
#CNM365 #CLTVN 4 THÁNG 11
Hoàng Long và Hoàng Kim
CNM365 Tình yêu cuộc sống Việt Nam tổ quốc tôi; Du lịch sinh thái Việt; Hà Nội mãi trong tim; Chùa Một Cột Hà Nội; Vào Tràng An Bái Đính; Thăm Hoa Lư Cúc Phương; Nguyên Ngọc về Tây Nguyên; Nguồn Son nối Phong Nha; #hoangkimlong, #Banmai; #Thungdung, #dayvahoc, #cltvn; #vietnamhoc; Việt Nam tâm thế mới; Việt Nam con đường xanh; Ban mai chợt tỉnh thức; Ngày mới Ngọc cho đời; Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Long cây lương thực; Cây Lương Thực Food Crops; Mái trường bên dòng Gianh; Đến với bài thơ hay; Kho báu đỉnh Tuyết Sơn; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Nguyễn Du tâm hồn Việt; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Ta về trời đất Hồng Lam; Những cuốn sách tôi yêu; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Đến với Tây Nguyên mới; Nguyễn Du làm Ngư Tiều; Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng; Nhớ thầy Nguyễn Quốc Toàn; Dạy học nghề làm vườn; Hãy để tôi đọc lại; Việt Nam có diện tích 331.698 km², bao gồm khoảng 327.480 km² đất liền và hơn 4.500 km² biển nội thủy, với hơn 2.800 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, bao gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được Chính phủ Việt Nam xác định gần gấp ba lần diện tích đất liền khoảng trên 1 triệu km²; Ngày 4 tháng 11 năm 2002, Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông được ký kết giữa Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN tại Phnom Penh. Ngày 4 tháng 11 năm 2008, Barack Obama giành thắng lợi trong kỳ Bầu cử tổng thống, trở thành người Mỹ gốc Phi đầu tiên thắng cử chức vụ này; Ngày 4 tháng 11 năm 2020 Bầu cử tổng thống Mỹ; Bài viết chọn lọc ngày 4 tháng 11 Việt Nam tổ quốc tôi; Du lịch sinh thái Việt; Hà Nội mãi trong tim; Chùa Một Cột Hà Nội; Vào Tràng An Bái Đính; Thăm Hoa Lư Cúc Phương;; Nguyên Ngọc về Tây Nguyên; Nguồn Son nối Phong Nha; #hoangkimlong, #Banmai; #Thungdung, #dayvahoc, #cltvn; #vietnamhoc; Việt Nam tâm thế mới; Việt Nam con đường xanh; Ban mai chợt tỉnh thức; Ngày mới Ngọc cho đời; Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Long cây lương thực; Cây ương Thực Food Crops; Mái trường bên dòng Gianh; Đến với bài thơ hay; Chùa Một Cột Hà Nội; Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Nguyễn Du tâm hồn Việt; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Ta về trời đất Hồng Lam; Những cuốn sách tôi yêu; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Đến với Tây Nguyên mới; Nguyễn Du làm Ngư Tiều; Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng; Nhớ thầy Nguyễn Quốc Toàn; Dạy học nghề làm vườn; Hãy để tôi đọc lại; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-4-thang-11/ và https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-4-thang-11/

VÀO TRÀNG AN BÁI ĐÍNH
Dạo chơi non nước Việt
Hoàng Kim và Hoàng Long
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vao-trang-an-bai-dinh
#vietnamhoc; #cltvn; #cnm365; #Thungdung; #đẹpvàhay

“Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”.
(ca dao cổ Việt Nam)
Cao Sơn thăm chốn cũ
Tràng An bao đổi thay
Minh Không thầy hái thuốc
Lững lờ mây trắng bay.
Trước khi lên Yên Tử
Vua Trần vào ở đây
Động thiêng trong núi thắm
Hạ Long cạn nơi này.
Hoa Lư, Tứ giác nước
Kẽm Trống, Dục Thúy Sơn,
“Quá Thần Phù hải khẩu”
Nhớ Nguyễn Trãi Ức Trai.
Đinh, Lê vùng khởi nghiệp
Lý, Trần, Nguyễn …vươn dài
Kỳ Lân trời bảng lãng
Hoàng Long sông chảy hoài …

Du lịch sinh thái Việt
THĂM HOA LƯ CÚC PHƯƠNG
Hoàng Kim
Du lịch sinh thái Việt
Hà Nội mãi trong tim
Hồ Ba Bể Bắc Kạn
Bản Giốc và Ka Long
Về Việt Bắc nhớ Người
Dấu xưa thầy bạn quý
Người vịn trời chấp sói
Thăm thẳm trời sông Thương
Vào Tràng An Bái Đính
Thăm Hoa Lư Cúc Phương
Vườn Quốc gia Việt Nam
Món ngon ở Ninh Bình
Chén rượu mừng gặp mặt
#Thungdung vui bạn hiền
xem tiếp Vào Tràng An Bái Đính tài liệu và hình ảnh tuyển chọn của năm 2011 tại https://hoangkimvietnam.wordpress.com/tag/vao-trang-an-bai-dinh/ Hình ảnh mới nhất năm 2022 tại đây




Đinh Văn Lữ hát rằng:
“Tràng An đón bạn bao nỗi nhớ
Hẹn ngày hội ngộ chốn Hoa Lư
Thung Nham vẫy gọi mời bạn hữu
Đàn chim Việt vui đón bạn hiền.
Cúc Phương Bái Đính ngàn năm đợi
Mừng bạn về thăm phát tích xưa
Bờ cõi đất Nam muôn đời thịnh
“Đại Cồ hương quốc vạn đại xuân
Hoa Lư chốn tổ nôi trồng lúa
Thịt dê cơm cháy cùng bạn quý
Ta bạn chia vui vạn nẻo đường
Tràng An Bái Đính thiên vạn cổ
Di sản thiên nhiên mãi trường tồn
Bồ đào rượu ngọt chén lưu ly
Ôm ghì kỷ niệm mãi nhâm nhi
Ra về xin hẹn luôn lui tới
Mong cho sức khỏe mãi xuân thì”

Cụ Quang Hoạch tiếp lời
LÀM SAO PHẢI XOẮN
Các bạn hưu gặp nhau
Không việc gì phải xoắn
Ra biển – Thì cứ lặn
Lên rừng – Thì cứ leo
Thích cao – Thì cứ trèo
Thích thấp – Thì cứ ngụp
Răng yếu – Thì ăn súp
Răng khoẻ – Thì nhai xương
Còn sức – Chơi bốn phương
Yếu mệt – Thì nằm nghỉ
Không bận tâm suy nghĩ
Danh vọng với tiền tài
Con cái – Đúng hay sai
Tự nó – Rồi sẽ hiểu
Không đợi con báo hiếu
Không buộc người trả ơn
Không thù hận căm hờn
Không chi ly tính toán
Sống vô tư, đơn giản
Giúp được ai thì làm
Không chắt bóp, tham lam
Không so bì, ích kỷ
Để cho đầu óc nghỉ
Luyện cho sức dẻo dai
Luyện giấc ngủ sâu, dài
Luyện ăn, uống ngon miệng
Vui đâu – Thì cứ đến
Cho thư thái tâm hồn
Sức khoẻ – Phải bảo tồn
Khám định kỳ- Nên nhớ
Nhỡ có bệnh – Không sợ
Tìm ra cách – Dung hoà
Trong vũ trụ – Bao la
Con người luôn nhỏ bé
Hãy sống – Cho vui vẻ
Được nhiều, ít – Tuỳ thiên
Về Giời… lẽ tự nhiên
Cũng không cần phải xoắn.
Ai rồi cũng sẽ già
Việc gì mà phải xoắn ?
Đời cũng đâu phải ngắn
Cứ vui vẻ sống thôi
Còn khoẻ mạnh cứ chơi
Quên tuổi già đi nhé
Miễn làm sao ta khỏe
Con cháu đỡ phải lo
Giờ thằng bé thằng to
Về hưu bằng nhau hết
Tiền nhiều nhưng khi chết
Có mang đi được đâu
Nên giờ có nghèo giàu
Đều là không quan trọng
Giờ chẳng ham danh vọng
Chẳng mơ chức mơ quyền
Miễn sao có ít tiền
Không phải nhờ con cháu
Gặp nhau thì tán gẫu
Còn khoẻ đi chơi xa
Yếu thì ở lại nhà
Buôn dưa và chém gió
Con cái _ kệ chúng nó
Đừng can thiệp sâu vào
Chúng bảo mình tào lao
Ôm rơm cho rặm bụng
Miễn chúng chịu làm lụng
Không gây họa được rồi
Đời chúng phải lo thôi
Mình lo sao cho đặng
Trải gừng cay muối mặn
Giờ mình sống cho mình
Mình phải đẹp phải xinh
Thảnh thơi cùng cuộc sống
Cuộc đời luôn sôi động
Kệ ! Chẳng phải nghĩ suy
Giờ chẳng thể suy bì
Ai thua và ai được
Đời vẫn đang phía trước
Chân ta tự bước thôi
Dẹp bớt đi cái tôi
Cuộc sống thêm sôi động
Ai cũng đều phải sống
Ai rồi cũng sẽ già
Cứ kệ nó đi nha
Việc gì mà phải xoắn ?
Khà khà….
QH Sưu tầm TĐK

Cụ Hoàng Kim góp vui
Về hưu cuốc đất trồng rau,
Nhàn tênh hôm sớm, giải dầu #Thungdung
Rượu bia thuốc lá chẳng màng
Chính liêm cần kiệm không phiền lụy ai
Thảnh thơi nắng sớm mưa mai
Giúp con, dạy cháu, khuyến ai cần mình
An nhàn, đức độ, công minh
Tìm lành, lánh dữ, hoàng thành HƯU TU.
Về hưu việc cứ lu bù
Kiệm cần vẫn quý từng xu, từng đồng
Làm thêm đâu phải buồn lòng
Mà quen lao động thong dong tối ngày
Người thân đùa bảo đi cày
Vì không lười được, hưu này HƯU TRÂU.
Về hưu chẳng thiết đi đâu
Nấu cơm, dạy cháu, nhặt rau, quét nhà
Giúp con, khuyến học, trông già
Kiêm luôn bảo vệ coi nhà, giữ xe
Chẳng màng điều tiếng khen chê
Vui làm HƯU CHÓ vợ thuê việc nhà
Về hưu vẫn rộng đường xa
Lưng còn lấm đất đâu là HƯU NON.
Chẳng hề lạc lối làm ăn
Cơ may thời vận khó khăn nghiệp mình
Mới hay đá nát ngọc lành
Nhân duyên tiền định trời dành phận cho.
Về hưu lẫn thẩn làm thơ
Thiên cơ nhân quả cứ ngờ rằng hay
Mã tiền khóa luận đúng sai
Đức năng thắng số vui say việc đời
Trần Đoàn thỏa chí rong chơi
Thênh thênh bạn quý ấy thời HƯU HÂM
Cuộc đời thoáng chốc trăm năm
Đồng dao người lớn tri âm thành vè:
“Ai ơi lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau” (7).
“Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời hiếu hạnh làm câu trau mình” (3):
“Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm” (1)
“Trai khôn thì được vợ chiều
Gái ngoan thì được chồng yêu suốt đời” (2).
“Nên thợ nên thầy nhờ có học
No ăn no mặc bởi hay làm” (4) .
“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lượng
Không bằng kinh sử một vài pho”(5).
“Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau. (6)
xem tiếp: https://hoangkimlong.wordpress.com/tho-vui-nhung-ngay-nhan/
Những câu thơ trích dẫn : (1) (2) (6) Ca dao người Việt cổ; (3) (7) Nguyễn Đình Chiểu: (4) Nguyễn Trãi; (5) Lê Quý Đôn
Nguồn: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vao-trang-an-bai-dinh

NGUYÊN NGỌC VỀ TÂY NGUYÊN
Hoàng Kim
Nguyên Ngọc về Tây Nguyên
‘Bạn bè tôi ở đó’
‘Tản mạn nhớ và quên’
‘Rừng Xà Nu’, ‘Đất Quảng’.
Chí bền chân không mỏi
‘Đường chúng ta đi’ hoài
‘Lắng nghe cuộc sống’ gọi
Nguyên Ngọc ngọc cho đời.
Thung dung ngày nắng mới
An nhiên ngắm mưa rơi
Cuối dòng sông là biển
Cây đời mãi xanh tươi…
Nguyên Ngọc lắng đọng tâm huyết Phan Châu Trinh. Nguyễn Quốc Toàn lời cảm nhận tuyệt vời ‘tóm tắt về nhà văn Nguyên Ngọc”. Trần Đăng Khoa trong tôi luận đàm thế sự thật đáng suy ngẫm:
LAN MAN VỚI NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC
Nguyễn Quốc Toàn (4.11.2022)
Kỳ thi tốt nghiệp cấp 2 năm 1957 thật lạ: Tất cả các môn học như văn, toán, lí, hóa, sử, địa, sinh vật… đều phải thi, và thi… hai lần! Lần thứ nhất thi viết, đỗ, mới được thi lần hai, vấn đáp. Thầy giáo đưa tui quyển “Đất nước đứng lên” của Nguyên Ngọc, hỏi, em đọc quyển này chưa. Thưa thầy em đọc rồi. Trong vòng 15 phút em tóm tắt những nét chính của tác phẩm, nào, bắt đầu. Cậu bé lớp 7 là tui run lắm, nhưng vẫn rành mạch tóm tắt quyển sách, từ lúc anh Núp phục kích bắn một mũi tên, gả lính Pháp chết . Dân Ba Na mới tin Pháp cũng chỉ là người, và theo anh Núp đánh pháp. Đánh bằng chông dưới đất đâm lên, đánh bằng chông trên trời lao xuống, đánh bằng những bẩy đá lăn từ núi cao. Hàng năm trời người Ba Na phải ăn tro tranh lợp nhà (1) thay muối…Thầy xem đồng hồ mỉm cười: “được”. Tui sướng như được bay lên mây. Nghĩ lại, cảm ơn nhà văn quá.
*
Đến ngoài tuổi “thất thập cổ lai hy” càng say mê Nguyên Ngọc hơn. Đã mấy lần đến Đắk Lắk, Gia Lai, KonTum, nhưng đọc Nguyên Ngọc mới thấy mình chưa hề biết gì về Tây Nguyên. Làm nghề khảo sát thiết kế đường bộ, rong ruỗi rừng núi Tây Bắc, nhưng đọc “Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng” và “Trở lại Mèo Vạc” của ông mới thấm thía cuộc sống khốn khó của người Mèo sống cùng đá, chết cùng đá, trên đất Hà Giang.
*
Năm 1959 Nhà Văn Nguyên Ngọc tham gia đội quân tiểu phỉ vùng Đồng Văn, Mèo Vạc. Hằng ngày ông thường đi công tác với cô Thào Mỹ chủ tịch Xã Miêu Cao. Thào Mỹ “có khuôn mặt hình trái xoan, đôi mắt nàu nâu rất ướt, sắc nhưng vẫn dịu dàng, hai hàng lông mày nhẹ phơn phớt bay lên như đôi cánh chim”. Hai người cùng tuổi 27, vậy mà xuống dốc, lên dốc, chàng trai Nguyên Ngọc phải cố lắm mới theo kịp Thào Mỹ. Một hôm, hai người lên khỏi dốc Phó Lương, Nguyên Ngọc ngỡ ngàng trước bạt ngàn hoa thuốc phiện đung đưa trước gió. Cánh hoa đủ màu trắng, xanh, tím, vàng, đỏ, trông mảnh mai, yếu ớt, nhưng lại có sức cuốn hút thật ma mị… Nguyên Ngọc bảo: “Thào Mỹ kể chuyện hoa Thuốc phiện làm tan nát đời người con gái Mèo đi (2)”
*
Chuyện củaThào Mỹ : “ Ông Vàng Mi Xử, sau khi mất mảnh ruộng độc nhất vào tay chúa đất, thì chọn đỉnh núi cao nhất để làm nhà. “Núi cao đến nỗi những ngày trời quang đãng nhất nhà ông vẫn ngập trong mây dày”. Ông sống với đứa con gái 11 tuổi, nó không có bạn bè, không được đi học. Ước ao của nó là được nhìn thấy người. Thế là bố dẫn con gái đi chợ Mèo Vạc. Ở đó cô thấy rất nhiều người, kẻ mua người bán đông đúc, nhộn nhịp. Một người đàn ông râu quai nón, chột mắt, đến gặp Vàng Mi Xử hỏi mua hàng. Bố cô đưa ra bánh thuốc phiện và nói giá mười đồng. Người chột mắt trả 7 đồng, ông không bán và dẫn con gái về. Đến một hẻm múi vắng, bỗng nhiên tên chột mắt từ một vách đá lao ra chặn đường cha con Vàng Mi Xử. Cô gái sợ quá núp vào một bụi cây. Cô chỉ nghe hai người lời qua tiếng lại và tiếng súng kíp nổ đoàng. Trong ánh chớp từ mũi súng, cô thấy bố cô – ông Vàng Mi Xử ngã vật xuống.
*
Cô gái vùng chạy qua bờ bụi, qua các mỏm đá tai mèo, chạy xuyên đêm và ngất xỉu. Một bà cụ già đưa cô gái về nuôi, đến tuổi 16 bà gã cô lấy chồng. Chồng cô là một thằng bé 7 tuổi, chiều chiều cô phải cho chồng ăn và dỗ nó ngũ. Bổng cô phát hiện ra tên chột mắt, râu quai nón, đã giết bố cô chính là bố chồng. Giữa đêm khua cô gái lại vùng chạy khỏi nhà chồng. Chạy mãi, chạy mãi, chân tóe máu, cô ngã vật trước cửa một hang đá, nơi đóng quân của bộ đội đánh Pháp. Cô được bộ đội nuôi, trở thành lính phiên dịch tiếng Mèo cho các chú người kinh…Năm 27 tuổi, cô có tên là Thào Mỹ, phó chủ tịch xã Miêu Cao, bạn chiến đấu diệt phỉ với nhà văn Nguyên Ngọc.
*
Năm 1962, nhà văn Tô Hoài đi thực tế Đồng văn Mèo vạc, và quen thân với Thào Mỹ lúc này đã là cán bộ huyện. Ông đọc được trong sổ tay công tác của Thào Mỹ một tiếng gọi buồn: “Mùa hoa thuốc phiên cuối cùng ơi”. Tô Hoài kể: “Thào Mỹ hỏi tôi về Nguyên Ngọc, tôi bảo Nguyên Ngọc đương ở chiến trường miền Nam. Thì đôi mắt xanh nâu của người con gái đẹp im lặng”. Trước đây Nguyên Ngọc cũng đã từng im lặng trong những ngày ông và Thào Mỹ rong ruỗi trên núi rừng Hà Giang. Nhưng khi tả về dáng đi của Thào Mỹ thì chàng trai dưới tuổi 30 là Nguyên Ngọc đắm đuối biết nhường nào. Trong “Trở lại Mèo Vạc”, ông viết: “Thào Mỹ càng đi càng đẹp ra. Một vẻ đẹp rất lạ, cuốn hút vô cùng, khi im lặng trầm uất như ngọn núi Mèo cô độc, khi lẳng lơ như những bông hoa thuốc phiện quyến rũ, khi phấp phới như ngọn gió trên đỉnh Sam Pun…Chúng tôi là bạn, là đồng chí, là anh em, là gì nữa…chính tôi và chị đều không biết”.
*
Trong bộ ba “Nguyên Ngọc tác Phẩm”, Nxb Hội Nhà Văn viết: “Nhà văn Nguyên Ngọc là một trong những nhà văn đương đại có nhiều đóng góp xuất sắc cho nền văn học cách mạng Việt Nam, bằng vào chính các tác phẩm luôn luôn nóng hổi và giàu chất lãng mạn của mình”. Thế nhưng Nguyên Ngọc có hai quyết định động trời, làm choáng váng một số người đọc yêu mến ông. Ngày 12.5.2015 ông tuyên bố từ bỏ Hội nhà văn Việt Nam. Ngày 26.10.2018 ông tuyên bố ra khỏi đảng Cộng sản Việt Nam. Cứ nghĩ, ngày ông rời cõi tạm, có lẽ trên báo Văn Nghệ của Hội NVVN không có cáo phó về ông. Trong bài “Nguyên Ngọc nhà văn công dân” (3) tác giả Thu Hà Viết “Chủ tịch thành phố Đà Nẵng hứa với văn nghệ sỹ và trí thức tỉnh nhà sẽ lấy tên ông đặt cho một con đường mới ở Đà Nẵng”. “Chủ tịch thị xã Hội An thì bảo … Lấy tên ông đặt tên một con đường mới là cái sự đương nhiên”.
*
Tên nhà văn Nguyên Ngọc không còn trong Hội NVVN, không còn trong Đảng cộng sản Việt Nam. Nhưng nhà văn công dân Nguyên Ngọc vẫn trường tồn mãi mãi với Đà Nẵng, Hội An, Quảng Nam, quê hương ông.
———————-
(1) Tro tranh lợp nhà có vị mặn hơn tro tranh lấy từ rừng.
(2) Trong “Mùa Hoa thuốc phiện cuối cùng”, Nguyên Ngọc vẫn gọi Vàng thị Mỹ (Thào Mỹ) là con gái Mèo
(3) Nguyên Ngọc nhà văn công dân của Thu Hà trang 506 Tập 3 Nguyên Ngọc tác phẩm”
MỪNG NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC 90 TUỔI
Trầnn Đăng Khoa 19 9 2021
Nhân nhà văn Nguyên Ngọc bước vào tuổi 90, tôi mời quý vị đọc lại bài viết này;
NGUYÊN NGỌC
Sáng 1-9 – 2000, tại Trụ sở Hội nhà văn đã diễn ra nghi lễ long trọng: Trao tặng Huân chương Độc lập vì những cống hiến to lớn trong lĩnh vực văn học nghệ thuật cho 5 nhà văn xuất sắc: Hải Triều, Thanh Tịnh, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Thi và Nguyên Ngọc. Trong số 5 nhà văn rất nổi tiếng này, chỉ có mỗi Nguyên Ngọc là còn sống. Nhưng ông lại không có mặt. Có người tỏ ra băn khoăn. Một nhà văn bảo tôi: “Cái ông Nguyên Ngọc này buồn cười thật. Cứ khụng khà khụng khiệng. Khó chịu quá”. ” Hình như anh Ngọc đi vắng.”. “Vắng đâu. Về rồi. Về mà vẫn không chịu đến ! Cha này xem ra không ổn!”.
Thật oan cho Nguyên Ngọc. Khi Hội nhà văn tổ chức đón nhận Huân chương cho ông thì ông vẫn còn lặn lội ở cơ sở Cách Mạng vùng ngoại ô thành phố Đà Nẵng. Ông hoàn toàn không biết có sự kiện này. Người báo tin cho ông ngay buổi chiều 1-9 lại là những độc giả của ông ở Đà Nẵng. Họ tíu tít đến chúc mùng ông. Có anh Giám đốc khách sạn Non nước còn mang lẵng hoa đến tặng ông. Nguyên Ngọc rất cảm động vì tấm lòng thương yêu quý trọng của độc giả giành cho mình. Xem chừng họ còn vui hơn cả ông khi ông được Nhà nước ghi nhận về sự cống hiến to lớn trong cả một đời cầm súng và cầm bút.
Chiều 7-9, Nguyên Ngọc về đến Hà Nội thì sáng ngày 8-9, nhà văn Nguyễn Trí Huân, phó Tổng thư ký cùng nhà thơ Nguyễn Hoa, cán bộ Tổ chức Hội, thay mặt Ban chấp hành đã đến tận nhà trao ông Huân chương Độc lập hạng nhì của Nhà nước cùng với lẵng hoa của Hội nhà văn. Phó tổng thư ký Nguyễn Trí Huân cũng thông báo cho ông biết, ông có 7 triệu đồng tiền đầu tư sáng tác. ở Hội nhà văn hiện nay, chỉ có mỗi Nguyên Ngọc là chưa nhận tiền tài trợ lần nào .
– Ồ, cái đó thì mình không nhận đâu.
Nguyên Ngọc lắc đầu. Nhà văn Nguyễn Trí Huân cười điềm đạm:
– Đây là lộc chung thôi anh ạ. Lộc của Nhà nước mà!
– Lộc nào của Nhà nước. Tiền đóng thuế của dân đấy. Mình không nhận đâu!
– Mọi người đều nhận cả bác ạ – Tôi chen vào – Nhà văn mình khổ quá. Nhà nước tạo điều kiện thêm để ngồi làm tác phẩm. Em cũng đã nhận mấy triệu. Mọi người cũng đều nhận cả. Bác không nhận, thế bằng bác bỉ chúng em à?
– Không! không! – Nguyên Ngọc vội vã xua tay – Cái này là tuỳ quan niệm của mỗi người thôi. Mình viết được cái gì thì “bán” cho Nhà xuất bản lấy tiền rồi. Sao bây giờ lại còn lấy tiền của dân nữa?. Số tiền ấy mình không nhận đâu. Huân đừng mang đến nhé!
Nguyên Ngọc lại từ chối. Như mấy lần đầu tư trước đây, ông cũng kiên quyết từ chối. Mà ông cực đoan lắm. Có người bảo, Nguyên Ngọc đã quyết cái gì thì không ai có thể ngăn cản nổi. Có túm tay ông kéo lại thì lập tức ông hoá thành anh La Văn Cầu, rút mã tấu chặt phéng ngay cái cánh tay bị níu giữ mà xông lên. Việc từ chối tiền đầu tư cũng thế. Tôi biết Nguyên Ngọc rất nghèo. Số lương hưu của hai vợ chồng ông có đáng là bao. Nguyên Ngọc lại đi thực tế liên miên, mà đi xa, đi tự túc. Tính ông lại khảnh. Đã thế ông lại không chịu viết tạp. Thế thì làm sao mà có được tiền. Một lần nhà văn Nguyễn Thị Như Trang đến thăm ông, thấy trên mâm chỏng trơ hai cái xoong. Một xoong cơm, một xoong canh. Thức ăn không cho ra bát. Người ăn cứ múc thẳng từ nồi. Đấy là lối ăn theo kiểu thời chiến của lính trận. Chiến tranh đã kết thúc cách đây hơn một phần tư thế kỷ rồi, vậy mà Nguyên Ngọc vẫn chưa ra khỏi cuộc chiến tranh. Cho đến tận bây giờ, ông vẫn không biết đi xe máy, cũng không biết đi cả xe đạp. Gần, chừng vài cây số thì cứ cuốc bộ. Ông bước phăm phắp như lính cắt rừng.
– Sao tôi được nhận Huân chương hạng nhì mà Nguyễn Thi lại chỉ hạng ba. Nguyễn Thi phải hơn tôi chứ. Tôi so với anh Thi sao được ?
Nguyên Ngọc lại tỏ ra băn khoăn. Nguyễn Trí Huân chỉ còn biết nở nụ cười của Phật bà quan âm. Bởi điều ấy nằm ngoài tầm tay Hội nhà văn. Có lẽ Ban thi đua xét Huân chương chỉ căn cứ vào độ dài của thời gian phục vụ trong chiến trường? Nguyễn Trọng Oánh và Nguyên Ngọc hết chiến tranh mới ra Bắc. Còn Nguyễn Thi thì ngay từ năm 1968, ông đã hy sinh mất rồi.
Nguyên Ngọc ngồi lặng. Gương mặt đượm buồn. Ông và Nguyễn Thi cùng đi B một ngày. Bấy giờ, Nguyên Ngọc đi nhẹ nhàng lắm, vì ông chưa có vợ con. Còn Nguyễn Thi thì đã có vợ. Người vợ trẻ của ông lại vừa sinh con trai đầu lòng. Nhà thơ Vũ Cao còn nhớ buổi chia tay Nguyễn Thi. Bữa đó, ông rủ Nguyễn Thi ra phố. Ông muốn mời bạn ăn một bát phở bò. Nhưng hồi bấy giờ nghèo xơ xác. Trong túi Vũ Cao cũng chỉ đủ số tiền cho một bát phở thôi. Hình như cũng hiểu được nỗi băn khoăn của bạn, Nguyễn Thi bảo ông chỉ thèm ăn khoai lang luộc. Trời, tưởng gì, chứ khoai lang thì rẻ lắm. Số tiền trong túi Vũ Cao đủ để hai ông ăn no khoai lang. Thế là họ ngồi sụp xuống bên đường, làm một đĩa khoai mật.
Tối ấy, Nguyễn Thi về nhà từ biệt vợ con. Vợ ông chỉ lặng lẽ lau nước mắt còn thằng bé mới đẻ thì khóc ré lên. Nguyễn Thi đùng đùng quay ra rồi phăm phăm bước thẳng, không ngoái đầu lại, mặt tái ngắt, trông rất ghê sợ, cứ như sắp sửa chém giết ai đó. Vũ Cao biết nếu chỉ quay nhìn lại vợ con, cửa nhà, chắc Nguyễn Thi sẽ không thể đi nổi.
Đêm ấy, Nguyên Ngọc và Nguyễn Thi lên tàu ở ga Thường Tín. Rồi họ vượt rừng, lội suối, đi dọc Trường Sơn hàng mấy tháng trời. Đến A Sầu, A Lưới thì chia tay nhau. Đêm chia tay, họ còn giăng võng, nằm bên nhau trong một khu rừng xà nu. Khu rừng này đã thành nỗi ám ảnh đối với Nguyên Ngọc. Đêm ấy, mọi người còn mời một đồng chí ở cơ sở đến nói cho anh em mới vào nghe chuyện chiến trường. Đồng chí cán bộ đó không thể nói được gì, vì suốt mấy năm ở đây, ông chưa bao giờ được đứng trước mộtđám đông như thế. Có 5 người thôi mà đã thành đám đông. Nguyễn Thi bảo:”Tình hình thế này là ác liệt đấy. Chúng mình vào đây mà làm nhà văn thì vô duyên và kỳ cục quá. Phải sống đã. Cầm súng đánh giặc đã rồi làm nhà văn sau. Chúng mình chỉ trở lại Hà Nội bằng con đường số Một.”
Câu nói như một lời nguyền. Và rồi họ đã thực hiện đúng như thế. Nguyễn Thi xuôi về Nam Bộ. Nguyên Ngọc xuống khu Năm. Đấy là những vùng chiến trường rất đỗi khốc liệt. Năm 1968, Nguyễn Thi hy sinh trong một trận chiến đấu . Ông ngã xuống như một người anh hùng. Còn Nguyên Ngọc thì sau chiến tranh, ông mới trở lại Hà Nội bằng đúng con đường số Một.
Cũng như Nguyễn Thi, Nguyên Ngọc vào chiến trường khi đã là một nhà văn nổi tiếng.Tác phẩm đầu tiên của ông là cuốn tiểu thuyết Đất nước đứng lên, viết về anh hùng Núp. Cuốn sách vừa ra đời đã có tiếng vang lớn. Và cũng từ đấy hình thành một lối viết của Nguyên Ngọc theo kiểu Nguyên Ngọc. Lối viết này quán xuyến suốt một đời cầm bút của ông. Đó là viết về người thật việc thật và người tốt việc tốt. Nhân vật của Nguyên Ngọc đều bắt nguồn từ những nguyên mẫu có thật trong cuộc sống chiến đấu của nhân dân mà ông từng tham dự. Sau tiểu thuyết Đất nước đứng lên, là tập truyện ngắn Rẻo cao. Đây mới thật sự là kiệt tác của Nguyên Ngọc. Tập sách rất mỏng, chỉ phong phanh chừng một trăm trang, gồm có sáu truyện ngắn, mà truyện nào cũng hay. Bây giờ đọc lại vẫn còn thấy hay, vẫn không hề cũ. Đặc sắc nhất trong tập là truyện Rẻo cao. Đây cũng là cái truyện viết tài nhất trong đời văn Nguyên Ngọc. Truyện không có cốt, tóm tắt rất nhạt. Vì nó chẳng có gì cả. Nguyên Ngọc kể về một ông già người Mèo có tên là Cắm. Ông bỏ nhà đi hoạt động cách mạng, mải việc nước đến quên cả lấy vợ. Về già, không còn đủ sức đi nữa thì ông về quê, làm cách mạng ở quê. Công việc của ông là chuyển thư từ, báo Đảng xuống các làng bản. Ông không biết chữ, nên thằng cháu ruột của ông, một anh chàng bưu tá huyện đã phải đánh dấu cho ông bằng những sợi chỉ xanh, chỉ đỏ. Chỉ xanh là ông Lý A Pù. Chỉ đỏ là ông Ma Văn Keo, xóm Nà Thăn. Thế là ông cắt rừng đi ngay trong đêm. Với chất liệu như thế, chỉ đủ để viết một cái tin vắn, mà tin cũng nhạt phèo, khó mà đọc được.Vậy mà Nguyên Ngọc dựng được thành một cái truyện ngắn đặc sắc, đọc hấp dẫn và cuốn hút. Ông còn cho nhân vật của mình ghếch súng vào vai, ngồi nghe hết tờ báo Nhân Dân, rồi ông còn chép nguyên cả cái dự báo thời tiết trên báo Nhân Dân vào trong cái truyện vốn đã rất ngắn của mình: “ở miền Bắc nước ta hôm nay trời quang và nắng…Riêng vùng núi phía Bắc và Tây bắc Bắc bộ, trời ít mây, thỉnh thoảng có mưa nhỏ rải rác ở một vài nơi…”. Thế rồi sau cái dự báo thời tiết này, là cảnh sắc của rừng đêm Tây bắc được nhìn qua con mắt của ông già Cắm. Phải nói đó là những trang văn hay. Văn Nguyên Ngọc là thứ văn có hương. Đọc cứ bàng hoàng váng vất mãi. Không có thực tài, không thể viết được thế.
Nhân vật của Nguyên Ngọc đều là những người tốt. Trong chuyện Dũng cảm, cô giáo Tuyết, người Hà Nội đã bỏ Thủ đô, bỏ cả người yêu xung phong lên miền núi dạy học. Cô hết lòng yêu thương các em. Cô biết mình sẽ gắn bó lâu dài với các em, cô không thể bỏ các em mà về xuôi được. Rồi có lần hai em bé người Dao vắng mặt. Không biết các em ốm đau hay làm sao. Cô cùng một em bé người Nùng cắt rừng vượt hàng chục cây số xuống bản. Rừng đối với cô là một thế giới đầy bí ẩn. Nguyên Ngọc cũng qua con mắt của cô giáo vùng xuôi, cho chúng ta những trang tả rừng rất đặc sắc. Cô giáo xuống bản, mới hay học trò của mình không ốm. Ông bố cho các em đi làm công tác cách mạng. ấy là dẫn đường cho các chú địa chất dò tìm tài nguyên cho đất nước. Thế là người tốt lại gặp những người tốt. Đọc truyện của Nguyên Ngọc, cứ như đi dự một Đại hội chiến sĩ thi đua.
Lần giở những trang sách của Nguyên Ngọc, không hiểu sao, tôi cứ nghĩ đến Tố Hữu và Phạm Tuyên. Cũng như thơ Tố Hữu, ca khúc Phạm Tuyên, Nguyên Ngọc viết văn bằng hồn mình. Ông bám sát các vấn đề lớn của chính trị, phục vụ trực tiếp các vấn đề chính trị mà tác phẩm vẫn vượt qua được sự minh hoạ, sự chứng minh, vẫn thành tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, không ít tác phẩm có giá trị lâu dài. Và cũng như thơ Tố Hữu, ca khúc Phạm Tuyên, cái hồn trong văn Nguyên Ngọc thuộc về Cách mạng. Những vấn đề lớn mà Tố Hữu quan tâm cũng là những vấn đề Nguyên Ngọc đề cập đến trong hầu hết các sáng tác của mình. Tố Hữu viết:
Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau
Đảng cho ta trái tim giầu
Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay..
Nguyên Ngọc dựng Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng. Đây cũng là một truyện ngắn hay của ông. Cô gái Mèo Vàng Thị Mỹ ở với bố trên những đỉnh núi cao quanh năm mây phủ. Ở đó nếu có khách tới thì chỉ là thú rừng thôi. Cô bé thấy thèm người. Rồi ông bố cho cô đến với người. Đó là một phiên chợ. Cơ man nào là người. Ông bố bán thuốc phiện, một thứ vàng đen, mong giúp con gái đổi đời. Nhưng rồi bị trả rẻ quá, ông không bán. Thế rồi dọc đường trở về, bố con ông bị bọn người đó chặn lại. Chúng cướp không số thuốc phiện rồi bắn chết ông già. Cô bé may mà thoát chết. Rồi cô được một bà goá đem về nuôi. Năm 13 tuổi, cô bị gả chồng. Chồng cô là một thằng bé 7 tuổi con một lão chúa đất. Ngày về nhà chồng, cô khóc nhiều lắm. Khóc vì cô không được sống cô độc giữa các vách núi. Cô lại phải đến với người. ở nhà chồng, cô lại thấy con người dã thú đã giết bố cô. Thế là cô bỏ trốn. Cô sợ phải gặp người. Cứ thấy làng, thấy người là cô tránh. Cô đi lang thang rồi lạc vào rừng. Cô đói lả, ngồi thụp xuống bên hang đá rồi chết lả đi. Nhưng rồi trong hang lại có tiếng người. Thế là cô bé lại vùng dậy chạy, nhưng không còn sức mà chạy nữa. Rồi may sao, cô đã gặp được người. Không phải người thú mà người cách mạng. Chính người cách mạng đó đã cứu cô. Rồi cô gặp Đảng. Đảng chỉ cho cô đường đi, nước bước. Đảng bảo phải bỏ cây thuốc phiện. Nó chính là nguồn gốc mọi nỗi đau khổ của người Mèo. Phải phá bỏ cây thuốc phiện trồng ngô sắn. Rồi Nguyên Ngọc còn để cô Vàng Thị Mỷ nói với đồng bào Mèo nguyên văn như thế này:”Ngày xưa, người đối với người coi nhau như thú dữ, bây giờ có Đảng, có chính phủ, có Cụ Hồ, người với người mới tin nhau, giúp nhau như thể anh em một nhà vậy. Đó là Chủ nghĩa xã hội đấy, bà con ạ…”.
Vàng Thị Mỷ cũng là một nhân vật có thật. Tô Hoài và Xuân Thiều đã gặp và tiếp xúc với người con gái Mèo rất xinh đẹp này. Cô thầm yêu Nguyên Ngọc, nặng lòng với Nguyên Ngọc. Cô gọi Nguyên Ngọc là Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng. Gặp người nào ở dưới xuôi lên, cô cũng hỏi anh Ngọc. Những năm ấy, anh Ngọc của cô lại đang ở chiến trường mù mịt bom đạn, khói lửa chẳng biết sống hay chết. Cô viết trong cuốn sổ tay công tác của mình một dòng rất da diết mà Tô Hoài”tóm” được: Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng ơi !
Sau này, vào những năm 90, Nguyên Ngọc có dịp trở lại Mèo Vạc gặp Vàng Thị Mỷ. Cô đã nghỉ hưu, giờ ngồi bán hàng xén ở chợ Mèo Vạc. Nguyên Ngọc viết Trở lại Mèo Vạc, kể về cuộc gặp gỡ của ông với Vàng Thị Mỷ sau hơn 30 năm này. Ông gọi là bài ký. Nhưng tôi lại thấy nó là một truyện ngắn hoàn chỉnh. Vẫn thứ văn có nhung có tuyết. Đọc rất cuốn hút, hấp dẫn. Đây cũng là một tác phẩm xuất sắc nữa của Nguyên Ngọc.
Có thể nói Nguyên Ngọc là một Tố Hữu trong văn xuôi, cũng như Phạm Tuyên là Tố Hữu trong âm nhạc. Tố Hữu viết:
Lớp cha trước, lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành
Ta cũng gặp ý tưởng đó trong Rừng xà nu, một truyện ngắn hay của Nguyên Ngọc thời chống Mỹ. Bao lớp cha con nối nhau đánh giặc, bảo vệ cán bộ của đảng. Nói như cụ Mết:”Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Mỹ Diệm treo cổ anh Xút lên cây Vả đầu làng. Anh Xút chết, anh Quyết thay. Nối tiếp anh Quyết là Tnú. Cũng như Mai chết thì có Dít lớn dậy. Dít là Chính trị viên xã đội. Cô giống hệt Mai. Đến nỗi ngồi trước Dít mà Tnú bàng hoàng như ngồi trước Mai. Rồi ông già Tâng, bà Brôi, chị Blom, anh Bre. Rồi cả thằng bé Heng Tnú gặp ở đầu con nước nữa. Thằng bé có tí tuổi đầu mà đã như một anh giải phóng quân với khẩu súng dài đeo chéo vai. Mấy thế hệ cha con cùng đánh giặc. Đứng đầu là ông già Mết, một nhân vật rất lạ. Ông chính là linh hồn của làng Xô man, cũng là linh hồn của cái truyện ngắn nay. Ông già Mết là nhân vật có thật. Nguyên Ngọc giữ nguyên tên. Và cũng y hệt như trong truyện, ở ngoài đời, ông Mết là ngọn cờ tập hợp dân chúng. Ông thông minh, dũng cảm, chỉ huy đánh giặc rất tài. Người ta đã tính phong danh hiệu Anh hùng cho ông. Nhưng khi xét, lại thấy ông là tầng lớp trên, nên không thể phong được. Thực ra, cái chức Già làng là dân tín nhiệm mà suy tôn thôi, chứ đâu phải chức sắc quan cách gì. Hàng ngày, ông vẫn cởi trần đóng khố, ăn đói mặc rét như bất cứ người dân nghèo nào ở làng Xô man. Tnú cũng là nhân vật có thật. Tên thực của anh là Đề. Nhưng để tên Đề thì nghe như một người Kinh. Chẳng Tây Nguyên chút nào. Nguyên Ngọc đổi thành Tnú. Tnú theo tiếng Ba na có nghĩa là người dũng sĩ. Đúng là Lớp cha trước, lớp con sau, mấy thế hệ nối tiếp nhau đánh giặc, bảo vệ buôn làng, bảo vệ Đảng. Nguyên Ngọc còn trung thành với ý tưởng này ngay cả trong từng đoạn văn tả cảnh rừng xà nu: “Trong rừng ít có loại cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”…Rồi Nguyên Ngọc còn cho cả ông già Mết nói với Tnú: “Mày có đi qua rừng xà nu gần nước lớn không? Nó vẫn sống đấy. Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!”. Khi kết truyện, Nguyên Ngọc vẫn nhắc lại ý tưởng này, mà không ngại bị lặp:” Cụ Mết và Dít đưa anh ra đến rừng xà nu gần nước lớn. Trận đại bác đêm qua đã đánh ngã bốn năm cây xà nu to. Nhựa ứa ra ở những vết thương, đang đọng lại, lóng lánh nắng hè. Quanh đó vô số những cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhú khỏi mặt đất mà đã nhọn hoắt như những mũi lê. Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp nhau, chạy đến tận chân trời…”
Truyện của Nguyên Ngọc hầu hết là thế. Ông ca tụng chủ nghĩa anh hùng Cách mạng. Ông rất gần với Tố Hữu và Phạm Tuyên. Và cũng như Tố Hữu, bút pháp ông nhất quán, trước sau như một, không thay đổi, không quay quắt. Trong khi đó, có rất nhiều cây bút chuyển hướng, hoặc thay đổi cách tiếp cận hiện thực để thu hút sự chú ý của bạn đọc. Trước viết người tốt việc tốt thì sau viết người xấu việc xấu. Nguyên Ngọc không thế. Suốt đời dường như ông chỉ viết truyện người tốt việc tốt. Ngay cả khi dựng nhân vật tiểu thuyết, ông cũng tựa trên những con người có thật, những sự kiện có thật ở ngoài đời.
Còn nhớ năm 1969, Nguyên Ngọc cho ra cuốn Đất Quảng tập I. Cuốn sách được bạn đọc đón nhận rất nồng nhiệt. Nguyên Ngọc kể về cuộc chiến đấu của những người bám trụ ở vùng ven thành phố Đà Nẵng. Đó cũng là vùng đất hoạt động của ông. Nguyên Ngọc xuống đó không phải để làm một nhà văn đi thực tế mà ông là một người lính chiến, bám trụ thật sự. Đó là một địa bàn khốc liệt. Để bảo vệ khu sân bay và thành phố Đà Nẵng, địch ủi trắng cả một vùng xung quanh. Chúng lùa dân vào ấp chiến lược. Chúng nã pháo vào vành đai trắng, chỉ một rảnh lá khô bất thường, chúng cũng cho trực thăng tới bắn. Người dân phải tìm mọi cách trụ lại. Họ rải lá khô cho địch bắn. Bắn mãi cũng chẳng thấy có gì. Họ cắm lá xanh rồi trồng cây xanh. Giặc bắn mãi rồi hoá quen, quen đến phát nản. Cứ thế dân lấn dần từng bước. Rồi họ đào hầm. Dựng lều bám trụ. Dân có trụ được thì cách mạng mới có đất mà trở về. Ngày nào cũng có người chết. Nhưng dân vẫn trụ vững. Nguyên Ngọc nằm ở đây hai năm. Ông cùng dân chống càn, rồi chỉ huy dân đánh địch. Khi đồng chí bí thư đảng uỷ hy sinh, Nguyên Ngọc thay luôn làm bí thư. Ông chiến đấu, bám trụ như một người lính kiên cường. Rồi ông ghi lại cuộc chiến đấu ấy. Đó là cuốn Đất Quảng tập I. Trong số những người bám trụ ở vành đai này, Nguyên Ngọc rất quý Phan Văn Giả, phó bí thư đảng uỷ. Anh cùng nằm hầm bí mật với ông, cùng kề vai sát cánh với ông. Khi Nguyên Ngọc phải rút về quân khu, chuyển sang vùng hoạt động khác, anh thay ông làm bí thư. Đó là một người lính dũng cảm, mưu trí, chiến đấu rất kiên cường. Anh là một trong những nhân vật chính của tiểu thuyết Đất Quảng. Khi vào tiểu thuyết, Nguyên Ngọc đổi tên anh là Thiệt. Bí thư Thiệt. Khi ở tập I tiểu thuyết Đất Quảng, Thiệt mới chỉ lấp ló xuất hiện. Anh sẽ là nhân vật trung tâm, là linh hồn của Đất Quảng tập II. Cuốn sách ấy Nguyên Ngọc đã viết xong. Ông cũng đã cho in một số chương trên báo Văn nghệ thời ấy. Nhưng điều đau xót là sau đó, cách mạng phải trải qua những giai đoạn rất đỗi tăm tối tưởng như không thể vực lên được. Địch nhổ hết cơ sở cách mạng. Bí thư Giả bị bắt và rồi anh đã khai. Tất nhiên, anh là người còn lại cuối cùng. Anh chỉ khai những cơ sở đã bị xoá sổ, những con người đã bị địch giết. Bởi thế, việc đầu hàng, khai báo của Giả cũng không gây thiệt hại gì thêm đối với cách mạng, nhưng với Nguyên Ngọc, thì đó lại là một tổn thất không gì bù được.Tại sao một người ông yêu mến tin tưởng như thế lại đầu hàng địch. Nguyên Ngọc đau xót lắm. Phản bội cách mạng, phản bội Đảng là một tội lỗi không thể tha thứ được. Và như thế trong ông, bí thư Thiệt thực sự đã chết. Anh ta chẳng còn lý do gì để có thể tồn tại. Nguyên Ngọc đốt luôn cuốn sách đã viết xong. Bây giờ ông cũng không có ý định viết lại.tập II nữa. Nhân vật của ông đã chết trong ông thì cuốn sách coi như cũng đã chết. Vì vậy mà Đất Quảng thành cuốn sách dang dở Nhưng Nguyên Ngọc vẫn đau đáu với đề tài chiến tranh cách mạng ấy. Ông vẫn trung thành với lối viết đã có của mình. Nghĩa là vẫn viết người thật việc thật, người tốt việc tốt. Những tác phẩm gần đây nhất của ông, ông còn để nguyên cả đống tư liệu mà chả cần phải hư cấu hay dàn dựng thêm gì. Khi hiện thực tự nó đã đủ là một vẻ đẹp thì người viết không cần phải tô vẽ thêm nữa. Đó là tập Đường mòn trên biển, kể về những người lính cảm tử của lữ đoàn 125 Hải quân, bí mật chuyên chở vũ khí vào Nam trong những năm chiến tranh, và tập Cát cháy, cũng lại viết về cuộc chiến đấu của những người bám trụ ở vùng Đất Quảng khốc liệt. Một đống tư liệu ngổn ngang bề bộn mà đọc lại cuốn hút, hấp dẫn. Tập mới nhất là cuốn Hồi Ký của ông cùng vẫn là truyện thật với cái nhìn trong vắt như thế. Đấy là sức hấp dẫn của sự thật trần trụi.. Phải nói đó là những tập sách hay của văn học ta hiện nay.
Bấy lâu nay, không ít người cứ dị ứng với loại truyện người tốt việc tốt. Thậm chí có người còn cực đoan cho đó không phải là văn chương thứ thiệt. Nguyên Ngọc là một trường hợp thú vị cho thấy sự thật lại không phải như vậy. Mới hay, văn chương thật bí hiểm. Nó đâu có như một số người vẫn nghĩ Thực tình, cách viết của Nguyên Ngọc đâu có mới mẻ gì. Ông cũng chẳng phải là người cách tân hay cấp tiến gì gì. Ông vẫn viết như chúng ta đã từng viết trước đây. Có đến hàng trăm người viết như ông. Nhưng rồi cũng có đến hàng trăm người sẽ bị thời gian đào thải. Có chăng chỉ còn lại một vài người. Trong số rất ít người còn lại ấy, chắc chắn có Nguyên Ngọc. Mới hay sự chân thành của tấm lòng người viết và tài văn là vô hạn quan trọng. Vấn đề không phải viết về cái gì mà viết như thế nào.
Văn Nguyên Ngọc là một dạng văn hay. Giản dị, chắt lọc và trong veo. Đó cũng là dòng văn học chủ đạo rất cần trong đời sống của chúng ta hiện nay. Tuy nhiên nếu cả nền văn học mà nhìn đâu cũng chỉ thấy một kiểu Nguyên Ngọc thì cũng thật đáng sợ. Vì nó lại có gì như là không bình thừơng Trong khi đó chúng ta lại rất cần sự đa dạng phong phú trong các giọng điệu cũng như bút pháp và cách tiếp cận hiện thực. Bởi hiện thực vốn như thế. Nó bao giờ cũng phong phú, đa dạng và phức tạp. Hình như Nguyên Ngọc hiểu điều này thấm thía hơn bất cứ ai. Bởi thế, mà ông yêu mến Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Khắc Trường, Phạm Thị Hoài… Đó là những tài văn hoàn toàn khác ông. Chấp nhận và ủng hộ những tài năng khác mình, tôi nghĩ đấy cũng là một cái tài của Nguyên Ngọc. Không phải ai cũng có được cái tài ấy.
Một người chuyên viết về người tốt tài đến như Nguyên Ngọc, tốt đến như Nguyên Ngọc, không hiểu sao, lại có những người rất tốt, cứ nghi ngờ Nguyên Ngọc là một người không tốt. Thậm chí có người còn nhìn ông như một kẻ phiến loạn. Đó là điều làm tôi rất đỗi kinh ngạc và có lúc tôi đã coi đó như là nỗi bi kịch của cả cuộc đời ông. Nhưng Nguyên Ngọc lại chẳng lấy đó làm điều.
Lúc nào cảm thấy lòng trống vắng, ông lại về Đà Nẵng, trở lại chiến khu xưa. Rồi ông cùng anh em đi tìm mộ đồng đội, đưa về nghĩa trang liệt sĩ huyện Điện Bàn. Có lần tình cờ đi qua Điện Bàn mà tôi gặp ông. Ông rủ tôi về căn cứ hoạt động cũ. Đó là ấp Phái Nhất, thôn Quang Hiện, xã Điện Hoà. ở đấy, từ người trẻ đến người già, ai cũng biết ông và thương yêu ông. Họ vẫn gọi ông là anh Thành, chú Thành, bác Trung Thành, rồi Bí thư Thành. Các má thì chỉ gọi ngắn gọn là thằng Thành. Họ hoàn toàn không biết ông là Nguyên Ngọc, cũng không biết ông là nhà văn nổi tiếng. Thì hồi xưa ở đây, người ta chỉ thấy ông đánh giặc rồi chỉ huy chống càn chứ có thấy ông viết văn bao giờ.
– Lúc nào buồn hay thất cơ lỡ vận thì cứ vô đây với tau, Thành à ! Đói thì tau nuôi. Ngày xưa bom đạn là thế, giặc giã là thế mà tau còn nuôi được mi. Bây giờ hoà bình rồi, giàu có rồi, chả lẽ tau không nuôi được mi sao ?
Má Phan Thị Vinh, 89 tuổi, người đã nuôi và cất giấu Nguyên Ngọc ngày xưa, vui vẻ nói với ông. Rồi má chỉ ra ngoài cửa nhà. Sau vách đất, ngay bên cạnh mảnh sân to chừng hơn cái nong phơi thóc là một vạt ngô đã trổ cờ, mấy luống mía sắp bóc lá và một ruộng rau khoai lang. Gia tài ấy của má cũng đã đủ nuôi Nguyên Ngọc rồi.
Má Vinh rót nước râu ngô mời tôi với Nguyên Ngọc. Trên chiếc bàn nước bằng gỗ tạp, sau tấm kính vỡ được ghép lại là la liệt giấy khen, bằng khen đủ các kích cỡ thời kháng chiến. Cái thì đánh máy, cái thì viết tay, nét chữ đã ố mờ, chỉ có chữ ký của người chỉ huy chứ không có dấu. Những giấy tờ dã chiến như thế, liệu bây giờ người ta có tin không ? Nguyên Ngọc cũng đã viết chứng thực cho gia đình má có công nuôi giấu cách mạng. Mọi văn bản cũng đầy đủ rồi, nhưng cơ quan chính sách vẫn chỉ im lặng. Má Vinh cười móm mém:
– Thôi, chả cần nữa đâu, Thành à. Mình sống được đến bây giờ là may mắn lắm. Còn mong gì thêm nữa. Má cũng già rồi. Chẳng biết sẽ chết lúc nào. Má chỉ lo cho con thôi…
Không phải chỉ có má Vinh, bao nhiêu người dân ở khu căn cứ cách mạng này đều thương yêu và lo lắng cho Nguyên Ngọc. Bởi thế, chắc họ sẽ rất vui khi nhà nước trao tặng Nguyên Ngọc Huân chương độc lập hạng nhì. Biết đâu, sự kiện đó sẽ làm họ lại tin Cách mạng, thêm yêu cách mạng, như những ngày gian khổ xa xưa…”

“Nguyên Ngọc: Nước mội, rừng xanh và sự sống” và Văn Công Hùng: Tây Nguyên của tôi. Nguyên Ngọc có nhiều tác phẩm viết về Tây Nguyên nhưng ấn tượng nhất và sâu sắc nhất trong tôi là Phát triển bền vững ở Tây Nguyên; với Nước mội, rừng xanh và sự sống Văn là Người. Cụ là nhà văn chiến sĩ dấn thân suốt đời không mệt mỏi, có những trang văn thắp lửa, dữ dội và minh triết như lời khen của cụ “Nguyễn Khải nhà văn tài năng nhất của thế hệ chúng tôi” (trong Ngọc cho đời).. Bất luận khen chê, Cụ là người thật đáng tôn kính.

NGUYÊN NGỌC LẮNG NGHE CUỘC SỐNG
“Vấn đề Tây Nguyên về nhiều phương diện là một vấn đề lớn lại có những đặc trưng riêng trong sự phát triển chung của cả nước. Vấn đề này vốn đã không hề đơn giản, nay đã càng trở nên hết sức phức tạp, khó khăn, có thể còn khó khăn lâu dài, với những diễn biến cũng có thể còn chưa lường được hết và còn bất ngờ. Song vấn đề cũng có thể trở nên đơn giản hơn, vẫn có thể có lối ra, nếu ta dám thật sự nhìn lại tình hình một cách khách quan, nhận ra sai lầm lớn lẽ ra hoàn toàn có thể không mắc phải nếu biết tôn trọng thực tế và biết lắng nghe, từ đó nghiêm túc xác định lại quan điểm đúng, để có cách nhìn và cách hành xử thích hợp, đặc biệt biết thật sự tôn trọng các dân tộc bản địa Tây Nguyên, một bộ phận tuy có đến chậm hơn nhưng từng gắn bó rất sâu sắc, có đóng góp hết sức to lớn trong tiến trình lịch sử gian nan mấy thế kỷ qua của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ở Tây Nguyên nếu không thật sự đặt quyền lợi của các dân tộc bản địa lên trên hết, là mục tiêu hàng đầu của mọi kế hoạch phát triển, thì chắc chắn không việc gị có thể thành công, sẽ thất bại tất yếu, thậm chí có thể đi đến thảm họa”. “ Nhà Tây Nguyên học xuất sắc Jacques Dournes có một câu bất hủ khi nói về Tây Nguyên, ông viết: “Nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể hiểu”. Đối với Tây Nguyên, cần một sự hiểu biết và một tình yêu đầy sự tôn trọng thật sự, một sự tôn kính chân thành và đấy ưu tư đối với một vùng đất và một vùng văn hoá vào loại độc đáo nhất còn lại trên đất nước ta và trên thế giới ngày nay.“.”Cần có một tình yêu đầy tôn trọng như vậy, để ra sức tìm hiểu sâu sắc vùng đất và người hết sức quan trọng và vô cùng đặc sắc này, từ đó mà có chủ trương và hành động đúng, mới mong có thể thoát ra khỏi bế tắc hiện tại, đưa Tây Nguyên vững chắc vào tiến trình phát triển chung của đất nước, vì Tây Nguyên, và vì cả nước“.
“Hóa ra có một “bí mật” to lớn: ngọn nguồn của nước mội tuyệt diệu tưới tắm cả vùng cát dằng dặc ven biển miền Trung chính là nơi đó, Tây Nguyên, rừng đại ngàn, rừng nguyên sinh, rừng nhiệt đới Tây Nguyên. Chính rừng Tây Nguyên, từ trên Trường Sơn rất xa xôi kia, đêm ngày, hàng triệu triệu năm nay, như một người mẹ vĩ đại, bao dung và tần tảo, hứng lấy tất cả các nguồn nước của đất trời, cất lấy, “để dành”, tằn tiện, tuyệt đối không phí mất một giọt nào, để từng ngày từng ngày chắt chiu mà bất tận cung cấp cho đứa con đồng bằng của mình, cho sự sống có thể sinh sôi, nảy nở, trường tồn trên dải đất cát trông chừng rất khắc nghiệt kia. Cho các vương quốc, các triều đại, các nhà nước, các chế độ ra đời, phát triển, nối tiếp. Và sống còn… Nước mội chính là những dòng nước nhỏ, liên tục, không bao giờ dứt, đi âm thầm và vô hình trong lòng đất, từ những đỉnh Trường Sơn xa xôi kia, đến tận những cồn cát tưởng chẳng thể có chút sự sống này. Vậy đó, Tây Nguyên, ý nghĩa của Tây Nguyên và rừng Tây Nguyên, dù chỉ mới là qua một khía cạnh rất nhỏ của nó, nước”
“Cần ngay bây giờ chấm dứt mọi khai phá ở Tây Nguyên. Cần nghĩ đến một con đường sống khác, một kiểu sống khác, một kiểu phát triển khác. Trên cả nước. Trước hết trên mái nhà sinh tử Tây Nguyên. Bắt đầu lại một công cuộc cứu lấy Tây Nguyên. Bắt đầu một sự nghiệp to lớn trồng lại rừng Tây Nguyên, trong một trăm năm, quyết liệt, kiên định, thông minh, với những kế hoạch cụ thể, cho 50 năm, 20 năm, 10 năm, 5 năm, toàn Tây Nguyên, từng tỉnh, từng huyện, từng xã, từng làng. Khôi phục lại màu xanh cho Tây Nguyên. Bắt đầu ngay từ hôm nay, mùa xuân, mùa của màu xanh, của sự tỉnh táo, khôn ngoan. Cho đến một ngày, có thể một trăm năm nữa, con cháu chúng ta sẽ có thể bụm vào lòng bàn tay một ngụm nước mội trong veo mát lạnh rỉ ra từ đất cát và ngửa cổ uống ngon lành. Và biết rằng cha ông chúng từng rất dại dột, nhưng rồi cũng đã từng biết khôn ngoan, để cho sự sống từng sắp bị triệt diệt, lại được cứu, lại sinh sôi, phát triển, trường tồn“.
NGUYÊN NGỌC ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM
Nguyên Ngọc cuộc đời và tác phẩm có thật nhiều điều đáng đọc lại và suy ngẫm: Đó là khối lượng đồ sộ tác phẩm Nguyên Ngọc với các bài viết của bạn hữu, người đương thời nói và viết về ông, rất nhiều khen, nhưng cũng có người chê. Tôi ấn tượng nhất và thường đọc lại hơn cả là hai bài trên Phát triển bền vững ở Tây Nguyên; Nước mội rừng xanh và sự sống và có trích dẫn dưới đây để thỉnh thoảng tự chính mình đọc lại. Kể cả những bài mới đây nhất và cũng thuộc loại nhậy cảm nhất là “Con người nào thì làm ra văn hóa ấy …” (bài viết trên VHNA).
Những phản biện của Cụ Nguyên Ngọc như quan gián nghị đại phu cương trực xưa, thuốc đắng khó uống, chối tai khó nghe, nhưng thật uyên thâm, mạch lạc và sâu sắc. Chúng ta không phải điều nào cũng đồng tình với Cụ nhưng xã hội và minh quân cần những lời khó nghe ấy, đó là chính kiến và chỉ dấu trí tuệ. “Con người nào làm ra văn hóa ấy…” cụ Nguyên Ngọc đã cảnh báo sớm những khác biệt và biến thái trong định hướng đầu tư phụ thuộc vào con người và tầm văn hóa. Vụ Sơn Trà và điểm nóng Đà Nẳng bùng phát mới đây (2017) và đã xử lý năm 2020 thì trước đó năm 2006, ông đã cảnh báo “Phát triển bền vững là phát triển một cách có văn hóa” Các làng ven đô đang bị các khu công nghiệp (và biệt thự biển) mọc lên với tốc độ ngày càng nhanh nuốt chững hết đất, và cùng với đất là văn hóa lâu đời của các xứ đất ấy. họ đổ ra thành phố với một cục tiền đền bù chưa bao giờ cầm được to tướng đến vậy nhưng không còn đất, và đương nhiên cả cái văn hóa nghìn đời của đất ấy. Họ đổ ra thành phố, bơ vơ, vô nghề nghiệp, và điều này có thể nguy hơn nữa: bổng trở thành ‘vô văn hóa’ luôn. Văn hóa không phải theo nghĩa dăm ba chữ học hành, mà theo nghĩa những gì hàng nghìn năm con người đã tạo nên được cho tâm hồn mình do vật lộn và gắn bó sinh tử với đất mẹ quê hương. (Nguyên Ngọc lắng nghe cuộc sống NXB Văn Nghệ trang 163-175)
Cụ Nguyên Ngọc về Tây Nguyên ngày nay lúc cụ đã luống tuổi. Cụ ăn lẩu phố Núi và lưu ảnh kỷ niệm với nhà văn Tây Nguyên Văn Công Hùng, với đôi mắt nhìn thẳng trực diện tinh tường. Cụ bút lực trên 88 tuổi vẫn chưa suy giảm và vẫn trên đường xa. .
NGUYÊN NGỌC ĐÔI LỜI CẢM NHẬN
Tôi biết ơn nhà văn Nguyên Ngọc đã nói hộ lòng mình. Tôi noi gương nhà văn lão thành để viết Nguyễn Khải ngọc cho đời, Đến với Tây Nguyên mới.

Kỷ niệm với thầy bạn quý ở Tây Nguyên. Hiểu là một cách cảm ơn chân thành nhất. Lắng nghe cuộc sống để thấu hiểu

Đến với Tây Nguyên mới láng nghe cuộc sống, cùng những thầy bạn ưu tú dấn thân cho nghề nông và lưu lại những trang đời lắng đọng. Phát triển bền vững ở Tây Nguyên; Nước mội rừng xanh và sự sống; Nguyễn Khải nhà văn tài năng nhất thế hệ chúng tôi đọc tai đây
Tài liệu trích dẫn :

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở TÂY NGUYÊN
Nguyên Ngọc
“bài viết nổi tiếng này chúng ta cần đọc đi đọc lại nhiều lần. Đến với Tây Nguyên là đến với con người, núi rừng cao nguyên, một vùng đất thiêng, một nền văn hóa sử thi to lớn”. Có những lớp sinh viên như thế. Chăm chú lắng nghe, chăm chú học để làm, chăm chú thấu hiểu để biết dũng cảm đối mặt với những sai lầm của quá khứ, để chung sức bảo tồn và phát triển bền vững những di sản (HK)
MỘT SỐ NÉT TỔNG QUAN
A Khái niệm Tây Nguyên
Theo địa lý hành chính hiện nay, Tây Nguyên gồm có năm tỉnh, kể từ bắc vào nam : Kontum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng. Tuy nhiên cần chú ý các tỉnh ven biển miền Trung và một số tỉnh miền Đông Nam Bộ đều có một vùng rừng núi khá rộng, cũng là nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số. Chẳng hạn tỉnh Quảng Nam, là tỉnh duyên hải, lại có đến 56 % diện tích là vùng núi và vùng dân tộc, tại đấy có dân tộc Cơ-tu là một dân tộc quan trọng ở khu vực nam Trường Sơn. Miền tây tỉnh Quảng Ngãi cũng có vùng núi và là vùng dân tộc tương tự, thì có dân tộc Hre cũng là một dân tộc quan trọng. Dân tộc Rakglei thì sống chủ yếu ở miền tây các tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận. Một số tỉnh miền Đông Nam Bộ cũng có vùng núi và là vùng dân tộc khá rộng. Vùng Cát Tiên, nơi có di tích nổi tiếng của dân tộc Mạ, nằm phần lớn trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Sóc Bombo mà chúng ta đều biết qua bài hát quen thuộc cũng thuộc Bình Phước… Như vậy khái niệm Tây Nguyên xét về các về mặt dân tộc, văn hoá, xã hội, có thể cả lịch sử và địa lý, thật ra rộng hơn vùng được quy định theo địa lý hành chính. Có người đã dùng khái niệm Nam Trường Sơn để chỉ vùng này, có thể đúng hơn; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-ngoc-ve-tay-nguyen/

DU LỊCH SINH THÁI VIỆT
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
Học tiếng Trung và tiếng Việt 学中越文 Tổng quan về Kinh tế Xã hội và Văn hóa Việt Nam 越南社会经济和文化概述 là tập tài liệu giảng dạy và nghiên cứu về du lịch sinh thái Việt, Mục đích nhằm giúp sự giao lưu Việt Nam Trung Quốc về ngôn ngữ văn hóa nông nghiệp và kinh tế xã hội Việc này thật cấp thiết cho một nền tảng học vấn ‘Việt Nam Học’ giản dị, cô đọng. Việt Nam đất nước con người là đất nước tốt đẹp, với con người Việt có phẩm chất văn hóa thân thiện, văn hiến. Người Việt, tiếng Việt, nông nghiệp Việt là ba di sản vô giá của dân tộc Việt luôn được bảo tồn và phát triển.xem tiếp Du lịch sinh thái Việt https://hoangkimlong.wordpress.com/category/du-lich-sinh-thai-viet/


Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365 bấm vào đây cập nhật mỗi ngày
Video nhạc tuyển yêu thích
Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Chopin – Spring Waltz
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter