Thể loại:
Julius Caesar
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài này viết về quan độc tài La Mã thế kỷ 1 TCN. Đối với bài về những người họ hàng của ông cũng gọi là “Gaius Julius Caesar”, xem
Gaius Julius Caesar. Đối với bài về những họ hàng khác, xem
Julii Caesares.
Gāius Jūlius Caesar (phát âm trong tiếng Latin: “Gai-ux Du-li-ux Khai-xơ”; cách phiên âm “Xê-za” bắt nguồn từ tiếng Pháp César; 12 tháng 7 hoặc 13 tháng 7 năm 100 TCN – 15 tháng 3 năm 44 TCN) là một lãnh tụ quân sự và chính trị của La Mã và là một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử thế giới. Ông đóng một vai trò then chốt trong sự chuyển đổi Cộng hòa La Mã thành Đế chế La Mã. Một trong những chiến tích quang vinh nhất của ông[1] – cuộc chinh phục xứ Gaule (bao gồm Pháp, Bắc Ý, Bỉ, Tây Thụy Sĩ, v.v… ngày nay) của ông mở cho La Mã con đường tiếp cận Đại Tây Dương. Julius Caesar đã phát động sau đó cuộc xâm lăng của La Mã vào xứ Britannia (nước Anh ngày nay) cũng như đã cho xây cầu sông Rhein năm 55 TCN, trở thành tướng La Mã đầu tiên vượt qua eo biển Manche cũng như qua bờ phải sông Rhein.
Caesar được xem là một trong những nhà quân sự lỗi lạc nhất, chính trị gia xuất sắc nhất và là một trong những lãnh tụ vĩ đại nhất của lịch sử thế giới thời La Mã cổ đại.
Vào năm 42 TCN, hai năm sau khi Caesar bị mưu sát, viện nguyên lão La Mã chính thức thánh hóa, xem ông là một trong những vị thần của La Mã.
Dẫn đầu binh đoàn lê dương của mình vượt qua sông Rubicon, Caesar tiến hành một cuộc Nội chiến vào năm 49 TCN, và đánh bại kẻ thù của ông là Pompey trong trận đánh quyết định tại Pharsalus là chiến thắng vĩ đại nhất trong sự nghiệp quân sự của ông.[2] Với chiến thắng của ông trong cuộc Nội chiến, ông vươn lên trở thành một “lãnh tụ tuyệt đối” của La Mã. Sau khi hoàn toàn kiểm soát chính quyền, Caesar tiến hành những cuộc cải cách rộng lớn nhất về mặt xã hội và chính quyền. Ông được tuyên bố là “Lãnh tụ suốt đời”, và ông kiểm soát toàn bộ nền cộng hòa. Mỉa mai thay, chính điều này đã khiến một trong những người bạn của ông, Marcus Junius Brutus, người về sau hiệp lực cùng những kẻ bất mãn vời Caesar để mưu sát ông và khôi phục nền cộng hòa. Cuộc mưu sát Caesar xảy ra vào ngày Idus Martiae (15 tháng 3) năm 44 TCN và khơi mào cho một cuộc nội chiến khác của La Mã.
Những chiến dịch quân sự của Caesar được biết đến một cách chi tiết qua những bài viết Commentarii (bài tường thuật) của ông, và nhiều chi tiết khác về cuộc đời của ông được ghi nhận lại bởi những sử gia như Appian, Suetonius, Plutarch, Cassius Dio và Strabo. Những thông tin khác được thu thập từ những nguồn thông tin (xuất hiện cùng thời Caesar), như là những bức thư và bài diễn văn của Cicero, kẻ thù chính trị của Caesar, những bài thơ của Catullus, và những bài viết của sử gia Sallus.
Cuộc đời
Thời trẻ
Caesar sinh trong một gia đình quý tộc thuộc dòng dõi Julius, dòng dõi cho rằng mình được thừa hưởng dòng máu của Iulus, con của hoàng tử Aeneas của thành Troia, con của thần tình yêu Venus.[3] Thần thoại nói rằng Caesar được sinh mổ,[4] nhưng có lẽ là không đúng lắm vì vào thời ấy sự sinh mổ chỉ có thể được thực hiện trên những người phụ nữ đã chết, trong khi mẹ của Caesar sống rất lâu sau khi ông ra đời.
Dù cho có một nguồn gốc và địa vị hoàn hảo, dòng tộc Julii-Caesares không giàu có lắm (so với mức bình thường của các quý tộc La Mã khác). Không thành viên nào trong gia đình Caesar làm được điều gì nổi bật vào thời gian này, mặc dù thế hệ cha của Caesar đã phục hồi phần nào sự thịnh vượng của gia tộc. Cha của Caesar, cũng được gọi là Gaius Julius Caesar, đã làm tới chức pháp quan,[5] có lẽ bởi vì sự ảnh hưởng của Gaius Marius, anh hùng chiến tranh và một nhà chính trị nổi bật lúc bấy giờ, người đã cưới chị của cha Caesar, Julia. Mẹ của Caesar là con gái của một gia đình có uy thế, gia đình mà đã có rất nhiều người làm tới chức quan Chấp chính tối cao. Cả gia đình ông sống trong một căn nhà khiêm tốn tại vùng Subura, một khu vực nghèo lân cận La Mã,[6] nơi mà Marcus Antonius Gnipho, một nhà hùng biện đồng thời là một nhà văn phạm đến từ xứ Gaule,[7] được mướn làm thầy dạy học cho Caesar. Ngoài Caesar, gia đình ông còn có hai con gái (cả hai đều được gọi là Julia). Vài điều ít ỏi này được ghi nhận là tuổi thơ của Caesar. Bản tiểu sử về Caesar của Suetonius và Plutarch bắt đầu vào tuổi thiếu niên của Caesar. Những điều trước đó đã không tìm thấy một sự ghi nhận nào.[8]
Caesar trưởng thành trong thời kỳ hỗn loạn của La Mã. Cuộc chiến tranh Liên Minh giữa La Mã và các đồng minh của họ (91 TCN – 88 TCN) nổi lên vì sự tranh cãi về quyền của công dân La Mã. Khi mà vua Mithridates VI xứ Pontos đe dọa các tỉnh phương đông của La Mã; thì ở trong nội bộ, La Mã bị chia rẽ thành hai phe: Phe Quý Tộc (Optimates), phe mà muốn giữ quyền hành thống trị cho các quý tộc, và phe Đại Chúng (Populares) phe muốn ngay lập tức sự chia sẻ quyền lực rộng rãi hơn thông qua quyền bầu cử trực tiếp.[9]
Chú Marius của Caesar là một người thuộc phe Đại chúng; người bảo trợ và đối thủ của ông Lucius Cornelius Sulla là một người thuộc phe Quý Tộc. Cả hai nổi lên trong cuộc chiến Xã hội, và cải hai đều muốn chỉ huy cuộc chiến tranh chống lại vua Mithridates VI, điều mà ban đầu được giao cho Sulla; nhưng khi Sulla rời La Mã để chỉ huy lực lượng của mình một Hộ Dân quan La Mã thông qua một bộ luật trao lại quyền lực cho Marius. Một thông điêp được gửi đến Sulla nói rằng ông ta sẽ không thể rời khỏi doanh trại của mình mà còn sống. Sulla tiến quân về La Mã. Marius buộc phải lưu vong, nhưng khi Sulla quay trở lại cuộc chiến của mình; một đồng minh của ông, Lucius Cornelius Cinna chiếm lấy La Mã và công khai tuyên bố Sulla là “một kẻ thù của xã hội”.
Lực lượng của Marius trả thù những người theo Sulla rất tàn bạo. Marius chết ở năm 84 TCN nhưng phe của ông ta vẫn còn rất mạnh.
Năm 84 TCN cha của Caesar chết bất ngờ khi đang mang giày vào một buổi sáng,[10] và ở tuổi 16 Caesar trở thành người chủ gia đình. Những năm tiếp theo, Caesar được đề bạt cho chức Flamen Dialis (Tổng thầy tế của Jupiter — Lucius Cornelius Merula,[11] người tiền nhiệm, đã bị sát hại trong cuộc thanh trừng của Marius) và sau khi được giữ chức này Caesar không những trở thành một quý tộc mà còn cưới con gái của một quý tộc. Ông bội hôn ước của mình với Cossutia, một con gái của một gia đình giàu có mà ông được hứa hôn từ thời niên thiếu, và cưới con gái của Cinna, Cornelia.[12]
Sulla sau khi buộc vua Mithridates VI phải ký kết hòa ước, Sulla quay trở lại để kết thúc cuộc nội chiến với quân của Marian. Sau một chiến dịch khắp Italia ông ta cuối cùng cũng tiêu diệt hoàn toàn quân Marians ở Trận Colline Gate vào tháng 17 năm 82 TCN. Bởi vì cả hai quan chấp chính đều đã chết, Sulla bóng gió gợi ý Viện Nguyên Lão đưa ông ta lên nắm chức Người đứng đầu lâm thời (chức vụ này sẽ có quyền lực tuyệt đối như là một tên độc tài). Viện Nguyên lão dễ dàng chấp nhận điều này thông qua một cuộc bỏ phiếu mở rộng. Sau khi lên nắm quyền, Sulla bắt đầu một chuỗi những cuộc thanh trừng đẫm máu những kẻ thù chính trị của mình. Tượng của Marius bị gỡ bỏ. Cinna thì bị binh lính của mình giết trong một cuộc nổi loạn.[13] Caesar vì là cháu trai của Marius và con rể của Cinna, bị tước bỏ quyền thừa kế, của hồi môn của vợ mình và chức giáo sĩ của mình, nhưng ông từ chối ly dị Cornelia và buộc phải bỏ trốn. Mối đe dọa đối với ông chỉ bị bãi bỏ khi khi gia đình của mẹ ông, dòng họ Cottae (người giúp đỡ Sulla) và những Trinh nữ Vestal, can thiệp. Sulla miễn cưỡng chấp nhận, và mọi người nói rằng Sulla nói ông ta thấy “quá nhiều Marius trong Caesar”.[8]
Thành tựu ban đầu
Caesar không quay trở lại La Mã, ông gia nhập quân đội phục vụ dưới quyền của Marcus Minucius Thermus ở Tiểu Á. Khôi hài thay, việc Caesar mất chức thầy tế đã giúp ông có thể đeo đuổi sự nghiệp quân sự: chức Flamen Dialis không được cho phép để cưỡi hoặc chạm vào một con ngựa, ngủ ba đêm ngoài không trên giường hoặc một đêm ngoài La Mã, hoặc đứng đầu một lực lượng quân đội.[14] Trong một nhiệm vụ ở Bithynia để đảm bảo sự giúp đỡ của hạm đội vua Nicomedes, Caesar ở lại lâu đến nỗi làm xuất hiện tin đồn về “tình yêu” của ông với nhà vua, điều mà đeo đẳng ông suốt cuộc đời. Tuy nhiên, ông vẫn có được sự khác biệt trong sự nghiệp phục vụ quân đội của mình; Caesar giành được Corona Civica (hay Civic Crown)– một giải thưởng vinh dự xếp hàng thứ hai của Quân đội La Mã – vì trong cuộc bao vây Mytilene Caesar đã cứu mạng một người lính khác. Cùng với sự hiện diện của Viện nguyên lão, nếu Caesar đeo nó – Corona Civica – khi ở ngoài công cộng tất cả mọi người sẽ phải đứng lại và tung hô ông. Caesar còn phục vụ trong quân đội của Servilius Isauricus ở xứ Cilicia trong một thời gian ngắn.[15]
Về Sulla, sau hai năm quyền hành tuyệt đối, đã hành động không giống bất cứ tên độc tài nào trước đó. Ông này giải tán quân đội của mình, thiết lập lại chính quyền trực thuộc Viện Nguyên lão (để hợp pháp hóa quyền lực của mình, Sulla đã chịu một cuộc bấu cử và ông đã được Bầu làm Nguyên lão năm 80 TCN), và bãi bỏ sự độc tài. Ngoài ra, Sulla còn không đem thao vệ sĩ và đi lại không cần bảo vệ, và đề nghị công khai mọi hành động của mình với mọi công dân La Mã.[16] Caesar sau này đã chế nhạo: “Sulla không biết gì về chính trị”.[17] Sau nhiệm kỳ thứ hai, Sulla về hưu, ông trở về với ngôi nhà ở duyên hải của mình viết hồi ký và tự cho phép mình tận hưởng một cuộc sống riêng tư.[18] Ông chết hai năm sau đó, đám tang của ông rất to lớn và không đám tang của ai có thể so sánh được cho đến đám tang của Augustus năm 14.
Năm 78 TCN, nghe tin Sulla chết, Caesar cảm thấy đây là thời điểm an toàn để trở về La Mã. Ông trở về cùng lúc với một cuộc bạo loạn chống Sulla của Marcus Aemilius Lepidus, nhưng Caesar, do thiếu sự tin tưởng với sự lãnh đạo của Lepidus, đã không cùng tham gia.[19] Về La Mã, ông biện hộ và chứng minh sự vô tội của một người tên là Cornelius Dolabella. Ông được biết đến với tài hùng biện xuất sắc, hình thành bởi một giọng nói đầy sức thuyết phục và tài diễn tả gây say mê, sự tố cáo những kẻ thống trị tồi tệ và thối nát lúc bấy giờ. Nhà hùng biện lớn Cicero đã từng bình luận: “Ai có tài nói hay hơn Caesar?[20]” Để hoàn chỉnh kỹ năng của mình, Caesar đã đến đảo Rhodes năm 75 TCN để học tập với sự chỉ bảo của nhà giáo nổi tiếng Apollonius Molon, người thầy dạy của Cicero.[21]
Bị hải tặc bắt cóc
Khi đi qua biển Aegean,[22] Caesar bị bọn hải tặc vùng Cilicia bắt cóc;[23] ngay trong tình trạng bị giam cầm Caesar vẫn tìm cách giữ mình khỏe mạnh. Theo như lời kể của Plutarch, khi bọn hải tặc nói với Caesar rằng chúng sẽ đòi tiền chuộc ông là 20 talent vàng, Caesar cười to và bảo ông đáng giá ít nhất 50 talent (12000 miếng vàng).[24][25] Sự kiện này được đem làm một dẫn chứng cho sự tự tin của Caesar ngay cả khi sống trong nguy hiểm, làm giảm đi khả năng bị giết hại của ông. Ngoài ra Caesar còn tham gia và làm việc như một thủy thủ hải tặc, và nhanh chóng tỏ ra mình không mấy lo lắng khi chửi rủa một chút khi bọn hải tặc tỏ ý không hài lòng và muốn từ chối ông. Sau khi được chuộc, Caesar tập hợp một hạm đội, tiến công và bắt giữ bọn hải tặc. Khi chính quyền Tiểu Á xét xử bọn hải tặc nhưng Caesar không hài lòng, nhà sử học Plutarch có viết trong tác phẩm của mình: “Caesar tự đề ra hình phạt, ông đến Pergamum, bắt bọn hải tặc ra khỏi tù, và đóng đinh toàn bộ, như là lời cảnh báo của ông khi ông còn ở trên đảo, điều mà bọn hải tặc cứ cho là ông đùa”.[26]
Pontifex Maximus và công cuộc cầm quyền ở Hispania
Khi trở về thành La Mã, ông được bầu làm Hộ Dân quan quân sự, là bước đầu trong sự nghiệp chính trị của ông. Vào năm 69 trước Công Nguyên, ông được cử làm quan coi quốc khố (quaestor),[27] và trong năm đó ông đọc bài văn tế dì ông là Julia. Người vợ ông là Cornelia cũng qua đời vào năm đó.[28] Sau khi mai táng cho vợ, vào Mùa Xuân hoặc là đầu Mùa Hạ năm 69 trước Công Nguyên, Julius Caesar đến Hispania để thực hiện nhiệm kỳ quan coi quốc khố của mình.[29] Theo các nhà sử học Suetonius và Cassius Dio, trong thời gian này ông có chiêm bao thấy mình quan hệ tình dục với mẹ ruột của mình, cũng giống như vua Oedipus trong thần thoại Hy Lạp. Đây là một chuyện kỳ lạ vì xảy ra đúng lúc vợ ông mất, làm cho ông vô cùng ngỡ ngàng. Theo Suetonius, khi Caesar rất ngạc nhiên và vời một nhà giải mộng đến hỏi, ông này cho rằng thực chất người mẹ trong giấc mộng này là Mẹ Trái Đất – người mẹ chung của tất cả mọi người, và cho thấy ông sẽ làm bá chủ thế giới,[30] cũng như Alexandros Đại Đế khi xưa. Tuy nhiên, theo Plutarch thì giấc mơ “bất hợp pháp” này lại diễn ra ít lâu trước sự kiện Caesar vượt sông Rubicon vào năm 49 trước Công Nguyên, dù Plutarch không có kể về một lời giải mộng nào cả.[31][32][33] Vào năm 63 TCN, Quintus Caecilius Metelleus Pius, người được Sulla chỉ định làm Đại giáo chủ (Pontifex Maximus) chết. Trong một bước đi quan trọng Caesar ra tranh cử. Ông chạy đua với hai đối thủ rất mạnh, Quintus Lutatius Catulus và Publius Servilius Vatia Isauricus. Mặc dù có nhiều lời tố cáo gian lận từ mọi phía, Caesar vẫn chiến thắng.[34]
Cuộc bầu chọn Đại giáo chủ là một bước rất quan trọng trong sự nghiệp của Caesar. Chức vụ vừa có cả quyền lực về chính trị lẫn tôn giáo đã đặt một nền móng vững chắc cho Caesar trong xã hội và sự nghiệp sau này của Caesar.
Năm 62 TCN, Caesar được bầu chọn làm Trưởng quan. Người ta kể rằng ông đã đến trước tượng đài vua Alexandros Đại Đế trong miếu thờ thần Hercules tại Cadiz. Ôn rơi nước mắt và nói: “Có ai biết rằng tôi đau buồn vì ở độ tuổi của tôi, Alexandros đã làm vua của biết bao dân tộc trong khi tôi chưa lập công danh gì để đời?” Chính từ sự kiện này, các nhà sử học thường so sánh sự nghiệp của Alexandros Đại Đế và Caesar.[35] Sau nhiệm kỳ Trưởng quan, Caesar được giao quyền cai trị vùng Ngoại Iberia (Hispania Ulterior). Sự lãnh đạo của Caesar là một thành công cả về chính trị lẫn quân sự đã giúp cho ông mở rộng sự cai trị của La Mã. Như là một kết quả hiển nhiên, binh lính của Caesar xem ông như là Hoàng đế, và nhận được sự giúp đỡ trong Viện Nguyên lão cho phép ông diễu hành chiến thắng vào La Mã. Bên cạnh đó, sau khi trở về La Mã, Marcus Porcius Cato bác bỏ yêu cầu được làm quan chấp chính của Caesar. Phải lựa chọn giữa cuộc diễu hành và chức chấp chính tối cao, Caesar chọn chức quan.[36]
Nhiệm kỳ chấp chính và chế độ Tam Đầu chế đầu tiên
60 TCN (hay 59 TCN) Caesar được bầu chọn làm quan chấp chính tối cao của Cộng hòa La Mã bởi Hội nghị Centuriate (Centuriate Assembly).[37] Quan chấp chính thứ hai là kẻ thù chính trị của Caesar, Marcus Calpurnius Bibulus, một người thuộc phe Quý tộc và là con rể của Cato Trẻ (Cato the Younger, sau này là kẻ thù đáng gờm nhất của Julius Caesar[38]). Hành động đầu tiên của Bibulus ở chức Chấp chính là rời khỏi mọi hoạt động chính trị “để tìm trên bầu trời các điềm báo”. Hành động trông có vẻ “mộ đạo” này của Bibulus nhằm âm mưu gây khó dễ cho Caesar. Những người La Mã châm biếm sau đó đã gọi năm này là “năm của Julius và Caesar”[39] (lẽ ra là “năm của Caesar và Bibulus” như cách người La Mã hay đặt tên cho năm theo tên của hai quan chấp chính được bầu chọn năm đó).
Caesar cần có đồng minh, và ông đã tìm ra. Vị tướng giỏi nhất lúc bấy giờ, Gnaeus Pompeius Magnus (hay Pompey) vừa thất bại trong cuộc đấu tranh với Viện Nguyên lão trong việc giành đất trồng trọt cho những cựu binh lính của ông ta. Một cựu Chấp chính Marcus Licinius Crassus, người giàu nhất La Mã lúc đó, đang gặp rắc rối với khách hàng, và viên quan thu thuế đang muốn gia tăng nguồn thu. Pompey và Crassus cần có quyền lực của Caesar, còn Caesar cần uy tín của Pompey và tiền của Crassus. Và cả ba người bắt tay thành lập chế độ Tam đầu chế đầu tiên. Để bảo đảm cho mối quan hệ, Pompey cưới con gái duy nhất của Caesar, Julia.[40] Bỏ qua sự khác biệt về tuổi và quan điểm, cuộc hôn nhân chính trị này được chứng minh là có tình yêu.
Cuộc chinh phạt xứ Gaule
-
Cuộc chiến chinh phạt xứ
Gaule
Sau đó, Caesar được cử làm thống đốc xứ Transalpine Gaul (miền nam nước Pháp ngày nay) và Illyria (bờ biển của Dalmatia), nhiệm kỳ 5 năm. Không bằng lòng với việc nhàn rỗi làm Thống đốc và rất cần tiền để trả các món nợ khổng lồ, Caesar tiền hành cuộc chinh phạt xứ Gaule, qua đó ông chinh phục toàn bộ xứ Gaule (gồm nước Pháp ngày nay, phần lớn của Thụy Sĩ và Bỉ, một phần nước Đức, nối liền vùng đất cực tây Châu Âu từ Đại Tây Dương tới sông Rhein) và sát nhập nó vào La Mã. Theo ông trong cuộc chiến này có, người anh em họ Lucius Julius Caesar và Mark Antony, Titus Labienus, Quintus Tullius Cicero, người em của Caesar, đối thủ – người mưu sát ông tương lai, Marcus Tullius Cicero.
Caesar tiêu diệt người Helvetii (ở Thụy Sĩ) năm 58 TCN, liên minh người Belgae và người Nervii năm 57 TCN, và người Veneti năm 56 TCN. Ngày 26 tháng 8 năm 55 TCN và vào năm 54 TCN Caesar tấn công xứ Britain 2 lần; vào năm 52 TCN ông tiêu diệt liên minh của người Gaule ở trận đánh Alesia, bắt giữ lãnh đạo của người Gaule là Vercingetorix. Ông ghi lại toàn bộ các chiến dịch của mình trong Commentarii de Bello Gallico (Bản báo cáo về cuộc chinh phạt xứ Gaule).
Theo Plutarch và các bản ghi chép lại của các học giả Brendan Woods thì kết quả của cuộc chiến này là: tổng cộng 800 thành thị bị chinh phục, 300 bộ lạc bị xóa sổ, 1 triệu người bị bán làm nô lệ và 3 triệu người chết trận. Các sử gia cổ đại có lẽ hơi thái quá, nhưng cuộc chinh phạt xứ Gaule của Caesar chắc chắn là cuộc xâm lăng quân sự lớn nhất và thành công nhất kể tứ thời vua Alexandros Đại đế. Chiến thắng của Caesar thì bền vững hơn là của Alexandros Đại Đế: xứ Gaule không bao giờ khôi phục lại nhân dạng văn hóa Celt của nó, không bao giờ có cuộc bạo loạn dân tộc chủ nghĩa nào, và trung thành với chính quyền La Mã cho tới khi Đế quốc La Mã sụp đổ vào năm 476. Đồng thời, thắng lợi vang dội này gia tăng uy thế của ông.[1]
Sự sụp đổ của Tam đầu chế thứ nhất
Ghen ghét trước những thành công và lợi ích mà Caesar đem về cho La Mã, những người cùng chức vị trở nên không ưa Caesar, đặc biệt là những phe bảo thủ, những người cho rằng Caesar đang muốn làm một ông vua. Năm 55 TCN, Pompey và Crassus được bầu làm Quan chấp chính và họ giữ lời thỏa thuận với Caesar bằng cách giao chức Tổng đốc cho Caesar trong 5 năm tiếp theo. Đó là hành động cuối cùng của Chế độ Tam Hùng thứ Nhất.
Năm 54 TCN, con gái của Caesar, Julia, chết khi sinh con. Crassus thì bị giết khi đang tiến hành các cuộc chinh phạt của mình ở xứ Parthia. Không có cả Crassus lẫn Julia, Pompey ngả hẳn về phe Quý tộc. Vẫn ở Gaule, Caesar tìm cách cứu vãn mối quan hệ với Pompey bằng cách đề nghị Pompey lấy một trong những cháu gái của mình, nhưng Pompey từ chối. Thay vào đó Pompey cưới Cornelia Metella, con của Metellus Scipio, một trong những kẻ thù lớn nhất của Caesar.
Cuộc nội chiến
Năm 50 TCN, Viện Nguyên lão, đứng đầu là Pompey, ra lệnh cho Caesar giải tán quân đội và trở về La Mã với lý do nhiệm kỳ của ông tại Gaule đã kết thúc. Không những vậy, họ còn cấm Caesar ra ứng cử Quan Chấp chính. Trước tình hình này, Caesar nghĩ ông sẽ bị vu oan và cách ly ra khỏi đời sống chính trị nếu ông quay trở lại La Mã mà không có sự bảo trợ bởi một vị Quan Chấp chính hoặc sức mạnh của đội quân trung thành với ông. Thêm vào đó, Pompey còn buộc tội Caesar là “không phục tùng” và “âm mưu tạo phản”.
Vào ngày 10 tháng 1 năm 49 TCN, Caesar vượt qua sông Rubicone (khoảng biên giới Ý) với duy nhất một binh đoàn lính Lê dương La Mã của mình và phát động nội chiến. Người ta tin rằng, trong khi vượt qua Rubicone, Caesar có nói “Alea iacta est” (Con xúc xắc đã được đổ). Tháng 1 thường là thời điểm khó khăn để đưa một đội quân ra ngoài xa trường, do đó các kẻ thù của Caesar khiếp vía khi hay tin này.[41]
Phe Quý tộc, bao gồm Mettelus Scipio và Cato Trẻ, chạy về miền Nam, không biết rằng Caesar chỉ có Đoàn Lê Dương 13 theo ông. Thực chất, quân chủ lực của ông hãy còn trấn thủ ở miền Bắc dãy Anpơ.[41] Caesar truy kích Pompey tới Brindisium, với hy vọng khôi phục lại mối quan hệ đồng minh với Pompey. Nhưng Pompey lẩn tránh Caesar. Thay vì tiếp tục truy kích Pompey, Caesar đến ở Hispania và nói: “Ta đến đây trước là để đánh với một quân đội không người lãnh đạo, sau là đánh một lãnh đạo không có quân đội”. Để Marcus Aemilius Lepidus giữ La Mã, Mark Antony quản lý Ý, Caesar tiến hành một cuộc hành quân 27 ngày nổi tiếng tại Hispania nơi ông tiêu diệt đội quân chủ lực của Pompey. Sau đó, Caesar đông tiến, tấn công Pompey ở Hy Lạp nơi mà vào ngày 10 tháng 7 năm 48 TCN, Caesar đã khôn khéo tránh được thất bại và giành phần thắng về mình. Tuy lực lượng của Pompey mạnh hơn lực lượng của ông về mọi mặt (gần gấp ba lần số bộ binh và nhiều hơn đáng kể số kỵ binh), Caesar vẫn giành được chiến thắng quyết định qua một trận đánh rất ngắn ở Pharsalus năm 48 TCN. Lợi thế nghiêng về ông do rất ít Nghị sĩ phe Pompey còn sống sót sau trận chiến quyết định này.[42]
Ở La Mã, Caesar nắm quyền lực tuyệt đối và được cử làm Thống lĩnh Tối cao (có quyền lực như một Nhà Độc tài), Mark Antony làm Đại Tư Mã Quan cho ông; Caesar chấp nhận bỏ quyền hành độc tài của mình sau bảy ngày và trúng cử nhiệm kỳ Chấp chính thứ hai cùng với Publius Servilius Vatia Isauricus. Ông tiếp tục truy kích Pompey đến Alexandria, nơi Pompey bị ám sát bởi một viên quan của Pharaoh Ptolemy XIII Theos Philopator đang trị vì. Caesar sau đó dính vào cuộc nội chiến giành quyền lực của nội bộ Alexandria giữa Ptolemy và Nữ hoàng Ai Cập Cleopatra VII – em gái, vợ và nữ hoàng cùng cai trị với vua Ptolemy XIII. Có lẽ vì vai trò của Ptolemy trong vụ mưu sát Pompey, Caesar đứng về phía Cleopatra, người ta kể lại rằng Caesar đã rơi nước mắt khi viên quan thị thần của Ptolemy dâng đầu của Pompey lên cho Caesar như là một món quà. Sau đó, Caesar tiêu diệt lực lượng của Ptolemy và đưa Cleopatra lên nắm quyền. Cleopatra sau đó đã sinh cho Caesar một đứa con (không được thừa nhận nhưng các sử gia đều chắc chắn đó là con trai duy nhất của Caesar) Ptolemy XV Caesar hay Caesarion (“Caesar nhỏ” hay “con của Caesar”). Sau đó Cleopatra có một lần cùng Caesar diễu hành vào La Mã.
Caesar và Cleopatra không bao giờ cưới nhau. Họ không thể làm như vậy vì luật của La Mã ràng buộc rằng chỉ có hai công dân La Mã mới được cưới nhau; trong khi Cleopatra là Nữ hoàng Ai Cập. Người ta tin rằng Caesar đã tiếp tục mối quan hệ với Cleopatra trong suốt cuộc hôn nhân cuối cùng của ông, cuộc hôn nhân này kéo dài 14 năm nhưng không có người con nào cả.
Sau khi trải qua những tháng đầu năm 47 TCN ở Ai Cập, Caesar đến Trung Đông, nơi ông tiêu diệt quân đội của vua Pharnaces II xứ Pontos trong trận Zela, buộc Pharnaces II phải bỏ chạy;[43] thắng lợi của ông nhanh chóng và trọn vẹn đến nỗi ông đã ghi lại nó trong chỉ ba chữ: “Veni, Vidi, Vici” (Đã đến, đã thấy, đã chinh phục). Ghi nhận này trở nên bất hủ trong nền lịch sử quân sự.[44] Sau đó Caesar đến Bắc Phi để giải quyết tàn quân của những người theo Pompey, ông nhanh chóng giành được thắng lợi ở Thapus trước lực lượng của Metellus Scipio (chết trận) và Cato Trẻ (tự sát). Nhưng con trai của Pompey, Gnaeus Pompeius và Sextus Pompeius; cùng với pháp quan, tướng cũ của Caesar Titus Labienus trốn đến Hispania. Caesar tiếp tục truy kích tàn quân chống đối còn lại và tiêu diệt họ ở Munda tháng 3 năm 45 TCN. Cùng thời gian này, Caesar được bầu làm Quan Chấp Chính nhiệm kỳ ba (năm 46 TCN với Marcus Aemilius Lepidus) và nhiệm kỳ bốn (năm 45, không có người đồng nhiệm).
Sau nội chiến
Caesar trở về Ý tháng 9 năm 45 TCN. Việc đầu tiên là Caesar viết di chúc, trong đó cháu trai của ông Gaius Octavianus là người thừa kế thứ nhất, sẽ kế thừa toàn bộ sự nghiệp (kể cả danh hiệu chức vị của Caesar) sau khi ông qua đời; nếu Octavianus chết trước Caesar, Marcus Junius Brutus sẽ là người thừa kế tiếp theo. Viện Nguyên lão bắt đầu tôn vinh Caesar. Mặc dù Caesar không thanh trừng các kẻ thù của ông mà lại tha thứ cho hầu như tất cả bọn họ, sự chống đối Caesar có vẻ như rất ít ỏi.
Những hoạt động thể thao và lễ hội lớn diễn ra vào ngày 21 tháng 4 hàng năm để vinh danh những thắng lợi của Caesar. Cùng với hoạt động đang diễn ra, Caesar được quyền mặc “Trang phục chiến thắng”, gồm một chiếc áo choàng tím và một vòng nguyệt quế vinh quang trong mọi hoạt động của ông. Một dinh thự lớn đã được dựng lên bằng chi phí của thành La Mã, được dành cho Caesar dùng riêng. Danh hiệu “Nhà độc tài” của ông được công nhận và được ông sử dụng cho tới lúc chết. Một bức tượng ngà voi của Caesar được khiêng đi trong mọi lễ lạc tôn giáo. Các hình ảnh của Caesar cho thấy vào lúc này ông chải mái tóc phủ ra trước để che đậy tình trạng hói.
Một bức tượng khác của Caesar được đặt ở đền thờ Quirinus với dòng đề tặng “Dâng lên vị thần không thể bị đánh bại”. Từ khi đền thờ Quirinus được xem như biểu tượng của người tìm ra và vị vua đầu tiên của thành La Mã, Romulus, sự kiện này chứng tỏ Caesar không chỉ có địa vị giống như một vị thần mà còn được so sánh công lao giống như vị vua đã xây dựng La Mã. Bức tượng thứ ba được đặt tại thủ dinh của La Mã cùng một hàng với bảy bức tượng vua La Mã và cùng với Lucius Junius Brutus, người đã đánh đuổi chế độ quân chủ ra khỏi La Mã. Và trong một hành động gây xôn xao nữa của Caesar, Caesar cho đúc tiền in hình ông. Đây là lần đầu tiên La Mã có đồng tiền kiểu này.
Caesar là người La Mã đầu tiên đúc tiền in hình mình
Khi Caesar quay trở lại La Mã vào tháng 10 năm 45 TCN, ông từ chức Chấp Chính (nhiệm kỳ mà ông làm Chấp chính một mình) đưa Quintus Fabius Maximus và Gaius Trebonius lên thay ông. Hành động này làm Viện Nguyên lão tức giận vì nó hoàn toàn không đếm xỉa đến quyền bầu cử của chế độ Cộng hòa, nó được thực hiện chỉ bằng ý của riêng Caesar. Sau đó, Caesar tổ chức lễ diễu hành chiến thắng lần thứ 14, Viện Nguyên lão vẫn tiếp tục cổ vũ. Một đền thờ tên là Libertas được xây dựng cho Caesar, và ông nhận được tước vị “Người Giải phóng”. Họ bầu chọn Caesar làm Chấp chính suốt đời, và cho pháp ông giữ tất cả tước vị ông muốn, kể cả tước vị dành riêng cho người bình dân. Từ đây Caesar nắm quyền lực tuyệt đối cả về chính trị lẫn quân sự.
Ngoài ra, Caesar còn được quyền chỉ định quan tòa địa phương, mà trước đây thường là phải bầu cử. Mặc khác, ông còn quy định trách nhiệm các vị quan chức, chỉ định các chức vị ở các ngành ở các địa phương; điều mà trước đây phải được bốc thăm dưới sự phê duyệt của Viện Nguyên Lão. Tháng sinh của Caesar, Quintilis, được đổi tên thành Julius; ngày sinh của ông 12 tháng 7 trở thành quốc lễ của La Mã. Một đền thờ và một nhóm thầy tế tên là Flamen Maior, được thành lập để vinh danh gia tộc của Caesar.
Tuy nhiên, Caesar đã tiến hành một tiến trình cải cách để dẹp trừ tệ nạn xã hội. Ông thông qua một bộ luật cấm công dân La Mã từ 20 đến 40 tuổi rời Ý quá ba năm, trừ khi đang ở trong quân đội. Về lý thuyết, điều luật này của ông có thể giúp phát triển nông nghiệp và thương mại và ngăn chặn sự tha hóa ở bên ngoài. Nến một người thuộc giai cấp trên làm hại hoặc giết một người thuộc giai cấp thấp hơn, anh ta sẽ bị tịch thu toàn bộ tài sản. Caesar đã chứng tỏ rằng từ trong tâm ông vẫn quan tâm đến lợi ích cao nhất của quốc gia, ngay cả khi ông tin rằng mình là người duy nhất có khả năng điều hành nhà nước. Việc xóa 1/4 các khoản nợ chưa thanh toán, đã làm cho ông càng được dân chúng quý mến. Caesar điều tiết chặt chẽ việc mua lương thực có trợ giá của chính phủ. Ông nghiêm cấm cách trường hợp đủ khả năng nhưng lại muốn tiếp cận nguồn lương thực được trợ giá này. Ông đã lập kế hoạch phân chia đất đai cho các cựu binh của mình, và kế hoạch thiết lập các thuộc địa trên khắp thế giới La Mã.
Một trong những cải cách có ảnh hưởng lâu dài và sâu rộng nhất của Caesar là cải cách về Lịch Julius: ông quy định một năm có 365 ngày và cứ 4 năm lại có một năm nhuận 366 ngày (bộ lịch này chỉ được sửa đôi chút bởi Giáo hoàng Gregory XIII rồi trở thành bộ lịch được dùng tới bây giờ). Để thực hiện cải cách này, có một năm (rất có thể tương ứng với năm 46 TCN) đã được kéo dài 445 ngày.
Ngoài ra, các công trình công cộng lớn đã được tiến hành. Caesarcho tu sửa lại La Mã – vốn đang là một đô thị ngổn ngang với các kiến trúc bằng gạch không mấy ấn tượng, thành phố đang rất cần được đổi mới. Bục diễn đàn bằng đá hoa cương đã được xây mới cùng với các tòa án và các khu chợ. Một thư viện công cộng dưới sự quản lý của Học giả vĩ đại Marcus Terentius Varro cũng đang được thi công. Tòa nhà của Viện Nguyên lão, Curia Hostilia, tuy vừa mới được sửa chữa, được bỏ để xây một tòa nhà mới tên là Curia Julia. Quảng trường Caesar cùng với đền thờ Venus được xây dựng. Thành phố Pomerium được mỏ rộng để cho phép sự phát triển dân số.
Tất cả những sự phô trương, hoàn cảnh, và tiền thuế bị tiêu xài quá mức đã làm một số thành viên của Viện Nguyên lão tức giận. Một trong những người này là người bạn thân thiết của Caesar, Marcus Junius Brutus.
Âm mưu ám sát Caesar
Tranh vẽ cổ: vụ mưu sát Caesar
Ông đã được Viện Nguyên Lão La Mã tôn vinh là Imperus Maximus Dalte Sum Romana (vị thống soái cao nhất của La Mã). Danh hiệu này khẳng định rằng ông la Praetori et Romanus, nghĩa là “Người bảo trợ cao nhất của La Mã” (sau này danh hiệu này được truyền cho Augustus).
Sử gia Plutarch ghi nhận rằng có một thời điểm, Caesar đã nói với Viện Nguyên Lão rằng các vinh dự của ông cần được giảm bớt thay vì tăng lên, nhưng rồi đã rút lại quan điểm này để không trở nên có vẻ vô ơn. Ông được phong tặng tước vị Pater Patriae (người cha của đất nước). Ông được cử làm Thống lãnh Tối cao lần thứ ba; và được đề cử chức vị này trong liên tiếp chín nhiệm một năm, tổng cộng ông giữ chức này trong mười năm. Ông còn được giao quyền kiểm duyệt với vai trò người có đạo đức hoàn hảo (praefectus morum) trong ba năm.
Vào đầu năm 44 TCN, khi mà danh tiếng của Caesar không ngừng tăng và hố ngăn cách giữa ông và giới quý tộc ngày càng sâu, ông được nhận tước vị Dictator Perpetuus, đảm bảo vị trí độc thống lãnh tối cao cho tới khi chết. Danh hiệu này bắt đầu xuất hiện trên các đồng tiền, đặt Caesar lên trên tất cả. Vài người bắt đầu gọi Caesar là Rex (vua) nhưng Caesar từ chối tiếp nhận danh hiệu “Rem Publicam sum!” (Ta là nền cộng hòa!). Ở đền thờ mới của Venus, khi một phái đoàn Nguyên lão đến, Caesar từ chối đứng lên chào mừng họ. Mặc dù người ta tin rằng khi đó Caesar đang bị tiêu chảy (một triệu chứng của bệnh động kinh của ông), các Nguyên lão cảm thấy bị sỉ nhục ghê gớm. Thấy sai lầm của mình, Caesar tìm cách xoa dịu các Nguyên lão bằng cách chìa cổ cho những người bạn của ông và đề nghị nếu ai cần thì cứ chặt nó đi. Nhưng mọi chuyện xem rằng đã quá muộn, các âm mưu ám sát ông bắt đầu.
Brutus bắt đầu mưu tính chống đối Caesar cùng với những người bạn của ông ta, anh rể của ông là Gaius Cassius Longinus và vài người khác nữa, họ tự gọi mình là những “người giải phóng” (Liberatores). Hai ngày trước vụ mưu sát, Cassius Longinus cùng với những người đồng mưu cùng nói nếu ai để lộ âm mưu người đó sẽ tự sát.
Vào ngày 15 tháng 3 (Idus Martiae) năm 44 TCN một nhóm các Nguyên lão gọi Caesar đến để đọc đơn thỉnh cầu cầu ông giao trả quyền lực cho Viện Nguyên Lão. Lá đơn này là giả mạo; Mark Antony cảm thấy nghi ngờ một kẻ trong nhóm Liberatores tên là Servilius Casca, và cảm thấy lo lắng tột độ khi nghe tin Caesar đi lại không vệ sĩ như mọi khi, đến gặp một nhóm các nguyên lão; ông vội vàng đi chặn Caesar lại. Nhưng đã quá muộn, khi đi qua Nhà hát Pompey Caesar bị một nhóm các Nguyên lão chặn lại và dẫn ông vào một căn phòng ở cửa Đông.
Khi Caesar đang đọc lá đơn giả mạo, Servilius Casca (đã nói ở trên) tiến lại giật áo choàng của Caesar và sượt tay qua cổ ông. Caesar quay lại và nắm lấy cằm của Casca la to bằng tiếng Latin: “Tên khốn Casca, ngươi đang làm gì đó?” Casca hoảng sợ, kêu những Nguyên lão đồng mưu bằng tiếng Hy Lạp: “Anh em làm ơn giúp đỡ!” (αδελφοι βοήθει!, adelphoi boethei!). Ngay lập tức, toàn bộ nhóm nguyên lão, kể cả Brutus, xông lên tấn công Caesar. Caesar tìm cách thoát thân, nhưng mờ mắt vì máu và vì cái áo choàng quá dài Caesar vấp ngã. Rốt cục những kẻ ám sát chỉ giết được ông khi ông ngã xuống và không thể chống cự trên bậc thềm của cánh cổng. Theo Eutropous, có hơn 60 người tham gia vào âm mưu giết ông và Caesar đã bị đâm tổng cộng 23 nhát.[45]
Điều cuối cùng Caesar nói là gì? Điều này còn đang được tranh cãi. Trong tác phẩm Julius Caesar, William Shakespeare viết rằng câu cuối cùng Caesar nói là: Et tu, Brute? (“Kể cả anh sao, Brutus?”). Nhưng đó là sáng tạo của Shakespeare. Nhà sử học La Mã Suetonius ghi lại rằng những lời cuối của Caesar bằng tiếng Hy Lạp là “καί σύ τέκνον”-“Kài sú, Teknon?” (“Cả con nữa à?”). Nhưng hầu hết người La Mã tin rằng ông đã nói câu cuối cùng bằng tiếng Latin: “Tu qouque, Brute, fili mihi?”-“Cả ngươi nữa sao, Brutus, con trai của ta?”.[46][47] Plutarch cho rằng ông không nói gì cả, chỉ kéo áo dài lên đầu khi nhìn thấy Brutus trong đám người ám sát.[48]
Sau cuộc ám sát, các nguyên lão ra khỏi tòa nhà và nói chuyện với nhau một cách đầy kích động. Brutus còn la to: “Nhân dân La Mã, một lần nữa chúng ta lại tự do!”. Nhưng mọi việc chưa dừng lại ở đó, cái chết của Caesar khởi đầu cho cuộc nội chiến mà trong đó Mark Antony, Octavian (sau là Caesar Augustus) và những người khác đánh nhau vì cả mục đích báo thù lẫn quyền lực.
La Mã sau khi Caesar bị ám sát
Cái chết của Caesar, mỉa mai thay, đã đánh dấu sự sụp đổ của Cộng hòa La Mã – cái mà vì muốn bảo vệ nên những người kia đã giết ông. Caesar đã luôn luôn được dân chúng La Mã thuộc các tầng lớp trung lưu và hạ lưu ngưỡng mộ. Họ đã nổi giận vì một nhóm nhỏ các quý tộc đã giết hại vị chủ soái vô địch của mình. Mark Antony đã kêu gọi đám đông báo thù. Antony đã dùng sự thương tiếc của đám đông để đe dọa tấn công trực tiếp vào phe quý tộc, và có lẽ còn muốn đoạt lấy La Mã về mình nữa. Nhưng Caesar đã chọn người thừa kế duy nhất là Octavianus, không chỉ đưa ông ta trở thành một trong những công dân giàu có nhất của La Mã, mà còn để lại cho ông ta cái tên Caesar đầy quyền lực. Không chỉ vậy, Octavianus – người con của Caesar vĩ đại – còn được thừa hưởng lòng trung thành của phần lớn nhân dân La Mã. Khi Caesar chết, Octavianus mới 19 tuổi nhưng đã tỏ ra là người khá nguy hiểm. Trong khi Antony đấu với Decimus Brutus trong vòng đâu tiên của các cuộc nội chiến mới, thì Octavianus củng cố vị trí của mình.
Để đấu với Brutus và Cassius đang tập trung quân ở Hy Lạp, Antony cần cả tiền từ các két sắt chiến tranh của Caesar lẫn tính hợp pháp mà cái tên của Caesar có thể mang lại trong các chiến dịch chống lại hai người kia; thế là Chế độ tam hùng mới được thành lập – chế độ thứ hai và cuối cùng – với các thành viên Antony, Octavianus và vị tướng kỵ binh trung thành của Caesar là Lepidus. Chế độ tam hùng thứ hai đặt Caesar lên vị trí thần thánh: Divus Iulius – và do thấy rằng lòng khoan dung của Caesar đã dẫn đến cái chết của ông, họ đã sử dụng lại hình thức Đặt ra ngoài vòng pháp luật (đã bị bãi bõ từ thời Sulla) để trừng phạt các kẻ thù trên diện rộng, nhằm mục đích tích lũy được nguồn tài chính dành cho cuộc nội chiến thứ hai chống lại Brutus và Cassius. Kết quả là phe Tam hùng đã đánh bại Brutus và Cassius tại Philipi. Sau khi thắng lợi Chế độ tam hùng thứ hai tan rã, một cuộc nội chiến khác bùng lên giữa phe Octavianus và phe Antony-Cleopatra với thắng lợi thuộc về Octavianus. Sau thắng lợi, Octavianus trở thành hoàng đế đầu tiên của La Mã dưới cái tên Caesar Augustus. Năm 42 TCN, Caesar được thánh hóa với tên Divus Iulius (Thần thiêng Julius), còn Augustus thì trở thành Divi filius (Con của một vị thần).
Sự nghiệp văn chương
Caesar rất thường viết các tác phẩm văn học quân sự. Ông xem nó như là một các để tăng sự ủng hộ của dân chúng thành La Mã dành cho ông. Và dường như cách nghĩ này của ông đã đúng. Danh tiếng lẫy lừng, nhờ đó Caesar thường không viết rõ những sai lầm mà ông gây ra trong cuộc chinh phạt man rợ Gaule. Dù là một thiên tài quân sự, như Caesar, cũng như nhiều danh tướng xuất sắc khác, luôn phải do dự trước vết nhơ của chiến tranh.[49]
Các tác phẩm quân sự sau là các tác phẩm còn lưu lại được của ông.
Hồi ký
Các tác phẩm sau đây được tin là của ông:
Sự nghiệp quân sự
Lính viễn chinh
Lê dương La Mã xuất hiện sau cải cách quân sự của danh tướng Gaius Marius, và trở thành linh hồn của Quân đội La Mã. Ở thời của Caesar, binh lính của ông giàu kinh nghiệm nhất và thiện chiến nhất La Mã, và đặc biệt họ rất trung thành với ông.
[50] Trong hình là một Sĩ quan Đại đội trưởng Centurion
Với sự nghiệp quân sự rất thành công của Julius Caesar, ông trở thành một trong những vị Đại Danh tướng (Great Captains) lịch sử, cùng với Alexandros Đại Đế, Hannibal, Gustav II Adolf, Karl XII, Friedrich II Đại Đế và Napoléon.[51][52] Mặc dù ông không bách chiến bách thắng, ông cũng đã từng thất bại lớn trong nhiều trận đánh, như trận Gergovia (trong cuộc chinh phạt xứ Gaule), Trận Dyrrhachium (trong cuộc Nội chiến), thế nhưng khả năng, mưu lược tài tình của ông vẫn ngời sáng qua sự xây đắp thành lũy bao vây ở Alesia trong cuộc chiến xứ Gaule, chiến thắng đội quân đông đảo hơn rất nhiều của Pompey ở Pharsalus, và sự tận diệt đội quân của vua Pharnaces xứ Pontos trong trận đánh tại Zela. Vua Friedrich II Đại Đế đam mê đọc những Hồi ký của Caesar[53] Hoàng đế Napoléon cũng đọc đi đọc lại những tác phẩm của vị kiệt tướng La Mã này.[54] Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Alexander Hamilton ca ngợi ông là “nhân vật kiệt xuất nhất xưa nay”.[55] Còn nhà lý luận quân sự Đức vĩ đại Karl von Clausewitz có viết:[56]
“ |
Một cảm xúc mạnh mẽ phải kích thích tài năng của chỉ huy quân sự, có thể là tham vọng như đối với Caesar… |
” |
—Julius Caesar |
Một phần do ông đến với các vấn đề quân sự quá trễ trong đường đời, một phần do bản chất ông, ông không giỏi chiến lược và chiến thuật bằng hai danh tướng cổ đại Alexandros Đại Đế và Hannibal, nhưng ông cũng có đủ những tài năng khác của hai danh nhân này để trở thành một lãnh đạo quân sự vĩ đại. Không những thế, ông thậm chí còn hơn cả hai người này và có lẽ bất kỳ một vị tướng soái nào trong lịch sử trong việc truyền cảm ba quân xung phong một khi tình thế không có lợi.[57] Và ông cũng là vị Dại Danh tướng duy nhất tự dạy binh cách cho mình.[51] Ông có thể gặt hái chiến thắng dưới bất kỳ địa hình, thời tiết nào có thể phần lớn là nhờ vào tính kỷ luật cao của binh lính ông, khả năng điều khiển tuyệt vời, và sự trung thành của các chiến binh dành cho ông. Kỵ binh và bộ binh của ông là tinh nhuệ nhất (của Cộng hòa La Mã thời đó), và ông sử dụng rất nhiều các thiết bị chiến tranh của La Mã như máy bắn đá, máy bắn tên và nhiều mặt khác nữa, điều mà khiến cho lực lượng của ông trở nên cực kỳ thiện chiến, kỷ luật và di chuyển rất nhanh (một vài tài liệu chép rằng lực lượng của Caesar có thể di chuyển tới hơn 40 dặm trong vòng một ngày). Lực lượng của ông ước có khoảng hơn 4 vạm Bộ binh và rất nhiều Kỵ binh, cùng với một số đơn vị chuyên dụng khác như là các máy móc chiến tranh, phu phục vụ. Sự linh động của Caesar là một yếu tố quan trọng khiến cho tên tuổi của ông trở thành bất hủ, cũng giống như Alexandros Đại Đế và Friedrich II Đại Đế.[58] Caesar kể trong bản hối ký của ông rằng một số làng của người Gaule được xây dựng trên dốc thẳng đứng và rất vững chắc, sẽ thiệt hại rất lớn nếu muốn tấn công những khu làng kiểu này, nhưng các máy móc và kỹ sư của ông có thể đào qua các lớp đá cứng và tìm ra nguồn cung cấp nước cho các làng đó, và ông ngắt nó đi. Ngôi làng thiếu nước cung cấp, đầu hàng hầu như sau đó ngay lập tức.
“ |
…Nếu kẻ thù của các Ngươi ngăn ngừa các Ngươi vượt sông, thì hãy làm theo Caesar… chọn một khoảng xa và dễ để lập kế hoạch vượt sông. |
” |
—Quân lệnh của vua Friedrich II Đại Đế cho các quan tướng của mình (1747)[59] |
Gia đình Caesar
Cha mẹ
Chị em
Vợ
Caesar không cưới nhiều vợ một lúc, ông chỉ có một vợ vào một thời điểm, thứ tự này biểu thị thứ tự trước sau không phải thứ tự chánh lẽ:
Con
Cháu
- Cháu ngoại, con của Julia và Gnaeus Pompeius Magnus chết sau khi sinh ít lâu, không có tên.
- Julius Sabinus một người Gaule vùng Lingones, tuyên bố mình là cháu của Caesar do bà của anh ta là người tình của Caesar trong thời kỳ Chiến Tranh Gallic[60]
Tình nhân
Khác giới
Đồng giới (theo tin đồn)
Xã hội La Mã không chú ý lắm đền vấn đề này. Thật vậy, họ không đếm xỉa tới vấn đề giới trong các quan hệ kiểu trên. Bên cạnh đó, từ có lời kể rằng một số người lính đã từng chế diễu Caesar bằng cách hát các câu có nội dung giống như sau:
- Caesar đã chinh phục xứ Gaule; nhưng Nicomedes đã chinh phục Caesar mất rồi.
Hoặc là:[61]
- Bây giờ Caesar làm lễ diễu binh chiến thắng, vì Ngài chinh phạt xứ Gaul. Nicomedes không thắng trận, dù Ngài chinh phạt Caesar.
Có tin đồn rằng Caesar và Nicomedes từng có mối quan hệ đồng giới khi ông mới bắt đầu sự nghiệp của mình. Theo Cicero, Bibulus, Gaius Memmius từng có một số chính khách tìm cách hạ nhục Caesar bằng cách lôi chuyện này ra. Đây có thể chỉ là những đòn tung hoả mù sau khi ông bị ám sát. Caesar, theo Cassius Dio, đã phủ nhận nó bằng cách tuyên thệ. Ông vốn nhạy cảm với những chuyện như thế, và thực chất ông là người mê gái.[62]
Danh hiệu của Caesar
Ngay tên của Caesar cũng là một danh hiệu mà nhiều vị Hoàng đế sau này thường dùng để làm niên hiệu (tiếng Đức: Kaisar; các tiếng gốc Slav: Tsar/Czar). Mãi đến sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất mới hết các Vương triều sử dụng tên ông làm Đế hiệu. Tên của ông khi ông còn sống, cũng chỉ thông thường như mọi tên khác, nhưng nó đã trở thành một Đế hiệu khi ông chết đi.
Những tác phẩm của Caesar
Nguồn gốc bài viết
Chú thích
- ^ a ă Nic Fields, Peter Dennis, Julius Caesar, trang 4
- ^ Charles Freeman, J. F. Drinkwater, Andrew Drummond, The world of the Romans, trang 20
- ^ Suetonius, Lives of the Twelve Caesars: Julius 6; Velleius Paterculus, Roman History 2.41; Virgil, Aeneid
- ^ Pliny the Elder, Natural History 7.7. The misconception that Julius Caesar himself was born by Caesarian section dates back at least to the 10th century (Suda kappa 1199). However, he wasn’t the first to bear the name, and in his time the procedure was only performed on dead women, while Caesar’s mother, Aurelia, lived long after he was born
- ^ Suetonius, Julius 1; Plutarch, Caesar 1, Marius 6; Pliny the Elder, Natural History 7.54; Inscriptiones Italiae, 13.3.51-52
- ^ Suetonius, Julius 46
- ^ Suetonius, Lives of Eminent Grammarians 7
- ^ a ă Plutarch, Caesar 1; Suetonius, Julius 1
- ^ Appian, Civil Wars 1.34-75; Plutarch, Marius 32-46, Sulla 6-10; Velleius Paterculus, Roman History 2.15-20; Eutropius 5; Florus, Epitome of Roman History 2.6, 2.9
- ^ Suetonius, Julius 1; Pliny the Elder, Natural History 7.54
- ^ Velleius Paterculus, Roman History 2.22; Florus, Epitome of Roman History 2.9
- ^ Suetonius, Julius 1; Plutarch, Caesar 1; Velleius Paterculus, Roman History 2.41
- ^ Appian, Civil Wars 1.76-102; Plutarch, Sulla 24-33; Velleius Paterculus, Roman History 2.23-28; Eutropius, Abridgement of Roman History 5; Florus, Epitome of Roman History 2.9
- ^ William Smith, A Dictionary of Greek and Roman Antiquities: Flamen
- ^ Suetonius, Julius 2-3; Plutarch, Caesar 2-3; Cassius Dio, Roman History 43.20
- ^ Appian. Civil Wars 1.103
- ^ Suetonius, Julius 77.
- ^ Plutarch, Sulla 36-38
- ^ Suetonius, Julius 3; Appian, Civil Wars 1.107
- ^ Suetonius, Julius 55
- ^ Suetonius, Julius 4. Plutarch (Caesar 3-4) reports the same events but follows a different chonology.
- ^ Again, according to Suetonius’s chronology (Julius 4). Plutarch (Caesar 1.8-2) says this happened earlier, on his return from Nicomedes’s court. Velleius Paterculus (Roman History 2:41.3-42 says merely that it happened when he was a young man.
- ^ Plutarch, Caesar 1-2
- ^ Thorne, James (2003). Julius Caesar: Conqueror and Dictator. The Rosen Publishing Group. tr. 15.
- ^ Freeman, 39
- ^ Freeman, 40
- ^ Freeman, 51
- ^ Freeman, 52
- ^ Goldsworthy, 100
- ^ Adrian Keith Goldsworthy, Caesar: life of a colossus, trang 100
- ^ Miriam Tamara Griffin, A companion to Julius Caesar, trang 132
- ^ Philip Freeman, Julius Caesar, trang 54
- ^ Philip Freeman, Julius Caesar, trang 364
- ^ Cicero, For Gaius Rabirius; Cassius Dio, Roman History 26-28
- ^ Luciano Canfora, Julius Caesar: the life and times of the people’s dictator, các trang 17-18.
- ^ Plutarch, Julius 13; Suetonius, Julius 18.2
- ^ Plutarch, Caesar 13-14; Suetonius 19
- ^ Philip Freeman, Julius Caesar, trang 44
- ^ Cicero, Letters to Atticus 2.15, 2.16, 2.17, 2.18, 2.19, 2.20, 2.21; Velleius Paterculus, Roman History 44.4; Plutarch, Caesar 14, Pompey 47-48, Cato the Younger 32-33; Cassius Dio, Roman History 38.1-8
- ^ Cicero, Letters to Atticus 2.1, 2.3, 2.17; Velleius Paterculus, Roman History 2.44; Plutarch, Caesar 13-14, Pompey 47, Crassus 14; Suetonius, Julius 19.2; Cassius Dio, Roman History 37.54-58
- ^ a ă Adrian Goldsworthy, Caesar: Life of a Colossus, trang 376
- ^ Philip Freeman, Julius Caesar, trang 281
- ^ Philip Freeman, Julius Caesar, trang 329
- ^ Philip Freeman, Julius Caesar, trang 313
- ^ Woolf Greg (2006), Et Tu Brute? – The Murder of Caesar and Political Assassination, 199 pages – ISBN 1-86197-741-7
- ^ Suetonius, Julius 82.2
- ^ Suetonius, Life of the Caesars, Julius trans. J C Rolfe [1]
- ^ Plutarch, Caesar 66.9
- ^ Philip Freeman, Julius Caesar, trang 128
- ^ Lịch sử La Mã cỗ đại, NXB Văn Hóa, 2004, tr 60-65
- ^ a ă Theodore Ayrault Dodge, Great Captains, trang 73
- ^ Theodor Schieder, Sabina Berkeley, Hamish M. Scott, Frederick the Great, trang 218
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang XXXII
- ^ Thomas Raphael Phillips, Roots of strategy: the 5 greatest military classics of all time, trang 432
- ^ Philip Freeman, Julius Caesar, trang 409
- ^ Wilhelm Leeb (Ritter von), Hugo Freytag-Loringhoven (Freidherr von),Waldemar Erfurth, Roots of strategy: 3 military classics, Sách 3, trnag 198
- ^ Trevor Nevitt Dupuy, The military life of Julius Caesar, imperator Julius Caesar, trang XIV
- ^ Charles Jean Jacques Joseph Ardant du Picq, Carl von Clausewitz, Roots of strategy: 3 military classics, trang 351
- ^ Frederick II (King of Prussia), Frederick the Great: Instructions for his generals, trang 68
- ^ Tacitus, Histories 4.55
- ^ Adrian Goldsworthy, Caesar: Life of a Colossus, trang 461
- ^ Adrian Goldsworthy, Caesar: Life of a Colossus, trang 228
Các tác phẩm đã tham khảo
- Suetonius, Lives of the Twelve Caesars
- Velleius Paterculus, Roman History
- Virgil, Aeneid
- Pliny the Elder, Natural History The misconception that Julius Caesar, Historia Augusta: Life of Aelius
- Florus, Epitome of Roman History
- Appịan, Civil Wars
- Suetonius, Julius
- Suetonius, Caesar
- Suetonius, Augustus
- Plutarch, Sulla
- Plutarch, Caesar
Và một số nguồn khác.
Tư liệu lịch sử về Caesar
Nguồn thứ hai
Gần đây nhất
- Goldsworthy, Adrian. Caesar: Life of a Colossus. New Heaven, CT; London: Yale University Press, 2006 (hardcover, ISBN 0-300-12048-6).
- Meier, Christian. Caesar: A Biography. New York: Basic Books, 1996 (hardcover, ISBN 0-465-00894-1); 1997 (paperback, ISBN 0-465-00895-X).
Xem thêm
Thể loại:
Giải vô địch bóng đá thế giới
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lễ khai mạc World Cup 2014
|
Giải đấu bóng đá |
|
Giải vô địch bóng đá thế giới (tiếng Anh: FIFA World Cup) là giải đấu bóng đá quốc tế do Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) tổ chức bốn năm một lần cho tất cả các đội tuyển bóng đá quốc gia của những nước thành viên FIFA. Giải lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1930, và chỉ bị gián đoạn hai lần vào các năm 1942 và 1946 do chiến tranh thế giới thứ hai.
Thể thức thi đấu hiện tại cho phép 32 đội bóng xuất sắc nhất tham dự vòng chung kết được tổ chức 4 năm một lần (kể từ năm 1998). Vòng loại, được tổ chức trong khoảng thời gian 3 năm trước đó nhằm xác định các đội giành quyền vào chơi vòng chung kết cùng nước chủ nhà. World Cup là sự kiện thể thao thu hút sự quan tâm đông đảo nhất trên toàn thế giới, FIFA cho hay đã có 906,6 triệu người theo dõi ít nhất 1 phút trận chung kết World Cup 2010 giữa Tây Ban Nha và Hà Lan qua truyền hình. Con số này tăng lên gần 1 tỷ người nếu tính cả số người xem trực tuyến và xem tại các khu vực công cộng. Chi tiết hơn, có 530,9 triệu người ngồi theo dõi trận chung kết tại gia và có 619,7 triệu người xem ít nhất 20 phút hiệp phụ của trận đấu này.
Qua 20 lần (tính đến năm 2014) được tổ chức, đã có 8 quốc gia đứng lên bục đăng quang. Brasil là đội duy nhất tham dự đủ 20 vòng chung kết và hiện đang giữ kỷ lục 5 lần vô địch giải. Tiếp đó là Tuyển Ý và Đức với 4 lần giành ngôi cao nhất. Argentina và đội vô địch giải đầu tiên Uruguay, cùng có 2 danh hiệu. Các nhà vô địch khác là Anh, Pháp, Tây Ban Nha, mỗi đội 1 danh hiệu.
Đương kim vô địch thế giới là đội tuyển Đức sau khi giành chiến thắng trước Argentina với tỉ số 1–0 trong hiệp phụ ở trận chung kết World Cup 2014.[1]
Lịch sử
Ý tưởng tập hợp những đội bóng mạnh nhất của các quốc gia trong một trận cầu tranh chức vô địch thế giới bắt nguồn từ thập niên 1920, do một nhóm các nhà quản lý bóng đá Pháp, đứng đầu là Jules Rimet, đề xướng.
Nghị quyết việc tiến hành đều đặn Giải vô địch bóng đá thế giới được Đại hội FIFA họp tại Amsterdam thông qua năm 1928. Trong thời kỳ này bóng đá nhà nghề đã có một quy mô rộng lớn song những cuộc đấu ở Thế vận hội thì chỉ cho phép các cầu thủ nghiệp dư tham gia nên không đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của giới bóng đá.
Tên gọi chính thức của Giải vô địch bóng đá thế giới đã có vài lần thay đổi. Thoạt đầu nó được gọi là “Cúp thế giới” (World Cup, Coupe du monde) sau đó là “Cup Jules Rimet” (tên của cựu chủ tịch FIFA), rồi đến “Giải vô địch bóng đá thế giới – Cup Jules Rimet” và sau cùng là “Giải vô địch bóng đá thế giới”.
Giải đấu đầu tiên chính thức được tổ chức tại Uruguay vào năm 1930, với sự tham dự của 13 đội tuyển. Và chiếc cúp vàng thứ nhất mang tên “Jules Rimet” đã lọt vào tay chính đội chủ nhà.
FIFA World Cup diễn ra đều đặn 4 năm một lần, trừ hai kỳ bị huỷ bỏ vào các năm 1942 và 1946 vì ảnh hưởng của Thế chiến thứ hai.
Trong thập niên 1950, giải vô địch bóng đá thế giới nhanh chóng tái khẳng định vị trí và tiếp tục duy trì thế độc tôn là sự kiện thể thao lớn nhất trong thời hiện đại, được tổ chức luân phiên ở các nước khu vực Châu Âu và Châu Mỹ. Thế nhưng mãi đến kỳ World Cup gần đây người ta mới thấy một bước đột phá khi Hàn Quốc và Nhật Bản được chọn đăng cai World Cup 2002. Đến năm 2010, lần đầu tiên FIFA đã đưa giải đấu đến với Châu Phi, và quốc gia được vinh dự đăng cai là Nam Phi.
Cúp
Từ năm 1970 trở về trước, đội vô địch thế giới được trao “cúp vàng” mà trong các văn kiện chính thức của FIFA gọi là “vật phẩm nghệ thuật”. Đó là bức tượng nhỏ hình “Nữ thần chiến thắng Nike” (theo thần thoại Hy Lạp) mà trong giới bóng đá thường gọi là tượng “Nữ thần vàng”. Theo đơn đặt hàng của FIFA, chiếc tượng này được hoàn thành năm 1928 do một người thợ kim hoàn ở Paris tên là Abel Lafleur đúc bằng vàng thật, nặng 1,8 kg (với chiếc đế bằng đá hoa cương nặng chừng 4 kg), trị giá 10.000 USD.
Trước Giải vô địch bóng đá thế giới năm 1970, FIFA giữ “Cup vàng” theo điều lệ quy định để rồi trao cho liên đoàn bóng đá quốc gia thuộc nước có đội bóng đoạt chức vô địch thế giới rồi trả lại cho FIFA trước khi tiến hành vòng chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới lần sau.
Năm 1970, sau ba lần vô địch, như trong điều lệ quy định, đội Brasil đã được trao tặng vĩnh viễn “Nữ thần vàng”. Sau đó FIFA đặt làm chiếc cup mới lấy tên là Cúp thế giới FIFA. Chiếc cúp này là Cúp luân lưu, không đội bóng nào có thể đoạt vĩnh viễn cả. Những đội bóng chiến thắng sẽ được trao tặng chiếc cup mẫu thu nhỏ để làm kỷ niệm cùng với việc được giữ chiếc cúp chính thức trong thời gian giữa hai giải vô địch bóng đá thế giới. Chiếc cúp mới được đúc bằng vàng thật do nghệ sỹ người Ý Silvio Gazzaniga sáng tác, chiều cao 36,5 cm, nặng 6,175 kg, trị giá 20.000 USD. Cúp này do người thợ kim hoàn Stabilimento Artistico Bertoni ở thành phố Milano đúc. Chiếc cúp mang hình 2 thanh niên với 4 cánh tay giơ cao đỡ lấy quả Địa Cầu.[2] Phần kim loại của chiếc cúp hiện nay là 4,9 kg “vàng nguyên khối 18 carat” và có hai lớp đá malachit.[3]
Các kỷ lục và thống kê
-
Hai cầu thủ có số lần tham dự các vòng chung kết World Cup nhiều nhất là tuyển thủ Mexico Antonio Carbajal và cựu đội trưởng đội tuyển CHLB Đức Lothar Matthäus (cả hai cùng 5 lần góp mặt).[4] Matthäus cũng là người chơi nhiều trận nhất với tổng cộng 25 lần được ra sân.[5] Huyền thoại Pelé là người duy nhất 3 lần vô địch World Cup với tư cách cầu thủ,[6]
Người ghi nhiều bàn thắng nhất tại các kỳ World Cup là tuyển thủ Đức Miroslav Klose, với 16 lần làm tung lưới đối phương trong 4 lần tham dự giải. Thứ hai là tuyển thủ Brasil Ronaldo. Đứng thứ ba với 14 lần lập công là tuyển thủ người Đức Gerd Müller[7]. Ở vị trí thứ tư là trung phong huyền thoại người Pháp Just Fontaine, người cũng đồng thời giữ kỷ lục về số bàn thắng ghi được tại 1 kỳ World Cup, với thành tích 13 bàn ghi được tại giải năm 1958.[8]
Klose cũng chính là cầu thủ nhận được huy chương World Cup nhiều nhất (1 vàng, 1 bạc, 2 đồng). Anh cũng là cầu thủ duy nhất có tất cả các loại huy chương và luôn có huy chương ở tất cả các kỳ World Cup tham gia.
Mário Zagallo và Franz Beckenbauer là hai người đồng thời vô địch World Cup với tư cách cầu thủ và huấn luyện viên. Zagallo vô địch các giải năm 1958 và 1962 khi còn đang thi đấu rồi giải năm 1970 khi chuyển sang vai trò huấn luyện viên.[9] Beckenbauer vô địch giải năm 1974 khi đeo băng đội trưởng đội tuyển Tây Đức và giải năm 1990 với tư cách người chỉ đạo đội.[10] Còn huấn luyện viên tuyển Ý Vittorio Pozzo là người duy nhất từng hai lần giành ngôi vô địch trên ghế chỉ đạo.[11]
Tính đến hết World Cup 2014, Đức là đội từng thi đấu nhiều trận nhất tại giải 106 trận, theo sau là Brasil với 104 trận. Đức là đội ghi được nhiều bàn thắng nhất với 224 bàn, theo sau là Đội tuyển Brasil với 220 bàn [12] Hai đội gặp nhau lần đầu tiên trong lịch sử thi đấu tại giải của mình ở trận chung kết năm 2002.
World Cup gần như là sân chơi riêng cho các đội bóng Nam Mỹ và Châu Âu khẳng định sự thống trị tuyệt đối bóng đá thế giới bởi vì cho đến nay thì chưa có đội bóng nào ngoài Châu Âu và Nam Mỹ được nâng cao chiếc cup vàng danh giá.
Kết quả
Các đội vô địch, á quân, hạng 3 và hạng 4
- Chú thích
- ^ Không có trận tranh giải ba chính thức tại World Cup 1930; Hai đội tuyển Hoa Kỳ và Nam Tư đều thua tại vòng bán kết. FIFA hiện nay công nhận Hoa Kỳ giành hạng ba và Nam Tư giành hạng tư căn cứ vào thành tích thi đấu trước đó tại giải của hai đội.[13]
- ^ a ă Không có trận chung kết chính thức tại World Cup 1950.[14] Đội vô địch được xác định qua một lượt đấu vòng tròn tính điểm giữa bốn đội lọt vào vòng cuối cùng (Uruguay, Brasil, Thụy Điển, và Tây Ban Nha). Tuy nhiên, trận đấu giữa Uruguay và Brasil tại lượt đấu cuối cùng mang tính quyết định đội nào giành ngôi vô địch. Vì vậy, trận đấu này thường xuyên được coi như trận chung kết của World Cup 1950.[15].
Các quốc gia vào chung kết
Tổng cộng, đã có 76 quốc gia ít nhất một lần được tham dự một vòng chung kết World Cup.[16] Trong số này, 8 quốc gia đã từng đăng quang một kỳ World Cup, và giành quyền gắn một ngôi sao trên áo đấu của mình cho mỗi chức vô địch. (Tuy nhiên, Uruguay là ngoại lệ của luật bất thành văn này; Họ gắn 4 ngôi sao trên áo đấu, tượng trưng cho hai tấm huy chương môn bóng đá nam tại các kỳ Thế vận hội 1924 và 1928 cùng hai chức vô địch World Cup các năm 1930 và 1950). Với 5 chức vô địch, Brasil là đội bóng giàu thành tích nhất thế giới, đồng thời là đội bóng duy nhất cho đến nay chưa vắng mặt tại bất kỳ vòng chung kết nào.[17] Ý (1934 và 1938) cùng Brasil (1958 và 1962) là hai đội bóng từng bảo vệ thành công chức vô địch của mình. Brasil và Đức là hai đội từng chơi nhiều trận chung kết nhất, với 8 lần (Đức) và 7 lần (Brasil), ngoài ra Đức cũng giữ kỷ lục về số lần lọt vào tới vòng bán kết, với 13 lần.
Đội |
Vô địch |
Á quân |
Hạng ba |
Hạng tư |
Brasil |
5 (1958, 1962, 1970, 1994, 2002) |
2 (1950*, 1998) |
2 (1938, 1978) |
2 (1974, 2014*) |
Đức^ |
4 (1954, 1974*, 1990, 2014) |
4 (1966, 1982, 1986, 2002) |
4 (1934, 1970, 2006*, 2010) |
1 (1958) |
Ý |
4 (1934*, 1938, 1982, 2006) |
2 (1970, 1994) |
1 (1990*) |
1 (1978) |
Argentina |
2 (1978*, 1986) |
3 (1930, 1990, 2014) |
— |
— |
Uruguay |
2 (1930*, 1950) |
— |
— |
3 (1954, 1970, 2010) |
Pháp |
1 (1998*) |
1 (2006) |
2 (1958, 1986) |
1 (1982) |
Anh |
1 (1966*) |
— |
— |
1 (1990) |
Tây Ban Nha |
1 (2010) |
— |
— |
1 (1950) |
Hà Lan |
— |
3 (1974, 1978, 2010) |
1 (2014) |
1 (1998) |
Tiệp Khắc# |
— |
2 (1934, 1962) |
— |
— |
Hungary |
— |
2 (1938, 1954) |
— |
— |
Thụy Điển |
— |
1 (1958*) |
2 (1950, 1994) |
1 (1938) |
Ba Lan |
— |
— |
2 (1974, 1982) |
— |
Áo |
— |
— |
1 (1954) |
1 (1934) |
Bồ Đào Nha |
— |
— |
1 (1966) |
1 (2006) |
Hoa Kỳ |
— |
— |
1 (1930) |
— |
Chile |
— |
— |
1 (1962*) |
— |
Croatia |
— |
— |
1 (1998) |
— |
Thổ Nhĩ Kỳ |
— |
— |
1 (2002) |
— |
Nam Tư# |
— |
— |
— |
2 (1930, 1962) |
Liên Xô# |
— |
— |
— |
1 (1966) |
Bỉ |
— |
— |
— |
1 (1986) |
Bungary |
— |
— |
— |
1 (1994) |
Hàn Quốc |
— |
— |
— |
1 (2002*) |
-
* = Nước chủ nhà
-
^ = Tính cả thành tích của Tây Đức từ năm 1954 cho đến năm 1990
-
# = Quốc gia đã chia tách thành các quốc gia độc lập nhỏ hơn
Các giải thưởng
-
Hiện có 6 giải thưởng trao cho cá nhân hay toàn đội tuyển cho thành tích thi đấu của họ tại mỗi kỳ World Cup:[18]
- Giải Quả bóng vàng cho cầu thủ xuất sắc nhất giải, do giới truyền thông bầu chọn (được trao lần đầu vào năm 1982); Quả bóng bạc và Quả bóng đồng cho hai cầu thủ xếp thứ hai và thứ ba về số phiếu trong cuộc bầu chọn này;[19]
- Giải Chiếc giày vàng cho vua phá lưới của giải. Chiếc giày bạc và Chiếc giày đồng cho hai cầu thủ về nhì và về ba[20]
- Giải thưởng Yashin cho thủ môn xuất sắc nhất giải, do Hội đồng Kỹ thuật của FIFA bầu chọn (được trao lần đầu vào năm 1994);[21]
- Giải Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất cho cầu thủ xuất sắc nhất dưới 21 tuổi tính đến thời điểm giải khởi tranh, do Hội đồng Kỹ thuật của FIFA bầu chọn (được trao lần đầu vào năm 2006).
- Giải FIFA Fair Play Trophy cho đội có chỉ số fair play tốt nhất, theo thang điểm do Ủy ban Fair Play FIFA quyết định (được trao lần đầu vào năm 1978);
- Giải Đội tuyển lôi cuốn nhất cho đội giành được nhiều phiếu nhất do khán giả bình chọn (được trao lần đầu vào năm 1994);
Đội hình tiêu biểu được công bố lần đầu vào năm 1998.
Chú thích
- ^ Nhật Quang (12 tháng 7 năm 2010). “Hà Lan – Tây Ban Nha 0-1: Iniesta đưa “vua” châu Âu lên đỉnh thế giới”. Thể Thao & Văn Hoá. Truy cập 28 tháng 3 năm 2013.
- ^ FIFA World Cup Trophy, FIFA.com. Truy cập 19 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Cúp vàng không bằng vàng ròng”. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2010.
- ^ Yannis, Alex (ngày 10 tháng 11 năm 1999). “Matthaus Is the Latest MetroStars Savior”. New York Times. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2007.
- ^ “World Cup Hall of Fame: Lothar Matthaeus”. CNN. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2007.
- ^ Kirby, Gentry (ngày 5 tháng 7 năm 2006). “Pele, King of Futbol”. ESPN. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2007.
- ^ Chowdhury, Saj (27 tháng 6 năm 2006). “Ronaldo’s riposte”. BBC. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2007.
- ^ “Goal machine was Just superb”. BBC. 4 tháng 4, 2002. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2007.
- ^ Hughes, Rob (11 tháng 3, 1998). “No Alternative to Victory for National Coach: 150 Million Brazilians Keep Heat on Zagalo”. International Herald Tribune. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2005. Truy cập 31 tháng 12 năm 2007.
- ^ Brewin, John (21 tháng 12 năm 2007). “World Cup Legends – Franz Beckenbauer”. ESPN. Truy cập 31 tháng 12 năm 2007.
- ^ “1938 France”. CBC. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2006. Truy cập 31 tháng 12 năm 2007.
- ^ “Planet World Cup – All time table”. Planet World Cup. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2008.
- ^ 1930 FIFA World Cup, FIFA.com. Cập nhật ngày 5 tháng 3 2009.
- ^ 1950 FIFA World Cup, FIFA.com. Cập nhật ngày 5 tháng 3 2009.
- ^ FIFA World Cup Finals since 1930 (PDF), FIFA.com. Cập nhật ngày 5 tháng 3 2009.
- ^ FIFA công nhận tuyển Nga thừa hưởng thành tích của Liên Xô, tuyển Serbia thành tích của Nam Tư/Serbia và Montenegro, còn Cộng hòa Séc cùng Slovakia đồng thời tiếp nhận thành tích của đội Tiệp Khắc.
- ^ “Brazil”. FIFA.com.
- ^ “FIFA World Cup awards”. FIFA.com. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Golden Ball for Zinedine Zidane”. Soccerway. Ngày 10 tháng 7 năm 2006. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2007.
- ^ “adidas Golden Shoe – FIFA World Cup Final”. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Kahn named top keeper”. BBC. Ngày 30 tháng 6 năm 2002. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2007.
Liên kết ngoài