem sao tốt và việc nên làm và nên kiêng
Trong Lịch vạn niên, có 12 trực được sắp xếp theo tuần hoàn phân bổ vào từng ngày. Mỗi trực có tính chất riêng, tốt/xấu tùy từng công việc. Ngày 26 tháng 7, năm 2015 là Trực Bình: Tốt cho các việc rời bếp, thượng lương, làm chuồng lục súc. Xấu cho các việc khai trương, xuất nhập tài vật, giá thú, động thở.
Mỗi ngày đều có nhiều sao Tốt (Cát tinh) và sao Xấu (Hung tinh). Các sao Đại cát (rất tốt cho mọi việc) như Thiên đức, Nguyệt đức, Thiên ân, Nguyệt ân. Có những sao Đại hung (rất xấu cho mọi việc) như Kiếp sát, Trùng tang, Thiên cương. Cũng có những sao xấu tùy mọi việc như Cô thần, Quả tú, Nguyệt hư, Không phòng, Xích khẩu… – xấu cho hôn thú, cưới hỏi, đám hỏi nói chung cần tránh. Hoặc ngày có Thiên hỏa, Nguyệt phá, Địa phá… xấu cho khởi công xây dựng, động thổ, sửa chữa nhà cửa nói chung cần tránh.
Khi tính làm việc đại sự, cần kiểm tra ngày Hoàng Đạo, Hắc Đạo. Xem công việc cụ thể nào, để tránh những sao xấu. Chọn các giờ Hoàng đạo để thực hiện (hoặc làm tượng trưng lấy giờ)
Maria (từ Latinh; tiếng Hebrew: מרים, Miriam), thường còn được gọi là Đức Mẹ hay bà Mary (xem thêm), là một phụ nữngười Do Thái[4] quê ở Nazareth, thuộc xứ Galilea, sống trong khoảng những năm cuối thế kỷ 1 TCN đến đầu thế kỷ 1 SCN. Theo Tân Ước[5] và kinh Qur’an bà là mẹ của Chúa Giêsu. Các Kitô hữu coi Giêsu con trai bà là “Đấng Kitô” (nghĩa là: Người được xức dầu) và “Chúa Con Nhập Thể” (xem thuyết: Ba Ngôi), trong khi người Hồi giáo coi ông là Đấng Messiah[6], là vị tiên tri quan trọng nhất của Thiên Chúa gửi đến cho dân tộc Israel và là tiên tri cao trọng thứ hai sau tiên tri Muhammad.
Trong Phúc âm Matthew và Phúc âm Luke, Maria được mô tả là một trinh nữ (tiếng Hy Lạp: παρθένος, parthénos[7]. Theo truyền thống, các tín đồ Kitô hữu tin rằng bà mang thai và sinh ra Giêsu là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Người Hồi giáo tin rằng bà được thụ thai theo lời phán của Thiên Chúa. Việc mang thai này xảy ra khi bà – lúc đó còn là một thiếu nữ khoảng 14 tuổi (theo Cựu ước) – đã đính hôn với Giuse, và ông bà đang trong thời gian chờ hoàn thiện nghi thức kết hôn theo tập tục của người Do Thái. Sau khi biết mình có thai, bà và Giuse cùng chuyển đến vùng Bethlehem, tại đây bà đã hạ sinh Giêsu.
Những lời đầu tiên mà kinh Tân Ước tường thuật về cuộc đời của bà Maria là “biến cố Truyền Tin”, theo đó, sứ thầnGabriel đã hiện ra với bà để báo tin rằng bà được Thiên Chúa chọn để làm mẹ của Giêsu. Sau này, Tân Ước có một đôi lần nhắc đến người mẹ Giêsu trong một vài sự kiện khác. Một số truyền thuyết trong các giáo hội Kitô giáo còn cho rằng chamẹ của Maria là Gioakim và Anna. Một số nguồn thông tin khác không thuộc quy điển Kinh Thánh có viết về sự qua đời và hồn xác lên trời của bà Maria.
Phúc âm Luca là nguồn đề cập đến Maria nhiều nhất (12 lần), tất cả đều tường thuật trong thời thơ ấu của Giêsu (chương 1:27,30,34,38,39,41,46,56; chương 2:5,16,19,34)[9][10].
Phúc âm Matthew đề cập đến bà Maria trong các chương 1:16 [11], chương 20[12], chương 2:11[13] đều trong thời kỳ thơ ấu của Giêsu. Chỉ duy nhất một lần trong chương 13:55 là lúc Giêsu đang đi giảng dạy[14].
Phúc âm Mark chỉ đền cập đến bà một lần [15] và một lần khác đề cập đến người mẹ của Chúa Giêsu mà không nêu tên bà [16].
Phúc âm John nói về bà hai lần, nhưng không bao giờ đề cập đến tên của bà mà thường mô tả như là mẹ của Chúa Giêsu. Lần đầu tại tiệc cưới ở Cana (chương 2:1-12)[17], lần thứ hai đề cập đến bà khi đứng gần thập giá Giêsu chịu tử nạn (chương 19:25-26)[18],.
Sách Công vụ Tông đồ tường thuật bà Maria và những người môn đệ của Chúa Giêsu hội họp tại căn phòng kín sau khi ông lên trời (chương 1:14).
Sách Khải Huyền chương 12:1 có đề cập “người phụ nữ mặc áo Mặt Trời” nhưng không hề liên hệ đến bà Maria. Tuy nhiên, các học giả Kinh Thánh liên hệ điều này và cho rằng đó chính là hình ảnh của Maria[19].
Trong Tân Ước
Gia đình và thời thơ ấu
Thiên thần hiện đến cùng bà Maria để báo tin bà được chọn, (L’ Annonciation) tranh của Philippe de Champaigne năm 1644
Tiểu sử về bà Maria được nói đến rất ít trong Tân Ước. Bà có họ hàng với bà Elizabeth (vợ của tư tếZachariah) thuộc dòng dõi Aaron (Luca chương 1:5, chương 1:36). Theo phỏng đoán thì Maria sống cùng với cha mẹ tại Nazareth, xứ Galilea khi đã đính hôn với Giuse (Joseph), thuộc dòng dõi nhà David. Một số học giả bảo thủ không tin rằng, Giuse là con cháu Vua David (vì nhiều suy đoán hợp với phong cách ngôn từ và việc giới thiệu gia phả trong Phúc Âm Matthew). Trong thời gian đã hứa hôn (là thời kì đầu theo phong tục Do Thái), Maria được thiên sứGabriel đến báo tin rằng cô sẽ trở thành mẹ Đấng Messiah theo ý định của Thiên Chúa. Giuse chưa nhận ra việc mang thai của Maria là do quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Thần nên tỏ ra hoài nghi và muốn rời bỏ Maria một cách kín đáo. Nhưng trong một giấc mơ, Giuse được thiên thần mách bảo đừng lo nghĩ mà hãy nhận Maria về làm vợ mình để hợp với lề luật Do Thái.
Khi được thiên thần báo tin về việc người chị họ Elizabeth mang thai lúc tuổi già, Maria vội vã đến thăm Elizabeth (Luca 1:39). Vừa đến nhà, Maria thiết tha gọi Elizabeth thì được Elizabeth đáp lời bằng câu: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” và họ đã đọc một bài Thánh caNgợi khen, được biết đến nhiều với cái tên Magnificat (Luca 1:46). Ba tháng sau, Maria quay trở về nhà mình. Theo Phúc âm Luca, một sắc lệnh của Hoàng đế La Mã Augustus quy định, Giuse phải cùng hôn thê mình về Bethlehem (gần Jerussalem) để đăng kí nhân khẩu. Khi họ đang ở Bethlehem, Maria đã sinh ra Giêsu và đặt đứa trẻ trong chiếc máng cỏ cho súc vật ăn vì họ không tìm được nhà trọ nghỉ chân. Sau tám ngày, con trẻ được cắt bì và được đặt tên là Giêsu, đúng như những gì Giuse được thiên thần chỉ dạy trong giấc mơ. Sau cuộc viếng thăm của ba nhà đạo sĩPhương Đông, gia đình họ phải lánh sang Ai Cập. Khi Herod Đại đế chết, họ mới quay trở về.
Năm 12 tuổi, trên đường từ Jerusalem trở về sau Lễ Vượt Qua, Maria và Giuse bị lạc mất Giêsu và họ tìm thấy Giêsu trong Đền thờ Jerusalem, đang trò chuyện cùng với các thầy tu ở đây. Sau khi Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả và bị ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, Maria lại được biết đến trong một tiệc cưới ở Cana, khi đó, Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên: biến nước lã thành rượu và bắt đầu công việc giảng đạo (Gioan 2:1-11). Trong Phúc âm Máccô 6:3, Maria còn được giới thiệu cùng với những người anh em của Giêsu: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông James, Joseph, Judas và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”.
Trong cái chết của Giêsu, Maria đứng cạnh người môn đệ Giêsu yêu quý, cùng với bà Maria vợ ông Clopas và bà Maria Magdalene (Gioan 19:25-26). Maria cũng là người đã ôm xác Giêsu sau khi hạ từ thập giá xuống, nhưng chi tiết này không được ghi chép trong Kinh Thánh, đó là một mô-típ nghệ thuật phổ biến gọi là “pietà” hoặc “piety” (nghĩa là Đức Mẹ Sầu Bi). Dựa theo Phúc âm Gioan thì nhiều Kitô hữu suy đoán rằng, sau khi Chúa Giêsu chịu chết thì bà Maria đã về nhà sống cùng Gioan – người môn đệ Chúa Giêsu yêu quý. Hai câu trong Tân Ước sau đây củng cố niềm tin này: “Khi thấy mẹ và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với mẹ rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Gioan 19:26-27)
Sau khi Giêsu lên trời
Trong Sách Công vụ Tông đồ chương 1:26, bà Maria được nhắc lại trong sự kiện cùng với mười một tông đồ khác tụ họp trong căn phòng kín sau khi họ từ núi Ôliu trở về. Trong cuộc tụ họp này, họ đã tuyển chọn Mátthia thay thế cho Judas Iscariot trong nhóm mười hai. Một số suy đoán cho rằng “người đàn bà được tuyển chọn” đề cập trong thư thứ hai của Gioan chương 1:1 có thể là bà Maria. Từ thời điểm này, bà không còn được đề cập trong Kinh Thánh nữa, mặc dù một số học giả Thánh Kinh Công giáo cho rằng, “Người Phụ nữ” (và con Mãng Xà) trong Sách Khải Huyền chương 12:1 ám chỉ bà Maria.
Cái chết của bà Maria không được ghi lại trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, truyền thống và giáo lý Công giáo lẫn Chính Thống giáo giả định rằng hồn và xác của bà đã được đem về thiên đàng. Niềm tin này phổ biến trong Giáo hội Công giáo cũng như Giáo hội Chính Thống giáo Đông phương và các giáo hội thuộc cộng đồng Anh giáo.
Văn bản và truyền thống Kitô giáo sau này
Phúc âm Giacôbê (không được xem là một bộ phận của Tân Ước) còn cung cấp những tư liệu sau đây về Maria, và được Chính thống giáo Đông phương coi là hợp lý: Maria là con gái của Gioakim (Joachim) và Anna (Anne). Trước khi có thai Maria, Anna được coi là hiếm muộn. Khi Maria ba tuổi, họ đưa Maria đến sống trong Đền Thờ Jerussalem, điều này trùng hợp với sự kiện Hana đưa Samuel vào Lều Thánh được ghi trong Cựu Ước.
Thánh Truyền của Công giáo Rôma và Chính thống giáo Đông phương tin rằng, trong khoảng 13 đến 15 năm sau khi Chúa Giêsu lên trời thì Maria qua đời (có thể tại Jerussalem hoặc Êphêsô) trong sự chứng kiến của các Tông đồ. Sau đó không lâu, các Tông đồ mở hầm mộ Maria ra thì bên trong chẳng còn gì, và họ xác quyết rằng Maria đã được mang về Thiên Đàng cả hồn lẫn xác.
Lòng sùng kính bà Maria trong Kitô giáo được bắt đầu từ thế kỷ thứ 2. Đến thế kỷ thứ 5, sau Công đồng Êphêsô I năm 431, việc sùng kính bà Maria được quy định cụ thể trong phụng vụ. Công đồng được tổ chức tại giáo hội ở Ephesus, là nơi được để hiến dâng cho Maria cả trăm năm về trước.[20][21][22] Tại Ai Cập, việc sùng kính bà Maria bắt đầu vào thế kỷ thứ 3, thuật ngữ Theotokos (Thánh Mẫu) được các giáo hội đã được sử dụng bởi Origen thành Alexandrian.[23]
Vào thời Trung Cổ thì xuất hiện nhiều truyền thuyết về Maria bao gồm những truyền thuyết về bố và ông của bà.[29]
Từ khi cải cách
Kể từ sau Cải cách Kháng Cách, việc sùng kính và tôn kính bà Maria đã có sự khác biệt theo từng giáo phái Kitô giáo. Ví dụ như các tín đồ Tin Lành thì việc sùng kính Maria rất ít nhưng đối với Chính Thống giáo Đông phương thì Maria được coi là nhân vật được tôn kính nhất, thậm chí còn được coi trọng hơn cả Cherubim và Seraphim.[30]
Nhà thần học Chính Thống giáo Sergei Bulgakov có viết: “Tình yêu và sự tôn kính của Đức Mẹ Maria đồng trinh thiêng liêng là linh hồn của đạo giáo Chính Thống Đông phương. Một đức tin trong đó chứa Giê-su phủ nhận mẹ của người là một đức tin khác, đều này có nghĩa là Maria và đức tin Chính Thống giáo Đông phương là một.”[31]
Tuy công giáo Rôma và Chính Thống giáo tôn sùng và tôn kính Maria nhưng họ không coi Maria là thần thánh và cũng không có thờ lạy bà. Công giáo Rôma coi Maria ở dưới quyền chúa Giê-su nhưng bà lại hơn mọi sự khác.[32] Cùng quan điểm, thần học Sergei Bulgakov viết tuy cách nhìn Chính Thống giáo về Maria là vượt hơn mọi sự vật và không ngừng cầu nguyện với chúa qua bà là trung gian nhưng bà không thể thay thế đáng toàn năng là chúa Giê-su.[31] Ông còn viết: “Hãy tôn sùng Maria nhưng chỉ thờ lạy mỗi mình Chúa”.[33] Công giáo Rôma dùng từ hyperdulia để chỉ sự tôn kính cho Maria thay vì chữ latria, chỉ dành cho Đức Chúa trời và chữ dulia cho các Thánh.[34] Các định nghĩa của ba thứ bậc latria, hyperdulia và dulia được phát nguồn từ hội đồng thứ hai của Nicaea vào năm 787.[35]
Sự tận tình đối với nghệ thuật chân dung của Maria khác biệt đối với các nhóm đạo Chúa khác nhau. Từ xưa đến này giáo hội Rôma đã có truyền thống vẽ chân dung của Maria, có lẽ bức họa nổi bật nhất của nghệ thuật Công giáo là bức Madonna.[36] Biểu tượng của Đức Mẹ đồng trinh trở thành biểu tưởng được tôn sùng nhất trong Chính Thống giáo.[37] Giáo hội Rôma và Chính Thống giáo cả hai đều tôn sùng hình ảnh và biểu tưởng của Maria, vì hội đồng của Nicaea năm 787 cho phép sự tôn sùng vì họ tin rằng khi tôn sùng hình ảnh của ai thì thật ra đang tôn sùng người đó[38] và vào năm 842 Synod của Constantinople ra luật tương tự đối với Chính Thống giáo.[39] Tuy nhiên, Chính thống giáo sẽ thờ lạy và tôn sùng những biểu tượng về Maria hai chiều (như chân dung) chứ không tôn sùng hình ảnh ba chiều của Maria (như tượng).[40]
Cách nhìn của Anh giáo thì nói chung trung dung hơn so với cách nhìn của các nhánh Tin Lành khác. Trong một quyển sách, nói về sự cầu nguyện với hình ảnh Maria, do Rowan Williams, tổng giám mục của Canterbury, viết: “Chúng ta không thể hiểu được Maria nếu không thấy bà hướng đến chúa Ki-tô; hơn nữa, chúng ta cũng không thể hiểu được chúa Ki-tô nếu không thấy sự chú ý của ngài dành cho bà.”[41][42]
Hầu như Công giáo và Chính Thống giáo đều dành cho bà Maria những danh hiệu tôn kính đặc biệt. Các danh hiệu phổ biến nhất của bà Maria là: Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, Maria, Đức Bà và Nữ Vương Thiên Đàng. Các giáo phái Tin Lành và Hồi giáo không nhìn nhận các danh hiệu này, họ chỉ gọi đơn giản là bà Mary, mẹ Giêsu. Công đồng Êphêsô I (năm 413) tuyên bố rằng: “không có gì ngại ngùng khi phải nói rằng, Đức Trinh nữ là Mẹ Thiên Chúa”, để nhấn mạnh đặc tính: con của Maria là Chúa Giêsu Kitô, thực tế cũng là Thiên Chúa[43].
Danh hiệu “Thánh Mẫu” được sử dụng vào buổi đầu Kitô giáo, vì Maria là mẹ của Chúa Giêsu – người đôi khi được gọi là “Vua muôn vua” do Giêsu thuộc dòng dõi vua David. Sự suy phục này lấy cơ sở từ Kinh ThánhCựu Ước. Theo Sách Các Vua quyển I 2:19-20, mẹ vua Solomon là bà Bathsheba, được vua rất yêu mến và vinh danh. Và bà Maria được suy phục như thế[44].
Maria đôi khi cũng được gọi là Eva mới , làm nổi bật sự vâng phục của bà với Thiên Chúa (tương phản với sự bất tuân của Eva khi xưa)[45]. Trong nghệ thuật tạo hình, bà Maria cũng có một số danh hiệu như: Đức Mẹ Sầu Bi, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Nữ Vương Hòa Bình…
Tước hiệu Mẹ Giáo hội: Công đồng Vatican II dành chương cuối cùng (Chương 8) trong hiến chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân) để nói về Ðức Maria, đây là hiến chế nói về Giáo hội [46].
Tước hiệu Maria, Mẹ Thiên Chúa (trích từ lời của bà Élisabét nói với Maria[47] Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa vào thế kỷ thứ 5 đã gặp khó khăn khi giáo chủ Nestôriô chống đối. Công đồng Êphêsô với quyền chủ toạ của Giáo hoàng Ađrianô II, tuyên bố cắt chức giáo chủ Nestôriô và đánh đổ lạc thuyết của Ông. Công đồng Êphêsô đã tuyên xưng: ” Maria là Mẹ Thiên Chúa, bởi vì Người cũng đã thực sự sinh ra Đấng-Thiên-Chúa-làm người” [48].
Tước hiệu Ðức Mẹ Maria “được gìn giữ khỏi nguyên tội” (Immaculata)hay còn gọi là “Đức Maria vô nhiễm nguyên tội”: Tước hiệu này đã gây ra những cuộc tranh cãi kịch liệt vào thời trung cổ giữa các nhà thần học, cuối cùng Giáo hoàng Piô IX đã công bố thành tín điều vào năm 1854[49].
Tước hiệu Đức Mẹ Laus (tiếng Việt (tạm dịch): Đức Mẹ Hồ Lụa). Đây là một trong số nhiều tước hiệu mà người Công giáo dành cho Maria. Tước hiệu này xuất phát từ việc Đức Mẹ được cho là đã hiện ra từ năm 1664 đến 1718 ở Saint-Étienne-le-Laus, Pháp với sự chứng kiến của Benoite Rencurel – một mục đồng nhỏ tuổi. Cuộc hiện ra đã được công nhận ở cấp giáo phận vào ngày 18 tháng 9 năm 1665 và được Tòa Thánh chính thức công nhận vào ngày 5 tháng 5, 2008[50][51].
Tước hiệu Đức Mẹ La Salette (tiếng Pháp: Notre-Dame de La Salette), đây cũng là một trong những tước hiệu mà người Công giáo dùng để gọi Đức Mẹ Maria. Tước hiệu này bắt nguồn từ các cuộc hiện ra của Đức Mẹ được cho là đã xảy ra tại La Salette, Pháp với hai trẻ em là Maximin Giraud và Melanie Calvat.[52]
Tước hiệu Đức Mẹ Guadalupe (Tiếng Tây Ban Nha: Nuestra Señora de Guadalupe) còn được biết với tên gọi Đức Trinh Nữ Guadalupe (Tiếng Tây Ban Nha: Virgen de Guadalupe) là một tước hiệu mà Giáo hội Công giáo Rôma dành cho Maria. Hai tài liệu, được xuất bản trong thập niên 1640, một bằng tiếng Tây Ban Nha, một bằng tiếng Nahuatl (ngôn ngữ của người dân Aztec), cùng thuật lại một câu chuyện xảy ra trong khi đi bộ từ ngôi làng của mình đến thành phố Mexico vào sáng sớm ngày 9 tháng 12 năm 1531 (Ngày hôm sau là Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Đế quốc Tây Ban Nha)[53], nông dân Juan Diego thấy trên sườn đồi Tepeyac một cô gái chừng mười lăm mười sáu tuổi, được bao quanh bởi hào quang ánh sáng. Nói chuyện với anh ta bằng ngôn ngữ địa phương Nahuatl, Bà đã yêu cầu Juan Diego đi nói với giám mục xây dựng một nhà thờ ngay tại nơi đó. Từ những lời nói của bà, Juan Diego nhận ra đó chính là Maria. Diego đã kể lại câu chuyện của mình với Tổng Giám mục người Tây Ban Nha, Fray Juan de Zumárraga, người đã yêu cầu ông quay trở lại đồi Tepeyac để nói với người phụ nữ lạ là hãy cho một dấu hiệu để chứng minh. Dấu hiệu đầu tiên mà bà tỏ ra là việc chữa lành bệnh tật cho người chú của Juan. Đức Trinh Nữ nói với Juan Diego hãy leo lên đồi Tepeyac và hái những bông hồng. Mặc dù lúc đó đang là tháng mười hai đã rất muộn so với mùa hoa nở nhưng Juan Diego đã tìm thấy những bông hoa hồng Castilian trên đỉnh đồi cằn cỗi, không có nguồn gốc từ Mexico. Đức Trinh Nữ yêu cầu ông sắp xếp những bông hồng vào trong chiếc áo choàng tilma dệt bằng sợi xương rồng của mình. Điều kỳ lạ xảy ra khi Juan Diego mở áo choàng trước khi sự chứng kiến của giám mục Zumárraga vào ngày 12 tháng 12, những bông hoa rơi xuống sàn nhà nhưng ở vị trí đó lại xuất hiện hình ảnh của Đức Trinh Nữ Guadalupe một cách kỳ diệu được in trên vải[54].
Tước hiệu Đức Mẹ Akita là một tước hiệu của Đức Maria. Tước hiệu này bắt nguồn từ báo cáo về các cuộc hiện ra của Đức Mẹ vào năm 1973 bởi chị Agnes Katsuko Sasagawa ở Yuzawadai, gần thành phố Akita, Nhật Bản. Các thông điệp nhấn mạnh đến việc cầu nguyện và sám hối. Sasagawa nói rằng Maria nói: “Hãy cầu nguyện rất nhiều bằng lời cầu nguyện của Kinh Mân Côi, Chỉ một mình Mẹ có thể cứu con khỏi thiên tai sắp tới. Những người đặt niềm tin nơi Mẹ sẽ được cứu”[55][56][57].
Theo thời gian, Kitô giáo xuất hiện nhiều ngày lễ gắn liền với sự kiện hoặc danh hiệu bà Maria cùng những việc thực hành tôn giáo kèm theo. Nhìnn chung, Giáo hội Công giáo Rôma có nhiều ngày lễ và nghi thức liên quan đến bà Maria hơn các nhánh Kitô giáo khác. Đặc biệt, một số ngày lễ có liên quan đến các sự kiện lịch sử cụ thể, ví dụ như Lễ Đức Mẹ Chiến Thắng được dựa trên sự thắng lợi của Nhà nước Giáo hoàng trong trận Lepanto năm 1571.
Sự khác biệt trong những ngày lễ về bà Maria cũng có thể bắt nguồn từ các vấn đề tín lý. Chẳng hạn, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một ví dụ như vậy. Trong khi Công giáo cử hành lễ này trong ngày giả định là 15 tháng 8 thì một số nhánh Kitô giáo Đông phương cử hành ngày 28 tháng 8 (vì theo lịch Julian). Các giáo hội Tin Lành thì hầu như không hề có một ngày lễ nào về bà Maria.
Giáo lý Kitô giáo liên quan
Theo học thuyết giáo lý Kitô giáo, Maria vẫn còn là một trinh nữ ít nhất là cho đến khi Chúa Giêsu được sinh ra (Mátthêu 1:25 và Luca 1:34-35). Hầu hết các giáo phái Tin Lành không tin Maria vẫn còn đồng trinh sau khi sinh của Chúa Giêsu vì sau đó bà còn sinh ra những người khác. Nhưng Công giáo Rôma, Chính thống phương Đông và một bộ phận Anh giáo vẫn tin Maria đồng trinh suốt phần còn lại của mình vì bà chỉ sinh duy nhất Chúa Giêsu mà thôi[58][59].
Các giáo hội Kitô giáo dạy nhiều học thuyết khác nhau liên quan đến Maria, và bà là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận. Có cả một bộ phận thần học Kitô giáo liên quan đến Maria được gọi là Mariology (Thánh Mẫu học). Những quan niệm cơ bản là việc mang thai Giêsu của bà được tin là do quyền năng Chúa Thánh Thần, và để ứng nghiệm lời tiên tri Isaiah rằng: “Một trinh nữ sẽ sinh một con trai và được gọi là Emmanuel” (“Thiên Chúa ở cùng chúng ta”).
Công giáo Rôma, Anh giáo và Chính Thống giáo tôn kính với tước hiệu bà là “Mẹ Thiên Chúa” (Theotokos), người được Thiên Chúa ban ân sủng đặc biệt. Công giáo tin rằng, bà đã được sinh ra mà không có tội nguyên tổ, không có tội khi đang sống, cuộc sống ở trần gian là được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn, khi hoàn tất thì cả hồn và xác được vào Thiên Đàng. Một số giáo phái Tin Lành bảo thủ không đề cập đến Maria trong học thuyết của họ. Maria cũng giữ một vị trí đáng tôn kính trong đạo Hồi.
Trong Giáo hội Công giáo Rôma, bà Maria được tôn vinh là “Đầy Ơn Phúc” (từ tiếng Latinh: beatus) nhằm công nhận rằng bà được lên thiên đàng ngự gần Thiên Chúa và có khả năng can thiệp, cầu thay nguyện giúp cho những người cầu nguyện với bà. Nhưng Giáo lý Công giáo minh định rõ ràng rằng bà Maria không được coi là có quyền phép như Thiên Chúa và lời cầu nguyện của loài người không phải bà đáp ứng nhưng là do Thiên Chúa đáp ứng. Bốn tín điều quan trọng của Công giáo về bà Maria: Mẹ Thiên Chúa, đồng trinh trọn đời, vô nhiễm nguyên tội, hồn xác lên trời.
Maria có một vai trò trung tâm trong giáo lý, niềm tin và thực hành tôn giáo của Công giáo Rôma hơn trong bất kỳ nhóm Kitô giáo khác. Trong nhiều thế kỷ, người Công giáo đã thực hiện các hành vi tận hiến và uỷ thác cá nhân, tổ chức của họ cho bà Maria vì họ tin rằng bà sẽ hướng dẫn trong sự hoạt động của họ. Những thực hành tôn giáo chủ yếu của họ liên quan đến bà Maria là: đọc Kinh Mân Côi, đeo Áo Đức Bà và hành hươg đến các linh địa Maria. Đặc biệt, Tháng Năm và Tháng Mười là truyền thống mà các tín đồ Công giáo đẩy mạnh sự tôn kính bà Maria. Nhiều vị giáo hoàng đã ban hành các thông điệp khuyến khích lòng sùng mộ và tôn kính Maria.
Truyền thống Công giáo cũng cho rằng bà Maria có công trạng trong công trình cứu rỗi của Chúa Giêsu (đồng công cứu chuộc) nhưng không định quan điểm đó là một học thuyết.
Đức Mẹ Vladimir, một trong những bức họa linh thiêng nhất về Theotokos (Theotokos là tiếng Hy Lạp có nghĩa là Đức Mẹ).
Chính thống giáo Đông phương gồm có một số lượng truyền thống lớn về Đức Mẹ, Theotokos.[60] Chính Thống giáo tin rằng bà đã và vẫn là trinh nữ trước và sau khi chúa Giê-su sinh ra.[30] Cái tên Theotokia (hay còn gọi là thánh ca Maria) là một phần thiết yếu của tĩnh tâm trong Chính Thống giáo và sự tôn sùng của họ đã làm cho Theotoko trở thành nhân vật quan trọng nhất chỉ sau chúa Giê-su.[61] Trong truyền thống Chính Thống giáo, các cấp bậc của các thánh bắt đầu từ trên xuống thấp như sau: Theotoko, thiên thần, tiên tri, tông đồ, các Cha, Thánh tử đạo… Đức Mẹ được xếp bậc cao hơn cả thiên thần. Đức Mẹ còn được tôn vinh làm “Đức Mẹ của các thiên thần.”[61]
Quan điểm của Giám mục giáo hội vẫn giữ một vai trò quan trọng trong quá trình hình thành cách nhìn về Maria của Chính Thống giáo. Tuy nhiên, quan điểm Chính Thống giáo về Đức Mẹ là từ các bài thánh ca ngắn (tiếng Anh” Doxology”) thay vì có tính chất học thuật: những quan điểm của họ được trình bày qua những bài thánh ca, ca tụng, thơ tế lễ và sự tôn sùng của các biểu tượng. Một trong những bài thánh ca được nhiều người yêu thích nhất là Akathist, nó được hiến dâng tới Maria và nó nhiều khi còn được gọi là Bài thánh ca Akathist.[62] Năm trong mười hai đại lễ của Chính Thống giáo dùng để ăn mừng tôn sùng Maria.[30] Ngày lễ Chính Thống giáo trực tiếp liên kết danh tính Đức Mẹ như Đức Mẹ của đức Chúa trời còn với biểu tượng tôn sùng.[63] Các lễ Chính Thống giáo khác cũng có liên kết với những mầu nhiệm của biểu tượng của Theotoko.[61]
Tin Lành
Cộng đồng Tin lành tin có sự hoài thai Chúa Giêsu một cách mầu nhiệm của bà Maria, nhưng cho rằng bà Maria chỉ đồng trinh cho đến khi sinh Giêsu, sau đó không còn đồng trinh nữa. Thậm chí một số phái Tin lành cho rằng Kinh Thánh nói bà Maria sau khi sinh Giêsu còn sinh cho ông Giuse một số người con một cách bình thường như các phụ nữ khác. Họ đã trích dẫn những câu Kinh Thánh nói về việc bà Maria có con thêm với ông Giuse, như trong Phúc âm Mátthêu (13:55-56) có nói: “… Anh em Ngài (Chúa Giêsu) có phải là Giacô, Giosep, Simson, Giuđa ?” [64], hoặc sách Giăng (2:12) còn nói rõ hơn: “Sau việc đó, anh em và môn đệ Ngài (Chúa Giêsu) đều xuống thành Ca-bê-na-um” [65]. Do vậy, Tin Lành chỉ dành sự quan tâm bà Maria về vị trí là mẹ trần thế của Giêsu chứ không tôn sùng bà Maria như Công giáo. Bà Maria chỉ có công sinh và nuôi dạy Chúa Giêsu, chứ không phải là mẹ thần tính của Thiên Chúa[66].
Maria cũng được ghi nhận như là một phụ nữ có vị trí đặc biệt và vinh dự trong Hồi giáo. Có thể nói rằng, Maria được đề cập trong Kinh Qur’an nhiều hơn trong Tân Ước. Tên bà được nhắc đến 34 lần trong Chương III của Kinh Qur’an, hơn cả số lần trong Kinh thánh[6][67]. Có cả một chương “Mẹ Maria” (Mariam) được các tín đồ Hồi giáo diễn tả là chương hay nhất trong toàn bộ kinh Qur’an. Maria là phụ nữ duy nhất được nêu đích danh trong Kinh Qur’an.[67] Chương III trong kinh Qur’an là chương Imran, theo tên của Cha bà Maria. Đây là chương duy nhất có nói đến thân phận của một người phụ nữ ở kinh Qur’an [68]. Trong Hồi giáo, bà xuất hiện với địa vị là mẹ của “tiên tri Giêsu”[6]. Kinh Qur’an nói về việc Maria dâng mình trong Đền thờ Giêrusalem, về lễ tẩy trần, về cuộc truyền tin, về sự trinh thai và về việc sinh Giêsu. Maria được Hồi giáo nhận biết và tôn kính là người được thánh hóa và cao trọng nhất trong các phụ nữ, và là sự hoàn hảo tâm linh: “Các thiên thần nói: Maria! Thiên Chúa đã chọn bà và thanh tẩy bà – chọn bà hơn hẳn các phụ nữ ở mọi quốc gia“[69] và “Maria! Xin thờ lạy Thiên Chúa: Xin phủ phục, và quỳ gối (khi cầu nguyện) với những người cùng quỳ gối” [70].
Điều ngạc nhiên đối với nhiều người Công giáo là Hồi giáo chấp nhận “sự đồng trinh trọn đời” của Maria, gián tiếp có nghĩa là Vô nhiễm Nguyên tội – hai tín điều chính về Maria của Công giáo. Trong kinh Qur’an, bà Maria được nhận biết là thụ tạo duy nhất không mắc Tội Tổ Tông từ trước khi làm người, được giữ thoát khỏi mọi tội suốt cả đời. Trong lời cầu nguyện của Maria trong kinh Qur’an: “Lạy Chúa, con dấn chac vụ Ngài từ trong lòng con. Xin Ngài thương nhận. Chỉ mình Ngài lắng nghe và thấu suốt mọi sự“[71]. Và khi Maria sinh Chúa Con, Maria nói: “Lạy Chúa, con được gọi là mẹ của Người. Xin bảo vệ con và con cháu khỏi Satan… và xin Con Chúa chấp nhận con” [72].
Ở phần khác, kinh Qur’an viết: “Thiên thần nói: Hỡi Cô Maria, Allah đã chọn Cô và thanh tẩy Cô. Ngài đã chọn Cô hơn hẳn các phụ nữ khác. Hỡi Cô Maria, hãy tận hiến cho Thiên Chúa“[69][70].
Kinh Qur’an nói về sự đồng trinh của Maria: “Đối với các tín hữu, Thiên Chúa thiết lập một tấm gương“[73] và “Maria… người đã giữ mình đồng trinh và nơi cung lòng ấy, chúng ta hít thở Chúa Thánh Thần; Đấng đã làm Mẹ tin Lời Chúa và Kinh thánh, đồng thời rất đạo hạnh” [6][74].
Một số niềm tin tương đồng và dị biệt về Maria giữa Công giáo và Hồi giáo.
Công giáo
Hồi giáo
Là mẹ Thiên Chúa: Vì tin rằng Giêsu vừa là Thiên Chúa, vừa là con người, nên mẹ của Người cũng là mẹ của Chúa
Mẹ của tiên tri Giêsu: Vì không tin Giêsu là Thiên Chúa làm người, mà chỉ là một nhà tiên tri mà thôi
Trọn đời đồng trinh: Giuse là hôn phu, nhưng Mary vẫn đồng trinh trọn đời
Trọn đời đồng trinh: Sau khi sinh hạ tiên tri Giesu sống suốt đời đồng trinh
Người nữ được nhiều ơn phúc nhất vì cưu mang Giêsu
Người nữ được nhiều ơn phúc nhất vì cưu mang Giêsu
Là người nữ Cao trọng nhất trên thiên đàng
Cao trọng nhất trên thiên đàng
Cả hồn và xác đều được lên trời
Chết và được chôn như người bình thường
Vô nhiễm nguyên tội
Không tin vào nguyên tội, vì thế không có khái niệm Vô nhiễm nguyên tội
“Đức Mẹ Sầu Bi” (The Madonna in Sorrow), tranh của Sassoferrato, thế kỷ 17
Hình ảnh xưa nhất về Maria mà ngày nay vẫn còn chính là bức tranh ở trong khu mộ của Priscilla, đường Salaria (Rôma). Bức bích họa này đã có từ đầu thế kỷ thứ 2 hoặc từ cuối thế kỷ thứ nhất, trình bày Đức Maria ngồi ẵm trẻ Giêsu, bên cạnh ngài có ai đó như một vị ngôn sứ, một tay cầm cuốn sách, một tay chỉ vào ngôi sao trên đầu Đức Maria.
Ba bức tranh khác cũng vẽ Đức Maria nằm trong cùng khu mộ Priscilla có niên đại khoảng từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 3: một bức ở trên mộ của một trinh nữ Kitô giáo vẽ Đức Maria ẵm Chúa Hài đồng. Bức hình này trình bày Đức Maria như tiêu biểu và khuôn mẫu của sự đồng trinh. Một bức khác vẽ hoạt cảnh các đạo sĩ đến viếng thăm Bêlem; bức còn lại nằm trong số các tranh Truyền tin ít được biết đến hơn. Các hình ảnh tương tự khác có niên đại từ trước thế kỷ thứ 5 xuất hiện ở trong khu mộ Domitilla, Callistô, mộ của ba thánh Phêrô, Marcellô và thánh Anrê. Trong đó có bức có hình các mẫu tự của chữ Kitô chồng lên nhau ở cả hai mặt của bức tranh; những chữ đó được vẽ quay về phía Chúa hài đồng.
Tranh vẽ và tượng Đức Maria thời kỳ đầu tiên của Kitô giáo thường mô tả quan hệ của Đức Maria với Chúa Giêsu trong tư cách là một trinh nữ và là mẹ của người. Những quan hệ ấy thường được nói đến trong tin mừng qua nhiều hoạt cảnh từ hoạt cảnh truyền tin đến hoạt cảnh Đức Kitô bị đóng đinh hay được mai táng. Việc công đồng Êphêsô (431) định tín Đức Maria là Mẹ thiên chúa chống lại Nestoriô đã dẫn đến một hình ảnh mới của Đức Maria trong nghệ thuật. Ban đầu nó xuất hiện ở Đông phương sau đó lan sang Ý, Tây Ban Nha và xứ Gaul. Thay vì được trình bày theo những hoạt cảnh được mô tả trong tin mừng, Đức Maria thường được miêu tả như nữ hoàng thiên quốc, cao sang trong y phục dát vàng ngồi uy nghi trên ngai.
Maria trong nghệ thuật Byzantin được nghệ thuật Rôma tiếp thu nhưng thay vì vẽ Đức Maria trong tư thế cầu nguyện với hai tay giơ lên cao, các họa sĩ và điêu khắc gia Tây Phương thường hay trình bày Đức Maria như “Tòa đấng khôn ngoan”. Đây không phải là cách diễn tả những tín lý mới về Đức Maria. Các nghệ sỹ Tây phương đã bỏ những đường nét Á châu lạnh lùng để trình bày hình ảnh Đức Maria một cách dịu dàng hơn, có tính con người hơn.
Trong kiến trúc Gothich, người ta thường trình bày Đức Maria là “Mẹ Đấng Cứu Chuộc” cho thấy lòng thương xót của Chúa cứu thế cũng như của mẹ Người, đấng đồng công cứu chuộc. Lối nghệ thuật ấy tương ứng với thời đại đức tin, khi mà Hội thánh chăm lo canh tân đời sống và kỷ luật trong nội bộ. Đến thời kỳ Phục Hưng, chủ đề “Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng” được khai thác đặc biệt nhờ những tên tuổi lớn như Fra Angelico, Leonardo da Vinci, Raphael, Lippi, Botticelli, Correggio, Dolci, Perugino, Titian và Verrocchio ở Ý; Van Eyck, Memling và Rubens ở Flanders; hay như Holbein Trẻ và Durer ở Đức. Trong nghệ thuật Barốc, chủ đề tiêu biểu là Đức Maria “người chiến thắng Xatan”. Còn trong thời hiện đại, chủ đề về Maria được khai thác chủ yếu là “đấng trung gian ân sủng”, chủ đề ấy các được ưa chuộc khi người ta liên kết Đức trinh nữ với những mạc khải đã được Hội thánh công nhận ở La Salette, Lộ Đức và Fatima.
Hình ảnh Maria trong văn chương
Maria đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả trong nền văn chương thế giời, kể cả ở các nước phương Đông và Hồi giáo. Chaucer đã viết rất nhiều vần thơ ca ngợi Đức Maria. Trong toàn bộ tác phẩm của ông (gồm 29 tiểu phẩm có tựa đề “Troilus and Cressida” và 23 câu chuyện thành Canterbury) có đến 500 vần thơ đề cập đến Đức Maria. Gần 1 nửa số đó nằm trong tác phẩm “The prioress’s Tale” (Câu chuyện về Nữ tu viện trưởng). Bài thơ “A.B.C” được viết vào khoảng năm 1936 được viết theo kiểu mỗi khổ thơ bắt đầu bằng một mẫu tự trong bảng chữ cái, trình bày những đức tính của Đức Maria.
Ngoài ra trong số các thi sĩ người Anh viết về Đức Maria còn có Richard Crashaw, Francis Thompson, Coventry Patmore và Gerald Manley Hopkins. Các nhà nghiên cứu có John Henry Newman, G.K. Chesterton và Hilaire Belloc đều dành nhiều trang viết về Đức Maria. Nhiều bài thơ đã được phổ thành nhạc như bài “Gloriosa Domina” (Bà chúa vinh quang). Dù thuộc quốc gia nào nhưng các tác giả cũng đều cho thấy niềm tin vào Đức Maria đã ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống và văn chương Tây phương.
Ở Việt Nam, Hàn Mạc Tử có bài thơ Ave Maria ca ngợi Đức Maria là Đấng tinh tuyền thánh vẹn, nhiều phép lạ và đầy ơn phước [75].
^Ruiz, Jean-Pierre. “Between the Crèche and the Cross: Another Look at the Mother of Jesus in the New Testament.” New Theology Review; Aug2010, Vol. 23 Issue 3, pp3-4
^Ronald Brownrigg, Canon Brrownrigg Who’s Who in the New Testament 2001 ISBN 0-415-26036-1 page T-62
^Mary in the New Testament, Raymond Edward Brown, Joseph A. Fitzmyer, Karl Paul Donfried, A Collaborative statement by Protestant, Anglican and Roman Catholic scholars, (NJ 1978), page 140
^The Gospel according to Luke by Michael Patella 2005 ISBN 0-8146-2862-1 page 14
^ aăâbTrầm Thiên Thu, dịch tổng hợp (4 tháng 7 năm 2012). “Đức Maria trong các tôn giáo khác”. Giáo phận Đà Lạt- Thánh mẫu học. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2013.
^from which the New Testament ostensibly quotes, as Almah young maiden. See article on parthénos in Bauer/(Arndt)/Gingrich/Danker, “A Greek-English Lexicon of the New Testament and Other Early Christian Literature”, Second Edition, University of Chicago Press, 1979, p. 627.
^Osborne, John L. “Early Medieval Painting in San Clemente, Rome: The Madonna and Child in the Niche” Gesta 20.2 (1981:299–310) and (note 9) referencing T. Klauser, Rom under der Kult des Gottesmutter Maria, Jahrbuch für der Antike und Christentum 15 (1972:120–135).
^Toronto Star article – In December 2010, Catherine Lawless of the University of Limerick stated that by analyzing 15th-century Florentine manuscripts, she had concluded that Ismeria was the maternal grandmother of Mary. Toronto Star Dec 2010Discovery News
^ aăâEastern Orthodoxy through Western eyes by Donald Fairbairn 2002 ISBN 0-664-22497-0 page 99-101
^ aăThe Orthodox Church by Serge? Nikolaevich Bulgakov 1997 ISBN 0-88141-051-9 page 116
^Miravalle, Mark. Introduction to Mary’’. 1993 Queenship Publishing ISBN 978-1-882972-06-7 pages 92–93
Bức tranh The First Thanksgiving at Plymouth (Lễ Tạ ơn đầu tiên tại Plymouth) của Jennie A. Brownscombe năm 1914
Lễ Tạ ơn (tiếng Anh: Thanksgiving) là một ngày lễ hàng năm được tổ chức chủ yếu tại Hoa Kỳ và Canada. Có ý nghĩa lúc đầu là mừng thu hoạch được mùa và tạ ơn Thiên Chúa đã cho sống no đủ và an lành. Đây cũng là ngày nghỉ lễ chính thức, cho tất cả người lao động theo luật định tại Mỹ và Canada.
Ngày và nơi diễn ra lễ Tạ ơn đầu tiên là chủ đề của một cuộc tranh cãi nhỏ. Mặc dù lễ Tạ ơn sớm nhất đã được kiểm chứng diễn ra vào ngày 8 tháng 9 năm 1565 tại khu vực ngày nay là Saint Augustine, Florida,[1][2] nhưng “lễ Tạ ơn đầu tiên” theo truyền thống được coi là đã diễn ra tại khu vực thuộc thuộc địa Plymouth vào năm 1621.
Ngày nay, tại Hoa Kỳ, lễ Tạ ơn được tổ chức vào ngày thứ Năm lần thứ tư của tháng 11 vì thế ngày này có thể không phải là ngày thứ năm cuối cùng của tháng 11 như nhiều người lầm tưởng (thí dụ năm 2012 có đến 5 ngày thứ năm). Tại Canada, nơi có cuộc thu hoạch sớm hơn, ngày lễ này được tổ chức vào ngày thứ Hai lần thứ hai của tháng 10.
Trong truyền thống Anh, ngày tạ ơn và nghi lễ tôn giáo tạ ơn đặc biệt trở nên quan trọng trong quá trình Cải cách Kháng Cách tại Anh trong thời kỳ trị vì của vua Henry VIII.
Tại Bắc Mỹ, lễ hội này đầu tiên được tổ chức tại Newfoundland bởi Martin Frobisher và nhóm Thám hiểm Frobisher năm 1578, để mừng tạ ơn Chúa đã cho sống sót, qua cuộc hành trình dài và nhiều bão tố từ Anh.[3] Một lễ hội khác được tổ chức vào ngày 4 tháng 12 năm 1619 khi 38 người khai hoang từ giáo khu Berkeley xuống thuyền tại Virginia và tạ ơn Thượng đế.[4][5]
Tuy nhiên trước đó, cũng có thông tin về một buổi tiệc Tạ ơn tổ chức bởi Francisco Vásquez de Coronado (cùng với nhóm người da đỏ Teya) ngày 23 tháng 5 năm 1541 tại Texas, để ăn mừng việc họ tìm ra lương thực. Một số người cho rằng đây là cuộc tổ chức Tạ ơn thật sự đầu tiên tại Bắc Mỹ. Một sự kiện tương tự xảy ra một phần tư thế kỷ sau, vào ngày 8 tháng 9 năm 1565 tại St. Augustine, Florida khi Pedro Menéndez de Avilés gặp đất liền; ông và những người trên thuyền đã tổ chức một buổi tiệc với người bản xứ.
Sự tích về ngày lễ tạ ơn
Bức tranh The First Thanksgiving của Jean Leon Gerome Ferris, người da trắng mời người da đỏ cùng ăn
Vào khoảng thế kỷ 16-17, một số người theo Công giáo và Thanh giáo tại Anh bị hoàng đế lúc đó bắt cải đạo để theo tôn giáo của ông ta, trong cuộc Cải cách Tin Lành. Những người này không chấp nhận và bị giam vào tù. Sau khi giam một thời gian vị hoàng đế truyền họ lại và hỏi lần nữa, họ vẫn quyết không cải đạo. Hoàng đế không giam họ vào tù nữa mà nói với họ rằng nếu họ không theo điều kiện của ông ta thì họ phải rời khỏi nước Anh.
Những người này rời khỏi Anh đến Hà Lan sinh sống nhưng họ sớm nhận ra mình không thể hoà nhập ở nơi này và lo sợ con cháu của họ sẽ bị mất gốc, một số nhóm người rời khỏi Hà Lan để đến Tân Thế Giới (Châu Mỹ) sinh sống, và sau này thường được gọi là “Người hành hương” (Pilgrims). Những người này đi trên một con thuyền tên là Mayflower, họ đặt chân đến Thuộc địa Plymouth thuộc vùng Tân Anh (New England) khi đang mùa đông. Đói và lạnh, một nửa trong số họ không qua nổi mùa đông khắc nghiệt. Đến mùa xuân, họ may mắn gặp được những thổ dân da đỏ tốt bụng và cho họ ít lương thực. Người da đỏ dạy họ những cách sinh tồn ở vùng đất này như cách trồng hoa màu, săn bắt,… Khi người Pilgrims đã có thể tự lo cho bản thân được, họ tổ chức một buổi tiệc để tạ ơn Chúa Trời vì đã cho họ có thể sống đến ngày hôm nay, họ mời những người da đỏ và cùng nhau ăn uống vui vẻ. Từ đó về sau, hằng năm con cháu của người Pilgrims luôn tổ chức lễ tạ ơn để cảm ơn cho những gì tốt đẹp đã đến với cuộc sống.[6]
Theo tài liệu, buổi lễ tạ ơn đầu tiên tại Hoa Kỳ, do người Pilgrims tổ chức, là vào năm 1621 tại Thuộc địa Plymouth, ngày nay thuộc Massachusetts, sau một vụ thu hoạch tốt.
Bài viết (hoặc đoạn) này hiện đang có bất đồng khi biên tập. Xin đừng xóa bảng thông báo này cho đến khi đạt được đồng thuận trong vấn đề này.
Để tránh sửa đổi mâu thuẫn, bạn có thể đề nghị những sửa đổi của mình tại trang thảo luận của bài.
Đề nghị người gắn bản mẫu nêu lý do tại trang thảo luận. Nếu không có lý do tại trang thảo luận, bản mẫu có thể bị tháo bỏ.
Tuy nhiên theo lời kể của cô Susan Bates, một hậu duệ người bản địa Mỹ, câu chuyện ngày lễ Tạ ơn thực sự rắc rối và bi thảm hơn nhiều[7]:
“
Câu chuyện bắt đầu vào năm 1614 khi một đoàn thám hiểm người Anh đi thuyền về Anh, chở theo rất nhiều người bản địa Mỹ thuộc và mang về làm nô lệ. Họ đã ra về và mang theo bệnh đậu mùa, và nó đã giết chết hầu hết những người bản địa Mỹ đã chạy thoát. Khi người Di Dân Hành Hương Pilgrims đến vịnh Massachusetts thì họ chỉ còn thấy duy nhất một người bộ tộc Patuxet tên là Squanto, người nô lệ duy nhất còn sống sót ở Anh và đồng thời cũng biết tiếng Anh. Anh ta dạy họ cách trồng ngô và đánh cá, và đã đàm phán một hiệp ước hòa giải giữa họ và bộ tộc Wampanoag. Vào cuối năm đầu tiên đó, những người Pilgrims đã tổ chức một bữa tiệc ăn mừng lớn để vinh danh Squanto và bộ tộc Wampanoag. Nhưng khi người Anh tại chính quốc biết được tin là đồng bào họ đã tìm thấy thiên đàng trên vùng đất mới, một số người Anh ngoan đạo và sùng tín cực đoan được gọi là Thanh giáo đồ bắt đầu kéo sang đó rất đông. Đến nơi, thấy ở đây không hề được rào dậu, họ coi là vùng đất hoang cho tất cả mọi người. Tham gia cùng với những người Anh định cư trước đó, họ cướp đất và bắt những thanh niên bản địa làm nô lệ và giết hết những người bản địa còn lại. Nhưng bộ tộc Pequot đã không đồng ý với hiệp ước hòa giải trước đó Squanto đã điều đình và họ đã chống trả lại. Cuộc chiến tranh Pequot là cuộc chiến tranh Da Đỏ đẫm máu nhất từ trước đến nay. Vào năm 1637, ở gần nơi mà nay là Groton thuộc tiểu bang Connecticut, hơn 700 người thuộc bộ lạc Pequot đã tập trung lại tổ chức lễ hội thường niên Ngô Xanh (Green Corn Festival), cũng là lễ tạ ơn của chúng ta. Trước lúc bình minh, khi những người bản địa còn đang say giấc thì đám lính đánh thuê người Anh và Hà Lan xông vào bắt họ ra ngoài. Người bản địa nào đi ra đều bị bắn hoặc đập chết, trong khi những ngừoi phụ nữ và trẻ con bản địa trốn trong lều đều bị thiêu sống. Hôm sau, ông thống đốc thuộc địa vịnh Massachusetts tuyên bố ngày hôm đó là ngày Tạ Ơn, vì hơn 700 người bản địa tay không, bao gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con đều đã bị tàn sát. Sau chiến thắng đó, thực dân Anh cùng những tay sai bản địa đã tiếp tục tấn công các làng người bản địa, từ làng này sang làng khác. Đàn bà và trẻ em trên 14 tuổi đều bị đem đi bán làm nô lệ, còn lại đều bị giết. Từng chuyến thuyền chứa tới 500 nô lệ người bản địa đều đều rời hải càng New England. Người ta còn trả tiền cho những da đầu lột từ những người bản địa, nhằm khuyến khích việc tàn sát. Sau cuộc tàn sát người Pequot ở vùng mà nay là Stamford, Connecticut, nhà thờ Thiên Chúa giáo đã tổ chức một ngày tạ ơn thứ hai để ăn mừng chiến thắng chống dân bản địa, người mà họ gọi là “bọn mọi dã man” (savages). Trong bữa tiệc, họ còn chặt đầu những người bản địa và đem nó ra đá như một quả bóng đá vậy. Kể cả những người Wampanoag thân thiện cũng không thoát khỏi thảm cảnh này. Tù trưởng của họ cũng bị chặt đầu, và nó được cắm lên một cái cột ở Plymouth, Massachusetts suốt 24 năm. Và như vậy, cứ sau mỗi lần tàn sát người bản địa xong, họ lại ăn mừng bằng việc tổ chức một bữa tiệc Tạ Ơn. Cuối cùng, George Washington đã đề nghị mỗi năm chỉ dành ra một ngày lễ Tạ ơn thay vì tổ chức tiệc mừng sau mỗi cuộc tàn sát. Về sau tổng thống Abraham Lincohn ký sắc lệnh tuyên bố ngày lễ Tạ ơn là ngày nghỉ lễ của cả nước, kể cả khi đang có nội chiến – cùng ngày khi ông ra ra lệnh diễu binh – đối nghịch với thảm cảnh chết đói của những người Sioux ở Minnesota.
”
Tổ chức truyền thống
Gà tây nướng lò, một món ăn thường thấy trong ngày Lễ Tạ ơn
Bánh Pumpkin (Pumpkin pie) thường dùng trong mùa Lễ Tạ ơn tại Bắc Mỹ
Lễ Tạ ơn thường được tổ chức với một buổi tiệc buổi tối cùng với gia đình và bạn bè với món thịt gà tây. Tại Canada và Hoa Kỳ, nó là một ngày quan trọng để gia đình sum họp với nhau, và người ta thường đi xa để về với gia đình. Người ta thường được nghỉ bốn ngày cuối tuần cho ngày lễ này tại Hoa Kỳ: họ được nghỉ làm hay học vào ngày thứ Năm và thứ Sáu của tuần đó. Lễ Tạ ơn thường được tổ chức tại nhà, khác với ngày Lễ Độc lập Hoa Kỳ hay Giáng Sinh, những ngày lễ mà có nhiều tổ chức công cộng (như đốt pháo hoa hay đi hát dạo). Tại Canada, nó là một cuối tuần ba ngày, người ta thường được nghỉ vào ngày thứ Hai thứ nhì của tháng 10 mỗi năm.
Tại Hoa Kỳ, người ta thường tưởng nhớ đến một bữa ăn tổ chức trong năm 1621 giữa người da đỏ Wampanoag và nhóm Pilgrim đã di cư tại Massachusetts. Lễ Tạ ơn đã được thực hiện chủ yếu bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo tại New England cho đến năm 1682, và sau đó bởi cả hai nhà lãnh đạo chính quyền và tôn giáo cho đến sau Cách mạng Hoa Kỳ. Tổng thống Hoa Kỳ George Washington đã công bố lễ tạ ơn toàn quốc đầu tiên ở Mỹ vào ngày 26 tháng 11 năm 1789, “là một ngày tạ ơn công cộng và cầu nguyện bởi sự công nhận với lòng biết ơn sự gia ân và tín hiệu tốt của Thiên Chúa Toàn Năng”.[8][9] Nhiều chi tiết của câu chuyện là truyền thuyết được đặt ra trong những năm 1890 và đầu thế kỷ 20 để tạo một biểu hiện sự đoàn kết quốc gia sau Nội chiến Hoa Kỳ cũng như để đồng hóa các người nhập cư.
Tại Canada, Lễ Tạ ơn là một cuối tuần ba ngày. Trong khi ngày Lễ Tạ ơn nằm vào ngày thứ Hai, người Canada có thể ăn buổi tiệc trong bất cứ ngày nào trong ba ngày cuối tuần đó. Việc này thường dẫn đến việc ăn một buổi tiệc với nhóm người này hôm này, rồi với nhóm khác hôm kia.
Diễn hành Lễ Tạ ơn của Macy tại New York năm 1979
Từ cuối thập niên 1930, mùa mua sắm cho Giáng Sinh tại Hoa Kỳ chính thức bắt đầu khi ngày Lễ Tạ ơn chấm dứt. Tại Thành phố New York, cuộc diễn hành Lễ Tạ ơn của Macy (Macy’s Thanksgiving Day Parade) được tổ chức hằng năm vào ngày này tại Manhattan.[10] Diễn hành thường có nhiều khán đài với nhiều chủ đề, có bong bóng lớn hình các nhân vật trên Truyền hình và các ban nhạc từ những trường trung học. Diễu hành này lúc nào cũng kết thúc với một Ông già Nôen. Có nhiều cuộc diễn hành khác tại nhiều thành phố khác.
Trong khi ngày thứ Sáu (còn gọi là Thứ Sáu Đen) sau ngày Lễ Tạ ơn là ngày mua sắm đông nhất trong năm tại Hoa Kỳ, nhiều cửa hàng đã bắt đầu chào đón khách hàng với các món hàng cho mùa lễ ngay sau Halloween.
Bóng bầu dục (American football) thường là một phần quan trọng trong ngày Lễ Tạ ơn tại Hoa Kỳ cũng như tại Canada. Các đội chuyên nghiệp thường đấu nhau trong ngày này để khán giả có thể xem trên truyền hình. Thêm vào đó, nhiều đội banh trung học hay đại học cũng đấu nhau vào cuối tuần đó, thường với các đối thủ lâu năm.
^Klos, Stanley. “Thanksgiving Day Proclamations”. PRESIDENTIAL THANKSGIVING PROCLAMATIONS. Historic.us. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2013.Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
Tỷ lệ biết chữ trên thế giới theo quốc gia, thống kê năm 2013. Xem danh sách
Ngày Quốc tế biết Chữ (tiếng Anh: World Literacy Day, còn gọi là Ngày biết Chữ Thế giới, Ngày Giáo dục Thế giới được tổ chức hàng năm vào ngày 8 tháng 9.
Đây là ngày nhắc nhở hành động xóa nạn mù chữ trên thế giới. Trên thế giới hiện nay còn khoảng 775.000.000 người lớn (trên 15 tuổi) thiếu kỹ năng đọc và viết tối thiểu; 1 phần 5 số người trưởng thành vẫn không biết chữ và 2 phần 3 trong số họ là phụ nữ;[1] 60,7 triệu trẻ em không đi học và còn nhiều hơn số đó đi học không đều hay là thường xuyên vắng mặt.[2]
Ngày biết chữ quốc tế được thành lập bởi UNESCO sau Hội nghị thế giới để xóa nạn mù chữ tổ chức trong tháng Chín năm 1965 tại Tehranvà lần đầu tiên tổ chức vào ngày 8 tháng 9 năm 1966.
Hoạt động
Trong ngày này, ngoài rất nhiều sự kiện được tổ chức cho thấy những hậu quả kinh tế và xã hội liên quan đến nạn mù chữ trên toàn thế giới, ba giải thưởng giáo dục sẽ được UNESCO trao giải:
Giải thưởng xóa nạn mù chữ của UNESCO và International Reading Association( UNESCO International Reading Association Literacy Prize) (Hiệp hội biết Đọc Quốc tế) đã được trao tặng từ năm 1979 cho các tổ chức, các tổ chức, cá nhân đã ủng hộ cuộc chiến chống nạn mù chữ.
UNESCO King Sejong Literacy Prize (Giải UNESCO-Triều Tiên Thế Tông xóa nạn mù chữ) từ năm 1989 do chính phủ Hàn Quốc tài trợ được trao cho các cơ quan và các tổ chức đã cam kết thúc đẩy sự phát triển của ngôn ngữ bản địa tại các nước đang phát triển.
UNESCO Confucius Prize for Literacy (Giải UNESCO-Khổng Tử xóa nạn mù chữ) từ năm 2005 do chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tài trợ để thúc đẩy biết chữ cho phụ nữ và những người trẻ tuổi, đặc biệt là ở các vùng nông thôn.
Năm 2003, UNESCO cũng công bố Thập niên Biết chữ.[3]
Makedonija (tiếng Việt: Ma-kê-đô-ni-a; tiếng Anh: Macedonia), tên đầy đủ là Cộng hòa Makedonija (tiếng Macedonia: Република Македонија, Republika Makedonija), là một quốc gia thuộc khu vực đông nam châu Âu. Nước Cộng hòa Makedonija giáp với Serbia và vùng lãnh thổ Kosovo về phía bắc, giáp với Albania về phía tây, giáp với Hy Lạp về phía nam và giáp với Bulgaria về phía đông. Dân số của nước này khoảng 2 triệu người.
Cộng hòa Makedonija có những tranh cãi với Hy Lạp về tên gọi của nước này do Macedonia/Makedonija lại là một vùng đất lịch sử nằm trên lãnh thổ nhiều quốc gia khác nhau và có lịch sử/văn hóa gắn liền Hy Lạp. Vì vậy vào năm 1991, nước này tách ra khỏi Liên bang Nam Tư và đã gia nhập Liên Hiệp Quốc với tên gọi Cựu Cộng hòa Nam Tư Makedonija[1], tuy nhiên tên gọi Cộng hòa Makedonija cũng được sử dụng rộng rãi để chỉ nước này.
Tên của quốc gia này bắt nguồn từ từ tiếng Hy Lạp Μακεδονία (Makedonía),[2][3], tên gọi về một quốc gia của người Makedonia cổ đại. Tên người Makedonia, Μακεδόνες (Makedónes), bắt nguồn từ một chữ của tiếng Hy Lạp cổ đại là μακεδνός (makednós), có nghĩa là “cao, thon nhọn”,[4] which shares the same root as the noun μάκρος (mákros), meaning “length” in both ancient and modern Greek.[5] Tên này được cho là có nghĩa nguyên là “người vùng cao nguyên” hay “người cao”,[3][6][7] có thể ám chỉ đến tầm vóc cao lớn của người Makedonia cổ đại hoặc nói đến địa hình vùng núi cao nơi họ sinh sống.
Lịch sử
Thời kỳ cổ đại
Tượng Alexandros Đại đế tại Prilep, Macedonia
Vương quốc cổ đầu tiên được thành lập tại vùng đất nay là Cộng hòa Makedonija là vương quốc Paionia của người Thrace-Ilyria, họ đã kiểm soát một phần lớn khu vực sông Axius và các khu vực chung quanh lúc bấy giờ. Vào năm 336 trước công nguyên, Vương quốc Macedonia đã xâm chiếm Paionia dưới thời vua Philipos II của Macedonia. Ông đã xây dựng nên thành phố cổ Heraclea Lycentis và tàn tích ngày nay vẫn còn được lưu lại trên lãnh thổ Cộng hòa Makedonija. Quyền lực của vương triều Paionia bị giảm xuống còn như một nước bán tự trị phụ thuộc vào Vương quốc Macedonia. Con trai của vua Philip II là Alexandros Đại đế (356-323 TCN) đã tiếp tục mở rộng hơn nữa quyền hạn của Macedonia tại Paionia, tuy nhiên vương gia Paionia tại đây vẫn nhận được sự kính trọng từ phía triều đình Alexandros Đại đế. Năm 280 trước công nguyên, người Celt đã đến tàn phá những vùng đất của người Paionia, song sau đó họ lại bị người Dardani đàn áp. Trải qua một vài biến cố lịch sử, người Paionia vẫn tiếp tục duy trì một quốc gia tự trị cho đến khi bị sát nhập vào Đế chế La Mã hùng mạnh. Và đến năm 400 sau công nguyên, người Paionia đã hoàn toàn bị đồng hóa và cái tên Paionia chỉ còn lại là một địa danh trên bản đồ mà thôi.
Thời kỳ Trung cổ
Pháo đài Ohrid tại Macedonia, được xây dựng dưới thời vua Samuil của Bulgaria
Vào cuối thế kỉ 6, Đế quốc Đông La Mã (Byzantine) dần trở nên hùng mạnh và bắt đầu kiểm soát những lãnh thổ tan rã của Đế quốc La Mã. Trong khi đó, tại lãnh thổ Cộng hòa Makedonija ngày nay, người Slav đã tràn vào từ phía bắc. Các dân tộc khác tại vùng này như người Hy Lạp, người La Tinh, người Illyria và người Thracia đã bị đẩy đi nơi khác hoặc bị người Slav đồng hóa. Người Slav sau đó bắt đầu nhiều cuộc chiến tranh lớn chống lại Đế quốc Đông La Mã. Họ đã xâm chiếm được hầu hết lãnh thổ Hy Lạp, một bộ phận quan trọng của Đế quốc Đông La Mã ngoại trừ một số thành phố lớn quan trọng như Athena hay Thessaloniki. Để đối phó với người Slav, Đế quốc Đông La Mã đã nhiều lần sử dụng những đội quân viễn chinh lớn. Dưới thời hoàng đế Justinianus II của Đông La Mã, những đội quân viễn chinh này đã trục xuất tới 200.000 người từ vùng Macedonia đến trung tâm Tiểu Á (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) để triều cống và phục vụ trong quân đội của đế chế. Trong khi rất nhiều người Slav tại Macedonia đã phải thừa nhận sự thống trị của đế quốc thì một bộ phận lớn khác vẫn cố gắng duy trì bản sắc dân tộc, đồng thời họ vẫn chiếm đa số trong các nhóm sắc tộc tại địa phương. Cùng với sự phát triển của Đệ nhất đế chế (Bulgaria), người Slav tại Macedonia đã sát nhập vào nền văn hóa Slav của người Bulgaria này.
Người Slav tại Cộng hòa Makedonija ngày nay đã chấp nhận Đạo Cơ đốc là tôn giáo chính thức của họ vào thế kỉ 9 dưới thời hoàng đế Boris I của Bulgaria. Những linh mục người Byzantine Hy Lạp là thánh Cyril và thánh Methodius đã sáng lập ra bảng chữ cái Glagotic và đã có ảnh hưởng quan trọng trong việc hình thành nền văn học của người Slav tại khu vực lúc bấy giờ. Những công trình của họ đã được chấp nhận tại Bulgaria trung cổ và thánh Clement của Ohrid đã dựa vào đó mà sáng tạo nên bảng chữ cái Cyril của các dân tộc Slav. Thánh Naum của Ohrid đã thành lập nên Trường Văn học Ohrid, một trong những trung tâm văn hóa lớn của Đế chế Bulgaria lúc bấy giờ.
Vào năm 1018, hoàng đế Basil II của Đông La Mã đã đánh thắng hoàng đế Samuil của Bulgaria và lãnh thổ Cộng hòa Makedonija ngày nay lại thuộc về chủ quyền của Đông La Mã. Những thế kỉ sau đó, vùng đất này liên tiếp bị cai trị bởi nhiều thế lực khác nhau. Vào thế kỉ 11, người Đông La Mã đã kiểm soát hoàn toàn khu vực Balkan nhưng sau đó, đến cuối thế kỉ 12 vùng đất này lại rơi vào tay của Đệ nhị đế chế (Bulgaria). Đế chế này sau đó đã vấp phải nhiều vấn đề chính trị nội bộ và Macedonia lại trở về tay Đông La Mã vào thế kỉ 13. Thế kỉ 14, vùng đất Macedonia trở thành một phần của Đế quốc Serbia. Skopje (nay là thủ đô Cộng hòa Makedonija) trở thành thủ đô của hoàng đế Stefan Dushan của người Serbia.
Sau khi hoàng đế Stefan Dushan mất, Đế quốc Serbia nhanh chóng suy yếu do những người kế vị kém cỏi và sự tranh giành quyền lực trong nước. Hậu quả là phần lớn khu vực Balkan, trong đó có Makedonija đã rơi vào tay Đế chế Osman suốt 5 thế kỉ sau đó.
Phong trào Vận động Dân tộc
Sự cai trị tàn bạo của Đế chế Osman đã khiến cho nhiều cuộc nổi dậy của người Macedonia nổ ra. Một trong những cuộc nổi dậy sớm nhất nổ ra là Khởi nghĩa Karposh vào năm 1689. Từ cuối thế kỉ 19, nhiều cuộc vận động dân tộc đã diễn ra với mục tiêu là thành lập một nhà nước tự trị cho người Makedonija trên toàn vùng Makedonija. Các tổ chức chính trị quan trọng như Tổ chức Cách mạng Quốc gia Makedonija (viết tắt theo tiếng Anh là IMRO) được thành lập đã đóng vai trò quan trọng trong việc vận động tinh thần dân tộc đất nước và tiến hành những cuộc khởi nghĩa chống lại chính quyền Osman, lúc bấy giờ đã bắt đầu suy yếu. Năm 1903, IMRO đã tiến hành cuộc Khởi nghĩa Iliden-Preobrazhenie với đỉnh cao là sự thành lập nước Cộng hòa Krushevo. Tuy cuộc khởi nghĩa đã bị đàn áp dã man song nó được đánh giá là nền móng và tiền thân của sự thành lập nước Cộng hòa Makedonija sau này.
Thế kỉ 20
Sau hai cuộc chiến tranh Balkan vào năm 1912 và 1913 rồi sau đó là sự sụp đổ của Đế chế Osman, vùng Macedonia được phân chia thành các phần của Hy Lạp, Bulgaria và Serbia. Vùng lãnh thổ ngày nay là Cộng hòa Makedonija trở thành một bộ phận của Serbia với tên gọi Južna Srbija (“Nam Serbia”). Sau Thế chiến thứ nhất, Serbia lại trở thành một phần của Vương quốc của người Serb, người Croat và người Sloven. Năm 1929, vương quốc này đổi tên thành Vương quốc Nam Tư và chia thành các tỉnh. Nam Serbia được đổi thành tỉnh Vardar nằm trong vương quốc.
Năm 1941, quân phát xít xâm lược Nam Tư và tỉnh Vardar bị chia sẻ giữa phát xít Bulgaria và phát xít Italia lúc đó đã xâm chiếm Albania. Trong thời kỳ này, 7000 người Do Thái tại hai thành phố Skopje và Bitola đã bị bắt vào những trại tập trung rồi bị trục xuất. Chế độ phát xít tàn bạo đã thúc đẩy phong trào đấu tranh của những người cộng sản tại Nam Tư dưới sự lãnh đạo của Nguyên soái Josip Broz Tito. Khi Thế chiến thứ hai kết thúc, Tito trở thành Tổng thống Nam Tư và Liên bang Cộng hòa Nhân dân Nam Tư được thành lập. Nước Cộng hòa Nhân dân Makedonija cũng được thành lập và trở thành một trong sáu nước thành viên của Liên bang. Về sau năm 1963, khi Nam Tư đổi tên thành Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Nam Tư thì nước này cũng đổi tên lại thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Makedonija.
Cộng hòa Makedonija (từ năm 1991 đến nay)
Ngày 8 tháng 9 năm 1991, Makedonija ly khai ra khỏi Liên bang Nam Tư một cách hòa bình và lấy ngày này là ngày quốc khánh. Khoảng đầu thập niên 1990, nước này vẫn giữ được hòa bình và không can dự vào cuộc Chiến tranh Nam Tư khốc liệt ở những nước láng giềng. Những vấn đề nhỏ về mặt biên giới giữa Cộng hòa Macedonia với Nam Tư đều đã được giải quyết. Nhưng khi cuộc chiến tranh ở Kosovo nổ ra vào năm 1999, khoảng 360.000 người Albania tị nạn đã chạy vào Makedonija khiến gây mất ổn định tình hình tại nước này. Mặc dù một phần người Albania đã dời đi sau khi chiến tranh kết thúc nhưng những người Albania ở cả hai phía biên giới lại tìm cách đòi quyền tự trị và thậm chí cao hơn nữa là đòi quyền độc lập cho cộng đồng người Albania tại Cộng hòa Makedonija. Những vụ xung đột đã nổ ra giữa chính phủ Skopje với quân phiến loạn Albania tại miền bắc và miền tây đất nước trong khoảng giữa tháng 3 và tháng 6 năm 2001. Cuối cùng cuộc chiến kết thúc với sự can thiệp của lực lượng ngừng bắn của NATO. Theo Hiệp định Ohrid, chính phủ Makedonija đồng ý trao nhiều quyền chính trị rộng rãi hơn cho người Albania cũng như công nhận những đóng góp văn hóa của cộng đồng thiểu số này. Còn người Albania theo thỏa thuận sẽ ngừng các hoạt động ly khai chống chính phủ và giao nộp vũ khí cho NATO.
Năm 2005, Cộng hòa Makedonija chính thức được công nhận là ứng cử viên tiếp theo cho việc gia nhập Liên minh Châu Âu.
Nikola Gruevski, thủ tướng hiện nay của Cộng hòa Macedonia
Cộng hòa Makedonija là một quốc gia theo thể chế dân chủ nghị viện. Nhánh hành pháp nằm dưới sự điều hành của chính phủ, nhánh lập pháp thì cùng được điều hành bởi cả chính phủ và quốc hội. Nhánh tư pháp độc lập với hai nhánh hành pháp và lập pháp.
Chính phủ Cộng hòa Makedonija được thành lập bởi sự liên kết của nhiều đảng phái hợp thành. Quốc hội nước này được tổ chức theo mô hình lưỡng viện: thượng viện và hạ viện. Số thành viên trong Quốc hội nước cộng hòa là 120 thành viên và được bầu lại 4 năm một lần.
Tại Cộng hòa Makedonija, tổng thống chỉ có vai trò nghi thức còn phần lớn quyền lực thực sự thì nằm trong tay người đứng đầu chính phủ là thủ tướng. Tổng thống còn là tổng tư lệnh quân đội và là người đứng đầu các lực lượng vũ trang quốc gia. Ông cũng là người đứng đầu Hội đồng An ninh của đất nước. Chức vụ tổng thống tại Cộng hòa Makedonija có nhiệm kỳ 5 năm và mỗi tổng thống có thể nắm tối đa 2 nhiệm kỳ. Đương kim tổng thống hiện nay là ông Gjorge Ivanov. Còn đương kim thủ tướng hiện nay là ông Nikola Gruevski.
Nhánh tư pháp ở nước này được thực thi bởi các tòa án. Đứng đầu hệ thống tư pháp là Tòa án Tư pháp Tối cao, Tòa án Hiến pháp và Tòa án Tư pháp nước Cộng hòa.
Một trong những vấn đề chính trị hàng đầu hiện nay tại Cộng hòa Makedonija là mâu thuẫn chính trị giữa các đảng của người Macedonia chiếm đa số và cộng đồng người Albania thiểu số. Những xung đột này đã dẫn đến một cuộc chiến tranh xảy ra trong thời gian ngắn vào năm 2001 và được dàn xếp bởi cộng đồng quốc tế sau đó. Tháng 8 năm 2004, chính phủ Cộng hòa Makedonija đồng ý trao cho người Albania thiểu số quyền tự trị rộng rãi tại những vùng miền mà họ kiểm soát, tuy nhiên nguy cơ về vấn đề ly khai như Kosovo vẫn có khả năng xảy ra tại quốc gia này[8].
Quan hệ ngoại giao
Hình ảnh mặt trời Vergina trên lá cờ gây tranh cãi của Makedonija (1992-1995)
Về nhiều mặt, Cộng hòa Makedonija vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp với Hy Lạp. Khoảng 57% đầu tư nước ngoài ở Cộng hòa Makedonija đến từ quốc gia láng giềng phía nam này. Mối quan hệ giữa Cộng hòa Makedonija với Hy Lạp có thể nói đã được cải thiện khá nhiều trong vài năm qua nhưng bên cạnh đó, vấn đề tên gọi quốc gia vẫn là một trở ngại lớn trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ giữa hai nước [9]. Trong khi người Makedonija cho rằng cái tên Makedonija/Macedonia là tên gọi để chỉ dân tộc và ngôn ngữ của họ thì người Hy Lạp cho rằng cái tên đó lại bao hàm cả những phần lãnh thổ của Hy Lạp với cùng tên đó nữa. Những tranh cãi và lịch sử và văn hóa giữa hai nước cũng hết sức căng thẳng. Năm 1992, sau khi tách ra khỏi Liên bang Nam Tư, nước Cộng hòa Makedonija thông qua việc sử dụng một lá cờ mới với hình ảnh mặt trời Vergina của Vương quốc Macedonia cổ đại. Athena đã lên tiếng phản đối quyết liệt hành động trên và vào năm 1995, Cộng hòa Makedonija đã đổi sang sử dụng lá cờ như hiện nay.
Do không thể giải quyết thỏa đáng vấn đề tên gọi quốc gia với Hy Lạp, Cộng hòa Makedonija đã chấp nhận gia nhập các tổ chức quốc tế với tên gọi Cựu Cộng hòa Nam Tư Makedonija (Поранешна Југословенска Република Македонија, Poraneshna Jugoslovenska Republiska Makedonija, tên tiếng Anh là “Former Yugoslavia Republic of Macedonia”, có khi được viết tắt là “Makedonija FYRO” hay “FYROM”). Hiện nước này là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu, Hội đồng Châu Âu, Hội đồng Pháp ngữ, Tổ chức Thương mại Thế giới… Cộng hòa Makedonija hiện đang có nguyện vọng gia nhập Liên minh Châu Âu và NATO nhưng việc khởi động các quá trình đàm phán gia nhập vẫn chưa được bắt đầu. Ngày 17 tháng 12 năm 2005, Cộng hòa Makedonija chính thức được công nhận là ứng cử viên tiếp theo cho việc gia nhập Liên minh Châu Âu.
Phân chia hành chính
8 vùng thống kê của Cộng hòa Makedonija
Vào tháng 9 năm 1996, toàn bộ lãnh thổ nước Cộng hòa Makedonija được chia thành 123 đô thị tự trị. Nhưng đến tháng 8 năm 2004, số đô thị tự trị tại nước này được tổ chức lại và giảm xuống con số 85 (trong đó 10 đô thị tự trị nằm trong thành phố Skopje, còn gọi là Đại Skopje). Các đô thị tự trị là bậc phân cấp hành chính cơ bản của Cộng hòa Makedonija. Trước đó, chính quyền địa phương của nước này được tổ chức vào 34 quận hành chính phía trên.
Bên cạnh đó, Cộng hòa Makedonija còn được chia thành 8 vùng, chủ yếu nhằm mục đích thống kê. Danh sách các vùng thống kê của Cộng hòa Macedonia bao gồm:
Makedonija chủ trương xây dựng kinh tế thị trường. Tuy nhiên với một nền kinh tế nhỏ, mở cửa, điều này khiến Makedonija trở thành nước dễ bị tác động bởi các nền kinh tế phát triển khác của châu Âu và khả năng phát triển kinh tế phụ thuộc vào hội nhập khu vực và quá trình gia nhập Liên minh châu Âu.
Thời kỳ 1991-2001, kinh tế suy thoái (GDP -4,5%) do tình hình chính trị không ổn định, bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng ở Kosovo (1999) và cuộc nội chiến với người Albania (2001). Từ năm 2002 bắt đầu có dấu hiệu phục hồi ở một số ngành kinh tế mũi nhọn như khai khoáng, chế biến nông phẩm, nông nghiệp, ngư nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải và dịch vụ. Trong các năm 2003- 2007 GDP tăng trưởng trung bình 4%/năm. Từ sau năm 1996, Makedonija trở thành nước có nền kinh tế vĩ mô ổn định với tỉ lệ lạm phát thấp, tuy nhiên không hấp dẫn được đầu tư trực tiếp của nước ngoài, tín dụng thấp, thâm hụt ngoại thương lớn, tạo được ít việc làm. Vì vậy, tỉ lệ thất nghiệp luôn ở mức cao (trên 30%).
Năm 2009, do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, GDP của Makedonija giảm (tăng trưởng đạt âm 1,2%), lạm phát dưới 1%, thất nghiệp khoảng 33%, nợ công 32% GDP. Năm 2010, nhờ thực hiện chính sách tài chính bảo thủ, chính sách tiền tệ nghiêm ngặt và hoàn thiện hệ thống tài chính, Makedonija đã cải thiện được bước đầu mức tín dụng, giữ được kinh tế vĩ mô ổn định, kinh tế có tăng trưởng nhẹ (mức tăng GDP đạt 1,3%), duy trì được lạm phát ở mức 1,6%, nợ công thấp ~35% GDP, nhưng tỉ lệ thất nghiệp cao (31,7%).
Tỉ trọng các ngành trong nền kinh tế (ước tính năm 2010, %GDP)
Chính Thống giáo là tôn giáo lớn nhất của nước Cộng hòa Macedonia chiếm 64,7% dân số, phần lớn trong số đó thuộc về Giáo hội Chính thống Macedonia. Nhiều giáo phái Kitô giáo khác chiếm 0,37% dân số. Người Hồi giáo chiếm 33,3% dân số; Macedonia có tỷ lệ người Hồi giáo cao thứ 5 ở châu Âu, sau khi Thổ Nhĩ Kỳ (96%), Kosovo (90%), Albania (56,7%), và Bosnia-Herzegovina (45%).[10] Phần lớn người Hồi giáo là người gốc Albania, Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc người Rôma, mặc dù một số ít cũng là người Hồi giáo Macedonia. Còn lại 1,63% được ghi nhận là “tôn giáo không xác định” trong năm 2002 theo cuộc điều tra dân số quốc gia.[11]
Tổng cộng, đã có 1.842 nhà thờ Chính Thống giáo và 580 nhà thờ Hồi giáo vào cuối năm 2011. Các cộng đồng Chính Thống giáo và Hồi giáo đều có trường Đại học tôn giáo ở Skopje. Ngoài ra còn có một trường đại học thần học Chính Thống giáo ở thủ đô. Giáo hội Chính thống Macedonia có thẩm quyền đối với 10 giáo xứ (bảy trong nước và ba ở nước ngoài), có 10 Giám mục và khoảng 350 linh mục. Tổng cộng có 30.000 người được rửa tội trong tất cả các giáo xứ mỗi năm.
Nhà thờ Hồi giáo Ishak Bey ở Old Bazaar, Skopje.
Có một sự căng thẳng giữa Giáo hội Chính Thống Macedonia và Giáo hội Chính Thống Serbia do tuyên bố Autocephaly năm 1967. Tuy nhiên, Tổng Giám mục Giáo hội Chính Thống Serbia, theo Quyết định số 06/1959, đã công nhận quyền tự chủ (không phụ thuộc) của Giáo hội mình đối với Giáo hội Chính Thống Macedonia. Sau khi các cuộc đàm phán thống nhất giữa hai giáo hội đã bị đình chỉ, Giáo hội Chính Thống Serbia đã công nhận Tổng Giám mục Jovan của Ohrid, một cựu Giám mục Giáo hội Chính Thống Macedonia, là Đức Tổng Giám mục Ohrid. Phản ứng của Giáo hội Chính Thống Macedonia là cắt đứt mọi quan hệ với địa hạt Ohrid của vị tổng Giám mục mới và để ngăn chặn các Giám mục của Giáo hội Chính Thống Serbia xâm nhập vào Macedonia. Giám mục Jovan đã bị tù 18 tháng cho tội “phỉ báng Giáo hội Chính thống Macedonia và làm tổn hại đến tình cảm tôn giáo của người dân địa phương” bằng cách phân phát lịch nhà thờ Chính thống Serbia và tờ rơi tuyên truyền cho Giáo hội Serbia.[12]
Công giáo La Mã có khoảng 11.000 tín đồ ở Macedonia. Giáo hội Công giáo Macedonia được thành lập vào năm 1918, và được tạo thành chủ yếu bởi người cải đạo từ Chính Thông giáo sang Công giáo và con cháu của họ. Giáo hội Công giáo Macedonia thực hành theo nghi lễ Byzantine và hiệp thông hoàn toàn với Giáo hội Công giáo Rôma và các Giáo hội Công giáo Đông phương khác.[13]
Có một cộng đồng Tin Lành nhỏ ở Macedonia. Tín đồ Tin Lành nổi tiếng nhất trong cả nước là cố Tổng thống Boris Trajkovski. Ông xuất thân từ cộng đồng Methodist, đó là nhà thờ Tin Lành lớn nhất và lâu đời nhất tại Cộng hòa Macedonia, có niên đại từ cuối thế kỷ 19. Từ những năm 1980 cộng đồng Tin Lành đã phát triển, một phần thông qua niềm tin mới và một phần với sự giúp đỡ truyền giáo bên ngoài.
Cộng đồng Do Thái Macedonia, có khoảng 7.200 người trước cuộc chiến tranh thế giới II, đã bị giết chết gần như hoàn toàn: chỉ có 2% người Do Thái sống sót ở Macedonia[14] Sau khi giải phóng họ và kết thúc chiến tranh, hầu hết người Do Thái Macedonia đã chọn di cư tới Israel. Hiện nay, con số cộng đồng Do Thái khoảng 200 người, tất cả hiện sống ở Skopje. Người Do Thái Macedonia hầu hết thuộc nhánh Sephardic – con cháu của những người tị nạn từ thế kỷ 15 những người đã chạy trốn khỏi Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong cuộc thanh trừng người Do Thái giáo ở 2 nước này.
^μακεδνός, Henry George Liddell, Robert Scott, A Greek-English Lexicon, on Perseus
^μάκρος, Henry George Liddell, Robert Scott, A Greek-English Lexicon, on Perseus
^Eugene N. Borza, Makedonika, Regina Books, ISBN 0-941690-65-2, p.114: The “highlanders” or “Makedones” of the mountainous regions of western Macedonia are derived from northwest Greek stock; they were akin both to those who at an earlier time may have migrated south to become the historical “Dorians”.
^Nigel Guy Wilson, Encyclopedia of Ancient Greece, Routledge, 2009, p.439: The latest archaeological findings have confirmed that Macedonia took its name from a tribe of tall, Greek-speaking people, the Makednoi.
^“CIA – The World Factbook – Bosnia and Herzegovina”. Cia.gov. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2009.
^“CIA World Factbook”. Cia.gov. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2011.
^“Church Rivalry Threatens to Brim Over”. Iwpr.net. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2009.
^David M. Cheney. “Catholic Church in Macedonia, The Former Yugoslav Republic of Catholic-Hierarchy]”. Catholic-hierarchy.org. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2009.
^“Blog Archives » Macedonia’s Jewish Community Commemorates the Holocaust, and Embraces the Future”. Balkanalysis.com. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2010.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Cộng hòa Macedonia
Tượng David là một bức tượng do Michelangelo điêu khắc từ năm 1501 đến 1504, là một kiệt tác của nghệ thuật điêu khắc thời Phục Hưng và là một trong hai tác phẩm điêu khắc vĩ đại nhất của Michelangelo (cùng với Pietà). Riêng tượng David hầu như chắc chắn giữ danh hiệu bức tượng được công nhận nhất trong lịch sử nghệ thuật. Bức tượng này đã được xem như là một biểu tượng của vẻ đẹp con người trẻ trung và sức mạnh. Thời Phục Hưng, những người có dương vật nhỏ thường được xem là đẹp, bởi họ cho rằng dương vật lớn chỉ có ở loài thú dữ. Vì thế dương vật của David được làm nhỏ để thể hiện sự hoàn mỹ của vẻ đẹp con người theo quan niệm của thời kỳ này. Tượng cẩm thạch cao 4.34 m miêu tả Vua David theo Kinh Thánh tại thời điểm ông quyết định chiến đấu với Goliath. Nó đã là biểu tượng của Cộng hòa Fiorentina, một quốc gia thành phố bị đe dọa tứ phía bởi các cường quốc đối thủ mạnh. Bức tượng hoàn chỉnh được làm lễ vén màn vào ngày 8 tháng 9 năm 1504. Thêm nữa, một câu hỏi tới giờ vẫn chưa có lời giải đáp của các nhà khoa học là tại sao tượng David lại không được … cắt bao quy đầu trong khi vua David là người Do Thái và 100% theo tục lệ Do Thái vào lúc đó là đàn ông sẽ phải cắt bao quy đầu? Theo các nhà khoa học, lời giải đáp cũng cùng lý do với câu hỏi phía trên: tác giả đã tạc tượng theo phong cách Hy Lạp cổ mà ở Hy Lạp cổ thì việc cắt bao quy đầu không được ủng hộ.
Tham khảo
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về David (Michelangelo)