|
|
Chủ nhật, Ngày 25 Tháng 10 Năm 2015
|
|
|
Âm lịch: Ngày 13 Tháng 9 Năm 2015 Ngày Julius: 2457321 |
Bát tự: Giờ Giáp Tí, ngày Giáp Tuất, tháng Bính Tuất, năm ất Mùi |
|
0:00 |
Giờ: Giáp Tí |
Ngày Hắc đạo |
Sao: Bạch Hổ |
Giờ Hoàng đạo |
Bính Dần, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Nhâm Thân, Qúy Dậu, ất Hợi |
Giờ Hắc đạo |
Giáp Tí, ất Sửu, đinh Mão, Canh Ngọ, Tân Mùi, Giáp Tuất |
Năm |
Kim |
Sa trung kim |
Mùa: Mùa thu |
Vượng: Kim
Khắc: Hỏa |
Quý |
Ngày |
Hoả |
Sơn đầu hỏa |
Lửa trên đỉnh núi |
Tuổi xung |
Nhâm Thìn, Canh Thìn, Canh Tuất |
Tiết khí |
Giữa: Sương giáng (Sương mù xuất hiện) – Lập đông (Bắt đầu mùa đông) |
Sao |
Tinh |
|
Ngũ hành |
Thái dương |
|
Động vật |
Ngựa |
|
Trực |
Kiến |
– Tốt cho các việc thi ơn huệ, trồng cây cối
– Xấu cho các việc chôn cất, đào giếng, lợp nhà |
Xuất hành |
Hỷ thần |
Đông Bắc |
Tài thần |
Đông Nam |
Kê thần |
Tây Nam |
Cát tinh |
Tốt |
Kỵ |
Thiên Mã |
Tốt cho việc xuất hành, giao dịch, cầu tài lộc |
|
Mãn đức tinh |
Tốt mọi việc |
|
Sát tinh |
Kỵ |
Ghi chú |
Thổ phủ |
Kỵ xây dựng,động thổ |
|
Bạch hổ |
Kỵ mai táng |
|
Tội chỉ |
Xấu với tế tự, kiện cáo |
|
Tam tang |
Kỵ khởi tạo, giá thú, an táng |
|
Ly sàng |
Kỵ giá thú |
|
Âm thác |
Kỵ xuất hành, giá thú, an táng |
|
Quỷ khốc |
Xấu với tế tự, mai táng |
|
Mặt trời |
Giờ mọc |
Giờ lặn |
Hà Nội |
05:58 |
17:23 |
TP.Hồ Chí Minh |
05:45 |
17:29 |
|
Thiên Lao |
Hắc đạo |
|
1:00 |
Giờ: ất Sửu |
NGuyên Vũ |
Hắc đạo |
|
3:00 |
Giờ: Bính Dần |
Tư Mệnh |
Hoàng đạo |
|
5:00 |
Giờ: đinh Mão |
Câu Trận |
Hắc đạo |
|
7:00 |
Giờ: Mậu Thìn |
Thanh Long |
Hoàng đạo |
|
9:00 |
Giờ: Kỷ Tỵ |
Minh Đường |
Hoàng đạo |
|
11:00 |
Giờ: Canh Ngọ |
Thiên Hình |
Hắc đạo |
|
13:00 |
Giờ: Tân Mùi |
Chu Tước |
Hắc đạo |
|
15:00 |
Giờ: Nhâm Thân |
Kinh Quỹ |
Hoàng đạo |
|
17:00 |
Giờ: Qúy Dậu |
Kim Được |
Hoàng đạo |
|
19:00 |
Giờ: Giáp Tuất |
Bạch Hổ |
Hắc đạo |
|
21:00 |
Giờ: ất Hợi |
Ngọc Đường |
Hoàng đạo |
|
23:00 |
Giờ: Giáp Tí |
Thiên Lao |
Hắc đạo |
|
|
Lịch vạn niên 2015, ngày 13 tháng 9, năm 2015 – Âm lịch
Xem ngày giờ tốt và hướng xuất hành
Trong một tháng có 2 loại ngày tốt, ngày xấu; trong một ngày lại có 6 giờ tốt, 6 giờ xấu gọi chung là Ngày/giờ Hoàng đạo (tốt) và Ngày/giờ Hắc đạo (xấu). Người Việt Nam từ xưa đều có phong tục chọn ngày tốt và giờ tốt để làm những việc lớn như cưới hỏi, khởi công làm nhà, nhập trạch, ký kết, kinh doanh v.v.v.
Ngày 13 tháng 9, năm 2015 là ngày Hắc đạo , các giờ tốt trong ngày này là: Bính Dần, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Nhâm Thân, Qúy Dậu, ất Hợi
Trong ngày này, các tuổi xung khắc nên cẩn thận trong chuyện đi lại, xuất hành, nói chuyện và làm các việc đại sự là: Nhâm Thìn, Canh Thìn, Canh Tuất
Xuất hành hướng Đông Bắc gặp Hỷ thần: niềm vui, may mắn, thuận lợi. Xuất hành hướng Nam gặp Tài thần: tài lộc, tiền của, giao dịch thuận lợi.
Xem sao tốt và việc nên làm và nên kiêng
Trong Lịch vạn niên, có 12 trực được sắp xếp theo tuần hoàn phân bổ vào từng ngày. Mỗi trực có tính chất riêng, tốt/xấu tùy từng công việc. Ngày 13 tháng 9, năm 2015 là Trực Kiến: Tốt cho các việc thi ơn huệ, trồng cây cối Xấu cho các việc chôn cất, đào giếng, lợp nhà
Mỗi ngày đều có nhiều sao Tốt (Cát tinh) và sao Xấu (Hung tinh). Các sao Đại cát (rất tốt cho mọi việc) như Thiên đức, Nguyệt đức, Thiên ân, Nguyệt ân. Có những sao Đại hung (rất xấu cho mọi việc) như Kiếp sát, Trùng tang, Thiên cương. Cũng có những sao xấu tùy mọi việc như Cô thần, Quả tú, Nguyệt hư, Không phòng, Xích khẩu… – xấu cho hôn thú, cưới hỏi, đám hỏi nói chung cần tránh. Hoặc ngày có Thiên hỏa, Nguyệt phá, Địa phá… xấu cho khởi công xây dựng, động thổ, sửa chữa nhà cửa nói chung cần tránh.
Khi tính làm việc đại sự, cần kiểm tra ngày Hoàng Đạo, Hắc Đạo. Xem công việc cụ thể nào, để tránh những sao xấu. Chọn các giờ Hoàng đạo để thực hiện (hoặc làm tượng trưng lấy giờ).
Windows XP
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Windows XP là một dòng hệ điều hành do Microsoft sản xuất dành cho các máy tính cá nhân chạy trên các bộ xử lý x86 và IA-64 (mã phiên bản là 5.1), bao gồm các máy tính dùng cho gia đình và kinh doanh, máy tính xách tay, và trung tâm phương tiện. Tên “XP” là cách viết ngắn gọn của “experience“[5]. Windows XP là hệ điều hành kế tục của cả Windows 2000 Professional và Windows Me, và là hệ điều hành đầu tiên của Microsoft hướng đến người tiêu dùng được xây dựng trên nhân và kiến trúc của Windows NT. Windows XP được ra mắt vào ngày 25 tháng 10 năm 2001, và trên 400 triệu bản đã được dùng trong tháng 1 năm 2006, theo như ước tính của một chuyên gia IDC[6]. Hệ điều hành này được kế tục bởi Windows Vista, được phát hành cho người tiêu dùng mua sỉ vào ngày 8 tháng 11 năm 2006, và toàn cầu cho công chúng vào ngày 30 tháng 1 năm 2007. Việc bán trực tiếp Windows XP qua kênh bán lẻ và OEM đã ngưng vào ngày 30 tháng 6 năm 2008, mặc dù vẫn có thể mua được Windows XP từ các Nhà xây dựng hệ thống[7] (OEM nhỏ hơn bán máy tính lắp ráp) cho đến ngày 31 tháng 7 năm 2009 hoặc bằng cách mua Windows Vista Ultimate hoặc Business rồi giáng cấp xuống Windows XP[8][9].
Tình trạng
Microsoft đã cho ngừng hoạt động và hỗ trợ cập nhật Windows XP SP3 vào ngày 8 tháng 4 năm 2014[10]
Các phiên bản
Windows XP bao gồm các phiên bản sau:
- Starter: Phiên bản rút gọn các tính năng cao cấp, không cầu kì về giao diện, gọn nhẹ, thích hợp với các máy netbook, hướng tới đối tượng là người mua mới netbook, người mới làm quen với máy vi tính, người có thu nhập thấp.
- Home Edition: Lược bỏ một số tính năng nâng cao như Backup chẳng hạn. Tuy vậy, bản này phù hợp với những người không có nhiều tiền.
- Professional: Tập hợp đầy đủ các chức năng của tất cả các phiên bản kia cộng lại, giúp người dùng có được một sức mạnh toàn năng trong trao đổi thông tin và giải trí mọi lúc mọi nơi, hướng tới các cá nhân, tổ chức muốn một giải pháp trọn vẹn cho việc hoạt động máy vi tính của họ. Các chức năng kết nối mạng văn phòng cũng như kết nối mạng đầy đủ, hướng tới các công ty lớn, các doanh nhân thường xuyên làm việc với máy vi tính để trao đổi dữ liệu.
Phiên bản phổ biến của hệ điều hành này là Windows XP Home Edition, nhắm đến người dùng gia đình, và Windows XP Professional, cung cấp thêm một số tính năng như hỗ trợ tên miền Windows Server và hai bộ xử lý vật lý, nhắm đến người dùng cần chức năng, kinh doanh và khách hàng là công ty lớn. Windows XP Media Center Edition có thêm các tính năng giải trí đa phương tiện nâng cao khả năng ghi hình và xem các chương trình TV, xem phim DVD, và nghe nhạc. Windows XP Tablet PC Edition được thiết kế để chạy các ứng dụng dùng bút cảm ứng xây dựng trên nền hệ Máy tính bảng. Windows XP sau đó còn được phát hành thêm hai kiến trúc nữa, Windows XP 64-bit Edition dành cho các bộ xử lý IA-64 (Itanium) và Windows XP Professional x64 Edition dành cho x86-64. Cũng có Windows XP Embedded, một phiên bản là bộ phận cấu thành của Windows XP Professional, và các phiên bản dành riêng cho từng thị trường như Windows XP Starter Edition.
Windows XP nổi tiếng nhờ khả năng ổn định và hiệu quả được nâng cao so với các phiên bản 9x của Microsoft Windows[11][12]. Nó có giao diện người dùng đồ họa được thiết kế lại đáng kể, một sự thay đổi mà Microsoft quảng cáo là thân thiện với người dùng hơn các phiên bản trước của Windows. Một khả năng quản lý phần mềm mới có tên Side-by-Side Assembly được giới thiệu để tránh “DLL hell“, là một tai họa cho các phiên bản 9x hướng người tiêu dùng của Windows[13][14]. Nó cũng là phiên bản Windows đầu tiên sử dụng kích hoạt sản phẩm để chống lại các bản sao chép bất hợp pháp, một sự hạn chế không thích hợp với một số người dùng và những người ủng hộ quyền riêng tư. Windows XP cũng bị một số người dùng chỉ trích vì các lỗ hổng bảo mật, tích hợp quá chặt với các ứng dụng như Internet Explorer 6 và Windows Media Player, và vì các khía cạnh của giao diện người dùng mặc định. Các phiên bản sau với Service Pack 2, và Internet Explorer 7 đã giải quyết một số các lo ngại này.
Trong quá trình phát triển, dự án được đặt tên mã là “Whistler“, đặt theo Whistler, British Columbia, nơi nhiều nhân viên Microsoft trượt tuyết tại khu trượt tuyết Whistler-Blackcomb[15].
Vào cuối tháng 2 năm 2009, Windows XP vẫn là hệ điều hành được sử dụng nhiều nhất trên thế giới với thị phần 63.53% (đã giảm nhiều so với con số 85% vào tháng 12 năm 2006)[16].
Thị trường
-
Sơ đồ thể hiện các phiên bản Windows XP chính. Nó thể hiện mối quan hệ dựa trên loại phiên bản (xám) và bộ mã nguồn (mũi tên đen).
Hai phiên bản lớn nhất là Windows XP Home Edition, thiết kế cho người dùng gia đình, và Windows XP Professional, dành cho doanh nghiệp và người dùng yêu cầu chức năng. XP Professional có các tính năng nâng cao mà người dùng gia đình bình thường sẽ không dùng đến. Tuy nhiên, các tính năng này không nhất thiết là không tồn tại trong XP Home. Chúng thường được tắt, nhưng vẫn ở đó và có thể hoạt động. Các phiên bản này được bán lẻ tại các quầy bán phần mềm máy tính, và được cài đặt sẵn trên các máy tính do những nhà sản xuất máy tính lớn bán ra. Vào giữa năm 2008, cả hai phiên bản này vẫn tiếp tục được bán. Phiên bản thứ ba, có tên gọi Windows XP Media Center Edition được giới thiệu vào năm 2002 và được cập nhật hàng năm cho đến năm 2006 để bổ sung các tính năng phương tiện kỹ thuật số mới, phát truyền hình và Media Center Extender. Không giống bản Home và Professional, nó không được bán ở các kệ bán lẻ, mà chỉ bán thông qua các kênh OEM, hoặc được cài đặt sẵn trên các máy tính được quảng bá là “máy tính trung tâm giải trí”.
Ngoài ra, còn có hai phiên bản 64-bit khác, một được thiết kế đặc biệt cho các máy trạm trên nền Itanium, ra mắt vào năm 2001 trong cùng khoảng thời gian với các phiên bản Home và Professional, nhưng đã bị dừng phát hành một vài năm sau đó khi hãng bán phần cứng Itanium dừng bán các máy thuộc dòng máy trạm do số lượng bán ra thấp. Cái còn lại, có tên là Windows XP Professional x64 Edition, hỗ trợ cho bộ mở rộng x86-64 của kiến trúc Intel IA-32. x86-64 do AMD hiện thực với tên “AMD64”, có trong các con chip Opteron và Athlon 64 của AMD, và được Intel hiện thực với tên “Intel 64” (trước đây có tên IA-32e và EM64T), có trong Pentium 4 trở về sau.
Internet Explorer 6 chạy trên Windows XP Tablet PC Edition.
Windows XP Tablet PC Edition được giới thiệu dành cho một loại máy tính notebook/laptop được thiết kế đặc biệt có tên là máy tính bảng. Nó tương thích với màn hình cảm ứng, hỗ trợ ghi chép viết tay và màn hình nằm đứng.
Microsoft cũng phát hành Windows XP Embedded, một phiên bản dành một số thiết bị điện tử người dùng cụ thể, hộp tiếp sóng, kiosk/ATM, thiết bị y tế, máy trò chơi điện tử cầm tay, quầy thu tiền, và các thành phần VoIP. Vào tháng 7 năm 2006, Microsoft phát hành Windows Fundamentals for Legacy PCs, một phiên bản thin client của Windows XP Embedded nhắm đến các đời máy cũ (như dòng Pentium nguyên thủy). Nó chỉ dành cho các khách hàng Bảo hiểm Phần mềm. Hệ điều hành này dành cho những khách hàng doanh nghiệp muốn nâng cấp lên Windows XP để tận dụng tính bảo mật và khả năng quản lý của nó, nhưng không đủ tiền để mua phần cứng mới.
Các phiên bản dành cho các thị trường nhất định
Windows XP Starter Edition là một phiên bản giá thấp của Windows XP dành cho các thị trường Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Malaysia, Indonesia, Nga, Ấn Độ, Colombia, Brasil, Argentina, Peru, Bolivia, Chile, Mexico, Ecuador, Uruguay và Venezuela. Nó tương tự như Windows XP Home, nhưng giới hạn cho những phần cứng cấp thấp, chỉ có thể chạy 3 chương trình một lúc, và có một số tính năng khác được mặc định tắt hoặc gỡ bỏ. Các phiên bản của mỗi quốc gia cũng được đình chỉnh dành riêng cho quốc gia đó, trong đó có hình nền là địa điểm nổi tiếng tại quốc gia đó, các tính năng trợ giúp được bản địa hóa để giúp đỡ những người không biết tiếng Anh, và các thiết lập mặc định khác giúp dễ dùng hơn so với khi cài đặt Windows XP thông thường. Ví dụ như phiên bản Malaysia có hình nền là không ảnh của Kuala Lumpur[17].
Vào tháng 3 năm 2004, Ủy ban châu Âu đã phạt Microsoft 497 triệu euro và ra lệnh cho công ty này phải cung cấp một phiên bản Windows không có Windows Media Player. Ủy ban kết luận rằng Microsoft “đã vi phạm luật cạnh tranh của Liên minh châu Âu bằng cách đẩy sự độc quyền trong thị trường hệ điều hành dành cho máy tính để bàn sang thị trường dành cho hệ điều hành máy chủ phục vụ nhóm làm việc và trình chơi nhạc”. Sau khi kháng án không thành vào năm 2004 và 2005, Microsoft đã có thỏa thuận với Ủy ban sẽ phát hành một phiên bản thể theo bàn án của tòa, Windows XP Edition N. Phiên bản này không có Windows Media Player, thay vào đó, nó khuyến khích người dùng tự chọn và tải về trình chơi nhạc của riêng họ. Microsoft muốn đặt tiên cho phiên bản này là Reduced Media Edition, nhưng tổ chức thi hành của EU đã phản đối và đề nghị tên Edition N, với chỉ N có nghĩa là “not with Media Player” (không có Media Player) cho cả phiên bản Home và Professional của Windows XP. Vì nó được bán ngang giá với phiên bản có Windows Media Player, Dell, Hewlett-Packard, Lenovo và Fujitsu Siemens đã không dùng nó trong sản phẩm. Tuy nhiên, Dell có đưa ra hệ điều hành này một thời gian ngắn. Tỷ lệ người dùng hệ điều hành này thấp, với chỉ 1.500 đơn vị được bán cho OEM, và không thấy có báo cáo về số lượng bán cho người tiêu dùng[18][19][20][21].
Vào tháng 12 năm 2005, Ủy ban Thương mại Công bằng Hàn Quốc đã yêu cầu Microsoft bán các phiên bản Windows XP và Windows Server 2003 không có Windows Media Player hoặc Windows Messenger[22]. Giống như phán quyết của Ủy ban châu Âu, phán quyết này dựa trên hoàn cảnh Microsoft đã lạm dụng vị trí thống trị của mình trong thị trường để đẩy các sản phẩm khác vào tay người dùng. Tuy nhiên, không giống như quyết định của châu Âu, Microsoft còn bị buộc phải rút các phiên bản Windows không phù hợp ra khỏi thị trường Hàn Quốc. Quyết định này khiến cho Microsoft phải phát hành các biến thể “K” và “KN” của các phiên bản Home và Professional vào tháng 8 năm 2006.
Cũng cùng năm đó, Microsoft cũng phát hành hai phiên bản Windows XP Home Edition nhắm tới mô hình ra giá dựa trên thuê bao và trả tiền khi xài. Các phiên bản này, được phát hành như một phần của sáng kiến FlexGo của Microsoft, được dùng kèm với một thành phần phần cứng để hạn chế thời gian sử dụng Windows. Thị trường mục tiêu là những nền kinh tế đang nổi như Brasil hay Việt Nam[23].
Ngôn ngữ
Windows XP có nhiều phiên bản ngôn ngữ[24]. Ngoài ra, gói MUI và Language Interface Pack dùng để dịch giao diện người dùng cũng có ở một số ngôn ngữ[25][26].
Các tính năng mới và được cải tiến
-
Windows XP đã ra mắt một số tính năng mới cho dòng Windows, trong đó có:
- Tiến trình khởi động và ngủ đông nhanh hơn
- Khả năng loại bỏ một trình điều khiển thiết bị mới hơn để thay bằng một trình cũ hơn (có tên driver rollback), nếu khi cập nhật trình điều khiển cho ra kết quả không mong muốn
- Một giao diện mới, được cho là thân thiện với người dùng hơn, trong đó có nền tảng để phát triển các chủ đề (theme) cho môi trường để bàn
- Fast user switching, cho phép người dùng lưu trạng thái hiện tại và các ứng dụng đang mở để cho phép người dùng khác đăng nhập mà không làm mất thông tin
- Cơ chế hiển thị font ClearType, được thiết kế để tăng tính dễ đọc trên các màn hình LCD và các màn hình tương tự
- Tính năng Remote Desktop, cho phép người dùng kết nối với một máy tính đang chạy Windows XP Pro thông qua mạng hoặc Internet và truy cập các ứng dụng, tập tin, máy in, và thiết bị của máy đó
- Hỗ trợ hầu hết các loại modem DSL và kết nối mạng không dây, cũng như nối mạng thông qua FireWire và Bluetooth.
Giao diện người dùng
Các chủ đề trong Windows XP
 |
 |
Xanh Mặc định (Luna) |
Windows Cổ điển |
 |
 |
XP Royale |
Thiết kế trình đơn Start mới
trong chủ đề “Royale”. |
|
 |
Tính năng “nhóm tác vụ” được giới thiệu trong Windows XP. |
Windows XP đưa ra một giao diện người dùng đồ họa dựa trên tác vụ mới. Trình đơn Start và khả năng tìm kiếm được thiết kế lại và thêm vào nhiều hiệu ứng hình ảnh, trong đó có:
- Hình chữ nhật lựa chọn màu xanh mờ trong Explorer
- Đổ bóng cho tên biểu tượng trên màn hình desktop
- Thanh ngang dựa trên tác vụ trong các cửa Explorer (“tác vụ thường dùng”)
- Khả năng nhóm các nút trên thanh tác vụ đại diện cho các cửa sổ của một ứng dụng thành một nút duy nhất
- Khả năng khóa thanh tác vụ và các thanh công cụ khác để ngăn các thay đổi vô ý
- Làm nổi bật các chương trình vừa mới thêm vào trình đơn Start
- Tạo bóng dưới các trình đơn (Windows 2000 có bóng dưới con trỏ, nhưng không có bóng dưới trình đơn)
Windows XP phân tích tác động của các hiệu ứng hình ảnh lên hiệu năng và dùng nó để xác định có nên kích hoạt chúng không, do đó ngăn ngừa các tính năng mới ngốn quá nhiều tài nguyên xử lý. Người dùng cũng có thể điều chỉnh các thiết lập này[27]. Một số hiệu ứng, như trộn alpha (trong suốt rồi giảm dần), được xử lý hoàn toàn bởi các loại card đồ họa mới. Tuy nhiên, nếu card đồ họa không có khả năng trộn alpha, hiệu năng có thể bị ảnh hưởng đáng kể, và Microsoft khuyến cáo nên tắt tính năng này bằng tay[28]. Windows XP thêm các khả năng để Windows có thể sử dụng “Kiểu Thị giác” để thay đổi giao diện người dùng. Tuy nhiên, các kiểu thị giác phải được Microsoft ký tên mã hóa thì mới chạy được. Luna là tên của kiểu thị giác mới đi kèm với Windows XP, và được kích hoạt mặc định đối với các máy có bộ nhớ RAM video hơn 64 MiB. Luna dùng để chỉ một kiểu thị giác cụ thể, chứ không phải tất cả các tính năng giao diện mới của Windows XP. Một số người dùng “vá” tập tin uxtheme.dll hạn chế khả năng sử dụng kiểu thị giác trên Windows XP[29].
Ngoài các chủ đề đi kèm với Windows XP, có một chủ đề trước đó không được phát hành với thanh tác vụ màu xanh đen và thanh cửa sổ tương tự với Windows Vista có tên “Royale Noir” có sẵn để tải về, mặc dù nó không chính thức[30]. Microsoft đã chính thức phát hành một phiên bản chỉnh sửa của chủ đề này với tên chủ đề “Zune“, để chào mừng sự ra mắt máy chơi nhạc bỏ túi Zune vào tháng 11 năm 2006. Sự khác nhau duy nhất là cảm giác bóng như gương kèm với một thanh tác vụ màu đen thay vì màu xanh đen và nút Start màu cam thay vì màu xanh lá cây[31]. Ngoài ra, chủ đề “Royale” của Media Center, được kèm trong các phiên bản Media Center, cũng có sẵn để tải về và có thể dùng trên mọi phiên bản Windows XP[32].
Hình nền mặc định, Bliss, là ảnh phong cảnh ở Thung lũng Napa bên ngoài Napa, California theo định dạng BMP[33], có những ngọn đồi và bầu trời xanh với các đám mây tầng tích và mây ti.
Giao diện Windows 2000 “cổ điển” cũng có thể dùng thay thế nếu muốn. Một số tiện ích của bên thứ ba có thể dùng để bổ sung hàng trăm kiểu thị giác. Microsoft đã cấp phép công nghệ cho hãng tạo ra WindowBlinds và Stardock để tạo ra các kiểu thị giác trong XP.
Yêu cầu hệ thống
Yêu cầu hệ thống của Windows XP Home và Professional như sau:[34]
|
Tối thiểu |
Khuyến cáo |
Bộ xử lý |
233 MHz1 |
300 MHz trở lên |
Bộ nhớ |
64 MB RAM2 |
128 MB RAM trở lên |
Màn hình |
VGA (800 x 600) trở lên |
Dung lượng ổ cứng trống |
16 GB trở lên (thêm 1,8 GB trong SP2[35] và 900 MB nữa trong SP3[36]) |
Ổ đĩa |
CD hoặc DVD |
Thiết bị ngõ nhập |
Bàn phím,chuột |
Âm thanh |
Loa hoặc headphone |
Chú giải 1: Mặc dù đây là tốc độ bộ xử lý tối thiểu mà Microsoft đưa ra để chạy Windows XP, vẫn có thể cài đặt và chạy hệ điều hành trên các bộ xử lý IA-32 cũ hơn như Pentium không có bộ lệnh MMX hoặc SSE[37].
Chú giải 2: “Với nhiều công việc như duyệt Web, thư điện tử, và các hoạt động khác, 64 MB RAM sẽ cung cấp trải nghiệm người dùng tương đương hoặc cao hơn Windows Me chạy trên cùng phần cứng”[38].
Các gói dịch vụ
Microsoft thỉnh thoảng phát hành các service pack dành cho hệ điều hành Windows cũng hãng để sửa các lỗi và thêm tính năng. Mỗi service pack là một gói lớn gồm tất cả các service pack trước đó cùng với những bản vá, do đó chỉ cần cài đặt những service pack mới nhất[39]. Bạn cũng không cần phải gỡ bỏ các service pack cũ hơn trước khi cài một bản service pack mới.
Các chi tiết về service pack phía dưới chỉ dùng cho phiên bản 32-bit. Windows XP Professional x64 Edition dựa trên Windows Server 2003 Service Pack 1 và đã được gọi là “SP1” trong thuộc tính hệ thống ngay bản phát hành đầu tiên. Nó được cập nhật cùng bản service pack lẫn vá khẩn cấp chung với phiên bản x64 của Windows Server 2003.
Gói dịch vụ 1
Set Program Access and Defaults được bổ sung trong Service Pack 1.
Gói dịch vụ 1 (SP1) dành cho Windows XP được phát hành vào ngày 9 tháng 9 năm 2002. Nó có các bản sửa lỗi bảo mật hậu-RTM và bản sửa lỗi khẩn cấp, các cập nhật tương thích, hỗ trợ tùy chọn .NET Framework, kích hoạt các công nghệ dành cho thiết bị mới như máy tính bảng, và một phiên bản Windows Messenger 4.7 mới. Tính năng mới đáng chú ý nhất là hỗ trợ USB 2.0 và tiện ích Set Program Access and Defaults nhắm đến những sản phẩm ẩn nằm ở giữa. Người dùng có thể điều khiển ứng dụng mặc định sẽ sử dụng cho các hoạt động như lướt web và tin nhắn nhanh, cũng như ẩn truy cập đến một số chương trình đóng gói của Microsoft. Tiện ích này lần đầu tiên xuất hiện trong hệ điều hành Windows 2000 Service Pack 3. Bản Service Pack này mặc định hỗ trợ SATA và ổ cứng có dung lượng hơn 137GB (hỗ trợ LBA). Máy ảo Java của Microsoft, không có trong phiên bản RTM, đã xuất hiện trong bản Service Pack này[40]. Sự hỗ trợ cho IPv6 cũng được ra mắt trong Service Pack này.
Vào ngày 3 tháng 2 năm 2003, Microsoft phát hành Service Pack 1a (SP1a). Lần phát hành này bỏ đi máy ảo Java của Microsoft do kết quả vụ kiện với Sun Microsystems[41].
Gói dịch vụ 2
Gói dịch vụ (SP2) (tên mã “Springboard”) được phát hành vào ngày 6 tháng 4 năm 2004 sau một vài lần trì hoãn, tập trung vào tính bảo mật[42]. Không giống như các service pack khác, SP2 bổ sung nhiều chức năng mới cho Windows XP, trong đó có tường lửa nâng cao, tăng cường hỗ trợ Wi-Fi, như tương thích với mã hóa WPA, với tiện ích thuật sĩ, trình khóa quảng cáo popup dành cho Internet Explorer 6, và hỗ trợ Bluetooth. Màn hình chào mừng mới xuất hiện trong quá trình khởi động nhân đã bỏ các phụ đề “Professional”, “Home Edition” và “Embedded” vì Microsoft đã giới thiệu thêm các phiên bản Windows XP khác trước khi phát hành SP2. Thanh đang tải màu xanh lá cây trong Home Edition và màu vàng trong Embedded được thay bằng thanh màu xanh, như trong bản Professional và các phiên bản khác của Windows XP, như vậy màn hình khởi động của tất cả các phiên bản hệ điều hành đã hoàn toàn giống nhau. Màu sắc ở những chỗ khác, như Control Panel và các công cụ Help and Support, vẫn giữ nguyên như trước.
Service Pack 2 cũng thêm các cải tiến bảo mật mới, bao gồm chỉnh sửa lớn đối với trình tường lửa đi kèm được đổi tên thành Windows Firewall và đã được kích hoạt mặc định, Data Execution Prevention, hỗ trợ phần cứng tốt hơn trong NX bit có thể ngăn được một số dạng tấn công tràn bộ đệm. Ngoài ra, hỗ trợ socket thô cũng bị loại bỏ (để hạn chế thiệt hại do máy tính ma tạo ra). Hơn thế, bản service pack này đã cải tiến một số tính năng bảo mật cho email và duyệt web. Windows XP Service Pack 2 đưa vào Windows Security Center, hiển thị tổng quan tình trạng bảo mật của hệ thống, trong đó có tình trạng của phần mềm diệt virus, Windows Update, và Windows Firewall mới. Các ứng dụng diệt virus và tường lửa của bên thứ ba có thể giao tiếp với Security Center mới này[43].
Vào ngày 10 tháng 8 năm 2007, Microsoft thông báo một cập nhật nhỏ cho Service Pack 2, có tên Service Pack 2c (SP2c)[44]. Bản cập nhật này sửa vấn đề có quá ít khóa sản phẩm cho Windows XP. Bản cập nhật này chỉ dành cho các nhà xây dựng hệ thống từ nhà phân phối của họ cho Windows XP Professional và Windows XP Professional N. SP2c phát hành vào tháng 9 năm 2007[45].
Gói dịch vụ 3
Windows XP Gói dịch vụ 3 (SP3) được phát hành cho nhà sản xuất vào ngày 21 tháng 4 năm 2008 và cho công chúng thông qua Microsoft Download Center và Windows Update vào ngày 6 tháng 5 năm 2008[46][47][48][49].
Bộ service pack này bắt đầu tự động yêu cầu người dùng cập nhật thông qua Automatic Update vào ngày 10 tháng 7 năm 2008[50]. Microsoft đã đăng một bản tổng quan về các tính năng trong đó liệt kê chi tiết các tính năng mới có thể tải độc lập như các bản cập nhật cho Windows XP, cũng như các tính năng backporting từ Windows Vista[51]. Trong SP3, có tổng cộng 1.174 lỗi được sửa[52]. Service Pack 3 có thể cài đặt trên hệ thống bằng Internet Explorer 6 hoặc 7, và Windows Media Player phiên bản 9 trở lên[53]. Internet Explorer 7 không đi kèm trong SP3[54].
Các tính năng mới trong Gói dịch vụ 3
Các bản cập nhật đã phát hành trước đó
Service Pack 3 cũng đưa vào một số bản cập nhật quan trọng trước đó dành cho Windows XP, nhưng đã không kèm trong SP2 gồm:
Mặc dù đến nay các bản service pack đều mang tính tích lũy, khi cài đặt SP3 trên hệ điều hành Windows XP có sẵn vẫn yêu cầu máy tính ít nhất đã phải cài đặt Service Pack 1[36].
Service Pack 3 có các bản cập nhật cho các thành phần hệ điều hành của phiên bản Windows XP Media Center Edition (MCE) và Windows XP Tablet PC Edition, và cập nhật bảo mật cho.NET Framework phiên bản 1.0, được kèm trong những SKU của Windows XP này. Tuy nhiên, nó không kèm theo các cập nhật cho ứng dụng Windows Media Center trong Windows XP MCE 2005[59], SP3 cũng bỏ đi các cập nhật bảo mật cho Windows Media Player 10, mặc dù trình duyệt này được kèm trong Windows XP MCE 2005[59] . Address Bar DeskBand trên Thanh tác vụ không còn kèm trong SP3 do hạn chế về pháp lý[60].
Vòng thời gian hỗ trợ
Việc hỗ trợ cho Windows XP không có service pack đã kết thúc vào ngày 30 tháng 9 năm 2004[61] và hỗ trợ cho Windows XP Service Pack 1 và 1a kết thúc vào ngày 10 tháng 10 năm 2006[62][63].
Windows XP Service Pack 2 được nghỉ vào ngày 13 tháng 7 năm 2010, gần sáu năm sau khi ra đời. Theo thời gian biểu do Microsoft công bố, công ty sẽ ngừng việc cấp phép Windows XP cho các hãng OEM và ngưng việc bán lẻ hệ điều hành vào ngày 30 tháng 6 năm 2008, 17 tháng sau khi phát hành Windows Vista[64][65]. Tuy nhiên, hãng đã công bố một ngoại lệ vào ngày 3 tháng 4 năm 2008, đối với các hãng OEM cài đặt cho các máy PC giá cực thấp (ULCPC) thì hoặc là hạn chót là 30 tháng 6 năm 2010, hoặc một năm sau khi ra mắt phiên bản dành cho máy khách đầu tiếp theo của Windows, Windows 7—tùy theo ngày nào đến sau[66][67][68].
Vào ngày 14 tháng 4 năm 2009, Windows XP bắt đầu giao đoạn “Hỗ trợ mở rộng” và kéo dài trong 5 năm cho đến ngày 8 tháng 4 năm 2014.
Các chỉ trích phổ biến
-
Vấn đề bảo mật
Windows XP thường xuyên bị chỉ trích vì sự nhạy cảm với phần mềm độc hại, virus, trojan, và sâu. Các vấn đề bảo mật tựu trung lại đều bị quy về lý do là một cách mặc định, người dùng luôn nhận được một tài khoản quản trị cung cấp quyền truy cập không giới hạn đến những thứ nằm sâu trong hệ thống. Nếu tài khoản quản trị đó bị xâm nhập, không còn thứ gì có thể ngăn cản việc điều khiển máy tính bị lây nhiễm đó.
Windows, với thị phần rất lớn, từ trước tới nay luôn là mục tiêu lý tưởng của những kẻ viết virus. Các lỗ hổng bảo mật thường không lộ diện cho đến khi chúng bị khám phá, gây khó khăn để phòng ngừa. Microsoft đã nói rằng việc phát hành các bản vá để sửa các lỗ hổng bảo mật thường lại chính là nguyên nhân phát tán sự khai thác các lỗ hổng tương tự, vì các cracker sẽ khám phá ra những vấn đề mà miếng vá đó sẽ sửa chữa, rồi sau đó thực hiện tấn công các hệ thống chưa được vá. Microsoft khuyến cáo tất cả các hệ thống cần bật chức năng tự động cập nhật để ngăn ngừa hệ thống khỏi bị tấn công do vì một lỗi chưa được vá, nhưng một số phòng ban IT của doanh nghiệp cần phải kiểm tra các bản cập nhật trước khi cài chúng lên toàn hệ thống để dự đoán các vấn đề tương thích với những phần mềm tự viết và các cơ sở hạ tầng. Thời gian trì hoãn này cũng kéo dài khoảng thời gian thiếu an toàn của hệ thống khi có một bản vá được phát hành.
Hiệu năng của giao diện người dùng
Những lời chỉ trích cho rằng giao diện người dùng mặc định của Windows XP (Luna) đã tăng thêm sự hỗn loạn về hình ảnh và hao phí không gian màn hình trong khi không đưa ra chức năng nào mới và chạy còn chậm hơn. Những người dùng than phiền như vậy có thể chuyển lại về chủ đề Windows Cổ điển[69].
Sự tích hợp các tính năng của hệ điều hành
Theo vụ Hoa Kỳ kiện Microsoft mà kết quả là Microsoft bị tuyên bố có trách nhiệm trong việc lạm dụng tính độc quyền trong thị trường hệ điều hành để lấn lướt các đối thủ trong thị phần khác, Windows XP đã chuốc lấy rắc rối khi tích hợp các ứng dụng người dùng như Windows Media Player và Windows Messenger vào hệ điều hành, cũng như mối liên kết chặt chẽ giữa chúng với dịch vụ Windows Live ID.
Tương thích ngược
Một số người dùng chuyển từ Windows 9x sang XP không thích việc Windows XP thiếu hỗ trợ DOS. Mặc dù XP có khả năng chạy các chương trình DOS trong máy DOS ảo, nó vẫn gặp vấn đề khi chạy các chương trình DOS cũ. Điều này xảy ra chủ yếu do nó là một hệ thống Windows NT và không dùng DOS làm hệ điều hành nền tảng, và rằng kiến trúc Windows NT khác biệt với Windows 9x. Một số chương trình DOS không thể chạy thực sự trên XP, đáng chú ý nhất là các chương trình dựa vào việc truy cập trực tiếp vào phần cứng, có thể chạy trong các trình giả lập, như DOSBox, hoặc các máy ảo, như VMware, Microsoft Virtual PC hay VirtualBox.
Kích hoạt và xác minh sản phẩm
Kích hoạt sản phẩm
Để giảm tình trạng vi phạm bản quyền, Windows XP đã giới thiệu chức năng kích hoạt sản phẩm. Việc kích hoạt đòi hỏi máy tính hoặc người dùng phải kích hoạt sản phẩm với Microsoft (có thể trực tuyến hoặc qua điện thoại) trong một khoản thời gian nhất định để có thể tiếp tục sử dụng hệ điều hành. Nếu hệ thống máy tính của người dùng có sự thay đổi—ví dụ, nếu hai hoặc nhiều thành phần hệ thống tương ứng khác được nâng cấp—Windows sẽ quay trở lại trạng thái chưa kích hoạt và sẽ yêu cầu kích hoạt lại trong một khoảng thời gian quy định trước. Nếu người dùng cố gắng tái kích hoạt quá nhiều lần hệ thống sẽ từ chối kích hoạt trực tuyến. Người dùng khi đó phải liên hệ với Microsoft qua điện thoại, để giải thích tại sao điều đó xảy ra, rồi mới lấy được một mã kích hoạt mới.
Tuy nhiên, việc kích hoạt chỉ áp dụng cho những bản sao Windows dành cho nhà bán lẻ và “hãng lắp ráp hệ thống”. Những bản “OEM trung thành” (được các hãng máy tính lớn sử dụng) dùng cách thay thế là khóa một chữ ký đặc biệt trong BIOS máy tính (và sẽ yêu cầu kích hoạt nếu hệ điều hành được chuyển sang một hệ thống có bo mạch chủ không có chữ ký) và các bản cấp phép theo gói thì không cần phải kích hoạt gì cả. Vô hình trung điều hành đã dẫn tới việc những kẻ vi phạm bản quyền chỉ cần sử dụng những bản sao cấp phép theo gói kèm với các khóa cấp phép theo gói được phán tán rộng rãi trên Internet.
Kiểm tra khóa sản phẩm
Bên cạnh việc kích hoạt, các bản service pack Windows XP sẽ từ chối cài đặt trên các hệ thống Windows có khóa sản phẩm được nhận biết là đang được dùng phổ biến trong các bản cài đặt phi pháp. Những khóa sản phẩm này thực ra là duy nhất trong mỗi một bản Windows đóng hộp (hoặc đóng gói) và ghi kèm trong tài liệu hướng dẫn sử dụng, nhưng một số khóa sản phẩm đã bị đăng lên Internet rồi sau đó được sử dụng trong nhiều bản cài đặt phi pháp. Các service pack còn chứa một danh sách các khóa kiểu này và sẽ không cập nhật các bản Windows XP đang dùng chúng.
Microsoft đã phát triển một bộ máy xác minh khóa mới dành cho Windows XP Service Pack 2 có thể kiểm tra các khóa lậu, thậm chí nhũng khóa chưa từng được sử dụng trước đây. Sau khi bị những nhà tư vấn bảo mật phản đối vì sợ việc từ chối không cho các máy vi phạm cài các bản cập nhật bảo mật có thể dẫn đến hậu quả rộng cho cả những người sở hữu hợp pháp, Microsoft đã quyết định tắt cơ chế xác minh khóa mới này. Service Pack 2 chỉ kiểm tra một danh sách nhỏ các khóa thường dùng như trong Service Pack 1. Điều này có nghĩa là tuy Service Pack 2 không cài trên các bản Windows sử dụng tập khóa sao chép cũ, những máy dùng khóa mới được đăng vẫn có thể cập nhật hệ thống của họ được.
Windows Genuine Advantage
-
Trong nỗ lực nhằm kiềm chế vi phạm bản quyền dựa trên các khóa cấp phép theo gói bị rò rỉ hoặc tạo ra trên mạng, Microsoft đã cho mắt Windows Genuine Advantage (WGA). WGA bao gồm hai phần, một công cụ xác minh phải dùng khi tải một số thứ từ Microsoft và một hệ thống thông báo người dùng. WGA dành cho Windows được tiếp nối bằng các hệ thống xác minh dành cho Internet Explorer 7, Windows Media Player 11, Windows Defender, và Microsoft Office 2007. Gần đây Microsoft đã gỡ bỏ xác minh WGA ra khỏi bản cài đặt Internet Explorer 7 nói rằng mục đích của sự thay đổi này là để đưa IE7 đến với mọi người dùng Windows[70][71].
Nếu khóa giấy phép bị đánh giá là không thật, nó sẽ hiển thị một màn hình mè nheo thường xuyên yêu cầu người dùng mua giấy phép từ Microsoft[72]. Thêm vào đó, người dùng bị hạn chế khi truy cập vào Microsoft Update để tải các bản cập nhật bảo mật, và như vậy, các bản cập nhật nâng cao mới và các sản phẩm Microsoft khác sẽ không thể được tải về hoặc cài đặt nữa. Vào ngày 26 tháng 8 năm 2008, Microsoft đã phát hành chương trình kích hoạt WGA mới hiển thị một màn hình nền màu đen nếu máy tính không vượt qua được cuộc xác minh. Hình nền có thể được đổi, nhưng sẽ quay về đen sau 60 phút[73].
Những chỉ trích phổ biến đối với WGA gồm có việc Microsoft miêu tả nó là “Bản cập nhật bảo mật tối quan trọng”, khiến cho Automatic Updates mặc định tải nó về mà người dùng không tài nào can thiệp được, hành vi của nó giống như một phần mềm gián điệp liên tục “gọi về” Microsoft mỗi khi máy tính kết nối vào Internet, việc không thông báo cho người dùng cuối viết WGA đang thực sự làm cái gì sau khi được cài đặt (đã được sửa trong bản cập nhật 2006[74]), không cung cấp một phương cách gỡ bỏ hợp lý trong suốt bản thử nghiệm beta (người dùng được cung cấp hướng dẫn gỡ bỏ bằng tay nhưng không hoạt động cho đến bản chính thức[72]), và sự nhạy cảm của nó đối với sự thay đổi hệ thống phần cứng dẫn đến đòi tái kích hoạt liên tục đối với một số nhà phát triển.
Nói một cách thẳng thắn, việc tải về hay cài đặt Thông báo đều không phải bắt buộc; người dùng có thể thay đổi thiết lập của Automatic Updates của họ để cho phép họ chọn tải về và cài đặt bản cập nhật nào. Nếu bản cập nhật đã được tải về rồi, người dùng có thể chọn không chấp nhận EULA bổ sung đi theo Thông báo. Trong cả hai trường hợp đó, người dùng cũng có thể yêu cầu bản cập nhật không được hiển thị nữa. Các Cập nhật Bảo mật Tối quan trọng mới hơn vẫn có thể cài đặt mà không hiển thị yêu cầu WGA nữa. Tuy nhiên thiết lập này sẽ chỉ có tác dụng trên phiên bản hiện tại của Thông báo, do đó nó có thể xuất hiện lại nếu có phiên bản mới. Vào năm 2006, Microsoft đã có dính líu tới một vụ kiện ở California, về việc công ty đã vi phạm các luật chống phần mềm gián điệp của tiểu bang với chương trình Windows Genuine Advantage Notifications của nó[75].
‘Bẻ khóa’ bảo vệ
Những chương trình “tạo khóa”, thường được gọi là “keygen“, hiện có để tạo ngẫu nhiên các khóa sản phẩm của Windows XP (do đó, không còn các khóa thường dùng để có thể cấm) rồi sau đó kích hoạt Windows mà không cần phải liên hệ với Microsoft. Những khóa này có thể có hoặc không cho phép người dùng nhận được các bản cập nhật mặc dù Microsoft đã cho phép tải về và cài đặt các bản cập nhật bảo mật quan trọng thông qua Windows Update và trang tải về của nó, thậm chí trong các bản ăn cắp bản quyền và không thật của Windows[76]. Ngoài ra, cũng tồn tại nhiều phiên bản WGA bị bẻ khóa, cho phép một máy tính đang chạy một bản Windows không chính hãng vẫn được xem là bản thật và có thể truy cập tất cả bản cập nhật và cải tiến của Windows.
Đánh giá người dùng
Windows XP được xem là một trong những HĐH thành công nhất của Microsoft.”Giới IT vẫn rất thích hệ điều hành Windows XP, họ nói rằng nó rất tốt và không muốn từ bỏ nó.”
Xem thêm
Sách
- Microsoft Windows XP Plain & Simple – J. Joyce and M. Moon, Microsoft Press, USA, 2005. ISBN 0-7356-2112-8
Chú thích
- ^ “Windows Licensing Programs”. Microsoft. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2008.
- ^ http://www.microsoft.com/presspass/press/2001/aug01/08-24WinXPRTMPR.mspx
- ^ http://www.microsoft.com/windows/lifecycle/servicepacks.mspx#section_3
- ^ a ă â b “Microsoft Product Lifecycle Search: Windows XP”. Microsoft Support. Microsoft. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2012.
- ^ “Microsoft Announces Windows XP and Office XP”. Microsoft PressPass. Microsoft. Ngày 5 tháng 2 năm 2001. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2006.
- ^ Jeremy Kirk (ngày 18 tháng 1 năm 2006). “Analyst: No effect from tardy XP service pack”. ITworld.com.
- ^ System Builders Can Buy Windows XP Until January ’09
- ^ Mary Jo Foley (ngày 3 tháng 10 năm 2008). “Microsoft extends XP downgrade rights date by six months”. ZDnet. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Gavin Clarke (ngày 3 tháng 10 năm 2008). “Microsoft gives users six months longer to flee from Vista”. The Register. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Ngừng hỗ trợ Windows XP”.
- ^ David Coursey (ngày 25 tháng 10 năm 2001). “The 10 top things you MUST know about Win XP”. CNet.com. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2008.
- ^ “A Brief History and Introduction to Windows”. Princeton University. Ngày 22 tháng 7 năm 2004. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2008.
- ^ “Simplifying Deployment and Solving DLL Hell with the.NET Framework”. Microsoft Developer Network. Microsoft. Tháng 11 năm 2001. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2008.
- ^ “How To Build and Service Isolated Applications and Side-by-Side Assemblies for Windows XP”. Microsoft Developer Network. Microsoft. Ngày 24 tháng 8 năm 2001. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2008.
- ^ “Windows “Longhorn” FAQ”. Paul Thurrott’s SuperSite for Windows. Ngày 22 tháng 6 năm 2005. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2008. (see Q: What’s up with the name Longhorn?)
- ^ “Trend for ‘Windows XP’”. Market share for browsers, operating systems and search engines. Net Applications. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2009.
- ^ Paul Thurrott (ngày 3 tháng 1 năm 2005). “Windows XP Starter Edition”. Paul Thurrott’s SuperSite for Windows. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Windows XP-lite ‘not value for money’”. Silicon.com. Ngày 28 tháng 6 năm 2005.
- ^ “Europe gets ‘reduced’ Windows”. Seattle Pi. Ngày 24 tháng 12 năm 2004.
- ^ “European Windows Called ‘Windows XP Home Edition N’”. Redmondmag.com. Ngày 28 tháng 3 năm 2005.
- ^ “Microsoft and EU reach agreement”. BBC. Ngày 28 tháng 3 năm 2005.
- ^ Nate Anderson (ngày 7 tháng 12 năm 2005). “South Korea fines Microsoft for antitrust abuses”. Ars Technica. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Microsoft Unveils Pay-As-You-Go Personal Computing Designed for Emerging Market Consumers”. PressPass (Thông cáo báo chí). Microsoft. Ngày 21 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2008.
- ^ “List of languages supported in Windows 2000, Windows XP, and Windows Server 2003”. Microsoft. Ngày 3 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Cumulative Help Update for Microsoft Windows XP Multilingual User Interface (MUI) Pack (KB841625)”. Microsoft. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Unlimited Potential: Local Language Program”. Microsoft. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Change Windows visual effects”. Microsoft.
- ^ “Computer Slows When You Click Multiple Icons in Windows XP”. Microsoft. Ngày 15 tháng 1 năm 2006.
- ^ “UXTheme Multi-Patchers”. Neowin. Ngày 12 tháng 2 năm 2004.
- ^ “Royale Noir: secret XP theme uncovered”. istartedsomething.com. Ngày 29 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2008.
- ^ http://go.microsoft.com/fwlink/?LinkID=75078
- ^ “Royale Theme for WinXP – Official”. Windows downloads. Softpedia. Ngày 11 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2008.
- ^ Turner, Paul (ngày 22 tháng 2 năm 2004). “No view of Palouse from Windows”. The Slice. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2007.
- ^ “System requirements for Windows XP operating systems”. Ngày 28 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2007.
- ^ “System Requirements for Windows XP Service Pack 2”. Microsoft. Ngày 20 tháng 8 năm 2004. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2007.
- ^ a ă Installing Windows XP Service Pack 3 (SP3 Lỗi chú thích: Thẻ
<ref> không hợp lệ: tên “technetsp3install” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
- ^ “Windows XP Home Edition Service Pack 2 running on 100 MHz”. Ngày 26 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2008.
- ^ “Windows XP Performance”. Ngày 1 tháng 6 năm 2001. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Windows XP Service Pack 2 Overview”. Microsoft. Ngày 4 tháng 8 năm 2004. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Windows XP Service Pack 1 preview”. Ngày 9 tháng 9 năm 2002. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2007.
- ^ “Differences Between Windows XP SP1 and Windows XP SP1a”. Ngày 3 tháng 2 năm 2003. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2007.
- ^ “How to obtain the latest Windows XP service pack”. Ngày 26 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2007.
- ^ “Windows XP Service Pack 2 information”. Microsoft. Ngày 4 tháng 8 năm 2004.
- ^ “Windows XP Service Pack 2c (SP2c) press release”. Blink.nu. Ngày 10 tháng 8 năm 2007.
- ^ “Windows XP Service Pack 2c (SP2c) information”. Microsoft. Ngày 17 tháng 9 năm 2007.
- ^ “Windows XP Service Pack 3 Released to Manufacturing”. Microsoft. Ngày 21 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2009.
- ^ “Windows XP SP3 Released to Web (RTW), now available on Windows Update and Microsoft Download Center”. Microsoft. Ngày 6 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2009.
- ^ “Windows XP Service Pack 3 Network Installation Package for IT Professionals and Developers”. Microsoft. Ngày 6 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Windows XP Service Pack 3 – ISO-9660 CD Image File”. Microsoft. Ngày 6 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Microsoft sets XP SP3 automatic download for Thursday”. Computerworld. Ngày 8 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2008.
- ^ “Windows XP Service Pack 3 Overview”. Microsoft. Ngày 6 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2008.
- ^ List of fixes that are included in Windows XP Service Pack 3
- ^ No, Internet Explorer 7 Will Not(!) Be a Part of Windows XP SP3
- ^ Windows XP SP3 features
- ^ a ă Overview of Windows XP Service Pack 3 Lỗi chú thích: Thẻ
<ref> không hợp lệ: tên “SP3Overview” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
- ^ Description of the Credential Security Service Provider (CredSSP) in Windows XP Service Pack 3
- ^ Information about Windows Imaging Component
- ^ How to simplify the creation and maintenance of Internet Protocol (IPsec) security filters in Windows Server 2003 and Windows XP
- ^ a ă FAQs regarding SP3 RTM Lỗi chú thích: Thẻ
<ref> không hợp lệ: tên “SP3FAQ” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
- ^ Lost Address Bar: Windows XP SP3 forum
- ^ “”Lifecycle Supported Service Packs””. Microsoft.
- ^ “End of support for Windows 98, Windows Me, and Windows XP Service Pack 1”. Ngày 6 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2006.
- ^ “Lifecycle Supported Service Packs”. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2007.
- ^ “Microsoft Extends Sales Availability of Windows XP”. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2008.
- ^ Ina Fried (ngày 27 tháng 9 năm 2007). “Microsoft extends Windows XP’s stay”. CNet News. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Microsoft Announces Extended Availability of Windows XP Home for ULCPCs”. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Microsoft to keep Windows XP alive — but only for Eee PCs and wannabes”. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Microsoft Extends XP Through 2010 for Ultra-Low-Cost Laptops”. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Full Disclosure: Your Take on Windows’ Worst Irritations”. PC World. Tháng 10 năm 2004.
- ^ Mary Jo Foley (ngày 4 tháng 10 năm 2007). “Internet Explorer 7 update: Now WGA-free”. ZDNet. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2007.
- ^ Steve Reynolds (ngày 4 tháng 10 năm 2007). “Internet Explorer 7 Update”. Microsoft. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2007.
- ^ a ă “Description of the Windows Genuine Advantage Notifications application”. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2006.
- ^ http://support.microsoft.com/?kbid=905474
- ^ “New WGA Notifications Released”. MSDN Blogs. Ngày 29 tháng 9 năm 2006. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2006.
- ^ “Lawsuit Labels Windows Genuine Advantage as Spyware”. eWeek. Ngày 29 tháng 7 năm 2006. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2006.
- ^ Bruce Schneier (ngày 29 tháng 7 năm 2005). “Microsoft Permits Pirated Software to Receive Security Patches”. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2007.
Liên kết ngoài
Thể loại:
Ngô Thì Nhậm
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tượng thờ Ngô Thì Nhậm trong Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt (Bảo tàng Quang Trung, Bình Định)
Ngô Thì Nhậm (吳時壬; còn gọi là Ngô Thời Nhiệm 吳時任[1]; 25/10/1746–1803), tự là Hy Doãn(希尹), hiệu là Đạt Hiên(達軒), là danh sĩ, nhà văn đời hậu Lê–Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh. Ngô Thì Nhậm xuất thân gia đình vọng tộc chốn Bắc Hà, là con Ngô Thì Sĩ, người làng Tả Thanh Oai, ngày nay thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội.
Sự nghiệp
Ngô Thì Nhậm thông minh, học giỏi, sớm có những công trình về lịch sử. Ông thi đỗ giải nguyên năm 1768, rồi tiến sĩ tam giáp năm 1775. Sau khi đỗ đạt, ông được bổ làm quan ở bộ Hộ dưới triều Lê–Trịnh, được chúa Trịnh Sâm rất quý mến. Năm 1778 làm Đốc đồng Kinh Bắc và Thái Nguyên. Khi đó cha ông làm Đốc đồng Lạng Sơn. Cha con đồng triều, nổi tiếng văn chương trong thiên hạ.
Sau Vụ án năm Canh Tý (1780), ông bị nghi ngờ là người tố giác Trịnh Khải nên phải bỏ trốn về quê vợ ở Thái Bình lánh nạn.
Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai, xuống lệnh “cầu hiền” tìm kiếm quan lại của triều cũ. Danh sĩ Bắc Hà đã đầu quân cho nhà Tây Sơn từ trước đó mới chỉ có Trần Văn Kỉ[2], Ngô Văn Sở và Đặng Tiến Đông[3]. Tuy vậy, tới thời điểm này thì cả vua Lê lẫn chúa Trịnh đều đã đổ. Ngô Thì Nhậm và một số thân sĩ Bắc Hà khác như Phan Huy Ích, Bùi Dương Lịch[4]; các tiến sĩ Ninh Tốn, Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Bá Lan; Đoàn Nguyễn Tuấn (anh rể Nguyễn Du); Vũ Huy Tấn; Nguyễn Huy Lượng (tác giả “Tụng Tây Hồ phú“)…lần lượt ra làm quan cho nhà Tây Sơn.[5] Sử cũ viết khi được Thì Nhậm, Nguyễn Huệ mừng mà rằng: “Thật là trời để dành ông cho ta vậy”, và phong cho ông chức Tả thị lang bộ Lại, sau lại thăng làm thượng thư bộ Lại-chức vụ cao cấp nhất trong Lục bộ.
Cuối năm Mậu Thân (1788) do vua Lê Chiêu Thống cầu viện, 29 vạn quân Thanh kéo sang Đại Việt, với chiêu bài diệt Tây Sơn dựng lại nhà Lê. Ngô Thì Nhậm đã có kế lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn (Ninh Bình) góp phần làm nên chiến thắng của nhà Tây Sơn.
Năm 1790, vua Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm giữ chức Binh bộ thượng thư. Tuy làm ở bộ Binh, nhưng Thì Nhậm chính là người chủ trì về các chính sách và giao dịch ngoại giao với Trung Hoa. Ông là người đứng đầu một trong những sứ bộ ngoại giao sang Trung Hoa.[6]
Sau khi Quang Trung mất, ông không còn được tin dùng, quay về nghiên cứu Phật học.
Sau khi Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch và một số viên quan triều Tây Sơn thì bị đánh bằng roi tại Văn Miếu năm 1803. Nhưng do trước đó có mâu thuẫn với Đặng Trần Thường nên cho người tẩm thuốc vào roi. Sau trận đánh đòn, về nhà, Ngô Thì Nhậm chết.
Câu ứng đối nổi tiếng
Tương truyền Ngô Thì Nhậm và Đặng Trần Thường có quen biết với nhau.
Lúc Ngô Thì Nhậm được vua Quang Trung trọng dụng thì Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ, Nhậm thét bảo Thường:
- Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác.
Đặng Trần Thường hổ thẹn ra về, rồi vào Nam theo Nguyễn Phúc Ánh.
Sau khi nhà Tây Sơn mất, các võ tướng và một số quan văn bị giải về Hà Nội để bị xử phạt đánh bằng roi ở Văn Miếu, trong số đó có Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm. Chủ trì cuộc phạt đánh đòn đó là Đặng Trần Thường.
Vốn có thù riêng, Đặng Trần Thường kiêu hãnh ra vế câu đối cho Ngô Thì Nhậm:
- Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Ngô Thì Nhậm khẳng khái đáp:
- Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Có thuyết nói rằng, nguyên câu đối lại của Ngô Thì Nhậm là:
- Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, dù thời thế, thế nào cũng thế
hoặc là:
- Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế nào vẫn thế
Đặng Trần Thường bắt ông phải sửa lại như câu nói “thế đành theo thế” (hay thế thời theo thế hoặc là thế thì phải thế). Ngô Thì Nhậm không nói lại. Thường tức giận sai người dùng roi tẩm thuốc độc đánh ông.
Sau trận đòn về nhà, Phan Huy Ích không bị đánh bằng thuốc độc nên còn sống. Còn Ngô Thì Nhậm bị thuốc độc ngấm vào tạng phủ, biết mình không qua khỏi, trước khi qua đời ông có làm bài thơ gửi tặng Đặng Trần Thường như sau:
- Ai tai Đặng Trần Thường
- Chân như yến xử đường
- Vị Ương cung cố sự
- Diệc nhĩ thị thu trường
Nghĩa là: Thương thay Đặng Trần Thường. Nay quyền thế lắm đấy, nhưng khác nào như chim yến làm tổ trong cái nhà sắp cháy, rồi sẽ khốn đến nơi. Giống như Hàn Tín giúp Hán Cao tổ, rồi bị Cao tổ giết ở cung Vị Ương. Kết cục của ngươi rồi cũng thế đó.
Tạm dịch:
- Thương thay Đặng Trần Thường
- Tổ yến nhà xử đường
- Vị Ương cung chuyện cũ
- Tránh sao kiếp tai ương?
Quả nhiên sau này bài thơ ứng nghiệm, Thường bị Gia Long xử tử.
Tác phẩm chính
- Bang giao hảo thoại (văn)
- Bang giao tập (văn)
- Kim mã hành dư (văn)
- Hàn các anh hoa(Văn, thơ)
- Doãn thi văn tập (văn, thơ)
- Yên đài thu vịnh (thơ)
- Hoàng hoa đồ phả (thơ)
- Cúc đường bách vịnh (thơ)
- Hải Dương chí lược
- Hy Doãn thi văn tập
- Xuân Thu quản kiến
Xem thêm
Chú thích
- ^ Ngô Thì Nhậm trùng với tên húy vua Tự Đức (Hồng Nhậm, Nguyễn Phúc Thì) nên phải đọc và viết thành Ngô Thời Nhiệm (theo Họ và tên người Việt Nam, PGS.TS Lê Trung Hoa, NXB Khoa học xã hội, 2005).
- ^ Trần Văn Kỉ đỗ giải nguyên, quê ở huyện Hương Trà, Thuận Hóa chưa làm quan cho triều nào.Theo nhà Tây Sơn từ 1786,sử chép là Nguyễn Huệ “việc gì cũng bàn với Kỷ, không mấy khi rời”
- ^ Ðặng Tiến Ðông thuộc dòng họ nhiều đời đỗ đạt, làm quan to dưới triều Lê-Trịnh. Ông tìm vào Quảng Nam ra mắt Nguyễn Huệ năm 1787. Hai năm sau, lĩnh chức đô đốc, ông dẫn đầu cánh quân đánh vào đồn Ðống Ða, kéo quân vào Thăng Long sớm nhất
- ^ Dương Lịch về sau cũng làm quan cho nhà Nguyễn Gia Long
- ^ Thái độ của danh sĩ Bắc Hà đối với Nguyễn Huệ là chia rẽ và phức tạp. Bên cạnh với những người đầu Tây Sơn, một số khác đi theo hoặc vua Lê hoặc chúa Trịnh, hoặc sau này làm quan cho Gia Long như Nguyễn Ðăng Trường, Nguyễn Ðình Giản, Lê Duy Ðản, Trần Danh Án, Ngô Thì Chí,Nguyễn Du…
- ^ Sau chiến thắng Kỉ Dậu 1789, nhà Tây Sơn đã phái nhiều sứ đoàn sang Trung Hoa, trong đó có sứ đoàn do Ngô Văn Sở cầm đầu, một sứ đoàn khác do Võ Văn Dũng đứng đầu khi Quang Trung có ý định xin cưới con gái của Càn Long và xin đất Lưỡng Quảng, nhưng khi đoàn này vừa khởi hành (có tài liệu nói là khi đoàn đã sang tới nơi) thì Quang Trung qua đời
Liên kết ngoài
Thể loại:
Pablo Picasso
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Pablo Ruiz Picasso (sinh ngày 25 tháng 10 năm 1881, mất ngày 8 tháng 4 năm 1973), thường được biết tới với tên Pablo Picasso hay Picasso là một họa sĩ và nhà điêu khắc người Tây Ban Nha. Tên đầy đủ của ông là Pablo Diego José Francisco de Paula Juan Nepomuceno María de los Remedios Cipriano de la Santísima Trinidad Clito Ruiz y Picasso[1]. Picasso được coi là một trong những nghệ sĩ nổi bật nhất của thế kỷ 20, ông cùng với Georges Braque là hai người sáng lập trường phái lập thể trong hội họa và điêu khắc.Ông là một trong 10 họa sĩ vĩ đại nhất trong top 200 nghệ sĩ tạo hình lớn nhất thế giới thế kỷ 20 do tạp chí The Times, Anh, công bố.[2]
Tiểu sử
Pablo Picasso sinh năm 1881 tại Málaga, miền nam Tây Ban Nha. Picasso là con đầu lòng của ông José Ruiz y Blasco và bà María Picasso y López.[3] Ông được đặt tên thánh là Pablo, Diego, José, Francisco de Paula, Juan Nepomuceno, Maria de los Remedios và Cipriano de la Santísima Trinidad[4].
Ngay từ khi còn nhỏ, Picasso đã bộc lộ sự say mê và năng khiếu trong lĩnh vực hội họa, theo mẹ ông kể lại thì từ đầu tiên mà cậu bé Pablo nói được chính là “piz”, cách nói tắt của từ “lápiz”, trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là bút chì[5]. Cha của Picasso là một họa sĩ chuyên vẽ chim theo trường phái hiện thực, ông José còn là một giảng viên nghệ thuật và phụ trách bảo tàng địa phương, trường Mỹ thuật công nghệ tạo hình của Barcelona. Vì vậy, Picasso có được những bài học đầu tiên về nghệ thuật chính từ cha mình.
Vào Học viện mỹ thuật (Academia de San Fernando) tại Madrid được chưa đầy một năm, năm 1900 Picasso đã bỏ học để sang Paris, trung tâm nghệ thuật của Châu Âu thời kỳ đó. Tại thủ đô nước Pháp, ông sống cùng Max Jacob, một nhà báo và nhà thơ, người đã giúp Pablo học tiếng Pháp. Đây là giai đoạn khó khăn của người họa sĩ trẻ khi ông phải sống trong cảnh nghèo túng, lạnh lẽo và đôi khi tuyệt vọng, phần lớn tác phẩm của Pablo đã phải đốt để sưởi ấm cho căn phòng nhỏ của hai người. Năm 1901, cùng với người bạn Soler, Picasso đã thành lập tờ tạp chí Arte Joven ở Madrid. Số đầu tiên của tạp chí hoàn toàn do Pablo minh họa.
Trong những năm đầu của thế kỉ 20, Picasso thường xuyên qua lại giữa hai thành phố Barcelona và Paris. Tại Paris, Picasso kết bạn với rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng ở khu Montmartre và Montparnasse, trong đó có người sáng lập trường phái siêu thực André Breton, nhà thơ Guillaume Apollinaire và nhà văn Gertrude Stein. Năm 1911, Picasso và Apollinaire thậm chí đã từng bị bắt giữ vì bị nghi ăn trộm bức tranh Mona Lisa khỏi Bảo tàng Louvre nhưng cuối cùng hai người cũng được tha vì vô tội[6].
Đời tư
Năm 1904, ông bắt đầu mối quan hệ lâu dài với Fernande Olivier, người phụ nữ xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm Thời kỳ Hồng của họa sĩ.[7] Thời kỳ này được gọi là Thời kỳ Hồng vì đây là thời kỳ ông toàn dùng màu hồng nhạt mềm mại để làm nền tranh cho mình, thời kỳ Hồng của ông được tồn tại trong 3 năm. Sau khi bắt đầu nổi tiếng và trở nên giàu có, Picasso đã bỏ Olivier để quan hệ với Marcelle Humbert mà ông gọi đơn giản là Eva, chủ đề của rất nhiều bức tranh theo trường phái lập thể của ông. Sau đó ông còn đi lại với nhiều người phụ nữ khác mặc dù đã có vợ và con. Picasso đã hai lần làm đám cưới và ông có bốn đứa con với ba người phụ nữ. Năm 1918, họa sĩ cưới cô Olga Khokhlova, một nữ diễn viên ba lê của đoàn ba lê Sergei Diaghilev mà Picasso đã từng nhận trang trí cho họ vở Parade ở Roma. Khokhlova đã giới thiệu Picasso với tầng lớp trên của nước Pháp trong những buổi tiệc tùng và gặp gỡ của những người giàu có ở Paris trong thập niên 1920. Hai người cũng có với nhau một đứa con, Paulo,[8] sau này trở thành một tay đua xe phóng đãng và là tài xế cho chính họa sĩ. Cuộc hôn nhân giữa Picasso và Khokhlova nhanh chóng chấm dứt, tuy vậy trên danh nghĩa hai người chỉ ly thân cho đến tận khi Khokhlova qua đời năm 1955 vì theo luật pháp Pháp, Picasso sẽ phải chia đôi tài sản cho vợ nếu chính thức ly dị. Năm 1927 Picasso gặp cô gái 17 tuổi Marie-Thérèse Walter và bắt đầu đi lại bí mật với cô. Với Marie-Thérèse, Picasso cũng có một người con gái, Maia. Marie-Thérèse luôn sống với hy vọng hão huyền rằng người họa sĩ nổi tiếng sẽ lấy cô làm vợ và cô đã treo cổ tự vẫn bốn năm sau cái chết của Picasso. Nhà nhiếp ảnh và họa sĩ Dora Maar cũng là một người tình lâu năm của Picasso, hai người đặc biệt gắn bó trong giai đoạn cuối thập niên 1930 và đầu thập niên 1940.
Sau khi Paris được giải phóng năm 1944, lúc đó ở tuổi 63, Picasso bắt đầu quan hệ với một sinh viên nghệ thuật trẻ là Françoise Gilot. Françoise và Picasso có chung với nhau hai đứa con, Claude và Paloma. Khác với những người tình khác của họa sĩ, chính Françoise là người rời bỏ Pablo năm 1953. Đây là một cú sốc với Picasso, ông nghĩ rằng mình đã già và trở nên kỳ cục trong mắt phụ nữ, Một vài tác phẩm của ông thời kỳ cuối đã khai thác đề tài này khi miêu tả một người lùn già nua gớm ghiếc đối lập với một cô gái trẻ đẹp. Tuy vậy không lâu sau người họa sĩ cũng tìm được một người tình khác, đó là Jacqueline Roque. Roque làm việc tại xưởng gốm Madoura, nơi Picasso thực hiện các tác phẩm bằng gốm của ông. Hai người duy trì mối quan hệ suốt phần đời còn lại của Picasso, họ cưới nhau năm 1961. Đám cưới này cũng là một sự trả thù của họa sĩ đối với người tình cũ Gilot. Gilot khi đó đang tìm cách hợp pháp hóa quan hệ cha con của Picasso với Claude và Paloma. Được Picasso thúc đẩy, cô đã sắp đặt việc ly dị với chồng là Luc Simon để cưới Picasso, qua đó bảo vệ quyền lợi cho con chung của hai người. Tuy nhiên Picasso đã bí mật làm đám cưới với Roque ngay sau khi Gilot hoàn thành thủ tục ly hôn, họa sĩ coi đây là sự trả thù của ông với việc Gilot đã rời bỏ mình năm 1953.
Pablo Picasso từ trần ngày 8 tháng 4 năm 1973 tại Mougins, Pháp, trong khi ông cùng bà Jacqueline đang chủ trì một buổi tiệc với bạn bè. Tác phẩm ông để lại gồm có 1800 bức tranh sơn dầu, 3 vạn bản tranh, 7000 bức ký họa phác thảo và có khá nhiều tác phẩm khó hiểu. Picasso được an táng tại công viên Vauvenargues ở Vauvenargues, Bouches-du-Rhône. Jacqueline Roque đã ngăn cản hai đứa con của ông là Claude và Paloma tham gia tang lễ cha mình[9].
Xu hướng chính trị
Picasso tỏ ra trung lập trong suốt Thế chiến thứ nhất, Nội chiến Tây Ban Nha và Thế chiến thứ hai, họa sĩ từ chối ủng hộ bất cứ bên tham chiến nào. Trong Nội chiến Tây Ban Nha, tuy thể hiện sự phẫn nộ và phản đối chế độ của tướng Francisco Franco và chủ nghĩa phát xít qua các tác phẩm của mình, Picasso không hề cầm vũ khí chống lại chế độ này.
Năm 1944, Picasso gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và tham gia một hội nghị hòa bình quốc tế tổ chức ở Ba Lan. Năm 1950, họa sĩ được nhận Giải thưởng hòa bình Stalin của chính phủ Liên Xô[10]. Năm 1962, ông được nhận một giải thưởng lớn khác của nhà nước Xô viết, đó là Giải thưởng hòa bình Lenin[11].
Tác phẩm
Các tác phẩm của Picasso thường được phân loại theo các thời kỳ khác nhau. Tuy rằng tên gọi các thời kỳ sáng tác sau này của họa sĩ còn gây nhiều tranh cãi, người ta phần lớn đều chấp nhận cách phân chia thời kỳ đầu sáng tác của Picasso thành Thời kỳ Xanh (1901–1904), Thời kỳ Hồng (1904–1906), Thời kỳ Ảnh hưởng Phi châu – điêu khắc (1908–1909), Thời kỳ Lập thể phân tích (1909–1912) và Thời kỳ Lập thể tổng hợp (1912–1919).
Trước 1901
Picasso bắt đầu tập vẽ dưới sự hướng dẫn của cha ông từ năm 1890. Sự tiến bộ trong kỹ thuật của họa sĩ có thể thấy trong bộ sưu tập các tác phẩm thời kì đầu ở Bảo tàng Museu Picasso tại Barcelona. Có thể thấy chủ nghĩa hiện thực hàn lâm trong các tác phẩm thời kì đầu này, tiêu biểu là bức The First Communion (1896). Cũng năm 1896, khi mới 14 tuổi, Picasso đã hoàn thành tác phẩm Portrait of Aunt Pepa (Chân dung dì Pepa), một bức chân dung gây ấn tượng sâu sắc đến mức Juan-Eduardo Cirlot đã đánh giá rằng “không nghi ngờ gì nữa, đây là một trong những tác phẩm lớn nhất trong lịch sử hội họa Tây Ban Nha”[12].
Năm 1897, chủ nghĩa hiện thực của Picasso bắt đầu chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, thể hiện qua một loạt các bức tranh phong cảnh sử dụng tông màu xanh lá cây và tím không tự nhiên.
Thời kỳ Xanh (1901–1904)
Trong thời kỳ này, tác phẩm của Picasso có tông màu tối hơn với màu chủ đạo là xanh thẫm, đôi khi được làm ấm hơn bởi các màu khác. Mốc bắt đầu của Thời kỳ Xanh không rõ ràng, nó có thể bắt đầu từ mùa xuân năm 1901 ở Tây Ban Nha, hoặc ở Paris nửa cuối năm đó[13]. Có lẽ cách dùng màu của họa sĩ chịu ảnh hưởng từ chuyến đi xuyên Tây Ban Nha và sự tự sát của người bạn Carlos Casagemas.
Thời kỳ Hồng (1905–1907)
Bức tranh màu phấn Autoportrait à la palette (Bức tự họa với bảng màu), mùa thu năm 1906
Các tác phẩm của Picasso trong giai đoạn này mang vẻ tươi tắn hơn với việc sử dụng nhiều màu cam và hồng. Năm 1904 tại Paris, Picasso gặp Fernande Olivier, một người mẫu cho các họa sĩ và nhà điêu khắc, rất nhiều tác phẩm của ông trong thời kỳ này chịu ảnh hưởng bởi mối quan hệ nồng ấm giữa hai người.
Thời kỳ Ảnh hưởng Phi châu (1908–1909)
Thời kỳ Ảnh hưởng Phi châu bắt đầu với tác phẩm nổi tiếng Những cô nàng ở Avignon (Les Demoiselles d’Avignon) lấy cảm hứng từ những đồ tạo tác Phi châu. Ông cho rằng mọi loại nghệ thuật phải tự học được cái hay của nhau. Ông chọn châu Phi làm cản hứng của mình bởi tính Lập thể rõ ràng của nó.
Chủ nghĩa Lập thể phân tích là phong cách vẽ mà Picasso đã phát triển cùng Georges Braque theo đó sử dụng những màu đơn sắc ngả nâu cho các tác phẩm. Các vật thể sẽ được hai họa sĩ tách thành những bộ phận riêng biệt và “phân tích” chúng theo hình dạng bộ phận này.
Đây là sự phát triển chủ nghĩa lập thể của Picasso với việc sử dụng nghệ thuật cắt dán bằng các chất liệu vải, giấy báo, giấy dán tường để mô tả đề tài tĩnh vật và nhân vật.
Chủ nghĩa cổ điển và siêu thực
Sau Thế chiến thứ nhất, Picasso bắt đầu thực hiện các tác phẩm theo trường phái tân cổ điển (neoclassicism). Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Picasso, bức Guernica đã được sáng tác trong thời kì này. Bức tranh mô tả cuộc ném bom vào Guernica của phát xít Đức trong Nội chiến Tây Ban Nha.
Giai đoạn sau
Tác phẩm điêu khắc của Picasso tại Chicago
Picasso là một trong 250 nhà điêu khắc tham gia Triểm lãm điêu khắc quốc tế lần thứ 3 tổ chức tại Bảo tàng mỹ thuật Philadelphia vào mùa hè năm 1949.
Trong thập niên 1950, họa sĩ một lần nữa thay đổi phong cách sáng tác, ông thực hiện các bức tranh dựa trên phong cách của các bậc thầy cổ điển như Diego Velázquez, Goya, Poussin, Édouard Manet, Courbet và Delacroix.
Di sản
Khi Picasso qua đời, rất nhiều tác phẩm do họa sĩ sáng tác vẫn thuộc quyền sở hữu của ông vì Picasso cảm thấy không cần thiết phải bán chúng. Thêm vào đó, ông còn có một bộ sưu tập rất giá trị các tác phẩm của những họa sĩ yêu thích như Henri Matisse. Vì Picasso không để lại di chúc, một phần bộ sưu tập này được dùng để trả thuế cho chính phủ Pháp và nó được trưng bày tại Bảo tàng Musée Picasso tại Paris. Năm 2003, những người thân của họa sĩ đã cho khánh thành một bảo tàng tại thành phố quê hương ông, Málaga, đó là Bảo tàng Museo Picasso Málaga.
Picasso có vài bức tranh nằm trong danh sách những tác phẩm nghệ thuật đắt giá nhất thế giới:
- Bức “Nude on a black armchair” – được bán với giá 45,1 triệu USD năm 1999.
- Bức Les Noces de Pierrette – được bán với giá hơn 51 triệu USD năm 1999.
- Bức Garçon à la pipe – được bán với giá 104 triệu USD tại nhà đấu giá Sotheby’s ngày 4 tháng 5 năm 2004 đã lập kỉ lục thế giới về giá cho một tác phẩm nghệ thuật.
- Bức Dora Maar au Chat – được bán với giá 95,2 triệu USD tại nhà đấu giá Sotheby’s ngày 3 tháng 5 năm 2006[14].
Tham khảo
- ^ Tiểu sử Picasso
- ^ [1]
- ^ Hamilton, George H. (1976). “Picasso, Pablo Ruiz Y”. Trong William D. Halsey. Collier’s Encyclopedia 19. New York: Macmillan Educational Corporation. tr. 25–26.
- ^ Patrick O’Brian, Picasso: A Biography, W. W. Norton, New York, 1994, ISBN 0-393-31107-4
- ^ Robert Hughes, Anatomy of a Minotaur, Time Magazine
- ^ Time Magazine, STEALING THE MONA LISA, 1911
- ^ “Picasso: Creator and Destroyer – 88.06”. Theatlantic.com. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2009.
- ^ “Paul (Paolo) Picasso is born”. Xtimeline.com. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2012.
- ^ William D. Zabel, Rich Die Richer and You Can, John Wiley and Sons, 1996, ISBN 0-471-15532-2
- ^ Picasso’s Party Line, ARTnews
- ^ Yearbook of the Great Soviet Encyclopedia, Moscow: Sovetskaya Enciklopediya, 1963
- ^ Cirlot, 1972, p.37
- ^ Cirlot, 1972, p.127
- ^ Picasso portrait sells for $95.2 million
Liên kết ngoài
|