Thể loại:
Úc
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Úc hay Australia (phát âm tiếng Việt: Ô-xtrây-li-a[8], phát âm tiếng Anh: /əˈstreɪljə,_ɒʔ,_ʔiə/,[9][10]) tên chính thức là Thịnh vượng chung Úc (tiếng Anh: Commonwealth of Australia,[11]) là một quốc gia bao gồm đại lục châu Úc, đảo Tasmania, và nhiều đảo nhỏ. Đây là quốc gia lớn thứ sáu về diện tích trên thế giới. Các quốc gia lân cận của Úc gồm có Indonesia, Đông Timor và Papua New Guinea ở phía bắc; Quần đảo Solomon, Vanuatu, và Nouvelle-Calédonie thuộc Pháp ở phía đông-bắc; và New Zealand ở phía đông-nam.
Người Úc bản địa sinh sống tại Úc[12] ít nhất là 40.000 năm[13] trước khi người Anh Quốc định cư lần đầu vào thế kỷ 18,[14][15] Người Úc bản địa nói nhiều ngôn ngữ, các ngôn ngữ này được nhóm lại thành khoảng 250 nhóm ngôn ngữ.[16][17] Các nhà thám hiểm người Hà Lan khám phá ra lục địa vào năm 1606, sau đó Anh Quốc tuyên bố chủ quyền đối với nửa phía đông của Úc vào năm 1770 và ban đầu tiến hành thuộc địa hóa bằng cách đày ải tội phạm đến thuộc địa New South Wales từ ngày 26 tháng 1 năm 1788. Dân số tăng đều đặn trong các thập kỷ tiếp theo; lục địa được thám hiểm và có thêm năm thuộc địa vương thất được thành lập.
Ngày 1 tháng 1 năm 1901, sáu thuộc địa liên hiệp, hình thành Thịnh vượng chung Úc. Từ khi thành lập Liên bang, Úc duy trì một hệ thống chính trị dân chủ tự do ổn định. Liên bang gồm có sáu bang và một số lãnh thổ. Dân số Úc là 23,1 triệu,[5] có mức đô thị hóa cao, tập trung cao tại các bang đông bộ.[18]
Úc là một quốc gia phát triển và nằm trong số các quốc gia thịnh vượng nhất trên thế giới, có nền kinh tế lớn thứ 12 thế giới. Năm 2012, Úc có thu nhập bình quân đầu người cao thứ năm thế giới.[19] Chi tiêu quân sự của Úc đứng thứ 13 thế giới. Úc có chỉ số phát triển con người cao thứ hai toàn cầu, xếp thứ hạng cao trong nhiều so sánh quốc tế, như chất lượng sinh hoạt, y tế, giáo dục, tự do kinh tế, và bảo vệ các quyền tự do dân sự và chính trị.[20] Úc là một thành viên của Liên Hiệp Quốc, G20, Thịnh vượng chung các quốc gia, ANZUS, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Tổ chức Thương mại Thế giới, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, và Diễn đàn các đảo Thái Bình Dương.
Nguồn gốc quốc hiệu
Bức ký họa
Port Jackson, vùng đất sau này thành phố
Sydney được xây dựng, nhìn từ South Head. (Từ
A Voyage to Terra Australis.)
Danh xưng “Úc” và “Úc Đại Lợi” trong tiếng Việt là giản xưng của Úc Đại Lợi Á (Trung văn phồn thể: 澳大利亞; giản thể: 澳大利亚), dịch danh Trung văn của quốc hiệu nước Úc.
Tên gọi “Australia” bắt nguồn từ từ “australis” trong tiếng Latinh có nghĩa là “phương nam”. Những huyền thoại về “một vùng đất chưa được biết đến ở phương Nam” đã có từ thời La Mã và là cái tên bình thường trong địa lý thời Trung Cổ nhưng không dựa trên bất kỳ sự hiểu biết giấy tờ nào về lục địa này. Năm 1521, người Tây Ban Nha là một trong những người châu Âu đầu tiên đến Thái Bình Dương. Lần sử dụng từ “Australia” lần đầu tiên là vào năm 1625 – nằm trong những chữ “Ghi chép về Australia del Espiritu Santo, viết bởi Master Hakluyt”, xuất bản bởi Samuel Purchas ở trong Hakluytus Posthumus[21]. Trong tiếng Hà Lan, từ Australische thuộc dạng tính từ được sử dụng bởi công ty Đông Ấn Hà Lan ở Batavia để nhắc tới vùng đất mới được khám phá ở phía Nam năm 1638[22]. Australia còn được sử dụng trong một bản dịch năm 1693 của Les Aventures de Jacques Sadeur dans la Découverte et le Voyage de la Terre Australe, một tiểu thuyết Pháp năm 1676 viết bởi Gabriel de Foigny[22]. Alexander Dalrymple sau đó sử dụng từ này trong An Historical Collection of Voyages and Discoveries in the South Pacific Ocean (1771), nhắc tới toàn bộ vùng Nam Thái Bình Dương. Năm 1793, George Shaw và James Smith xuất bản cuốn Zoology and Botany of New Holland (Hệ động thực vật của Tân Hà Lan) trong đó họ đã viết hàng loạt “những đảo, hoặc đúng hơn là lục địa, của Australia, Australasia hoặc Tân Hà Lan”.
Cái tên “Australia” được phổ biến bởi cuốn sách năm 1814 A Voyage to Terra Australis (Một chuyến đi biển tới Australis) bởi nhà hàng hải Matthew Flinders, người đầu tiên được ghi chép là đã đi vòng quanh Australia bằng đường biển. Mặc dù tựa đề của nó được sử dụng cho Bộ Hải quân Anh nhưng Flinders đã dùng từ “Australia” trong cuốn sách của ông bởi vì nó được đọc một cách rộng rãi nên từ này trở nên thịnh hành. Thống đốc Lachlan Macquarie của New South Wales sau đó đã sử dụng từ này trong bản thông điệp gửi tới nước Anh ngày 12 tháng 12 năm 1817, giới thiệu với văn phòng thuộc địa rằng từ ngữ này đã được chính thức thông qua[23]. Năm 1824, Bộ Hải quân đã đồng ý rằng lục địa này sẽ được nhắc tới chính thức bằng cái tên Australia.
Lịch sử
-
Chân dung thuyền trưởng
James Cook, người Châu Âu đầu tiên vẽ bản đồ bờ biển phía đông của Australia năm 1770.
Theo ước tính, loài người bắt đầu định cư tại lục địa Úc từ 42.000 đến 48.000 năm trước,[24] các di dân này có thể đã từ khu vực mà nay là Đông Nam Á và đến theo các cầu lục địa và vượt biển khoảng cách ngắn. Các cư dân đầu tiên này có thể là tổ tiên của thổ dân Úc hiện nay.[25] Khi người châu Âu tiến hành định cư vào cuối thế kỷ 18, hầu hết thổ dân Úc là những người săn bắn-hái lượm, có một văn hóa truyền khẩu phức tạp và các giá trị tinh thần dựa trên sùng kính thổ địa và tin tưởng vào thời mộng ảo. Người quần đảo Eo biển Torres thuộc nhóm dân tộc Melanesia, họ ban đầu là những người làm vườn và săn bắn-hái lượm.[26] các ngư dân từ Đông Nam Á hàng hải thỉnh thoảng cũng đi đến các vùng duyên hải và vùng biển bắc bộ của Úc.[27]
Nhà hàng hải người Hà Lan Willem Janszoon là người châu Âu đầu tiên được ghi chép là đã trông thấy đại lục Úc, và là người châu Âu đầu tiên được ghi chép là đã đổ bộ lên lục địa Úc. Ông trông thấy bờ biển của bán đảo Cape York vào đầu năm 1606, và tiến hành đổ bộ vào ngày 26 tháng 2 tại sông Pennefather gần thị trấn Weipa ngày nay tại Cape York.[28] Người Hà Lan vẽ hải đồ toàn bộ đường bờ biển tây bộ và bắc bộ và đặt tên cho lục địa đảo là “Tân Hà Lan” trong thế kỷ 17, song không tiến hành nỗ lực định cư.[28] Nhà thám hiểm người Anh William Dampier đổ bộ lên bờ biển tây-bắc của Tân Hà Lan vào năm 1688 và tiếp một lần nữa vào năm 1699 trong một chuyến đi trở lại.[29] Năm 1770, James Cook đi thuyền dọc theo và vẽ bản đồ bờ biển phía đông, ông định danh cho nó là New South Wales và tuyên bố chủ quyền cho Anh Quốc.[30] Sau khi mất 13 thuộc địa tại Bắc Mỹ vào năm 1780, Chính phủ Anh cử một hạm đội tàu, “Đệ nhất hạm đội”, dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Arthur Phillip, đi thiết lập một thuộc địa lưu đày mới tại New South Wales. Một trại được lập ra và quốc kỳ được kéo lên tại Sydney Cove, Port Jackson, vào ngày 26 tháng 1 năm 1788,[15] ngày này trở thành ngày quốc khánh của Úc.
Một khu định cư của Anh Quốc được thiết lập tại đất Van Diemen, nay là Tasmania, vào năm 1803 và đảo này trở thành một thuộc địa riêng biệt vào năm 1825.[31] Anh Quốc chính thức tuyên bố chủ quyền đối với phần tây bộ của Tây Úc (thuộc địa sông Swan) vào năm 1828.[32] Các thuộc địa riêng biệt được tách ra từ các lãnh thổ của New South Wales: Nam Úc vào năm 1836, Victoria vào năm 1851, và Queensland vào năm 1859.[33] Lãnh thổ phương Bắc được tách ra từ Nam Úc và thành lập vào năm 1911.[34] Nam Úc được thành lập với tình trạng là một “tỉnh tự do”—nơi này chưa từng là một thuộc địa lưu đày.[35] Victoria và Tây Úc cũng được thành lập với tình trạng “tự do”, song về sau chấp thuận các tù nhân được vận chuyển đến.[36][37] Những người định cư tại New South Wales tiến hành một chiến dịch mà cuối cùng đã dẫn đến việc chấm dứt vận chuyển tù nhân đến thuộc địa này; tàu chở tù nhân cuối cùng đến vào năm 1848.[38]
Theo ước tính, dân số thổ dân là từ 750.000 đến 1.000.000 vào thời điểm người châu Âu bắt đầu định cư,[39] song dân số của họ suy giảm trong 150 năm sau đó, chủ yếu do bệnh truyền nhiễm.[40] Một chính sách “đồng hóa” của chính phủ bắt đầu với Đạo luật Bảo vệ thổ dân 1869, kết quả là nhiều trẻ em thổ dân bị đưa ra khỏi gia đình và cộng đồng của chúng, hành động này cũng có thể góp phần vào sự suy giảm của dân số người bản địa.[41] Chính phủ Liên bang giành được quyền ra các điều luật tôn trọng thổ dân sau cuộc trưng cầu dân ý năm 1967.[42] Quyền sở hữu đất đai theo truyền thống—quyền sở hữu của thổ dân—không được công nhận cho đến năm 1992, khi Tòa Cao đẳng Úc ra phán quyết Mabo v Queensland (số 2) lật đổ học thuyết pháp lý rằng Úc là “đất vô chủ” trước khi người châu Âu chiếm giữ.[43]
Một cơn sốt vàng bắt đầu tại Úc vào đầu thập kỷ 1850[44] và Nổi loạn Eureka năm 1854 nhằm chống phí cấp phép khai mỏ là một biểu hiện bất tuân dân sự đầu tiên.[45] Từ năm 1855 đến năm 1890, sáu thuộc địa dần giành được quyền có chính phủ chịu trách nhiệm, tự quản lý hầu hết các vấn đề của họ song vẫn là một bộ phận của Đế quốc Anh.[46] Văn phòng Thuộc địa tại Luân Đôn duy trì quyền kiểm soát trên một số vấn đề, đáng chú ý là các quan hệ đối ngoại,[47] phòng thủ,[48] và vận chuyển quốc tế.
Ngày 1 tháng 1 năm 1901, đạt được liên minh của các thuộc địa sau một thập kỷ lên kế hoạch, thảo luận và bỏ phiếu.[49] Thịnh vượng chung Úc được thành lập và trở thành một nước tự trị của Đế quốc Anh vào năm 1907. Lãnh thổ Thủ đô Liên bang (sau đổi tên thành Lãnh thổ Thủ đô Úc) được thành lập vào năm 1911 để làm địa điểm của thủ đô liên bang tương lai- Canberra. Trong khi Canberra được xây dựng, Melbourne là nơi tạm thời đặt trụ sở chính phủ từ năm 1901 đến năm 1927.[50] Quyền kiểm soát Lãnh thổ phương Bắc được chuyển từ chính phủ Nam Úc sang nghị viện liên bang vào năm 1911.[51] Năm 1914, Úc cùng Anh Quốc chiến đấu trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, với sự ủng hộ của Đảng Tự do Thịnh vượng chung đang chuyển giao và Đảng Lao động Úc đang tiếp nhận chính phủ.[52][53] Úc tham gia trong nhiều trận chiến lớn tại Mặt trận phía Tây.[54] Trong số khoảng 416.000 người từng phục vụ, khoảng 60.000 chết và 152.000 bị thương.[55] Nhiều người Úc nhìn nhận thất bại của Quân đoàn Úc và New Zealand tại Gallipoli là mốc quốc gia đản sinh, đó là hành động quân sự lớn đầu tiên của Úc.[56][57]Chiến dịch đường Kokoda được nhiều người nhìn nhận là một sự kiện định nghĩa quốc gia tương tự trong Chiến tranh thế giới thứ hai.[58]
Đạo luật Westminster 1931 của Anh Quốc chính thức chấm dứt hầu hết các liên kết hiến pháp giữa Úc và Anh Quốc. Úc chuẩn thuận nó vào năm 1942,[59] song tuyên bố rằng đạo luật có hiệu lực từ năm 1939 để xác nhận tính hợp lệ của các pháp luật do Nghị viện Úc thông qua trong Chiến tranh thế giới thứ hai.[60][61] Bất ngờ trước thất bại của Anh Quốc tại châu Á vào năm 1942 và mối đe dọa Nhật Bản xâm chiếm khiến Úc hướng sang Hoa Kỳ như một đồng minh và nước bảo hộ mới.[62] Từ năm 1951, Úc trở thành một đồng minh quân sự chính thức của Hoa Kỳ, theo hiệp định ANZUS.[63] Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Úc khuyến khích nhập cư từ châu Âu. Kể từ thập niên 1970 và sau khi bãi bỏ chính sách Úc Da trắng, nhập cư từ châu Á và những nơi khác cũng tăng tiến.[64] Kết quả là Úc có sự biến đổi về các mặt nhân khẩu học, văn hóa, tự nhận thức về bản thân.[65] Việc thông qua Đạo luật Úc năm 1986 đã đoạn tuyệt các quan hệ hiến pháp cuối cùng giữa Úc và Anh Quốc, theo đó chấm dứt hoàn toàn vai trò của Anh Quốc trong chính phủ của các bang của Úc, và kết thúc quyền chọn lựa chống án pháp lý lên Xu mật viện tại Luân Đôn.[66] Trong một cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1999, 55% số cử tri và đa số tại mọi bang đã bác bỏ một đề xuất trở thành một nước cộng hòa với một tổng chống được bầu từ ít nhất 2/3 số phiếu tại cả hai viện của Nghị viện Úc. Kể từ khi Gough Whitlam trở thành thủ tướng vào năm 1972,[67] chính sách đối ngoại của Úc ngày càng tập trung vào các mối quan hệ với các quốc gia khác trong vành đai Thái Bình Dương, trong khi duy trì quan hệ gần gũi với các đồng minh và đối tác thương mại truyền thống của mình.[68]
Địa lý và khí hậu
Diện tích đất liền của Úc là 7.617.930 kilômét vuông (2.941.300 sq mi).[69] Tọa lạc trên mảng Ấn-Úc, bao quanh là Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương,[N 4] tách biệt với châu Á qua các biển Arafura và Timor, biển San hô nằm ngoài khơi bờ biển bang Queensland, và biển Tasman nằm giữa Úc và New Zealand. Úc là lục địa nhỏ nhất thế giới[71] nhưng là quốc gia lớn thứ 6 về tổng diện tích,[72] do kích thước lớn và biệt lập nên Úc còn được gán cho tên “lục địa đảo”,[73] và đôi khi được xem là đảo lớn nhất thế giới.[74] Úc có đường bờ biển dài 34.218 kilômét (21.262 mi) (chưa tính đến các đảo ngoài khơi),[75] và tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế rộng 8.148.250 kilômét vuông (3.146.060 sq mi), chưa tính đến vùng đặc quyền kinh tế của Lãnh thổ châu Nam Cực thuộc Úc.[76]
Rạn san hô Great Barrier (Đại Bảo tiêu) là ám tiêu san hô lớn nhất thế giới,[77] có một khoảng cách ngắn với bờ biển đông bắc của lục địa và trải dài trên 2.000 kilômét (1.240 mi). Núi Augustus tại Tây Úc được tuyên bố là đá nguyên khối lớn nhất thế giới,[78]. Với độ cao 2.228 mét (7.310 ft), núi Kosciuszko thuộc Great Dividing Range (dãy Đại Phân Thủy) là núi cao nhất tại Úc đại lục. Các đỉnh núi cao hơn là đỉnh Mawson với cao độ 2.745 mét hoặc 9.006 foot trên đảo Heard; núi McClintock và núi Menzies có cao độ lần lượt là 3.492 mét (11.457 ft) và 3.355 mét (11.007 ft) tại Lãnh thổ châu Nam Cực thuộc Úc.[79]
Kích thước lớn khiến Úc có nhiều dạng phong cảnh khác nhau, với rừng mưa nhiệt đới ở đông-bắc, các dãy núi ở đông-nam, tây-nam và đông, các hoang mạc khô hạn ở trung tâm. Úc là lục địa bằng phẳng nhất,[80] với đất đai cổ nhất và kém phì nhiêu nhất;[81][82] hoang mạc hay các vùng đất bán khô hạn thường được gọi là “outback” tạo thành phong cảnh phổ biến nhất.[83] Úc là lục địa có người định cư khô hạn nhất, chỉ có các góc đông-nam và tây-nam có khí hậu ôn hòa.[84] Mật độ dân số của Úc là 2,8 người/km², xếp vào hàng thấp nhất trên thế giới,[85] song một phần lớn dân cư sống dọc theo bờ biển đông-nam bộ có khí hậu ôn hòa.[86]
Đông bộ Úc có điểm nhấn là Great Dividing Range (dãy Đại Phân Thủy), dãy núi trải dài song song với bờ biển của Queensland, New South Wales và phần lớn Victoria. Nhiều phần của dãy núi gồm các đồi thấp, và các vùng đất cao thường không có cao độ lớn hơn 1.600 mét (5.249 ft).[87] Các vùng cao duyên hải và một vành đai thảo nguyên cây keo nằm giữa bờ biển và các ngọn núi, trong khi vùng nội địa của dãy phân thủy là các khu vực thảo nguyên rộng lớn.[87][88] Chúng gồm có các bình nguyên tây bộ của New South Wales, và cao địa Einasleigh, đài địa Barkly, và thổ địa Mulga ở vùng nội địa Queensland. Đỉnh cực bắc của vùng bờ biển phía đông là bán đảo Cape York với các khu rừng nhiệt đới.[89][90][91][92]
Các phong cảnh ở phần bắc bộ của quốc gia— Top End và Gulf Country nằm bên vịnh Carpentaria, có khí hậu nhiệt đới—gồm có rừng thưa, thảo nguyên, và hoang mạc.[93][94][95] Tại góc tây-bắc của lục địa là các vách đá và hẻm núi cát kết của vùng The Kimberley, và Pilbara ở bên dưới. Phía nam của chúng và vùng nội địa, nằm trên nhiều khu vực thảo nguyên hơn: đồng bằng Ord Victoria và đất bụi keo Tây Úc.[96][97][98] Phần trung tâm của quốc gia là các cao địa Trung Úc; các đặc trưng của trung bộ và nam bộ gồm có các hoang mạc lục địa Simpson, Tirari và Sturt phủ đá, Gibson, Great Sandy-Tanami, và Đại Victoria, với bình nguyên Nullarbor nổi tiếng tại duyên hải nam bộ.[99][100][101][102]
Khí hậu Úc chịu ảnh hưởng đáng kể từ các dòng hải lưu, bao gồm lưỡng cực Ấn Độ Dương và dao động El Niño–phương Nam, tương quan với hạn hán theo chu kỳ, và hệ thống áp thấp nhiệt đới theo mùa là nhân tố sản sinh các xoáy tụ tại bắc bộ Úc.[103][104] Các nhân tố này khiến cho lượng mưa thay đổi rõ rệt giữa các năm. Phần lớn phần bắc bộ của quốc gia có một khí hậu nhiệt đới, chủ yếu là mùa hạ-mưa (gió mùa).[105] Góc tây nam của quốc gia có một khí hậu Địa Trung Hải.[106] Phần lớn đông nam bộ (bao gồm Tasmania) có khí hậu ôn hòa.[105]
Môi trường
Mặc dù hầu hết lãnh thổ là bán khô hạn hoặc hoang mạc, song Úc sở hữu các môi trường sống đa dạng từ những bãi hoang núi cao đến rừng mưa nhiệt đới, và được công nhận là một quốc gia đa dạng sinh học siêu cấp. Các loại nấm điển hình cho sự đa dạng này; tổng số loài nấm xuất hiện tại Úc, bao gồm cả những loài chưa được phát hiện, được ước tính là khoảng 250.000 loài, trong đó chừng 5% đã được mô tả.[107] Do là lục địa có tuổi lâu năm, các hình thái thời tiết thay đổi cực độ, và cô lập lâu dài về địa lý, phần lớn quần thể sinh vật của Úc có sự khác biệt và đa dạng. Xấp xỉ 85% loài thực vật có hoa, 84% loài thú, trên 45% loài chim, và 89% loài cá ven bờ và vùng ôn đới là loài đặc hữu.[108] Úc là quốc gia có số loài bò sát lớn nhất thế giới, với 755 loài.[109]
Rừng tại Úc chủ yếu gồm các loài cây thường xanh, đặc biệt là các loài cây bạch đàn tại những vùng ít khô hạn, các loài keo thay thế địa vị chiếm ưu thế của chúng tại các vùng khô hạn hơn và các hoang mạc.[110] Trong số các động vật nổi tiếng của Úc có các loài đơn huyệt (như thú mỏ vịt và thú lông nhím); một loạt loài thú có túi bao gồm kangaroo (chuột túi), koala (gấu không đuôi), và Vombatidae (gấu túi), và các loài chim như đà điểu châu Úc và chim bói cá kookaburra.[110] Úc là nơi có nhiều loại động vật nguy hiểm, bao gồm một số loài rắn độc nhất trên thế giới.[111] Người Nam Đảo đưa chó Dingo đến Úc- giống người này trao đổi mậu dịch với thổ dân Úc- khoảng năm 3000 TCN.[112] Nhiều loài động thực vật bị tuyệt chủng ngay sau khi những người đầu tiên đến định cư,[113] bao gồm quần thể động vật cỡ lớn Úc (Australian megafauna); nhiều loài khác biến mất sau khi người châu Âu đến định cư, trong số đó có Thylacinus cynocephalus (sói túi).[114][115]
Nhiều vùng sinh thái của Úc, cùng các loài trong những vùng đó, bị đe dọa do các hoạt động của con người và các loài động vật, tảo, nấm, và thực vật xâm nhập.[116] Đạo luật Bảo vệ môi trường và bảo toàn tính đa dạng sinh học 1999 cấp liên bang là khuôn khổ pháp lý cho việc bảo vệ các loài bị đe dọa.[117] Nhiều khu bảo tồn được lập ra theo Chiến lược quốc gia về bảo toàn tính đa dạng sinh học của Úc để bảo vệ và bảo tồn các hệ sinh thái độc đáo;[118][119] 65 vùng đất ngập nước được liệt vào Công ước Ramsar,[120] và 16 di sản tự nhiên thế giới được công nhận.[121] Úc xếp hạng 51/163 thế giới trong Chỉ số thành tích môi trường 2010.[122]
Trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu trở thành một mối quan tâm ngày càng tăng lên tại Úc, và bảo vệ môi trường là một vấn đề chính trị lớn.[123][124] Năm 2007, Nội các đầu tiên của Thủ tướng Kevin Rudd ký vào văn kiện phê chuẩn nghị định thư Kyoto. Tuy thế, lượng phát thải cacbon điôxít đầu người của Úc nằm trong hàng cao nhất trên thế giới, chỉ thấp hơn một vài quốc gia công nghiệp hóa khác.[125] Lượng mưa tại Úc tăng nhẹ trong thế kỷ qua, cả trên quy mô toàn quốc và hai góc phần tư của quốc gia.[126] Hạn chế nước được tiến hành thường xuyên tại nhiều khu vực và thành thị của Úc, mục đích là nhằm đối phó với tình trạng thiếu hụt nước kinh niên do dân số thành thị tăng lên và hạn hán cục bộ.[127][128]
Chính phủ
Tòa Nghị viện, Canberra được khánh thành vào năm 1988, thay thế Tòa nhà Nghị viện lâm thời được khánh thành năm 1927.
Úc là một quốc gia quân chủ lập hiến, là một liên bang phân chia quyền lực. Quốc gia này có chính phủ theo thể chế đại nghị, Nữ vương Elizabeth II là nguyên thủ quốc gia với tư cách Nữ vương Úc- một vai trò tách biệt so với địa vị là quân chủ của các quốc gia khác trong Vương quốc Khối thịnh vượng chung. Nữ vương cư trú tại Anh Quốc, các phó vương đại diện cho bà tại Úc (Toàn quyền tại cấp liên bang và Thống đốc tại cấp bang), theo quy ước thì họ hành động theo cố vấn của các bộ trưởng. Hiến pháp Úc trao cho quân chủ quyền hành pháp tối cao, song quyền thi hành nó được Hiến pháp ban cho riêng Toàn quyền.[129][130] Hành động đáng chú ý nhất về việc thực hành quyền lực dự trữ của Toàn quyền bên ngoài đề nghị của Thủ tướng là việc giải tán chính phủ Whitlam trong cuộc khủng hoảng hiến pháp năm 1975.[131]
Chính phủ liên bang được phân thành ba nhánh:
- Cơ quan lập pháp: lưỡng viện Quốc hội, được quy định tại điều 1 của hiến pháp mà theo đó gồm có Nữ vương (đại diện là Toàn quyền), Thượng nghị viện, và Hạ nghị viện;
- Cơ quan hành pháp: Hội đồng Hành pháp Liên bang, thi hành theo Toàn quyền với cố vấn của Thủ tướng và các bộ trưởng;[132]
- Cơ quan tư pháp: Tòa Cao đẳng Úc và các tòa án liên bang khác, các thẩm phán do Toàn quyền bổ nhiệm theo cố vấn của Hội đồng.
Tham nghị viện (thượng nghị viện) có 76 nghị sĩ: mỗi bang có 12 nghị sĩ, mỗi lãnh thổ ở đại lục (Lãnh thổ thủ đô Úc và Lãnh thổ phương Bắc) có hai nghị sĩ.[133] Chúng nghị viện (hạ nghị viện) có 150 thành viên được bầu theo hình thức mỗi đại biểu đại diện cho một khu vực bầu cử, được phân bổ cho các bang dựa theo dân số,[134] với mỗi bang được đảm bảo tối thiểu là năm ghế.[135] Bầu cử lưỡng viện theo thường lệ được tiến hành mỗi ba năm, và đồng thời; các thượng nghị sĩ từ các bang có các nhiệm kỳ 6 năm so le, còn thượng nghị sĩ từ các lãnh thổ không có nhiệm kỳ cố định mà phụ thuộc vào vòng bầu cử hạ nghị viện; do đó chỉ có 40 trong số 76 ghế tại Thượng được bầu trong các cuộc bỏ phiếu trừ khi vòng bị gián đoạn theo một quyết định giải tán lưỡng viện.[133]
Hệ thống bầu cử của Úc sử dụng bầu cử thay thế trong toàn bộ các cuộc bầu cử hạ nghị viện ngoại trừ tại Tasmania và Lãnh thổ Thủ đô Úc, bầu cử hạ nghị viện tại hai nơi này cũng như bầu cử thượng nghị viện liên bang và thượng nghị viện của hầu hết các bang là kết hợp bầu cử thay thế và đại diện tỷ lệ trong một hệ thống bầu cử có thể chuyển di đơn phiếu (single transferable vote). Bầu cử là bắt buộc đối với các công dân 18 tuổi và lớn hơn trong mỗi khu vực thuộc phạm vi quyền hạn,[136] như là ghi danh (ngoại trừ Nam Úc).[137] Đảng nhận được sự ủng hộ của đa số tại Hạ nghị viện sẽ thành lập chính phủ và lãnh tụ của họ trở thành Thủ tướng. Trong trường hợp không đảng nào giành được đa số ủng hộ, Toàn quyền có quyền bổ nhiệm Thủ tướng, và nếu cần thiết thì bãi truất người để mất tín nhiệm của Nghị viện.[138]
Có hai phe chính trị lớn thường xuyên thành lập chính phủ ở cấp liên bang và cấp bang: Đảng Lao động Úc (Công đảng Úc) và Liên minh- về chính thức là một nhóm gồm có Đảng Tự do và đối tác nhỏ là Đảng Quốc gia.[139][140] Các thành viên độc lập và của một vào đảng nhỏ cũng có đại diện trong lưỡng viện quốc hội Úc.
Bang và lãnh thổ
Bang và vùng lãnh thổ Úc. Click vào các địa danh để xem bài chi tiết
Úc có sáu bang là—New South Wales (NSW), Queensland (QLD), Nam Úc (SA), Tasmania (TAS), Victoria (VIC) và Tây Úc (WA)—và hai lãnh thổ đại lục— Lãnh thổ Thủ đô Úc (ACT) và Lãnh thổ phương Bắc (NT). Trên hầu hết phương diện thì hai lãnh thổ này có chức năng như các bang, song Nghị viện Thịnh vượng chung có thể phế trưc bất kỳ pháp luật nào do nghị viện hai lãnh thổ này ban hành. Ngược lại, pháp luật liên bang chỉ có thể phế trừ pháp luật các bang trong các phạm vi được quy định trong điều 51 Hiến pháp; nghị viện các bang bảo lưu toàn bộ các quyền lập pháp còn lại, bao gồm trên các lĩnh vực trường học, cảnh sát bang, tòa án bang, đường xá, giao thông cộng cộng và chính phủ địa phương, những lĩnh vực không được liệt kê trong điều 51.[141]
Mỗi bang và lãnh thổ đại lục có nghị viện riêng—đơn viện tại Lãnh thổ phương Bắc, Lãnh thổ Thủ đô Úc, Queensland—và lưỡng viện tại các bang còn lại. Các bang là những thực thể có chủ quyền, song lệ thuộc vào các quyền hạn nhất định của Thịnh vượng chung theo như hiến pháp của liên bang. Các hạ nghị viện của các bang được gọi là Legislative Assembly (House of Assembly tại Nam Úc và Tasmania); các thượng nghị viện được gọi là Legislative Council. Người đứng đầu chính phủ mỗi bang là Thủ tướng (Premier) là tại mỗi lãnh thổ là Thủ tịch bộ trưởng (Chief Minister). Đại diện của Nữ vương tại mỗi bang là một Thống đốc (Governor); và tại Lãnh thổ phương Bắc là Quản lý viên (Administrator).[142]
Nghị viện liên bang trực tiếp quản lý các lãnh thổ sau:[132]
Đảo Norfolk về mặt kỹ thuật là một lãnh thổ ngoại bộ, song theo Đạo luật Đảo 1979 thì đảo này được trao thêm quyền tự trị và có hội đồng lập pháp riêng quản lý cục bộ. Đại diện cho Nữ vương là một Quản lý viên.[143]
Quan hệ đối ngoại và quốc phòng
Trong các thập kỷ gần đây, chi phối các chính sách đối ngoại của Úc là mối quan hệ gần gũi với Hoa Kỳ, và mưu cầu phát triển các mối quan hệ với châu Á và Thái Bình Dương, đặc biệt là thông qua ASEAN và Diễn đàn các đảo Thái Bình Dương. Năm 2005, Úc gia nhập vào Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á và có ghế chính thức trong Hội nghị cấp cao Đông Á. Úc là một thành viên của Thịnh vượng chung các quốc gia, những người đứng đầu các chính phủ trong tổ chức này tiến hành hội nghị để thảo luận về hợp tác.[144]
Binh sĩ Lục quân Úc luyện tập chung và quân đội Hoa Kỳ tại vịnh Shoalwater, Queensland (2007).
Úc theo đuổi mục tiêu tự do hóa thương mại quốc tế.[145][146][147] Quốc gia này dẫn đầu trong việc hình thành nhóm Cairns và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương.[148][149] Úc là một thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế và Tổ chức Thương mại Thế giới,[150][151] và theo đuổi một số hiệp định thương mại tự do song phương quy mô lớn, chẳng hạn như Hiệp định Thương mại tự do Úc-Mỹ[152] và Giao thiệp kinh tế gần gũi với New Zealand,[153] cùng hiệp định thương mại tự do được dàn xếp với Trung Quốc, và Nhật Bản,[154] Hàn Quốc vào năm 2011,[155][156]
Cùng với New Zealand, Anh Quốc, Malaysia và Singapore, Úc là một bên trong FPDA, một hiệp định phòng thủ khu vực. Úc là một thành viên sáng lập của Liên Hiệp Quốc, cam kết mạnh mẽ đa phương hóa[157] và duy trì một chương trình viện trợ cho khoảng 60 quốc gia. Ngân sách 2005–06 cung cấp 2,5 tỷ đô la Úc cho viện trợ phát triển.[158]
Lực lượng Quốc phòng Úc (ADF)—gồm có Hải quân Hoàng gia Úc (RAN), Lục quân Úc và Không quân Hoàng gia Úc (RAAF), tổng số nhân viên là khoảng 80 nghìn người.[159] Vai trò Tổng tư lệnh mang tính danh nghĩa được trao cho Toàn quyền, người này bổ nhiệm một Tư lệnh lực lượng quốc phòng từ một trong số các nhân viên quân sự theo cố vấn của chính phủ.[160] Hoạt động thường nhật của quân đội nằm dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh, trong khi nhiệm vụ quản lý trên quy mô rộng hơn và xây dựng chính sách quốc phòng do Bộ trưởng và Bộ Quốc phòng tiến hành.
Trong ngân sách năm 2010–11, chi phí cho quốc phòng của Úc là 25,7 tỷ đô la Úc,[161] xếp thứ 13 thế giới về ngân sách quốc phòng.[162] Úc tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình, cứu trợ thiên tai và xung đột vũ trang; năm 2009, Úc triển khai khoảng 3.300 nhân viên quốc phòng trong 12 hoạt động quốc tế trong khu vực, bao gồm tại Đông Timor, Quần đảo Solomon và Afghanistan.[163]
Kinh tế
-
Mỏ vàng Super Pit tại
Kalgoorlie thuộc Tây Úc là mỏ lộ thiên lớn nhất của Úc.
[164]
Úc là một quốc gia giàu có[165][166][167] với một nền kinh tế thị trường, GDP bình quân đầu người tương đối cao, và tỷ lệ nghèo tương đối thấp. Theo mức độ giàu có bình quân, Úc xếp hàng đầu thế giới trong năm 2013, song mức nghèo tại quốc gia tăng lên từ 10,2% đến 11,8% trong khoảng thời gian từ 2000/01 đến 2013.[168][169] Viện Nghiên cứu Tín dụng Thụy Sỹ (Credit Suisse) xác định Úc là quốc gia có mức giàu có bình quân cao nhất trên thế giới và có mức giàu có bình quân đối với người trưởng thành cao thứ nhì thế giới trong năm 2013.[168]
Đô la Úc là tiền tệ của quốc gia, bao gồm cả đảo Christmas, quần đảo Cocos (Keeling), và đảo Norfolk, cũng như các đảo quốc độc lập Thái Bình Dương là Kiribati, Nauru, và Tuvalu. Với việc hợp nhất Sở giao dịch chứng khoán Úc (Australian Stock Exchange) và Sở giao dịch hàng hóa kỳ hạn Sydney vào năm 2006, Sở giao dịch chứng khoán Úc (Australian Securities Exchange) trở thành sở giao dịch chứng khoán lớn thứ chín trên thế giới.[170]
Úc xếp thứ ba trong Chỉ số Tự do kinh tế năm 2010,[171] là nền kinh tế lớn thứ 12 trên thế giới. Quốc gia xếp hạng hai trong Chỉ số phát triển con người năm 2011 của Liên Hiệp Quốc, xếp hạng nhất trong Chỉ số thịnh vượng năm 2008 của Legatum.[172] Toàn bộ các thành phố lớn của Úc đều được đánh giá tốt trong các nghiên cứu đáng sống tương đối toàn cầu;[173] Melbourne đạt hạng nhất trong các danh sách thành phố đáng sống nhất của The Economist‘ năm 2011,[174] 2012[175] và 2013, tiếp theo là Adelaide, Sydney, và Perth lần lượt xếp thứ 5, thứ 7, và thứ 9.[176] Tổng nợ chính phủ của Úc chiếm 20% GDP vào năm 2010.[177] Úc nằm trong số những nơi có giá nhà cao nhất và nợ hộ gia đình cao nhất trên thế giới.[178]
Nhấn mạnh vào các mặt hàng xuất khẩu thay vì hàng hóa chế tạo đã trở thành trụ cột trong sự gia tăng đáng kể giá cánh kéo của Úc từ khi bắt đầu thế kỷ 21, do giá các mặt hàng tăng lên. Cán cân thanh toán của Úc âm trên 7% GDP, và trải qua thâm hụt tài khoản vãng lai lớn liên tục trong trên 50 năm.[179] Úc là nền kinh tế phát triển duy nhất không trải qua suy giảm do khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008–2009.[180] Tuy nhiên, nền kinh tế của sáu đối tác thương mại lớn của Úc đã bị giảm sút, khiến Úc bị ảnh hưởng, gây cản trở đáng kể đối với tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây.[181][182] Từ năm 2012 đến đầu năm 2013, kinh tế quốc dân của Úc tăng trưởng, song vài bang không dựa vào khai mỏ và kinh tế phi khai mỏ của Úc trải qua một cuộc suy giảm.[183][184][185]
Quang cảnh thung lũng Barossa, một vùng sản xuất rượu vang tại Nam Úc.
Chính phủ của Bob Hawke thả nổi đô la Úc vào năm 1983 và bãi bỏ quy định một phần đối với hệ thống tài chính.[186] Chính phủ Howard theo sau với việc bãi bỏ quy định một phần đối với thị trường lao động và đẩy mạnh tư nhân hóa các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, đáng chú ý nhất là trong ngành công nghiệp viễn thông.[187] Hệ thống thuế gián tiếp được thay đổi về căn bản vào tháng 7 năm 2000 bằng việc ra đời thuế hàng hóa và dịch vụ (GST) 10%.[188] Trong hệ thống thuế của Úc, thuế thu nhập cá nhân và công ty là những nguồn thu chính của thu nhập chính phủ.[189]
Tháng 5 năm 2012, Úc có 11.537.900 người lao động, với tỷ lệ thất nghiệp là 5,1%.[190] Tỷ lệ thất nghiệp của thanh thiếu niên (15–24) đứng ở mức 11,2%.[190] Dữ liệu được công bố vào giữa tháng 11 năm 2013 cho thấy rằng số người nhận phúc lợi tăng lên đến 55%%. Năm 2007, 228.621 người đăng ký nhận trợ cấp thất nghiệp của Newstart, con số này tăng lên 646.414 vào tháng 3 năm 2013.[191]
Trong thập kỷ qua, lạm phát thường niên là 2–3% và lãi suất cơ bản là 5–6%. Lĩnh vực dịch vụ của nền kinh tế, gồm du lịch, giáo dục, các dịch vụ tài chính, chiếm khoảng 70% GDP.[192] Úc là nước giàu tài nguyên tự nhiên, là một nước lớn về xuất khẩu các nông sản, đặc biệt là lúa mì và len, các loại khoáng sản như quặng sắt và vàng, mặt hàng năng lượng như khí đốt hóa lỏng và than đá. Mặc dù nông nghiệp và tài nguyên tự nhiên chỉ lần lượt chiếm 3% và 5% GDP, song chúng đóng góp đáng kể vào thành tích xuất khẩu. Các thị trường xuất khẩu lớn nhất của Úc trong năm 2005 là Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và New Zealand.[193]
Nhân khẩu
Gần ba phần tư người Úc sống tại các đại thành thị và khu vực duyên hải. Bãi biển là một phần của bản sắc Úc.
[194]
Trong gần hai thế kỷ, phần lớn những người định cư, và sau đó là những người nhập cư, đến Úc từ Quần đảo Anh. Do vậy, người dân Úc chủ yếu có nguồn gốc dân tộc đảo Anh và/hoặc Ireland. Điều tra dân số năm 2011 yêu cầu cung cấp tối đa hai nguồn gốc mà họ nhận thấy gần gũi nhất, các tổ tiên được trả lời phổ biến nhất là người Anh (36,1%), sau đó là người Úc (35,4%),[195] người Ireland (10,4%), người Scotland (8,9%), người Ý (4,6%), người Đức (4,5%), người Hoa (4,3%), người Ấn Độ (2,0%), người Hy Lạp (1,9%), và người Hà Lan (1,7%).[196] Người Úc gốc châu Á chiếm 12% dân số.[197]
Dân số Úc tăng gấp bốn lần kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc.[198] Tuy vậy, mật độ dân số 2,8 người/km² của Úc vẫn nằm trong hàng thấp nhất trên thế giới.[85] Phần lớn gia tăng dân số bắt nguồn từ nhập cư. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai và cho đến năm 2000, có gần 5,9 triệu trong tổng dân số định cư tại Úc trong thân phận tân di dân, có nghĩa rằng gần hai trong số mỗi bảy người Úc sinh ra tại quốc gia khác.[199] Hầu hết những người nhập cư là người lành nghề,[200] song hạn ngạch nhập cư tính đến cả các diện thành viên gia đình và người tị nạn.[200] Dân số Úc được dự đoán lên đến khoảng 42 triệu người vào năm 2050.[201]
Năm 2011, 24,6% người Úc sinh ra tại các quốc gia khác và 43,1% cư dân có ít nhất một cha mẹ sinh ra tại hải ngoại;[202] Theo điều tra dân số năm 2011, các nhóm nhập cư lớn nhất là những người đến từ Anh Quốc, New Zealand, Trung Quốc, Ấn Độ, Ý, Việt Nam và Philippines.[203]
Trên 80% dân số Úc có nguồn gốc châu Âu, và hầu hết những người còn lại có nguồn gốc châu Á, cùng một thiểu số nhỏ hơn là thổ dân. Sau khi bãi bỏ chính sách Úc Da trắng vào năm 1973, nhiều sáng kiến của chính phủ được tiến hành nhằm cổ vũ và xúc tiến hòa hợp dân tộc dựa trên một chính sách đa nguyên văn hóa.[204] Trong các năm 2005–06, có trên 131.000 người nhập cư đến Úc, chủ yếu từ châu Á và châu Đại Dương.[205] Mục tiêu nhập cư giai đoạn 2012–13 là 190.000,[206] so với 67.900 trong giai đoạn 1998–99.[207]
Dân số nông thôn của Úc vào năm 2012 là 2.420.731 (10,66% tổng dân số).[208]
Các cư dân bản địa là thổ dân và người quần đảo Eo biển Torres có 548.370 người (2,5% tổng dân số) vào năm 2011,[209] một sự gia tăng đáng kể so với con số 115.953 trong điều tra dân số năm 1976.[210] Người bản địa Úc có tỷ lệ bị giam cầm và thất nghiệp cao hơn, có trình độ giáo dục thấp hơn, có tuổi thọ của nam và nữ thấp hơn 11-17 năm so với những người Úc phi bản địa.[193][211][212]
Cùng với nhiều quốc gia phát triển khác, Úc đang phải trải qua một cuộc biến đổi nhân khẩu học theo hướng dân số già hơn, có thêm nhiều người nghỉ hưu và ít người trong độ tuổi làm việc hơn. Năm 2004, tuổi trung bình của cư dân Úc là 38,8 tuổi.[213] Một lượng lớn người Úc (759.849 trong giai đoạn 2002–03;[214] 1 triệu hay 5% tổng dân số vào năm 2005[215]) sống bên ngoài quốc gia của họ.
Ngôn ngữ
Mặc dù Úc không có ngôn ngữ chính thức, song tiếng Anh luôn là ngôn ngữ quốc gia trên thực tế.[2] Tiếng Anh-Úc là một dạng chính của ngôn ngữ này với khẩu âm và từ vựng đặc biệt,[216] và có một số điểm khác biệt về chính tả và ngữ pháp đối với các phương ngữ tiếng Anh khác.[217] Theo điều tra dân số năm 2011, tiếng Anh là ngôn ngữ duy nhất được nói tại nhà của gần 81% dân số. Các ngôn ngữ được sử dụng trong gia đình phổ biến tiếp sau là Quan thoại (1,7%), tiếng Ý (1,5%), tiếng Ả Rập (1,4%), tiếng Quảng Đông (1,3%), tiếng Hy Lạp (1,3%), và tiếng Việt (1,2%);[203] một tỷ lệ đáng kể người nhập cư thế hệ thứ nhất và thứ hai là người song ngữ. Một nghiên cứu năm 2010–2011 của AEDI cho thấy ngôn ngữ mà trẻ em Úc nói phổ biến nhất sau tiếng Anh là tiếng Ả Rập, tiếp theo là tiếng Việt, tiếng Hy Lạp, tiếng Trung Quốc, và tiếng Hindi.[218][219]
Từ 200 đến 300 ngôn ngữ Úc bản địa tồn tại vào thời điểm người châu Âu lần đầu tiên tiếp xúc với lục địa, trong đó chỉ còn khoảng 70 ngôn ngữ là còn tồn tại. Nhiều ngôn ngữ trong số đó chỉ còn được những người già nói; chỉ 18 ngôn ngữ bản địa là vẫn được nói ở toàn bộ các nhóm tuổi.[220] Vào thời điểm tiến hành điều tra dân số năm 2006, 52.000 người Úc bản địa, chiếm 12% dân số bản địa, nói rằng họ nói một ngôn ngữ bản địa tại nhà.[221] Úc có một ngôn ngữ ký hiệu được gọi là Auslan, đây là ngôn ngữ chính của khoảng 5.500 người khiếm thính.[222]
Tôn giáo
Úc không có quốc giáo; điều 116 của Hiến pháp Úc nghiên cấm chính phủ liên bang ra bất kỳ đạo luật nào nhằm chính thức hóa bất kỳ tôn giáo nào, lạm dụng bất kỳ nghi thức tôn giáo nào, hoặc nghiêm cấm việc hành lễ tự do bất kỳ tôn giáo nào.[224] Trong điều tra dân số năm 2011, 61,1% người Úc được tính là tín đồ Cơ Đốc giáo, bao gồm 25,3% là tín đồ Công giáo La Mã và 17,1% là tín đồ Anh giáo; 22,3% dân số nói rằng họ là người “không tôn giáo”; 7,2% nhận là tín đồ các tôn giáo phi Cơ Đốc giáo, lớn nhất trong số đó là tín đồ Phật giáo (2,5%), tiếp theo là Hồi giáo (2,2%), Ấn Độ giáo (1,3%) và Do Thái giáo (0,5%). 9.4% còn lại không cung cấp câu trả lời đầy đủ.[203]
Trong phần lớn lịch sử của Úc, Giáo hội Anh (nay gọi là Giáo hội Anh giáo Úc) là đoàn thể tôn giáo lớn nhất, tuy nhiên những di dân đến từ những nền văn hóa khác góp phần khiến cho giáo hội này suy giảm tương đối, còn Giáo hội Công giáo La Mã được hưởng lợi từ việc mở cửa nước Úc thời hậu chiến cho nhập cư đa văn hóa và trở thành giáo hội lớn nhất. Tương tự, Hồi giáo, Phật giáo, Ấn Độ giáo, và Do Thái giáo đều có sự phát triển vào các thập kỷ hậu chiến.[225] Trên mức độ thấp hơn, các tôn giáo nhỏ như Bahá’í, Sikh giáo, Wicca và dị giáo cũng gia tăng đáng kể về số lượng tín đồ. Trong cuộc điều tra dân số năm 2001, có 17.381 tín đồ Sikh giáo, 11.037 tín đồ Bahá’í, 10.632 người dị giáo và 8.755 tín đồ Wicca tại Úc.[226]
Giáo dục
Đến trường, hoặc đăng ký học tập tại gia,[227][228] là điều bắt buộc trên toàn bộ Úc. Giáo dục là trách nhiệm của riêng các bang và lãnh thổ[229] do vậy các quy định có sự khác biệt giữa các bang, song trẻ em thông thường cần phải đến trường từ độ tuổi từ khoảng 5 cho đến khoảng 15 tuổi.[230][231] Tại các bang như Tây Úc,[232] Lãnh thổ phương Bắc[233] và New South Wales[234][235]), thiếu niên 16–17 được yêu cầu đi học hoặc tham gia vào giáo dục nghề nghiệp.
Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành tại Úc được ước tính đạt 99% vào năm 2003.[236] Tuy nhiên, một báo cáo 2011–12 của Cục Thống kê Úc nói rằng một nửa người lớn tại Tasmania mù chữ chức năng.[237] Úc có 37 trường đại học được chính phủ tài trợ và hai trường đại học tư nhân, một số học viện chuyên khoa khác cũng cung cấp các khóa học được phê duyệt ở bậc giáo dục đại học.[238]
OECD xếp Úc nằm trong số các quốc gia học đại học tốn kém nhất.[239] Úc có một hệ thống giáo dục nghề nghiệp dựa vào nhà nước, gọi là TAFE.[240] Xấp xỉ 58% người Úc tuổi từ 25 đến 64 có trình độ nghề hoặc đại học,[193] và tỷ lệ tốt nghiệp đại học 49% nằm hàng đầu trong các quốc gia OECD. Tỷ lệ sinh viên quốc tế đến địa phương để theo học giáo dục bậc đại học của Úc là cao nhất trong các quốc gia OECD.[241]
Sức khỏe
Cư dân Úc có tuổi thọ cao thứ tư thế giới sau Iceland, Nhật Bản và Hong Kong.[242] Tuổi thọ tại Úc trong năm 2010 là 79,5 đối với nam giới và 84,0 đối với nữ giới.[243] Úc có tỷ lệ ung thư da cao nhất trên thế giới,[244] trong khi hút thuốc lá là nguyên nhân phòng tránh được lớn nhất gây tử vong và bệnh tật. Đứng thứ hai trong số các nguyên nhân có thể phòng tránh là tăng huyết áp, và thứ ba là béo phì.[245][246] Úc xếp thứ 35 thế giới[247] và gần ở hàng đầu các quốc gia phát triển về tỷ lệ người trưởng thành béo phì.[248]
Tổng chi phí y tế (bao gồm chi phí khu vực tư nhân) là khoảng 9,8% GDP.[249] Úc bắt đầu tiến hành chăm sóc y tế toàn dân vào năm 1975.[250] Chương trình này được gọi là Medicare, hiện trên danh nghĩa lấy kinh phí từ một khoản phụ thuế thu nhập là trưng thu Medicare, hiện ở mức 1,5%.[251] Các bang quản lý các bệnh viện và các dịch vụ ngoại trú trực thuộc, còn Thịnh vượng chung cấp kinh phí cho Kế hoạch phúc lợi dược phẩm (trợ cấp giá dược phẩm) và hành nghề nói chung.[250]
Văn hóa
Kể từ năm 1788, nền tảng của văn hóa Úc chịu ảnh hưởng mạnh của văn hóa phương Tây Anglo-Celt.[253][254] Các đặc điểm văn hóa đặc thù cũng xuất hiện từ môi trường tự nhiên của Úc và văn hóa bản địa.[255][256] Từ giữa thế kỷ 20, văn hóa đại chúng Mỹ có ảnh hưởng mạnh đối với Úc, đặc biệt là thông qua truyền hình và điện ảnh.[257] Các ảnh hưởng văn hóa khác đến từ các quốc gia châu Á lân cận, và thông qua nhập cư quy mô lớn từ các quốc gia không nói tiếng Anh.[257][258]
Nghệ thuật
Nghệ thuật thị giác của Úc được cho là khởi nguồn từ các bích họa hang động, khắc đá và hội họa thân thể của các dân tộc bản địa. Các truyền thống của người Úc bản địa phần lớn được lưu truyền nhờ truyền khẩu, thông qua các nghi lễ và kể các chuyện thời mộng ảo.[259] Từ khi người châu Âu định cư, một đề tài trong nghệ thuật Úc là phong cảnh tự nhiên,[255] có thể nhận thấy thông qua các tác phẩm của Albert Namatjira,[260] Arthur Streeton và những người khác có liên hệ với họa phái Heidelberg,[255] và Arthur Boyd.[261]
Phong cảnh quốc gia vẫn là một nguồn cảm hứng của các nghệ sĩ đương đại của Úc; nó được miêu tả trong các tác phẩm nổi tiếng của Sidney Nolan,[262] Fred Williams,[263] Sydney Long,[264] và Clifton Pugh.[265] Các nghệ sĩ Úc chịu ảnh hưởng của nghệ thuật hiện đại Mỹ và châu Âu gồm họa sĩ lập thể Grace Crowley,[266] nghệ sĩ siêu thực James Gleeson,[267] và nghệ sĩ đại chúng Martin Sharp.[268] Nghệ thuật người Úc bản địa đương đại là phong trào nghệ thuật duy nhất nổi lên từ Úc mà có tầm quan trọng quốc tế[269][270] và “phong trào nghệ thuật lớn cuối cùng của thế kỷ 20”;[271] các truyền nhân của nó gồm có Emily Kngwarreye.[272][273] Nhà phê bình nghệ thuật Robert Hughes từng viết một vài sách có ảnh hưởng về lịch sử va nghệ thuật Úc, và được The New York Times mô tả là “nhà phê bình nghệ thuật nổi tiếng nhất thế giới”.[274] Nhà trưng bày quốc gia Úc và các nhà trưng bày cấp bang bảo quản các bộ sự tập của Úc và hải ngoại.[275] Úc là một trong những quốc gia có tỷ lệ người đến các nhà trưng bày và bảo tàng nghệ thuật cao nhất thế giới, vượt xa Anh Quốc hay Hoa Kỳ.[276]
Nhiều trong số các công ty biểu diễn nghệ thuật của Úc nhận tài trợ thông qua Hội đồng Úc của chính phủ liên bang.[277] Mỗi bang của Úc có một dàn nhạc giao hưởng,[278] và có một công ty nhạc kịch quốc gia là Opera Australia,[279] được biết đến với giọng nữ cao trứ danh Joan Sutherland.[280] Vào đầu thế kỷ 20, Nellie Melba là một trong số các ca sĩ ca kịch hàng đầu thế giới.[281] The Australian Ballet và các công ty cấp bang khác biểu diễn Balê và vũ đạo. Mỗi bang có một kịch đoàn được tài trợ công.[282][283][284]
Biểu diễn ca vũ của thổ dân tại Bảo tàng Hàng hải quốc gia Úc tại Sydney
Văn học Úc cũng chịu ảnh hưởng từ phong cảnh; các tác phẩm của những nhà văn như Banjo Paterson, Henry Lawson, và Dorothea Mackellar nói về kinh nghiệm trải qua tại rừng cây bụi của Úc.[285] Nhân vật của thời thuộc địa được thể hiện trong văn học thời kỳ đầu, và trở nên nổi tiếng đối với người Úc hiện đại.[255] Năm 1973, Patrick White nhận được giải Nobel Văn học,[286] ông là người Úc đầu tiên giành được giải thưởng này.[287] Những người Úc từng thắng giải Man Booker gồm có Peter Carey và Thomas Keneally;[288] David Williamson, David Malouf, và J. M. Coetzee (người nhập quốc tịch Úc vào năm 2006) cũng là những nhà văn có tiếng,[289] và Les Murray được đánh giá là “một trong những thi sĩ hàng đầu trong thế hệ của ông”.[290]
Truyền thông
Ngành công nghiệp điện ảnh của Úc bắt đầu từ năm 1906 bằng việc phát hành The Story of the Kelly Gang (chuyện về băng đảng Kelly)- được xem như phim dài đầu tiên của thế giới;[291] song cả lĩnh vực sản xuất phim chiếu bóng Úc và phân phối phim chiếu bóng do Anh Quốc sản xuất bị suy giảm đột ngột sau Chiến tranh thế giới thứ nhất khi các xưởng phim và nhà phân phối của Hoa Kỳ giữ độc quyền ngành công nghiệp này,[292] và đến thập niên 1930 thì khoảng 95% lượng phim chiếu bóng xuất hiện trên màn bạc tại Úc được sản xuất tại Hollywood. Đến cuối thập niên 1950, sản xuất phim chiếu bóng tại Úc đã không còn hiệu quả và do đó không còn bộ phim chiếu bóng Úc nào được sản xuất trong một thập kỷ từ 1959 đến 1969.[293]
Nhờ các sáng kiến của các chính phủ John Gorton và Gough Whitlam, điện ảnh Úc tạo làn sóng mới trong thập niên 1970 khi đem đến các bộ phim kích thích và thành công, một số lấy bối cảnh thời kỳ thực dân trước đây của Úc, như Picnic at Hanging Rock (Giao dụ tại núi đá Hanging) và Breaker Morant,[294] trong khi thể loại được gọi là “Ocker” mang đặc điểm hài đạt được thành công lớn như The Adventures of Barry McKenzie (Những cuộc phiêu lưu của Barry McKenzie) và Alvin Purple.[295][296][297] Các phim thành công sau đó gồm có Mad Max và Gallipoli.[298][299] Các phim thành công trong thời gian gần đây hơn gồm có Shine và Rabbit-Proof Fence.[300][301] Các diễn Úc nổi tiếng gồm có Judith Anderson,[302] Errol Flynn,[303] Nicole Kidman, Naomi Watts,[304] Hugh Jackman, Heath Ledger, Geoffrey Rush, và Cate Blanchett.[305][306]
Năm 2010, Phóng viên không biên giới xếp Úc đứng thứ 18 trong số 178 quốc gia về tự do báo chí, sau New Zealand (8) song đứng trước Anh Quốc (19) và Hoa Kỳ (20).[307] Thứ hạng này chủ yếu là do hạn chế về tính đa dạng trong sở hữu truyền thông thương mại tại Úc;[308] hầu hết thông tin in xuất bản đều nằm dưới sự kiểm soát của News Corporation và Fairfax Media.[309]
Ẩm thực
Pavlova là món tráng miệng mang tính biểu tượng và phổ biến tại Úc.
Thực phẩm của người Úc bản địa chịu ảnh hưởng lớn từ khu vực mà họ cư trú. Hầu hết các nhóm bộ lạc sống bằng một chế độ ăn săn bắn-hái lượm giản đơn. Thuật ngữ chung để chỉ các thực vật và động vật được sử dụng làm nguồn thực phẩm là “bush tucker” (đồ ăn bụi cây).[310][311] Những người châu Âu định cư đầu tiên đưa thực phẩm Anh Quốc đến lục địa, và phần lớn chúng nay được xem là thực phẩm Úc điển hình; Sunday roast (thịt quay Chủ nhật) trở thành một truyền thống lâu dài của nhiều người Úc.[312][313] Kể từ khi bắt đầu thế kỷ 20, thực phẩm tại Úc ngày càng chịu ảnh hưởng từ những người nhập cư đến quốc gia, đặc biệt là từ các nền văn hóa Nam Âu và châu Á.[312][313] Rượu vang Úc được sản xuất tại 60 vùng sản xuất riêng biệt với tổng diện tích là 160.000 ha, chủ yếu tại nam bộ- nơi mát hơn tại quốc gia. Các vùng sản xuất rượu vang tại mỗi bang sản xuất ra các chủng loại rượu vang khác nhau dựa theo lợi thế về khí hậu và thổ nhưỡng của địa phương. Các chủng chiếm ưu thế là Shiraz, Cabernet Sauvignon, Chardonnay, Merlot, Sémillon, Pinot noir, Riesling, và Sauvignon blanc.[314][315][316][317][318]
Thể thao
Cricket là một môn quan trọng trong văn hóa thể thao Úc kể từ thế kỷ 19.
[319]
Khoảng 24% người Úc trên 15 tuổi thường xuyên tham gia vào các hoạt động thể thao có tổ chức.[193] Úc có đội tuyển mạnh ở tầm quốc tế trong các môn cricket, khúc côn cầu sân cỏ, bóng lưới, bóng bầu dục liên minh, và bóng bầu dục liên hiệp. Úc cũng mạnh trong các môn đua xe đạp đường vòng, chèo thuyền, và bơi.
Úc tham gia mọi kỳ Thế vận hội Mùa hè trong thời hiện đại,[320] và mọi Đại hội thể thao Thịnh vượng chung.[321] Úc từng đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1956 tại Melbourne và Thế vận hội Mùa hè 2000 tại Sydney,[322] và xếp trong số sáu đoàn giành nhiều huy chương nhất trong các kỳ thế vận hội 2000, 2004 và 2008.[323] Trong Thế vận hội Mùa hè năm 2012 tại Luân Đôn, Úc xếp thứ 10 trong bảng tổng sắp huy chương.[324] Úc cũng từng đăng cai các kỹ Đại hội thể thao Thịnh vượng chung 1938, 1962, 1982, 2006 và sẽ đăng cai kỳ đại hội năm 2018.[325] Các sự kiện thể thao lớn khác được tổ chức tại Úc bao gồm Giải quần vợt Úc Mở rộng, hay Giải đua ô tô Công thức 1 Úc. Úc từng tổ chức Giải vô địch bóng bầu dục thế giới 2003 và Cúp Bledisloe thường niên giữa Australia–New Zealand được theo dõi nhiệt tình. Các chương trình truyền hình có tỷ suất người xem cao nhất bao gồm các chương trình thể thao như Thế vận hội Mùa hè, Giải vô địch bóng đá thế giới, loạt trận bóng bầu dục liên minh State of Origin, chung kết giải bóng bầu dục liên minh quốc gia và giải bóng đá kiểu Úc quốc gia.[326] Môn trượt tuyết bắt đầu xuất hiện tại Úc trong thập niên 1860 và các môn thể thao tuyết được chơi trên dãy Alps Úc và nhiều nơi tại Tasmania.
Chi chú
- ^ Vương thất ca của Úc là “God Save the Queen“, được thể hiện trước sự có mặt của một thành viên vương thất khi họ ở Úc. Trong tất cả các khung cảnh thích hợp khác, quốc ca Úc “Advance Australia Fair” được thể hiện.[1]
- ^ a ă tiếng Anh không có địa vị luật định.[2]
- ^ Còn có vài sự khác biệt nhỏ trong ba múi giờ này
- ^ Úc cho rằng vùng biển phía nam đại lục của mình là Nam Đại Dương, thay vì Ấn Độ Dương như định nghĩa của Tổ chức Thủy văn Quốc tế (IHO). Năm 2000, một cuộc bỏ phiếu của các quốc gia thành viên IHO định nghĩa thuật ngữ “Nam Đại Dương” được áp dụng chỉ với vùng biển giữa châu Nam Cực và vĩ tuyến 60° nam.[70]
Chú thích
- ^ It’s an Honour – Symbols – Australian National Anthem and DFAT – “The Australian National Anthem”; “National Symbols”. Parliamentary Handbook of the Commonwealth of Australia (ấn bản 29). 2002 (updated 2005). Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2007.
- ^ a ă “Pluralist Nations: Pluralist Language Policies?”. 1995 Global Cultural Diversity Conference Proceedings, Sydney. Bộ Nhập cư và quyền công dân. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2009. “English has no de jure status but it is so entrenched as the common language that it is de facto the official language as well as the national language.”
- ^ “Demonyms – Names of Nationalities”. about.com. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
- ^ “Demonyms, or what do you call a person from…”. The Geography Site. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2008.
- ^ a ă “Population clock”. Trang thông tin Cục Thống kê Úc. Commonwealth of Australia. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2014..
- ^ Cục Thống kê Úc (31 tháng 10 năm 2012). “Australia”. 2011 Census QuickStats (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2012.
- ^ a ă â b “Australia”. International Monetary Fund. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2009.
- ^ “Thông tin cơ bản về Ô-xtrây-lia và quan hệ Việt Nam-Ô-xtrây-lia”. Bộ Ngoại giao.
- ^ Macquarie ABC Dictionary. The Macquarie Library Pty Ltd. 2003. tr. 56. ISBN 1-876429-37-2.
- ^ “Australia”. Oxford Dictionaries. Oxford University Press. Tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Constitution of Australia”. ComLaw. Ngày 1 tháng 6 năm 2003. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2011.
- ^ “Both Australian Aborigines and Europeans Rooted in Africa – 50,000 years ago”. News.softpedia.com. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2013.
- ^ Wade, Nicholas (ngày 22 tháng 9 năm 2011). “Australian Aborigine Hair Tells a Story of Human Migration”. The New York Times.
- ^ “European discovery and the colonisation of Australia”. Chính phủ Úc: Cổng thông tin văn hóa. Bộ Môi trường, nước, di sản, và nghệ thuật, Thịnh vượng chung Úc. Ngày 11 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2010.
- ^ a ă Davison, Hirst and Macintyre, tr 157, 254.
- ^ “Australian Social Trends”. Trang thông tin Cục Thống kê Úc. Commonwealth of Australia. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2008.
- ^ Walsh, Michael (1991) “Overview of indigenous languages of Australia” in Suzane Romaine (ed.) Language in Australia, Cambridge: Cambridge University Press, ISBN 0-521-33983-9.
- ^ “Geographic Distribution of the Population”. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2012.
- ^ Dữ liệu hầu hết là trong năm 2012. World Economic Outlook Database-October 2013, Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Australia: World Audit Democracy Profile”. WorldAudit.org. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2008.
- ^ Purchas, vol. iv, tr 1422–32, 1625. This appears to be variation of the original Spanish “Austrialia” [sic]. [1] Một bản sao tại Thư viện Quốc hội Mỹ có thể đọc trực tuyến tại [2]
- ^ a ă Sidney J. Baker, The Australian Language, second edition, 1966.
- ^ Weekend Australian, 30–ngày 31 tháng 12 năm 2000, tr. 16
- ^ Gillespie, Richard (2002). “Dating the First Australians (full text)” (PDF). Radiocarbon 44 (2): 455–472. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2010.
- ^ “The spread of people to Australia”. Bảo tàng Úc.
- ^ Viegas, Jennifer (ngày 3 tháng 7 năm 2008). “Early Aussie Tattoos Match Rock Art”. Discovery News. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ MacKnight, CC (1976). The Voyage to Marege: Macassan Trepangers in Northern Australia. Bảo tàng Úc.
- ^ a ă Davison, Hirst and Macintyre, tr 233.
- ^ Marsh, Lindsay (2010). History of Australia: understanding what makes Australia the place it is today. Greenwood, W.A.: Ready-Ed Publications. tr. 9. ISBN 978-1-86397-798-2.
- ^ “European discovery and the colonisation of Australia”. Chính phủ Úc: Cổng thông tin văn hóa. Bộ Môi trường, nước, di sản và nghệ thuật, Commonwealth of Australia. Ngày 11 tháng 1 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2011.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 464–65, 628–29.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 678.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 464.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 470.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 598.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 679.
- ^ Convict Records Public Record office of Victoria; State Records Office of Western Australia.
- ^ “1998 Special Article – The State of New South Wales – Timeline of History”. Cục Thống kê Úc. 1988.
- ^ Briscoe, Gordon; Smith, Len (2002). The Aboriginal Population Revisited: 70,000 years to the present. Canberra, Australia: Aboriginal History Inc. tr. 12. ISBN 978-0-9585637-6-5.
- ^ “Smallpox Through History”. Encarta. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2009.
- ^ Attwood, Bain (2005). Telling the truth about Aboriginal history. Crows Nest, New South Wales: Allen & Unwin. ISBN 1-74114-577-5.
- ^ Dawkins, Kezia (ngày 1 tháng 2 năm 2004). “1967 Referendum”. Công ty Phát thanh-Truyền hình Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 5–7, 402.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 283–85.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 227–29.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 556.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 138–39.
- ^ “Colonial Defence and Imperial Repudiation”. Daily Southern Cross (vol XVII, issue 1349). Ngày 13 tháng 11 năm 1860. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2010.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 243–44.
- ^ Otto, Kristin (25 June – ngày 9 tháng 7 năm 2007). “When Melbourne was Australia’s capital city”. Melbourne, Victoria: University of Melbourne. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2010.
- ^ Official year book of the Commonwealth of Australia. Cục Thống kê Úc. 1957.
- ^ Macintyre, Stuart (1986) The Oxford History of Australia, vol. 4, tr 142
- ^ C. Bean Ed. (1941). Volume I – The Story of Anzac: the first phase, First World War Official Histories, Eleventh Edition.
- ^ “First World War 1914–1918”. Australian War Memorial. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2006.
- ^ Tucker, Spencer (2005). Encyclopedia of World War I. Santa Barbara, CA: ABC-CLIO. tr. 273. ISBN 1-85109-420-2.
- ^ Macintyre, Stuart (2000). A Concise History of Australia. Cambridge, U.K.: Cambridge University Press, tr 151–153, ISBN 0-521-62359-6.
- ^ Reed, Liz (2004). Bigger than Gallipoli: war, history, and memory in Australia. Crawley, WA: University of Western Australia. tr. 5. ISBN 1-920694-19-6.
- ^ Nelson, Hank (1997). “Gallipoli, Kokoda and the Making of National Identity”. Journal of Australian Studies 53 (1): 148–60.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 609.
- ^ “Statute of Westminster Adoption Act 1942 (Cth)”. Cơ quan Lưu trữ quốc gia Úc. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ “Statute of Westminster Adoption Act 1942”. ComLaw. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 22–23.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 30.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 338–39, 681–82.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 442–43.
- ^ “Australia Act 1986”. Học viện Thông tin pháp luật Australasia. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2010.
- ^ Woodard, Garry (ngày 11 tháng 11 năm 2005). “Whitlam turned focus on to Asia”. Melbourne: The Age. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ Thompson, Roger C. (1994). The Pacific Basin since 1945: A history of the foreign relations of the Asian, Australasian, and American rim states and the Pacific islands. Longman. ISBN 0-582-02127-8.
- ^ “Australia’s Size Compared”. Khoa học địa cầu Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2007.
- ^ Rosenberg, Matt (ngày 20 tháng 8 năm 2009). “The New Fifth Ocean–The World’s Newest Ocean – The Southern Ocean”. About.com: Geography. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Continents: What is a Continent?”. National Geographic Society. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2009. “Most people recognize seven continents—Asia, Africa, North America, South America, Antarctica, Europe, and Australia, from largest to smallest—although sometimes Europe and Asia are considered a single continent, Eurasia.”
- ^ “Australia”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2009. “Smallest continent and sixth largest country (in area) on Earth, lying between the Pacific and Indian oceans.”
- ^ “Islands”. Khoa học địa cầu Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2010. “Being surrounded by ocean, Australia often is referred to as an island continent. As a continental landmass it is significantly larger than the many thousands of fringing islands…”
- ^ “Australia in Brief: The island continent”. Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2009. “Mainland Australia, with an area of 7.69 million square kilometres, is the Earth’s largest island but smallest continent.”
- ^ “State of the Environment 2006”. Bộ Môi trường và Tài nguyên nước. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2007.
- ^ “Oceans and Seas – Geoscience Australia”. Khoa học địa cầu Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2009.
- ^ UNEP World Conservation Monitoring Centre (1980). “Protected Areas and World Heritage – Great Barrier Reef World Heritage Area”. Department of the Environment and Heritage. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2007.
- ^ “Mount Augustus”. The Sydney Morning Herald. Ngày 17 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ “Highest Mountains”. Khoa học địa cầu Úc. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2012.
- ^ Macey, Richard (ngày 21 tháng 1 năm 2005). “Map from above shows Australia is a very flat place”. The Sydney Morning Herald. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2010.
- ^ Kelly, Karina (ngày 13 tháng 9 năm 1995). “A Chat with Tim Flannery on Population Control”. Công ty Phát thanh-Truyền hình Úc. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010. “Well, Australia has by far the world’s least fertile soils”.
- ^ Grant, Cameron (tháng 8 năm 2007). “Damaged Dirt”. The Advertiser. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010. “Australia has the oldest, most highly weathered soils on the planet.”
- ^ Loffler, Ernst; Anneliese Loffler, A. J. Rose, Denis Warner (1983). Australia: Portrait of a continent. Richmond, Victoria: Hutchinson Group (Australia). tr. 37–39. ISBN 0-09-130460-1.
- ^ “Australia – Climate of a Continent”. Bureau of Meterorology. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ a ă “Countries of the World (by lowest population density)”. WorldAtlas. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ “1301.0 – Year Book Australia, 2008”. Cục Thống kê Úc. Ngày 7 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ a ă Johnson, David (2009). The Geology of Australia (ấn bản 2). Cambridge University Press. tr. 202. ISBN 978-0-521-76741-5.
- ^ Seabrooka, Leonie; McAlpinea, Clive; Fenshamb, Rod (2006). “Cattle, crops and clearing: Regional drivers of landscape change in the Brigalow Belt, Queensland, Australia, 1840–2004”. Landscape and Urban Planning 78 (4): 375–376. doi:10.1016/j.landurbplan.2005.11.00.
- ^ “Einasleigh upland savanna”. Khu vực sinh thái lục địa. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Mitchell grass downs”. Khu vực sinh thái lục địa. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Eastern Australia mulga shrublands”. Khu vực sinh thái lục địa. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Southeast Australia temperate savanna”. Khu vực sinh thái lục địa. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Arnhem Land tropical savanna”. Khu vực sinh thái lục địa. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Rangelands – Overview”. Australian Natural Resources Atlas. Chính phủ Úc. Ngày 27 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Cape York Peninsula tropical savanna”. Khu vực sinh thái lục địa. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ Van Driesum, Rob (2002). Outback Australia. Lonely Planet. tr. 306. ISBN 1-86450-187-1.
- ^ “Victoria Plains tropical savanna”. Khu vực sinh thái lục địa. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Western Australian Mulga shrublands”. Khu vực sinh thái lục địa. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Central Ranges xeric scrub”. Khu vực sinh thái lục địa. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ Banting, Erinn (2003). Australia: The land. Crabtree Publishing Company. tr. 10. ISBN 0-7787-9343-5.
- ^ “Tirari-Sturt stony desert”. Khu vực sinh thái lục địa. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Great Sandy-Tanami desert”. Khu vực sinh thái lục địa. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ Kleinman, Rachel (ngày 6 tháng 9 năm 2007). “No more drought: it’s a ‘permanent dry’”. The Age (Melbourne). Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ Marks, Kathy (ngày 20 tháng 4 năm 2007). “Australia’s epic drought: The situation is grim”. The Independent (London). Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ a ă “Australia – Climate of Our Continent”. Cục Khí tượng Úc. 2010. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Climate of Western Australia”. Cục Khí tượng Úc. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2009.
- ^ Pascoe, I.G. (1991). History of systematic mycology in Australia. History of Systematic Botany in Australasia. Ed. by: P. Short. Australian Systematic Botany Society Inc. pp. 259–264.
- ^ “About Biodiversity”. Bộ Môi trường và Di sản. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2007.
- ^ Lambertini, Marco (2000). A Naturalist’s Guide to the Tropics (excerpt). University of Chicago Press. ISBN 0-226-46828-3. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ a ă “About Australia: Flora and fauna”. Bộ Ngoại giao và Thương mại website. Commonwealth of Australia. Tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2010.
- ^ “Snake Bite”, The Australian Venom Compendium.
- ^ PMID 15299143 (PubMed)
Citation will be completed automatically in a few minutes. Jump the queue or expand by hand
- ^ “Humans to blame for extinction of Australia’s megafauna”. Đại học Melbourne. Ngày 8 tháng 6 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ “The Thylacine Museum – A Natural History of the Tasmanian Tiger”. The Thylacine Museum. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2013.
- ^ “National Threatened Species Day”. Department of the Environment and Heritage, Chính phủ Úc. 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2006.
- ^ “Invasive species”. Bộ Môi trường, nước, di sản và nghệ thuật. Ngày 17 tháng 3 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010.
- ^ “About the EPBC Act”. Bộ Môi trường, nước, di sản và nghệ thuật. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010.
- ^ “National Strategy for the Conservation of Australia’s Biological Diversity”. Bộ Môi trường, nước, di sản và nghệ thuật. Ngày 21 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Conservation of biological diversity across Australia”. Bộ Môi trường, nước, di sản và nghệ thuật. Ngày 19 tháng 1 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010.
- ^ “The List of Wetlands of International Importance” (PDF). Công ước Ramsar. Ngày 22 tháng 5 năm 2010. tr. 6–7. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Australia”. Trung tâm di sản thế giới UNESCO. UNESCO. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2009.
- ^ “2010 Environmental Performance Index”. Yale University. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2010.
- ^ Atmosphere: Major issue: climate change, Ủy ban Môi trường nhà nước Úc, 2006.
- ^ ANU poll finds ‘it’s the environment, stupid’, Đại học quốc gia Úc. Truy cập 8 tháng 1 năm 2008.
- ^ Smith, Deborah (ngày 22 tháng 5 năm 2007). “Australia’s carbon dioxide emissions twice world rate”. The Sydney Morning Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ “Regional Rainfall Trends”. Cục Khí tượng Úc. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2009.
- ^ “Saving Australia’s water”. BBC News. Ngày 23 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2010.
- ^ “National review of water restrictions in Australia”. Ủy ban nước quốc gia Chính phủ Úc. Ngày 15 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2012.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 287–88.
- ^ “Governor-General’s Role”. Governor-General of Australia. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ Downing, Susan (ngày 23 tháng 1 năm 1998). “The Reserve Powers of the Governor-General”. Nghị viện Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2010.
- ^ a ă “The World Factbook 2009”. Washington D.C.: Central Intelligence Agency. 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2010.
- ^ a ă “Senate Summary”. Công ty Phát thanh-Truyền hình Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Voting HOR”. Ủy ban Tuyển cử Úc. Ngày 31 tháng 7 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Election Summary: Tasmania”. Công ty Phát thanh-Truyền hình Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ Evans, Tim (2006). “Compulsory Voting in Australia”. Ủy ban Tuyển cử Úc. tr. 4. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2009.
- ^ “What happens if I do not vote?”. Voting Australia – Frequently Asked Questions. Ủy ban Tuyển cử Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Governor-General’s Role”. Toàn quyền của Thịnh vượng chung Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2012.
- ^ “Glossary of Election Terms”. Công ty Phát thanh-Truyền hình Úc. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “State of the Parties”. Công ty Phát thanh-Truyền hình Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “State and Territory Government”. Chính phủ Úc. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Role of the Administrator”. Dinh Chính phủ Lãnh thổ phương Bắc. Ngày 16 tháng 6 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ “Administrator of Norfolk Island”. Chính phủ Úc Attorney-General’s Department. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2008.
- ^ “Commonwealth Heads of Government Meeting”. Commonwealth website. Pall Mall, London: Commonwealth Secretariat. 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2010.
- ^ “S Korean President backs anti-protectionism moves”. Công ty Phát thanh-Truyền hình Úc. Ngày 4 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Crean calls for Govt to ‘mobilise anger’ over US steel tariffs”. Công ty Phát thanh-Truyền hình Úc. Ngày 7 tháng 3 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ Crean, Simon. “The Triumph of Trade Liberalisation Over Protectionism”. Bộ Ngoại giao và Thương mại. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ Gallagher, tr W. (1988). “Setting the agenda for trade negotiations: Australia and the Cairns group”. Australian Journal of International Affairs 42 (ngày 1 tháng 4 năm 1988): 3–8. doi:10.1080/10357718808444955.
- ^ “APEC and Australia”. APEC 2007. Ngày 1 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Australia:About”. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Australia – Member information”. Tổ chức Thương mại Thế giới. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Australia-United States Free Trade Agreement”. Canberra, ACT: Bộ Ngoại giao và Thương mại. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ “Closer Economic Relations”. Canberra, ACT: Bộ Ngoại giao và Thương mại. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ “Japan-Australia Relations”. Bộ Ngoại giao Nhật Bản. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Gillard confident of S Korean trade deal – ABC News (Australian Broadcasting Corporation)”. Abc.net.au. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
- ^ “S. Korea, Australia set free-trade talks deadline”. Nz.news.yahoo.com. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
- ^ Arvanitakis, James; Tyler, Amy (ngày 3 tháng 6 năm 2008). “In Defence of Multilateralism”. Centre for Policy Development. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 9 năm 2009.
- ^ Chính phủ Úc. (2005). Budget 2005–2006
- ^ “Appendix 7: People: Defence actual staffing”. Defence Annual Report 2008–09. Bộ Quốc phòng Úc. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2010.
- ^ Khosa, Raspal (2004). Australian Defence Almanac 2004–05. Canberra: Viện Chính sách chiến lược Úc. tr. 4.
- ^ “Budget 2010–11: Portfolio budget overview”. Australian Department of Defence. 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2010.
- ^ Stockholm International Peace Research Institute (2011). The 15 major spender countries in 2011.
- ^ Australian Department of Defence. Global Operations. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Government to help Kalgoorlie quake victims”. Công ty Phát thanh-Truyền hình Úc. Ngày 20 tháng 4 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2010.
- ^ Cassen, Robert (1982). Rich Country Interests and Third World Development. United Kingdom: Taylor & Francis. ISBN 0-7099-1930-1.
- ^ “Australia, wealthiest nation in the world”. Ngày 20 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Australian’s the world’s wealthiest”. The Sydney Morning Herald. Ngày 31 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2012.
- ^ a ă Credit Suisse Research Institute (ngày 9 tháng 10 năm 2013). “Global Wealth Reaches New All-Time High”. The Financialist. Credit Suisse. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2013.
- ^ AAP (ngày 12 tháng 10 năm 2013). “Richest nation but poverty increasing”. The Australian. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2013.
- ^ “On the International Realignment of Exchanges and Related Trends in Self-Regulation – Australian Stock Exchange” (PDF). Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2010.
- ^ “Australia”. 2010 Index of Economic Freedom. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2010.
- ^ “Human Development Report 2010 – tables”. United Nations. 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2011.
- ^ “Melbourne ‘world’s top city’”. The Age. Ngày 6 tháng 2 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2009.
- ^ “Liveability ranking: Melbourne storm”. The Economist. Ngày 30 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Liveability ranking: Australian gold”. The Economist. Ngày 14 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014.
- ^ “Daily chart: The Melbourne supremacy”. The Economist. Ngày 28 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014.
- ^ “Australia Public debt – Economy”. Indexmundi.com. Ngày 9 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Nick Bryant’s Australia: Australian affordablity”. BBC. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
- ^ “Might Australia’s economic fortunes turn?”. The Economist. Ngày 29 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2010.
- ^ “World Economic Outlook (WEO) 2010 Rebalancing Growth”. International Monetary Fund. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2012.
- ^ “Australia slashes immigration as recession looms”. London: The Independent. Ngày 16 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
- ^ Mclennan, David (ngày 12 tháng 4 năm 2011). “Australian economy growing as new recession fears fade”. The Canberra Times. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
- ^ “National economy grows but some non-mining states in recession”. The Conversation. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2013.
- ^ Syvret, Paul (ngày 7 tháng 4 năm 2012). “Mining punches through recession”. Courier Mail. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Non-mining states going backwards”. ABC. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2013.
- ^ Macfarlane, I. J. (tháng 10 năm 1998). “Australian Monetary Policy in the Last Quarter of the Twentieth Century” (PDF). Reserve Bank of Australia Bulletin. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2010.
- ^ Parham, Dean (ngày 1 tháng 10 năm 2002). “Microeconomic reforms and the revival in Australia’s growth in productivity and living standards” (PDF). Conference of Economists Adelaide. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2010.
- ^ Tran-Nam, Binh. “The Implementation Costs of the GST in Australia: Concepts, Preliminary Estimates and Implications [2000] JlATax 23; (2000) 3(5)”. Journal of Australian Taxation 331 (Học viện Thông tin pháp luật Australasia). Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Part 1: Chính phủ Úc Budget Outcome”. Budget 2008–09 – Chính phủ Úc. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ a ă Cục Thống kê Úc. 6202.0 – Labour Force, Australia, April 2012
- ^ Patricia Karvelas (ngày 13 tháng 11 năm 2013). “Call for end to welfare poverty”. The Australian. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Australia. CIA – The World Factbook”. Cia.gov. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2011.
- ^ a ă â b Cục Thống kê Úc. Year Book Australia 2005.
- ^ “The Beach”. Chính phủ Úc: Cổng thông tin văn hóa. Bộ Môi trường, nước, di sản và nghệ thuật, Commonwealth of Australia. Ngày 17 tháng 3 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2010.
- ^ Cục Thống kê Úc nói rằng hầu hết người xếp vào nhóm “người Úc” có tổ tiên là một phần trong nhóm Anglo-Celt. [3]
- ^ “Reflecting a Nation: Stories from the 2011 Census, 2012–2013”. Cục Thống kê Úc. Ngày 21 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
- ^ “Land of many cultures, ancestries and faiths”. The Sydney Morning Herald. Ngày 22 tháng 6 năm 2012.
- ^ “3105.0.65.001—Australian Historical Population Statistics, 2006” (XLS). Cục Thống kê Úc. Ngày 23 tháng 5 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2007. “Australian population: (1919) 5,080,912; (2006) 20,209,993”
- ^ “Background note: Australia”. US Department of State. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2007.
- ^ a ă “Fact Sheet 20 – Migration Program Planning Levels”. Department of Immigration and Citizenship. Ngày 11 tháng 8 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Australia’s population to grow to 42 million by 2050, modelling shows“. News.com.au. ngày 17 tháng 4 năm 2010
- ^ “2011 Census reveals one in four Australians is born overseas”. Cục Thống kê Úc. Ngày 21 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2012.
- ^ a ă â b “Cultural Diversity In Australia”. Cục Thống kê Úc. Ngày 16 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2013.
- ^ “The Evolution of Australia’s Multicultural Policy”. Department of Immigration and Multicultural and Indigenous Affairs. 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2007.
- ^ “Settler numbers on the rise”. Minister for Immigration and Citizenship. Ngày 27 tháng 12 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2010.
- ^ “Targeted migration increase to fill skills gaps”. Department of Immigration and Citizenship. Ngày 8 tháng 5 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2012.
- ^ “Fact Sheet 2 – Key Facts In Immigration – Department of Immigration and Citizenship”. Immi.gov.au. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2013.
- ^ “Rural population”. Rural population refers to people living in rural areas as defined by national statistical offices. World Bank. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2014.
- ^ “Aboriginal and Torres Strait Islander Australia revealed as 2011 Census data is released”. Cục Thống kê Úc. Ngày 21 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2012.
- ^ “1301.0 – Year Book Australia, 2004”. Cục Thống kê Úc. Ngày 27 tháng 2 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2009.
- ^ Lunn, Stephen (ngày 26 tháng 11 năm 2008). “Life gap figures not black and white”. The Australian (News Limited). Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2010.
- ^ Gibson, Joel (ngày 10 tháng 4 năm 2009). “Indigenous health gap closes by five years”. The Sydney Morning Herald (Fairfax). Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2010.
- ^ Parliament of Australia, Parliamentary Library (ngày 7 tháng 3 năm 2005). Australia’s aging workforce.
- ^ Parliament of Australia, Senate (2005). Inquiry into Australian Expatriates.
- ^ Duncan, Macgregor; Leigh, Andrew; Madden, David and Tynan, Peter (2004). Imagining Australia. Allen & Unwin. tr. 44. ISBN 978-1-74114-382-9.
- ^ Moore, Bruce. “The Vocabulary Of Australian English”. National Museum of Australia. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2010.
- ^ “The Macquarie Dictionary”, Fourth Edition. The Macquarie Library Pty Ltd, 2005.
- ^ A Snapshot of Early Childhood Development in Australia. Chính phủ Úc Department of Education, Employment and Workplace Relations. Tháng 12 năm 2009. tr. 8. ISBN 978-0-9807246-0-8. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2011.
- ^ Agence France-Presse/Jiji Press, “Arabic Australia’s second language”, The Japan Times, ngày 16 tháng 4 năm 2011, tr 4.
- ^ “National Indigenous Languages Survey Report 2005”. Department of Communications, Information Technology and the Arts. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2009.
- ^ Cục Thống kê Úc (ngày 4 tháng 5 năm 2010). “4713.0 – Population Characteristics, Aboriginal and Torres Strait Islander Australians, 2006” (bằng Canberra). Cục Thống kê Úc. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2010.
- ^ Cục Thống kê Úc (ngày 27 tháng 6 năm 2007). “20680-Language Spoken at Home (full classification list) by Sex – Australia”. 2006 Census Tables: Australia. Canberra: Cục Thống kê Úc. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2010.
- ^ “3218.0 – Regional Population Growth, Australia. 2011–12”. Cục Thống kê Úc. 30 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2013.
- ^ “About Australia: Religious Freedom”. Dfat.gov.au. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2011.
- ^ “2011 Census reveals Hinduism as the fastest growing religion in Australia”. Cục Thống kê Úc. Ngày 21 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2012.
- ^ “Religious Affiliation – Australia: 2001 and 1996 Census”. Community Relations Commission for a multicultural NSW. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2012.
- ^ Ian Townsend (ngày 30 tháng 1 năm 2012). “Thousands of parents illegally home schooling”. ABC News. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Home Education Australia”. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Schooling Overview”. Bộ Giáo dục, các quan hệ việc làm và nơi làm việc. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2011.
- ^ “Education”. Bộ Nhập cư và quyền công dân. Bản gốc lưu trữ . Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2012.
- ^ “Our system of education”. Chính phủ Úc: Bộ Ngoại giao và Thương mại. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2012.
- ^ “The Department of Education – Schools and You – Schooling”. Det.wa.edu.au. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2011.
- ^ “Education Act (NT) – Section 20”. austlii.edu.au.
- ^ “Education Act 1990 (NSW) – Section 21”. austlii.edu.au.
- ^ “Minimum school leaving age jumps to 17”. The Age. Ngày 28 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2013.
- ^ “Literacy”. CIA World Factbook. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2013.
- ^ “A literacy deficit”. abc.net.au. Ngày 22 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Australian Education | Australian Education System | Education | Study in Australia”. Ausitaleem.com.pk. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2011.
- ^ Education at a Glance 2006. Organisation for Economic Co-operation and Development
- ^ “About Australian Apprenticeships”. Chính phủ Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ MCGaw, Barry. “] Education at a Glance 2005 – USA Briefing Note”. tr. 14. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
- ^ How Australia compares Australian Institute of Health and Welfare
- ^ “Life expectancy”. Cục Thống kê Úc. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Skin cancer – key statistics”. Bộ Y tế và Lão hóa. 2008.
- ^ Risks to health in Australia Viện Y tế và Phúc lợi Úc
- ^ Smoking – A Leading Cause of Death. The National Tobacco Campaign.
- ^ % Global prevalence of adult obesity (BMI ≥ 30 kg/m²): country rankings 2012 IASO
- ^ “About Overweight and Obesity”. Department of Health and Ageing. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2010.
- ^ “Health care in Australia”. About Australia. Bộ Ngoại giao và Thương mại. 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2010.
- ^ a ă Biggs, Amanda (ngày 29 tháng 10 năm 2004). “Medicare – Background Brief”. Parliament of Australia: Parliamentary Library. Canberra, ACT: Commonwealth of Australia. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2010.
- ^ Australian Taxation Office (ngày 19 tháng 6 năm 2007). “What is the Medicare levy?”. Australian Taxation Office website. Chính phủ Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ “About Australia: World Heritage properties”. Bộ Ngoại giao và Thương mại. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010.
- ^ Jupp, tr 796–802.
- ^ Teo and White, tr 118–20.
- ^ a ă â b Davison, Hirst and Macintyre, tr 98–99.
- ^ Teo and White, tr 125–27.
- ^ a ă Teo and White, tr 121–23.
- ^ Jupp, tr 808–12, 74–77.
- ^ Ross, Margaret Clunies (1986). “Australian Aboriginal Oral Traditions”. Center for Study in Oral Tradition. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2010.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 452.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 85.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 469–70.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 686–87.
- ^ Smith and Smith, tr 97–103.
- ^ Smith and Smith, tr 323–28, 407–08.
- ^ Smith and Smith, tr 208–12.
- ^ Smith and Smith, tr 226–233.
- ^ Smith and Smith, tr 397–403.
- ^ Bell, Richard (2008). “We’re not allowed to own anything”. Art and Australia 46 (2): 228–229.
- ^ Pickering, Michael (2007). “Sand, seed, hair and paint”. Trong Johnson, Vivien. Papunya Painting: Out of the Desert. Canberra: National Museum of Australia. tr. 1. ISBN 978-1-876944-58-2.
- ^ Henly, Susan Gough (ngày 6 tháng 11 năm 2005). “Powerful growth of Aboriginal art”. The New York Times.
- ^ McCulloch, Alan; Susan McCulloch, Emily McCulloch Childs (2006). McCulloch’s Encyclopedia of Australian Art. Fitzroy, VIC: Aus Art Editions in association with The Miegunyah Press, tr 88, ISBN 0-522-85317-X.
- ^ Smith, Terry (1996) “Kngwarreye Woman, Abstract Painter”, tr 24 in Emily Kngwarreye – Paintings, North Ryde NSW: Craftsman House / G + B Arts International. ISBN 90-5703-681-9.
- ^ Copeland, Julie (ngày 20 tháng 11 năm 2005). “The Critics part 5 – Robert Hughes”. Sunday Morning. Australian Broadcasting Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2010.
- ^ Germaine, Max (1990). Artists & Galleries of Australia. Roseville, Vic.: Craftsman House. tr. 756–58, 796–97, 809–10, 814–15, 819–20, 826–27, 829–30. ISBN 976-8097-02-7.
- ^ Ron Radford, Giám đốc Nhà trưng bày quốc gia Úc, quoted in Blake, Elissa (4–ngày 5 tháng 2 năm 2012). “The art of persuasion”. The Sydney Morning Herald (Spectrum section).
- ^ “Arts funding guide 2010” (PDF). Australia Council. 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Evaluation of the Orchestras Review 2005 funding package implementation” (PDF). Australia Council. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Opera Australia”. Australia Council. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Opera in Australia”. Bộ Môi trường, nước, di sản và nghệ thuật. Ngày 5 tháng 3 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2011.
- ^ Maloney, Shane (December 2005 – January 2006). “Nellie Melba & Enrico Caruso”. The Monthly. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ Brandis, George (ngày 8 tháng 5 năm 2007). “35 per cent increase in funding for Australia’s major performing arts companies”. Department of Communications, Information Technology and the Arts. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ Parkinson, Charles. “2009 in Review”. Kịch đoàn Tasmania. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ Laurie, Victoria (ngày 18 tháng 8 năm 2008). “Perth theatre rivals discuss merger”. The Australian. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 381–82, 393–94, 404, 496–497.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 683.
- ^ Hansson, Karin (ngày 29 tháng 8 năm 2001). “Patrick White – Existential Explorer”. The Nobel Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Who’s who in the Man Booker Prize”. The Booker Prize Foundation. 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2012.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 394.
- ^ “Tranter, John (1977) A warrior poet living still at Anzac Cove: Review of The Vernacular Republic: Selected Poems”. Johntranter.com. Ngày 29 tháng 1 năm 1977. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010.
- ^ Chichester, Jo (2007). “Return of the Kelly Gang”. UNESCO Courier. UNESCO. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2009.
- ^ “The first wave of Australian feature film production”. Docs.google.com. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Culture.gov.au – “Film in Australia””. Chính phủ Úc: Cổng thông tin văn hóa. Bộ Môi trường, nước, di sản và nghệ thuật, Commonwealth of Australia. Ngày 22 tháng 11 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2011.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 252–53.
- ^ “Screen Australia – Former AFC – News Archive – Tim Burstall”. Ủy ban Điện ảnh Úc. Ngày 7 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2010.
- ^ “Alvin Purple”. Lưu trữ điện ảnh và âm thanh quốc gia. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ Pecujac, Yvonne (ngày 25 tháng 7 năm 2008). “The fall guy”. The Age (Melbourne). Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Mad Max”. Lưu trữ điện ảnh và âm thanh quốc gia. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Gallipoli”. Lưu trữ điện ảnh và âm thanh quốc gia. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Shine”. Lưu trữ điện ảnh và âm thanh quốc gia. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Rabbit-Proof Fence”. Lưu trữ điện ảnh và âm thanh quốc gia. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Dame Judith Anderson”. Công ty Phát thanh-Truyền hình Úc. Ngày 3 tháng 3 năm 2003. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Flynn, Errol Leslie (1909–1959)”. Từ điển tiểu sử Úc. Đại học quốc gia Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Watts’ Nationality Confusion”. Contact Music. Ngày 23 tháng 1 năm 2004. “I’m both Australian and English – but I have a British passport.”
- ^ “Australia (11/09)”. State.gov. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Blanchett extends stay at theatre company”. Công ty Phát thanh-Truyền hình Úc. Ngày 1 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ Reporters Without Borders (2010). “Press Freedom Index 2010”. Reporters Without Borders. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2010.
- ^ Barr, Trevor. “Media Ownership in Australia“, australianpolitics.com. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2008.
- ^ Gardiner-Garden, John and Chowns, Jonathan (ngày 30 tháng 5 năm 2006). “Media Ownership Regulation in Australia”. Nghị viện Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2010.
- ^ “Bush Tucker Plants, or Bush Food”. Teachers.ash.org.au. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
- ^ “Bush Tucker”. Theepicentre.com. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
- ^ a ă “Australian food and drink”. Bộ Môi trường, nước, di sản và nghệ thuật. Ngày 23 tháng 9 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2010.
- ^ a ă “Modern Australian recipes and Modern Australian cuisine”. Dịch vụ Phát thanh-Truyền hình Đặc biệt. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Australian Wine Industry Statistics”. Winebiz – Wine Industry Statistics. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2010.
- ^ Ed, McCarthy; Mary Ewing-Mulligan (2006). Wine For Dummies. For Dummies. ISBN 0-470-04579-5.
- ^ T. Stevenson “The Sotheby’s Wine Encyclopedia” Dorling Kindersley 2005 ISBN 0-7566-1324-8
- ^ Johnson, Hugh and Robinson, Jancis (2007). The World Atlas of Wine. Mitchell Beazley; 6th Revised edition. ISBN 978-1-84533-414-7.
- ^ Clarke, Oz (2002). Oz Clarke’s New Wine Atlas: Wines and Wine Regions of the World. Harcourt; 6th Revised edition. ISBN 978-0-15-100913-8.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 162–163.
- ^ Oxlade, Chris; Ballheimer, David. Olympics. DK Eyewitness. DK. tr. 61. ISBN 0-7566-1083-4.
- ^ “Flag Bearers”. Hiệp hội Đại hội thể thao Thịnh vượng chung Úc. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ Davison, Hirst and Macintyre, tr 479–480.
- ^ “ABS medal tally: Australia finishes third”. Cục Thống kê Úc. Ngày 30 tháng 8 năm 2004. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Medal Table”. BBC. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Past Commonwealth Games”. Liên đoàn Đại hội thể thao Thịnh vượng chung. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Australian Film Commission. What are Australians Watching?” Free-to-Air, 1999–2004 TV. screenaustralia.gov.au
Thư mục
- Davison, Graeme; Hirst, John; Macintyre, Stuart (1999). The Oxford Companion to Australian History. Melbourne, Vic.: Oxford University Press. ISBN 0-19-553597-9.
- Jupp, James (2001). The Australian people: an encyclopedia of the nation, its people, and their origins. Cambridge University Press. ISBN 0-521-80789-1.
- Smith, Bernard; Smith, Terry (1991). Australian painting 1788–1990. Melbourne, Vic.: Oxford University Press. ISBN 0-19-554901-5.
- Teo, Hsu-Ming; White, Richard (2003). Cultural history in Australia. University of New South Wales Press. ISBN 0-86840-589-2.
Liên kết ngoài
Thể loại:
Cầu Cổng Vàng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cầu Cổng Vàng |
 |
Vị trí địa lý |
Vị trí |
San Francisco, California và quận Marin, California |
Toạ độ |
37°49′11″B 122°28′43″TTọa độ: 37°49′11″B 122°28′43″T |
Bắc qua |
Golden Gate |
Tuyến đường |
6 US 101/SR 1, lối đi bộ và xe đạp |
Thông số kỹ thuật |
Kiểu cầu |
Cầu dây võng, truss arch & truss causeways |
Vật liệu |
Thép |
Chiều dài |
2.737 m[1] |
Cao |
227 m |
Nhịp chính |
1.280 m[2] |
Tĩnh không |
4,3 m tại trạm thu phí |
Độ cao gầm cầu |
67 m so với mực nước cao trung bình |
Thiết kế |
Thiết kế |
Joseph Strauss, Irving Morrow, và Charles Ellis |
Xây dựng |
Nhà thầu |
Golden Gate Bridge, Highway and Transportation District[3] |
Khởi công |
5 tháng 1, 1933 |
Hoàn thành |
19 tháng 4, 1937 |
Khánh thành |
27 tháng 5, 1937; 77 năm trước |
Thông tin khác |
Phí cầu đường |
Xe hơi (southbound)
không thu phí, $5.00 & $3.00 (FasTrak) |
Lưu thông hàng ngày |
110,000[4] |
|
Cầu Cổng Vàng (tiếng Anh: Golden Gate Bridge) hay Kim Môn kiều là một cây cầu treo nối liền Cổng Vàng, cửa ngõ vào của vịnh San Francisco và Thái Bình Dương. Là một phần của cả hai xa lộ US 101 và California State Route 1, chiếc cầu nối liền thành phố San Francisco trên mũi phía bắc của bán đảo San Francisco với hạt Marin. Khi được hoàn thành vào năm 1937, The Golden Gate Bridge là cây cầu treo dài nhất trên thế giới, và đã trở thành một biểu tượng quốc tế của San Francisco, California, Hoa Kỳ. Kể từ khi hoàn thành đến nay đã có tám chiếc cầu khác có chiều dài vượt qua Cầu Cổng Vàng. Tuy thế, nó vẫn là cây cầu treo dài thứ hai ở Hoa Kỳ, sau cầu Verrazano-Narrows ở New York. Vào năm 2007, nó đã được xếp hạng thứ năm trong Danh sách những kiến trúc Hoa Kỳ được yêu thích do Viện Kiến trúc sư Hoa Kỳ bầu chọn.
Lịch sử
Dịch vụ phà
Trước khi cây cầu được xây dựng, cách duy nhất để đi lại giữa San Francisco và vùng đất mà ngày nay là hạt Marin là bằng tàu thuyền đi xuyên qua một phần của vịnh San Francisco. Dịch vụ phà bắt đầu được sử dụng khoảng đầu những năm 1820, đến thập kỷ 1840 thì dịch vụ được thực hiện thường xuyên theo lịch để mang nước đến San Francisco.[5] Năm 1867 công ty dịch vụ Đất liền và phà Sausalito được thành lập và sau này trở thành công ty Phà Cổng Vàng, một công ty con của Đường Sắt Nam Thái Bình Dương, tập đoàn cung cấp dịch vụ phà lớn nhất thế giới những năm 1920.[5][6] Chỉ phục vụ cho hành khách đường sắt và khách hàng, dịch vụ phà của Nam Thái Bình Dương mang lại lợi nhuận rất lớn và đóng vai trò quan trọng cho nền kinh tế trong vùng.[7] Đi phà từ Hyde Street Pier, San Francisco đến Sausalito của hạt Marin mất khoàng 20′ với giá 1.00 USD cho một phương tiện, sau đó mức giá này được hạ xuống để cạnh tranh với chiếc cầu mới.[8]
Nhiều người muốn xây dựng một cây cầu để nối San Francisco với hạt Marin. San Francisco là thành phố lớn nhất của Mỹ vẫn còn đi lại chủ yếu bằng tàu phà. Vì không có một con đường cố định nối liền các cộng đồng xung quanh vịnh với nhau nên mức tăng trưởng của thành phố thấp hơn mức trung bình của quốc gia.[9] Nhiều chuyên gia cho rằng, một cây cầu không thể được xây dựng trên eo biển. Eo biển này có thủy triều và dòng nước mạnh và xoáy, nước ở trung tâm rất sâu và có gió mạnh thường xuyên. Các chuyên gia cho rằng những cơn gió hung tợn và sương mù dày đặc sẽ gây khó khăn cho việc xây dựng và hoạt động.[9]
Ý tưởng
Mặc dù ý tưởng về một cây cầu bắc qua Cổng Vàng đã có từ trước nhưng mãi đến năm 1916 thì ý tưởng đó mới được đưa ra trong một bản tin của San Francisco bởi James Wilkins lúc đó đang là sinh viên kỹ thuật.[10] Theo ước tính của Hội Kỹ Sư thành phố, đế xây dựng được một cây cầu phải tốn 100 triệu USD, một con số quá lớn trong thời kỳ đó và một câu hỏi đã đặt ra cho các kỹ sư cầu đường là liệu họ có thể xây dựng được một chiếc cầu với chi phí thấp hơn không.[5] Một người đã đưa ra đáp án cho vấn đề trên, đó là Joseph Strauss, một kỹ sư có nhiều hoài bão và mơ ước. Trong luận văn tốt nghiệp của mình ông thiết kế một cây cầu sắt dài bắc qua eo biển Bering.[11] Trước đó Strauss đã hoàn tất 400 chiếc cầu kéo, hầu hết là được xây dựng trên đất liền, chưa có công trình nào mang tầm cỡ của công trình mới này.[2] Trong những bản vẽ đầu tiên của mình Strauss thiết kế một mút chìa đỡ bao lơn cực lớn ở hai phía của eo biển, hai mút chìa này được nối với nhau bởi một đoạn treo ở trung tâm mà theo Strauss phân đoạn này có thể được xây dựng với 17 triệu USD.[5][10]
Chính quyền địa phương đồng ý việc xây cầu theo ý tưởng của Strauss với điều kiện là Strauss phải chỉnh sửa thiết kế và chấp nhận thông tin đầu vào từ các chuyên gia tư vấn dự án. Một bản thiết kế về một cây cầu treo được xem là thực tế nhất bởi vì nó phù hợp với những tiến bộ trong ngành luyện kim thời bấy giờ.[5]
Strauss phải mất hơn mười năm để kêu gọi sự ủng hộ của cộng đồng Bắc California..[12] Việc xây dựng chiếc cầu vấp phải nhiều sự phản đối kể cả kiện tụng. Cục Chiến tranh lo ngại rằng cây cầu sẽ cản trở giao thông đường thủy; hải quân sợ rằng một vụ va chạm tàu hoặc việc phá hủy cầu có thể chặn lối vào một trong những cảng chính của nó. Liên đoàn lao động yêu cầu phải tuyển dụng nhân công địa phương làm việc cho công trình. Tập đoàn Đường sắt Nam Thái Bình Dương, một trong những đơn vị kinh doanh phát đạt nhất ở California đã phản đối việc xây chiếc cầu vì cho rằng chiếc cầu sẽ gây ảnh hưởng đến dịch vụ phà của họ và đệ đơn kiện chống lại dự án. Sự việc đó dẫn đến một cuộc tẩy chay hàng loạt nhằm vào dịch vụ phà của tập đoàn này.[5] Tháng 5 năm 1924, Đại tá Herbert Deakyne thay mặt cho Bộ trưởng Chiến tranh tổ chức phiên điều trần thứ hai yêu cầu sử dụng đất liên bang cho việc việc xây dựng cầu. Deakyne, thay mặt cho Bộ trưởng Chiến tranh, chấp thuận chuyển nhượng đất đai cần thiết cho việc xây dựng cây cầu và các con đường huyết mạch cho “Hiệp hội Xây dựng cầu Cổng Vàng”.[13] Strauss có thêm một đồng minh nữa là ngành công nghiệp sản xuất xe ôtô mới ra đời mong muốn sự phát triển cầu đường sẽ kích thích nhu cầu mua xe của người dân.[8]
Tên của cầu lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1917 trong cuộc thảo luận ban đầu giữa Strauss và kỹ sư của thành phố San Fransisco. Cái tên được chính thức công nhận trong đạo luật Golden Gate Bridge and Highway District do cơ quan lập pháp của tiểu ban ban hành năm 1923.[14]
Thiết kế
Strauss là kỹ sư trưởng phụ trách thiết kế tổng thể và xây dựng của dự án.[9] Tuy nhiên, do ông có ít kinh nghiệm và hiểu biết trong thiết kế cáp treo[15] nên phần lớn các nhiệm vụ liên quan đến kỹ thuật và thiết kế do những chuyên gia khác phụ trách.
Irving Morrow, một kiến trúc sư dân cư gần như chưa được biết đến đảm trách thiết kế hình dáng tổng thể của những tháp cầu, kết cấu chiếu sáng, và các loại trang trí nghệ thuật như đèn đường, lan can và lối đi. Với sự thuyết phục của nhiều người dân địa phương, Morrow đã thay màu xám bạc chuẩn mực bằng màu cam quốc tế nổi tiếng dùng cho lớp sơn phủ của cây cầu và từ đó đến nay màu sắc đó vẫn không thay đổi.[16]
Kỹ sư lão luyện Charles Alton Ellis, cộng tác từ xa với nhà thiết kế cầu nổi tiếng Leon Moisseiff, là kỹ sư chính của dự án.[17] Với thiết kế kết cấu cơ bản của mình, Moisseiff đã đưa ra “lý thuyết độ lệch” mà theo đó một con đường mỏng và mềm mại sẽ lúc lắc theo gió, điều này làm giảm đáng kể sức ép đối với cây cầu bằng cách chuyển các áp lực vào các dây cáp treo và đến tháp cầu.[17] Mặc dù Cầu Cổng vàng đã chứng minh được sự hoàn chỉnh trong thiết kế, tuy nhiên, một thiết kế sau này của Moiseiff, cây cầu Tacoma Narrow đầu tiên đã đổ sập trong một trận dông bão không lâu sau khi hoàn tất.[18]
Ellis là một học giả và là nhà toán học có thời gian làm giảng viên kỹ thuật cho trường Đại học Illinois mặc dù ông không có bằng cấp kỹ thuật nào (cuối cùng ông cũng lấy được bằng kỹ sư dân dụng của trường Đại học Illinois trước khi thiết kế cầu Cổng Vàng và sau đó làm giảng viên của Đại học Purdue trong 12 năm trước khi về hưu). Ông trở thành chuyên gia trong thiết kế kết cấu, tác giả của những quyển sách giáo khoa chuẩn mực thời bấy giờ.[19] Ellis đã đóng góp nhiều lý thuyết và kỹ thuật để xây dựng cây cầu nhưng ông lại ít được tín nhiệm.Tháng mười một năm 1931, lấy lý do là để hạn chế chi phí gởi và nhận điện tín với Moisseiff, Strauss sa thải Ellis và thay thuộc cấp cũ của mình là Clifford Paine vào vị trí của Ellis.Do quá say sưa với dự án và không thể tìm được việc làm khác trong thời kỳ Suy Thoái, Ellis chấp nhận làm việc không lương 70 giờ một tuần.[19]
Để tự quảng bá bản thân và được lưu danh, Strauss đã hạ thấp những đóng góp của các cộng sự của mình, những người đã làm việc hết mình để cây cầu được hoàn thành dù họ nhận được rất ít sự thừa nhận và đuợc trả lương rất thấp.[15] Ông đã làm được việc ghi công mình như là người đóng vai trò chính trong thiết kế và tầm nhìn của cây cầu.[19] Chỉ rất lâu sau đó đóng góp của các thành viên khác mới được đánh giá một cách đúng đắn.[19] Tháng 5 năm 2007, quận Cầu Cổng Vàng đưa ra báo cáo chính thức về 70 năm cống hiến của chiếc cầu nổi tiếng và quyết định điều chỉnh sai lầm cũ bằng cách công nhận Ellis là người thiết kế cây cầu.
Tài chính
Theo một đạo luật được đưa ra bởi cơ quan lập pháp California vào năm 1928, The Golden Gate Bridge and Highway District được công nhận là một tổ chức chính thức để thiết kế, xây dựng và chi trả cho việc xây dựng Cầu Cổng Vàng.[9] Tuy nhiên, sau khi phố Wall sụp đổ năm 1929, tổ chức này không thể tăng ngân quỹ dành cho xây dựng, do đó họ vận động biện pháp bán trái phiếu để thu được 38 triệu USD. Tháng 11 năm 1930 việc bán trái phiếu được thông qua trong cuộc biểu quyết giữa các hạt liên quan đến cây cầu.[20] Ngân sách xây dựng tại thời điểm phê duyệt là 30.100.000 $. Tuy nhiên, trái phiếu không thể bán được cho đến năm 1932 khi Amadeo Giannini, nhà sáng lập Ngân hàng Hoa Kỳ đóng tại San Francisco, thay mặt cho ngân hàng của ông đồng ý mua toàn bộ trái phiếu để giúp đỡ cho nền kinh tế địa phương.[5]
Xây dựng
Việc xây dựng bắt đầu vào ngày 05 tháng 1 năm 1933.[5] Chi phí cho dự án hơn 35.000.000 USD.[21]
Strauss là người đứng đầu xuyên suốt của dự án, giám sát việc xây dựng hàng ngày và tham gia vào việc động thổ. Là cựu sinh viên của trường ĐH Cincinnati, ông đã dùng một viên gạch của hội trường McMicken của trường này sau khi bị phá hủy và đặt vào trụ thả neo trước khi chỗ này được đổ bê tông. Bằng việc cải tiến cách sử dụng lưới an toàn di động đặt bên dưới công trường xây dựng, ông đã giúp cho nhiều công nhân tránh khỏi những tai nạn đáng tiếc.Trong số 11 người thiệt mạng trong quá trình xây dựng, mười người bị thiệt mạng (khi cây cầu sắp được hoàn thành) khi lưới an toàn bị rơi dưới sức ép của một dàn giáo bị ngã.Chiếc lưới này đã cứu sống 19 người khác, những người này về sau trở thành những thành viên đầy tự hào trong Câu lạc bộ Nửa đường đến Địa ngục.[22]
Dự án này được hoàn thành vào tháng 4 năm 1937. Chi phí cho dự án thấp hơn ngân sách cho phép là 1,3 triệu USD.[5]
Khánh thành
Lễ khánh thành bắt đầu ngày 27 tháng 5 năm 1937 và kéo dài một tuần. Một ngày trước khi các phương tiện giao thông được cho phép đi lại, 200.000 người đã đi trên cầu bằng cách đi bộ hoặc trượt băng.[5] Trong ngày khai mạc, thị trưởng Angelo Rossi và các quan chức đi phà sang hạt Marin và đi qua chiếc cầu trên một đoàn xe hộ tống để trở về quận Highway. Bài hát “There’s a Silver Moon on the Golden Gate” (tạm dịch là “Cổng vàng lấp lánh ánh trăng bạc”) được chọn làm bài hát chính thức cho lễ kỷ niệm. Strauss viết một bài thơ “Hoàn thành một sứ mệnh cao cả” mà hiện nay bạn có thể đọc thấy khi đi trên chiếc cầu. Buổi trưa ngày hôm sau, tổng thống Roosevelt phát tín hiệu cho phép các phương tiện bắt đầu lưu thông trên cầu. Khi các hoạt động kỷ niệm vượt ra ngoài tầm kiểm soát, phòng cảnh sát San Fransisco phải giải tán một đám đông gây rối ở trung tâm khu vực Polk Gulch. Sau đó các hoạt động dân sự và văn hóa “Fiesta” (“Ngày Hội”) diễn ra suốt nhiều tuần lễ. Tượng của Strauss được chuyển đến một công trường gần chiếc cầu vào năm 1955.[10]
Các đặc tính
Nhiều kỹ sư, chuyên viên đã góp công từ kỹ thuật cho đến mỹ thuật tô điểm cho cây cầu vừa hùng vĩ, hoành tráng vừa rực rỡ màu sắc dưới ánh nắng ban ngày cho đến huy hoàng lộng lẫy dưới ánh đèn ban đêm. Ánh sáng và màu sắc được thiết kế theo lối Art Deco Theme. Cầu được sơn màu đỏ cam “orange vermilion” nổi bật huy hoàng giữa vùng biển xanh và núi cỏ khô vàng nhạt, màu đỏ cam tươi sáng tàu bè dễ nhìn thấy từ xa.
Lớp sơn nguyên thủy sau nhiều năm bị rỉ sét vì hơi muối từ nước biển đến năm 1965 đã được cạo bỏ và sơn lại bằng sơn lót zinc silicate và phủ bên ngoài bằng sơn acrylic emulsion. Vừa cạo vừa sơn lại phải mất 30 năm và hoàn tất năm 1995. Hiện nay hàng ngày một toán thợ sơn 38 người lo sơn cầu, họ làm việc quanh năm vì vừa sơn xong đến đầu cầu bên này thì đầu cầu bên kia, lớp sơn đã bắt đầu rỉ sét!!!
Các thông số kỹ thuật
Nhịp cầu chính giữa là nhịp cầu dài nhất trong các cây cầu treo cho đến năm 1964, khi chiếc cầu Verrazano-Narrows được dựng lên giữa hai quận Staten Island và Brooklyn ở New York. Những chiếc tháp của cầu Cổng Vàng cũng là những cái tháp cầu treo cao nhất thế giới thời bấy giờ.Năm 1957 cầu Michigan’s Mackinac hoàn thành với chiều dài vượt qua cầu Cổng Vàng và trở thành chiếc cầu treo hai tháp dài nhất thế giới. Tuy thế nhịp cầu của Mackinac vẫn ngắn hơn nhịp cầu của cầu Cổng Vàng.
Kết cấu
Trọng lượng của phần lưu thông được chuyển sang hai dây cáp xuyên qua hai tháp chính và cố định ở phần bê tông ở hai đầu. Mỗi dây cáp được làm bằng 27.572 sợi kim loại. Tổng chiều dài các sợi cáp cấu thành hai dây cáp chính là 80.000 dặm (129.000 km);[23] tổng chiều dài này bằng 5,79 lần đường kính Trái Đất. Tổng số đinh tán dùng cho cây cầu là 1.200.000 cây.
Giao thông
Vì là con đường duy nhất để đi từ San Francisco đến phía Bắc, cây cầu là một phần của quốc lộ U.S Route 101 và California Route 1. Lằn ranh giới giữa các làn xe được dịch chuyển để phù hợp với mô hình giao thông. Vào buổi sáng các ngày thường, giao thông chủ yếu theo hướng nam vào thành phố nên bốn trong số sáu làn xe dành cho các phương tiện chạy theo hướng nam. Ngược lại, vào buổi chiều các ngày trong tuần, bốn làn xe dành cho các phương tiện chạy theo hướng bắc. Mặc dù việc lấp đặt một hàng rào di động được bàn đến từ những năm 1980, mãi đến tháng 3 năm 2005. Ban giám đốc quản lý chiếc cầu mới cam kết sẽ tìm nguồn tài trợ để thực hiện công tác nghiên cứu trị giá hàng triệu USD trước khi có thể thực hiện việc lắp đặt một hàng rào di động. Lối đi phía đông chỉ dành cho người đi bộ và xe đạp vào ban ngày của những ngày trong tuần, và lối đi phía tây mở cửa cho xe đạp vào buổi chiều ngày của những ngày trong tuần trong tuần, cuối tuần, và ngày lễ.
Tính thẩm mỹ
Mặc dù nhìn giống như màu đỏ nhưng màu của cây cầu được gọi một cách chính thức là màu cam đỏ, được biết đến qua cái tên “quốc tế cam”.[24] Kiến trúc sư tư vấn Irving Morning là người lựa chọn màu sắc cho chiếc cầu bởi vì nó phù hợp với môi trường tự nhiên xung quanh và cũng để nó có thể nổi bật được giữa lớp sương mù.
Cây cầu được nhắc đến là một trong những ví dụ đẹp nhất của kỹ thuật xây cầu, cả về những thách thức trong thiết kế kết cấu và sự hấp dẫn thẩm mỹ của nó. Nó được Hội kỹ sư dân dụng Hoa kỳ bầu chọn là một trong những kỳ quan hiện đại của thế giới. Tạp chí du lịch Frommer thì cho rằng Cầu Cổng vàng “có thể là một cây cầu đẹp nhất, chắc chắn là một cây cầu được chụp ảnh nhiều nhất trên thế giới”[25] (mặc dù Frommers cũng dành chữ “được chụp ảnh nhiều nhất” để vinh danh cầu tháp ở Luân Đôn, Anh).[26]
Vấn đề thẩm mỹ là nguyên nhân chính khiến cho bản thiết kế đầu tiên của Strauss bị từ chối. Khi tái đệ trình kế hoạch xây dựng cây cầu của mình, ông thêm thắt các chi tiết, chẳng hạn như ánh sáng, để phác thảo cáp và tháp của cây cầu.[27]
Các vấn đề hiện tại
Những vụ tự vẫn
Cầu Cổng Vàng bắc qua Vịnh San Francisco là một trong những công trình xây dựng giao thông vĩ đại nhất của nước Mỹ trong thế kỷ 20. Thế nhưng nó lại được mệnh danh là “Bãi tự sát nổi tiếng thế giới”.[28] Làn đường trên cầu cách mặt nước 79m.[29] Sau khi nhảy từ trên cầu xuống, khoảng 4s sau thì chạm mặt nước, lúc đó vận tốc xấp xỉ là 142 Km/h.
Vụ tự vẫn đầu tiên xảy ra sau khi cây cầu khánh thành 1 ngày. Không có số liệu chính xác số người tự vẫn ở đây từ khi cây cầu hoàn thành. Bởi vì có nhiều vụ không có người chứng kiến, vì trời tối và nơi đây thường có sương mù dày đặc.
Nước ở nơi đây chỉ khoảng 8 độ C. Đặc biệt ở đây có loài cá mập trắng. Chúng thường tụ tập thành từng đàn và quanh quẩn dưới chân cầu.
Tính đến năm 2005 người ta đã thống kê được có khoảng 1200 vụ tự vẫn tại đây.[30] Đó là những vụ người ta chứng kiến và ghi chép lại. Người ta thống kê rằng trung bình khoảng 2 tuần thì xảy ra một vụ. Trong năm 2006 có 34 vụ nhảy cầu tự vẫn xác vớt lên được. Có 4 vụ xác không tìm thấy.[31] Bên cạnh đó có một vài xác vớt lên từ dưới dòng nước được cho là từ các vụ tự vẫn.
Gió
Kể từ khi hoàn thành, Cầu Cổng Vàng bị đóng cửa 3 lần do các điều kiện thời tiết: vào ngày 01 tháng 12 năm 1951 do gió mạnh lên đến 111 km/giờ; vào 23 tháng 12 năm 1982, do gió mạnh 113 km/giờ; và ngày 03 tháng 12 năm 1983 với sức gió 121 km/giờ.[32]
Tăng cường kháng chấn
Những hiểu biết hiện đại về ảnh hưởng của động đất đến các công trình xây dựng đã làm người ta quan tâm đến việc tăng cường kháng chấn cho cầu Cổng Vàng. Do cầu này nằm gần đứt gãy San Andreas, một đứt gãy có khả năng gây ra các trận động đất lớn. Khi nghĩ đến khả năng có thể đứng vững trước những trận động đất được dự báo, cây cầu hoàn hoàn có thể bị phá hủy về cấu trúc (như sụp đổ) bởi sự phá hủy của dàn chịu lực trên vòm cao 98 m trên Fort Point.[33] Một chương trình trị giá 392 triệu USD được tiến hành để nâng cấp khả năng chịu lực của cấu trúc với những thiệt hại nhỏ nhất. Chương trình tăng cường kháng chấn sẽ được hoàn thành theo kế hoạch vào năm 2012.[34][35]
Tham khảo
- ^ Golden Gate Bridge trên trang Structurae
- ^ a ă Denton, Harry et al. (2004) “Lonely Planet San Francisco” Lonely Planet, United States. 352 pp. ISBN 1-74104-154-6
- ^ “Golden Gate Transportation District”. Goldengate.org. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Annual Vehicle Crossings and Toll Revenues, FY 1938 to FY 2011”. Golden Gate Bridge, Highway and Transportation District. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2012.
- ^ a ă â b c d đ e ê g “Two Bay Area Bridges”. US Department of Transportation, Federal Highway Administration. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2009.
- ^ Peter Fimrite (28 tháng 4 năm 2005). “Ferry tale — the dream dies hard: 2 historic boats that plied the bay seek buyer — anybody”. San Francisco Chronicle. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2007.
- ^ George H. Harlan (1967). San Francisco Bay Ferryboats. Howell-North Books. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2007.
- ^ a ă Guy Span (4 tháng 5 năm 2002). “So Where Are They Now? The Story of San Francisco’s Steel Electric Empire”. Bay Crossings.
- ^ a ă â b Sigmund, Pete (2006). “The Golden Gate: ‘The Bridge That Couldn’t Be Built’,”. Construction Equipment Guide. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2007.
- ^ a ă â T.O. Owens (2001). The Golden Gate Bridge. The Rosen Publishing Group.
- ^ “The American Experience:People & Events: Joseph Strauss (1870–1938)”. Public Broadcasting Service. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Bridging the Bay: Bridges That Never Were”. UC Berkeley Library. 1999. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2006.
- ^ Miller, John B. (2002) “Case Studies in Infrastructure Delivery” Springer. 296 pp. ISBN 0-7923-7652-8.
- ^ Gudde, Erwin G. (1949). California Place Names. Berkeley, California: University of California Press. tr. 130. ASIN B000FMOPP4.
- ^ a ă “People and Events: Joseph Strauss (1870-1938)”. Public Broadcasting Service. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2007.
- ^ “The American Experience:People & Events: Irving Morrow (1884-1952)”. Public Broadcasting Service. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2007.
- ^ a ă “American Experience:Leon Moisseiff (1872–1943)”. Public Broadcasting Service. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2007.
- ^ K. Billah and R. Scanlan (1991), Resonance, Tacoma Narrows Bridge Failure, and Undergraduate Physics Textbooks, American Journal of Physics, 59(2), 118–124 (PDF)
- ^ a ă â b “The American Experience:Charles Alton Ellis (1876–1949)”. Public Broadcasting Service. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2007.
- ^ Jackson, Donald C. (1995) “Great American Bridges and Dams” John Wiley and Sons. 360 tr. ISBN 0-471-14385-5
- ^ “Bridging the Bay: Bridges That Never Were”. UC Berkeley Library. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2007.
- ^ “Frequently Asked Questions about the Golden Gate Bridge”. Golden Gate Bridge, Highway and Transportation District. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2007.
- ^ [1]
- ^ “Golden Gate Bridge: Construction Data”. Golden Gate Bridge, Highway and Transportation District. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2007.
- ^ “Golden Gate Bridge – Museum/Attraction View”. Frommers. 2006. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2006.
- ^ “Tower Bridge – Museum/Attraction View – London”. Frommers. 2006. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2006.
- ^ Rodriguez, Joseph A. (2000) Planning and Urban Rivalry in the San Francisco Bay Area in the 1930s. Journal of Planning Education and Research v. 20 tr. 66-76.
- ^ “World’s 10 most popular suicide destinations”. retard zone. 27 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2008.
- ^ Suspension Bridges, page 5. “Depth to span ratio (of truss is) 1:168.” Span of 4200 ft means truss is 25 ft deep.
- ^ Friend, Tad (13 tháng 10 năm 2003). “Jumpers: The fatal grandeur of the Golden Gate Bridge”. The New Yorker. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2006.
- ^ Lagos, Marisa (17 tháng 1 năm 2007). “34 confirmed suicides off GG Bridge last year”. The San Francisco Chronicle. Truy cập January 17 năm 2007.
- ^ “Frequently Asked Questions about the Golden Gate Bridge”. Golden Gate Bridge, Highway and Transportation District. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2008.
- ^ Carl Nolte (28 tháng 5 năm 2007). “70 YEARS: Spanning the Golden Gate:New will blend in with the old as part of bridge earthquake retrofit project”. San Francisco Chronicle.
- ^ Golden Gate Bridge Authority (May năm 2008). “Overview of Golden Gate Bridge Seismic Retrofit”. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2008.
- ^ Gonchar, Joann (3 tháng 1 năm 2005). “Famed Golden Gate Span Undergoes Complex Seismic Revamp”. McGraw-Hill Construction. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2008.
Liên kết ngoài
Thể loại:
Charles Darwin
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Charles Robert Darwin (12 tháng 2, 1809 – 19 tháng 4, 1882) là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực tự nhiên học người Anh. Ông là người đã phát hiện và chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung[1] qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Nếu như sự tiến hóa được cộng đồng các nhà khoa học và công chúng chấp nhận ở thời đại Darwin, thì lý thuyết chọn lọc của ông trong những năm 1930 được xem như lời giải thích chính yếu cho quá trình này, và ngày nay đã trở thành nền tảng cho lý thuyết tiến hóa hiện đại. Khám phá của Darwin là lý thuyết thống nhất cho các ngành khoa học sinh vật vì có thể đưa ra lời giải thích duy lý cho sự đa dạng loài.[2]
Trong thời gian học ở Đại học Edingburgh, Darwin bỏ bê việc học y khoa để tìm hiểu những loài động vật biển có xương sống. Sau đó ông học ở Đại học Cambridge, ở đây người ta khuyến khích đam mê nghiên cứu khoa học[3]. Trong suốt chuyến hành trình năm năm sau đó ông có những quan sát và lý thuyết ủng hộ cho ý tưởng thống nhất sinh học của Charles Lyell. Ông cũng trở thành tác giả nổi tiếng sau khi xuất bản nhật ký về chuyến hải hành. Tự vấn về sự phân bố của các loài hoang dã và các hóa thạch theo phân vùng địa lý, Darwin đã tìm hiểu về sự biến đổi hình thái của các loài và phát triển lý thuyết chọn lọc tự nhiên vào năm 1838. Ông hoàn thành lý thuyết vào năm 1858. Khi đó Alfred Russel Wallace gởi đến ông bài luận cũng về ý tưởng như vậy. Sau đó cả hai cùng hợp tác để xuất bản lý thuyết này.[4]
Cuốn sách Nguồn gốc muôn loài (On the Origin of Species, 1859) của ông nói rằng tiến hóa qua các thế hệ là do biến dị và điều này cung cấp lời giải thích khoa học cho sự đa dạng trong tự nhiên[5][6]. Ông kiểm định sự tiến hóa của loài người và chọn lọc giới tính trong các cuốn Dòng dõi của Con người (The Descent of Man), Quá trình Chọn lọc Liên quan đến Giới tính (Selection in Relation to Sex), sau đó là Biểu lộ Cảm xúc ở Con người và Loài vật (The Expression of Emotions in Man and Animals). Những nghiên cứu của ông về thực vật được xuất bản trong một loạt cuốn sách. Cuốn cuối cùng của ông là về các loài địa côn trùng và ảnh hưởng của chúng đối với đất.[7][8]
Để ghi nhận công lao to lớn của Darwin, ông là một trong năm người không thuộc Hoàng gia Anh của thế kỷ 19 được cử hành quốc tang và được chôn ở Westminster Abbey, cạnh mộ của John Herschel và Isaac Newton.
Tuổi thơ và quá trình học tập
Charles Robert Darwin sinh ngày 12 tháng Hai năm 1809 tại Shrewbury, Shropshire, nước Anh. Darwin là con kế út trong gia đình khá giả có sáu người con.ông nội ông là một nhà bác học có những nghiên cứu rất sâu về động vật, thực vật,khoáng chất đồng thời ông là nhà phát minh,nhà triết học,thi sĩ và bác sĩ, còn ông ngoại là người nổi tiếng với phong cách vẽ màu trên đồ gốm hết sức nổi tiếng và độc đáo. Cha ông là bác sĩ và là nhà tài chính tên Robert Darwin, mẹ ông là Susannah Darwin. Ngay từ lúc tám tuổi, Charles đã được biết đến lịch sử tự nhiên và sưu tập. Tháng bảy năm 1817 mẹ ông qua đời. Từ tháng chín năm 1818 ông cùng anh trai học ở ngôi trường gần nhà.
Mùa hè năm 1825 Darwin làm bác sĩ tập sự cho cha ông để chữa trị những bệnh nhân nghèo ở Shropshire. Sau đó vào tháng mười ông cùng anh trai đến Đại học Edingburgh. Ông không thích những bài giảng và phẫu thuật nên bỏ bê việc học hành. Ông học việc nhồi xác động vật (taxidermy) từ John Edmonstone, một nô lệ da đen được trả tự do mà ông mô tả là “rất dễ chịu và thông minh”.
Năm thứ hai ông tham gia Hội Plinian (Plinian Society), một nhóm sinh viên đam mê lịch sử tự nhiên. Ông giúp Robert Edmund Grant tìm hiểu về giải phẫu và vòng đời của các động vật biển có xương sống. Tháng ba năm 1827 ông trình bày trước Hội Plinian phát hiện của ông về bào tử sống trong vỏ sò thực ra là trứng đĩa (skate leech). Darwin không thích những giờ giảng lịch sử tự nhiên trên lớp vì nó đề cập đến địa lí và tranh luận Neptunism và Plutonism. Ông học cách phân loại thực vật, tham gia sưu tập mẫu vật cho Bảo tàng Đại học – một trong những bảo tàng đồ sộ nhất châu Âu thời này.
Việc ông bỏ vê học hành y khoa làm cha ông nổi giận. Ông bị buộc vào trường Christ’s College, Cambridge để học cử nhân thần học, vì cha ông muốn con trai mình trở thành mục sư Anh giáo và đây là bước đầu để chuẩn bị. Darwin nhập học vào tháng Giêng năm 1828. Tuy nhiên, ông thích cỡi ngựa săn bắn hơn học. Người anh em bà con giới thiệu ông với nhóm sưu tầm bọ. Ông hăng hái tham gia và có vài phát hiện được đăng trên tập Minh Họa Côn Trùng Học của Stevens. Ông là bạn thân đồng thời là môn đệ của giáo sư thực vật John Stevens Henslow. Ông có cơ hội gặp những nhà tự nhiên học hàng đầu khác. Mặc dù lơ là việc học nhưng ông cũng tập trung chăm chỉ khi các kỳ thi đến gần. Trong kỳ thi cuối khóa tháng Giêng năm 1831 ông làm bài tốt và đỗ hạng mười trong tổng số 178 sinh viên tốt nghiệp.
Darwin ở Cambridge tới tháng sáu năm đó. Ông học thuyết tự nhiên của Paley – lý thuyết đề cập đến vấn đề thừa kế trong tự nhiên và giải thích thích nghi là tác động của Chúa thông qua những quy luật tự nhiên. Ông đọc cuốn sách mới xuất bản của John Herchel nói về mục đích cao cả nhất của triết học tự nhiên là hiểu những quy luật của nó thông qua lý luận quy nạp dựa trên quan sát. Ông còn đọc cuốn Personal Narrative của Alexander von Humboldt. Với nhiệt huyết muốn cống hiến cho khoa học, Darwin dự định học xong sẽ đến Tenerife cùng bạn bè để nghiên cứu lịch sử tự nhiên vùng nhiệt đới. Để chuẩn bị cho chuyến đi, ông đã theo học lớp địa lý của Adam Sedgwick, sau đó cùng ông này đi lập bản đồ địa tầng ở Wales trong mùa hè. Ông trở về nhà và nhận được thư giới thiệu của Henslow cho vị trí nhà tự nhiên học trên tàu MHS Beagle đi thám hiểm và vẽ bản đồ bờ biển Nam Mỹ. Cha của Darwin lúc đầu phản đối kế hoạch vì ông cho rằng chuyến đi chỉ lãng phí thời gian. Sau đó, em rể ông thuyết phục để Darwin đi và cuối cùng ông cũng chấp nhận.
Hành trình của tàu Beagle
Chuyến hành trình lập bản đồ bờ biển kéo dài năm năm. Trong suốt thời gian này Darwin dành thời gian ở trên đất liền để tìm hiểu địa lí và sưu tập lịch sử tự nhiên. Ông ghi chép cẩn thận những quan sát và những giả thuyết của mình. Ông thường xuyên gửi những mẩu vật đến Cambridge và thư viết về nhật ký hành trình cho gia đình. Mặc dù thường xuyên bị say sóng, nhưng đa số ghi chép về động vật học của ông liên quan đến các loài động vật biển có xương sống.
Trong chuyến dừng chân đầu tiên ở St Jago, Darwin phát hiện được nhiều vỏ sò biển trên vách đá núi lửa. Thuyền trưởng FitzRoy đưa ông đọc tập một cuốn Địa Lý Cơ Bản của Charles Lyell. Quan sát của Darwin kiểm chứng cho giả thuyết của Charles Lyell nói rằng các vùng đất được nâng lên hoặc hạ xuống qua một khoảng thời gian dài. Darwin hình thành lý thuyết để viết một cuốn sách về địa lý. Đến Brazil, Darwin bị rừng nhiệt đới cuốn hút. Tuy nhiên, cảnh nô lệ ở đây làm ông thấy thương xót.
Ở Punta Alta, Patagonia, ông khám phá hóa thạch của những loài hữu nhũ khổng lồ bị tuyệt chủng trên vách đá bên cạnh những vỏ sò biển hiện đại. Điều này cho thấy rằng những loài này bị tuyệt chủng mà không gặp phải thảm họa hoặc biến đổi khí hậu. Ông nhận dạng được loài Megatherium nhỏ bé, với lớp giáp bằng sừng mà lúc đầu ông thấy giống như phiên bản thu nhỏ của loài ẩm dillos địa phương. Phát hiện này làm nhiều người thích thú khi họ quay về Anh. Trong quá trình đi sâu vào đất liền để khám phá địa lý và thu thập hóa thạch ông có thêm những hiểu biết về xã hội, chính trị và nhân chủng về người bản địa cũng như thực dân. Đi sâu hơn về phía Nam ông thấy những đồng bằng gồm những lớp đá cuội và vỏ sò nằm liên tiếp nhau. […]. Ông đọc tiếp tập hai cuốn sách của Lyell. Ông công nhận cách nhìn của Lyell về “trung tâm khởi tạo” của mọi loài. Tuy nhiên, những phát hiện và giả thuyết của ông lại mâu thuẫn với ý tưởng của Lyell về biến đổi dần dần (smooth continuity) và sự tuyệt chủng.
Trong chuyến đi này của tàu Beagle, có ba người Fuegians được đem về Anh trong một năm và sau đó đưa trở lại để làm nhà truyền giáo. Darwin thấy những người này thân thiện, có văn hóa, trong khi đó những người bản địa là “những thổ dân khốn khổ, thấp kém”. Darwin cho rằng sự khác biệt này cho thấy sự tiến bộ về văn hóa chứ không phải do chủng tộc. Khác với những nhà khoa học khác, Darwin nghĩ không có ranh giới bất khả giữa con người và động vật. Sau một năm, nhiệm vụ truyền giáo dừng lại. Một người Fuegian được đặt tên Jemmy Button sống như người bản địa khác, lấy vợ, và không muốn quay lại Anh.
Ở Chilê, Darwin gặp một trận động đất. Nhờ vậy ông thấy được vùng đất đã được nhô cao lên và kèm theo nó là các lớp vỏ trai. Trên dãy Andes ông thấy vỏ sò, vài hóa thạch cây cối từng sống trên bãi biển. Ông lập luận rằng khi mặt đất nhô lên thì những biển đảo chìm xuống và các bãi san hô hình thành nên các vòng san hô.
Trên địa vùng Quần đảo Galapagos mới hình thành, Darwin tìm kiếm bằng chứng để chứng minh những loài hoang dã ở đây được bắt nguồn từ tổ tiên “trung tâm sáng tạo”. Ông phát hiện vài loài chim nhại giống với loài tìm thấy ở Chile nhưng khác với các loài ở trên các đảo khác. Ông nghe nói những loài rùa có mai khác nhau cho biết chúng từ đảo nào nhưng không sưu tập được. Những con chuột túi và thú mỏ vịt ở Úc có hình dạng khác thường làm Darwin nghĩ rằng có hai Tạo hóa riêng biệt. Ông thấy người Úc bản địa “vui tính và dễ chịu”. Ông cũng lưu ý sự định cư của dân châu Âu đã tàn phá cuộc sống họ như thế nào.
Tàu Beagle tìm hiểu cách hình thành các vòng san hô của quần đảo Cocos. Điều này cũng giúp cũng cố thêm giả thuyết của Darwin. Thuyền trưởng FitzRoy bắt tay viết nhật ký tàu Beagle. Sau khi đọc nhật ký của Darwin, FitzRoy đề nghị hai người cộng tác để viết chung một cuốn sách. Nhật ký của Darwin được biên tập thành một tập riêng biệt về lịch sử tự nhiên.
Đến Mũi Hảo Vọng, Darwin và FitzRoy gặp John Herschel, người đã ngợi ca lý thuyết thống nhất của Lyell là giả định về “điều bí ẩn của những bí ẩn, sự thay thế các loài tuyệt chủng bởi các loài khác” là “một nhân tố tương phản với một tiến trình kỳ diệu”. Trên đường quay về nước Anh, Darwin ghi chú rằng nếu như những nghi ngờ của ông về chim nhại, rùa và vùng Falkland Island Fox là đúng, thì “những yếu tố này bác bỏ giả thuyết về Loài”. Sau đó ông cẩn thận thêm “có thể” trước “bác bỏ”. Sau này ông viết những yếu tố này “dường như đem lại ánh sáng cho nguồn gốc các loài”.
Khởi đầu cho Lý Thuyết Tiến Hóa
Tháng mười hai năm 1835, một năm trước khi trở về Anh, những bức thư của Darwin được thầy của mình là Henslow giới thiệu cho cộng đồng những nhà tự nhiên học. Ông nhanh chóng nổi tiếng. Darwin về đến Anh ngày 2 tháng mười năm 1836. Ông ghé thăm nhà ở Shrewbury để gặp họ hàng của mình, sau đó nhanh chóng đến Cambridge gặp thầy Henslow. Ông gợi ý Darwin tìm những nhà tự nhiên học để phân loại các mẫu sưu tập, chính ông cũng nhận phân loại những mẫu thực vật. Cha của Darwin tài trợ để ông nghiên cứu như nhà khoa học độc lập. Darwin phấn khích tìm khắp các viện nghiên cứu ở Luân Đôn các chuyên gia để phân loại mẫu vật.
Charles Lyell háo hức đến gặp Darwin lần đầu ngày 29 tháng mười. Ông giới thiệu với Darwin nhà giải phẫu Richard Owen, người đang trên đường đến Luân Đôn. Trường Cao đẳng Giải phẫu Hoàng gia (Royal College of Surgeons) nơi Owen nghiên cứu có trang thiết bị để phân tích những mẫu xương hóa thạch Darwin đã thu thập. Owen bất ngờ khi thấy những con lười (sloth) tuyệt chủng, một bộ xương gần hoàn chỉnh (của loài Scelidotherium, lúc bây giờ chưa biết tới), một hộp sọ giống loài gặm nhấm có kích thước sọ hà mã trông như của một con lợn nước (capybara) khổng lồ (của loài Toxodon). Có nhiều mãnh giáp của loài Glyptodon. Những loài bị tuyệt chủng này có mối liên hệ gần gũi với những loài sống ở Nam châu Mỹ.
Darwin đến ở Cambridge vào giữa tháng mười hai để sắp xếp công việc và biên tập lại nhật ký hành trình. Ông viết báo cáo khoa học đầu tiên nói về những vùng đất rộng lớn ở Nam Mỹ đang dần trồi lên. Lyell nhiệt thành giúp đỡ ông trình bày trước Hội Địa lí ở Luân Đôn ngày 4 tháng một năm 1837. Cũng ngày hôm đó, ông trình bày những mẫu vật động vật hữu nhũ và chim cho Hội Động vật Học. Nhà cầm học (ornithologist) [[John Gould nhận thấy những con chim mà Darwin đã lầm tưởng là những quạ, chim yến hồng, chim mỏ to thực ra là mười hai loài chim sẻ khác nhau. Ngày 17 tháng hai Darwin được bầu làm thành viên Hội Địa lí, nơi mà Lyell đang nắm chức chủ tịch. Lyell giới thiệu những phát hiện của Owen về những hóa thạch Darwin sưu tầm. Ông nhấn mạnh rằng sự thay đổi dần dần của các loài trải qua các vùng địa lý cũng cố cho ý tưởng của ông về thống nhất.
Đầu tháng ba, Darwin chuyển đến Luân Đôn để tiện cho công việc. Ông tham gia cộng đồng các nhà khoa học và savants của Lyell. Ông gặp được Charles Babbage, người mô tả Chúa là người lập trình cho các định luật. Lá thư của John Herschel về “bí ẩn của những bí ẩn” của các loài mới hình thành được bàn luận rộng rãi.
Đến giữa tháng bảy năm 1837 Darwin bắt tay viết Sự Biến Đổi của các Loài. Trên trang 36 của cuốn vở tựa là “B” này ông viết “Tôi nghĩ” bên trên cây tiến hóa. Trong lần gặp đầu tiên để trao đổi chi tiết những phát hiện của mình, Gould nói với Darwin những con chim nhại Galápagos trên các hòn đảo là những loài độc lập chứ không chỉ là các biến thể của nhau. Ngoài ra, những con chim hồng tước (wren) thuộc vào họ chim sẽ (finch). Hai con đà điểu cũng thuộc các loài khác nhau. Ngày 14 tháng ba Darwin thông báo rằng sự phân bố của chúng thay đổi đi về phía nam.
Giữa tháng ba Darwin đưa ra giả định là có khả năng “một loài biến đổi thành loài khác” để giải thích sự phân bố theo địa lý của các loài đang sống như đà điểu và các loài đã tuyệt chủng như Macrauchenia (trông như con guanaco khổng lồ). Ông phác họa một nhánh dòng dõi, và sau đó là một nhánh di truyền của một cây tiến hóa đơn lẻ. Với cây tiến hóa này thì “Thật vô nghĩa khi nói một loài vật tiến bộ hơn loài khác”, và như vậy là bác bỏ giả thuyết tiến triển tuyến tính độc lập từ dạng này sang dạng khác tiến bộ hơn của Lamarck.
Làm việc quá mức, bệnh tật, hôn nhân
Khi đang nghiên cứu về Sự Biến đổi, Darwin vướng vào các việc khác nữa. Vừa viết Nhật ký Hải hành, ông vừa biên tập và xuất bản các báo cáo khoa học về những mẫu sưu tầm. Được Henslow giúp sức, ông còn giành được phần thưởng 1000 bảng Anh tài trợ cho cuốn sách nhiều tập Động vật học. Darwin hoàn thành cuốn Nhật ký ngày 20 tháng bảy năm 1837 (ngày Nữ hoàng Victoria lên ngôi), sau đó các bằng chứng trong cuốn sách còn phải được sửa chữa lại.
Darwin gặp phải vấn đề sức khỏe do làm việc dưới áp lực. Ngày 20 tháng mười hai ông bị triệu chứng tim đập nhanh. Bác sĩ khuyên ông ngừng làm việc để đến vùng quê nghỉ trong vài tuần. Sau khi về thăm Shrewsbury ông đến họ hàng ở Maer Hall, Staffordshire. Những người ở đây lại quá háo hức muốn ông kể về chuyến đi (trên tàu Beagle) nên ông không được nghỉ ngơi nhiều. Chú Jos của ông chỉ ông xem một mảnh đất có bọt đá biến mất dưới đất mùn. Ông chú nghĩ có thể là do côn trùng đất và điều này gợi ý cho “một lý thuyết mới mẽ và quan trọng” về vai trò của côn trùng trong việc hình thành đất trồng trọt. Darwin trình bày kết quả trước Hội Địa lí vào ngày 1 tháng mười một.
William Whewell thúc giục Darwin nhận chức thư ký Hội Địa lí. Tháng ba năm 1838, sau vài lần từ chối thì cuối cùng Darwin cũng nhận lời. Mặc dù miệt mài viết và biên tập các báo cáo, Darwin cũng tạo nên những tiến bộ đáng kể về thuyết Sự Biến Đổi. Ông tận dụng mọi cơ hội có được để chất vấn các chuyên gia tự nhiên học cũng như những người có kinh nhiệm thực tế như nông dân, người nuôi chim bồ câu… Càng về sau nghiên cứu của ông còn lấy thông tin có từ người thân, con cái, người làm việc nhà, hàng xóm, những người định cư và những người cùng đi trên tàu Beagle hồi trước. Ông còn đưa con người vào giả thuyết của mình. Ngày 28 tháng ba năm 1838 ông thấy một con đười ươi trong sở thú và ghi chú nó có hành động giống như trẻ em.
Do làm việc quá sức, tháng sáu năm đó ông bị đau dạ dày, đau đầu và triệu chứng bệnh tim. Cho đến hết đời, ông liên tục bị hành hạ bởi đau dạ dày, ói, phỏng nặng, tim đập bất thường, run và các bệnh khác. Nguyên nhân bệnh tình của ông đến giờ vẫn không rõ, và những cố gắng điều trị đều không mấy thành công.
Ngày 23 tháng sáu ông đến Scotland để nghỉ ngơi. Đến tháng bảy ông đã hoàn toàn bình phục và quay trở lại Shrewsbury. Bình thường ông hay ghi chú những quan sát về sự sinh sản của động vật nên ông cũng dùng cách này để ghi những ý nghĩ về tiền đồ sự nghiệp. Ông dùng hai mảnh giấy trên đó ghi hai cột “Lấy vợ” và “Không lấy vợ”. Điểm lợi bao gồm “bạn đồng hành và là bạn đời khi về già… dù sao cũng hơn vật nuôi”, điểm bất lợi là “có ít tiền hơn để mua sách” và “mất quá nhiều thời gian”. Sau khi đã có quyết định cho riêng mình ông bàn với cha ông. Họ đến thăm Emma vào ngày 29 tháng bảy. Trái với lời khuyên của cha, ông không ngỏ lời cầu hôn mà chỉ nói với Emma nhứng ý tưởng của ông về Sự Biến Đổi.
Darwin quay lại London và tiếp tục nghiên cứu. Ông đọc cuốn Thảo luận về Nguyên lý của Dân số.
Tháng mười năm 1838, tức là mười lăm tháng kể từ khi tôi bắt đầu phân tích có hệ thống, tôi bắt gặp cuốn sách của Malthus bàn về Dân số. Qua quan sát hành vi của động thực vật suốt thời gian dài, tôi đã được biết cuộc đấu tranh sinh tồn hiện diện ở mọi nơi. Nó ngay lập tức làm tôi nảy ra ý nghĩ là trong những hoàn cảnh như vậy những biến dị phù hợp với môi trường sống sẽ được bảo tồn, còn những biến dị bất lợi sẽ bị tiêu diệt. Kết quả của quá trình này là một loài mới ra đời. Vậy là cuối cùng tôi cũng có một lý thuyết để nghiên cứu…
Malthus cho rằng nếu dân số không được kiểm soát thì nó sẽ phát triển theo cấp số nhân và sớm vượt ngưỡng cung lương thực (được biết với khái niệm thảm họa Malthusian). Darwin – với nền tảng kiến thức của mình – đã nhanh chóng nhận ra điều này cũng được áp dụng cho ý tưởng của de Candolle về “cuộc chiến giữa các loài” cây và đấu tranh sinh tồn giữa các loài hoang dã. Điều này giải thích được tại sao số lượng cá thể trong một loài được giử tương đối cân bằng. Các loài luôn sinh sản vượt quá nguồn cung thức ăn, những biến dị thuận lợi có các cơ quan tốt hơn để sinh tồn và được truyền lại cho con cháu của chúng, trong khi đó những biến dị bất lợi sẽ bị mất đi. Hệ quả là một loài mới được hình thành. Ngày 28 tháng mười hai năm 1838 ông ghi chú lại phát hiện mới mẻ này, và mô tả đó như là việc “chèn” những cấu trúc thích nghi vào những khoảng trống của tự nhiên do những cấu trúc yếu hơn bị loại bỏ đã để lại. Đến giữa tháng mười hai, ông nhận thấy điểm tương đồng giữa việc những nông dân chọn ra những giống gia súc sinh sản tốt nhất với sự chọn ngẩu nhiên từ những cá thể trong Thuyết tự nhiên Malthusian (Malthusian Nature). Mỗi phần của cấu trúc mới đều phù hợp với thực tế và hoàn hảo. Ông thấy sự so sánh này là “phần đẹp đẽ của lý thuyết”.
Darwin cưới Emma Wedgwood. Ngày 11 tháng mười một, ông quay lại Maer và ngỏ lời cầu hôn Emma, lần này ông cũng nói những ý tưởng của mình về Sự Biến Đổi. Cô nhận lời. Những lá thư sau đó cô cho biết mình đánh giá cao sự cởi mở của Darwin khi chia sẻ những điểm khác biệt giữa họ, đồng thời bày tỏ niềm tin sâu sắc của cô vào Unitarrian và lưu ý những nghi ngờ của ông sẽ chia cách họ khi đã qua đời ra sao. Darwin quay lại Luân Đôn để tìm mua nhà và lại bị những căn bệnh hành hạ. Emma viết cho ông nói rằng hãy nghỉ ngơi và lưu ý “Đừng bị bệnh nữa à Charley, cho đến khi em đến sống cùng anh và chăm sóc cho anh”. Darwin tìm được căn nhà tên Macaw Cottage ở phố Gower, sau đó chuyển nguyên “bảo tàng” của ông đến đây. Ngày 24 tháng một năm 1839 Darwin được bầu làm Thành viên Hội Hoàng gia.
Darwin cưới Emma Wedgwood ngày 29 tháng hai, ngay sau đó cả hai lên tàu đến ngôi nhà mới của mình ở Luân Đôn. Ông qua đời ngày 19 tháng 4 năm 1882. Vì những cống hiến vượt thời đại của ông với sinh học nói riêng và khoa học nói chung, người ta đã mai táng ông ở Westminster Abbey, cạnh mộ của Isaac Newton.
Thành công
Sau chuyến đi huyền thoại vòng quanh thế giới trong 5 năm trời, Charles Darwin đã đi đến một lý thuyết làm chấn động nền tảng khoa học của thế kỉ 19: loài người có họ hàng với loài vượn! Trong cuốn sách “Nguồn gốc muôn loài” (The Origin of Species) ông đã đưa ra một quan điểm có tính chất cách mạng nói rằng tất cả các loài sinh vật, từ con kiến cho đến con voi, đều nằm trong vòng chọn lọc của tự nhiên. Những con vật thích nghi với tự nhiên sẽ tồn tại; những con không thích nghi sẽ bị diệt vong. Nhà thờ và công chúng đã bị sốc nặng qua cuốn sách trên. Họ kêu: “Con người do Chúa trời tạo ra… Con người là loài siêu đẳng, độc nhất vô nhị.” Những cuộc tranh cãi bùng lên xoay quanh một quan điểm cốt tử: sự sống trên Trái Đất diễn ra như thế nào. Cuối cùng thế giới khoa học đã đồng ý với Darwin.
Lý thuyết của Darwin ngày nay có lẽ đã được toàn thể cộng đồng khoa học chấp nhận. Thực vậy, những nghiên cứu gần đây đã chứng tỏ rằng loài người xét cho cùng có chung một thủy tổ. Nhưng con người thời ấy cứ tưởng mình là chúa tể sáng thế, mọi giống loài khác đều chịu sự thống trị của mình, và đôi khi còn bị loài người hủy hoại.
Tham khảo
- ^ Coyne, Jerry A. (2009). Why Evolution is True. Viking. tr. 8–11. ISBN 978-0-670-02053-9.
- ^ Larson 2004, tr. 79–111
- ^ Leff 2000, About Charles Darwin
- ^ Desmond & Moore 1991, tr. 210, 284–285
- ^ Coyne, Jerry A. (2009). Why Evolution is True. Oxford: Oxford University Press. tr. 17. ISBN 0-19-923084-6. “In The Origin, Darwin provided an alternative hypothesis for the development, diversification, and design of life. Much of that book presents evidence that not only supports evolution but at the same time refutes creationism. In Darwin’s day, the evidence for his theories was compelling but not completely decisive.”
- ^ Glass, Bentley (1959). Forerunners of Darwin. Baltimore, MD: Johns Hopkins University Press. tr. iv. ISBN 0-8018-0222-9. “Darwin’s solution is a magnificent synthesis of evidence…a synthesis…compelling in honesty and comprehensiveness”
- ^ The Complete Works of Darwin Online – Biography. darwin-online.org.uk. Truy cập 2006-12-15
Dobzhansky 1973
- ^ As Darwinian scholar Joseph Carroll of the University of Missouri–St. Louis puts it in his introduction to a modern reprint of Darwin’s work: “The Origin of Species has special claims on our attention. It is one of the two or three most significant works of all time—one of those works that fundamentally and permanently alter our vision of the world…It is argued with a singularly rigorous consistency but it is also eloquent, imaginatively evocative, and rhetorically compelling.” Carroll, Joseph biên tập (2003). On the origin of species by means of natural selection. Peterborough, Ontario: Broadview. tr. 15. ISBN 1-55111-337-6.
Đọc thêm
- Anonymous (1882). “Obituary: Death Of Chas. Darwin”. The New York Times (21 tháng 4 năm 1882). Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2008.
- Balfour, J. B. (11 May năm 1882). “Obituary Notice of Charles Robert Darwin”. Transactions & Proceedings of the Botanical Society of Edinburgh (14): 284–298.
- Bannister, Robert C. (1989). Social Darwinism: Science and Myth in Anglo-American Social Thought. Philadelphia: Temple University Press. ISBN 0-87722-566-4.
- Bowler, Peter J. (2003). Evolution: The History of an Idea (ấn bản 3). University of California Press. ISBN 0-520-23693-9.
- Browne, E. Janet (1995). Charles Darwin: vol. 1 Voyaging. London: Jonathan Cape. ISBN 1-84413-314-1.
- Browne, E. Janet (2002). Charles Darwin: vol. 2 The Power of Place. London: Jonathan Cape. ISBN 0-7126-6837-3.
- Darwin, Charles (1835). Extracts from letters to Professor Henslow. Cambridge: [privately printed]. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2008.
- Darwin, Charles (1837). Notebook B: [Transmutation of species]. Darwin Online. CUL-DAR121. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2008.
- Darwin, Charles (1839). Narrative of the surveying voyages of His Majesty’s Ships Adventure and Beagle between the years 1826 and 1836, describing their examination of the southern shores of South America, and the Beagle’s circumnavigation of the globe. [[The Voyage of the Beagle|Journal and remarks]]. 1832–1836. III. London: Henry Colburn. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2008.
- Darwin, Charles (1842). “Pencil Sketch of 1842”. Trong Darwin, Francis. The foundations of The origin of species: Two essays written in 1842 and 1844.. Cambridge University Press (xuất bản 1909).
- Darwin, Charles (1845). [[The Voyage of the Beagle|Journal of researches]] into the natural history and geology of the countries visited during the voyage of H.M.S. Beagle round the world, under the Command of Capt. Fitz Roy, R.N. 2d edition. London: John Murray. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2008.
- Darwin, Charles; Wallace, Alfred Russel (1858). “On the Tendency of Species to form Varieties; and on the Perpetuation of Varieties and Species by Natural Means of Selection”. Journal of the Proceedings of the Linnean Society of London. Zoology 3: 46–50.
- Darwin, Charles (1859). [[Nguồn gốc các loài|On the Origin of Species]] by Means of Natural Selection, or the Preservation of Favoured Races in the Struggle for Life (ấn bản 1). London: John Murray. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2008.
- Darwin, Charles (1868). The variation of animals and plants under domestication. London: John Murray. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2008.
- Darwin, Charles (1871). [[The Descent of Man, and Selection in Relation to Sex]] (ấn bản 1). London: John Murray. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2008.
- Darwin, Charles (1872). The Origin of Species by Means of Natural Selection, or the Preservation of Favoured Races in the Struggle for Life (ấn bản 6). London: John Murray. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2009.
- Darwin, Charles (1887). Trong Darwin, Francis. The life and letters of Charles Darwin, including an autobiographical chapter. London: John Murray. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2008.
- Darwin, Charles (1958). Trong Barlow, Nora. [[The Autobiography of Charles Darwin]] 1809–1882. With the original omissions restored. Edited and with appendix and notes by his granddaughter Nora Barlow. London: Collins. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2008.
- Darwin, Charles (2006). “Journal”. Trong van Wyhe, John. [Darwin’s personal ‘Journal’ (1809-1881)]. Darwin Online. CUL-DAR158.1-76. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2008.
- Desmond, Adrian; Moore, James (1991). Darwin. London: Michael Joseph, Penguin Group. ISBN 0-7181-3430-3.
- Desmond, Adrian; Moore, James; Browne, Janet (2004). Oxford Dictionary of National Biography. Oxford, England: Oxford University Press. doi:10.1093/ref:odnb/7176.
- Dobzhansky, Theodosius (tháng 3 năm 1973). “Nothing in Biology Makes Sense Except in the Light of Evolution”. The American Biology Teacher 35: 125–129. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2008.
- Eldredge, Niles (2006). “Confessions of a Darwinist”. The Virginia Quarterly Review (Spring 2006): 32–53. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2008.
- FitzRoy, Robert (1839). Voyages of the Adventure and Beagle, Volume II. London: Henry Colburn. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2008.
- Freeman, R. B. (1977). The Works of Charles Darwin: An Annotated Bibliographical Handlist. Folkestone: Wm Dawson & Sons Ltd. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2008.
- Hart, Michael H. (2000). The 100: A Ranking of the Most Influential Persons in History. New York: Citadel.
- Herbert, Sandra (1980). “The red notebook of Charles Darwin”. Bulletin of the British Museum (Natural History). Historical Series (7 (24 April)): 1–164. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2009.
- Herbert, Sandra (1991). “Charles Darwin as a prospective geological author”. British Journal for the History of Science (24): 159–192. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2008.
- Keynes, Richard (2000). Charles Darwin’s zoology notes & specimen lists from H.M.S. Beagle.. Cambridge University Press. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2008.
- Keynes, Richard (2001). Charles Darwin’s Beagle Diary. Cambridge University Press. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2008.
- Kotzin, Daniel (2004). “Point-Counterpoint: Social Darwinism”. Columbia American History Online. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2008.
- Leff, David (2000). “AboutDarwin.com” . Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2008.
- Leifchild (19 November năm 1859). “Review of `Origin’”. Athenaeum (No. 1673). Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2008.
- Miles, Sara Joan (2001). “Charles Darwin and Asa Gray Discuss Teleology and Design”. Perspectives on Science and Christian Faith 53: 196–201. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2008.
- Moore, James (2005). “Darwin — A ‘Devil’s Chaplain’?” (PDF). American Public Media. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2008.
- Moore, James (2006). “Evolution and Wonder – Understanding Charles Darwin”. Speaking of Faith (Radio Program). American Public Media. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2008.
- Owen, Richard (1840). Trong Darwin, C. R. Fossil Mammalia Part 1. The zoology of the voyage of H.M.S. Beagle. London: Smith Elder and Co.
- Paul, Diane B. (2003). “Darwin, social Darwinism and eugenics”. Trong Hodge, Jonathan; Radick, Gregory. The Cambridge Companion to Darwin. Cambridge University Press. tr. 214–239. ISBN 0-521-77730-5.
- Smith, Charles H. (1999). “Alfred Russel Wallace on Spiritualism, Man, and Evolution: An Analytical Essay”. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2008.
- Sulloway, Frank J. (1982). “Darwin and His Finches: The Evolution of a Legend” (PDF). Journal of the History of Biology 15 (1): 1–53. doi:10.1007/BF00132004. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2008.
- Sweet, William (2004). “Herbert Spencer”. Internet Encyclopedia of Philosophy. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2008.
- Wilkins, John S. (1997). “Evolution and Philosophy: Does evolution make might right?”. TalkOrigins Archive. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2008.
- Wilkins, John S. (2008). “Darwin”. Trong Tucker, Aviezer. A Companion to the Philosophy of History and Historiography. Blackwell Companions to Philosophy. Chichester: Wiley-Blackwell. tr. 405–415. ISBN 1-4051-4908-6.
- van Wyhe, John (27 tháng 3 năm 2007). “Mind the gap: Did Darwin avoid publishing his theory for many years?”. Notes and Records of the Royal Society 61: 177–205. doi:10.1098/rsnr.2006.0171. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2008.
- van Wyhe, John (2008). “Charles Darwin: gentleman naturalist: A biographical sketch”. Darwin Online. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2008.
- van Wyhe, John (17 tháng 4 năm 2015). “Darwin: The Story of the Man and His Theories of Evolution”. London: Andre Deutsch Ltd (xuất bản 1 tháng 9 năm 2008). ISBN 0-233-00251-0.
- von Sydow, Momme (2005). “Darwin – A Christian Undermining Christianity? On Self-Undermining Dynamics of Ideas Between Belief and Science”. Trong Knight, David M.; Eddy, Matthew D. Science and Beliefs: From Natural Philosophy to Natural Science, 1700–1900. Burlington: Ashgate. tr. 141–156. ISBN 0-7546-3996-7. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2008.
- Yates, Simon (2003). “The Lady Hope Story: A Widespread Falsehood”. TalkOrigins Archive. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2006.
Liên kết ngoài
- public domain
- Các công trình liên quan hoặc của Charles Darwin trên các thư viện của thư mục (WorldCat)
- Tài liệu lưu trữ liên quan đến Charles Darwin liệt kê tại Cơ quan lưu trữ quốc gia Vương quốc Anh
- Darwin 200: Celebrating Charles Darwin’s bicentenary, Natural History Museum
- A Pictorial Biography of Charles Darwin
- Listing of the significant places in Shrewsbury relevant to Darwin’s early life.
- Mis-portrayal of Darwin as a Racist
“Darwin, Charles Robert”. Encyclopædia Britannica (ấn bản 11). 1911.
- The life and times of Charles Darwin, an audio slideshow, The Guardian, Thursday 12 tháng 2 năm 2009, (3 min 20 sec).
- CBC Digital Archives: Charles Darwin and the Origins of Evolution
- Darwin’s Volcano – a short video discussing Darwin and Agassiz’ coral reef formation debate
- Darwin’s Brave New World – A 3 part drama-documentary exploring Charles Darwin and the significant contributions of his colleagues Joseph Hooker, Thomas Huxley and Alfred Russel Wallace also featuring interviews with Richard Dawkins, David Suzuki, Jared Diamond and Iain McCalman.
- A naturalists voyage around the world Account of the Beagle voyage using animation, in English from Centre national de la recherche scientifique, Paris.