#cnm365 #cltvn 14 tháng 3


hoaHongnhatoi

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
#Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc#cnm365#cltvn; #đẹpvàhay;
Ngày mới lời yêu thương (hình) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-moi-loi-yeu-thuong ; Tắm tiên Chư Yang Sin https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tam-tien-chu-yang-sin/ ; Thế giới trong mắt ai https://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-gioi-trong-mat-ai ; #cnm365 #cltvn 14 tháng 3 https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-14-thang-3/ ; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/tinh-thuc-cung-thang-nam/

CNM365 Tình yêu cuộc sống https://hoangkimlong.wordpress.com; #tinhyeucuocsong  #hoangkimlong,  #hoanggiaBan mai chào ngày mới; Tỉnh thức cùng tháng năm; Lên Trúc Lâm Yên TửĐêm Yên Tử; An vui cụ Trạng Trình; Trăng rằm Ngọc Quan Âm; Pho tượng Ngọc Quan ÂmNhớ Viên Minh Hoa Lúa; Ai bảo chăn trâu là khổ?; A Na tìm được Ngọc; Hoàng Tố Nguyên tiếng TrungHoàng Long cây lương thực;  Hoàng Kim chuyện đời tôi; Chọn giống sắn Việt Nam; Thầy nghề nông chiến sĩ;  Kim Notes lắng ghi chú; Thầy bạn là lộc xuân;  Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Sóc Trăng Lương Định Của;  Thầy Quyền thâm canh lúaThầy Xuân canh tác lúa; Thầy Vũ trong lòng tôi; Thầy Luật lúa OMCS OM;  TTC Group Sen vào hè;  ĐHNN2 Hà Bắc nay và xưa; Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc;   Sự chậm rãi minh triết; Chuyện ngậm ngãi tìm trầm; Họ im lặng như núiVăn chương ngọc cho đời; Chính Ngọ đoán Kinh Dịch; An nhiên; Một gia đình yêu thương; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Kim Notes lắng ghi chú; Chung sức trên đường xuân; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Quà xuân thật tuyệt vời; Xuân ấm áp tình thân; Chuyện đời không thể quên; Thời chuyển mùa nhớ bạn. Thế giới trong mắt ai; Nước Nga và châu Âu; Giống sắn KM140 VIFOTEC; Bảo tồn và phát triển sắn; Vietnamese cassava today; Chuyện ngậm ngãi tìm trầm; Trần Khánh Dư Vạn Kiếp; Nhớ bài thi tuổi thơ; Trường học hướng ban mai; Thơ tặng mùa yêu thương; Bà Đen; Sholokhov người sông Đông Nhớ kỷ niệm một thời; A Na Bình Minh An; A Na bà chúa Ngọc; Truyện George Washington; Sắn Việt Nam và Kawano, Cassava and Vietnam: Now and Then. Thế giới trong mắt ai; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Công viên Tao Đàn HCM; Đêm trắng và bình minh; Mạc triều trong sử Việt; Ngày mới Ngọc cho đời; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Thăm thẳm trời sông Thương; Nha Trang và A. Yersin; Nha Trang thơm trầm hương; Nha Trang biển và em; Sắn lúa ở Phú Khánh; Ức Trai tâm tựa Ngọc; Xuân sớm Ngọc Phương Nam; Tháng ba hoa hồng trắng; Qua Mang Thít Vĩnh Long; Nơi một trời thương nhớ; Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Sớm xuân kênh Thị Nghè; Nhà Trần trong sử Việt; Sơn Nam ông giá Nam Bộ ; Sơn Nam và Bùi Giáng; Thầy bạn là lộc xuân; Trăng rằm Ngọc Quan Âm ; An nhiên; Champasak ngã ba biên giới ; Điểm hẹn chốn đồng tâm; Lào hoa trắng nắng Mekong; Thế giới trong mắt ai; Gia Cát Mã Tiền Khóa; Thành tâm với chính mình; Soi sáng lại chính mình ; Tím một trời yêu thương; Giấc mơ lành yêu thương; Ngôi sao mai chân trời; Công viên Tao Đàn HCM; Hậu duệ của mặt trời; Xuân sớm Ngọc Phương Nam; Đến với Tây Nguyên mới; Giống lúa siêu xanh GSR65; Giống lúa siêu xanh GSR90; Nguyễn Duy cát trắng bụi; Nguyễn Khải thầy văn Việt ;

Ngày mới lời yêu thương; Câu chuyện đứng trước biển; Sớm mai qua Đại Lãnh; Dấu xưa thầy bạn quý; IAS đường tới trăm năm; Chuyện thầy Trần Hồng Uy; Chuyện thầy Lê Quý Kha; Giống ngô lai VN 25-99; Câu chuyện ảnh tháng Ba; Ngày 14 tháng 3 ngày Hôn nhân Quốc  tế, White day, kỷ niệm một tháng sau ngày Valentine tại Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Ngày 14 tháng 3 năm 1988, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam xảy ra xung đột tại đá Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa, kết quả hải quân Trung Quốc chiếm được đá này. Ngày 14 tháng 3 năm 1988, Ngày Pi được tổ chức lần đầu tiên ở San Francisco Exploratorium theo ý tưởng của Larry Shaw. Bài chọn lọc 14 tháng 3 #cnm365 #cltvn An nhiên; Thế sự bàn cờ vây; Câu chuyện đứng trước biển; Sớm mai qua Đại Lãnh; Dấu xưa thầy bạn quý; IAS đường tới trăm năm; Dấu xưa thầy bạn quý; Chuyện thầy Trần Hồng Uy; Chuyện thầy Lê Quý Kha; Giống ngô lai VN 25-99; Câu chuyện ảnh tháng Ba; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoaqngkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-14-thang-3/

NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim


An tâm là Đạo
Giản dị là Đức
Nếu chưa vui khỏe
Là đang sai đường.

An tâm là Đạo
Thiện lành là Đức
Nếu ít khiêm cung
Là đang sai đường.

II

Khoác thêm tấm áo trời se lạnh
Đông tàn xuân tới đó rồi em
Phúc hậu mỗi ngày chăm việc thiện
Yêu thương xa cách hóa gần thêm.

III

Em ơi em đẹp vô cùng
Vì em có cái lạ lùng ở trong
” (Bùi Giáng)
Mình về có nhớ ta không
Vầng trăng ngọn lửa, tấm lòng yêu thương

iV

“Cảnh mãi theo người được đâu em
Hết khổ hết cay hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen” (Hoàng Ngọc Dộ)

V

Thung dung cùng với cỏ hoa
Thảnh thơi đèn sách, nhẫn nha dọn vườn
Mặc ai tính thiệt so hơn
Bát cơm gạo mới vẫn thơm láng giềng.

VI

Thiên nhiên là thú thần tiên
Chân quê là chốn bình yên đời mình
Bạn hiền bia miệng anh linh
An nhiên sống giữa ân tình thế gian.

Hoàng Kim
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-moi-loi-yeu-thuong/

Bảo tồn những ghi chép cũ ngày này năm xưa

HOA ĐẤT CỦA QUÊ HƯƠNG
Hoàng Kim

Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.

Trăng rằm đêm Thanh Minh 2018

NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Mái nhà xưa nơi đây
Mẹ cha thành bóng hạc
Thương câu thơ lưu lạc
Chuyện đời đâu dễ quên.

Nội ngoại kết người thân
Giỗ chạp ngày đoàn tụ
Xuân ấm áp tình thân
Sông đời thao thiết chảy

HOA ĐẤT THƯƠNG LỜI HIỀN
Hoàng Kim


1

Ta vui hòa nhịp thời gian
Thung dung nhàn giữa gian nan đời thường.


Hoa Đất thương lời hiền
Nam tiến của người Việt
Mẫu Phương Nam Tao Đàn
Đường Huyền Trân Công Chúa

2

Người ta hoa đất
An nhàn vô sự là tiên
Thung dung cỏ hoa
Thế giới người hiền

Điền trúc măng ngon
Hôm qua chăm mai
Sớm nay hái nấm
Chiều về thu măng.

Thung dung thanh nhàn
Sống giữa thiên nhiên
Đọc bài cho em
Vui cùng bạn quý

Đọc sách dọn vườn
Lánh chốn bon chen
Thảnh thơi cuộc đời
Chơi cùng hoa cỏ.

Xưa lên non Yên Tử
Mang lộc trúc về Nam
Nay đến chốn thung dung
Vui nhởn nhơ hái nấm.

Ơn Thầy Ơn Bạn
Lộc xuân cuộc đời
Thung dung Hoa Lúa
Phúc hậu, an nhiên,

Minh triết, tận tâm
Hoa Người Hoa Đất
Làm ngọc cho đời
Đạo ẩn vô danh.

3

Mình là hoa của đất
Ươm mầm xanh cho đời.
Gieo yêu thương hi vọng
Gặt hái những niềm vui.

Thấm thoắt bao xuân qua
Cùng nhau từ thuở ấy
Lộc muộn ngày hôm nay
Nhớ buổi đầu gieo cấy.

Hàng trăm ngàn hec ta
Bội thu từ giống mới .
Nhìn bà con hân hoan
Đường trần vui quên mỏi.

4

Nhà Trần trong sử Việt
Lời dặn của Thánh Trần
Yên Tử Trần Nhân Tông
Chuyện cổ tích người lớn

Về với vùng văn hóa
Nhớ cụ Thái Kim Đỉnh
Nguyễn Du trăng huyền thoại
Trà sớm thương người hiền
Việt Nam con đường xanh

5

Sớm nào cũng dành nửa tiếng,
Thung dung hòa nhịp thời gian.
Thong thả chỉ thêu nên gấm,
An nhiên việc tốt cứ làm.
Thoáng chốc đường trần nhìn lại,
Thanh nhàn vô sụ là tiên

6

Điểm nhịp thời gian đầy bút mực
Thung dung năm tháng thảnh thơi nhàn
Đất cảm trời thương người mến đức
An nhiên thầy bạn quý bình an.

Ngày mới đầy yêu thương
Chuyện cũ chưa hề cũ
An nhiên nhàn nét bút
Thảnh thơi gieo đôi vần

2017-11-01_YenTu

Ngày Hạnh Phúc đọc lại kinh Dịch và lời khuyên của Trạng Trình: “Căn bản học Dịch là phải biết tùy thời, hướng thiện và lạc quan. Tùy thời thì an nhàn, trái thời thì vất vả. Tùy thời mà vẫn giữ được trung chính.”

NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim


Khoác thêm tấm áo trời se lạnh
Tâm bình vui bước tới an nhiên
Phúc hậu mỗi ngày thêm việc thiện
Yêu thương xa cách hóa gần thêm.

NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Nắng dát vàng Bến Lội
Khoai mướt xanh Cồn Dưa
Núi sẫm tím Đá Dựng
Cò đậu trắng đôi bờ

Linh Giang ơi Linh Giang
Quê hương thăm thẳm nhớ
Rào Nan và Nguồn Son
Dòng đời thao thiết chảy

“Cảnh mãi theo người được đâu em
Hết khổ hết cay hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen” (*)

(*) Khát vọng, thơ Hoàng Ngọc Dộ.

HOA ĐẤT
“Giải thưởng cao quý này xin được dành tặng cho cha mẹ và bà con Phú Yên đã ủng hộ và trực tiếp ứng dụng kết quả nghiên cứu” (Nguyễn Thị Trúc Mai).

BÀI PHÁT BIỂU CẢM ƠN
HỘI THI SÁNG TẠO KỸ THUẬT TỈNH PHÚ YÊN LẦN THỨ 8 (2018-2019)

Kính thưa đồng chí Phan Đình Phùng, Tỉnh Ủy viên PCT UBND Tỉnh; Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, Kính thưa Ban Tổ chức, Ban Giám khảo Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh Phú Yên. Kính thưa quý đại biểu!

Tôi xin thay mặt các tác giả được nhận giải của Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh Phú Yên lần thứ 8 (2018-2019), bày tỏ lời biết ơn chân thành tới quê hương Phú Yên – Xứ sở “Hoa vàng trên cỏ xanh”. Giải thưởng cao quý này xin được dành tặng cho cha mẹ và bà con Phú Yên đã ủng hộ và trực tiếp ứng dụng kết quả nghiên cứu. Cảm ơn lãnh đạo UBND tỉnh, lãnh đạo Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Yên, Ban Tổ chức và Ban Giám khảo Hội thi đã tổ chức thành công một cuộc thi hết sức có ý nghĩa, được sự ủng hộ rộng rãi của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân trong địa bàn tỉnh Phú Yên.

Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh Phú Yên thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, tiếp cận nhanh với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa tỉnh nhà. Các sản phẩm dự thi có tính mới, có tính sáng tạo; khả năng ứng dụng vào thực tế cao, thậm chí có sản phẩm đã được phát triển rộng rãi trong sản xuất, thương mại hóa và góp phần làm giàu cho kinh tế tỉnh Phú Yên, như giải pháp Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao và kỹ thuật thâm canh tại tỉnh Phú Yên”, giải pháp “sản xuất than không khói từ phế phẩm nấm linh chi”, hay giải pháp “quản lý nhà yến 4.0”.

 Chúng tôi cảm thấy rất hạnh phúc, hân hoan và cảm kích công tác tổ chức khoa học, chuyên nghiệp của Ban Tổ chức cuộc thi. Đó là một trong những động lực thôi thúc chúng tôi cống hiến sức lao động sáng tạonhiều hơn nữa để góp phần phát triển Tỉnh nhà nói riêng và cho đất nước nói chung, về mọi mặt trong phạm vi cho phép.

Kính chúc các quý đại biểu mạnh khỏe, hạnh phúc, chúc Hội nghị tổng kết trao giải của chúng ta thành công rực rỡ!

Trân trọng cảm ơn!

KM419 o Phu Yen

“Người ta hoa đất” (tục ngữ Việt)

KM419
KM419_QÐ
KM419_va_3giongsankhac


(**) Giống sắn KM419 được Bộ Nông nghiệp & PTNT công nhận sản xuất thử tại Quyết định số 85/QĐ-BNN-TT ngày 13 tháng 1 năm 2016, hiện đã trồng phổ biến trong sản xuất mỗi năm khoảng 200.000 ha ở Đông Nam Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ.

Giống sắn KM419 có đặc điểm: thời gian sinh trưởng 7-10 tháng, năng suất củ tươi bình quân 36,9 tấn / ha, hàm lượng tinh bột 28,3%, năng suất tinh bột 10,4 tấn /ha, (so với KM94 đạt năng suất củ tươi 29,3 tấn/ ha, hàm lượng tinh bột 28,2 %, năng suất tinh bột 8,2 tấn/ ha). Giống sắn KM419 cây cao vừa phải, thân thẳng, tán gọn, nhặt mắt, lá xanh đậm, ngọn xanh, cọng phớt đỏ, dạng củ đồng đều, thịt củ màu trắng, thích hợp với chế biến và thị trường; nhiễm nhẹ đến trung bình bệnh cháy lá.

Trước giải pháp sắn Phú Yên “Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao và kỹ thuật thâm canh tại tỉnh Phú Yên” đã có những công trình nghiên cứu liên quan sự bảo tồn và phát triển bền vững giống sắn KM419 và kỹ thuật thâm canh đã được công bố:“Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật canh tác nhằm nâng cao năng suất cây sắn tại huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên” (Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Minh Hiếu, Hoàng Kim 2014); “Khảo nghiệm giống sắn và xác định lượng phân kali, khoảng cách trồng thích hợp cho giống sắn KM419 tại Tây Ninh” (Nguyễn Minh Cường 2014). “Kết quả nghiên cứu tuyển chọn giống sắn tại bốn vùng sinh thái 2011-2013” (Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Trọng Hiển, Nguyễn Thị Cách, Hoàng Kim 2014), “Xác định giống sắn năng suất cao và lượng phân bón NPK thích hợp cho canh tác sắn tại vùng Đông Nam Bộ” (Đào Trọng Tuấn 2013); Đánh giá và tuyển chọn giống sắn làm nguyên liệu sản xuất tinh bột và nhiên liệu sinh học (Nguyễn Thị Lệ Dung 2011); “Khai thác cây nhiên liệu sinh học chịu hạn sắn, jatropha, lúa miến, để nâng cao sinh kế và thu nhập cho các nông hộ  sản xuất nhỏ ở Việt Nam 2009-2011” (Hoang Kim, Nguyen Van Bo, Rod Lefroy et al. 2011). “Tuyển chọn các dòng sắn lai đơn bội kép nhập nội từ CIAT 2007-2008” (Hoàng Kim, Hoàng Long và ctv. 2009);

HoaDat
Hoa Dat 1

Người ta hoa đất

xem tiếp: Hoa Đất của quê hương
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-dat-cua-que-huong/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nho-mien-dong.jpg

HOA ĐẤT CỦA QUÊ HƯƠNG
Hoàng Kim

Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thang-nam-nho-lai-va-suy-ngam-2.jpg

NHỚ LẠI VÀ SUY NGẪM
Hoàng Kim


Trận thắng hôm qua bạn góp máu hồng
Lớp học hôm nay bạn không trở lại
Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội
Đồng đội ơi tôi học cả phần anh.

Bài học cuộc sống thấm thía nhất thường là bài học của chính đời mình trãi nghiệm. Tôi xúc động đọc lại ‘Thầy bạn là lộc xuân’ và thật tâm đắc với Hoàng Ngọc Dộ khát vọng, Hoàng Trung Trực đời lính vì cao hơn trang văn là chính cuộc đời của chính mình, của những người anh ruột mình thấm từng giọt chữ. Tháng năm tôi nhớ lại và suy ngẫm về 18 thư mục ghi chép nhỏ (Notes) nay được lưu chung một chỗ để thỉnh thoảng đọc lại: 1) Nước Việt Nam thống nhất; 2) Đêm trắng và bình minh; 3) Tháng Năm tháng của hoa; 4) Những câu chuyện tháng năm 5) Về lại mái trường xưa; 6) Lời thề trên sông Hóa; 7) Nhớ kỷ niệm một thời; 8) Năm tháng ở trời Âu; 9) Vòng qua Tây Bán Cầu; 10) Đi để hiểu quê hương; 11) Bài học tự thắng mình; 12) Suy ngẫm từ núi Xanh; 13) Suy tư sông Dương Tử; 14) Trận Thượng Hải năm 1937; 15) Trận Vũ Hán năm 1938; 16) Đi thuyền trên Trường Giang; 17) Trung Quốc một suy ngẫm; 18) Việt Nam con đường xanh.

NƯỚC VIỆT NAM THỐNG NHẤT

Chiến tranh Việt Nam dài và ác liệt quá, tổn thất mất mát lớn quá. Đó là một trong những sự kiện lớn nhất thế kỷ 20 không riêng Việt Nam mà của toàn nhân loại. 30 tháng 4 là kết thúc cuộc chiến tranh ba mươi năm, là ngày hòa bình, thống nhất đất nước đầu tiên của dân tộc Việt. Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt nhất của Chiến tranh Đông Dương (1945–1979). Đây là cuộc chiến giữa hai bên, một bên là Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ và một số đồng minh khác như Úc, New Zealand, Đại Hàn, Thái Lan và Philippines tham chiến trực tiếp; một bên là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại miền Nam Việt Nam, cùng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đều do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo, được sự viện trợ vũ khí và chuyên gia từ các nước xã hội chủ nghĩa (cộng sản), đặc biệt là của Liên Xô và Trung Quốc. Cuộc chiến này tuy gọi là “Chiến tranh Việt Nam” do chiến sự diễn ra chủ yếu tại Việt Nam, nhưng đã lan ra toàn cõi Đông Dương, lôi cuốn vào vòng chiến cả hai nước lân cận là Lào và Campuchia ở các mức độ khác nhau. Do đó cuộc chiến còn được gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ 2. Cuộc chiến này chính thức kết thúc với sự kiện 30 tháng 4, 1975, khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam, trao chính quyền lại cho Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thang-nam-nho-lai-va-suy-ngam.jpg

Tôi là người lính của 30 tháng 4. Hai anh em tôi, thuộc hai cánh quân lớn trong năm cánh quân, gặp nhau giữa lòng thành phố sau ngày Việt Nam thống nhất. Chùm ảnh dưới đây là ít ảnh tư liệu gia đình. Tôi viết về cái “tôi” nhỏ bé và đơn giản trong cái “ta” to lớn và phức tạp của đất nước con người Việt Nam để tìm về thế giới của riêng mình như giọt nước trong biển cả có vị mặn, máu và nước mắt.

ĐÊM TRẮNG VÀ BÌNH MINH

Ông José António Amorim Dias, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa Dân chủ Timor-Leste tại UNESCO và Liên minh châu Âu trên chuyến tàu tốc hành từ Brussels đến Paris chung khoang với tôi đã trò chuyện và chia sẽ rất nhiều điều về triết lý nhân sinh và văn hóa giáo dục. Khu vực Bắc Âu có chất lượng cuộc sống tốt, và Vương quốc Bhutan nơi đề xuất ý tưởng Ngày Quốc tế Hạnh phúc là nước có chỉ số hạnh phúc cao dựa trên các yếu tố như sức khỏe, tinh thần, giáo dục, môi trường, chất lượng quản lý và mức sống của người dân là điều rất đáng suy ngẫm.

Môi trường sống yên lành và chất lượng cuộc sống tốt là giấc mơ hạnh phúc của mọi người dân. Đi xa về Bắc Âu đến Phần Lan, Thụy Điển, Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy là vùng thiên nhiên, văn hóa thanh bình, mới lạ. Nơi đó không gian văn hóa thật trong lành. Chất lượng cuộc sống tốt hơn nhiều vùng tôi đã qua. Bắc Âu thoát ra khỏi cuộc chiến tranh. Họ không bị cuốn vào chiến tranh như Việt Nam, như châu Á, châu Phi, Tây Âu , Đông Âu và châu Đại dương. Họ bình tĩnh chuyển từ thế đối đầu lách ra khỏi cuộc chiến tranh giành quyền lực và nguồn lợi khốc liệt suốt hàng thế kỷ để trở thành những nước thanh bình và có chất lượng cuộc sống cao nhất thế giới.

Tôi suy ngẫm kỹ điều này trong bài viết “Đêm trắng và bình minh”. Khối các nước Bắc Âu Scandinavia (gồm Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy, Thuỵ Điển, Phần Lan, Iceland, Greenland, quần đảo Faroe thuộc Đan Mạch), đêm 30 tháng 4 là Đêm Walpurgis, Bình minh ngày mới. Ngày 30 tháng 4 và ngày Quốc tế Lao động 1 tháng 5 ở Bắc Âu là các ngày lễ hội mừng Xuân đến. Hoa xuân bừng nở khắp nơi, tơ trời hương đất say đắm lòng người. Năm tháng ở trời Âu, tôi viết Bài ca tháng năm, suy ngẫm về bài học cuộc sống.

THÁNG NĂM THÁNG CỦA HOA

Tháng năm là tháng của hoa
Anh đi ở giữa bao la đất trời
Nghe lòng thư thái, thảnh thơi
Ngắm ai từng cặp trao lời yêu thường.

Hoa xuân bừng nở khắp đường
Công viên ngợp giữa một rừng đầy hoa
Bên dòng sông nhỏ quanh co
Bạch dương rọi nắng, lơ thơ liễu mềm.

Anh đi vào chốn bình yên
Bùi ngùi lại nhớ thương em ở nhà.

Bài học Bắc Âu miền đất trong lành, nước Bỉ trái tim EU, và Ghent thành phố khoa học công nghệ là chỉ dấu minh triết cho các vĩ nhân lịch sử biết khéo tập hợp những lực lượng tinh hoa và sức mạnh dân chúng để thoát khỏi hiểm họa và bảo tồn được ngọc quý di sản.

Tôi nhớ đến Bernadotte với vợ là Déssirée trong tác phẩm “Mối tình đầu của Napoléon” của Annemarie Selinko. Vợ chồng hai con người kỳ vĩ này với lý tưởng dân chủ đã xoay chuyển cả châu Âu, giữ cho Thụy Điển tồn tại trong một thế giới đầy biến động và nhiễu nhương. Bắc Âu phồn vinh văn hóa, thân thiện môi trường và có nền giáo dục lành mạnh phát triển như ngày nay là có công và tầm nhìn kiệt xuất của họ. Bernadotte là danh tướng của Napoleon và sau này được vua Thụy Điển đón về làm con để trao lại ngai vàng. Ông xuất thân hạ sĩ quan tầm thường nhưng là người có chí lớn, suốt đời học hỏi và tấm lòng cao thượng rộng rãi. Vợ ông là Déssirée là người yêu đầu tiên của Napoleon nhưng bị Napoleon phản bội khi con người lừng danh này tìm đến Josephine một góa phụ quý phái, giàu có, giao du toàn với những nhân vật quyền thế nhất nước Pháp, và Napoleon đã chọn bà làm chiếc thang bước lên đài danh vọng. Bernadotte với vợ là Déssirée hiểu rất rõ Napoleon. Họ đã khéo chặn được cơn lốc cuộc chiến đẫm máu tranh giành quyền lợi giữa các tập đoàn thống trị và các nước có lợi ích khác nhau. Bernadotte và Déssirée đã đưa đất nước Thụy Điển và Bắc Âu khai sáng vầng hào quang bình minh phương Bắc.

Việt Nam và khối Asean hiện cũng đang đứng trước “con sư tử phương Đông trỗi dậy” và sự vần vũ của thế giới văn minh tuy nhiều cơ hội hơn nhưng cũng tiềm ẩn nhiều hiểm họa khó lường hơn. Điều này dường như rất giống của thời Napoleon người hùng châu Âu khao khát một nước Pháp phục hưng dân tộc và mở rộng phạm vi ảnh hưởng.

Trong vùng địa chính trị đầy điểm nóng tranh chấp biên giới hải đảo, sự tham nhũng, chạy theo văn minh vật chất; nguy cơ tha hóa ô nhiễm môi trường, nguồn nước, bầu khí quyển, vệ sinh thực phẩm, văn hóa giáo dục và chất lượng cuộc sống thì bài học trí tuệ càng cấp thiết và rõ nét.

Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình.

Việt Nam quê hương tôi là đất nước của biết bao nhiêu thế hệ xả thân vì nước để quyết giành cho được độc lập, thống nhất, tự do và toàn vẹn lãnh thổ. “Nếu chỉ để lại lời nói suông cho đời sau sao bằng đem thân đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã” nhưng “sức một người thì có hạn, tài trí thiên hạ là vô cùng”. Làm nhà khoa học xanh hướng đến bát cơm ngon của người dân nghèo, đó là điều tôi tâm đắc nhất!

Nhân loại đã có một thời đi trong đêm trắng ánh sáng của thiên đường, đêm trắng bình minh phương Bắc. Sự chạng vạng tranh tối tranh sáng có lợi cho sự quyền biến nhưng khoảng khắc bình minh là sự kỳ diệu mở đầu cho Ngày mới, Xuân mới.

Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời bắt đầu từ tuổi trẻ. Tôi đã đi qua một vòng trái đất, một vòng cuộc đời, một vòng đêm trắng để bây giờ ngày mới bắt đầu từ Bình minh.

NHỮNG CÂU CHUYÊN THÁNG NĂM

Bác Võ Nguyên Giáp được nhiều người Việt Nam kính trọng vì Bác Giáp đặt việc công lên trên hết “dĩ công vi thượng”. ‘Bác Văn ơi thành kính tiễn Người’ Gia đình tôi hòa trong dòng người đông đảo của toàn quốc đã đến Dinh Thống Nhất tiễn Bác. Hôm đó là lần duy nhất trong đời, tôi đã đeo đủ huân huy chương

Võ Nguyên Giáp tổng tập hồi ký là tác phẩm lớn nhất của nhà thiên tài quân sự Việt, soi sáng rất nhiều góc khuất trong lý luận và thực tiễn của thời đại Hồ Chí Minh. Muốn thấu hiểu chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam, thấu hiểu 30 tháng 4, tháng năm nhớ lại và suy ngẫm, chúng ta cần đọc lại rất kỹ “Võ Nguyên Giáp, tổng tập hồi ký”.

Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911, mất ngày 4 tháng 10 năm 2013. Ông là Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam, là một trong những người góp công thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Chính phủ Việt Nam tôn vinh là “người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, chỉ huy chính trong các chiến dịch và chiến thắng chính trong Chiến tranh Đông Dương (1946–1954) đánh bại Thực dân Pháp, Chiến tranh Việt Nam (1960–1975) chống Mỹ, thống nhất đất nước và Chiến tranh biên giới Việt-Trung (1979) chống quân Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc. Tướng Giáp xuất thân là một giáo viên dạy sử, ông trở thành nhà lãnh đạo quân sự, vị tướng kiệt xuất của Việt Nam và thế giới. Ông được nhân dân ngưỡng mộ và được nhiều tờ báo ca ngợi là anh hùng của nhân dân Việt Nam.

Lời thề của Tổng thống Mỹ George Washington cũng là điều chúng ta cần rất suy ngẫm. Ông nói “Cái tên người Mỹ phải xóa bỏ bất cứ những liên hệ ràng buộc nào mang tính cách địa phương”. Tổng thống Washington khi mất được tán tụng như là “người đầu tiên trong chiến tranh, người đầu tiên trong hòa bình, và người đầu tiên trong lòng dân tộc của ông”. Washington đã trở thành biểu tượng dân tộc và quốc tế, đặc biệt tại Pháp và châu Mỹ Latin. Các học giả lịch sử luôn xếp ông là một trong số những vị tổng thống vĩ đại nhất.”. Ngày 30 tháng 4 năm 1789 là ngày Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ George Washington đọc lời tuyên thệ nhậm chức Tổng thống dân cử đầu tiên, trên ban công Tòa nhà Liên bang trên Phố Wall tại thành phố New York. Tổng thống Washington có một viễn tưởng về một quốc gia hùng mạnh và vĩ đại, xây dựng trên những nền tảng của nền cộng hòa, sử dụng sức mạnh của liên bang. Ông tìm cách sử dụng chính phủ cộng hòa để cải thiện hạ tầng cơ sở, mở rộng lãnh thổ phía tây, lập ra trường đại học quốc gia, khuyến khích thương mại, tìm nơi xây dựng thành phố thủ đô (Washington, D.C.), giảm thiểu những sự căng thẳng giữa các vùng và vinh danh tinh thần chủ nghĩa quốc gia.

George Washington hiện nay được biết như vị cha già của nước Mỹ. Ông sinh ngày 22 tháng 2 năm 1732, mất ngày 14 tháng 12 năm 1799. Ông là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự có ảnh hưởng lớn đối với quốc gia non trẻ Hoa Kỳ từ năm 1775 đến năm 1799. Ông đã lãnh đạo người Mỹ chiến thắng Vương quốc Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ với tư cách là tổng tư lệnh Lục quân Lục địa năm 1775–1783, và ông cũng đã trông coi việc viết ra Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787. Quốc hội nhất trí chọn lựa ông làm tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ (1789–1797). Phong cách lãnh đạo của ông đã có ảnh hưởng đến thể thức và lễ nghi cho chính quyền mà được sử dụng từ đó cho đến nay, thí dụ như dùng một hệ thống nội các và buổi đọc diễn văn nhậm chức. Với tư cách là tổng thống, ông đã xây dựng một chính quyền quốc gia mạnh mẽ và giàu tài chính mà đã tránh khỏi chiến tranh, dập tắt nổi loạn và chiếm được sự đồng thuận của hầu hết người Mỹ

Tháng năm nhớ lại và suy ngẫm là mốcson để chúng ta tìm về tác phẩm “Giu-cốp, nhớ lại và suy nghĩ”. Giu cốp là danh tướng lỗi lạc huyền thoại của quân đội Liên Xô, người đã kết thúc oanh liệt trận Beclin, trận thắng quyết định trong chiến tranh thế giới thứ hai; Hitler và Eva tự sát; Liên Xô cắm quốc kỳ trên nóc Tòa nhà quốc hội Đức ngày 30. 4. 1945. Đó là trận đọ sức sinh tử, mà nếu không có Giu cốp lịch sử có thể đổi khác.

“Nhớ lại và suy nghĩ” là tác phẩm nổi tiếng của Giu cốp đã làm sáng tỏ nhiều góc khuất. Lịch sử Thế giới có lẽ đã thay đổi, đặc biệt là trận Beclin, trận thắng sinh tử cuối cùng, quan hệ Xô Mỹ, quan hệ Liên Xô và Nam Tư, nhiều vấn đề hệ trọng quốc gia của Liên Xô. Những ý kiến của Giu cốp tỏa sáng khi được đáp ứng đầy đủ và sự tổn thất là tai họa thật ghê gớm khi không được trọng thị. Chúng ta muốn hiểu chiến tranh thế giới thứ Hai và chiến tranh lạnh thì không thể không nghiền ngẫm kỹ con người và tác phẩm Giu cốp. Bộ sách quý “Đọc lại và suy ngẫm” là chìa khóa vàng để hiểu nhiều điều.

“Trước những thắng lợi nhanh chóng trên hướng Berlin và dựa trên các báo cáo lạc quan của đại tướng V.I.Chuikov – tư lệnh tập đoàn quân cận vệ 8, Stalin lệnh cho Tổng tham mưu trưởng, đại tướng A. I. Antonov soạn thảo một kế hoạch đánh chiếm Berlin ngay trong thời gian cuối tháng 2, đầu tháng 3 năm 1945. Tuy nhiên, G. K. Zhukov cho rằng mọi việc không đơn giản như Tổng tư lệnh tối cao nghĩ. Từ kinh nghiệm Chiến dịch phòng thủ phản công tại khu vực Moskva năm 1941, G. K. Zhukov cho rằng quân Đức sẽ không chịu mất Berlin một cách dễ dàng và sẽ tổ chức phản công vào hai bên sườn của ba phương diện quân Liên Xô lúc này đã làm thành một đội hình kéo dài như một mũi nhọn trên hướng Berlin. Ông hiểu rõ: đánh thẳng vào Berlin không khó, nhưng quân Đức có thể cắt đứt và hợp vây lực lượng Hồng quân tiến quá nhanh về phía trước, khiến cho Hổng quân tổn thất nặng. Thêm vào đó, Hồng quân chưa có kinh nghiệm đánh chiếm một thành phố rộng lớn và có sự phòng thủ kiên cố như Berlin. Chính vì vậy, ông yêu cầu quân đội phải củng cố thật chặt trận địa trên bờ tây sông Oder. Đồng thời Zhukov cũng tiến hành trinh sát một cách kỹ lưỡng: ông ra lệnh cho không quân chụp 6 kiểu ảnh về thành phố Berlin và các phòng tuyến của quân Đức xung quanh đấy, rồi dựa vào đó cùng với những tài liệu bắt được và lời khai của tù binh Zhukov cho biên soạn một bản báo cáo tổng hợp được thuyết minh rõ ràng đính kèm với những tấm bản đồ chi tiết, phát hành xuống các cấp chỉ huy từ tư lệnh đến chỉ huy đại đội. Và thực tế đã diễn ra đúng như G. K. Zhukov dự đoán. Trong khi phòng ngự tích cực trên tuyến sông Oder – Neisse, từ tháng 2 năm 1945, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức đã điều động tập đoàn quân xe tăng 6 SS và tập đoàn quân 5 từ mặt trận phía Tây về khu vực Budapest, điều động các tập đoàn quân xe tăng 3 và tập đoàn quân 11 đến khu vực Đông Pomerania để tổ chức phản công. Nắm được chính xác tình hình, G. K. Zhukov đề nghị I. V. Stalin cho hoãn ngay chiến dịch Berlin, điều Phương diện quân Belorussia 2 của Nguyên soái K. K. Rokossovssky quay lên hướng Tây Bắc mở Chiến dịch Đông Pomerania chặn trước cuộc phản công của quân Đức. Ngày 20 tháng 2, Phương diện quân Belorussia 2 sử dụng các tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1 và 2 đột kích vào Gonnof – Stagag – Colberg, chia cắt và bao vây cụm quân Đông Pomerania khỏi chủ lực của Cụm tập đoàn quân Vistula (Đức). Ngày 4 tháng 3, 14 sư đoàn của cụm quân này bị đánh tan. Tại hướng Nam, G. K. Zhukov cũng yêu cầu Nguyên soái K. E. Voroshilov chỉ đạo các phương diện quân Ukraina 2 và 3 thiết lập trận địa phòng thủ vững chắc tại khu vực Budapest – Velense – Balaton, mở chiến dịch phòng ngự Balaton, đánh bại cuộc phản công của 31 sư đoàn Đức, trong đó có 11 sư đoàn xe tăng được triển khai ngày 6 tháng 3. Ngày 15 tháng 3, cuộc phản công của quân Đức tại khu vực Balaton bị chặn đứng, hai phương diện quân Ukraina 2 và 3 chuyển sang tấn công thẳng qua Budapest đến Viên.[102] Ở giữa mặt trận, Phương diện quân Ukraina 1 tiến hành chiến dịch Hạ Silesia quét sạch quân Đức khỏi khu vực Glogau, thủ tiêu mối đe dọa bên sườn trái của phương diện quân và vững tiến ra tuyến Neisse. Một số chỉ huy quân sự Liên Xô quá hăng hái đã coi sự chậm trễ công phá Berlin là một khuyết điểm của ông. Tuy nhiên, sự thật đã chứng minh G. K. Zhukov đúng. Với cuộc phản kích của quân Đức từ hai bên sườn (từ khu vực Đông Pomerania xuống phía Đông Nam, từ khu vực Budapest vòng lên phía Đông Bắc, phối hợp với Cụm tập đoàn quân A từ Silesia vòng lên phía Tây Bắc), các Phương diện quân Liên Xô có thể sẽ phải chịu những thiệt hại nặng nề như quân Đức trước cửa ngõ Moskva cách đó gần 4 năm trước hoặc như Hồng quân Nga Xô Viết trước cửa ngõ Warsawa năm 1920.

Cuộc tổng công kích sau cùng vào Berlin bắt đầu sau hai ngày sử dụng các trận đánh trinh sát để buộc quân Đức phải điều động lực lượng bố trí ở hướng chủ yếu đi hướng khác, 5 giờ sáng ngày 16 tháng 4, G. K. Zhukov phát lệnh mở màn Chiến dịch Berlin, chiến dịch quân sự cuối cùng trong cuộc đời binh nghiệp của ông. Sau gần 1 giờ pháo binh, tên lửa Katyusha bắn chuẩn bị, hơn 140 ngọn đèn pha phòng không công suất lớn rọi thẳng vào phòng tuyến của quân Đức đã làm lóa mắt toàn bộ các đài quan sát, các đối kính pháo, kính tiềm vọng… Xe tăng và bộ binh Liên Xô trong ngày đầu đã vượt qua hai tuyến phòng thủ vòng ngoài. Khi tiến vào nội đô Berlin, Zhukov nhận thấy đường sá trong thành phố quá chật hẹp đối với các tập đoàn quân xe tăng từng phát huy uy lực mạnh mẽ trên thảo nguyên trống trải. Vì vậy ông điều các lực lượng xe tăng xuống cùng thành lập các tổ hiệp đồng tác chiến cùng với bộ binh, pháo binh và các binh chủng khác – với quân số mỗi tổ thường chỉ gồm một trung đội. Các tổ hiệp đồng đó đã chiến đấu rất linh hoạt giữa các đường phố chằng chịt như mê cung của thủ đô nước Đức. Sau một tuần tấn công, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1 của Phương diện quân Ukraina 1 và Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 2 của Phương diện quân Belorussia 1 đã gặp nhau tại khu vực Ketshino – Potsdam – Brandenburg, phía tây Berlin. Các đơn vị khác của ba phương diện quân Liên Xô đã gặp gỡ với quân Đồng Minh Anh, Hoa Kỳ trên bờ sống Elbe. 8 vạn Hồng quân đã hy sinh trong trận Berlin đẫm máu, nhưng vào ngày 30 tháng 4, lá cờ chiến thắng được cắm lên nóc nhà Quốc hội Đức. Hitler và Goebbel tự sát. 0 giờ ngày 9 tháng 5, tạị Karlhorst, đại diện nước Đức và quân đội Đức Quốc xã ký biên bản đầu hàng vô điều kiện trước đại diện 4 nước đồng minh Anh, Hoa Kỳ, Liên Xô và Pháp. Thay mặt nhà nước, quân đội và nhân dân Liên Xô, nguyên soái G. K. Zhukov ký biên bản này. Do có công đánh chiếm Berlin, Zhukov được phong tặng Huân chương Sao vàng – Anh hùng Liên Xô lần thứ ba.

Giu cốp xếp đầu bảng về số lượng các trận thắng tầm cỡ toàn cầu, được nhiều người công nhận về tài năng chỉ đạo chiến dịch và chiến lược. Những chiến tích của ông đã trở thành những đóng góp rất to lớn vào kho tàng di sản kiến thức quân sự nhân loại. Nó không những có ảnh hưởng lớn về lý luận quân sự của Liên Xô mà cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của lý luận quân sự thế giới. Nguyên soái A. M. Vasilevsky nhận định G. K. Zhukov là một trong những nhà cầm quân lỗi lạc của nền quân sự Xô Viết. Trong cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên bang Xô viết, ông đã giữ các chức vụ Tư lệnh Phương diện quân Dự bị, Tư lệnh Phương diện quân Tây, Tư lệnh Phương diện quân Beloussia 1, Tổng tham mưu trưởng quân đội Liên Xô, Thứ trưởng Bộ dân ủy Quốc phòng kiêm Phó Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô, Ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Hầu hết các nhà lãnh đạo quân sự nổi tiếng thế giới cùng thời với ông như Thống chế Anh Sir Bernard Law Montgomery, Thống tướng Hoa Kỳ Dwight David Eisenhower, Thống chế Pháp Jean de Lattre de Tassigny đều công nhận tên tuổi của ông đã gắn liền với hầu hết các chiến thắng lớn trong cuộc chiến như Trận Moskva (1941), Trận Stalingrad, Trận Kursk, Chiến dịch Bagrachion, Chiến dịch Visla-Oder và Chiến dịch Berlin. Trong giai đoạn sau chiến tranh, ông giữ các chức vụ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô tại nước Đức, tư lệnh các quân khu Odessa và Ural. Sau khi lãnh tụ tối cao I. V. Stalin qua đời, ông được gọi về Moskva và được bổ nhiệm chức vụ Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng Liên Xô. Trong thời gian từ năm 1955 đến năm 1957, ông giữ chức vụ Ủy viên trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô. Năm 1957, trong thời gian đang đi thăm Nam Tư, ông bị đưa ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1958, ông bị miễn nhiệm tất cả các chức vụ trong quân đội”.

*.

Tướng Giáp của chiến tranh Việt Nam giống và khác gì so tướng Giucốp? Thượng tướng Trần Văn Trà đã viết về đại tướng Võ Nguyên Giáp thật minh triết và thật ám ảnh: “phải thật công khai, thật công phu, thật công bằng và thật công tâm khi nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp”.“Suốt hai cuộc kháng chiến, tôi chưa hề thầy Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp mắc một sai lầm nào về chiến lược và chiến thuật quân sự; tôi chỉ thấy Anh Văn đi những nước cờ bậc thầy để vây hãm và tiến công quân địch”. Đó thật sự là một tổng kết rất sâu sắc của một danh tướng Việt Nam đối với TổngTư lệnh Võ Nguyên Giáp. Trần Văn Trà bóng hạc là danh tướng tài năng gắn bó lâu dài nhất, bền bỉ nhất và xuất sắc nhất trong các vị tướng chiến trường miền Nam, mà tôi ngưỡng mộ.. Tôi tâm đắc với nhận định này. Bác Giáp viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh “Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn sống mãi”. Võ Nguyên Giáp ẩn số Chính Trung đã trãi nghiệm nhiều biến cố lịch sử nên chắc chắn hiểu rất rõ bài học Bắc Âu khi thực hành xuất sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta muốn hòa bình nên chúng ta đã nhân nhượng nhưng chúng ta càng nhân nhượng, họ càng lấn tới vì họ dã tâm muốn cướp nước ta một lần nữa”. Bài học chiến tranh và hòa bình sâu sắc thay!.

Được và Mất là cái giá của sự chiến thắng!

VỀ LẠI MÁI TRƯỜNG XƯA

Đâu phải bây giờ ta mới quý thời gian
Mỗi ngày đi qua
Mỗi tháng đi qua
Mỗi năm đi qua
Thấm thoắt thời gian
Nhìn sự vật đổi thay ta biết rõ

Mái tóc Thầy ta đã bạc đi già nữa
Hàng trăm bạn bè thuở ấy đã đi xa
Ta lại về đây với mái trường xưa
Thân thiết quá nhưng sao hồi hộp thế
Trăm khuôn mặt trông vừa quen vừa lạ
Ánh mắt chào đọng sáng những niềm vui

Ta chỉ là hạt cát nhỏ nhoi
Trong trùng điệp triệu người lên tuyến lửa
Giá độc lập giờ đây thêm hiểu rõ
Thắng giặc rồi càng biết quý thời gian

Đất nước ba mươi năm chiến đấu gian nan
Mỗi tấc đất đều đậm đà nghĩa lớn
Bao xương máu cho tự do toàn vẹn
Bao đồng bào, đồng chí đã hi sinh.

Ta dâng cho Tổ Quốc tuổi thanh xuân
Không tiếc sức cho cuối cùng trận thắng
Xếp bút nghiên để đi cầm khẩu súng
Càng tự hào làm người lính tiên phong

Nay trở về khi giặc đã quét xong
Trách nhiệm trao tay tiếp cầm ngọn bút
Nâng cuốn sách lòng bồi hồi cảm xúc
Ta hiểu những gì ta phải gắng công

Trận thắng hôm qua bạn góp máu hồng
Lớp học hôm nay bạn không trở lại
Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội
Đồng đội ơi tôi học cả phần anh.

Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền
Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó
Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ
Có bạn thầy càng bền chí vươn lên

Trước mỗi khó khăn có bạn luôn bên
Như đồng đội trong chiến hào chia lửa
Ôi thân thiết những bàn tay tập thể
Ta nhủ lòng cần xứng đáng hơn

Đâu phải bây giờ ta mới quý thời gian
Hiểu mất mát, biết tự hào phải cố
Trận tuyến mới nguyện xứng là chiến sĩ
Thiêng liêng lời thề, vững một niềm tin.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là que-huong.jpg

LỜI THỀ TRÊN SÔNG HÓA

Sông Hóa ơi Bạch Đằng Giang
Ta đến nơi đây chẳng một lần
Lời thề sông núi trời đất hiểu
Lời dặn lại của Đức Thánh Trần

Sông Hóa ơi hời ơi Linh Giang
Quê hương liền dải tụ trời Nam
Minh Lệ, Hưng Long hai bầu sữa
Hoàng Gia trung chính một con đường.

Rào Nan Đá Dựng chốn sông thiêng
Nguồn Son Chợ Mới đẹp ân tình
Minh Lệ đình xưa thương làng cũ
Nguyện làm hoa đất của quê hương

Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 1-dinh-minh-le-va-nha-toi.jpg

NHỚ KỶ NIỆM MỘT THỜI

Giữa ngày vui nhớ miền Đông
Nôn nao lòng lại giục lòng nhớ thương
Chân đi muôn dặm nẻo đường
Phải đâu cứ đất quê hương mới là

Đêm nằm nghe gió thoảng qua
Nồng thơm hương lúa, đậm đà tình quê
Chợt dưng lòng lại gọi về
Vùng quê xa với gió hè miền Đông

Vục đầu uống ngụm nước trong
Nhớ sao Vàm Cỏ ngọt dòng sông xanh
Nhớ từ xóm Giữa xa em
Nhớ lên Bù Đốp, Lộc Ninh, xóm Chùa

Xa em từ bấy đến chừ
Một vầng trăng sáng, xẽ chia đôi miền
Em về Châu Đốc, Long Xuyên
Anh lên Srêpốc với niềm nhớ thương

Nằm đêm lưng chẳng tới giường
Nghe chao cánh võng giữa rừng đêm khuya
Chăm chăm theo nét bản đồ
Cùng anh, cùng bạn tiến vô Sài Gòn

Giữa ngày vui nhớ miền Đông
Nhớ em, nhớ bạn, thuỷ chung vẹn toàn
Phải vì vất vả gian nan
Của bao năm đặm nhớ thương đến rày …

Non sông những tháng năm này
Lọc muôn sắc đỏ cho ngày hội vui
Nhớ em trong dạ bùi ngùi …
Trông trời hoa, nhớ đất trời miền Đông.

NĂM THÁNG DƯỚI TRỜI ÂU

Đi giữa Praha rực rỡ nắng vàng
Gió bớt thổi nên lòng người bớt lạnh
Phố xá nguy nga, nhịp đời hối hả
Gợi lòng ta uẩn khúc những suy tư

Ôi quê hương thân thiết tự bao giờ
Mỗi bước đi xa càng thêm yêu Tổ Quốc
Nhớ quê nhà nửa đêm ta tỉnh thức
Ngóng phương trời vợi vợi nhớ mênh mông

Biết ơn quê nghèo cắt rốn chôn rau
Nơi mẹ cha xưa suốt đời lam lũ
Cha giặc giết luống cày còn bỏ dỡ
Sự nghiệp này trao lại tay con

Biết ơn anh tần tảo sớm hôm
Năm năm học mỗi ngày cơm một bữa
Bắt ốc mò cua bền gan vững chí
Nhắc thù nhà nợ nước cho em.

Sống giữa lòng dân những tháng những ngày
Anh chị góp công, bạn thầy giúp sức
Đêm trăn trở ngọn đèn khuya tỉnh thức
Nhớ một thời thơ ấu gian nan …

Biết ơn em người bạn gái thủy chung
Thương cha mẹ quý rể nghèo vẫn gả
Em gánh vác mọi việc nhà vất vả
Dành cho anh nghiên cứu được nhiều hơn

Biết ơn trại nhà mảnh đất yêu thương
Nơi suốt đời ta nghĩa tình gắn bó
Mảnh đất thiêng chim phượng hoàng làm tổ
Lúa ngô sắn khoai hoa qủa dâng đời

VÒNG QUA TÂY BÁN CÂU

Khi chiều hôm nắng tắt ở chân trời
Tạm ngưng học, tắm rồi em hãy dạo
Bước khoan thai nhận hương trời chiều tối
Nghĩ suy về năm tháng đã đi qua

Em đã xa cái tuổi học trò
Nhưng việc học có bao giớ là muộn?
Nấc thang học càng vươn cao càng muốn
Bao cuộc đời nhờ học để thành công

Nhớ nghe em những năm tháng không quên
Năm năm học mỗi ngày cơm một bữa
Đêm tỉnh thức đói cồn cào trong dạ
Vẫn gan vàng, dạ sắt, lòng son

Nhớ ngày cha ngã xuống vì bom
Tấm áo máu suốt đời ta nhớ mãi
Trong thương đau nhân quyết tâm gấp bội
Phải làm gì để trả mối thù sâu.

Nhớ ngọn đèn chong giữa canh thâu
Những đêm lạnh của trời Hà Bắc
“Thắp đèn lên đi em!” thơ của thời đi học
Xốn xang lòng đã mấy chục năm qua

Ôi vầng trăng, vầng trăng quê ta
Và ngôi sao Mai đã thành đốm lửa
Một giọt máu tim ta treo giữa trời nhắc nhở
Em bên Người năm tháng lớn khôn lên

Nhớ những mùa chiến dịch thức bao đêm
Thèm một bữa cơm rau và giấc ngủ
Sau trận đánh lại miệt mài cuốn vở
Tin có ngày trở lại mái trường yêu

Bao bạn bè của năm tháng không quên
Nay vĩnh viễn nằm sâu trong lòng đất
Về thăm quê cũng người còn, người mất
Bài học trường đời chắp nối bấy năm qua

Nay em như chim trời bay cao, bay xa
Điều kiện học khác xưa, một phòng riêng ngọai quốc
Những tháng học này là niềm mơ ước
Em cần miệt mài tranh thủ thời gian

Dẫu mỗi ngày hơn tám tiếng học căng
Ngôn ngữ mới buổi đầu chưa hiểu kịp
Em hãy học dẫu đêm về có mệt
Mỗi ngày này là vốn quý nghe em!

Chốn phồn hoa bao cám dỗ thấp hèn
Bao thèm muốn khiến người ta lùn xuống
Những dễ dãi khiến lòng người dao động
Em hãy cầm lòng bền chí học chăm.

ĐI ĐỂ HIỂU QUÊ HƯƠNG

Tạm biệt
Tạm biệt Obregon California !
Cánh bay đưa ta về CIMMYT
Bầu trời xanh bát ngát
Lững lờ mây trắng bay
Những ngọn núi cao nhấp nhô
Những dòng sông dài uốn khúc
Hồ lớn Ciudad Obregon
ba tỷ khối nước
Nở xòe như chùm pháo bông
Những cánh đồng mênh mông
Thành trăm hình thù dưới làn mây bạc
Con đường dài đưa ta đi
Suốt dọc từ Nam chí Bắc
Thành sợi chỉ màu chạy mút tầm xa…

Ơi vòm trời xanh bao la
Gọi lòng ta nhớ về Tổ Quốc
Ôi Việt Nam, Việt Nam
Một vùng nhớ trong lòng ta tỉnh thức
Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương.

BÀI HỌC TỰ THẮNG MÌNH

Ngày mỗi ngày phải tự thắng mình
Trận chiến mới, em là chiến sĩ
Ngày mỗi ngày ghi đều nhật ký
Tự thắng mình bài học đầu tiên !

Có điện lung linh suốt đêm
Không quên vầng trăng ngọn lửa
Ngày dẫu miệt mài
Đêm về phải cố
Khắc sâu lời nguyền xưa !

“Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân”

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thang-nam-nho-lai-va-suy-ngam-1.jpg

SUY NGẪM TỪ NÚI XANH

Ngày Quốc tế Lao động năm 2017 tôi dạo chơi Thiên An Môn, Cố Cung, Di Hòa Viên, Thiên Đàn, vui đón cháu bé xinh đẹp ngay tại điểm linh ứng ‘số 1 tâm điểm của thủ đô Bắc Kinh’ trên đỉnh núi Xanh (景山, Jǐngshān, Cảnh Sơn, Green Mount), ngọn núi địa linh của đế đô. Núi Xanh là trục chính của Hoàng Thành, chính trục Cố Cung và Thiên An Môn. Suy ngẫm từ núi Xanh Bắc Kinh, tôi tâm đắc lời nhắn gửi sâu xa của bậc hiền minh lỗi lạc Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Muốn bình sao chẳng lấy nhân. Muốn an sao lại bắt dân ghê mình”. ”Biển Đông vạn dặm giang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững thái bình. (Vạn lý Đông minh quy bá ác/ Ức niên Nam cực điện long bình). Suy ngẫm về cuộc cách mạng Xanh và đỉnh cao Hòa Bình.

Tôi nghe rằng Nguyễn An (阮安) người Việt, có tên Hoa là A Lưu ( 阿留) là một người lao động tài giỏi, là vị kiến trúc sư tổng công trình sư của Cố Cung và Tử Cấm Thành cùng với Sái Tín thời vua Minh Thành Tổ. Nguyễn An cũng là người tham gia trị thủy hệ thống sông Hoàng Hà, lưu lại tiếng tốt muôn đời trong lịch sử văn hóa Việt Trung.

Nguyễn An sinh năm 1381 tại trấn Sơn Nam, trong một làng nghề nào đó, nay thuộc địa phận Hà Đông, thủ đô Hà Nội, Việt Nam, mất năm 1453 ở Bắc Kinh, Trung Quốc, theo Zhu, Jianfei (2004), Chinese Spatial Strategies: Imperial Beijing, 1420-1911. Routledge, trang 28, ISBN -13: 978-0415318839; ISBN-10: 0415318831. Nguyễn An khi gần 16 tuổi, khoảng năm 1397, thời vua Trần Thuận Tông nhà Trần, đã tham gia các hiệp thợ xây dựng cung điện ở kinh thành Thăng Long nhà Trần. Năm 1407, nhà Minh sang đánh bại nhà Hồ, chiếm được Việt Nam. Tướng nhà Minh là Trương Phụ, ngoài việc bắt cha con Hồ Quý Ly (Hồ Nguyên Trừng sau làm quan nhà Minh) cùng toàn bộ triều đình nhà Hồ đem về Trung Quốc, còn tiến hành lùng bắt các thanh thiếu niên trai trẻ tuấn tú của Việt Nam mang sang Trung Hoa, chọn để hoạn làm Thái giám phục vụ trong cung vua nhà Minh. Trong số đó có nhiều người sau nổi tiếng tài giỏi như Nguyễn An, Vương Cấn, Phạm Hoằng, … Vua Minh Thành Tổ Chu Đệ (1403 – 1424), cho dời đô từ Nam Kinh lên Yên Kinh (của nhà Nguyên trước đó) và đổi tên là Bắc Kinh. Vua Minh cho xây dựng Cố Cung (là Tử Cấm Thành xây từ năm 1406 đến năm 1420 thì hoàn thành). Nguyễn An rất giỏi tính toán, có biệt tài về kiến trúc xây dựng, lại liêm khiết hiếm thấy, lại là thái giám phục vụ ở cung vua nên Minh Thành Tổ tin dùng giao làm Tổng Công Trình Sư.

Yên Đệ Minh Thành Tổ và một vị vua gian hùng thời hoạn, xô lệch lịch sử Trung Quốc cho đến nay vẫn được chính sử Trung Quốc ngợi ca. Ông đã xóa bỏ hồ sơ thời cai trị của Minh Huệ Đế nhập vào thời kỳ Minh Thái Tổ, bắt đầu triều đại của mình bằng cách hợp pháp hóa việc lên ngôi xóa bỏ lịch sử toàn bộ thời gian trị vì của người cháu và thiêu hủy hay sửa đổi tất cả các tài liệu có liên quan đến tuổi thơ và cuộc nổi loạn của mình. Điều này dẫn đến việc thanh trừng vô số quan viên ở Nam Kinh và ban thẩm quyền đặc biệt ngoài vòng pháp luật cho chính sách bí mật của hoạn quan và nội chính. Ông nối tiếp chính sách tập trung của Chu Nguyên Chương, tăng cường thể chế của đế quốc và thành lập thủ đô mới tại Bắc Kinh. Ông cho cải cách khoa cử và theo đuổi chính sách đối ngoại bành trướng với nhiều chiến dịch quy mô lớn chống lại quân Mông Cổ, đồng thời tăng cường sự ảnh hưởng và cường thịnh của nhà Minh đối với khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Vĩnh Lạc Đế thành lập một hạm đội hùng hậu do Trịnh Hòa điều khiển. Trịnh Hòa (1371–1433) đã dẫn hạm đội xuống Bắc nước Úc, qua bán đảo Ả Rập và có tài liệu cho rằng Trịnh Hòa qua tận châu Mỹ. Hoàng đế còn cho sửa và mở lại Đại Vận Hà và vào khoảng năm 1407 đến năm 1420, trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng Tử Cấm Thành. Dưới thời ông, các học giả đương thời đã hoàn thành công trình đồ sộ Vĩnh Lạc đại điển.

Công tội thiên thu của Yên Đệ Minh Thành Tổ như thế nào đối với Việt Nam? Nguyễn Trãi đã cho rằng Yên Đệ chính là người chủ trương đốt hết sách vở, phá hủy bia đá có khắc văn tự của người Việt, bắt những thợ thủ công có tay nghề cao người Việt thiến đi rồi đưa về Trung Quốc để phục dịch, sự đàn áp đối với người Việt là thảm khốc, sưu cao thuế nặng. Nguyễn Trãi đã khẳng định những tội ác mất nhân tính này trong “Bài cáo bình Ngô”:

Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả,
chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen,
nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
máu mỡ bấy no nê chưa chán ;
Nay xây nhà, mai đắp đất,
chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những núi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?

Nguyễn Du sau này trong kiệt tác Kỳ Lân Mộ, đối diện với vua Càn Long đã dâng sách quý mắng thẳng sự gian hùng của Minh Thành Tổ và chỉ rõ điều tất yếu lịch sử của sự chuyển dịch nhà Minh sang nhà Thanh. Thái độ can đảm và chính nghĩa ngời sáng của người anh hùng đặt vận nước lên cao hơn sự toan tính phục hận của họ Nguyễn Tiên Điền trước thế lớn mà họ Nguyễn Gia Miêu rõ ràng đã lợi thế, làm cho vua Càn Long hợp ý, nể trọng. Nguyễn Du với phương lược ngoại giao xuất chúng này và “Bắc Hành tạp lục” là kỳ thư “Nguyễn Du kiệt tác thơ chữ Hán” sử thi muôn đời, sánh ngang bằng một đạo quân, đã dập tắt sự dòm ngó, cưỡng đoạt đất phương Nam:

KỲ LÂN MỘ
Nguyễn Du

Phương Chi Yên Đệ người thế nào?
Cướp ngôi của cháu, đồ bất nhân.
Mỗi khi nổi giận giết mười họ,
Cổn to vạc lớn hại trung thần
Năm năm giết người hơn trăm vạn
Xương chất thành núi máu chảy tràn
Nếu bảo thánh nhân Kỳ Lân xuất
Buổi ấy sao không đi về Nam?

Nguyên văn chữ Hán

Hà huống Yên Đệ hà như nhân
Đoạt điệt tự lập phi nhân quân
Bạo nộ nhân sinh di thập tộc
Đại bỗng cự hoạch phanh trung thần
Ngũ niên sở sát bách dư vạn
Bạch cốt thành sơn địa huyết ân
Nhược đạo năng vị Thánh nhân xuất
Đương thế hà bất Nam du tường?

(xem thêm: Nguyễn Du trăng huyền thoại, tản văn của Hoàng Kim)

Tôi ngắm nhìn người nghệ sĩ nhân gian, vui cùng ông và đùa cùng trẻ thơ. Tôi dạo chơi đỉnh núi Xanh, nhìn chốn lâu đài thay chỗ gốc cây dấu xưa Sùng Trinh tuẫn tiết khi nhà Minh diệt vong, ngắm những nơi lưu dấu các di sản của những triều đại hiển hách nhất Trung Hoa, lắng nghe đất trời và các cổ vật kể chuyện.

Ngày trước đó, tôi vinh hạnh được làm việc với giáo sư Zhikang Li, trưởng dự án Siêu Lúa Xanh (Green Super Rice) chương trình nghiên cứu lúa nổi tiếng của CAAS & IRRI và có cơ hội tiếp cận với các nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc.

Chú khỉ Tôn Hành Giả là một biểu tượng điển hình cho trí tuệ và ước muốn tự do. Con đường Tây Du Ký và bài ký Ngô Thừa Ân là một góc nhìn về con đường tìm kiếm hạnh phúc và sự tìm lại chính mình.

Trong gian phòng đối diện với ban mai, Lời giáo sư Norman Borlaug văng vẳng bên tai tôi: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó.” Sự hiền minh lỗi lạc của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, và di sản vô giá của giáo sư Norman Borlaug cùng với các bậc Thầy về cách mạng xanh mãi mãi là niềm tin và nổ lực của chúng ta !

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là di-thuyen-tren-truong-giang.jpg

ĐI THUYỀN TRÊN TRƯỜNG GIANG
Hoàng Kim

Đi thuyền trên Trường Giang
Thăm thẳm dòng sông phẳng
Chốn xưa trận Xích Bích
Sử thi Tô Đông Pha.

Người Việt xưa nơi này (*)
Bách Việt vùng Mân Việt
Trần Tự Minh nhà Trần
Nam tiến từ thời trước

Đại chiến hồ Bà Dương
Nhà Minh thành đế nghiệp
Ninh Minh giang chu hành*
Hoàng Hạc Lâu trời biếc

Sông quanh co thăm thẳm
Hiểm sâu như lòng người
Đi thuyền trên Trường Giang
Thương hoài thơ Tô Nguyễn

Nhớ giấc mơ Trung Hoa
Bảy ba vượt sông rộng **
Nguyễn Du hồn nơi nao
Trường Giang cuồn cuộn chảy

(*) Trường Giang (sông Dương Tử) ranh giới tự nhiên của tộc Bách Việt

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoanghac-lau-2.jpg

(**) Sông Trường Giang nơi khoảng giữa đập Tam Hiệp và Vũ Hán có 5 sự kiện lớn của lịch sử: Sự kiện Trận Xích Bích đặc biệt nổi tiếng thời Tam Quốc; sự kiện “Đại chiến hồ Bà Dương” trận thủy chiến ác liệt bậc nhất cuối thời nhà Nguyên đầu thời Minh, có sự kiện “Ninh Minh giang chu hành” của Nguyễn Du là kiệt tác văn chương và sách trắng ngoại giao đầu triều Nguyễn Ánh đánh giá thái độ của nhà Thanh sự sâu hiểm sông Trường Giang như lòng người qua ‘bang giao tập ngoại giao thời Tây Sơn” với các sự kiện bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn và cái chết bí ẩn của Nguyễn Huệ; có sự kiện Chủ tịch Mao Trạch Đông bơi qua sông Trường Giang ngày 6/7/1966; có sự kiện đập Tam Hiệp bắt đầu tích nước vào ngày 1 tháng 6 năm 2003 đúng vào đêm trăng tròn 15 tháng 4 âm lịch hàng năm, cũng là ngày Tam Hiệp (đản sanh, giác ngộ, giải thoát),

“Đại chiến hồ Bà Dương” là sự kiện lớn nhất thay đổi vận mệnh Trung Quốc cận đại xẩy ra ngày 3 tháng 10 năm 1363. Trần Hữu Lượng năm Chí Chính thứ 20 (1360) là Hán Vương giành trọn nửa nước, đã dẫn đội thủy quân mạnh từ Thái Thạch theo Trường Giang xuôi xuống phía đông, tiến công Chu Nguyên Chương và sau đó tử trận.. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương nhờ thắng này mà thồng nhất Trung Quốc và khai sáng nhà Minh Hạc vàng nghìn năm dấu tích cũ (*) Theo các bộ sử Việt như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án của Ngô Thời Sĩ, Đại nam thực lục, Đại Việt sử ký bản kỷ cùng gia phả nhà Trần để lại thì các bộ sử Việt đều khẳng định Trần Hữu Lượng là con thứ của Trần Ích Tắc. Sử Việt xác định Trần Ích Tắc có người con thứ là Trần Hữu Lượng ở Hồ Bắc. Trần Ích Tắc khi qua đời có con cả là Trần Hữu Thành thay cha dạy học cho Trần Hữu Lượng. Tổ tiên nhà Trần  là cụ tổ Trần Tự Minh thuộc nhóm tộc người Bách Việt ở vùng Mân Việt (nay thuộc Phúc Kiến – Trung Quốc), theo dòng người Bách Việt xuống phía Nam giúp vua An Dương Vương. Trần Tự Minh cùng Cao Lỗ từng là những vị tướng tài ba trụ cột, là hai cánh tay đắc lực giúp An Dương Vương nhiều lần đánh bại quân Triệu Đà.  Sau này Trần Hữu Lượng học theo cuốn sách Đông A võ phái của cụ tổ là Trần Tự An, noi gương tổ phụ khởi nghĩa chống Chu Nguyên Chương. Đại Việt Sử ký Toàn thư có viết rằng Trần Hữu Lượng từng sai sứ sang hòa thân với Trần Dụ Tông, liên minh với quân Đại Việt chống Nguyên:  “Giáp Ngọ, [Thiệu Phong] năm thứ 14 [1354], (Nguyên Chí Chính năm thứ 14). Mùa xuân, tháng 2, quan trấn giữ biên giới phía bắc cho chạy trạm tâu việc Trần Hữu Lượng nước Nguyên dấy binh, sai sứ sang xin hòa thân (Hữu Lượng là con Trần Ích Tắc)”. Tuy nhiên vua Trần là Trần Dụ Tông đã từ chối. Nhà Trần Đại Việt từ khi Trần Ích Tắc chạy theo quân Nguyên, đã xem ông ta là kẻ phản bội và không công nhận là dòng tộc nữa, nên đã từ chối “hòa thân”:

Nguyễn Du viết bài “Minh Ninh Giang Chu Hành” tả cảnh hiểm trở của sông Minh Ninh là sông Trường Giang ngày nay

ĐI THUYỀN TRÊN MINH GIANG
Nguyễn Du thơ chữ Hán
Nhất Uyên dịch thơ

Vùng núi Việt Tây nhiều khe núi,
Qua nghìn năm chảy hợp thành sông.
Nước như đổ tự trời cao xuống,
Trên thác nghe gì chăng ?
Rồng thiêng nổi giận sấm đùng đùng
Dưới thác nghe thấy gì ?
Máy nỏ bật nhanh tên lìa dây,
Một dòng vạn dậm không ngừng chảy.
Núi cao giáp bờ như tường thành,
Ở giữa đá lạ chen chúc nổi.
Như rồng, rắn, cọp, beo, ngựa, trâu la liệt trước mặt bày.
Lớn như cái nhà, nhỏ như nắm tay,
Hòn cao như đứng, thấp ngủ say.
Hòn thẳng như chạy, cong vòng xoay,
Nghìn hình vạn vẽ không nói hết,
Giao long ra vào thành vực sâu.
Sóng vỗ phun bọt ngày đêm ầm ầm tiếng,
Nước lụt hạ dâng tuôn trào sôi.
Một ngày ba ngày lòng bồi hồi.
Bồi hồi lo sợ điều trông thấy,
Nguy thay hiểm thay chìm sâu không đáy.
Ai cũng nói đất Trung Hoa bằng phẳng,
Hóa ra đường Trung Hoa lại thế này.
Sâu hiểm quanh co giống lòng người,
Nguy vong, nghiêng đổ đều ý trời.
Tài cao văn chương thường bị ghét,
Thịt người là thứ ma quỷ thích,
Làm sao dẹp yên hết phong ba ?
Trung tín thảy không nhờ cậy được.
Không tin: “Ra cửa đường hiểm nguy“
Hãy  ngắm dòng sông cuồn cuộn chảy.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
MINH NINH GIANG CHU HÀNH

Việt Tây sơn trung đa giản tuyền,
Thiên niên hợp chú thành nhất xuyên.
Tự cao nhi hạ như bát thiên,
Than thượng hà sở văn ?
Ứng long kích nộ lôi điển điển,
Than hạ hà sở kiến ?
Nổ cơ kịch phát thỉ ly huyền,
Nhất tả vạn lý vô đình yên.
Cao sơn giáp ngan như tường viên,
Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên.
Hữu như long, xà, hổ, báo, ngưu, mã la kỳ tiền.
Đại giả như ốc, tiểu như quyền.
Cao giả như lập, đê như miên,
Trực giả như tẩu,khúc như tuyền.
Thiên hình vạn trạng nan tận ngôn.
Giao ly xuất một thành trùng uyên,
Dũng đào phún mạt đạ tranh hôi huyên.
Hạ lao sơ trướng phí như tiên.
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền.
Tâm huyền huyền đa sở úy.
Nguy hồ đãi tai cốt một vô để.
Cộng đạo Trung Hoa lột thản bình,
Trung Hoa đạo Trung phù như thị !
Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm,
Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý.
Cao tài mỗi bị văn chương đố.
Nhân nhục tối vi ly mị hỷ,
Phong ba na đắc tận năng bình.
Trung tín đáo đầu vô túc thị.
Bất tín “xuất môn giai úy đồ “
Thị vọng thao thao thử giang thủy.

Chú Thích:
Minh Ninh giang:  sông Minh Giang chảy qua Minh Ninh. Ứng long: Rồng hiện.Trung tín: Đường Giới đời  Tống: Bình sinh thượng trung tín, Kim nhật nhiệm phong ba: Ngày thường giữ trung tín, Hôm nay mặc kệ phong ba….,Nguyễn Du viết : Đường Trung Hoa không bằng phẳng mà quanh co, sâu hiểm như lòng người. Trung tín thảy không nhờ cậy được.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tro-chuyen-trung-quoc-voi-lao-khoa.jpg

TRUNG QUỐC MỘT SUY NGẪM
Hoàng KimHoang Long


Tuyết rơi trên Vạn Lý
Trường Thành bao đổi thay
Ngưa già thương đồng cỏ
Đại bàng nhớ trời mây.

Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ
Đầy trời hoa tuyết bay.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là ho-khau-song-hoang-ha-di-tuyet-8-12-2020.jpg

Hồ Khẩu trên Hoàng Hà
Đại tuyết thành băng giá
Thế nước và thời trời
Rồng giữa mùa biến hóa.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là Len-Thai-Son-Huong-Phat.jpg

ĐƯỜNG TRẦN THÊNH THÊNH BƯỚC
Đỉnh xanh mờ sương đêm
Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Phước Đức vui kiếm tìm.

*

Lên Thái Sơn hướng Phật
Chiếu đất ở Thái An
Đi thuyền trên Trường Giang
Nguyễn Du trăng huyền thoại

Khổng Tử dạy và học
Đến Thái Sơn nhớ Người
Kho báu đỉnh Tuyết Sơn
Huyền Trang tháp Đại Nhạn

Tô Đông Pha Tây Hồ
Đỗ Phủ thương đọc lại
Hoa Mai thơ Thiệu Ung
Ngày xuân đọc Trạng Trình

Quảng Tây nay và xưa
Lên đỉnh Thiên Môn Sơn
Ngày mới vui xuân hiểu
Kim Dung trong ngày mới

Trung Quốc một suy ngẫm

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dan-con.jpg

DẶN CON
lời của Bố


Bố giận con rồi bố lại thương
Con chớ thức khuya bố dặn con
Dạy con là việc không hề muộn
Mắt sáng sức bền tỉnh mới khôn

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nho-anh.jpg

NHỚ ANH
thơ Hoàng Kim


Gốc mai vàng trước ngõ
Rằm xuân lại nhớ anh
Cành mai rung rinh quả
Xuân sang lộc biếc cành.

“Anh trồng gốc mai này cho em!” Anh cả của tôi trước khi mất đã trồng tặng cho tôi một gốc mai trước ngõ vào hôm sinh nhật con tôi. Cháu sinh đêm trước Noel còn anh thì mất lúc gần nửa đêm trăng rằm tháng giêng. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/goc-mai-vang-truoc-ngo/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chaongaymoi31thang128229.jpg

MẠ ƠI
Hoàng Ngọc Dộ

“Đã chẵn tháng rồi, ôi Mạ ôi!
Tuần trăng tròn khuyết đã hết rồi
Mà con không thấy đâu bóng Mạ
Thấy trăng vắng Mạ dạ bùi ngùi. (1)

Năm mươi ngày chẵn thấm thoắt trôi
Mạ về cỏi hạc để con côi
Vầng trăng tròn trặn vừa hai lượt
Vắng Mạ, lòng con luống ngậm ngùi. (2)

Con đọc sách khuya không nghe tiếng Mạ
Nỗi tâm tư con nghĩ miên man
Lúc Mạ còn, con bận việc riêng con
Không đọc được để Mạ nghe cho thỏa dạ.
Nay con đọc, vắng nghe tiếng Mạ
Nỗi bùi ngùi lòng dạ con đau
Sách mua về đọc Mạ chẵng nghe đâu
Xót ruôt trẻ lòng sầu như cắt.
Mạ ơi Mạ, xin Mạ hãy nghe lời con đọc. (3)

Buồn khi rảo bước đồng quê
Buồn khi chợp mắt Mạ về đâu đâu
Buồn khi vắng Mạ dạ sầu
Buồn khi mưa nắng giải dầu thân Cha
Buồn khi sớm tối vào ra
Ngó không thấy Mạ, xót xa lòng buồn. (4)

Nhớ năm năm cơm ngày một bữa
Thương Cha ngực nát bởi bom thù
Tấm áo rách suốt đời lương thiện
‘Lời Nguyền’ khắc cốt ghi tâm:

Không vì danh lợi đua chen
Công Cha nghĩa Mẹ quyết rèn bản thân. (5)


(*) Hoàng Ngọc Dộ trang thơ khát vọng
KHÁT VỌNG Thơ Hoàng Ngọc Dộ (1, 2, 3, 4, 5)

HOÀNG NGỌC DỘ TRANG THƠ KHÁT VỌNG
Hoàng Ngọc Dộ và Hoàng Kim


anh Hai Hoàng Ngọc Dộ cũng là người Thầy dạy học đầu tiên cho Hoàng Kim: “Dặn con cháu khiêm nhu cần kiệm”; “Cảnh mãi đeo người được đâu em Hết khổ, hết cay, hết vận hèn Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”;”Không vì danh lợi đua chen. Công Cha nghĩa Mẹ quyết rèn bản thân”; “Soi mặt mình trong gương không bằng soi mặt mình trong lòng người”; “Có những di sản tỉnh thức cùng lương tâm, không thể mất và không thể tìm lại được”. Hoàng Ngọc Dộ trang thơ “Khát vọng” (1) https://www.thivien.net/…/Kh%…/topic-jvbfrjspi2Y6S8b3jeqzpA…

ÁNH SAO
Hoàng Ngọc Dộ

Bóng đêm trùm kín cả không trung
Lấp lánh phương Đông sáng một vừng
Mây bủa, mây giăng còn chẳng ngại
Hướng nhìn trần thế bạn văn chương.

LỜI NGUYỀN

Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà, nợ nước, quyết rèn bản thân!

Ước hẹn anh em một lời nguyền
Thù nhà đâu sá kể truân chiên
Bao giờ đền được ơn trung hiếu
Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên.

CHÙM THƠ VỀ MẠ (MẸ-TIẾNG QUẢNG BÌNH)

(1) CHẴN THÁNG

Đã chẵn tháng rồi, ôi Mạ ôi!
Tuần trăng tròn khuyết đã hết rồi
Mà con không thấy đâu bóng Mạ
Thấy trăng vắng Mạ dạ bùi ngùi.

(2) NĂM MƯƠI NGÀY

Năm mươi ngày chẵn thấm thoắt trôi
Mạ về cỏi hạc để con côi
Vầng trăng tròn trặn vừa hai lượt
Vắng Mạ, lòng con luống ngậm ngùi.

(3) ĐỌC SÁCH

Con đọc sách khuya không nghe tiếng Mạ
Nỗi tâm tư con nghĩ miên man
Lúc Mạ còn, con bận việc riêng con
Không đọc được để Mạ nghe cho thỏa dạ.

Nay con đọc, vắng nghe tiếng Mạ
Nỗi bùi ngùi lòng dạ con đau
Sách mua về đọc Mạ chẵng nghe đâu
Xót ruôt trẻ lòng sầu như cắt.

Mạ ơi Mạ, xin Mạ hãy nghe lời con đọc.

(4) BUỒN

Buồn khi rão bước đồng quê
Buồn khi chợp mắt Mạ về đâu đâu
Buồn khi vắng Mạ dạ sầu
Buồn khi mưa nắng giải dầu thân Cha
Buồn khi sớm tối vào ra
Ngó không thấy Mạ, xót xa lòng buồn.

CHIA TAY BẠN QÚY

Đêm ngày chẳng quản đói no
Thức khuya dậy sớm lo cho hai người
Chăm lo văn sách dùi mài
Thông kim bác cổ, giúp đời cứu dân

Ngày đêm chẵng quản nhọc nhằn
Tối khuyên, khuya dục, dạy răn hai người
Mặc ai quyền quý đua bơi
Nghèo hèn vẫn giữ trọn đời thủy chung

Vận nghèo giúp kẻ anh hùng
Vận cùng giúp kẻ lạnh lùng vô danh
Mặc ai biết đến ta đành
Dăm câu ca ngợi tạc thành lời thơ

Hôm nay xa vắng đồng hồ
Bởi chưng hết gạo, tớ cho thay mày
Mày tuy gặp chủ tốt thay
Nhớ chăng hôm sớm có người tri ân.

THỨC EM DẬY

Đã bốn giờ sáng
Ta phải dậy rồi
Sao mai chơi vơi
Khoe hào quang sáng

Ta kêu Kim dậy
Nó đã cựa mình
Vớ vẫn van xin
Cho thêm chút nữa.

Thức, lôi, kéo, đỡ
Nó vẫn nằm ỳ
Giấc ngủ say lỳ
Biết đâu trời đất

Tiếc giấc ngủ mật
Chẳng chịu học hành
Tuổi trẻ không chăm
Làm sao nên được

Đêm ni, đêm trước
Biết bao là đêm
Lấy hết chăn mền
Nó say sưa ngủ

Ta không nhắc nhủ
Nó ra sao đây
Khuyên em đã dày
Nó nghe chẳng lọt

Giờ đây ta quyết
Thực hiện nếp này
Kêu phải dậy ngay
Lay phải trở dậy

Quyết tâm ta phải
Cố gắng dạy răn
Để nó cố chăm
Ngày đêm đèn sách

Ta không chê trách
Vì nó tuổi thơ
Ta không giận ngờ
Vì nó tham ngủ

Quyết tâm nhắc nhủ
Nhắc nhủ, nhắc nhủ …

NẤU ĂN

Ngày một bữa đỏ lửa
Ngày một bữa luốc lem
Ngày một bữa thổi nhen
Ngày một bữa lường gạo
Ngày một bữa tần tảo
Ngày một bữa nấu ăn.

(*) 5 năm cơm ngày một bữa

NỖI LÒNG

Nhá củ lòng anh nhớ các em
Đang cơn lửa tắt khó thắp đèn
Cảnh cũ chưa lìa đeo cảnh mới
Vơi ăn, vơi ngủ, với vơi tiền

Cảnh mãi đeo người được đâu em
Hết khổ, hết cay, hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen.

DỰ LIÊN HOAN

Hôm nay anh được chén cơm ngon
Cửa miệng anh ăn, nuốt chả trơn
Bởi lẽ ngày dài em lam lũ
Mà sao chỉ có bữa cơm tròn.

NHỚ NGƯỜI XƯA

Ông Trình, ông Trãi, ông Du ơi
Chí cả ngày xưa Cụ trả rồi
Có biết giờ đây ai khắc khoải
Năm canh nguyệt giãi gợi lòng tôi

Bó gối mười năm ở nội thành
Thầy xưa đã rạng tiết thanh danh
Tớ nay vương nợ mười năm lẽ
Sự nghiệp Thầy ơi rạng sử xanh.

EM ỐM

Bồn chồn khi được tin nhà
Rằng người xương thịt nay đà bị đau
Nghĩ mình là kẻ đỡ đầu
Mà sao phải chịu lao đao chốn này.

ĐÊM RÉT THƯƠNG EM

Đêm này trời rét, rét ghê
Ta thương chiến sĩ dầm dề gió sương
Thương em lặn lội chiến trường
Chăn không, áo mỏng, gió sương dạn dày.

EM VỀ

Em về anh biết nấu chi
Ba lần khoai sắn, kể chi cá gà
Thương em lặn lội đường xa
Về nhà khoai sắn, dưa cà cùng anh

Bao giờ giặc Mỹ sạch sanh
Em về anh thết cơm canh cá gà
Mùng vui kể chuyện nước nhà
Gia đình đoàn tụ thật là đượm vui.

LÀM ĐỒNG

Làm đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót, say sưa với đồng
Chung tay liềm hái cuốc chòng
Ngày nay nhỏ giọt, mai lòng sướng vui.

Làm đồng nắng sém, da hui
Ai ơi xin chớ tham hời của dân
Khổ cay nắng sém da hồng
Xuân xanh già dặn với đồng, ai ơi!

NGẮM TRĂNG

Nằm ngữa trong nhà ngắm Hằng Nga
Hợp cảnh, hợp tình, Hằng ngắm lại
Hợp nhà, hợp cửa, ả rọi hoa
Từng đám vòng tròn nằm giữa chiếu
Chiếu thế mà ra lại chiếu hoa
Hậu Nghệ thuở xưa sao chị ghét
Ngày nay mới biết ả yêu ta.

NHÀ DỘT

Lã chã đêm đông giọt mưa phùn
Lách qua tranh rạ nhỏ lung tung
Chiếu giường ướt đẫm, thân đâu thoát
Nghĩ cảnh nhà hoa thật não nùng.

QUA ĐÈO NGANG

Qua đèo Ngang, qua đèo Ngang
Rừng thẳm Hoành Sơn giống bức màn
Tường thành hai dãy nhiều lũy nhỏ
Gió chiều lướt thổi nhẹ hơi hương
Cổng dinh phân định đà hai tỉnh
Cheo leo tầng đá, giá hơi sương
Người qua kẻ lại đều tức cảnh
Ta ngẫm thơ hay của Xuân Hương (1)

(1) Thơ Xuân Hương:
“Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo …”

CUỐC ĐẤT ĐÊM

Mười lăm trăng qủa thật tròn
Anh hùng thời vận hãy còn gian nan
Đêm trăng nhát cuốc xới vàng
Trăng dòm, ta hẹn, trăng càng dòm thêm
Đất vàng, vàng ánh trăng đêm
Đêm khuya, ta với nàng quên nhọc nhằn.

Hoàng Ngọc Dộ (1937-1994) là nhà giáo. Ông quê ở xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn), tỉnh Quảng Bình. Mẹ mất sớm. Nhà nghèo. Cha bị bom Mỹ giết hại. Ông đã nổ lực nuôi dạy các em vượt qua gian khổ, nghèo đói và chiến tranh để vươn lên trở thành những gia đình thành đạt và hạnh phúc. Gương nghị lực vượt khó hiếm thấy, ăn ngày một bữa suốt năm năm, nuôi hai em vào đại học với sự cưu mang của thầy bạn và xã hội đã một thời lay động sâu xa tình cảm thầy trò Trường Cấp Ba Bắc Quảng trạch (Quảng Bình). Ông mất sớm, hiện còn lưu lại gần 100 bài thơ. Lời thơ trong sáng, xúc động, ám ảnh, có giá trị khích lệ những em học sinh nhà nghèo, hiếu học. Chúng tôi chọn lưu lại một số bài tiêu biểu trên Thi viện. Hoàng Ngọc Dộ khát vọng https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-ngoc-do-khat-vong/ (1) https://www.thivien.net/…/Kh%…/topic-jvbfrjspi2Y6S8b3jeqzpA với Tình Yêu Cuộc Sống.

Thổ Mộc tương hợp năm 2021

THẾ SỰ BÀN CỜ VÂY
Hoàng Kim
Nga
phản vệ
sốc
thuận thiên
vây hãm
triệt nguồn
giành thế thắng
Trung Quốc
liên Nga
bạn Ấn
kết Á Âu Phi
lược trận
ngư ông
đắc lợi nhiều

Ngẫm tiêu điểm thế giới
Thế sự bàn cờ vây

*

Thế giới trong mắt ai
Thế sự bàn cờ vây
Lời dặn của Thánh Trần
Thời biến nhớ người xưa

Vận khí và vận mệnh
Vạn Kiếp binh thư truyền
Vạn Xuân nơi An Hải
Gia Cát Mã Tiền Khóa

Ngày xuân đọc Trạng Trình

Chín đường dẫn chọn lọc tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-su-ban-co-vay/ xem thêm Nhà tiên tri Nikola Tesla https://www.facebook.com/TiengNoiHoaKy/videos/373128344369154/

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là vietnamtoquoctoi.jpg

Tỉnh thức cùng tháng năm
THẾ GIỚI TRONG MẮT AI
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

#Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc#cnm365#cltvn; #đẹpvàhay; Thế giới trong mắt ai (hình) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-gioi-trong-mat-ai ; #cnm365 #cltvn 14 tháng 3 https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-14-thang-3 / ; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/tinh-thuc-cung-thang-nam/

“Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình”. Đêm trắng và bình minh Hoàng Kim lời tâm đắc. Thế giới trong mắt ai, chúng ta trầm tĩnh theo dõi thế giới chuyển biến. Thông tin nhanh về Việt Nam quan hệ quốc tế và một số bài học thêm có liên quan .https://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-gioi-trong-mat-ai/ .

“Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đường lối cách mạng của nước Việt Nam ngày nay thích hợp bền vững trong tình hình mới, thời đại mới, đã được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết tinh hoa tại bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” xác định rõ đường lối, quan điểm, tầm nhìn chiến lược, cương lĩnh và kế hoạch hành động:“Đoàn kết ‘xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh’ như di nguyện của Bác Hồ kính yêu”; “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Ph át triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (in đậm để nhấn mạnh HK); Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện“.

Nước Nga và Châu Âu https://youtu.be/m_eVwIX2ZJ0

Thế giới trong mắt ai
Nước Nga và Châu Âu
Gia Cát Mã Tiền Khóa
Thế sự bàn cờ vây

Bài học lớn muôn đời
Việt Nam con đường xanh,
Minh triết Hồ Chí Minh
Chợt gặp mai đầu suối

Xuân sớm Ngọc Phương Nam

Toàn cảnh Thời sự quốc tế
TRỰC TIẾP Tin Thế Giới Sáng 14/3: Nga Tặng Trung Quốc ‘Món Quà’ Bất Ngờ Khiến Phương Tây Hoảng Loạn https://www.youtube.com/live/MF_YfZuf0o8?feature=share ; Trung Quốc: Lễ bế mạc Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XIV | VTC Tin mới https://youtu.be/LhEJvqsHzw8 ; TRỰC TIẾP Tin Thế Giới Sáng 13/3: Châu Âu NGUY CẤP Trước Đòn Khí Đốt Nga, Đối Mặt THẢM CẢNH ; Thời sự Quốc tế sáng 12/3 – Tin nóng Thế giới mới nhất – VNEWS https://youtu.be/Wjwvo5rr8DM Tin Sáng 10/3 | Hé lộ nội dung cuộc đàm phán bí mật khiến TT Putin chấm dứt bao vây Mariupol | FBNC https://youtu.be/KMDaZWa-zTM; Nga: Đức, Pháp, Ukraine đã chơi trò bịp bợm, và giờ phải trả giá https://youtu.be/GzP8lohovUI ; Tin quốc tế 8/3 | Nga mở rộng căn cứ không quân; trả giá đắt ở Bakhmut ? | FBNC ‘Đài Loan là lằn ranh đỏ đầu tiên mà Mỹ và phương Tây không được phép vượt qua’ https://youtu.be/lgM6PlPv2jA ; Phương Tây thừa nhận một số điều Tổng thống Putin đã đúng https://youtu.be/4s1cWzKqVmg Thời sự 11h trưa ngày 5/3 – Tin nóng Thế giới mới nhất – VNEWS https://youtu.be/Ehz7jo3o-5Q ; 4.3 2023 Cuộc cạnh tranh quyết liệt trên chính trường giữa Nga và EU để giành ưu thế ảnh hưởng ở châu Phi https://youtu.be/U9rd_AzqSP4 ; Thời sự quốc tế 4/3 | Mỹ viện trợ cho Kiev, gồm thiết bị “độc nhất vô nhị” trên chiến trường Ukraine https://youtu.be/zoMlJ5GWDak ; 3.3 2023 Bị tố “thân Nga”, Trung Quốc đặt cược vào trò chơi ở Ukraine? https://youtu.be/5D1wk-JpuGI ; Đóng băng di sản cuối cùng của Nga-Mỹ, vũ khí hạt nhân ngày càng cận kề https://youtu.be/X_fO3sTUrqY ; Hé lộ bí mật Nga sắp đáp trả, khiến “vòng kim cô” của phương Tây sẽ rơi https://youtu.be/qXYYtXqKtFk ; Nga đã ‘đánh bật’ Pháp khỏi châu Phi? – Tin thế giới – VNEWS https://youtu.be/72AwROJRZvg ; Xung đột Nga – Ukraine khơi mào trật tự thế giới mới; Thế giới đa cực để giảm thiểu rủi ro toàn cầu? https://youtu.be/eq1ncQ687Ws Toàn cảnh Nga tấn công Ukraine sáng 3/3 Thủ tướng Hungary kêu gọi EU lập liên minh quân sự riêng https://youtu.be/9SBDRdIKaJU Tin Thế Giới Sáng 03/3 | EU TỰ CẮT ĐỨT ĐƯỜNG LUI Của Mình Khi Công Khai Đối Đầu Nga https://www.youtube.com/live/7HJkIP8RB30?feature=share 2.3.2023 Tiểu sử tân Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng | VTC Tin mới https://youtu.be/hkeW-gPK3oc Câu chuyện thế giới 2/3, Mỹ cần làm gì để củng cố lòng dân khi viện trợ cho Ukraine trong năm thứ 2? https://youtu.be/1Ct0q6XdquA Toàn cảnh Thời sự Quốc tế chiều 2/3 Nga tấn công dữ dội, Ukraine thừa nhận khó giữ Bakhmut | TV24h https://youtu.be/tEHKkXMKtkk 27 2 2023 Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân: Thổ Nhĩ Kỳ là nhân tố quan trọng trong chiến sự Ukraine – Nga https://youtu.be/T0vn2BSHG7Y 25 2 2023 Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: Thế giới đang trở thành đa cực hỗn loạn | VTC Now https://youtu.be/8ZaHPSTkjYI Toàn cảnh Nga tấn công Ukraine sáng 24/2 Tròn một năm xung đột Nga Ukraine, lộ diện bên chiến thắng? | VTC TV24h 4,59 Triệu người theo dõi https://youtu.be/m99AS2e_2lY Các nước phản ứng trái chiều với lập trường của Trung Quốc trong xung đột Ukraine | VTC Tin mới https://youtu.be/wpWBEHfoCW4 ; Dự báo 3 kịch bản xung đột quân sự Nga – Ukraine trong năm 2023 | VTC Tin mới https://youtu.be/ZGEhO9m-7Ws ; Thế giới trong mắt ai https://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-gioi-trong-mat-ai/

Cục diện chiến trường Ukraine sau hơn 4 tháng giao tranh. Đồ họa: Washington Post.

Cục diện chiến trường Nga Ukraine . Đồ họa: Washington Post.

Thế giới trong mắt ai Gia Cát Mã Tiền Khóa https://hoangkimlong.wordpress.com/category/gia-cat-ma-tien-khoa/ Chúng ta năm mới chuyên tâm làm việc chính Thượng Đức thương nhìn lại (ảnh) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thuong-duc-thuong-nhin-lai Chính Ngọ đoán Kinh Dịch: Bảo tồn và phát triển sắn bảy năm nhìn lại. Cách mạng sắn Việt Nam 22 7 2016 The cassava revolution in Vietnam by Le Huy Ham, Hoang Kim, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Bach Mai and Reinhardt Howeler 2016. We created this video with the YouTube Slideshow Creator https://youtu.be/81aJ5-cGp28 Trung Quốc trong mục tiêu “100 năm lần thứ 2” | Bàn tròn thế sự https://youtu.be/H-kC5XG1amY; Bàn tròn thế sự Nghệ An TV https://youtu.be/MhYc-AaD-YY; Quan hệ Mỹ – Trung sẽ có biến động mạnh trong năm 2023 | FBNC https://youtu.be/OzrFH9nLBqk Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân: Kinh tế châu Á sẽ chiếm 3/4 mức tăng trưởng toàn cầu | VTC Tin mới https://youtu.be/vEbhM6UPeHc Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: Xung đột Nga- Ukraine, Việt Nam chọn công lý, chọn lẽ phải | VTC Now https://youtu.be/dXf76sWGNbU https://youtu.be/Cx1eECXjaeI; Địa lý Ukraina, tranh chấp là định mệnh https://youtu.be/aCV2WOyrUhw; Tỉnh thức cũng tháng năm Nhớ lại và suy nghĩ https://youtu.be/YnasCy_M3E8 Kính chúc vui khỏe an lành Xuân ấm áp tình thân https://youtu.be/LQyzqSNXHK8 tích hợp bài học lịch sử Hội nghị Pari về Việt Nam (trích BBC online) ngày này năm xưa,

SỚM XUÂN QUA ĐẠI LÃNH
Hoàng Kim

Vui được dịp sớm xuân qua Đại Lãnh
Ngắm đất trời núi biển lúc hừng đông
Nghe vó ngựa ruổi dài đường vạn dặm
Đá Bia ơi.thăm thẳm đất Tiên Rồng

Dấu xưa thầy bạn quý
IAS ĐƯỜNG TỚI TRĂM NĂM
Hoàng Kim

Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam đã đúc kết tốt 90 năm nông nghiệp miền Nam lịch sử phát triển (1925-2015) và đang trên đường tới ‘100 năm nông nghiệp Việt Nam’ (1925-2025). Công tác chuẩn bị cho ngày tổng kết và lễ hội quan trọng này này vào năm 2025 đang được chuẩn bị từ hiện nay.

90 năm Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam, sự nhìn lại bản tóm tắt nông nghiệp 90 năm (1925-2015) thật khá thú vị: Tác giả Bùi Chí Bửu, Trần Thị Kim Nương, Nguyễn Hồng Vi, Nguyễn Đỗ Hoàng Việt, Nguyễn Hiếu Hạnh, Đinh Thị Lam, Trần Triệu Quân, Võ Minh Thư, Đỗ Thị Nhạn, Lê Thị Ngọc, Trần Duy Việt Cường, Nguyễn Đức Hoàng Lan, Trần Thị Kim Cúc, Nguyễn Thị Kim Thoa, Đinh Thị Hương, Trần Văn Tưởng, Phan Trung Hiếu, Hồ Thị Minh Hợp, Đào Huy Đức* (*Chủ biên chịu trách nhiệm tổng hợp).

Khoa học nông nghiệp là một tổng thể của kiến thức thực nghiệm, lý thuyết và thực tế về nông nghiệp, nông dân, nông thôn do các nhà nghiên cứu phát triển với các phương pháp khoa học, trong đó đặc biệt là sự quan sát, giải thích, và dự báo những hiện tượng của nông nghiệp. Việt Nam là đất nước “dĩ nông vi bản”, do đó nông nghiệp của chúng ta gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước. Viện đã không ngừng phát triển trong chặng đường lịch sử 90 năm. Viện đã cùng đồng hành với nông dân Việt Nam, người mà lịch sử Việt Nam phải tri ân sâu đậm. Chính họ là lực lựơng đông đảo đã làm cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân thành công; đồng thời đã đóng góp xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, với nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, tạo nên những đột phá liên tục làm tiền đề cho công nghiệp và dịch vụ phát triển như ngày nay. Sự kiện 02 triệu người chết đói năm 1945 luôn nhắc người Việt Nam rằng, không có độc lập dân tộc, không có khoa học công nghệ, sẽ không có ổn định lương thực cho dù ruộng đất phì nhiêu của Đồng bằng Sông Cửu Long có tiềm năng vô cùng to lớn.

Lịch sử của Viện cũng là lịch sử của quan hệ hợp tác mật thiết với các tổ chức nông dân, với lãnh đạo địa phương, với các Viện nghiên cứu trực thuộc VAAS và các Trường, Viện khác, với các tổ chức quốc tế. Khoa học nông nghiệp không thể đứng riêng một mình. Khoa học nông nghiệp phải xem xét cẩn thận các yếu tố kinh tế, môi trường, chính trị; trong đó có thị trường, năng lượng sinh học, thương mại hóa toàn cầu. Đặc biệt, nông nghiệp phải nhấn mạnh đến chất lượng nông sản và an toàn lương thực, thực phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Lịch sử đang đặt ra cho Viện những thách thức mới trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, thay vào đó là rào cản kỹ thuật đối với nông sản trên thương trường quốc tế. Thách thức do bùng nổ dân số, thiếu đất nông nghiệp, thiếu tài nguyên nước ngọt, biến đổi khí hậu với diễn biến thời tiết cực đoan, thu nhập nông dân còn thấp là những nhiệm vụ vô cùng khó khăn, nhưng rất vinh quang của Viện, đang mong đợi sự năng động và thông minh của thế hệ trẻ.”

Lịch sử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam được chia là hai phân kỳ : Từ ngày thành lập Viện 1925 đến năm 1975, và từ năm 1975 đến năm 2018.

Từ năm 1925 đến năm 1975 những nhân vật lịch sử tiêu biểu của Viện trong thời kỳ này là GS.TS. Auguste Chavalier (1873-1956) Người thành lập Viện Khảo cứu Khoa học Đông Dương, năm 1918;  Yves Henry (1875-1966) Người thành lập Viện Khảo cứu Nông Lâm Đông Dương, năm 1925;  GS. Tôn Thất Trình, GS. Thái Công Tụng, GS. Lương Định Của, … là những người có ảnh hưởng nhiều đến Viện trong giai đoạn này

Từ năm 1975 đến năm 2018 Viện trãi qua 5 đời Viện trưởng GS Trần Thế Thông, GS Phạm Văn Biên, GS Bùi Chí Bửu, TS Ngô Quang Vinh và TS Trần Thanh Hùng.  Tôi lưu lại một số bức ảnh tư liệu kỷ niệm một thời của tôi với những sự kiện chính không quên.

Viện IAS từ năm 1975 đến năm 2015 là một Viện nông nghiệp lớn đa ngành, duy nhất trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam. Đó là tầm nhìn phù hợp điều kiện thực tế thời đó. Viện có một đội ngũ cán bộ khoa học nông nghiệp hùng hậu, có trình độ chuyên môn cao, thế hệ đầu tiên của giai đoạn hai mươi lăm năm đầu tiên sau ngày Việt Nam thống nhất (1975 – 2000)  gồm các chuyên gia như:  Giáo sư Trần Thế Thông, Giáo sư Vũ Công Hậu, Giáo sư Lê Văn Căn, Giáo sư Mai Văn Quyền, Giáo sư Trương Công Tín, Giáo sư Dương Hồng Hiên, Giáo sư Phạm Văn Biên, … là những đầu đàn trong khoa học nông nghiệp.

Viện có sự cộng tác của nhiều chuyên gia lỗi lạc quốc tế đã đến làm việc ở Viện như: GSTS. Norman Bourlaug (CIMMYT), GS.TS. Kazuo Kawano, TS. Reinhardt Howeler, GS.TS. Hernan Ceballos, TS. Rod Lefroy, (CIAT),  GS.TS. Peter Vanderzaag, TS. Enrique Chujoy, TS. Il Gin Mok, TS. Zhang Dapheng (CIP), GS.TS. Wiliam Dar, TS. Gowda (ICRISAT), GSTS.  V. R. Carangal (IRRI), TS. Magdalena Buresova , GSTS. Pavel Popisil (Tiệp), VIR, AVRDC,  …

Thật đáng tự hào về một khối trí tuệ lớn những cánh chim đầu đàn nêu trên. Chúng ta còn nợ những chuyên khảo sâu các đúc kết trầm tích lịch sử, văn hóa, sinh học  của vùng đất này để đáp ứng tốt hơn cho các vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đời sống và  an sinh xã hộiđể vận dụng soi tỏ “Niên biểu lịch sử Việt Nam“, ” 500 năm Nông nghiệp Việt Nam”, “90 năm Nông nghiệp miền Nam” “Trăm năm nông nghiệp Việt Nam (1925-2025)” nhằm tìm thấy trong góc khuất lịch sử  dòng chủ lưu tiến hóa của nông nghiệp, giáo dục, văn hóa Việt Nam.

Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) từ cuối năm 2015 đến đầu năm 2025 đang chuyển đổi mạnh mẽ trong xu thế hội nhập và phát triển. Viện cấu trúc hài hòa các Bộ môn Bảo vệ Thực vật; Công nghệ Sinh học; Chọn tạo giống cây trồng; Nông học; Cây Công Nghiệp. Viện IAS vừa xử lý tốt các vấn đền đề vùng miền vừa đáp ứng tốt những đề tài trọng điểm quốc gia theo chuỗi giá trị hàng hóa chuyên cây, chuyên con và tổng hợp quốc gia mà Viện có thế mạnh như Điều, Sắn, Cây Lương thực Rau Hoa Quả, Nông nghiệp hữu cơ, Nông nghiệp đô thị, Đào tạo và huấn luyện nguồn lực, xây dựng phòng hợp tác nghiên cứu chung và trao đổi chuyên gia quốc tế … trong cấu thành chỉnh thể Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.

THÍCH NGHI ĐỂ TỒN TẠI

Đôi mắt Darwin soi thấu nguồn gốc các loài. Thăm ngôi nhà cũ của Darwin, tìm đến tư duy mạch lạc của một trí tuệ lớn “Darwin thích nghi để tồn tại” để vận dụng soi tỏ “Niên biểu lịch sử Việt Nam“, ” 500 năm Nông nghiệp Việt Nam”, “90 năm Nông nghiệp miền Nam” “IAS đường tới trăm năm” (1925 -2025); nhằm tìm trong sự rối loạn và góc khuất lịch sử dòng chủ lưu tiến hóa, chấn hưng văn hóa, giáo dục và nông nghiệp Việt.

THĂM NGÔI NHÀ CŨ DARWIN

Down House  là ngôi nhà cũ của nhà tự nhiên học người Anh Charles Darwin (12 tháng 2, 1809 – 9 tháng 4, 1882) và gia đình ông. Nơi đây Darwin đã làm việc về thuyết tiến hóa bởi chọn lọc tự nhiên và nhiều thí nghiệm khác. “Nguồn gốc các loài” của Charles Darwin xuất bản lần đầu tiên ngày 24 tháng 11 năm 1859 là ấn phẩm khoa học tiêu biểu và là tác phẩm nòng cốt của ngành sinh học tiến hóa, chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Hiện nay học thuyết tiến hóa của Darwin đang được tôn vinh và phê phán dữ dội. Vượt qua mọi khen chê của nhân loại và thời đại biến đổi, triết lý của Charles Darwin thật sâu sắc. “Mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên“, “thích nghi để tồn tại” bài học tình yêu cuộc sống đắt giá của tự nhiên, chính mỗi người, cộng đồng dân tộc và nhân loại.

THÍCH NGHI TRIẾT LÝ VÀNG

“Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất hay thông minh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất” Charles Darwin đã nói vậy: “It is not the strongest of the species that survives, nor the most intelligent that survives. It is the one that is most adaptable to change” Bảo tồn và phát triển bền vững, thích nghi để tồn tại là câu chuyện lớn của mỗi người và nhân loại, là lời nhắc của quá khứ hiện tại và tương lai cho nhân loại và chính cộng đồng người dân Việt Nam để không bao giờ được phép quên lãng. Thích nghi để tồn tại mới là người THẮNG sau cùng. Cân bằng hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, tiến bộ và công bằng an sinh xã hội, giữ vững độc lập thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là những vấn đề trọng yếu trong chính sách kinh tế xã hội tự nhiên và an sinh..

Tôi được may mắn có một thời gian cùng làm việc với Những người bạn Nga của Viện Vavilop”. Tôi từng đươc may mắn có thời du học Tiệp Khắc ở “Viện Di truyền Mendel”, Praha Goethe và lâu đài cổ, Tiệp Khắc kỷ niệm một thời, Giấc mơ thiêng cùng Goethe; được tới nhiều vùng văn hóa nổi tiếng khắp năm châu Châu Mỹ chuyện không quên; Nhớ châu Phi; Di sản Walter Scott bút hơn gươm; Nhớ ‘Nghị lực’ thơ ngày tháng cũ; Học để làm ở Ấn Độ, 500 năm nông nghiệp Brazil,  các trang vàng của những người thầy lớn, có tầm nhìn xa rộng, sức khái quát cao và tài năng khoa học phi thường. Tôi vì giới hạn nên nhiều điều chưa kịp chép lại và chiêm nghiệm, Nay bất chợt gặp lại chùm ảnh tư liệu cũ “một thời để nhớ”  Thăm ngôi nhà cũ của Darwin, bỗng bâng khuâng ngắm nhìn đôi mắt Darwin soi thấu nguồn gốc muôn loài, ngưỡng mộ sức khái quát trong đúc kết “Nguồn gốc các loài” của ông.Thật thú vị khi được trãi nghiệm một phần đời mình gắn bó máu thịt với 90 năm Viện KHKTNN miền Nam; 60 năm Đại học Nông Lâm TP. HCM 

DẤU XƯA THẦY BẠN QUÝ

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là ngovietnam-va-nhung-nguoi-thay-4-easup.jpg

GIỐNG NGÔ LAI ĐƠN VN25-99
Hoàng Kim

Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam đã xây dựng kỷ yếu khoa học giai đoạn 1975- 2015. Các công trình nghiên cứu cây ngô và cây đậu đỗ tiêu biểu và hiệu quả của Viện đã được tổng kết tóm tắt trong kỷ yếu này tại các trang từ trang 29 đến trang 86. Kết quả chọn tạo và phát triển giống ngô lai đơn VN25-99 (1997-1999), La Đức Vực, Phạm Văn Ngọc, Hoàng Kim, Nguyễn Văn Khoan và Nguyễn Văn Long. Thông tin trích từ kỷ yếu, như sau

Đề tài thực hiện thuộc nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp ngành “Nghiên cứu phát triển cây trồng cạn thích hợp cho vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung” (1997- 1999) . Mục tiêu nghiên cứu chọn tạo giống ngô lai đơn có năng suất cao, thời gian sinh trưởng sớm hơn giống ngô lai đơn DK888, chất lượng hạt tốt, ít nhiễm bệnh đốm lá và khô vằn, dạng cây đẹp, lá xanh đậm, thích hợp với hệ thống canh tác vùng Đông Nam Bộ. Giống ngô lai đơn VN25-99 do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc lai tạo ra từ tổ hợp lai JL11 x MV292. Giống đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhân giống quốc gia năm 2004 theo quyết định số 2432 QĐ/BNN-KHCN ngày 17 tháng 8 năm 2004;

Giống VN25-99 có đặc điểm:
– Thời gian sinh trưởng ở phía Nam từ 93-98 ngày.
– Cây sinh trưởng nhanh, cứng cây, ít đổ ngã, bộ lá gọn, độ đồng đều cao, lá xanh lâu tàn.
– Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá và bệnh khô vằn; có 18-19 lá; chiều dài bắp 18-20 cm; đường kính bắp 4,5-5,0 cm; trái to, đều, hạt dạng đá, màu vàng cam đẹp.
– Năng suất hạt khô đạt từ 6,5-7,0 tấn/ha, thâm canh tốt có thể đạt 7,5-8,0 tấn/ha, vụ Đông Xuân đạt 10-12 tấn/ha;
– Giống ngô lai đơn VN25-99 có khả năng thích ứng rộng, phù hợp với cơ cấu mùa vụ ở các tỉnh phía Nam.

Bài viết này ghi thêm DẤU XƯA VÀ BẠN QUÝ chuyện đời không nỡ quên.

Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam là điểm sáng nghiên cứu và phát triển cây màu (ngô, khoai, sắn) và cây đậu đỗ cho các tỉnh phía Nam trong nửa thế kỷ nay kể từ sau ngày Việt Nam thống nhất . . Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lôc ngày nay vẫn là một địa chỉ xanh tin cậy và uy tín trong việc chọn tạo giống sắn ngô khoai đậu đỗ và xây dựng mô hình quy trình kỹ thuật canh tác thích hợp bền vững cho các tỉnh phía Nam, trọng điểm vùng Đông Nam Bộ

Thầy Trần Hồng Uy, thuở thầy làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Ngô thường vào với chúng tôi. Thầy đã nói lời chân tình thật xúc động “Các cậu là gương sáng lao động thực tiễn mà tôi là anh hùng lao động lưu danh” khi Thầy làm phản biện chính đánh giá xuất sắc giống ngô lai VN25-99, sau đó Thầy đã trở về trao cho Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc chúng tôi bức tranh sơn mài quý giá, kỷ niệm ngày vui của Thầy với sự chứng kiến của lãnh đạo địa phương.

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là nho-thay-uy-ngo-lai-viet-nam.jpg

Đường tới IAS 100 năm (1025-2025) chúng tôi biết ơn những gương sáng tri thức và tấm lòng của những thầy bạn lớn nhà nông từ nhiều nơi khác nhau đã đến chung sức với Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam làm nên những thành tựu quý giá cho sản xuất nông nghiệp. Giáo sư Trần Hồng Uy là một người thân thiết trong số đó. Hình ảnh giáo sư Trần Hồng Uy trở về thăm và tặng quà Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc, với sự chứng kiến của lãnh đạo địa phương nhân dịp Thầy được tặng danh hiệu anh hùng lao động, thao thức trong lòng tôi.

Giáo sư Trần Hồng Uy với Trung tâm Hưng Lộc có nhiều chi tiết đời thường thật cảm động. Thầy lột đồng hồ đeo tay trao tặng cho anh Tiến lái xe của Trung tâm Hưng Lộc để biết ơn những ngày vất vả đã cùng thầy lội ruộng (Chiếc đồng hồ này thầy vẫn thường đeo, và có mặt trong tấm ảnh này), Thầy nhiều lần xuống thăm nhà riêng bạn cũ là Nguyễn Khang và gia đình chúng tôi, những đàn em mà ông quý. Ông Nguyễn Khang trước là cán bộ lái máy gieo trồng chăm sóc thu hoạch ngô rất giỏi của Trung tâm Nghiên cứu Ngô Sông Bôi của Thầy sau này là phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc; Thầy ngủ tại nhà khách đơn sơ của Viện nhiều lần đi điểm mà khi ít ngủ khách sạn Thầy chơi thân với anh Vực, anh Định, chị Rịnh, cùng nhiều anh chị em làm ngô ở Hưng Lộc và Viện, rất hòa đồng với anh em bảo vệ lái xe và nhân viên hành chính trực phòng, dọn vệ sinh. Chúng tôi ở Hưng Lộc biết ơn thầy Uy khi thầy đã chia sẻ phần kinh phí ít ỏi của đề tài cây màu mà thầy làm chủ nhiệm để khoai sắn những khi khó khăn được nương bóng thầy vui đồng hành đồng tác giả “Chọn tạo và phát triển giống sắn KM98-1”. Thầy tham gia phần lớn các hội thảo quốc tế, quốc gia về cây có củ. Tôi nhớ như in cái xiết tay cảm thông và những lời an ủi động viên của Thầy khi giống sắn KM98-5, KM140 đã có quyết định rồi của tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai công nhận sản xuất thử và cho phép sản xuất đại trà trong tỉnh nhưng lại chậm được thủ tục công nhận khác. Cây khoai lang cũng vậy, thầy Uy, thầy Quyền, thầy Tình, thầy Minh, thầy Bửu,… đều khuyến khích chúng tôi nghiên cứu chọn giống đừng buông bỏ trước khó khăn, trong khi việc đúc kết của Viện đôi khi lại xuýt quên khoai (!). Nhờ những nổ lực và góc nhìn bao dung, những lời khuyên ấm áp chân thành của những bạn thầy mà chúng ta có được những giống khoai lang ngon Hoàng Long, HL4, Chiêm Dâu, Khoai Gạo , khoai Bí Đá Lạt, HL518 Nhật đỏ, HL491 Nhật tím . Tôi thật tâm đắc với bài thơ “Chung sứctrên đường xuân” “Ngô khoai chẳng phụ dày công Viện” Nguyên văn bài thơ dưới đây có bóng dáng nhiều người thầy ngô Việt Nam, mà nổi bật là thầy Uy và thầy Tình.

Cựu Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn là nhà quản lý hàng đầu trong ngành nông nghiệp. sinh thời rất quan tâm cây ngô và có những chuyến thăm đồng với giáo sư Trần Hồng Uy. Những người thầy ngô lai Việt Nam lĩnh vực chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp cây ngô, nghiên cứu khoa học kỹ thuật cây ngô, đào tạo đội ngũ chuyên sâu cây ngô, tiêu biểu nhất nửa thế kỷ qua là giáo sư Trần Hồng Uy, giáo sư Ngô Hữu Tình, giáo sư Trần Văn Minh, phó giáo sư Trương Đích, . Đó là ba chuyên gia ngô lai Việt Nam hàng đầu, các thầy bạn nhà nông thật thân thiết. Giáo sư Trần Hồng Uy là cánh chim đầu đàn trong số đó.

Ngô Việt Nam là cây lương thực quan trọng thứ hai sau lúa, có diện tích canh tác hàng năm hiện đạt khoảng 1,15 triệu ha, năng suất bình quân 4,55 tấn/ha, sản lượng 5,24 triệu tấn (Tổng cục Thống kê 2017). Sản phẩm ngô Việt Nam chủ yếu dùng cho chăn nuôi, nay dùng làm thực phẩm cho người hơn 5%. Cuộc cách mạng về giống ngô lai Việt Nam đã góp phần tăng nhanh diện tích, năng suất và sản lượng ngô trong toàn quốc, đưa nước ta đứng vào hàng ngũ những nước trồng ngô lai tiên tiến của vùng châu Á. So với năm 1985 trước đổi mới, ngô Việt Nam lúc ấy có diện tích 397 ngàn ha, năng suất bình quân 1,47 tấn/ha, sản lượng 0,37 triệu tấn thì đến nay ngô Việt Nam ngày nay đã đạt một bước tiến vượt bậc gấp 3 lần về năng suất và 14 lần về sản lượng. Mặc dù, sản lượng ngô hiện nay vẫn chưa đủ cung cấp cho ngành chăn nuôi của cả nước, Việt Nam mỗi năm vẫn phải nhập khoảng 1,60 – 2,00 triệu tấn ngô hạt để làm thức ăn chăn nuôi, nhưng Việt Nam đã cùng Thái Lan và Trung Quốc nằm tốp đầu những quốc gia trồng ngô tiên tiến ở châu Á. Trong thành tựu ấy, có công đóng góp hiệu quả của giáo sư Trần Hồng Uy ở chặng đường đầu.

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là la-duc-vuc-ngo-huu-tinh.jpg

Giáo sư Trần Hồng Uy, giáo sư Ngô Hữu Tình (ảnh), giáo sư Trần Văn Minh, PGS.TS Trương Đích, TS Lê Quý Kha là những gương sáng tiêu biểu về cây ngô Việt Nam mà tôi từng biết, Chúng ta kính trọng những người Thầy thực sự là con người của thực tiễn, của hành động, thật sâu sát thực tiễn, nâng đỡ và đánh giá cao những kết quả tốt nổi bật phục vụ sản xuất..

Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Trần Hồng Uy nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu ngô Việt Nam Thầy được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học Công nghệ trong lĩnh vực Nông nghiệp vào năm 2000 với công trình nghiên cứu tạo giống ngô lai ở Việt Nam. GS.TSKH Trần Hồng Uy sinh ngày 2/2/1938 tại thôn Hương Gián, xã Thái Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Thủa thiếu thời GS đã có những hoài bão phục vụ nông nghiệp nước nhà…Lớn lên thầy dành trọn đời mình cho sự nghiên cứu bảo tồn và phát triển cây ngô Việt Nam với thành tựu nổi bật là Ngô lai Việt Nam, Ngô đông Việt Nam, Ngô chất lượng cao. TS. Bùi Mạnh Cường Viện trưởng Viện Nghiên cứu Ngô với bài viết “GS.TSKH Trần Hồng Uy cây đại thụ của ngành ngô Việt Nam” trên báo Nông nghiệp Việt Nam đã đúc kết các bài học kinh nghiệm sâu lắng: ”Ngoài truyền bá kiến thức mới cho người dân, gần gũi với nông dân, giải quyết những vấn đề mới phát sinh trong sản xuất ngô, GS Trần Hồng Uy còn đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cao, uyên thâm về kiến thức chọn tạo, đó là các tiến sỹ, thạc sỹ, công nhân kỹ thuật đủ sức gánh vác nhiệm vụ nặng nề của Viện trong những năm vừa qua. Nhiều học trò của Thầy đã trưởng thành, giữ các trọng trách cao của Viện, các Sở, Ban ngành của các địa phương. Trong cuộc sống thầy sống giản dị, chân thành, giàu lòng nhân ái, thường xuyên truyền đạt những kiến thức mới, bác học, với phương châm phải lấy thực tiễn là thước đo để đánh giá hiệu quả trong công tác nghiên cứu khoa học, phương châm ấy đã trở thành qui luật bất biến của Viện. Nhưng điều lớn lao hơn mà giáo sư đã để lại cho hậu thế là một kho kiến thức về cuộc sống, tác phong sinh hoạt, tư duy khoa học, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”.

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là gsngohuutinh-va-ngo-lai.jpg
Giáo sư Ngô Hữu Tình đánh giá phản biện giống ngô tốt VN112 của Trung tâm Hưng Lộc chọn tạo.

Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc với công trình nghiên cứu chọn tạo giống ngô lai VN25-99, VN112 và mô hình trồng ngô lai xen đậu xanh, đậu nành, lạc, đầu rồng với sắn, phù hợp vụ trồng và điều kiện sinh thái, đã đồng hành với các giống ngô lai xuất sắc của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam vang bóng một thời. Viện IAS chúng ta có sự chung sức của giáo sư Trần Hồng Uy, giáo sư Ngô Hữu Tình cùng nghiên cứu đánh giá giống ngô và các mô hình hệ thống canh tác ngô. Sự hợp tác bền bỉ bao năm đã lưu lại ấn tượng sâu sắc trong lòng chúng tôi mãi không bao giờ quên. xem tiếp Chuyện thầy Trần Hồng Uy

CHUNG SỨC TRÊN ĐƯỜNG XUÂN
Hoàng Kim

1

Thầy bạn nhà nông mến dặm đường
Tình yêu cuộc sống đức lưu hương
Trình, Đào thanh thản nương thời vận
, Nguyễn thung dung nhẹ đoạn trường
Lúa sắn ngô khoai yêu khoa học
Mai lan cúc trúc thú văn chương
Tâm bình minh triết thành công quả
An vui trí sáng đức muôn phương.

2

Chung sức bao năm một chặng đường
Cuộc đời nhìn lại phúc lưu hương
Ngô khoai chẳng phụ dày công Viện
Lúa sắn chuyên tâm mến nghĩa Trường
Dạy học tinh hoa giàu trí tuệ
Chuyển giao chuyên nghiệp khiếu văn chương
Người chọn vãng sanh vui một cõi
Ai theo cực lạc đức muôn phương

xem tiếp Chung sức trên đường xuân

Soi mình trong gương không bằng soi mình trong lòng người.

Năm tháng đi qua chỉ tình yêu ở lại.

TS Lê Quý Kha (thứ hai phải qua) và nghiên cứu sinh với quý thầy cô Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam , Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ chí Minh

CHUYỆN THẦY LÊ QUÝ KHA
Hoàng Kim

Tiến sĩ Lê Quý Kha là cựu Phó Viện Trưởng Viện Khoa học Kỷ thuật Nông nghiệp Miền Nam, chuyên gia ngô, thầy và bạn nhà nông, người có nhiều đóng góp tốt cho nghề trồng ngô Việt Nam. Thông tin dưới đây là giới thiệu sách và tư vấn học tập

Ngô Việt Nam là cây lương thực quan trọng thứ hai sau lúa, có diện tích canh tác hàng năm hiện đạt khoảng 1,15 triệu ha, năng suất bình quân 4,55 tấn/ha, sản lượng 5,24 triệu tấn (Tổng cục Thống kê 2017). Sản phẩm ngô Việt Nam chủ yếu dùng cho chăn nuôi, nay dùng làm thực phẩm cho người hơn 5%. Cuộc cách mạng về giống ngô lai Việt Nam đã góp phần tăng nhanh diện tích, năng suất và sản lượng ngô trong toàn quốc, đưa nước ta đứng vào hàng ngũ những nước trồng ngô lai tiên tiến của vùng châu Á. So với năm 1985 trước đổi mới, ngô Việt Nam lúc ấy có diện tích 397 ngàn ha, năng suất bình quân 1,47 tấn/ha, sản lượng 0,37 triệu tấn thì đến nay ngô Việt Nam đã đạt một bước tiến vượt bậc, gấp 3 lần về năng suất và 14 lần về sản lượng. Mặc dù vậy, sản lượng ngô hiện nay vẫn chưa đủ cung cấp cho ngành chăn nuôi của cả nước, Việt Nam mỗi năm vẫn phải nhập khoảng 1,60 – 2,00 triệu tấn ngô hạt để làm thức ăn chăn nuôi, nhưng Việt Nam đã cùng Thái Lan và Trung Quốc nằm tốp đầu trồng ngô tiên tiến của châu Á. Trong thành tựu ấy, có công đóng góp hiệu quả của giáo sư Trần Hồng Uy, giáo sư Ngô Hữu Tình, giáo sư Trần Văn Minh, tiến sĩ Phạm Đồng Quảng, phó giáo sư Trương Đích, tiến sĩ Mai Xuân Triệu, tiến sĩ Bùi Mạnh Cường, tiến sĩ Phan Xuân Hào,Tiến sĩ Lê Quý Kha Tiến sĩ Lê Quý Tường, thầy Luyện Hữu Chỉ, thầy Võ Đình Long, thầy Đỗ Hữu Quốc, tiến sĩ Trần Kim Định, tiến sĩ Trần Thị Dạ Thảo, tiến sĩ Nguyễn Phương, kỹ sư Phạm Thị Rịnh, kỹ sư La Đức Vực, kỹ sư Phạm Văn Ngọc … là những chuyên gia chính của nghề ngô Việt Nam nhiều kinh nghiệm thực tiển với nhiều công sức đào tạo bồi dưỡng đội ngũ hiệu quả cho nguồn lực nghề trồng ngô Việt Nam trong chặng đường đầu 45 năm qua.,

Trang sách ngô Việt của tiến sĩ Lê Quý Kha là những cẩm nang nghề nghiệp, tiêu biểu gồm: 1) TS Lê Quý Kha, TS Lê Quý Tường 2019. NGÔ SINH KHỐI Kỹ thuật canh tác, thu hoạch và chế biến phục vụ chăn nuôi. Nhà Xuất bản Nông nghiệp ISBN 978-606-60- 2930-4 2) CIMMYT & IBPGR – Rome, 1991 Biên dịch Lê Quý Kha 2013. Hướng dẫn mô tả nguyên liệu ngô. Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. 3) Lê Quý Kha (Chủ biên) 2013. Hướng dẫn khảo sát, so sánh và khảo nghiệm giống ngô lai. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật . Sách cẩm nang nghề nghiệp cây Ngô. Tài liệu Học tập CÂY LƯƠNG THỰC Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh Nhà sách Việt Nam, FoodCrops.vn, CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM, Hoàng Long , Hoàng Kim tuyển chọn và giới thiệu www.nhasachvietnam.blogspot.com

TS. Lê Quý Kha (bìa trái) với thầy bạn Đại học Nông Lâm Hồ Chí Minh

CÓ MỘT NGÀY NHƯ THẾ
Hoàng Kim

chúc mừng Lê Quý Kha

Có một ngày như thế.
Vui em nay thành công.
Nụ cười tươi rạng rỡ.
Ngày mỗi ngày trưởng thành.

Phúc hậu và thực việc
Tận tụy với nghề nông
Thân thiết tình thầy bạn
Chăm chút từng trang văn.


xem tiếp Chuyện thầy Lê Quý Kha và chuyên mục Dấu xưa thầy bạn quý

VIỆN IAS TRONG LÒNG TÔI
Một số hình ảnh lư liệu cá nhân

GS Trần Thế Thông nay đã qua tuổi 93, trò chuyện về Viện

GS Trần Thế Thông, GS Vũ Công Hậu làm việc cùng chuyên gia Viện Vavilop Liên Xô.

GS.Vũ Công Hậu và chuyên gia Liên Xô chương trình thu thập bảo tồn tài nguyên cây trồng.

Mô hình trồng xen lạc, đậu xanh, đậu nành, đậu rồng với ngô lai, sắn có hiệu quả cao ở vùng Đông Nam Bộ và Duyên hải miền Trung. TS. Hoàng Kim đang báo cáo kết quả nghiên cứu và phát triển mô hình trồng xen ngô đậu với bộ trưởng Nguyễn Ngọc Trìu.

GS Mai Văn Quyền hướng dẫn chuyên gia IRRI và chuyên gia Viện Lúa ĐBSCL thăm mô hình trồng xen ngô đậu trong hệ thống cây trồng vùng Đông Nam Bộ.

Những người bạn Sắn Việt Nam với Những người bạn lớn của nông dân trồng sắn châu Á

 Viện trưởng GS. Phạm Văn Biên với chuyên gia CIAT và các lãnh đạo Mạng lưới Sắn châu Á, châu Mỹ La tinh tại Hội thảo Sắn châu Á tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh năm 2000

Viện trưởng GS. Phạm Văn Biên hướng dẫn Bộ trưởng Lê Huy Ngọ thăm các giống điều ghép PN1 và các giống điều mới chọn tạo tại Trung tâm Hưng Lộc, Đồng Nai

Viện Trưởng GS. Bùi Chí Bửu hướng dẫn Tổng Giám đốc CIAT thăm các giống sắn mới.

Quyền Viện Trưởng TS. Ngô Quang Vình cùng các chuyên gia CIAT đánh giá các giống sắn mới (KM419 bên phải và KM140 bên trái)

Viện trưởng TS. Trần Thanh Hùng (giữa) nhận hoa chúc mừng của các đồng nghiệp.

CNM365 THÁNG NĂM NHÌN LẠI
https://cnm365.wordpress.com
Run away with me

NGÔI SAO MAY MẮN CHÂN TRỜI
Hoàng Kim

Em đọc lại Nhà Giả Kim em nhé
Bài ca thời gian câu chuyện cuộc đời
Một giấc mơ Người đi tìm kho báu
Theo ước mơ mình tới chốn xa xôi …

Bậc tiên tri biết nhìn sâu khát vọng
Khuyến khích em theo mơ ước tuổi hoa
Đi tới cuối con đường hạnh phúc
Hãy là chính mình, ta chính là ta.

Em thấu hiểu có ngôi sao may mắn
Luôn bên em lấp lánh phía chân trời
Nơi bảng lãng thơ tình Hồ núi Cốc
Giấc mơ đưa ta về cổ tích xa xôi  …

Lên đường đi em
Bình minh đã rạng
Vui bước tới thảnh thơi
Vui đi dưới mặt trời!

Ta hãy chăm như con ong làm mật
Cuộc đời này là hương hoa.
Ngày mới yêu thương vẫy gọi,
Ngọc cho đời vui khỏe cho ta.

Hoàng Kim

MỘT SỰ NGHIỆP LỚN VÀ CẤP THIẾT
Nguyên Ngọc


Kỷ niệm ngày mất của cụ Phan Châu Trinh, trân trọng giới thiệu bài phát biểu của nhà văn Nguyên Ngọc tại lễ ra mắt Quĩ Dịch thuật Phan Chu Trinh thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam – ngày 9/1/2007 tại Hà Nội. Bài đã đăng trên HỌC MỖI NGÀY http://hocmoingay.blogspot.com/

Tôi xin cảm ơn ban tổ chức đã dành cho tôi vinh dự được nói vài lời trong buổi gặp gỡ trang trọng này, buổi gặp gỡ, tôi tin vậy, mở đầu cho một công việc rồi về sau hẳn sẽ được ghi nhớ như một cái mốc quan trọng trong đời sống văn hóa của chúng ta.

Tôi muốn mở đầu bằng một câu chuyện và mấy con số. Đó là chuyện cuốn Bàn về tự do của John Stuart Mill, từ lâu đã được coi là kinh điển không chỉ ở châu Âu mà trên toàn thế giới. Cuốn sách này được xuất bản lần đầu ở Anh năm 1859. Không đầy 10 năm sau, năm 1868, nó đã được dịch ở Nhật Bản, số phát hành lên đến 2 triệu bản, trong khi dân số Nhật lúc bấy giờ chỉ 36 triệu người. Có thể nói chắc chắn điều này gắn liền sâu sắc với công cuộc duy tân nổi tiếng của Nhật cách đây mấy thế kỉ, cuộc lựa chọn vĩ đại đã đưa nước Nhật vào một con đường và đến một số phận khác hẳn các nước châu Á bấy giờ hầu như đều ở trong hoàn cảnh và đứng trước những thách thức sống còn tương tự. Nước Nhật ngày nay cũng đang đứng đầu thế giới về số người đọc và về số sách dịch. Tôi nghĩ sẽ không quá đáng khi nói rằng tình hình đặc biệt đó không phải không có liên quan gì đến điều mà ta vẫn gọi là “sự thần kì Nhật Bản”. Có lẽ cũng nên biết rằng hầu hết các thuật ngữ về xã hội học, triết học, chính trị học, và nhiều khoa học khác đang được sử dụng ngày nay ở ta chính là xuất phát trước tiên từ Nhật, chính người Nhật là những người đầu tiên đã sáng tạo ra các thuật ngữ ấy để dịch các khái niệm du nhập từ phương Tây trong quá trình duy tân và hiện đại hoá của họ, các thuật ngữ này sau đó được các nhà cách mạng Trung Hoa đưa vào tiếng Trung, rồi mới chuyển sang Việt Nam. Và như ai cũng hiểu, một khái niệm mới chỉ có thể hình thành, định hình trong một xã hội, trong đời sống một dân tộc khi trong ngôn ngữ của xã hội và dân tộc đó đã chính thức xuất hiện những thuật diễn đạt những khái niệm ấy. Chính những khái niệm mới được định hình tạo ra những chuyển động xã hội, thậm chí những cuộc cách mạng xã hội rộng lớn, quyết định số phận các dân tộc.

Một ví dụ Nhật Bản thôi hẳn cũng đã khá đủ để cho ta thấy vai trò của dịch thuật trong đời sống và phát triển của các dân tộc. Đúng ra đấy là một quy luật phổ biến: một dân tộc, một đất nước chỉ có thể phát triển – thậm chí tồn tại mà không bị mỏi mòn, mai một – qua việc trao đổi liên tục với những nền văn hóa khác mình, trong đó dịch – “dịch” bằng cách này hay cách khác – là một phương tiện quan trọng nhất; và những biến đổi quan trọng nhất của đời sống một dân tộc thường gắn với những công cuộc tiếp nhận những ảnh hưởng văn hóa bên ngoài, càng xa và mới lạ thì tác động càng mạnh và càng quyết định, và cũng thường chủ yếu thông qua dịch thuật.

Ngay lịch sử ta cũng từng chứng minh khá rõ điều này: tiếp nhận văn hóa Phật giáo Ấn Độ thông qua dịch kinh Phật rất sớm ngay từ vài thế kỉ trước Công nguyên, tạo nên một nền văn hóa Việt rất độc đáo kết hợp văn hóa bản địa với văn hóa Phật giáo, đủ sức chống lại đồng hoá một nghìn năm của văn hóa xâm lược phương bắc; tiếp nhận văn hóa Trung Hoa Nho giáo bằng một lối “dịch” rất đặc biệt, qua một ngôn ngữ Hán Việt, viết Hán đọc Việt, cũng tạo sức mạnh văn hóa đủ để tồn tại một nghìn năm tiếp theo độc lập bên cạnh một đế quốc khổng lồ, và hơn thế nữa còn nhân đôi lãnh thổ về phương Nam; tiếp nhận văn hóa phương Tây, trước tiên bằng đọc trực tiếp, rồi bằng dịch, để tạo nên xã hội Việt Nam, văn hóa và văn học Việt Nam hiện đại …

Tuy nhiên cũng phải nói rằng, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, trong thời kì cận đại và hiện đại, việc tiếp cận và dịch thuật những tri thức tinh hoa của nhân loại ở ta khá chậm trễ và phiến diện. Các tác phẩm văn học thế giới được giới thiệu và dịch khá hơn, nhưng cũng chưa thật có hệ thống; đặc biệt từ khi có tác động của kinh tế thị trường thì vừa có mặt phong phú, đa dạng hơn, lại vừa có mặt hỗn độn hơn, chất lượng dịch nhiều khi rất kém. Còn những tác phẩm tinh hoa thuộc các ngành khoa học xã hội và nhân văn thì rất vắng bóng. Trước Cách mạng Tháng Tám, có thể nói ở Việt Nam hoàn toàn không có một tác phẩm triết học quan trọng nào của phương Tây được dịch ra tiếng Việt. Sau năm 1945, đặc biệt sau năm 1954, một số tác phẩm triết học đã được dịch khá công phu, nhưng cũng chỉ tập trung trong hệ tư tưởng Mác-Lênin. Có thể nói, không hề quá đáng, chúng ta hầu như bị đứt mất hàng trăm năm với tinh hoa của tri thức toàn diện của nhân loại. Chỉ một ví dụ này thôi cũng đã quá hùng hồn: Cuốn sách kinh điển “Bàn về tự do” của John Stuart Mill vừa nói đến trên kia mãi đến năm 2004 mới được dịch lần đầu tiên ở ta, và cũng chỉ in lèo tèo có một 1.000 bản, tức chậm hơn Nhật một thế kỉ rưởi và số lượng in thì ít hơn họ 2.000 lần! Có phải chỉ qua một điều này thôi đã có thể cắt nghĩa được sự chậm trễ hàng trăm năm của ta so với cái đất nước cách đây nghiệp phục hưng dân tộc. Tôi muốn đề nghị trong buổi họp mặt hôm nay, ít nhất và trước hết vài thế kỉ hoàn cảnh cũng chẳng hơn gì ta, và ngày nay ta thật sự chẳng biết đến bao giờ mới đuổi theo cho kịp. Quả thật cho đến hôm nay, ta vẫn còn là một ốc đảo cách biệt rất xa với đại dương mênh mông của tri thức nhân loại, cả cổ điển lẫn đương đại, đó là điều không thể và cũng không nên cố tìm cách chối cãi.

Cho nên sẽ hoàn toàn không đầy đủ, sẽ là phiến diện và thậm chí nguy hiểm, nếu trong chiến lược phát triển trước mắt và lâu dài của đất nước không thật sự có kế hoạch toàn diện, nghiêm túc, có hệ thống, và cả bức bách nữa, dịch thuật tinh hoa tri thức thế giới như một trong những chiến lược then chốt của phát triển, hoặc cũng có thể nói cách khác, trong sự trong những người tâm huyết chúng ta, thống nhất với nhau về nhận thức ấy, để rồi từ đó mới bàn đến những kế hoạch, những công việc cụ thể, và cũng từ đây loan nhận thức này ra toàn xã hội. Dự án Tủ sách tinh hoa tri thức thế giới, với Nhà xuất bản Tri Thức làm trung tâm đầu tiên, chỉ có thể thành công nếu chúng ta thật sự nhận ra tình hình nghiêm trọng này, và từ đó thống với nhau nhận thức này.

Cách đây hơn một thế kỉ có một người Việt Nam đã giật mình hiểu ra tình hình này, nhận ra sự lạc hậu chết người của xã hội ta về văn hóa và tri thức giữa một thế giới đang biến động dữ dội, đang “toàn cầu hoá” như cách nói của chúng ta ngày nay, cuộc toàn cầu hoá lần thứ nhất; và biết rằng Việt Nam chỉ có thể sống còn nếu quyết mạnh dạn hoà nhập cùng toàn thế giới, ra sức học thế giới. Người đó là Phan Châu Trinh, người Việt Nam sáng suốt nhất trong thời của ông. Về sau Huỳnh thúc Kháng có một đánh giá thoạt nghe có thể rất lạ về Phan Châu Trinh, ông gọi Phan Châu Trinh là “nhà cách mạng đầu tiên của Việt Nam”. Nhà cách mạng là người không chỉ chống ngoại xâm, mà là người muốn làm thay đổi xã hội, thay đổi một cách căn bản. Phan Châu Trinh chủ trương muốn cứu nước ra khỏi tình trang nô lệ thảm khốc thì phải làm thay đổi xã hội, khắc phục sự lạc hậu về văn hóa xã hội của đất nước, rút ngắn khoảng cách chết người giữa chúng ta với thế giới đang chuyển động như vũ bão. Và khẩu hiệu của ông ngắn gọn, súc tích, quyết đoán: “Chi bằng học!”. Chiến lược hàng đầu của ông là khai dân trí, tức khai hoá dân tộc, khai hoá cho dân tộc đang chìm đắm trong vòng u tối. Phan Châu Trinh đã tìm sang Nhật, và kết luận của ông sau chuyến khảo sát tận nơi ấy rất rõ ràng. Ông nói, đau đớn: “Xem dân trí nước Nhật rồi đem dân trí ta so sánh thật không khác gì đem con gà đọ với con chim cắt già… Trình độ quốc dân Nhật như thế, trình độ quốc dân ta như thế, không nô lệ làm sao được”. Trở về, ông phát động phong trào Duy Tân nổi tiếng. Hoàng Xuân Hãn đánh giá phong trào đó như sau: “Phan Châu Trinh đã chủ trương một cuộc cách mạng tân văn hóa”… Tiếc thay, vì những éo le của lịch sử, sự nghiệp tâm huyết và sáng suốt của Phan Châu Trinh đã phải dở dang. Độc lập dân tộc đã được dành lại bằng mấy cuộc chiến tranh khốc liệt và anh hùng. Song, như một nhà sử học đã nói, những nan đề do Phan Châu Trinh đã nhận thức và nêu ra cho đất nước, về nhiều mặt, vẫn còn nguyên đấy. Công cuộc khai hoá bị chậm trễ vì những uẩn khúc của lịch sử nhất định phải được tiếp tục, một cách ráo riết, cơ bản, có hệ thống. Phải đưa xã hội, dân tộc ta hoà nhập được với nền tảng tri thức cả cơ bản lẫn cập nhật của nhân loại. Đây phải là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả những người tâm huyết với sự phát triển của dân tộc. Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà quĩ dịch thuật như là một công cụ hữu hiệu để góp phần thực hiện sự nghiệp này mang tên là Quỹ dịch thuật Phan Châu Trinh. Và cũng thật đẹp khi đứng đầu Quĩ này là nguyên phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, người cháu ngoại yêu quí của cụ.

Công việc ắt sẽ rất nhiều và rất nặng nề. Cần có kế hoạch tổng thể có tầm nhìn xa và lớn, đồng thời thiết thực từng bước. Cần huy động được tối đa trí tuệ, tài năng của nhiều người từng trải, đồng thời lại cần có chương trình đào tạo lực lượng dịch mạnh cho tương lai.

Hoàn cảnh mới của đất nước đang tạo cho chúng ta những điều kiện tốt hơn bao giờ hết để tiếp nối khai sáng cuộc được Phan Châu Trinh bắt đầu từ một 100 năm trước. Và cũng chính hoàn cảnh ấy, với quyết đoán của đất nước chủ động mạnh mẽ đi vào trào lưu toàn cầu hoá, buộc chúng ta phải quyết tâm thực hiện cho kì được sự nghiệp này. Chúng ta đã chậm trễ mất hàng trăm năm, quyết không thể chần chừ nữa. Mong cuộc gặp hôm nay, khiêm tốn, song sẽ là sự bắt đầu, bắt đầu lại con đường khai sáng rất đáng để tất cả chúng ta dồn hết tâm huyết và trí tuệ.

Tinh Hoa 24H 26 Tháng 2 lúc 21:10 (H) Điều gì xảy ra khi Nga giành chiến thắng? Thế giới rung chuyển ra sao khi Ông Trump đắc cử tổng thống 2024? https://www.facebook.com/watch/?v=652302959414942

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365 bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Bài ca nhịp thời gian https://youtu.be/_Bs4XcVufqY

Vuonxuan

Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
KimYouTube

KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Advertisement