#cnm365 #cltvn 9 tháng 1


TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/tinh-thuc-cung-thang-nam/

CNM365 Tình yêu cuộc sống https://hoangkimlong.wordpress.com;  #hoangkimlong,  #hoanggia#Thungdung#dayvahoc#cltvn#vietnamhocBan mai chào ngày mới; Tỉnh thức cùng tháng năm; Ai bảo chăn trâu là khổ? A Na tìm được Ngọc; Hoàng Tố Nguyên tiếng TrungHoàng Long cây lương thực;  Hoàng Kim chuyện đời tôiChọn giống sắn Việt Nam; Thầy nghề nông chiến sĩ;  Kim Notes lắng ghi chú; Thầy bạn là lộc xuân;  Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Sóc Trăng Lương Định CủaThầy Quyền thâm canh lúaThầy Vũ trong lòng tôi; Thầy Luật lúa OMCS OM;  TTC Group Sen vào hè;  ĐHNN2 Hà Bắc nay và xưa; Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc;  Lên Trúc Lâm Yên TửĐêm Yên Tử;  Sự chậm rãi minh triết; Chuyện ngậm ngãi tìm trầm; Họ im lặng như núiVăn chương ngọc cho đời;

#cltvn Lúa Việt vị trí kinh tế; Minh triết Hồ Chí Minh; Làng Minh Lệ quê tôi; Chọn giống sắn kháng CMD; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Học lắng nghe cuộc sống; Một gia đình yêu thương; Tô Đông Pha Tây Hồ; Trên bục giảng mùa xuân; Theo chân người dẫn đường; Hoa và Ong Hoa Người; Đến với Tây Nguyên mới; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Trọng Tạo nhịp đồng dao; Hình như; Lev Tonstoy năm kiệt tác, Câu chuyện ảnh tháng Một; Ngày truyền thống học sinh sinh viên Việt Nam. Ngày 9 tháng 1 năm 1950, ngày mất Trần Văn Ơn (sinh năm 1931), một học sinh Việt Nam trường Pétrus Ký đã bị chính quyền Pháp nổ súng bắn chết trong phong trào biểu tình của học sinh sinh viên Sài Gòn. Cuộc biểu tình này hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh chống thực dân Pháp, bảo vệ nền Cộng hoà non trẻ. Ngày 9 tháng 1 năm 1283, nhằm ngày 8 tháng 12 năm Nhâm Ngọ, là ngày mất Văn Thiên Tường (sinh năm 1236), chính trị gia lỗi lạc anh hùng dân tộc và nhà thơ nổi tiếng triều Tống, tác giả hai câu thơ “Xưa nay hỏi có ai không chết? Hãy để lòng son chiếu sử xanh”. Ngày 9 tháng 1 năm 1324, ngày mất Marco Polo, thương nhân và nhà thám hiểm người Ý (sinh năm 1254); Bài chọn lọc ngày 9 tháng 1: #cltvn Lúa Việt vị trí kinh tế; Minh triết Hồ Chí Minh; Làng Minh Lệ quê tôi; Chọn giống sắn kháng CMD; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Học lắng nghe cuộc sống; Một gia đình yêu thương; Tô Đông Pha Tây Hồ; Trên bục giảng mùa xuân; Theo chân người dẫn đường; Hoa và Ong; Đến với Tây Nguyên mới; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Trọng Tạo nhịp đồng dao; Hình như; Lev Tonstoy năm kiệt tác, Câu chuyện ảnh tháng Một; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-9-thang-1/;

MINH TRIẾT HỒ CHÍ MINH
Hoàng Kim

Tôi viết minh triết Hồ Chí Minh theo chính kiến và nhận thức của riêng mình. Ngày 2 tháng 9 là ngày Quốc Khánh Việt Nam, ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng là ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, ngày khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi năm sự kiện lớn này trong lịch sử như ngôi sao vàng năm cánh, như năm ngón tay trên một bàn tay, đóng mốc son ngày 2 tháng 9 và ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và Thế Giới đối với nền độc lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và thống nhất Tổ quốc Việt Nam. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết. Việt Nam Hồ Chí Minh là biểu tượng Việt; Hồ Chí Minh nói đi đôi với làm mẫu mực đạo đức có lý có tình; Hồ Chí Minh rất ít trích dẫn, thực tiễn, quyền biến, năng động ; Hồ Chí Minh kiên quyết khôn khéo trong tổ chức tuyên truyền cách mạng, giỏi thu phục tập hợp hiền tài. Nước Việt Nam mới khi hình thành vì sao không có được giải pháp hợp tác giữa Hồ Chí Minh với Bảo Đại, Ngô Đình Diêm, Nguyễn Trường Tam, Phạm Quỳnh, Phan Văn Giáo … Vì sao chưa thuyết phục được Nguyễn Hải Thần, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn,… ? Đó đều là các nhân vật lịch lịch sử lớn chi phối sâu sắc đối với thời cuộc. Bài học lịch sử là khối vàng ròng giá trị to lớn cần thấu hiểu và cắt nghĩa cho đúng. Sự thật lịch sử đang sáng tỏ dần. Đọc lại và suy ngẫm.

1. VIỆT NAM HỒ CHÍ MINH LÀ BIỂU TƯỢNG VIỆT  

Bác Hồ là biểu tượng của thế giới người hiền, là tinh hoa văn hóa Việt gốc và văn hóa tương lai. Minh triết Hồ Chí Minh là ưu tiên đạo đức, cải tiến lề lối làm việc ‘cần kiệm liêm chính’. Đó là thước đo đầu tiên và quan trọng nhất để đào tạo, rèn luyện và trọng dụng cán bộ. Mục tiêu, quốc kế và chiến lược vàng cho Việt Nam mới là : “Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc”. “Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy. Nếu không làm được việc cho dân thì dân không cần đến nữa”. (Hồ Chí Minh, tập 4. trang 283). “”Nay, tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu (tôi) cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài“.(Báo Cứu Quốc số 147 ngày 21.1 1946). Minh triết Hồ Chí Minh, bài học mới thấm thía trong câu chuyện cũ

Giáo sư Trần Văn Giàu trong bài viết Nhân cách lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luận về bảy phẩm chất nhân cách mà cũng là minh triết của Bác Hồ được con dân nước Việt và thế giới ngợi ca. Đó là : Ưu tiên đạo đức, Tận tụy quên mình, Kiên trì bất khuất, Khiêm tốn giản dị, Hài hòa kết hợp, Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý, Yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Giáo sư Trần Văn Giàu kết luận: “Xin mượn ý của một nhà báo ở châu Đại Dương để tạm kết chủ đề luận về nhân cách Hồ Chủ tịch: Người ta không thể trở thành một Cụ Hồ Chí Minh, nhưng ở Cụ Hồ, mỗi người có thể học một số điều làm cho mình trở thành tốt hơn”. 

Bác sĩ Vũ Đình Tụng đã kể câu chuyện Bức thư huyết lệ trong hàng vạn chuyện đời thường về Bác Hồ, xin được trích nguyên văn. 

” 8 giờ đêm – một đêm tháng Chạp năm 1946 – bác sĩ Vũ Đình Tụng phải mổ một trường hợp chiến thương quá đặc biệt và rất đau lòng: một chiến sĩ “sao vuông” rất trẻ, tuy vết thương nặng, đạn xé tung cả một khúc ruột mà miệng vẫn mỉm cười, cái nụ cười quá quen thuộc và thân thương đối với bác sĩ. Anh tự vệ Thủ đô ấy, người chiến sĩ gan góc ấy lại chính là Vũ Văn Thành, con trai út của bác sĩ. 

Suốt ngày hôm ấy, tôi đã phải mổ cưa gắp đạn và khâu vết thương cho hàng chục chiến sĩ nhưng đến trường hợp con tôi, thần kinh tôi căng lên một cách kinh khủng. Mấy người giúp việc khuyên tôi nên nghỉ tay, nhưng tôi vẫn cố kìm mình để giữ bình tĩnh gắp mảnh đạn cuối cùng trong thân thể người con. Xong việc, tôi loạng choạng rời khỏi bàn mổ. 

Các bác sĩ và những người giúp việc đã cố gắng nhiều, nhưng vết thương do quân thù gây ra quá nặng đã cướp đi mất Thành, con trai của tôi, anh của Thành là Vũ Đình Tín, tự vệ chiến đấu cũng vừa bị mất sau ngày Tổng khởi nghĩa, tôi đau đớn đến bàng hoàng. 

Một buổi chiều trời rét lắm, sau đêm Nôen cuối cùng ở bệnh viện Bạch Mai, bị bom đạn tàn phá, vào lúc tôi mổ xong một ca thương binh nhẹ thì bác sĩ Trần Duy Hưng, lúc bấy giờ giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ trân trọng trao cho tôi một bức thiếp của Hồ Chủ tịch. Tôi cảm động quá. Mới đầu tôi cứ ngỡ là một mệnh lệnh mới của Người. Nhưng thật không ngờ, đó lại là một bức thư riêng đầy tình cảm lớn lao của Bác chia đau thương với gia đình tôi. Khi đó, Bác gọi tôi là “Ngài”. 

“Thưa Ngài,
Tôi được báo cáo rằng: con giai Ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. 

Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. 

Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước – Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi, tinh thần họ luôn luôn sống với non sông Việt Nam. 

Họ là con thảo của Đức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ quốc. Những thanh niên đó là anh hùng dân tộc. Đồng bào và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên ơn họ. 

Ngài đã đem món quà quý báu nhất là con của mình, sẵn sàng hiến cho Tổ quốc. Từ đây, chắc Ngài sẽ thêm ra sức giúp việc kháng chiến để bảo vệ nước nhà thì linh hồn cháu ở trên trời cũng bằng lòng và sung sướng. 

Tôi thay mặt Chính phủ cảm ơn Ngài, và gửi Ngài lời chào thân ái và quyết thắng.
Tháng 1-1947
Hồ Chí Minh” 

Đọc xong bức thư, tôi thấy bàng hoàng. Bác bận trăm công nghìn việc, thế mà Bác vẫn nghĩ đến tôi, một gia đình đang có cái tang đau lòng như hàng vạn gia đình khác. 

Tôi thấy nỗi đau thương và sự hy sinh của gia đình mình trở thành nhỏ bé trong cái tình thương mênh mông và sự hy sinh cao cả của Bác đối với cả dân tộc. Tôi nhủ mình sẽ phải làm tốt công việc để xứng đáng với sự hy sinh của các con và khỏi phụ lòng Bác. 

Sau đó, tôi theo Bác lên Việt Bắc – căn cứ thần thánh của cách mạng Việt Nam. Từ một người thầy thuốc của xã hội cũ, một giáo dân ngoan đạo, tôi đã trở thành một người thầy thuốc tốt, một Bộ trưởng Bộ Thương binh xã hội của nước Việt Nam mới. 

Vũ Đình Tụng kể, Lê Thân ghi, theo báo Nghệ An, tháng 9-1994 

Tổ chức UNESCO tại kỳ họp Đại hội đồng lần thứ 24 ở Paris năm 1987 đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa“ do các đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Người trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, và Người đã dành cả cuộc đời mình cho sự giải phóng nhân dân Việt Nam, đóng góp cho cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của các dân tộc. 

19 tháng 5 là ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là ngày thành lập Việt Minh và khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Hành trình đến tự do hạnh phúc của dân tộc Việt đã trãi qua giành độc lập dân tộc và đấu tranh thống nhất Tổ quốc trong cuộc trường chinh thế kỷ . Minh triết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp đấu trang giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc quy non sông vào một mối. Những việc khác Bác có Di chúc để lại cho đời sau. Công lao và những biến đổi phần sau không thể và không nên quy hết về Người. Có một số uẩn khúc đời người cần có đủ tư liệu mới đánh giá đầy đủ. 

Bác Hồ có bài thơ “Chơi chữ” rất lạ vào những ngày đầu khởi lập nước Việt Nam mới.Đó là một kỳ thư, kinh Dịch độc đáo, một luận giải sứ mệnh và tự đánh giá của Bác:

Chơi chữ 
Hồ Chí Minh 
(Bản dịch của Nam Trân): 

Người thoát khỏi tù ra dựng nước,
Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay;
Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay! 

Nguyên tác:
Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,
Hoạn quá đầu thì thuỷ kiến trung;
Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại,
Lung khai trúc sản, xuất chân long. 

折字
Chiết tự
Chơi chữ
囚人出去或為國
患過頭時始見 忠
人有憂愁優點大
籠開竹閂出真龍 

Chiết tự là một hình thức phân tích chữ Hán ra từng bộ phận để thành những chữ mới, có ý nghĩa khác với ý nghĩa ban đầu. Theo lối chiết tự, bài thơ này còn có nghĩa đen như sau: chữ tù (囚) bỏ chữ nhân (人), cho chữ hoặc (或) vào, thành chữ quốc (國). Chữ hoạn (患) bớt phần trên đi thành chữ trung (忠). Thêm bộ nhân (人) đứng vào chữ ưu (憂) trong “ưu sầu” thành chữ ưu (優) trong “ưu điểm”. Chữ lung (籠) bỏ bộ trúc đầu (竹) thành chữ long (龍). 

Anh Phan Chí Thắng có bài thơ viên đá thời gian “Ảnh ngày 19 /5 36 năm trước”

Vườn cây che mát nhà sàn
Mặt ao in bóng dịu dàng trời mây
Người như còn sống nơi đây
Mắt cười ấm áp đủ đầy yêu thương
Huệ thơm ngan ngát tỏa hương
Bước chân khẽ vọng con đường Bác qua
Nước non đất Việt là nhà
Biển xa núi thẳm đều là chốn quê:

Bác thật sự Ưu tiên đạo đức, Tận tụy quên mình, Kiên trì bất khuất, Khiêm tốn giản dị, Hài hòa kết hợp, Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý, Yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Hải Như thơ về Người và Ghi chép của Sơn Tùng, tôi thường đọc lại

Vị tướng của lòng dân Võ Nguyên Giáp có nhiều đúc kết trí tụệ sâu sắc về Bác

2. BÁC HỒ NÓI ĐI ĐÔI VỚI LÀM CÓ LÝ CÓ TÌNH MẪU MỰC ĐẠO ĐỨC

Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng chuyên nghiệp, mẫu mực về đạo đức cách mạng, là tấm gương sáng về tự học suốt đời. Người nói: “Học ở đâu? Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học ở dân“. Người luôn nói và làm đi đôi., học không biết mỏi, dạy không biết chán. 

Bác viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Jêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm một người học trò nhỏ của các vị ấy..” Trích “Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng”, NXB Khoa học xã hội, H.1996, trang 152. (Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng). 

Nói và làm của Hồ Chí Minh điều gì cũng minh triết và thiết thực. Từ bài “Tâm địa thực dân” viết ở Pháp năm 1919 đến “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945. Từ “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” năm 1945 đến “Lời kêu gọi sau khi hội nghị Giơnevơ thành công” năm 1954. Từ “Lời phát biểu trong buổi đón tiếp Ủy ban Quốc tế” năm 1954 sau cuộc chiến tranh Đông Dương tàn khốc và dai dẳng 8,9 năm đến “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” công bố năm 1969 lúc cuộc chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn dữ dội và ác liệt nhất. Việc làm nào, lời nói nào của Bác Hồ đều là nói đi đôi với làm, là khuôn vàng thước ngọc của đạo đức cách mạng “cần, liêm, chính, chí công vô tư“. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ Quốc, tự do và hạnh phúc của dân. Người viết: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” Tư tưởng xuyên suốt của Người là “Việc gì lợi cho dân , ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân ta phải hết sức tránh” “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” 

Hồ Chí Minh có nhiều bài chuyên bàn về đạo đức và đạo đức cách mạng. Đó là các bài “Đạo đức công dân” (1-1955), Đạo đức cách mạng (6-1955; 12-1958), “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (2-1969). Người chủ trương phát triển văn hóa gắn liền với đời sống mới, kêu gọi thực hành đời sống mới trong mọi lĩnh vực, mọi tầng lớp và trong từng con người. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: ” Đời sống mới không phải là cái gì cũ cũng bỏ hết không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý…; Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm …; Cái gì mới mà hay thì ta phải làm” 

3. BÁC HỒ THỰC TIỄN QUYỀN BIẾN RẤT ÍT TRÍCH DẪN  

Ông Trường Chinh nói với ông Hà Đăng khi chiêm nghiệm về phong cách văn chương của chủ tịch Hồ Chí Minh: Bác Hồ rất ít trích dẫn. Lúc đầu tôi cũng cho là ngẫu nhiên. Về sau, hỏi trực tiếp, Bác nói: Mác, Ang ghen, Lê Nin nói rất đúng. Nhưng hoàn cảnh Mác, Ang ghen, Lê Nin hoàn toàn khác hoàn cảnh của chúng ta. Vậy nên muốn nói gì, trước hết phải hiểu cho thật rõ điều mà các vị ấy muốn nói, nói cho phù hợp với hoàn cảnh của mình, cho dân mình dễ hiểu. Do đó, Bác viết bằng sự suy nghĩ của mình. Bác rất ít trích dẫn”. (Hà Đăng 2002. Trường Chinh, người anh cả trong làng báo. Trong sách: Trường Chinh, một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 320). Ông Trường Chinh là một trong những người làm việc lâu nhất, thường xuyên nhất với Bác. Những chắt lọc và nhận xét trên đây chắc chắn là điều cần cho chúng ta suy ngẫm. 

“Bác viết bằng sự suy nghĩ của mình. Bác rất ít trích dẫn” đó là phong cách văn chương của Hồ Chí Minh. Những người thông hiểu lịch sử, văn hóa, hiểu sâu các điển cố văn chương, chuyện hay tích cổ sẽ có thể chỉ ra vô số những điều trùng khớp của những lời hay ý đẹp từ xa xưa đã được Bác vận dụng một cách hợp lý hợp tình trong thời đại mới. Bác là người chú trọng ngôn ngữ giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu, có tính thuyết phục cao, có nhịp điệu. Một thí dụ nhỏ như câu: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào/ Học tập tốt, lao động tốt/ Đoàn kết tốt, kỹ luật tốt/ Giữ gìn vệ sinh thật tốt/ Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm” là câu sáu chữ có nhịp điệu như câu thơ cổ.   

Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Suốt đời Bác làm hai việc chính là kiến tạo Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thành một mặt trận rộng rãi “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công thành công, đại thành công” thực hiện “kế sách một chữ đồng” giành độc lập dân tộc và mở đường thống nhất Việt Nam.

GSTranTheThong1

4. HỒ CHÍ MINH TRỌN ĐỜI MINH TRIẾT

“Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu tại cuộc Hội thảo Quốc tế Hồ Chí Minh Việt Nam và Hòa Bình Thế Giới, Calcutta Ấn Độ 14-16 tháng 1 năm 1991. Lưu bút của đại tướng Võ Nguyên Giáp thân tặng Trần Thế Thông, (Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam) Xuân Tân Mùi năm 1991.

Bác Hồ thật đúng là: “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh. Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành. Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy. Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH”.

Một số vĩ nhân còn lầm lẫn và khuyết điểm vào một thời điểm nào đó trong đời, riêng Bác Hồ thì sự lầm lẫn và khuyết điểm chưa tìm thấy.

Hồ Chí Minh trọn đời minh triết.

Vietnammoitulieulichsu

5. HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆT NAM MỚI

Việt Nam mới được tính từ ngày 2 tháng 9 năm 1945, đó là Việt Nam Dân chủ Cộng hòaBác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự cân nhắc đúng tầm mức chi phối thời cuộc của Pháp, Trung Hoa Dân Quốc, Anh, Trung Hoa Cộng sản, Mỹ, Nga. Sự lợi dụng mau lẹ và kiên quyết trước phong trào vô sản quốc tế và cộng sản đang trỗi dậy, ngọn nến hoàng cung vương triều Nhà Nguyễn phong kiến đang suy tàn nhưng có những lực cản thật mạnh mẽ, hệ thống thuộc địa thực dân cũ đã lung lay và hệ thống thực dân mới đang chuyển đổi nhanh chóng. Sự cần thiết đánh giá đúng tầm vóc và vị thế lịch sử của Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng,  Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Đế Duy Tân, Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diệm, Hoàng Xuân Hãn, Trần Văn Giàu, Phạm Quỳnh,  Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Trường Tam, Phan Văn Giáo, … Bài học lịch sử là khối vàng ròng giá trị to lớn cần thấu hiểu và cắt nghĩa cho đúng. Sự thật lịch sử sáng tỏ dần.

5.1. Giành thời cơ vàng nghìn năm có một

Ngày 2 tháng 9 là ngày khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng là ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 70 năm nhìn lại lịch sử trước và trong những ngày cách mạng tháng tám, đánh giá tầm vóc lịch sử của ngày Việt Nam độc lập.

Hồ Chí Minh chọn “Đường kách mệnh” phát động “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta“, làm cách mạng theo Lê Nin, mà không chọn cải lương tôn quân theo Không Tử. Người chọn theo phe Đồng Minh mà không chọn theo phe Trục của Nhật, Đức, Ý như vua Bảo Đại và chính quyền Trần Trọng Kim. Người chọn Liên Xô, Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng Sản Trung Quốc làm chỗ dựa “giành và giữ chính quyền” chứ không chọn Trung Hoa Dân Quốc, Pháp, Anh để duy trì chế độ quân chủ và sự cai trị trở lại của Pháp như cũ.

Đọc lại và suy ngẫm bài viết của Bác Hồ về “Khổng Tử” đăng trên báo “Thanh Niên”, cơ quan huấn luyện của tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu ngày 20/2/1927. Hồ Chí Minh chọn đường lối cách mạng thì theo phương pháp và cách tổ chức của Lê Nin mặc dù suốt đời Người ưu tiên đạo đức thực hành đức trị theo Khổng Tử.

Bác viết: “Khổng Tử đã viết “Kinh Xuân Thu” để chỉ trích “những thần dân nổi loạn” và “những đứa con hư hỏng”, nhưng ông không viết gì để lên án những tội ác của “những người cha tai ác” hay “những ông hoàng thiển cận”. Nói tóm lại, ông rõ ràng là người phát ngôn bênh vực những người bóc lột chống lại những người bị áp bức… Nếu Khổng Tử sống ở thời đại chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm cũ thì ông sẽ trở thành phần tử phản cách mạng. Chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ trái với dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin!”.

Hồ Chí Minh sọạn thảo Báo cáo của Việt Nam gửi Quốc tế Cộng sản ngày 12 tháng 7 năm 1940. Tài liệu tổng hợp, phân tích và đánh giá đầy đủ, toàn diện tình hình và cực kỳ súc tích, thể hiện tầm nhìn thiên tài và nhãn quan chính trị kiệt xuất, sâu sắc hiếm thấy. Người viết:

Tóm lại, những điều kiện khách quan cho phép chúng tôi có hi vọng thành công. Song, lực lượng chủ quan- lực lượng của Đảng còn quá yếu. Như trên đã nói, một đảng mới mười tuổi lại trãi qua hai lần khủng bố lớn, số cán bộ có kinh nghiệm đấu tranh hiện còn đang rên xiết trong tù ngục, khiến đảng viên và quần chúng như “rắn mất đầu” không thể tận dụng cơ hội tốt “nghìn năm có một”.

Chúng tôi liệu có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh đó, khắc phục khó khăn đó, giúp Đảng hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó hay không? Có.

Chúng tôi nhất định không thể từ trong đánh ra. Chúng tôi chỉ có cách từ ngoài đánh vào. Nếu chúng tôi có được: 1) Tự do hành động ở biên giới; 2) Một ít súng đạn; 3) Một chút kinh phí; 4) Vài vị cố vấn thì chúng tôi nhất định có thể lập ra và phát triển một căn cứ địa chống Pháp, chống Nhật – đó là hi vọng thấp nhất. Nếu chúng tôi có thể mở rộng Mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức, có thể lợi dụng mâu thuận giữa các nước đế quốc thì tiền đồ tươi sáng là có thể nhìn thấy được. Tôi rất hi vọng các đồng chí giúp tôi nhanh chóng giải quyết vấn đề này. 12.7.40.” (Hồ Chí Minh Toàn tập t. 3 tr. 162-174).

Tháng 5 năm 1941 các lực lượng ái quốc, trong đó nòng cốt là Đảng Cộng Sản Đông Dương, dẫn đầu bởi Hồ Chí Minh, tập họp tại một địa điểm gần biên giới Việt- Trung, tham gia một tổ chức đứng về phía Đồng Minh giành độc lập cho Việt Nam gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh, thường được gọi vắn tắt là Việt Minh. Tổ chức này xây dựng một chiến khu do họ kiểm soát ở biên giới Việt Trung. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp thành lập một trung đội 34 người mang tên Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (một trong những tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam), ngay sau khi thành lập đã tiến đánh quân Nhật, mở rộng chiến khu. Trước khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, chiến khu đã bao gồm nhiều tỉnh vùng đông Bắc Bắc Bộ, gọi là chiến khu Việt Bắc. Phản ứng trước sự kiện Nhật đảo chính Pháp, ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” nhằm phát động cao trào kháng Nhật cứu nước.

Trước tình thế này, Nhật đề nghị giúp đỡ chính quyền vua Bảo Đại vãn hồi trật tự và ổn định tình hình, nhưng vua Bảo Đại đã từ chối, ông đã nói một câu nói nổi tiếng: “Ta không muốn một quân đội nước ngoài làm đổ máu thần dân ta”. Vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim đã trói tay quân Nhật, để nhường lợi thế lại cho “người nhà” mình.

Cách mạng tháng Tám là việc Việt Minh tiến hành khởi nghĩa buộc chính phủ Đế quốc Việt Nam do vua Bảo Đại phê chuẩn, được Nhật bảo hộ, bàn giao chính quyền trung ương và các địa phương cho lực lượng này trong tháng 8 năm 1945. Việc chuyển giao quyền lực được chính phủ Đế quốc Việt Nam thực hiện cơ bản trong hoà bình, ít có đụng độ dù xảy ra tranh chấp với lực lượng Nhật, Đại Việt, Hòa Hảo,… ở một số địa phương. Lực lượng quân đội Nhật tại Việt Nam không có phản ứng đáng kể trước những hoạt động của Việt Minh vì lúc này Nhật đã tuyên bố đầu hàng đồng minh và đang chờ quân đồng minh tới giải giáp, hơn nữa vua Bảo Đại và Thủ tướng Đế quốc Việt Nam Trần Trọng Kim đã từ chối lời đề nghị của Tư lệnh quân đội Nhật giúp chính phủ chống lại Việt Minh.

Tại thời điểm cách mạng tháng Tám  thì các đảng phái khác như Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng… cũng có hành động tương tự buộc chính quyền Đế quốc Việt Nam tại một số ít địa phương trao quyền lực cho họ. Trừ một số địa phương tỉnh lỵ Hải Ninh (nay thuộc Quảng Ninh), Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Vĩnh Yên nằm trong tay Việt Quốc, Việt Cách và quân Tưởng; còn lại chính quyền Việt Minh đã được thiết lập trên toàn bộ các tỉnh lỵ (muộn nhất 28/8: Đồng Nai Thượng, Hà Tiên), hầu hết địa phương trong cả nước. Một số nơi có khó khăn hơn như Hà Giang, quân Tưởng bức rút quân Nhật (29/8), Cao Bằng (giành chính quyền 21/8 nhưng sau đó quân Tưởng tràn vào), Lạng Sơn (giành chính quyền sau đó Tưởng tràn vào, tháng 10 mới thành lập chính quyền cách mạng), Vĩnh Yên (Quốc dân đảng nắm giữ), Hải Ninh – Móng Cái (Cách mệnh Đồng Minh hội nắm), một số địa bàn ở Quảng Ninh (do Đại Việt, Cách mệnh Đồng Minh hội nắm), ở Đà Lạt (quân Nhật còn kháng cự mạnh như ngày 3/10)…

Kết quả sau khi cướp chính quyền và vua Bảo Đại thoái vị, “Đáp ứng lời kêu gọi của Ủy ban, tôi sẵn sàng thoái vị. Trước giờ quyết định này của lịch sử quốc gia, đoàn kết là sống, chia rẽ là chết. Tôi sẵn sàng hy sinh tất cả mọi quyền lợi, để cho sự đoàn kết được thành tựu, và yêu cầu đại diện của Ủy ban sớm tới Huế, để nhận bàn giao.” (thư của vua Bảo Đại gửi Việt Minh).  “Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị” (Chiếu Thoái vị của vua Bảo Đại). Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Việt Minh đã mời vua Bảo Đại tham gia làm cố vấn tối cao của Chính phủ Hồ Chí Minh. Sau này, khi vua Bảo Đại ra nước ngoài thì việc trở về hay không là do sự quyết định của vua như hồi ký của vua Bảo Đại kể lại. Đặc biệt là tài liệu Một cơn gió bụi, cuốn Hồi ký nổi tiếng của nhà sử học, thủ tướng Trần Trọng Kim (1883–1953) xuất bản năm 1949, đã chỉ rõ tóm lược quãng đời làm chính trị của ông từ năm 1942 đến năm 1948. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hai năm 1945 – 1946, cũng đã có 8 thư và điện gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman. Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Harry Truman ngày 16/2/1946 (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, tr 91- 91), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam giành độc lập dân tộc, đứng về phía đồng minh chống phát xít; sự phi nghĩa của cuộc xâm lược mà thực dân Pháp đang đẩy mạnh ở Đông Dương trái ngược những lập trường Mỹ đã nêu trong các hội nghị quốc tế.

HoChiMinh VoNguyenGiap

5.2 Bình sinh kẻ phi thường giữ nước

Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại tướng Võ Nguyên Giáp là ẩn số Chính Trung. Cách mạng là sửa lại cho đúng để hợp thời thế. Chí Thiện là Chính Trung dĩ bất biến ứng vạn biến. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491– 1585) trong Trung Tân quán bi ký, viết năm 1543 có nói: Vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê… Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện (xem thêm: Ngày xuân đọc Trạng Trình). Tướng Giáp biết nhiều, tâm đắc với “dĩ công vi thượng”. Tướng Giáp hiểu rõ Chính Trung là Chí Thiện của Hồ Chí Minh.

“Kẻ phi thường” xin thưa, đó là chữ của Bác Hồ nói về vua Lý Công Uẩn và vua Quang Trung, nhưng chính Bác Hồ cũng tỏ rõ chí hướng việc chính của đời mình là noi theo gương sáng của tiền nhân để làm Người “áo vải cờ đào. giúp dân dựng nước xiết bao công trình”.Bác Hồ bình đẳng với con dân Việt. Bác tự coi mình như người lính vâng mệnh quốc dân ra mặt trận. Bác Hồ Chí Minh uy nghi như tượng đài của chính những người lính vô danh hiến mình cho Tổ Quốc quyết sinh. Hình tượng của Bác với CON NGƯỜI bình đẳng một nhân xưng. Hồ Chí Minh tuyển tập, bài Lịch sử nước ta, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội năm 2002, trang 596, Bác Hồ đã viết về Lý Công Uẩn:

“Công Uẩn là kẻ phi thường
Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta
Mở mang văn hóa nước nhà
Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân.”

Bác Hồ viết về Nguyễn Huệ cũng trong sách và bài viết trên trang 598 :

“Nguyễn Huệ là kẻ phi thường
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu,
Ông đà chí cả mưu cao,
Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.
Cho nên Tàu dẫu làm hung
Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà.”

Kẻ phi thường” là chữ của Bác Hồ dùng để đánh giá và tôn vinh vị vua khai quốc Lý Thái Tổ Công Uẩn, cũng là chữ đánh giá công bằng lịch sử đối với người anh hùng áo vải Quang Trung hoàng đế Nguyễn Huệ. Bác Hồ ngày 19 tháng 5 năm 1965 thăm Khúc Phụ bày tỏ sự đánh giá công tâm học Khổng Tử và chính Người đã suốt đời ưu tiên thực hành đạo đức nhưng chính Bác đã lựa chọn “đường kách mệnh” theo Lê Nin.

Kẻ phi thường” “đường kách mệnh” có những chữ “lạ”. Hồ Chí Minh là nhà thông thái, hẵn nhiên không phải dùng nhầm chữ. Đó là câu chuyện còn để ngõ cho đời sau.

Hồ Chí Minh có nói “Các Vua Hùng đã có công dựng nước.  Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” trước cán bộ Đại đoàn Quân tiên phong tại cửa Đền Giếng trong khu di tích Đền Hùng thuộc núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Hồ Chí Minh cũng là kẻ phi thường giữ nước như Lý Công Uẩn và Nguyễn Huệ.

Trên bảy mươi năm sau nhìn lại lịch sử trước và trong những ngày cách mạng tháng tám, đánh giá tầm vóc lịch sử của ngày Việt Nam độc lập, càng đọc càng thấm thía nhiều điều sâu sắc. Hồ Chí Minh đã hiểu đúng dịch lý và giành được lợi thế ở bối cảnh quốc tế nhiễu loạn thời đó.

ChinhphuHoChiMinh1961

5.3 Hồ Chí Minh khéo tập hợp hiền tài

Bác kiên quyết khôn khéo tổ chức tuyên truyền cách mạng, giỏi thu phục tập hợp hiền tài. Lãnh đạo Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đầu năm 1961, (ảnh Phan Chí) đã soi thấu nhiều góc khuất của bước ngoặt lịch sử chiến tranh Đông Dươngminh triết Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh – Ẩn số Việt Nam “Đó là lãnh tụ của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thành công nhất mà chúng ta thấy trong thế kỉ này”. Bác Hồ rất quý trọng tình cảm gia đình. Ở Việt Bắc Bác Hồ thường đến thăm các gia đình người dân tộc. “Xa nhà chốc mấy mươi niên. Đêm qua nghe tiếng mẹ hiền ru con”.“Quê ta ngọt mía Nam Đàn Bùi khoai chợ Rộ, thơm cam Xã Đoài Ai về ai nhớ chăng ai Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh”. “Chốc đà mấy chục năm trời. Còn non, còn nước, còn người hôm nay”.  Sự thật các ẩn ngữ dần được giải mã. Hồ Chí Minh – Ẩn số Việt Nam.

Võ Nguyên Giáp tự trong sâu thẳm Võ Nguyên Giáp ẩn số Chính Trung, là một trong những câu chuyện đời thực, thể hiện tài minh quân của chủ tịch Hồ Chí Minh. Chuyện luật sư Vũ Trọng Khánh “Người chắp bút dự thảo Hiến pháp đầu tiên” cũng là trong nhiều dẫn liệu lịch sử lịch sử nhớ lại và suy nghẫm.

Hồ Chí Minh và Bảo Đại qua Ngọn nến Hoàng Cung cũng ẩn chứa nhiều điều tinh tế. Hoàng Hậu Nam Phương viết thư cho Quốc trưởng Bảo Đại năm 1946 để chuyển đạt thông tin: “Quốc trưởng của em. Em không đọc chữ mà đọc khoảng không giữa hai dòng chữ. “Ngài sẽ rất có ích cho chúng tôi nếu ở lại ở bên Tàu. Đừng lo ngại gì cả. Khi nào sự trở về của Ngài là cần thiết, tôi sẽ báo sau. Xin Ngài cứ tĩnh dưỡng để sẵn sàng cho công tác mới. Ôm hôn thắm thiết. Hồ Chí Minh”.Có khi ta gặp một người mà người đó thay đổi cả cuộc đời ta.” Hồ Chí Minh ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 đã gửi một phái đoàn ngoại giao đến Trùng Khánh để tái khẳng định tình hữu nghị Việt Trung và để thăm dò việc Tưởng Giới Thạch muốn hai nước sẽ có quan hệ thế nào sau khi ký Hiệp ước Hoa Pháp. Đoàn do Thứ trưởng Ngoại giao Nghiêm Kế Tổ, một thành viên Việt Quốc có nhiều mối quan hệ ở Trung Quốc, làm trưởng đoàn, hai người còn lại là thành viên Việt Minh. Cố vấn Vĩnh Thụy (Bảo Đại) được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử đi cùng đoàn vào đêm trước khi ba người khởi hành.

Hồ Chí Minh và Bảo Đại, sự thật lịch sử đang ngày một sáng tỏ Minh triết Hồ Chí Minh nghiên cứu lịch sử của Hoàng Kim nhằm hiểu đúng thực chất Bước ngoặt lịch sử chiến tranh Đông Dương: Vì sao không có được giải pháp hợp tác giữa Hồ Chí Minh với Bảo Đại, Ngô Đình Diêm, Nguyễn Trường Tam, Trần Trọng Kim, Nguyễn Hải Thần, Phạm Quỳnh, Hoàng Xuân Hãn và Phan Văn Giáo? Trong tất cả những nhân vật nêu trên thì người tâm điểm của chìa khóa lịch sử Việt Nam mới là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quốc trưởng Bảo Đại,

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là minh-triet-ho-chi-minh-4.jpg

Đánh giá về bình sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh sâu sắc nhất có lẽ đó là bài thơ: “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh. Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành. Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy. Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH”. Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời có nói : “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.  Suốt đời Bác làm hai việc chính là kiến tạo Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thành một mặt trận rộng rãi “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công thành công, đại thành công” thực hiện “kế sách một chữ đồng” giành độc lập dân tộc và mở đường Hồ Chí Minh thống nhất đất nước Việt Nam. Minh triết Hồ Chí Minh tư liệu góp phần tìm tòi bằng chúng sự thật lịch sử Minh triết Hồ Chí Minh https://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-triet-ho-chi-minh/

Tài liệu “Cuộc phỏng vấn trực tiếp Cựu hoàng Bảo Đại trước khi ông qua đời”  đăng trên Tạp chí Xưa và Nay số 456 tháng 2 năm 2015, được trích thuật trong nghiên cứu lịch sử này, sẽ giúp chúng ta một góc nhìn đối thoại giữa Cựu hoàng Bảo Đại đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh mà không cắt xén, biên tập lại, sửa chữa, hoặc không có bất cứ một lời bình phẩm nào. Tác phẩm này là quan trọng, cần thiết và đáng tin cậy. Đề cương câu hỏi của nhà sử học  Fédéric Mitterand, cháu của Tổng thống Mitterand bố cục thật tuyệt vời và Cựu hoàng Bảo Đại cũng đã trả lời “hay và thật rõ ràng”. Dư âm buổi phỏng vấn lắng đọng. Tài liệu này cùng với “Danh mục một số tư liệu lịch sử tuyển chọn” mời quý bạn đọc lại cẩn thận thật chậm và kỹ để tự suy ngẫm. Tài liệu chính gồm: 1) Ngọn nến Hoàng cung bộ phim lịch sử của đạo diễn Nguyễn Quốc Hưng, đoạt Giải thưởng: Cánh Diều Vàng Việt Nam cho Phim truyền hình dài tập xuất sắc nhất; 2) Chính phủ của Bảo Đại và Trần Trọng Kim; 3) Tài liệu cho sử gia; 4) Trần Chung Ngọc và sachhiem.net ;5)  Đế quốc Việt Nam; 6) Một cơ hội bị bỏ lỡ ở Việt Nam năm 1945?; 7) Học giả Trần Trọng Kim; 8) Hoàng Xuân Hãn con người và chính trị;  9) Nhà văn hóa Phạm Quỳnh; 10) Bảo Long – Hoàng thái tử cuối cùng thời quân chủ VN; 11) Vài suy nghĩ về cựu hoàng Bảo Đại; 12) Phan Văn Giáo người đứng đầu miền Trung thời Cựu hoàng Bảo Đại làm Quốc trưởng; 13) Tư liệu quý ngày 2 tháng 9; 14) Ngoại giao Việt Nam: Những năm đầu thành lập

Minh triết Hồ Chí Minh lược khảo năm ý chính: 1) Việt Nam Hồ Chí Minh là biểu tượng Việt. 2) Bác Hồ nói đi đôi với làm có lý có tình, mẫu mực đạo đức. 3) Bác Hồ thực tiễn, quyền biến, năng động, rất ít trích dẫn. 4) Hồ Chí Minh trọn đời minh triết 5) Hồ Chí Minh với Việt Nam mới: Giành thời cơ vàng ngàn năm có một; Bình sinh kẻ phi thường giữ nước Hồ Chí Minh khéo tập hợp hiền tài

MINH TRIẾT HỒ CHÍ MINH
Hoàng Kim

Thanh nhàn ta đọc chuyện trăm năm.
Người hiểu thường khi nói ít lầm.
Sự đọc thung dung còn đọng lại.
Trãi mình trong cõi thấu nhân văn

xem tiếp Minh triết Hồ Chí Minh

LÀNG MINH LỆ QUÊ TÔI
Hoàng Kim

Linh Giang Đình Minh Lệ
Nguồn Son nối Phong Nha
Đất Mẹ vùng di sản
Đá Đứng chốn sông thiêng.
Bến Lội Đền Bốn Miếu
Cầu Minh Lệ Rào Nan
Lời thề trên sông Hóa
Lời dặn của Thánh Trần
Ta về với Linh Giang

“Cao Cát Mạc Sơn
Sơn Hà Cảnh Thổ
Văn Võ Cổ Kim
Linh Giang thông đại hải
Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn
Đình Bảng Cao Lao Hạ
Miếu cổ thủy sơn thần”
.

LINH GIANG
Hoàng Kim


Nhà mình gần ngã ba sông
Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình
Linh Giang sông núi hữu tình
Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con

“Chèo thuyền cho khuất bến Son
Để con khỏi chộ nước non thêm buồn “

Câu ru quặn thắt đời con
Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ

Ra đi từ bấy đến chừ
Lặn trong sương khói bến đò sông quê
Ngày xuân giữ vẹn lời thề
Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.

ĐÌNH MINH LỆ
Hoàng Kim

Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.

ĐÁ ĐỨNG CHỐN SÔNG THIẾNG
Hoàng Kim

Con về Đá Đứng Rào Nan
Cồn Dưa Minh Lệ của làng quê hương
Linh Giang chảy giữa vô thường
Đôi bờ thăm thẳm nối đường tử sinh.

BẾN LỘI ĐỀN BỐN MIẾU
Hoàng Kim

Bến Lội, Bốn Miếu tinh anh
Cồn Dưa, Đá Đứng kết thành Bắc Nam
Rào Nan, Chợ Mới, Nguồn Son
Làng tôi khoai lúa thơm hương quê nhà

TA VỀ VỚI LINH GIANG
Hoàng Kim

Ta về với Linh Giang
Lời thề trên sông Hóa
Ta khóc khi ra đi
Tâm bình lặng lúc về

Linh Giang Đình Minh Lệ
Nguồn Son nối Phong Nha
Đất Mẹ vùng di sản
Cầu Minh Lệ Rào Nan

Hoành Sơn với Linh Giang
Đá Đứng chốn sông thiêng
Sông Nhật Lệ Lũy Thầy
Tuyến ba tầng thủ hiểm

Nam tiến của người Việt
Cao Biền trong sử Việt
Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Đào Duy Từ còn mãi

Bài ca Trường Quảng Trạch
Lời dặn của Thánh Trần
Cuối dòng sông là biển
Hoa Đất thương lời hiền

Ta về với Linh Giang
Sông đời thao thiết chảy

LỜI THỀ TRÊN SÔNG HÓA
Hoàng Kim


Sông Hóa ơi Bạch Đằng Giang
Ta đến nơi đây chẳng một lần
Lời thề sông núi trời đất hiểu
Lời dặn của Thánh Trần

Sông Hóa ơi hời, ơi Linh Giang
Quê hương liền dải tụ trời Nam
Minh Lệ, Hưng Long hai bầu sữa
Hoàng Gia trung chính một con đường.

Rào Nan Đá Đứng chốn sông thiêng
Nguồn Son Chợ Mới đẹp ân tình
Minh Lệ đình xưa thương làng cũ
Nguyện làm hoa đất của quê hương.

Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.

LINH GIANG TRONG LỊCH SỬ

Sông Gianh (Linh Giang) Hoành Sơn, Đèo Ngang, Sông Nhật Lệ, thành phố Đồng Hới, Di sản thiên nhiên thế giới vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là sáu biểu trưng đặc sắc của tỉnh Quảng Bình về địa chính trị, du lịch sinh thái, lịch sử, địa lý, văn hóa. Sông Gianh là biểu tượng chính.

xem tiếp Làng Minh Lệ quê tôi; Một gia đình yêu thương

Nếp nhà đẹp văn hóa
Một gia đình yêu thương
Một gia đình yêu thương

CÂU CHUYỆN ẢNH THÁNG MỘT
Hoàng Kim

Mừng niềm vui bạn quý
Xuân ấm áp tình thân
Ngày cưới con thầy Lợt
Bạn hữu cùng chung vui
xem tiếp Chào ngày mới 9 tháng 1

Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây cp nht mi ngày

Video yêu thích

Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
Quà tặng cuộc sống yêu thích
Vietnamese food paradise
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

HỒ CHÍ MINH ẨN SỐ VIỆT NAM
Hoàng Kim
Hồ Chí Minh – Ẩn số Việt Nam là bộ phim nghiên cứu lịch sử có giá trị. 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam.

Hồ Chí Minh ẩn số Việt Nam là một phim tiểu sử, bộ phim tập trung kể lại cuộc đời của Hồ Chủ tịch, từ khi còn là cậu bé Nguyễn Sinh Cung, đến những ngày bôn ba ở nước ngoài tìm đường cứu nước, rồi trở về lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam.Những người làm phim cố gắng tìm hiểu về con người Hồ Chí Minh, vốn vẫn là “ẩn số” đối với họ, dựa trên nghiên cứu của các học giả quen thuộc như Douglas Pike, William Duiker.
“Đó là lãnh tụ của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thành công nhất mà chúng ta thấy trong thế kỉ này”.

Xem tiếp
Minh triết Hồ Chí Minh
Bước ngoặt lịch sử chiến tranh Đông Dương

BacHooVietBac

Bác Hồ rất quý trọng tình cảm gia đình. Ở Việt Bắc Bác Hồ thường đến thăm các gia đình người dân tộc. “Xa nhà chốc mấy mươi niên. Đêm qua nghe tiếng mẹ hiền ru con”.“Quê ta ngọt mía Nam Đàn Bùi khoai chợ Rộ, thơm cam Xã Đoài Ai về ai nhớ chăng ai Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh”. “Chốc đà mấy chục năm trời. Còn non, còn nước, còn người hôm nay”.  Sự thật các ẩn ngữ dần được giải mã. Hồ Chí Minh – Ẩn số Việt Nam.


HỒ CHÍ MINH VÀ BẢO ĐẠI

Hoàng Kim
Hoàng Hậu Nam Phương viết thư cho Quốc trưởng Bảo Đại năm 1946 để chuyển đạt thông tin: “Quốc trưởng của em. Em không đọc chữ mà đọc khoảng không giữa hai dòng chữ. “Ngài sẽ rất có ích cho chúng tôi nếu ở lại ở bên Tàu. Đừng lo ngại gì cả. Khi nào sự trở về của Ngài là cần thiết, tôi sẽ báo sau. Xin Ngài cứ tĩnh dưỡng để sẵn sàng cho công tác mới. Ôm hôn thắm thiết. Hồ Chí Minh”.Có khi ta gặp một người mà người đó thay đổi cả cuộc đời ta.

Hồ Chí Minh ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 đã gửi một phái đoàn ngoại giao đến Trùng Khánh để tái khẳng định tình hữu nghị Việt – Trung và để thăm dò việc Tưởng Giới Thạch muốn hai nước sẽ có quan hệ thế nào sau khi ký Hiệp ước Hoa-Pháp. Đoàn do Thứ trưởng Ngoại giao Nghiêm Kế Tổ, một thành viên Việt Quốc có nhiều mối quan hệ ở Trung Quốc, làm trưởng đoàn, hai người còn lại là thành viên Việt Minh. Cố vấn Vĩnh Thụy (Bảo Đại) được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử đi cùng đoàn vào đêm trước khi ba người khởi hành.

HỒ CHÍ MINH VÀ BẢO ĐẠI tài liệu nghiên cứu lịch sử của Hoàng Kim về Bước ngoặt lịch sử chiến tranh Đông Dương. Ngày này năm xưa CNM365, đọc lại và suy ngẫm.


Ngọn nến Hoàng Cung, tập cuối

Trước đó, Pháp bại, Nhật hàng, Việt Minh tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19 tháng 8 năm 1945, vua Bảo Đại thoái vị ngày 25 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945.

Đế quốc Pháp mau lẹ cho lực lượng quân đội từ Miến Điện bằng máy bay tới ngay Tân Sơn Nhất ngày 11 tháng 9 năm 1945. Toán quân đầu tiên gồm 300 người, chiếm ngay các cơ sở quan trọng tại Sài Gòn. Sau đó sư đoàn 9 bộ binh và một liên đoàn thiết giáp quân Pháp đổ bộ vào Vũng Tầu và Sài Gòn cho đến ngày 11 tháng 10 năm 1945 .

Từ ngày 12 tháng 10 năm 1945 đến ngày 5 tháng 2 năm 1946, thực dân Pháp tung quân đánh rộng ra các vùng phụ cận của Sài Gòn Chợ Lớn, chiếm Biên Hòa, Thủ Dầu Một . Ngày 25 tháng 10 năm 1945, Pháp chiếm Mỹ Tho. Ngày 28, 29 và 30 tháng 10 năm 1945 Pháp lần lượt chiếm Gò Công, Vĩnh Long và Cần Thơ. Ngày 8 tháng 11 năm 1945 Pháp chiếm Tây Ninh, ngày 12 tháng 11 năm 1945 Pháp chiếm Nha Trang, ngày 1 tháng 12  năm 1945 Pháp chiếm Ban Mê Thuột. Sau đó, từ ngày 9 tháng 1 năm 1946 đến ngày 5 tháng 2 năm 1946 Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mâu lần lượt rơi vào tay địch. Tới tháng 2 năm 1946, căn bản đế quốc Pháp đã kiểm soát được Nam kỳ, Trung kỳ, Campuchia và một phần của Lào, lý do vì Việt Minh ở những vùng này yếu hơn và ít hơn. Đế quốc Pháp đã đưa vào Đông Dương trong giai đoạn này là  50,000 người với  7,400 xe cộ, trong đó có 630 người bị chết, mất tích và khoảng 1,030 người bị thương.

Đế quốc Pháp mưu toan cướp nước ta một lần nữa. Ngày 8 tháng 1 năm 1946, tướng Leclerc đã sang Trùng Khánh thương thuyết cùng Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch. Sau đó họ điều đình với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mượn tay Pháp đuổi Tàu, Việt Minh đã đồng ý cho Pháp vào thay thế quân Tàu ở miền Bắc . Ngày 5 tháng 3 năm 1946, Pháp đổ bộ Hải Phòng và ngày 18 tháng 3 năm 1946, Pháp vào Hà Nội.

Pháp tham gia Chiến tranh Đông Dương khởi đầu với lý do vì ý muốn giữ Đông Dương là Liên bang Đông Dương tự trị trong Liên hiệp Pháp mới được thành lập – theo tuyên bố ngày 24 tháng Ba năm 1945 của Chính phủ lâm thời De Gaulle và được quy định trong Hiến pháp Pháp năm 1946 – sau khi người Nhật đã bại trận và mất quyền kiểm soát Đông Dương. Động cơ thúc đẩy Pháp tham chiến mang tính chính trị và tâm lý hơn là kinh tế[14]. Những người Pháp ủng hộ cuộc chiến cho rằng nếu Pháp để mất Đông Dương, sở hữu của Pháp tại hải ngoại sẽ nhanh chóng bị mất theo[15] . Tướng De Gaulle là chính khách nổi tiếng của Pháp, lúc đó là thủ tướng Pháp sau năm 1959 là tổng thống Pháp  cùng các chính khách lãnh đạo Pháp đều cho rằng chiếm giữ các trung tâm dân số và mở rộng dần theo kiểu “vết dầu loang” mà người Pháp đã thực hiện rất thành công ở Maroc và Algérie, thì cuộc chiến ở Việt Nam sẽ chỉ có quy mô hơn một chút. Do đó, Pháp đã dốc sức vào một cuộc chiến mà khởi đầu họ tin tưởng rằng là sẽ chiếm ưu thế về quân sự và sớm kết thúc . Nhưng sự thật chiến dịch Việt Bắc là bước ngoặt lịch sử mà lực lượng Việt Minh đã phát triển ngày càng mạnh và kiểm soát được nhiều vùng lãnh thổ ngày càng rộng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với chính sách của Việt Minh là nhất quán, từ tháng 7 năm 1945, lực lượng này đã sớm gửi đến OSS một tuyên bố: “Chúng tôi, Việt Minh, công bố yêu cầu sau đây về chính sách tương lai ở Đông Dương thuộc Pháp đến người Pháp và các quan sát viên: 1. Một quốc hội bầu theo phổ thông đầu phiếu. Nó lập pháp cho đất nước. Một thống đốc Pháp quyền Chủ tịch cho đến khi tính chất độc lập chúng tôi được đảm bảo. Thống đốc sẽ chọn một nội các hoặc một nhóm các cố vấn chấp nhận bởi quốc hội. Các quyền hạn cụ thể của các cơ quan này có thể được phát triển trong tương lai. 2. Độc lập sẽ được trao cho đất nước này trong một tối thiểu năm năm và tối đa là mười năm. 3. Tài nguyên thiên nhiên của đất nước sẽ trở lại cư dân của nó sau khi bồi thường công bằng cho các chủ sở hữu hiện tại. Pháp sẽ nhận được những lợi ích kinh tế. 4. Tất cả quyền tự do được Liên Hợp Quốc công bố sẽ được đảm bảo ở Đông Dương. 5. Bán thuốc phiện bị cấm. Chúng tôi hy vọng rằng những điều kiện này sẽ nhận được sự chấp nhận của chính phủ Pháp”.

Bối cảnh Việt Nam từ tháng 3 năm 1945, đến trước ngày 2 tháng 9 năm 1945 đã rơi vào một tình trạng hỗn loạn do khoảng trống về quyền lực chính trị quá lớn. Người Nhật đang lo chống đỡ các đòn tấn công của quân đội đồng minh Anh-Mỹ. Triều đình vua Bảo Đại và chính phủ đế quốc Việt Nam bề ngoài thân Nhật của thủ tướng Trần Trọng Kim đều không đủ lực lượng quân sự và uy tín chính trị để kiểm soát tình hình. Theo Peter A. Pull, chỉ có Việt Minh là lực lượng có tổ chức duy nhất ở nước này có khả năng nắm được quyền chính trị.

Ngày 1 tháng 4 năm 1946 quân Pháp đã thay thế quân Tầu ở miền Bắc; ngày 17 tháng 4 năm 1946, Việt Minh và Pháp thương thuyết Hội nghị trù bị tại Đà Lạt. Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Nguyễn Tường Tam  làm Bộ trưởng Bộ ngoại giao dẫn đầu nhưng trên thực tế Võ Nguyên Giáp là người lãnh đạo phái đoàn đã không đạt được kết quả. Sau đó, Việt Minh và Pháp thương thuyết tại Hội nghị Fontainebleau Pháp từ ngày 6 tháng 7, 1946 đến trung tuần tháng 9 năm 1946, phái đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do đoàn trưởng là Phạm Văn Đồng nhưng cũng không đạt được kết quả nào.

Hội nghị Fontainebleau  bế tắc tại hai điểm bất đồng then chốt: 1) Việc thống nhất Nam Kỳ vào nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (bao gồm Bắc Kỳ và Trung Kỳ); 2) Độc lập chính trị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quan điểm của Pháp bác bỏ độc lập của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà chỉ xét tự trị  trong khuôn khổ của Liên hiệp Pháp. Pháp  đòi hỏi tái lập trật tự trước rồi sau đó mới mở cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ về thống nhất Nam Kỳ vào nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính phủ Pháp lại đơn phương cho phép thành lập Nam Kỳ quốc theo tinh thần Tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945 của tướng De Gaulle, tách rời khu vực này khỏi những phong trào độc lập ở hai miền Bắc và Trung. Ngày 27 tháng 5 Cao ủy Đông Dương Georges D’Argenlieu tiếp tục thông qua việc thành lập Xứ Thượng Nam Đông Dương, chia cắt Việt Nam thành nhiều mảnh.

Thủ đoạn chính trị chủ yếu của nhà cầm quyền Pháp là “chia để trị” . Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhượng bộ về mọi mặt: kinh tế, tài chính và quân sự nhưng phái đoàn Việt Nam đòi Pháp ấn định thời hạn để thực hiện cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ. Thấy Pháp chần chừ không trả lời dứt khoát, phái đoàn Việt Nam bỏ bàn hội nghị ra về ngày 13 tháng 9. Hội nghị Fontainebleau vì vậy tan vỡ.

Tuy nhiên Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Marius Moutet không chấp nhận thất bại. Trong khi Phạm Văn Đồng bỏ về nước, Hồ Chí Minh, Hoàng Minh Giám và Dương Bạch Mai nán lại Paris. Nhằm cứu vớt hòa bình lần cuối Hồ Chí Minh thảo một bản nghị ước vào chiều ngày 11 và trao cho Marius Moutet. Ba ngày sau, 14 tháng 9 năm 1946, Marius Moutet hồi đáp với một bản nghị ước khác. Đạt được đồng thuận, Hồ Chí Minh đã đến nhà riêng Bộ trưởng Bộ Hải ngoại Pháp là Marius Moutet ký kết với Ngoại trưởng Pháp bản Tạm ước Việt – Pháp vào lúc nửa đêm 14 tháng 9 năm 1946 với những điểm chính sau đây1. Quyền bình đẳng cho Pháp kiều ở Việt Nam cũng như Việt kiều tại Pháp; 2. Tài sản của người Pháp bị tịch thu sẽ được hoàn trả và quyền sở hữu tôn trọng; 3. Đồng bạc Đông Dương lệ thuộc vào đồng franc Pháp; 4. Thiết lập hệ thống thuế quan và tự do mậu dịch cho các xứ Đông Dương; 5. Tái lập trật tự và ngưng bắn ở Nam Kỳ, trao đổi tù binh, và ngưng tuyên truyền kích động dân chúng.

Sau khi ký Tạm ước Việt – Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với nhân viên mật thám Pháp được phân công bảo vệ ông: “Tôi vừa mới ký một bản án tử hình của tôi! “. Hồ Chí Minh lấy lý do không quen đi máy bay để yêu cầu về nước bằng tàu thủy. Ông từ Paris đến Toulon để lên chiến hạm Dumont d’Urville về Việt Nam.

Chính phủ Pháp Việt vì bất đồng lớn về quan điểm nên càng ngày càng găng nhau. Sau khi ký Tạm ước Việt Pháp, Hồ Chí Minh bị Việt Quốc và Việt Cách chỉ trích phản bội và hợp tác với Pháp đồng thời yêu cầu ông từ chức. Tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I, Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phê chuẩn Tạm ước Việt Pháp, biểu quyết tín nhiệm Hồ Chí Minh và yêu cầu ông thành lập nội các mới. Tại miền Nam, ngày 28/10/1946, Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ theo chỉ thị của Chính phủ Trung ương ra tuyên bố sẵn sàng thành thực thi hành Tạm ước Việt Pháp và chống lại mọi hành động phá hoại Tạm ước đồng thời kêu gọi dân chúng giữ kỷ luật, thi hành đúng những mệnh lệnh của Chính phủ và tránh mọi hành động khiêu khích

Trong khi đó, ngày 6 tháng 8, Cao ủy Pháp đã tổ chức một hội nghị tại Đà Lạt để nghiên cứu tình hình Liên bang Đông Dương trong Liên hiệp Pháp với đại diện của Campuchia, Lào, Nam Kỳ và Nam Trung Bộ. Ngày 14 tháng 8, các bên tham gia Hội nghị khuyến nghị thành lập một Quốc hội liên bang của các nhà nước. Nhân dân Sài Gòn tổ chức bãi công để phản đối .

Việt Nam Dân chủ cộng hòa thông qua Hiến pháp đầu tiên khẳng định nền độc lập ngày 8 tháng 11 năm 1946 (lúc này Quốc hội được chia thành các nhóm: Marxist, Việt Minh, Dân Chủ, Xã hội, Việt Quốc, Việt Cách, Tổng liên đoàn lao động, không đảng phái). Trước đó, một Chính phủ mới được thành lập được báo Cứu quốc mô tả “Các đảng phái từ tả sang hữu đều ủng hộ Chính phủ mới“. Ủy ban Quân sự Việt – Pháp vẫn làm việc, tuy nhiên phía Việt Nam Dân chủ cộng hòa liên tục tố cáo Pháp vi phạm Thỏa ước. Mặc dù vậy, ngày 20 tháng 2 năm 1947, Hồ Chí Minh gửi thư – thông qua Lãnh sự Anh – đến Tổng thống Pháp kêu gọi hòa bình. Ông viết “…chúng tôi muốn được thống nhất và độc lập trong Liên hiệp Pháp; chúng tôi muốn, một nền hòa bình đích thực sẽ làm vinh danh cho cả Pháp và Việt Nam

Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư cho nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới kêu gọi công nhận nhà nước Việt Nam mới được thành lập cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không nhận được hồi âm (Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman, lãnh tụ Liên Xô Stalin, Tổng thống Pháp Léon Blum, bộ trưởng Thuộc địa Pháp Marius Moutet và Nghị viện Pháp,…). Từ giữa tháng 10/1945 đến tháng 3/1946, Hồ Chí Minh đã gửi nhiều điện tín cho Tổng thống, Bộ trưởng Ngoại giao, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ và Liên Hiệp Quốc kêu gọi Mỹ và Liên Hiệp Quốc can thiệp vào Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương và vì lý do nhân đạo nhưng không đến được tay những người có thẩm quyền do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được Mỹ công nhận nên không được hồi đáp[198]. Trong lúc đó, những người Việt Nam theo chủ nghĩa Quốc gia và những người Pháp theo chủ nghĩa thực dân qua những mối quan hệ với giới chính trị Trung Quốc và Pháp tuyên truyền rằng Hồ Chí Minh là tay sai trung thành của Liên Xô. Ngày 5/12/1946, khi A.B. Moffat, Vụ trưởng Vụ Đông Nam Á thuộc Bộ ngoại giao Mỹ, đến thăm Đông Dương, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Acheson có điện tín chỉ dẫn trong trường hợp gặp Hồ Chí Minh “phải luôn nhớ rằng ông Hồ đã được xác định là một tay sai của Quốc tế Cộng sản“.

Ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946, Hồ Chí Minh được nội các đồng ý đã gửi một phái đoàn ngoại giao đến Trùng Khánh để tái khẳng định tình hữu nghị Việt – Trung và để thăm dò việc Tưởng Giới Thạch muốn hai nước sẽ có quan hệ thế nào sau khi ký Hiệp ước Hoa-Pháp. Thứ trưởng Ngoại giao Nghiêm Kế Tổ, một thành viên Việt Quốc có nhiều mối quan hệ ở Trung Quốc, làm trưởng đoàn, 2 người còn lại là thành viên Việt Minh. Đêm trước khi 3 người khởi hành, Hồ Chí Minh cử Cố vấn Vĩnh Thụy (Bảo Đại) đi cùng. Ban đầu cả Nghiêm Kế Tổ và Bảo Đại đều phản đối ý tưởng này nhưng sau khi họp với Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh họ thay đổi ý kiến. Theo David G. Marr, Hồ Chí Minh muốn ngăn cản tướng Leclerc lôi kéo Bảo Đại trong khi các nhà lãnh đạo Việt Quốc lại thấy Bảo Đại có thể trở thành lãnh tụ của một chính phủ mới của phe Quốc gia được Trung Quốc và Hoa Kỳ ủng hộ. Ngày 13/4/1946, đoàn công tác về đến Hà Nội còn Bảo Đại vẫn ở lại Trùng Khánh rồi sang Hồng Kông sống lưu vong cho đến khi những người Việt Quốc gia lưu vong khác đến gặp ông năm 1947  (xem tiếp…)

Danh mục một số tư liệu lịch sử tuyển chọn

Ngọn nến Hoàng cung là bộ phim lịch sử của đạo diễn Nguyễn Quốc Hưng, ra mắt lần đầu năm 2004, đoạt Giải thưởng: Cánh Diều Vàng Việt Nam cho Phim truyền hình dài tập xuất sắc nhất, tái hiện, cung cấp thêm một góc nhìn khác cho sự kiện này. Những tư liệu lịch sử tuyển chọn khác bao gồm:

Chính phủ của Bảo Đại và Trần Trọng Kim
Tài liệu cho sử gia
Trần Chung Ngọc và sachhiem.net
Đế quốc Việt Nam
Một cơ hội bị bỏ lỡ ở Việt Nam năm 1945?
Học giả Trần Trọng Kim
Hoàng Xuân Hãn con người và chính trị
Nhà văn hóa Phạm Quỳnh
Bảo Long – Hoàng thái tử cuối cùng thời quân chủ VN
Vài suy nghĩ về cựu hoàng Bảo Đại
Phan Văn Giáo người đứng đầu miền Trung thời Cựu hoàng Bảo Đại làm Quốc trưởngTư liệu quý ngày 2 tháng 9

minhtriethochiminhtulieu

MINH TRIẾT HỒ CHÍ MINH
Hoàng Kim

Minh triết Hồ Chí Minh là tài liệu nghiên cứu lịch sử của Hoàng Kim nhằm hiểu đúng thực chất Bước ngoặt lịch sử chiến tranh Đông Dương: Vì sao không có được giải pháp hợp tác giữa Hồ Chí Minh, Bảo Đại, Ngô Đình Diêm, Nguyễn Trường Tam, Trần Trọng Kim, Nguyễn Hải Thần, Phạm Quỳnh, Hoàng Xuân Hãn, Phan Văn Giáo … Đánh giá về bình sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh sâu sắc nhất có lẽ đó là bài thơ: “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh. Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành. Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy. Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời có nói : “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.  Suốt đời Bác làm hai việc chính là kiến tạo Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thành một mặt trận rộng rãi “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công thành công, đại thành công” thực hiện “kế sách một chữ đồng” giành độc lập dân tộc và mở đường Hồ Chí Minh thống nhất đất nước Việt Nam.

cauhieucauthuong-2

Từ Hiếu trà sớm với người hiền, không gian tĩnh lặng, thời gian đặc biệt, lắng nghe cổ vật và đất trời trò chuyện, ngắm mặt trời mọc và sương đêm đọng mật trên lộc nõn cây xanh cuối thu. Tôi mong ước được các bậc thức giả và thầy bạn ghé thăm, cảm nhận.

hochiminhtulieu1960

Thêm một tư liệu quý: Bút tích Hồ Chí Minh ngày 1.9.1960 lưu ở Bảo tàng Lịch sử Hà Nội. Bản thảo bài phát biểu bế mạc lễ kỷ niệm quốc khánh năm 1960, do Bác tự tay đánh máy trong đó có câu “…chậm lắm là 15 năm nữa Tổ quốc ta sẽ thống nhất Bắc Nam sẽ sum họp một nhà” mà sau đó Bác đã xóa đi không đọc chính thức. Dòng chữ đó cho thấy Bác đã tiên đoán ngày thống nhất đất nước là vào năm 1975?

Minh triết Hồ Chí Minh,  đọc lại và suy ngẫm.

Hoàng Kim

Bản sao một số tài liệu tham khảo chính

PHAN VĂN GIÁO NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU MIỀN TRUNG
THỜI CỰU HOÀNG BẢO ĐẠI LÀM QUỐC TRƯỞNG

Nguyễn Đắc Xuân

Sau ngày Toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, toàn bộ lực lượng Cách mạng rút ra vùng nông thôn và rừng núi phía Tây Huế để lập chiến khu trường kỳ kháng chiến. Quân đội Pháp và những đảng phái thân Pháp chống Việt Minh trở lại tái chiếm Cố đô Huế (7-2-1947).

Một Ủy ban Chấp chánh Lâm thời (Comité adminis -tratif provisoire) được thành lập ở Huế để quản trị những vùng do Quân đội Pháp chiếm đóng và kiểm soát. Những quan lại cũ như Trần Văn Lý, Lê Quang Thiết được cử phụ trách Uỷ ban nầy. Đến cuối năm 1947, có dư luận Pháp sẽ chọn “giải pháp Bảo Đại” để đương đầu với kháng chiến. Uỷ ban Chấp chánh Lâm thời tổ chức một cuộc biểu tình lớn của dân chúng ở Huế để cùng với các cuộc biểu tình ở nhiều địa phương khác ủng hộ Cựu hoàng Bảo Đại, gửi điện sang Hồng Kông yêu cầu Cựu hoàng Bảo Đại về nước, đứng ra lập Chính phủ quốc gia để lo việc nước.

Đến 1-6-1948, “giải pháp Bảo Đại” thật sự thành hình với sự ra đời của Chính Phủ Trung Ương Lâm Thời tại Sài Gòn do ông Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng, Quốc vụ khanh Tổng trấn Trung phần giao cho Dược sĩ Phan Văn Giáo (Chính Đạo, tr. 85). Từ đó Dược sĩ Phan Văn Giáo ngồi vào ghế của ông Trần Văn Lý với nhiều quyền hành rộng lớn hơn.

phanvangiaonguonndx

Dược sĩ Phan Văn Giá. Ảnh TL của Souverains et Notabilités D’ Indochine IDEO -1943

Dược sĩ Phan Văn Giáo sinh năm 1901 tại Ninh Hoà (Khánh Hoà). Tốt nghiệp trường Dược ở Hà Nội năm 1922 và hành nghề Dược tại Thanh Hoá. Ông từng là Cố vấn kinh tế cho tỉnh Thanh Hoá (Conseiller provencial de Thanh Hoá), và được mời làm một  thành viên của Phòng Thương mại và Nông nghiệp Bắc Trung kỳ (Mem -bre de la Chambre de Com -merce et d’Agriculture du Nord-Annam), rồi làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Hợp tác tỉnh Thanh Hoá (Président du Conseil d’Administration de la Ban -que Agricole et de Coopérative de Thanh Hoá). Về mặt chính trị, ông được bầu làm Đại biểu dân chúng của tỉnh Thanh Hoá. (Représentant du peuble de la Province de Thanh Hoá). Ít lâu sau ông lại được mời làm thành viên Đại hội đồng Kinh tế và tài chính Đông Dương (Membre du Grand Conseil des Intéréts Économiques et Finances de l’Indochine). Ông thích chơi thể thao – đặc biệt là môn Quần vợt (Tennis), ông lập ra và làm Chủ tịch Hội Thể dục Thể thao K. H. Thanh Hoá (Président de l’Associa -tion sportif de K. H. Thanh Hoá). Do cùng sở thích chơi quần vợt, nên sau khi vua Bảo Đại hồi loan (1932), Dược sĩ Phan Văn Giáo có nhiều dịp gặp vua Bảo Đại và không lâu sau họ thân nhau. Đến ngày Cách mạng Tháng 8/1945 bùng nổ, vua Bảo Đại hạ chiếu thoái vị và được mời làm Cố vấn cho Chính phủ Cách mạng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Sau đó Cựu hoàng được ra nước ngoài làm “ngoại giao” và sống lưu vong ở Trung Quốc-Hồng Kông. Trong lúc đó, Dược sĩ Phan Văn Giáo bị Việt Minh bắt giam gần một năm rưỡi rồi mới được trả tự do.

Do mối quan hệ cũ với Cựu hoàng Bảo Đại, năm 1948, khi biết Pháp chủ trương thực hiện “giải pháp Bảo Đại” để chống lại cuộc kháng chiến do Mặt trận Việt Minh khởi động từ ngày 19-8-1946, Dược sĩ Phan Văn Giáo cùng 24 trí thức nhân sĩ thân Pháp khác qua Hồng Kông họp bàn với Cựu hoàng mọi lẽ thiệt hơn và mời Cựu hoàng “hồi loan” lần thứ hai. Những nhân sĩ trí thức thân Pháp cùng qua Hồng Kông có các vị như Nguyễn Văn Xuân, Trần Thanh Đạt, Trần Văn Lý, Ngô Đình Diệm v.v. Ngày Cựu hoàng về nước tại sân bay Liên Khương (Đà Lạt, ngày 28-4-1949), Dược sĩ Phan Văn Giáo được ra tận cầu thang máy bay đón Cựu hoàng. Việc đó chứng tỏ Phan Văn Giáo là người thân tín nhất của Cựu hoàng lúc bấy giờ.

phanvangiaobaodainguonndx

Dược sĩ Phan Văn Giáo mặc quốc phục đón Cựu hoàng Bảo Đại “hồi loan” ở sân bay Liên Khương (Đà Lạt), ngày 28-4-1049. Ảnh TL riêng của NĐX

Cũng cần nhắc lại trước khi Cựu hoàng Bảo Đại hồi loan, năm 1948, Dược sĩ Phan Văn Giao đã được Quốc trưởng Bảo Đại thăng hàm Trung tướng, do đó một buổi lễ diễn binh long trọng đã được tổ chức trước lầu Ngọ Môn để Thủ tướng chính phủ Nguyễn Văn Xuân, đại diện cho Cựu Hoàng đang ở Hồng Kông, gắn lên vai Trung tướng Phan Văn Giáo ba ngôi sao bạc. Một dược sĩ bổng trở thành một tướng lãnh “quốc gia” để lo tổ chức quân sự đương đầu với kháng chiến chống Pháp ở miền Trung.

Hai ngày sau khi Chánh phủ ra mắt chính thức, ngày 3-7-1949, Cựu hoàng Bảo Đại ký lại Quyết định bổ nhiệm ba Thủ hiến: Bắc Việt: Nguyễn Hữu Trí, Trung Việt Phan Văn Giáo và Nam Việt Trần Văn Hữu” (Đôn, 79), (Chính Đạo, tr.138), (P.Devil -lers, tr. 430). Dược sĩ Phan Văn Giáo chính thức được đứng đầu bộ máy hành chính quân sự ở Trung Kỳ.

1.Thành lập Việt Binh  Đoàn ở miền Trung

Về Huế nhậm chức Tổng trấn (sau là Thủ hiến) chống Việt Minh, việc đầu tiên của Trung tướng Phan Văn Giáo là tổ chức và xây dựng một “quân đội quốc gia” tại miền Trung mà ông có tham vọng sẽ thay thế quân đội Pháp sau nầy. Ông xin đại uý Nguyễn Ngọc Lễ, nguyên là lính Khố Đỏ của Pháp nhưng đã được nhà báo Nguyễn Vỹ có đề cập đến trong tác phẩm Tuấn, chàng trai nước Vit, xem như một thanh niên có tinh thần quốc gia, về giữ chức Tư lệnh đội quân mà ông đặt tên là Việt Binh Đoàn. Theo ông Phan Văn Giáo, Việt Binh Đoàn là V.B.Đ. ngầm ý là vua “Vua Bảo Đại”, “Vì Bảo Đại”, hay “Với Bảo Đại”. Ông Lễ, từ khi chuyển qua Việt Binh Đoàn được thăng cấp thiếu tá. Ông rất thương lính nên được lính theo ông khá đông. Phong cách chỉ huy của ông Nguyễn Ngọc Lễ rất hợp với phong cách lãnh đạo của Thủ hiến Phan Văn Gíao. Theo Hoành Linh Đỗ Mậu, tác giả Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi thì “Ông Giáo là một chính trị gia nhìn xa thấy rộng, hoạt bát, lanh lợi, và rất bình dân. Đối với binh sĩ và cán bộ dân sự thường phải trực tiếp đối đầu với hiểm nguy, ông coi họ như bà con ruột thịt, thường giúp đỡ tiền bạc mỗi khi họ túng thiếu. Thỉnh thoảng ông đi hành quân với binh sĩ, ngủ lại đêm với họ ở những tiền đồn hẻo lánh xa xôi” (tr.63-64).

Với chỉ tiêu của đợt thành lập đầu tiên là 10.000 quân nhân cho quân lực Việt Binh Đoàn, ông Lễ có rất nhiều cộng sự viên có khả năng trong bộ tham mưu của ông, trong đó có ông Đỗ Mậu.

Ông Đỗ Mậu được ông Thủ hiến Phan Văn Giáo cử giữ chức Trưởng Phòng Ba, đặc trách về tổ chức, huấn luyện, và hành quân, đồng thời kiêm nhiệm chức chủ nhiệm tuần báo Tiếng Kèn, cơ quan ngôn luận chính thức của quân đội Việt Binh Đoàn. Cả hai nhiệm vụ này đều phù hợp với khả năng và sở thích của ông Mậu.

Chỉ hơn một năm sau, quân đội Việt Binh Đoàn đã phát triển mạnh mẽ, tinh thần chiến đấu cao và khả năng tác chiến ở mức khá hiện đại. Tại nhiều địa phương chiến lược, đơn vị Việt Binh Đoàn đã thay thế các đơn vị của quân đội Pháp. Uy tín và uy thế của Việt Binh Đoàn càng ngày càng lên cao làm cho các chính khách ở ngoài Bắc cũng như trong Nam và các cấp chỉ huy Pháp đi từ ngạc nhiên đến thán phục khác. Nhiều khi họ tổ chức hẳn thành những phái đoàn đến thăm để nghiên cứu.

Ngày 8 tháng 3 năm 1949, cựu hoàng Bảo Đại và Tổng thống Pháp Vincent Auriol ký thoả ước Elysée biến Việt Nam thành một quốc gia “Độc lập trong Liên Hiệp Pháp”, nhưng Quốc phòng, Ngoại giao và Tài chính vẫn bị Pháp chi phối, kiểm soát.

Tháng 4 năm 1949, Cựu hoàng Bảo Đại hồi loan giữ chức Quốc trưởng.  Ông đi công du ba miền để thăm viếng đồng bào. Ông về  thăm Cố đô Huế, thăm thân mẫu là Đoan Huy Hoàng Thái hậu, dự lễ kỵ các Tiên Vương.

baodainguonndx

Quốc trưởng Bảo Đại vào Thế Miếu. Ảnh TL do NĐX sưu tập

baodai2

Quốc trưởng Bảo Đại thăm Cung Diên Thọ. Ảnh TL do NĐX sưu tập

Quốc trưởng rất hài lòng thấy tại miền Trung có một quân đội hoàn toàn Việt Nam, do chính sĩ quan Việt Nam chỉ huy, tinh thần cũng như tác phong hùng dũng, gương mẫu, không thua gì quân đội chính qui của Pháp.

Cũng trong năm 1949, Tướng Phan Văn Giáo cho tổ chức một hội chợ  rất qui mô tại vườn hoa Bến Thương Bạc bên sông Hương để trưng bày thành tích của Việt Binh Đoàn. Hội chợ đã thu hút được hàng vạn người tham dự, trong đó có nhiều chính khách, tướng tá, các nhân sĩ, thương gia từ Hà Nội, Đà Lạt, Sài Gòn đến tham dự.

Giải pháp Bảo Đại đã khai sinh ra Việt Binh Đoàn, tiền thân đích thực của Quân đội Việt Nam Cọng Hòa sau này, một đội quân Việt Nam trên phương diện tổ chức, nhân sự và đường lối Việt Nam. Tuy người Pháp lúc bấy giờ có thành lập một số “tiểu đoàn Việt Nam” nhưng những tiểu đoàn này vẫn do sĩ quan Pháp hoặc tay sai của họ chỉ huy và vẫn bị người Việt Nam khinh bỉ vì bản chất “lính đánh thuê” của chúng. Trái lại, Việt Binh Đoàn, dù chưa có truyền thống của một quân đội độc lập lâu dài, dù còn phải phối hợp với quân đội Pháp để cùng chiến đấu chống lại Việt Minh đã được xem là một “quân đội quốc gia”.

Bên cạnh Việt Binh Đoàn còn có trường Võ Bị Quốc Gia đầu tiên ở Huế (tại Đập Đá – nơi toạ lạc KS Hương Giang ngày nay). Trường nầy đã cung cấp cho quân đội Việt Nam Cộng Hoà sau này những sĩ quan chỉ huy cấp tướng và cấp tá. Cũng chính Việt Binh Đoàn đã đào tạo ra những sĩ quan sau này được chọn lựa vào Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ của ông Ngô Đình Diệm và những cấp chỉ huy của hai sư đoàn 1 và 2 ở Quảng Trị và Thừa Thiên.

Ông Giáo không phải là người hoàn toàn và chắc chắn đã có những lỗi lầm cá nhân, nhưng trên mặt công việc, nhất là công việc chung, theo ông Đỗ Mậu “ông Phan Văn Giáo là một nhân vật có lập trường quốc gia chống Cộng rất vững chắc, một cán bộ cao cấp có tài tổ chức, có tầm nhìn xa và rộng, lại có tinh thần đoàn kết rộng rãi và biết trọng dụng nhân tài. Đã từng công tác với ông trong một số công việc khó khăn và quan trong, tôi cứ tiếc hoài một người như ông Phan Văn Giáo mà không làm Bộ trưởng Quốc Phòng để tổ chức và chỉ huy quân đội quốc gia…” để đương đầu với kháng chiến.

2. Những bước thăng trầm

Là một chính khách muốn vươn lên nắm những chức vụ có quyền lực, Thủ hiến miền Trung- tướng Phan Văn Giáo đã ra Bắc vào Nam vận động lực lượng mới. Ngày 6-10-1950, Tướng Phan Văn Giáo ra Hà Nội họp với Nguyễn Hữu Trí và Phạm Công Tắc (giáo chủ đạo Cao Đài Tây Ninh). Theo tình báo Pháp lúc ấy cho Phan Văn Giáo có ý thân cận với Đại Việt để có thể thành lập một Quân lực Việt Nam dưới trướng của Phan Văn Giáo. Lê Thăng (Tiến sĩ Luật, Hội đồng Thành phố Hà Nội và Viện Dân biểu bắc Kỳ, vợ đầm) và Phan Huy Quát (Y sĩ, Bộ trưởng QGGD, Đảng Đại Việt) theo lời mời của Phan Văn Giáo đã vào thăm Huế, thăm lực lượng Việt Binh Đoàn. Lực lượng đối trọng với Phan Văn Giáo là Thiên Chúa Giáo chống Cộng. Người đứng đầu là Giám mục Lê Hữu Từ. Ngày 17-10-1950, nhân đi kinh lý Hội An, Phan Văn Giáo chỉ trích đường lối thân Mỹ của Lê Hữu Từ (Giám mục ở Phát Diệm). Khẳng định mình luôn hướng về Pháp.

Vì quá chú trọng đến việc phát triển Việt Binh Đoàn, Thủ hiến Phan Văn Giáo không quan tâm đúng mức đến các hoạt động hành chính, dân sự. Ngày 31-10-1950, trong báo cáo tháng 10/1950 nhận định rằng Thủ hiến Phan Văn Giáo “hay đi khỏi Huế, công việc gần như “chết”. Phan Văn Giáo một lòng theo Pháp nhưng lại không được lòng Thiên chúa giáo và chính quyền Pháp. Hậu quả là Bộ trưởng Quốc phòng Pháp không đồng ý ký nghị định thăng cấp sĩ quan cho một số Việt Binh Đoàn mà tướng Phan Văn Giáo  với tư cách ‘Tổng thanh tra quân đội” đã gắn lon cho họ. Lương của Hạ sĩ quan và binh lính ở miền Trung cũng thấp hơn các quân nhân cùng cấp bậc trong quân đội Pháp. Dẫu vậy, Việt Binh Đoàn ở miền Trung dưới quyền Phan Văn Giáo vẫn tiến bộ đều đặn. Và không những những sĩ quan, hạ sĩ quan binh lính dưới quyền Phan Văn Giáo bị thiệt thòi mà chính bản thân Phan Văn Giáo cũng khó giữ được địa vị của mình trước mắt thế lực Thiên chúa giáo thân Pháp. Ngoài Thiên chúa giáo, Phan Văn Giáo còn phải đương đầu với lực lượng thân Pháp khác ở miền Nam mà người đứng đầu là Thủ tướng Trần Văn Hữu.

phanvangiaomongdiep

Thủ hiến Phan Văn Giáo trên du thuyền của Quốc trưởng Bảo Đại trên biển Nha Trang. Người phụ nữ ngồi cạnh là bà “Thứ phi” Mộng Điệp. Ảnh TL riêng của NĐX.

Tư liệu lưu trữ của Pháp cho biết sáng ngày 30/12/1950, Quốc trưởng Bảo Đại tiếp kiến Đại tướng de Lattre de Tassigny tại Ban mê thuột để họp với các lãnh tụ các sắc dân thiểu số cao nguyên Trung Việt và bàn về vấn đề thay đổi chính phủ Trần Văn Hữu.

baodai3

Quốc trưởng Bảo Đại và Đại tướng De Lattre de Tassigny tại Ban mê thuột. Ảnh TL của NĐX sưu tập

Quốc trưởng Bảo Đại cho rằng chưa tìm được người xứng đáng để làm Bộ trưởng Quốc Phòng cho quân đội Quốc gia Việt Nam. Quốc trưởng cũng không giấu ý kiến muốn cử tướng Phan Văn Giáo làm Tổng Tham Mưu Trưởng, và giữ bên cạnh Bảo Đại (Chính Đạo, 210). Nhưng sự thực trong nội bộ những người có quyền và có trách nhiệm của Pháp đã có sẵn một nhận định khác. Trong báo cáo về tình hình ở Huế, tháng 12/1950 của Tư lệnh miền Trung, Lorillot, do J. J. Poupaert, Giám đốc Hành chính [Administrateur des Services Civils], soạn thảo ngày 5/1/1951 thì:

– Việc cải thiện Việt Binh Đoàn miền Trung đang đi đúng đường. Việt Binh Đoàn tham gia chiến dịch bình định chống du kích ở miền Trung có kết quả. Nhưng các tỉnh trưởng chưa tròn nhiệm vụ, ngoại trừ Ninh Thuận, Khánh Hoà và Quảng Bình. Sự thất bại về lãnh vực hành chính này là nét đặc trưng của năm 1950. Một trong những lý do là thiếu viên chức có khả năng, nhưng phần lớn là do Thủ hiến Phan Văn Giáo đặt quá nhiều trọng tâm vào Việt Binh Đoàn và rồi việc thành lập Quân Đội Quốc Gia, sao lãng công tác hành chính. Thực tế, vấn đề cán bộ hành chính quan trong và cấp bách hơn cả cán bộ quân sự, nhưng các giới chức Việt không rõ điều này.

Việc tuyển chọn cán bộ hành chính phải khởi sự từ đầu, trước hết là tìm những người của hành động có khả năng nắm giữ quyền hành, việc thiết lập các trung tâm huấn luyện công chức hành chánh cần thiết, nhưng chỉ ở tầm quan trọng thứ hai. Sắc lệnh ngày 9/12/1950 của Bảo Đại bổ nhiệm các chức Đốc Sự và Giám Sự cho những người chỉ mới có sự hiểu bíêt hành chính tương đương với những sĩ quan mới học chỉ huy.

Sở Công An ở miền Trung, dưới quyền Trần Văn Mạnh, không hoạt động hữu hiệu như miền Nam. Phải cho y nhiều ngân sách hơn và nhiều nhân viên hơn, chúng ta sẽ thấy vấn đề đào tạo cán bộ vì thật khó khăn để cải thiện các viên chức cảnh sát.

Giáo dục, an sinh xã hội, công tác xã hội đều ở mức độ sơ đẳng (élémentaire). Đối mặt những cải cách điền địa và các lãnh vực khác của Việt Minh, chính phủ Việt Nam chẳng có gì chống lại. Ở miền Trung, có sự bất quân bình rõ ràng giữa những cố gắng quân sự, đã mang lại hiệu quả, và dân sự, mà người ta chưa khai phá. Tôi đã nhấn mạnh với Thủ hiến Phan Văn Giáo mới đây về điểm này, vì ông ta cần xúc tiến mạnh hơn về hướng đó.

Nhưng từ đầu tháng 1/1951, ông ta đang phải đương đầu một cách tế nhị với Chính phủ Trung ương. Những kế hoạch mà hiện nay ông Giáo đang muốn thực hiện:

– Được cử làm Tổng trưởng Quốc phòng.

– Đưa ông Lê Khắc Tưởng, đương kim Giám đốc Tài chính Trung phần, lên chức Tổng trưởng Tài chánh.

– Thành lập quân đội Quốc gia Việt Nam dưới quyền ông ta.

Tất cả những ước muốn trên hầu như đã thất bại. Không còn chuyện ông Giáo làm Tổng trưởng Quốc phòng, mà ngay cả chức Tổng Thanh Tra nữa cũng thế. Văn phòng Quốc trưởng cũng như chính phủ Trần Văn Hữu chống lại những vận động của Giáo. Ông Giáo, dù còn làm Thủ hiến, đang vận động làm Tư lệnh Sư đoàn miền Trung. Có lẽ Chính phủ Trung ương không muốn biến ông ta thành một Thủ hiến theo mốt Trung Hoa (à la Chinoise) hay tạo ra “một quốc gia trong một quốc gia”.

Nếu ông Gíao mất chức Thủ hiến, tương lai Việt Binh Đoàn sẽ:

-khủng hoảng (malaise et flotte -ment), đặc biệt trong số những cán bộ thân ông Giáo, và đào ngũ có thể xảy ra.

-những khó khăn này có thể vượt qua nếu biến các binh sĩ Công giáo thành lực lượng nòng cốt, và người thay ông Giáo là người có nhiệt tình và được Bảo Đại tín nhiệm.

Cách nào đi nữa, có vấn nạn “Phan Văn Giáo” trong việc thành lập quân đội Quốc gia Việt Nam. Thấy chẳng có ai có khả năng làm Thủ hiến. Trần Văn Lý – người tiền nhiệm của ông Giáo và là người Thiên chúa giáo  nhưng không được sự tin cậy  của Bảo Đại.

Ngày 20-7-1951, Thủ hiến Trung Việt Phan Văn Giáo bị Chính phủ Trần Văn Hữu cho về nghỉ dài hạn. Cựu Tuần vũ Trần Văn Lý (Đảng xã hội Thiên chúa giáo được Giám mục Ngô Đình Thục bảo trợ) được cử lên thay (Đoàn Thêm, 97). Việc Pháp huyền chức Phan Văn Giáo ngoài ý muốn của Quốc trưởng Bảo Đại, nhưng Quốc trưởng Bảo Đại cũng không ngăn được mà muốn cứu Phan Văn Giáo thì phải chờ một dịp khác.

Phan Văn Giáo về nghỉ gần một năm thì chính phủ Trần Văn Hữu đổ, Chính phủ Nguyễn Văn Tâm lên thay (6-6-1952). Theo đề nghị của Quốc trưởng Bảo Đại, ngày 25-6-1952, Nguyễn Văn Tâm mời Phan Văn Giáo trở lại chính trường và giao giữ chức Phó Thủ tướng kiêm luôn công tác Thông tin, Tuyên truyền (Đoàn Thêm 112). Ngồi ghế Phó Thủ tướng được hơn sáu tháng, dù được Quốc trưởng tín nhiệm, nhưng Pháp và Thiên chúa giáo vẫn gây sức ép, cuối cùng vào 8-1-1953, Phó Thủ tướng Phan Văn Giáo phải xin từ chức. Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm phải cải tổ Chính phủ và mời Lê Văn Hoạch thay Phan Văn Giáo (Đoàn Thêm, tr. 121). Lê Văn Hoạch: gốc Cần Thơ, Y sĩ Đông Dương, Thủ tướng Cộng hoà Nam Kỳ, Tín đồ đạo Cao Đài. Lê Xuân Khoa, tác giả sách Lịch sử Việt Nam xác nhận sự thật lịch sử ấy trong một đoạn ngắn gọn:

– “Thủ tướng chính phủ Trung ương Trần Văn Hữu chống Thủ hiến miền Trung Phan Văn Giáo, và cuộc vận động của Phan văn Giáo với Bảo Đại để ông kiêm nhiệm Tư lệnh Sư đoàn miền Trung đã khiến Tư lệnh người Pháp Lorillot nhận xét rằng Thủ hiến Giáo muốn tạo ra “một quốc gia trong một cuốn gia” (Khoa, tr.417). Đã bị Pháp nhận xét như thế rồi cho nên Phan Văn Giáo buộc lòng phải ra đi dù Quốc trưởng Bảo Đại không đồng ý cũng phải chấp nhận.

3. Thủ hiến Phan Văn Giáo ra  đi nhưng vẫn còn để lại…

Quốc trưởng Bảo Đại và Dược sĩ Phan Văn Giáo tuổi tác cách nhau đến trên một giáp (Phan Văn Giáo sinh năm 1901 và Bảo Đại sinh năm 1913) nhưng hai người thân với nhau trên sân quần vợt từ đầu những năm bốn mươi. Trong hoạt động chính trị, Dược sĩ họ Phan tích cực cộng tác với Pháp thực hiện “giải pháp Bảo Đại” (1948), ủng hộ Quốc trưởng Bảo Đại hết mình trong việc thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam (sau nầy là Quân đội VNCH). Ngoài ra trong đời sống tình cảm Dược sĩ Phan Văn Giáo và Quốc trưởng Bảo Đại còn là tình “anh em cột chèo”.

Như trên đã viết, Phan Văn Giáo là người thân cận nhất Quốc trưởng Bảo Đại từ sau ngày ông rời Hồng Kông về đóng đô ở Đà Lạt. Dược sĩ Phan biết rất rõ tính “ham chơi” của Cựu hoàng Quốc trưởng. Trong hoàn cảnh Hoàng hậu Nam Phương còn ở bên Pháp, bà “thứ phi” Bùi Mộng Điệp còn ở  Hà Nội chưa vô kịp, Dược sĩ Phan liền đem người em gái của cô tình nhân của mình là Lê Thị Phi Ánh “tiến dâng” cho Bảo Đại. Cô Phi Ánh trắng trẻo, cao ráo, mũi cao, mắt sáng, người đẹp nhất trong bốn cô Phi (Phi Lệ, Phi Hồng, Phi Hoa và Phi Ánh) con gái cụ Lê Quang Thừa (Ông Sáu) xuất thân danh gia vọng tộc ở Huế. Đang lúc “cô đơn”, gặp được Phi Ánh, Bảo Đại phải lòng ngay- [Ông Lê Quang Thừa là anh ruột ông Lê Quang Thiết làm việc ở Uỷ ban Chấp chánh Lâm thời đã viết ở trên]. Bảo Đại đã tặng cho Phi Ánh một món tiền lớn và xuất tiền mua cho cô một biệt thự gần ga Đà Lạt để ở.

Ngoài bà Nam Phương và bà Mộng Điệp, bà Phi Ánh cũng được công nhận là vợ chính thức của Bảo Đại. Bảo Đại và bà Phi Ánh có được hai người con là Phương Minh và Bảo Ân.

baphianhvobabaodai

 Bà Phi Ánh – người vợ thứ ba chính thức của Cựu hoàng Bảo Đại. Ảnh TL do NĐX sưu tập

Về sau Bảo Đại bị chế độ Ngô Đình Diệm phế truất phải sống lưu vong bên Pháp, bà Phi Ánh phải ở lại Sài Gòn bà phải “đi bước nữa” với một người thầu khoán giàu có và sau đó bà mất ở Sài Gòn. Hiện nay hai người con của bà với Cựu hoàng Bảo Đại đang định cư ở Hoa Kỳ.

Đối với người dân Huế, nhắc đến Dược sĩ Thủ hiến Phan Văn Giáo họ nhớ đến hai việc. Một là: Phan Văn Giáo tổ chức Việt Binh Đoàn chống lại cuộc du kích chiến của Việt Minh rất ác liệt; hai là: Dược sĩ Thủ hiến Phan Văn Giáo rất mê nữ sinh đẹp của xứ Huế. Mỗi lần ông đến thăm trường Đồng Khánh, thấy nữ sinh nào đẹp ông liền để ý và cho người mời lên Phủ Thủ Hiến (nay là khách sạn Résidence tại 5 Lê Lợi Huế) cho ông gặp. Nhiều hiệu trưởng, Giám thị trường Đồng Khánh sợ lắm nhưng không dám trái lệnh ông. Theo dư luận có nhiều nữ sinh đã bước qua thời con gái trong Phủ Thủ hiến của họ Phan. Cũng có nữ sinh sau khi thất thân với ông, ông vận động cho sang Pháp và sau trở thành nhà thơ nhà văn nổi tiếng. Cũng theo dư luận, tác giả bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc “Kiếp nào có yêu nhau” là một trong những tình nhân miễn cưỡng của Dược sĩ Phan Văn Giáo.

*

*       *

Đối với cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Trung, Dược sĩ Phan Văn Giáo là một kẻ có trọng tội. Nhưng chuyện cũ đã đi qua hơn nửa thế kỷ rồi, nó đã thành lịch sử, nên dù muốn dù không Dược sĩ Phan Văn Giáo cũng là một nhân vật lịch sử. Và, khi Dược sĩ đã là một nhân vật lịch sử thì người viết sử phải hiểu con người, tư tưởng và hành trạng của họ một cách xác thực mới viết sử đúng được. Phan Văn Giáo là một trí thức làm kinh tế giỏi, có đầu óc tổ chức quân đội hiện đại. Chỉ tiếc cái tài đó phục vụ cho một mục đích đi ngược với ý muốn giải phóng đất nước của dân tộc nên đã thất bại. Mặt khác, về  phía kháng chiến phải đương đầu với một người có tài và có thế lực như thế mà thắng được, sự chiến thắng đó rất có giá. Và, cũng qua quãng đời Phan Văn Giáo đứng đầu miền Trung thời Cựu hoàng Bảo Đại làm Quốc trưởng (1949-1954) người viết sử nắm được nội bộ của các lực lượng thân Pháp chống lại kháng chiến như thế nào. Thời Phan Văn Giáo làm Thủ hiến Trung phần, ở Huế có các thế lực: gia đình họ Ngô của Thiên chúa giáo (đứng đầu là Giám mục Ngô Đình Thục), thế lực Thiên chúa giáo của Giám mục Lê Hữu Từ, các tổ chức của đảng Đại Việt, Quốc Dân đảng. Phan Văn Giáo có quan hệ với Đại Việt nên không được các thế lực trên hậu thuẫn. Ngoài ra, Phan Văn Giáo còn phải đương đầu với Trần Văn Hữu nặng tình với “Nam kỳ quốc”. Phan Văn Giáo gắn bó sự nghiệp chính trị của mình với Cựu hoàng Bảo Đại. Vì thế sau năm 1954, sự nghiệp chính trị của Cựu hoàng cáo chung thì cuộc đời chính trị của Phan Văn Giáo cũng chấm dứt. Dù sao, sự thất bại trong hoạt động chính trị của Phan Văn Giáo cũng là một bài học cho trí thức Việt Nam bây giờ và cho cả mai sau.

Gác Thọ Lộc, Mùa Đông 2007

 Nguyễn Đắc Xuân


Sách tham khảo

* Cao Thế Dung, Việt Nam ba Mươi Năm Máu Lửa, Alpha (Hoa Kỳ) 1991
*Chánh Đạo, Việt Nam Niên Biểu (1939-1975), (tập B: 1947-1954), Nxb Văn Hoá (Hoa Kỳ) 1997
* Chánh Đạo, Nhân Vật Chí, Nxb Văn Hoá (Hoa Kỳ) 1997
*Đoàn Thêm, HAI MƯƠI NĂM QUA, VIỆC TỪNG NGÀY (1945-1964), Nam Chi Tùng Thư, SG 1966
* Gouvernement Général de L’Indochine, Souverains et Notabilités D’ Indochine IDEO -1943
* Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945-1995 – Chiến tranh, Tị nạn, Bài học lịch sử, Tập I, Tiên Rồng (Hoa Kỳ) 2004
* Philippe Devillers, Histoire du Viet-Nam, Édit. Du SEUIL, 1952
* Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi, Nxb Vinh Sơn, SG 1969
* Trần Văn Đôn, Việt Nam Nhân Chứng, Nxb Xuân Thu (Hoa Kỳ),1989
* Và nhiều tài liệu hình ảnh riêng của Nguyễn Đắc Xuân do bà Bùi Mộng Điệp cung cấp

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com/
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Advertisement

Chào ngày mới 9 tháng 1


DẠY VÀ HỌC 9 THÁNG 1
Hoàng Kim

CNM365 Tình yêu cuộc sống #cltvn Lúa Việt vị trí kinh tế; Minh triết Hồ Chí Minh; Làng Minh Lệ quê tôi; Chọn giống sắn kháng CMD; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Học lắng nghe cuộc sống; Một gia đình yêu thương; Tô Đông Pha Tây Hồ; Trên bục giảng mùa xuân; Theo chân người dẫn đường; Hoa và Ong Hoa Người; Đến với Tây Nguyên mới; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Trọng Tạo nhịp đồng dao; Hình như; Lev Tonstoy năm kiệt tác, Câu chuyện ảnh tháng Một; Ngày truyền thống học sinh sinh viên Việt Nam. Ngày 9 tháng 1 năm 1950, ngày mất Trần Văn Ơn (sinh năm 1931), một học sinh Việt Nam trường Pétrus Ký đã bị chính quyền Pháp nổ súng bắn chết trong phong trào biểu tình của học sinh sinh viên Sài Gòn. Cuộc biểu tình này hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh chống thực dân Pháp, bảo vệ nền Cộng hoà non trẻ. Ngày 9 tháng 1 năm 1283, nhằm ngày 8 tháng 12 năm Nhâm Ngọ, là ngày mất Văn Thiên Tường (sinh năm 1236), chính trị gia lỗi lạc anh hùng dân tộc và nhà thơ nổi tiếng triều Tống, tác giả hai câu thơ “Xưa nay hỏi có ai không chết? Hãy để lòng son chiếu sử xanh”. Ngày 9 tháng 1 năm 1324, ngày mất Marco Polo, thương nhân và nhà thám hiểm người Ý (sinh năm 1254); Bài chọn lọc ngày 9 tháng 1: #cltvn Lúa Việt vị trí kinh tế; Minh triết Hồ Chí Minh; Làng Minh Lệ quê tôi; Chọn giống sắn kháng CMD; Nhớ Viên Minh Hoa Lúa; Học lắng nghe cuộc sống; Một gia đình yêu thương; Tô Đông Pha Tây Hồ; Trên bục giảng mùa xuân; Theo chân người dẫn đường; Hoa và Ong; Đến với Tây Nguyên mới; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Trọng Tạo nhịp đồng dao; Hình như; Lev Tonstoy năm kiệt tác, Câu chuyện ảnh tháng Một; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.comhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-9-thang-1/;

MINH TRIẾT HỒ CHÍ MINH
Hoàng Kim

Tôi viết minh triết Hồ Chí Minh theo chính kiến và nhận thức của riêng mình. Ngày 2 tháng 9 là ngày Quốc Khánh Việt Nam, ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng là ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, ngày khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi năm sự kiện lớn này trong lịch sử như ngôi sao vàng năm cánh, như năm ngón tay trên một bàn tay, đóng mốc son ngày 2 tháng 9 và ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và Thế Giới đối với nền độc lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và thống nhất Tổ quốc Việt Nam. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết. Việt Nam Hồ Chí Minh là biểu tượng Việt; Hồ Chí Minh nói đi đôi với làm mẫu mực đạo đức có lý có tình; Hồ Chí Minh rất ít trích dẫn, thực tiễn, quyền biến, năng động ; Hồ Chí Minh kiên quyết khôn khéo trong tổ chức tuyên truyền cách mạng, giỏi thu phục tập hợp hiền tài. Nước Việt Nam mới khi hình thành vì sao không có được giải pháp hợp tác giữa Hồ Chí Minh với Bảo Đại, Ngô Đình Diêm, Nguyễn Trường Tam, Phạm Quỳnh, Phan Văn Giáo … Vì sao chưa thuyết phục được Nguyễn Hải Thần, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn,… ? Đó đều là các nhân vật lịch lịch sử lớn chi phối sâu sắc đối với thời cuộc. Bài học lịch sử là khối vàng ròng giá trị to lớn cần thấu hiểu và cắt nghĩa cho đúng. Sự thật lịch sử đang sáng tỏ dần. Đọc lại và suy ngẫm.

1. VIỆT NAM HỒ CHÍ MINH LÀ BIỂU TƯỢNG VIỆT  

Bác Hồ là biểu tượng của thế giới người hiền, là tinh hoa văn hóa Việt gốc và văn hóa tương lai. Minh triết Hồ Chí Minh là ưu tiên đạo đức, cải tiến lề lối làm việc ‘cần kiệm liêm chính’. Đó là thước đo đầu tiên và quan trọng nhất để đào tạo, rèn luyện và trọng dụng cán bộ. Mục tiêu, quốc kế và chiến lược vàng cho Việt Nam mới là : “Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc”. “Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy. Nếu không làm được việc cho dân thì dân không cần đến nữa”. (Hồ Chí Minh, tập 4. trang 283). “”Nay, tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu (tôi) cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài“.(Báo Cứu Quốc số 147 ngày 21.1 1946). Minh triết Hồ Chí Minh, bài học mới thấm thía trong câu chuyện cũ

Giáo sư Trần Văn Giàu trong bài viết Nhân cách lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luận về bảy phẩm chất nhân cách mà cũng là minh triết của Bác Hồ được con dân nước Việt và thế giới ngợi ca. Đó là : Ưu tiên đạo đức, Tận tụy quên mình, Kiên trì bất khuất, Khiêm tốn giản dị, Hài hòa kết hợp, Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý, Yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Giáo sư Trần Văn Giàu kết luận: “Xin mượn ý của một nhà báo ở châu Đại Dương để tạm kết chủ đề luận về nhân cách Hồ Chủ tịch: Người ta không thể trở thành một Cụ Hồ Chí Minh, nhưng ở Cụ Hồ, mỗi người có thể học một số điều làm cho mình trở thành tốt hơn”. 

Bác sĩ Vũ Đình Tụng đã kể câu chuyện Bức thư huyết lệ trong hàng vạn chuyện đời thường về Bác Hồ, xin được trích nguyên văn. 

” 8 giờ đêm – một đêm tháng Chạp năm 1946 – bác sĩ Vũ Đình Tụng phải mổ một trường hợp chiến thương quá đặc biệt và rất đau lòng: một chiến sĩ “sao vuông” rất trẻ, tuy vết thương nặng, đạn xé tung cả một khúc ruột mà miệng vẫn mỉm cười, cái nụ cười quá quen thuộc và thân thương đối với bác sĩ. Anh tự vệ Thủ đô ấy, người chiến sĩ gan góc ấy lại chính là Vũ Văn Thành, con trai út của bác sĩ. 

Suốt ngày hôm ấy, tôi đã phải mổ cưa gắp đạn và khâu vết thương cho hàng chục chiến sĩ nhưng đến trường hợp con tôi, thần kinh tôi căng lên một cách kinh khủng. Mấy người giúp việc khuyên tôi nên nghỉ tay, nhưng tôi vẫn cố kìm mình để giữ bình tĩnh gắp mảnh đạn cuối cùng trong thân thể người con. Xong việc, tôi loạng choạng rời khỏi bàn mổ. 

Các bác sĩ và những người giúp việc đã cố gắng nhiều, nhưng vết thương do quân thù gây ra quá nặng đã cướp đi mất Thành, con trai của tôi, anh của Thành là Vũ Đình Tín, tự vệ chiến đấu cũng vừa bị mất sau ngày Tổng khởi nghĩa, tôi đau đớn đến bàng hoàng. 

Một buổi chiều trời rét lắm, sau đêm Nôen cuối cùng ở bệnh viện Bạch Mai, bị bom đạn tàn phá, vào lúc tôi mổ xong một ca thương binh nhẹ thì bác sĩ Trần Duy Hưng, lúc bấy giờ giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ trân trọng trao cho tôi một bức thiếp của Hồ Chủ tịch. Tôi cảm động quá. Mới đầu tôi cứ ngỡ là một mệnh lệnh mới của Người. Nhưng thật không ngờ, đó lại là một bức thư riêng đầy tình cảm lớn lao của Bác chia đau thương với gia đình tôi. Khi đó, Bác gọi tôi là “Ngài”. 

“Thưa Ngài,
Tôi được báo cáo rằng: con giai Ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. 

Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. 

Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước – Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi, tinh thần họ luôn luôn sống với non sông Việt Nam. 

Họ là con thảo của Đức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ quốc. Những thanh niên đó là anh hùng dân tộc. Đồng bào và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên ơn họ. 

Ngài đã đem món quà quý báu nhất là con của mình, sẵn sàng hiến cho Tổ quốc. Từ đây, chắc Ngài sẽ thêm ra sức giúp việc kháng chiến để bảo vệ nước nhà thì linh hồn cháu ở trên trời cũng bằng lòng và sung sướng. 

Tôi thay mặt Chính phủ cảm ơn Ngài, và gửi Ngài lời chào thân ái và quyết thắng.
Tháng 1-1947
Hồ Chí Minh” 

Đọc xong bức thư, tôi thấy bàng hoàng. Bác bận trăm công nghìn việc, thế mà Bác vẫn nghĩ đến tôi, một gia đình đang có cái tang đau lòng như hàng vạn gia đình khác. 

Tôi thấy nỗi đau thương và sự hy sinh của gia đình mình trở thành nhỏ bé trong cái tình thương mênh mông và sự hy sinh cao cả của Bác đối với cả dân tộc. Tôi nhủ mình sẽ phải làm tốt công việc để xứng đáng với sự hy sinh của các con và khỏi phụ lòng Bác. 

Sau đó, tôi theo Bác lên Việt Bắc – căn cứ thần thánh của cách mạng Việt Nam. Từ một người thầy thuốc của xã hội cũ, một giáo dân ngoan đạo, tôi đã trở thành một người thầy thuốc tốt, một Bộ trưởng Bộ Thương binh xã hội của nước Việt Nam mới. 

Vũ Đình Tụng kể, Lê Thân ghi, theo báo Nghệ An, tháng 9-1994 

Tổ chức UNESCO tại kỳ họp Đại hội đồng lần thứ 24 ở Paris năm 1987 đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa“ do các đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Người trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, và Người đã dành cả cuộc đời mình cho sự giải phóng nhân dân Việt Nam, đóng góp cho cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của các dân tộc. 

19 tháng 5 là ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là ngày thành lập Việt Minh và khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Hành trình đến tự do hạnh phúc của dân tộc Việt đã trãi qua giành độc lập dân tộc và đấu tranh thống nhất Tổ quốc trong cuộc trường chinh thế kỷ . Minh triết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp đấu trang giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc quy non sông vào một mối. Những việc khác Bác có Di chúc để lại cho đời sau. Công lao và những biến đổi phần sau không thể và không nên quy hết về Người. Có một số uẩn khúc đời người cần có đủ tư liệu mới đánh giá đầy đủ. 

Bác Hồ có bài thơ “Chơi chữ” rất lạ vào những ngày đầu khởi lập nước Việt Nam mới.Đó là một kỳ thư, kinh Dịch độc đáo, một luận giải sứ mệnh và tự đánh giá của Bác:

Chơi chữ 
Hồ Chí Minh 
(Bản dịch của Nam Trân): 

Người thoát khỏi tù ra dựng nước,
Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay;
Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay! 

Nguyên tác:
Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,
Hoạn quá đầu thì thuỷ kiến trung;
Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại,
Lung khai trúc sản, xuất chân long. 

折字
Chiết tự
Chơi chữ
囚人出去或為國
患過頭時始見 忠
人有憂愁優點大
籠開竹閂出真龍 

Chiết tự là một hình thức phân tích chữ Hán ra từng bộ phận để thành những chữ mới, có ý nghĩa khác với ý nghĩa ban đầu. Theo lối chiết tự, bài thơ này còn có nghĩa đen như sau: chữ tù (囚) bỏ chữ nhân (人), cho chữ hoặc (或) vào, thành chữ quốc (國). Chữ hoạn (患) bớt phần trên đi thành chữ trung (忠). Thêm bộ nhân (人) đứng vào chữ ưu (憂) trong “ưu sầu” thành chữ ưu (優) trong “ưu điểm”. Chữ lung (籠) bỏ bộ trúc đầu (竹) thành chữ long (龍). 

Anh Phan Chí Thắng có bài thơ viên đá thời gian “Ảnh ngày 19 /5 36 năm trước”

Vườn cây che mát nhà sàn
Mặt ao in bóng dịu dàng trời mây
Người như còn sống nơi đây
Mắt cười ấm áp đủ đầy yêu thương
Huệ thơm ngan ngát tỏa hương
Bước chân khẽ vọng con đường Bác qua
Nước non đất Việt là nhà
Biển xa núi thẳm đều là chốn quê:

Bác thật sự Ưu tiên đạo đức, Tận tụy quên mình, Kiên trì bất khuất, Khiêm tốn giản dị, Hài hòa kết hợp, Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý, Yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Hải Như thơ về Người và Ghi chép của Sơn Tùng, tôi thường đọc lại

Vị tướng của lòng dân Võ Nguyên Giáp có nhiều đúc kết trí tụệ sâu sắc về Bác

2. BÁC HỒ NÓI ĐI ĐÔI VỚI LÀM CÓ LÝ CÓ TÌNH MẪU MỰC ĐẠO ĐỨC

Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng chuyên nghiệp, mẫu mực về đạo đức cách mạng, là tấm gương sáng về tự học suốt đời. Người nói: “Học ở đâu? Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học ở dân“. Người luôn nói và làm đi đôi., học không biết mỏi, dạy không biết chán. 

Bác viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Jêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm một người học trò nhỏ của các vị ấy..” Trích “Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng”, NXB Khoa học xã hội, H.1996, trang 152. (Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng). 

Nói và làm của Hồ Chí Minh điều gì cũng minh triết và thiết thực. Từ bài “Tâm địa thực dân” viết ở Pháp năm 1919 đến “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945. Từ “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” năm 1945 đến “Lời kêu gọi sau khi hội nghị Giơnevơ thành công” năm 1954. Từ “Lời phát biểu trong buổi đón tiếp Ủy ban Quốc tế” năm 1954 sau cuộc chiến tranh Đông Dương tàn khốc và dai dẳng 8,9 năm đến “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” công bố năm 1969 lúc cuộc chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn dữ dội và ác liệt nhất. Việc làm nào, lời nói nào của Bác Hồ đều là nói đi đôi với làm, là khuôn vàng thước ngọc của đạo đức cách mạng “cần, liêm, chính, chí công vô tư“. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ Quốc, tự do và hạnh phúc của dân. Người viết: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” Tư tưởng xuyên suốt của Người là “Việc gì lợi cho dân , ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân ta phải hết sức tránh” “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” 

Hồ Chí Minh có nhiều bài chuyên bàn về đạo đức và đạo đức cách mạng. Đó là các bài “Đạo đức công dân” (1-1955), Đạo đức cách mạng (6-1955; 12-1958), “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (2-1969). Người chủ trương phát triển văn hóa gắn liền với đời sống mới, kêu gọi thực hành đời sống mới trong mọi lĩnh vực, mọi tầng lớp và trong từng con người. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: ” Đời sống mới không phải là cái gì cũ cũng bỏ hết không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý…; Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm …; Cái gì mới mà hay thì ta phải làm” 

3. BÁC HỒ THỰC TIỄN QUYỀN BIẾN RẤT ÍT TRÍCH DẪN  

Ông Trường Chinh nói với ông Hà Đăng khi chiêm nghiệm về phong cách văn chương của chủ tịch Hồ Chí Minh: Bác Hồ rất ít trích dẫn. Lúc đầu tôi cũng cho là ngẫu nhiên. Về sau, hỏi trực tiếp, Bác nói: Mác, Ang ghen, Lê Nin nói rất đúng. Nhưng hoàn cảnh Mác, Ang ghen, Lê Nin hoàn toàn khác hoàn cảnh của chúng ta. Vậy nên muốn nói gì, trước hết phải hiểu cho thật rõ điều mà các vị ấy muốn nói, nói cho phù hợp với hoàn cảnh của mình, cho dân mình dễ hiểu. Do đó, Bác viết bằng sự suy nghĩ của mình. Bác rất ít trích dẫn”. (Hà Đăng 2002. Trường Chinh, người anh cả trong làng báo. Trong sách: Trường Chinh, một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 320). Ông Trường Chinh là một trong những người làm việc lâu nhất, thường xuyên nhất với Bác. Những chắt lọc và nhận xét trên đây chắc chắn là điều cần cho chúng ta suy ngẫm. 

“Bác viết bằng sự suy nghĩ của mình. Bác rất ít trích dẫn” đó là phong cách văn chương của Hồ Chí Minh. Những người thông hiểu lịch sử, văn hóa, hiểu sâu các điển cố văn chương, chuyện hay tích cổ sẽ có thể chỉ ra vô số những điều trùng khớp của những lời hay ý đẹp từ xa xưa đã được Bác vận dụng một cách hợp lý hợp tình trong thời đại mới. Bác là người chú trọng ngôn ngữ giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu, có tính thuyết phục cao, có nhịp điệu. Một thí dụ nhỏ như câu: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào/ Học tập tốt, lao động tốt/ Đoàn kết tốt, kỹ luật tốt/ Giữ gìn vệ sinh thật tốt/ Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm” là câu sáu chữ có nhịp điệu như câu thơ cổ.   

Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Suốt đời Bác làm hai việc chính là kiến tạo Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thành một mặt trận rộng rãi “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công thành công, đại thành công” thực hiện “kế sách một chữ đồng” giành độc lập dân tộc và mở đường thống nhất Việt Nam.

GSTranTheThong1

4. HỒ CHÍ MINH TRỌN ĐỜI MINH TRIẾT

“Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu tại cuộc Hội thảo Quốc tế Hồ Chí Minh Việt Nam và Hòa Bình Thế Giới, Calcutta Ấn Độ 14-16 tháng 1 năm 1991. Lưu bút của đại tướng Võ Nguyên Giáp thân tặng Trần Thế Thông, (Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam) Xuân Tân Mùi năm 1991.

Bác Hồ thật đúng là: “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh. Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành. Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy. Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH”.

Một số vĩ nhân còn lầm lẫn và khuyết điểm vào một thời điểm nào đó trong đời, riêng Bác Hồ thì sự lầm lẫn và khuyết điểm chưa tìm thấy.

Hồ Chí Minh trọn đời minh triết.

Vietnammoitulieulichsu

5. HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆT NAM MỚI

Việt Nam mới được tính từ ngày 2 tháng 9 năm 1945, đó là Việt Nam Dân chủ Cộng hòaBác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự cân nhắc đúng tầm mức chi phối thời cuộc của Pháp, Trung Hoa Dân Quốc, Anh, Trung Hoa Cộng sản, Mỹ, Nga. Sự lợi dụng mau lẹ và kiên quyết trước phong trào vô sản quốc tế và cộng sản đang trỗi dậy, ngọn nến hoàng cung vương triều Nhà Nguyễn phong kiến đang suy tàn nhưng có những lực cản thật mạnh mẽ, hệ thống thuộc địa thực dân cũ đã lung lay và hệ thống thực dân mới đang chuyển đổi nhanh chóng. Sự cần thiết đánh giá đúng tầm vóc và vị thế lịch sử của Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng,  Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Đế Duy Tân, Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diệm, Hoàng Xuân Hãn, Trần Văn Giàu, Phạm Quỳnh,  Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Trường Tam, Phan Văn Giáo, … Bài học lịch sử là khối vàng ròng giá trị to lớn cần thấu hiểu và cắt nghĩa cho đúng. Sự thật lịch sử sáng tỏ dần.

5.1. Giành thời cơ vàng nghìn năm có một

Ngày 2 tháng 9 là ngày khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng là ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 70 năm nhìn lại lịch sử trước và trong những ngày cách mạng tháng tám, đánh giá tầm vóc lịch sử của ngày Việt Nam độc lập.

Hồ Chí Minh chọn “Đường kách mệnh” phát động “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta“, làm cách mạng theo Lê Nin, mà không chọn cải lương tôn quân theo Không Tử. Người chọn theo phe Đồng Minh mà không chọn theo phe Trục của Nhật, Đức, Ý như vua Bảo Đại và chính quyền Trần Trọng Kim. Người chọn Liên Xô, Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng Sản Trung Quốc làm chỗ dựa “giành và giữ chính quyền” chứ không chọn Trung Hoa Dân Quốc, Pháp, Anh để duy trì chế độ quân chủ và sự cai trị trở lại của Pháp như cũ.

Đọc lại và suy ngẫm bài viết của Bác Hồ về “Khổng Tử” đăng trên báo “Thanh Niên”, cơ quan huấn luyện của tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu ngày 20/2/1927. Hồ Chí Minh chọn đường lối cách mạng thì theo phương pháp và cách tổ chức của Lê Nin mặc dù suốt đời Người ưu tiên đạo đức thực hành đức trị theo Khổng Tử.

Bác viết: “Khổng Tử đã viết “Kinh Xuân Thu” để chỉ trích “những thần dân nổi loạn” và “những đứa con hư hỏng”, nhưng ông không viết gì để lên án những tội ác của “những người cha tai ác” hay “những ông hoàng thiển cận”. Nói tóm lại, ông rõ ràng là người phát ngôn bênh vực những người bóc lột chống lại những người bị áp bức… Nếu Khổng Tử sống ở thời đại chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm cũ thì ông sẽ trở thành phần tử phản cách mạng. Chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ trái với dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin!”.

Hồ Chí Minh sọạn thảo Báo cáo của Việt Nam gửi Quốc tế Cộng sản ngày 12 tháng 7 năm 1940. Tài liệu tổng hợp, phân tích và đánh giá đầy đủ, toàn diện tình hình và cực kỳ súc tích, thể hiện tầm nhìn thiên tài và nhãn quan chính trị kiệt xuất, sâu sắc hiếm thấy. Người viết:

Tóm lại, những điều kiện khách quan cho phép chúng tôi có hi vọng thành công. Song, lực lượng chủ quan- lực lượng của Đảng còn quá yếu. Như trên đã nói, một đảng mới mười tuổi lại trãi qua hai lần khủng bố lớn, số cán bộ có kinh nghiệm đấu tranh hiện còn đang rên xiết trong tù ngục, khiến đảng viên và quần chúng như “rắn mất đầu” không thể tận dụng cơ hội tốt “nghìn năm có một”.

Chúng tôi liệu có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh đó, khắc phục khó khăn đó, giúp Đảng hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó hay không? Có.

Chúng tôi nhất định không thể từ trong đánh ra. Chúng tôi chỉ có cách từ ngoài đánh vào. Nếu chúng tôi có được: 1) Tự do hành động ở biên giới; 2) Một ít súng đạn; 3) Một chút kinh phí; 4) Vài vị cố vấn thì chúng tôi nhất định có thể lập ra và phát triển một căn cứ địa chống Pháp, chống Nhật – đó là hi vọng thấp nhất. Nếu chúng tôi có thể mở rộng Mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức, có thể lợi dụng mâu thuận giữa các nước đế quốc thì tiền đồ tươi sáng là có thể nhìn thấy được. Tôi rất hi vọng các đồng chí giúp tôi nhanh chóng giải quyết vấn đề này. 12.7.40.” (Hồ Chí Minh Toàn tập t. 3 tr. 162-174).

Tháng 5 năm 1941 các lực lượng ái quốc, trong đó nòng cốt là Đảng Cộng Sản Đông Dương, dẫn đầu bởi Hồ Chí Minh, tập họp tại một địa điểm gần biên giới Việt- Trung, tham gia một tổ chức đứng về phía Đồng Minh giành độc lập cho Việt Nam gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh, thường được gọi vắn tắt là Việt Minh. Tổ chức này xây dựng một chiến khu do họ kiểm soát ở biên giới Việt Trung. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp thành lập một trung đội 34 người mang tên Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (một trong những tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam), ngay sau khi thành lập đã tiến đánh quân Nhật, mở rộng chiến khu. Trước khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, chiến khu đã bao gồm nhiều tỉnh vùng đông Bắc Bắc Bộ, gọi là chiến khu Việt Bắc. Phản ứng trước sự kiện Nhật đảo chính Pháp, ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” nhằm phát động cao trào kháng Nhật cứu nước.

Trước tình thế này, Nhật đề nghị giúp đỡ chính quyền vua Bảo Đại vãn hồi trật tự và ổn định tình hình, nhưng vua Bảo Đại đã từ chối, ông đã nói một câu nói nổi tiếng: “Ta không muốn một quân đội nước ngoài làm đổ máu thần dân ta”. Vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim đã trói tay quân Nhật, để nhường lợi thế lại cho “người nhà” mình.

Cách mạng tháng Tám là việc Việt Minh tiến hành khởi nghĩa buộc chính phủ Đế quốc Việt Nam do vua Bảo Đại phê chuẩn, được Nhật bảo hộ, bàn giao chính quyền trung ương và các địa phương cho lực lượng này trong tháng 8 năm 1945. Việc chuyển giao quyền lực được chính phủ Đế quốc Việt Nam thực hiện cơ bản trong hoà bình, ít có đụng độ dù xảy ra tranh chấp với lực lượng Nhật, Đại Việt, Hòa Hảo,… ở một số địa phương. Lực lượng quân đội Nhật tại Việt Nam không có phản ứng đáng kể trước những hoạt động của Việt Minh vì lúc này Nhật đã tuyên bố đầu hàng đồng minh và đang chờ quân đồng minh tới giải giáp, hơn nữa vua Bảo Đại và Thủ tướng Đế quốc Việt Nam Trần Trọng Kim đã từ chối lời đề nghị của Tư lệnh quân đội Nhật giúp chính phủ chống lại Việt Minh.

Tại thời điểm cách mạng tháng Tám  thì các đảng phái khác như Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng… cũng có hành động tương tự buộc chính quyền Đế quốc Việt Nam tại một số ít địa phương trao quyền lực cho họ. Trừ một số địa phương tỉnh lỵ Hải Ninh (nay thuộc Quảng Ninh), Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Vĩnh Yên nằm trong tay Việt Quốc, Việt Cách và quân Tưởng; còn lại chính quyền Việt Minh đã được thiết lập trên toàn bộ các tỉnh lỵ (muộn nhất 28/8: Đồng Nai Thượng, Hà Tiên), hầu hết địa phương trong cả nước. Một số nơi có khó khăn hơn như Hà Giang, quân Tưởng bức rút quân Nhật (29/8), Cao Bằng (giành chính quyền 21/8 nhưng sau đó quân Tưởng tràn vào), Lạng Sơn (giành chính quyền sau đó Tưởng tràn vào, tháng 10 mới thành lập chính quyền cách mạng), Vĩnh Yên (Quốc dân đảng nắm giữ), Hải Ninh – Móng Cái (Cách mệnh Đồng Minh hội nắm), một số địa bàn ở Quảng Ninh (do Đại Việt, Cách mệnh Đồng Minh hội nắm), ở Đà Lạt (quân Nhật còn kháng cự mạnh như ngày 3/10)…

Kết quả sau khi cướp chính quyền và vua Bảo Đại thoái vị, “Đáp ứng lời kêu gọi của Ủy ban, tôi sẵn sàng thoái vị. Trước giờ quyết định này của lịch sử quốc gia, đoàn kết là sống, chia rẽ là chết. Tôi sẵn sàng hy sinh tất cả mọi quyền lợi, để cho sự đoàn kết được thành tựu, và yêu cầu đại diện của Ủy ban sớm tới Huế, để nhận bàn giao.” (thư của vua Bảo Đại gửi Việt Minh).  “Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị” (Chiếu Thoái vị của vua Bảo Đại). Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Việt Minh đã mời vua Bảo Đại tham gia làm cố vấn tối cao của Chính phủ Hồ Chí Minh. Sau này, khi vua Bảo Đại ra nước ngoài thì việc trở về hay không là do sự quyết định của vua như hồi ký của vua Bảo Đại kể lại. Đặc biệt là tài liệu Một cơn gió bụi, cuốn Hồi ký nổi tiếng của nhà sử học, thủ tướng Trần Trọng Kim (1883–1953) xuất bản năm 1949, đã chỉ rõ tóm lược quãng đời làm chính trị của ông từ năm 1942 đến năm 1948. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hai năm 1945 – 1946, cũng đã có 8 thư và điện gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman. Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Harry Truman ngày 16/2/1946 (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, tr 91- 91), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam giành độc lập dân tộc, đứng về phía đồng minh chống phát xít; sự phi nghĩa của cuộc xâm lược mà thực dân Pháp đang đẩy mạnh ở Đông Dương trái ngược những lập trường Mỹ đã nêu trong các hội nghị quốc tế.

HoChiMinh VoNguyenGiap

5.2 Bình sinh kẻ phi thường giữ nước

Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại tướng Võ Nguyên Giáp là ẩn số Chính Trung. Cách mạng là sửa lại cho đúng để hợp thời thế. Chí Thiện là Chính Trung dĩ bất biến ứng vạn biến. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491– 1585) trong Trung Tân quán bi ký, viết năm 1543 có nói: Vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê… Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện (xem thêm: Ngày xuân đọc Trạng Trình). Tướng Giáp biết nhiều, tâm đắc với “dĩ công vi thượng”. Tướng Giáp hiểu rõ Chính Trung là Chí Thiện của Hồ Chí Minh.

“Kẻ phi thường” xin thưa, đó là chữ của Bác Hồ nói về vua Lý Công Uẩn và vua Quang Trung, nhưng chính Bác Hồ cũng tỏ rõ chí hướng việc chính của đời mình là noi theo gương sáng của tiền nhân để làm Người “áo vải cờ đào. giúp dân dựng nước xiết bao công trình”.Bác Hồ bình đẳng với con dân Việt. Bác tự coi mình như người lính vâng mệnh quốc dân ra mặt trận. Bác Hồ Chí Minh uy nghi như tượng đài của chính những người lính vô danh hiến mình cho Tổ Quốc quyết sinh. Hình tượng của Bác với CON NGƯỜI bình đẳng một nhân xưng. Hồ Chí Minh tuyển tập, bài Lịch sử nước ta, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội năm 2002, trang 596, Bác Hồ đã viết về Lý Công Uẩn:

“Công Uẩn là kẻ phi thường
Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta
Mở mang văn hóa nước nhà
Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân.”

Bác Hồ viết về Nguyễn Huệ cũng trong sách và bài viết trên trang 598 :

“Nguyễn Huệ là kẻ phi thường
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu,
Ông đà chí cả mưu cao,
Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.
Cho nên Tàu dẫu làm hung
Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà.”

Kẻ phi thường” là chữ của Bác Hồ dùng để đánh giá và tôn vinh vị vua khai quốc Lý Thái Tổ Công Uẩn, cũng là chữ đánh giá công bằng lịch sử đối với người anh hùng áo vải Quang Trung hoàng đế Nguyễn Huệ. Bác Hồ ngày 19 tháng 5 năm 1965 thăm Khúc Phụ bày tỏ sự đánh giá công tâm học Khổng Tử và chính Người đã suốt đời ưu tiên thực hành đạo đức nhưng chính Bác đã lựa chọn “đường kách mệnh” theo Lê Nin.

Kẻ phi thường” “đường kách mệnh” có những chữ “lạ”. Hồ Chí Minh là nhà thông thái, hẵn nhiên không phải dùng nhầm chữ. Đó là câu chuyện còn để ngõ cho đời sau.

Hồ Chí Minh có nói “Các Vua Hùng đã có công dựng nước.  Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” trước cán bộ Đại đoàn Quân tiên phong tại cửa Đền Giếng trong khu di tích Đền Hùng thuộc núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Hồ Chí Minh cũng là kẻ phi thường giữ nước như Lý Công Uẩn và Nguyễn Huệ.

Trên bảy mươi năm sau nhìn lại lịch sử trước và trong những ngày cách mạng tháng tám, đánh giá tầm vóc lịch sử của ngày Việt Nam độc lập, càng đọc càng thấm thía nhiều điều sâu sắc. Hồ Chí Minh đã hiểu đúng dịch lý và giành được lợi thế ở bối cảnh quốc tế nhiễu loạn thời đó.

ChinhphuHoChiMinh1961

5.3 Hồ Chí Minh khéo tập hợp hiền tài

Bác kiên quyết khôn khéo tổ chức tuyên truyền cách mạng, giỏi thu phục tập hợp hiền tài. Lãnh đạo Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đầu năm 1961, (ảnh Phan Chí) đã soi thấu nhiều góc khuất của bước ngoặt lịch sử chiến tranh Đông Dươngminh triết Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh – Ẩn số Việt Nam “Đó là lãnh tụ của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thành công nhất mà chúng ta thấy trong thế kỉ này”. Bác Hồ rất quý trọng tình cảm gia đình. Ở Việt Bắc Bác Hồ thường đến thăm các gia đình người dân tộc. “Xa nhà chốc mấy mươi niên. Đêm qua nghe tiếng mẹ hiền ru con”.“Quê ta ngọt mía Nam Đàn Bùi khoai chợ Rộ, thơm cam Xã Đoài Ai về ai nhớ chăng ai Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh”. “Chốc đà mấy chục năm trời. Còn non, còn nước, còn người hôm nay”.  Sự thật các ẩn ngữ dần được giải mã. Hồ Chí Minh – Ẩn số Việt Nam.

Võ Nguyên Giáp tự trong sâu thẳm Võ Nguyên Giáp ẩn số Chính Trung, là một trong những câu chuyện đời thực, thể hiện tài minh quân của chủ tịch Hồ Chí Minh. Chuyện luật sư Vũ Trọng Khánh “Người chắp bút dự thảo Hiến pháp đầu tiên” cũng là trong nhiều dẫn liệu lịch sử lịch sử nhớ lại và suy nghẫm.

Hồ Chí Minh và Bảo Đại qua Ngọn nến Hoàng Cung cũng ẩn chứa nhiều điều tinh tế. Hoàng Hậu Nam Phương viết thư cho Quốc trưởng Bảo Đại năm 1946 để chuyển đạt thông tin: “Quốc trưởng của em. Em không đọc chữ mà đọc khoảng không giữa hai dòng chữ. “Ngài sẽ rất có ích cho chúng tôi nếu ở lại ở bên Tàu. Đừng lo ngại gì cả. Khi nào sự trở về của Ngài là cần thiết, tôi sẽ báo sau. Xin Ngài cứ tĩnh dưỡng để sẵn sàng cho công tác mới. Ôm hôn thắm thiết. Hồ Chí Minh”.Có khi ta gặp một người mà người đó thay đổi cả cuộc đời ta.” Hồ Chí Minh ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 đã gửi một phái đoàn ngoại giao đến Trùng Khánh để tái khẳng định tình hữu nghị Việt Trung và để thăm dò việc Tưởng Giới Thạch muốn hai nước sẽ có quan hệ thế nào sau khi ký Hiệp ước Hoa Pháp. Đoàn do Thứ trưởng Ngoại giao Nghiêm Kế Tổ, một thành viên Việt Quốc có nhiều mối quan hệ ở Trung Quốc, làm trưởng đoàn, hai người còn lại là thành viên Việt Minh. Cố vấn Vĩnh Thụy (Bảo Đại) được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử đi cùng đoàn vào đêm trước khi ba người khởi hành.

Hồ Chí Minh và Bảo Đại, sự thật lịch sử đang ngày một sáng tỏ Minh triết Hồ Chí Minh nghiên cứu lịch sử của Hoàng Kim nhằm hiểu đúng thực chất Bước ngoặt lịch sử chiến tranh Đông Dương: Vì sao không có được giải pháp hợp tác giữa Hồ Chí Minh với Bảo Đại, Ngô Đình Diêm, Nguyễn Trường Tam, Trần Trọng Kim, Nguyễn Hải Thần, Phạm Quỳnh, Hoàng Xuân Hãn và Phan Văn Giáo? Trong tất cả những nhân vật nêu trên thì người tâm điểm của chìa khóa lịch sử Việt Nam mới là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quốc trưởng Bảo Đại,

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là minh-triet-ho-chi-minh-4.jpg

Đánh giá về bình sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh sâu sắc nhất có lẽ đó là bài thơ: “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh. Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành. Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy. Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH”. Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời có nói : “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.  Suốt đời Bác làm hai việc chính là kiến tạo Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thành một mặt trận rộng rãi “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công thành công, đại thành công” thực hiện “kế sách một chữ đồng” giành độc lập dân tộc và mở đường Hồ Chí Minh thống nhất đất nước Việt Nam. Minh triết Hồ Chí Minh tư liệu góp phần tìm tòi bằng chúng sự thật lịch sử Minh triết Hồ Chí Minh https://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-triet-ho-chi-minh/

Tài liệu “Cuộc phỏng vấn trực tiếp Cựu hoàng Bảo Đại trước khi ông qua đời”  đăng trên Tạp chí Xưa và Nay số 456 tháng 2 năm 2015, được trích thuật trong nghiên cứu lịch sử này, sẽ giúp chúng ta một góc nhìn đối thoại giữa Cựu hoàng Bảo Đại đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh mà không cắt xén, biên tập lại, sửa chữa, hoặc không có bất cứ một lời bình phẩm nào. Tác phẩm này là quan trọng, cần thiết và đáng tin cậy. Đề cương câu hỏi của nhà sử học  Fédéric Mitterand, cháu của Tổng thống Mitterand bố cục thật tuyệt vời và Cựu hoàng Bảo Đại cũng đã trả lời “hay và thật rõ ràng”. Dư âm buổi phỏng vấn lắng đọng. Tài liệu này cùng với “Danh mục một số tư liệu lịch sử tuyển chọn” mời quý bạn đọc lại cẩn thận thật chậm và kỹ để tự suy ngẫm. Tài liệu chính gồm: 1) Ngọn nến Hoàng cung bộ phim lịch sử của đạo diễn Nguyễn Quốc Hưng, đoạt Giải thưởng: Cánh Diều Vàng Việt Nam cho Phim truyền hình dài tập xuất sắc nhất; 2) Chính phủ của Bảo Đại và Trần Trọng Kim; 3) Tài liệu cho sử gia; 4) Trần Chung Ngọc và sachhiem.net ;5)  Đế quốc Việt Nam; 6) Một cơ hội bị bỏ lỡ ở Việt Nam năm 1945?; 7) Học giả Trần Trọng Kim; 8) Hoàng Xuân Hãn con người và chính trị;  9) Nhà văn hóa Phạm Quỳnh; 10) Bảo Long – Hoàng thái tử cuối cùng thời quân chủ VN; 11) Vài suy nghĩ về cựu hoàng Bảo Đại; 12) Phan Văn Giáo người đứng đầu miền Trung thời Cựu hoàng Bảo Đại làm Quốc trưởng; 13) Tư liệu quý ngày 2 tháng 9; 14) Ngoại giao Việt Nam: Những năm đầu thành lập

Minh triết Hồ Chí Minh lược khảo năm ý chính: 1) Việt Nam Hồ Chí Minh là biểu tượng Việt. 2) Bác Hồ nói đi đôi với làm có lý có tình, mẫu mực đạo đức. 3) Bác Hồ thực tiễn, quyền biến, năng động, rất ít trích dẫn. 4) Hồ Chí Minh trọn đời minh triết 5) Hồ Chí Minh với Việt Nam mới: Giành thời cơ vàng ngàn năm có một; Bình sinh kẻ phi thường giữ nước Hồ Chí Minh khéo tập hợp hiền tài

MINH TRIẾT HỒ CHÍ MINH
Hoàng Kim

Thanh nhàn ta đọc chuyện trăm năm.
Người hiểu thường khi nói ít lầm.
Sự đọc thung dung còn đọng lại.
Trãi mình trong cõi thấu nhân văn

xem tiếp Minh triết Hồ Chí Minh

LÀNG MINH LỆ QUÊ TÔI
Hoàng Kim

Linh Giang Đình Minh Lệ
Nguồn Son nối Phong Nha
Đất Mẹ vùng di sản
Đá Đứng chốn sông thiêng.
Bến Lội Đền Bốn Miếu
Cầu Minh Lệ Rào Nan
Lời thề trên sông Hóa
Lời dặn của Thánh Trần
Ta về với Linh Giang

“Cao Cát Mạc Sơn
Sơn Hà Cảnh Thổ
Văn Võ Cổ Kim
Linh Giang thông đại hải
Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn
Đình Bảng Cao Lao Hạ
Miếu cổ thủy sơn thần”
.

LINH GIANG
Hoàng Kim


Nhà mình gần ngã ba sông
Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình
Linh Giang sông núi hữu tình
Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con

“Chèo thuyền cho khuất bến Son
Để con khỏi chộ nước non thêm buồn “

Câu ru quặn thắt đời con
Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ

Ra đi từ bấy đến chừ
Lặn trong sương khói bến đò sông quê
Ngày xuân giữ vẹn lời thề
Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.

ĐÌNH MINH LỆ
Hoàng Kim

Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.

ĐÁ ĐỨNG CHỐN SÔNG THIẾNG
Hoàng Kim

Con về Đá Đứng Rào Nan
Cồn Dưa Minh Lệ của làng quê hương
Linh Giang chảy giữa vô thường
Đôi bờ thăm thẳm nối đường tử sinh.

BẾN LỘI ĐỀN BỐN MIẾU
Hoàng Kim

Bến Lội, Bốn Miếu tinh anh
Cồn Dưa, Đá Đứng kết thành Bắc Nam
Rào Nan, Chợ Mới, Nguồn Son
Làng tôi khoai lúa thơm hương quê nhà

TA VỀ VỚI LINH GIANG
Hoàng Kim

Ta về với Linh Giang
Lời thề trên sông Hóa
Ta khóc khi ra đi
Tâm bình lặng lúc về

Linh Giang Đình Minh Lệ
Nguồn Son nối Phong Nha
Đất Mẹ vùng di sản
Cầu Minh Lệ Rào Nan

Hoành Sơn với Linh Giang
Đá Đứng chốn sông thiêng
Sông Nhật Lệ Lũy Thầy
Tuyến ba tầng thủ hiểm

Nam tiến của người Việt
Cao Biền trong sử Việt
Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Đào Duy Từ còn mãi

Bài ca Trường Quảng Trạch
Lời dặn của Thánh Trần
Cuối dòng sông là biển
Hoa Đất thương lời hiền

Ta về với Linh Giang
Sông đời thao thiết chảy

LỜI THỀ TRÊN SÔNG HÓA
Hoàng Kim


Sông Hóa ơi Bạch Đằng Giang
Ta đến nơi đây chẳng một lần
Lời thề sông núi trời đất hiểu
Lời dặn của Thánh Trần

Sông Hóa ơi hời, ơi Linh Giang
Quê hương liền dải tụ trời Nam
Minh Lệ, Hưng Long hai bầu sữa
Hoàng Gia trung chính một con đường.

Rào Nan Đá Đứng chốn sông thiêng
Nguồn Son Chợ Mới đẹp ân tình
Minh Lệ đình xưa thương làng cũ
Nguyện làm hoa đất của quê hương.

Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.

LINH GIANG TRONG LỊCH SỬ

Sông Gianh (Linh Giang) Hoành Sơn, Đèo Ngang, Sông Nhật Lệ, thành phố Đồng Hới, Di sản thiên nhiên thế giới vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là sáu biểu trưng đặc sắc của tỉnh Quảng Bình về địa chính trị, du lịch sinh thái, lịch sử, địa lý, văn hóa. Sông Gianh là biểu tượng chính.

xem tiếp Làng Minh Lệ quê tôi; Một gia đình yêu thương

Nếp nhà đẹp văn hóa
Một gia đình yêu thương
Một gia đình yêu thương

CÂU CHUYỆN ẢNH THÁNG MỘT
Hoàng Kim

Mừng niềm vui bạn quý
Xuân ấm áp tình thân
Ngày cưới con thầy Lợt
Bạn hữu cùng chung vui
xem tiếp Chào ngày mới 9 tháng 1

Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây cp nht mi ngày

Video yêu thích

Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
Quà tặng cuộc sống yêu thích
Vietnamese food paradise
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter