Thể loại:
Lich Vạn Niên ngày 7 tháng 9 năm 2015
Tháng 9 Năm 2015
Thứ hai
Một phút suy nghĩ những gì ta đã học để mở rộng tâm hồn của ta còn hơn là học nhiều mà không suy nghĩ.Lambert
Năm Ất Mùi
Tháng Giáp Thân
Ngày Bính Tuất
Giờ Kỷ Hợi
21:18:56
Giờ Hoàng Đạo
Canh Dần (3h-5h)
Nhâm Thìn (7h-9h)
Tháng Bảy (Đ)
25
Qúy Tỵ (9h-11h)
Bính Thân (15h-17h)
Ngày Hoàng đạo
Mệnh ngày:
Thổ – Ốc thượng thổ
(Ðất trên mái nhà)
Tiết khí
Giữa: Xử thử (Mưa ngâu) – Bạch lộ (Nắng nhạt)
đinh Dậu (17h-19h)
Kỷ Hợi (21h-23h)
|
|
Thứ hai, Ngày 7 Tháng 9 Năm 2015
|
|
|
Âm lịch: Ngày 25 Tháng 7 Năm 2015 Ngày Julius: 2457273 |
Bát tự: Giờ Mậu Tí, ngày Bính Tuất, tháng Giáp Thân, năm ất Mùi |
|
0:00 |
Giờ: Mậu Tí |
Ngày Hoàng đạo |
Sao: Tư Mệnh |
Giờ Hoàng đạo |
Canh Dần, Nhâm Thìn, Qúy Tỵ, Bính Thân, đinh Dậu, Kỷ Hợi |
Giờ Hắc đạo |
Mậu Tí, Kỷ Sửu, Tân Mão, Giáp Ngọ, ất Mùi, Mậu Tuất |
Năm |
Kim |
Sa trung kim |
Mùa: Mùa thu |
Vượng: Kim
Khắc: Hỏa |
Trọng |
Ngày |
Thổ |
Ốc thượng thổ |
Ðất trên mái nhà |
Tuổi xung |
Mậu Thìn, Nhâm Thìn, Nhâm Ngọ, Nhâm Tý |
Tiết khí |
Giữa: Xử thử (Mưa ngâu) – Bạch lộ (Nắng nhạt) |
Sao |
Tâm |
|
Ngũ hành |
Thái âm |
|
Động vật |
Hồ |
|
Trực |
Mãn |
– Tốt cho các việc xuất hành, sửa kho, dựng nhà, mở tiệm.
– Xấu cho các việc chôn cất, thưa kiện, xuất vốn, nhậm chức. |
Xuất hành |
Hỷ thần |
Tây Nam |
Tài thần |
chính Đông |
Kê thần |
Tây Bắc |
Cát tinh |
Tốt |
Kỵ |
Thiên phú |
Tốt mọi việc, nhất là xây dựng nhà cửa, khai trương và an táng |
|
Thiên Quan |
Tốt mọi việc |
|
Nguyệt Không |
Tốt cho việc làm nhà, làm gường |
|
Lộc khố |
Tốt cho việc cầu tài, khai trương, giao dịch |
|
Kính Tâm |
Tốt đối với tang lễ |
|
Sát tinh |
Kỵ |
Ghi chú |
Thổ ôn (thiên cẩu) |
Kỵ xây dựng, đào ao, đào giếng, xấu về tế tự |
|
Thiên tặc |
Xấu đối với khởi tạo, động thổ, nhập trạch, khai trương |
|
Quả tú |
Xấu với giá thú |
|
Tam tang |
Kỵ khởi tạo, giá thú, an táng |
|
Ly sàng |
Kỵ giá thú |
|
Quỷ khốc |
Xấu với tế tự, mai táng |
|
Mặt trời |
Giờ mọc |
Giờ lặn |
Hà Nội |
05:44 |
18:05 |
TP.Hồ Chí Minh |
05:45 |
17:57 |
|
Thiên Lao |
Hắc đạo |
|
1:00 |
Giờ: Kỷ Sửu |
NGuyên Vũ |
Hắc đạo |
|
3:00 |
Giờ: Canh Dần |
Tư Mệnh |
Hoàng đạo |
|
5:00 |
Giờ: Tân Mão |
Câu Trận |
Hắc đạo |
|
7:00 |
Giờ: Nhâm Thìn |
Thanh Long |
Hoàng đạo |
|
9:00 |
Giờ: Qúy Tỵ |
Minh Đường |
Hoàng đạo |
|
11:00 |
Giờ: Giáp Ngọ |
Thiên Hình |
Hắc đạo |
|
13:00 |
Giờ: ất Mùi |
Chu Tước |
Hắc đạo |
|
15:00 |
Giờ: Bính Thân |
Kinh Quỹ |
Hoàng đạo |
|
17:00 |
Giờ: đinh Dậu |
Kim Được |
Hoàng đạo |
|
19:00 |
Giờ: Mậu Tuất |
Bạch Hổ |
Hắc đạo |
|
21:00 |
Giờ: Kỷ Hợi |
Ngọc Đường |
Hoàng đạo |
|
23:00 |
Giờ: Mậu Tí |
Thiên Lao |
Hắc đạo |
|
|
Lịch vạn niên 2015, ngày 25 tháng 7, năm 2015 – Âm lịch
Xem ngày giờ tốt và hướng xuất hành
Trong một tháng có 2 loại ngày tốt, ngày xấu; trong một ngày lại có 6 giờ tốt, 6 giờ xấu gọi chung là Ngày/giờ Hoàng đạo (tốt) và Ngày/giờ Hắc đạo (xấu). Người Việt Nam từ xưa đều có phong tục chọn ngày tốt và giờ tốt để làm những việc lớn như cưới hỏi, khởi công làm nhà, nhập trạch, ký kết, kinh doanh v.v.v.
Ngày 25 tháng 7, năm 2015 là ngày Hoàng đạo , các giờ tốt trong ngày này là: Canh Dần, Nhâm Thìn, Qúy Tỵ, Bính Thân, đinh Dậu, Kỷ Hợi
Trong ngày này, các tuổi xung khắc nên cẩn thận trong chuyện đi lại, xuất hành, nói chuyện và làm các việc đại sự là: Mậu Thìn, Nhâm Thìn, Nhâm Ngọ, Nhâm Tý
Xuất hành hướng Đông Bắc gặp Hỷ thần: niềm vui, may mắn, thuận lợi. Xuất hành hướng Nam gặp Tài thần: tài lộc, tiền của, giao dịch thuận lợi.
Xem sao tốt và việc nên làm và nên kiêng
Trong Lịch vạn niên, có 12 trực được sắp xếp theo tuần hoàn phân bổ vào từng ngày. Mỗi trực có tính chất riêng, tốt/xấu tùy từng công việc. Ngày 25 tháng 7, năm 2015 là Trực Mãn: Tốt cho các việc xuất hành, sửa kho, dựng nhà, mở tiệm. Xấu cho các việc chôn cất, thưa kiện, xuất vốn, nhậm chức.
Mỗi ngày đều có nhiều sao Tốt (Cát tinh) và sao Xấu (Hung tinh). Các sao Đại cát (rất tốt cho mọi việc) như Thiên đức, Nguyệt đức, Thiên ân, Nguyệt ân. Có những sao Đại hung (rất xấu cho mọi việc) như Kiếp sát, Trùng tang, Thiên cương. Cũng có những sao xấu tùy mọi việc như Cô thần, Quả tú, Nguyệt hư, Không phòng, Xích khẩu… – xấu cho hôn thú, cưới hỏi, đám hỏi nói chung cần tránh. Hoặc ngày có Thiên hỏa, Nguyệt phá, Địa phá… xấu cho khởi công xây dựng, động thổ, sửa chữa nhà cửa nói chung cần tránh.
Khi tính làm việc đại sự, cần kiểm tra ngày Hoàng Đạo, Hắc Đạo. Xem công việc cụ thể nào, để tránh những sao xấu. Chọn các giờ Hoàng đạo để thực hiện (hoặc làm tượng trưng lấy giờ)
|
Brasil
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Brasil (tiếng Bồ Đào Nha: Brasil, phiên âm tiếng Việt: Bra-xin), tên gọi chính thức là Cộng hòa Liên bang Brasil (tiếng Bồ Đào Nha: República Federativa do Brasil), là quốc gia lớn nhất Nam Mỹ. Brasil là quốc gia lớn thứ năm trên thế giới về diện tích lẫn dân số với hơn 190 triệu người.[3] Brasil là quốc gia nói tiếng Bồ Đào Nha duy nhất ở châu Mỹ và lớn nhất trên thế giới.
Nước này tiếp giáp với 11 quốc gia và vùng lãnh thổ Nam Mỹ: giáp với Venezuela, Guyana, Suriname và Guyane thuộc Pháp về phía bắc, Colombia về phía tây bắc, Bolivia và Peru về phía tây, Argentina và Paraguay về phía tây nam và Uruguay về phía nam. phía đông Brasil là một đường bờ biển dài 7.491 km tiếp giáp với Đại Tây Dương. Lãnh thổ Brasil bao gồm nhiều quần đảo như Fernando de Noronha, Rocas Atoll, Saint Peter và Paul Rocks, và Trindade và Martim Vaz.[4] Brasil tiếp giáp với tất cả các nước ở Nam Mỹ khác trừ Ecuador và Chile.[4]
Brasil là thuộc địa của Bồ Đào Nha từ khi Pedro Álvares Cabral đặt chân đến năm 1500 cho đến năm 1815 khi nước này được nâng lên cho Vương quốc Anh với Bồ Đào Nha và Algarves. Liên kết thuộc địa tan vỡ năm 1808 khi thủ đô của Vương quốc Bồ Đào Nha được chuyển từ Lisbon đến Rio de Janeiro sau khi Napoleon xâm lược Bồ Đào Nha.[5] Brasil giành được độc lập từ Bồ Đào Nha vào năm 1822. Đầu tiên là Đế quốc Brasil, sau đó trở thành một nước cộng hòa vào năm 1889 mặc dù nền lập pháp lưỡng viện, bây giờ là Quốc hội, có từ năm 1824, khi hiến pháp đầu tiên được thông qua.[5] Hiến pháp hiện nay xác lập Brazil là một nước cộng hòa liên bang.[6] Liên bang được hình thành bởi liên hiệp của Quận liên bang, 26 bang và 5.564 khu tự quản.[6][7]
Kinh tế Brasil là nền kinh tế lớn thứ tám trên thế giới dựa trên GDP danh nghĩa[8] và thứ bảy dựa trên GDP sức mua tương đương.[9] Đây là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Cải cách kinh tế đã đem lại cho đất nước sự công nhận mới của quốc tế.[10] Brasil là thành viên sáng lập của Liên Hiệp Quốc, G20, CPLP, Liên minh Latin, Tổ chức các bang Ibero-Mỹ, Mercosul và Liên minh các quốc gia Nam Mỹ và là một trong bốn nước BRIC. Brasil cũng là quê hương của môi trường tự nhiên và hoang dã phong phú và nhiều tài nguyên tự nhiên ở các khu được bảo tồn.[4]
Lịch sử
-
Thời kỳ Tiền Colombo
Thổ dân Brasil – tranh của Jean-Baptiste Debret
Những hóa thạch được tìm thấy tại Brasil là bằng chứng về việc con người đã đến định cư tại vùng đất này ít nhất 8000 năm về trước. Tuy nhiên câu hỏi về việc ai là người đầu tiên đến Brasil vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi. Nhìn chung các nhà khảo cổ học cho rằng đó là những thợ săn người châu Á di cư qua eo biển Bering qua Alaska, xuống châu Mỹ rồi đến Brasil. Tuy nhiên một số nhà khảo cổ khác lại cho rằng những cư dân cổ hơn tại Brasil có nguồn gốc gần với người châu Úc và châu Phi bản địa.[11]
Trong khi người da đỏ phía tây dãy núi Andes phát triển những quốc gia thành thị có nền văn hóa cao, tiêu biểu như Đế chế Inca ở Peru thì người da đỏ ở Brasil lại sống theo hình thức bán du mục gồm săn bắn, đánh bắt cá và trồng trọt. Họ không có chữ viết hay xây dựng những công trình kiến trúc quy mô cho nên việc tìm hiểu về họ rất khó khăn, chủ yếu là qua đồ gốm. Khi người châu Âu tìm ra Brasil, mật độ thổ dân ở Brasil rất thấp, dân số chỉ khoảng 1 triệu người. Ngày nay, thổ dân da đỏ ở Brasil một phần bị lai với các chủng tộc khác hoặc sống nguyên thủy trong những rừng Amazon.
Thuộc địa Brasil
Một tấm bản đồ Brasil của những nhà thám hiểm Bồ Đào Nha năm 1519
|
Brasil được khám phá bởi nhà thám hiểm Pedro Álvares Cabral người Bồ Đào Nha vào ngày 22 tháng 4 năm 1500.
Thời gian đầu, người Bồ Đào Nha không mấy mặn mà với Brasil mà tập trung nhiều hơn vào các hoạt động thương mại với Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia. Với nguồn tài nguyên và đất đai chưa khai phá hết sức lớn, nhiều nước châu Âu khác như Pháp và Hà Lan cũng muốn lập thuộc địa tại Brasil song cuối cùng đều thất bại trước người Bồ Đào Nha.
Tên gọi Brasil bắt nguồn từ tên một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của vùng đất này: cây vang (trong tiếng Bồ Đào Nha là Pau-Brasil), một loại cây cung cấp nhựa để làm phẩm nhuộm màu đỏ. Sang thế kỉ 17, mía đường dần thay thế cây vang để trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Brasil. Các quý tộc và chủ đất người Bồ Đào Nha đã lập ra các đồn điền trồng mía rộng lớn và bắt hàng triệu người da đen từ châu Phi sang làm nô lệ làm việc trên các đồn điền này. Người da đen bị đối xử rất khắc nghiệt nên họ đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh, mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa năm 1835 tại Salvador, Bahia [12] song thường không thành công.
Đế chế Brasil
Hoàng đế Pedro II của Brasil
Vào năm 1808, để chạy trốn khỏi quân đội Napoléon, hoàng gia Bồ Đào Nha cùng chính phủ đã di cư đến thủ đô lúc bấy giờ của Brasil là Rio de Janeiro. Đây là sự di cư xuyên lục địa của một hoàng tộc duy nhất trong lịch sử. Năm 1815, vua João VI (John IV) của Bồ Đào Nha tuyên bố Brasil là một vương quốc hợp nhất với Bồ Đào Nha và Algarve (nay là miền nam Bồ Đào Nha). Từ đó, về mặt danh nghĩa thì Brasil không còn là một thuộc địa nữa nhưng quyền nhiếp chính thì vẫn nằm trong tay của Bồ Đào Nha. Khi João VI trở về Bồ Đào Nha vào năm 1821, con trai ông là Pedro lên nối ngôi vua Brasil. Ngày 7 tháng 9 năm 1822, trước phong trào đấu tranh của người dân, Pedro đã tuyên bố Brasil ly khai khỏi Bồ Đào Nha (“Độc lập hay là Chết”) và thành lập Đế chế Brasil độc lập. Vua Pedro tự phong danh hiệu Hoàng đế Pedro I của Brasil và thường được biết đến với tên gọi Dom Predo.
Hoàng đế Pedro I trở về Bồ Đào Nha vào năm 1831 do những bất đồng với các chính trị gia Brasil. Con trai ông là vua Pedro II lên ngôi năm 1840 khi mới 14 tuổi sau 9 năm chế độ nhiếp chính. Pedro II đã xây dựng một chế độ quân chủ gần giống nghị viện kéo dài đến năm 1889 khi ông bị phế truất trong một cuộc đảo chính để thành lập nước cộng hòa. Trước khi kết thúc thời gian cai trị của mình, vua Pedro II đã xóa bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ tại Brasil vào năm 1888. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến ông bị giới chủ nô căm ghét và loại bỏ khỏi ngai vàng.
Nền Cộng hòa cũ (1889-1930)
Pedro II bị phế truất vào ngày 15 tháng 11 năm 1889 trong một cuộc đảo chính quân sự của những người cộng hòa. Tướng Deodero de Fonseca, người lãnh đạo cuộc đảo chính đã trở thành tổng thống trên thực tế đầu tiên của Brasil. Tên của đất nước được đổi thành Cộng hòa Hợp chúng quốc Brasil (đến năm 1967 thì đổi lại thành Cộng hòa Liên bang Brasil như ngày nay). Trong khoảng thời gian từ năm 1889 đến năm 1930, Brasil là một quốc gia với chính phủ theo thể chế dân chủ lập hiến, với chức tổng thống luân phiên giữa hai bang lớn là Sao Paulo và Minas Gerais.
Đến cuối thế kỉ 19, cà phê đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Brasil thay cho đường mía. Việc buôn bán cà phê với nước ngoài đã làm nên sự thịnh vượng của Brasil về mặt kinh tế, đồng thời cũng thu hút một số lượng đáng kể người nhập cư đến từ các quốc gia châu Âu, chủ yếu là Italia và Đức. Dân số tăng lên cùng với nguồn nhân công dồi dào đã cho phép đất nước Brasil phát triển các ngành công nghiệp và mở rộng lãnh thổ vào sâu hơn trong lục địa.
Thời kỳ này, với tên gọi là “Nền Cộng hòa cũ” kết thúc vào năm 1930 do một cuộc đảo chính quân sự mà sau đó Getulio Vargas lên chức tổng thống.
Chủ nghĩa dân túy và sự phát triển (1930-1964)
Getulio Vargas lên nắm quyền sau cuộc đảo chính của giới quân sự năm 1930. Ông đã cai trị Brasil như một nhà độc tài với những thời kỳ dân chủ xen kẽ. Sau năm 1930, chính phủ Brasil vẫn tiếp tục thành công trong các dự án phát triển nông nghiệp, công nghiệp và mở mang vùng lãnh thổ nội địa rộng lớn của Brasil.
Tổng thống Getulio Vargas đã cai trị như một nhà độc tài trong hai nhiệm kỳ 1930-1934 và 1937-1945. Ông tiếp tục được bầu làm tổng thống Brasil trong khoảng thời gian 1951-1954. Getulio Vargas đã có những ý tưởng mới về nền chính trị của Brasil để thúc đầy hơn nữa sự phát triển đất nước. Ông hiểu rằng trong bối cảnh nền công nghiệp đang phát triển mạnh tại Brasil lúc bấy giờ, những người công nhân sẽ trở thành một thế lực chính trị đông đảo tại đây, kèm theo một hình thức quyền lực chính trị mới – chủ nghĩa dân túy. Nắm bắt được điều đó, tổng thống Vargas đã kiểm soát nền chính trị của Brasil một cách tương đối ổn định trong vòng 15 năm đến khi ông tự tử vào năm 1954.
Sau hai giai đoạn độc tài dưới thời tổng thống Getulio Vargas, nhìn chung chế độ dân chủ đã chiếm ưu thế tại Brasil trong khoảng thời gian 1945-1964. Một trong những sự kiện quan trọng diễn ra trong thời kỳ này là thủ đô của Brasil được chuyển từ thành phố Rio de Janeiro sang thành phố Brasilia.
Chế độ độc tài quân sự (1964-1985)
Những khủng hoảng về mặt kinh tế, xã hội đã dẫn tới cuộc đảo chính của giới quân sự vào năm 1964. Cuộc đảo chính đã nhận được sự giúp đỡ một số chính trị gia quan trọng, ví dụ như José de Magalhães Pinto, thống đốc bang Minas Gerais và nhận được sự hậu thuẫn của chính phủ Mỹ. Sau cuộc đảo chính, một giai đoạn độc tài quân sự được thiết lập tại Brasil trong vòng 21 năm với việc quân đội kiểm soát toàn bộ nền chính trị của đất nước. Trong những năm đầu tiên sau đảo chính, kinh tế Brasil vẫn tiếp tục tăng trưởng nhanh do các chính sách cải cách kinh tế được ban hành. Nhưng sau đó, những cải cách này đã không phát huy được tác dụng và khiến nền kinh tế Brasil lâm vào tình trạng khó khăn. Nợ nước ngoài tăng lên nhanh chóng trong khi hàng ngàn người Brasil bị chính phủ độc tài quân sự trục xuất, bắt giữ, tra tấn và thậm chí bị giết hại.
Brasil từ năm 1985 đến nay
Năm 1985, Brasil bắt đầu quay trở lại tiến trình dân chủ. Tancredo Neves được bầu làm tổng thống nhưng ông đã qua đời trước khi tuyên thệ nhậm chức, phó tổng thống Jose Sarney được cử lên thay thế. Vào tháng 12 năm 1989, Fernando Collor de Mello được bầu làm tổng thống và ông đã dành những năm đầu tiên của nhiệm kỳ để khắc phục tình trạng siêu lạm phát của Brasil, lúc bấy giờ đã đạt mức 25% mỗi tháng. Những tổng thống kế nhiệm ông đã tiếp tục duy trì các chính sách kinh tế mở như tự do thương mại và tiến hành tư nhân hóa các xí nghiệp của nhà nước[13].
Tháng 1 năm 1995, Fernando Henrique Cardoso nhậm chức tổng thống Brasil sau khi đánh bại ứng cử viên cánh tả Lula da Silva. Ông đã có những kế hoạch cải cách kinh tế hiệu quả và đưa Brasil vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998. Năm 2000, tổng thống Condor đã yêu cầu phải công khai những tài liệu về mạng lưới các chế độ độc tài quân sự tại Nam Mỹ.
Ngày nay, một trong những vấn đề khó khăn nhất của đất nước Brasil là sự bất bình đẳng trong thu nhập cũng như nhiều vấn đề xã hội nhức nhối khác. Vào thập niên 1990, vẫn còn khoảng một phần tư dân số Brasil sống dưới mức 1 đô la Mỹ một ngày. Những căng thẳng về xã hội và kinh tế này đã giúp ứng cử viên cánh tả Lula de Silva thắng cử tổng thống vào năm 2002. Sau khi nhậm chức, các chính sách kinh tế dưới thời tổng thống Cardoso vẫn được duy trì[14]. Mặc dù có một vài tai tiếng trong chính phủ song nhiều chính sách xóa đói giảm nghèo của tổng thống Silva đã thu được thành công nhất định. Ông đã nâng mức lương tối thiểu từ 200 real lên 350 real trong vòng 4 năm, xây dựng chương trình Fome Zero (Không có người đói) để giải quyết nạn đói trong tầng lớp người nghèo tại Brasil. Những chính sách nhằm giảm tỉ lệ thất nghiệp và sự phụ thuộc vào dầu lửa cũng đã mang lại hiệu quả tích cực.
Chính trị
-
Chính phủ
Theo hiến pháp, Brasil là một quốc gia theo thể chế cộng hòa liên bang, được tạo lập dựa trên 4 thực thể chính trị là Liên bang, bang, các chính quyền thành phố tự trị và quận liên bang[15]. Không có sự phân cấp cụ thể nào về quyền lực giữa các thực thể chính trị này. Chính quyền Brasil được chia thành các nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoạt động của các nhánh này diễn ra độc lập với nhau và đồng thời được kiểm tra và điều chỉnh cân bằng sao cho thích hợp. Nhánh hành pháp và lập pháp được tổ chức ở cả 4 thực thể chính trị, trong khi nhánh tư pháp chỉ được tổ chức ở cấp Liên bang và bang.
Nhánh hành pháp được thực thi bởi chính phủ, trong khi nhánh lập pháp được thực thi bởi cả chính phủ và hai viện của quốc hội Brasil. Nhánh tư pháp hoạt động riêng rẽ với hai nhánh trên. Về nhánh hành pháp, người đứng đầu nhà nước là tổng thống Brasil có nhiệm kỳ 4 năm và được phép nắm tối đa 2 nhiệm kỳ. Đương kim tổng thống hiện nay của nước này là bà Dilma Rousseff, đắc cử tháng 10 năm 2010. Tổng thống có quyền chỉ định thủ tướng liên bang, có vai trò hỗ trợ cho tổng thống trong việc điều hành đất nước. Về nhánh lập pháp, Quốc hội của Brasil được chia làm 2 viện: thượng viện và hạ viện. Thượng viện Liên bang Brasil gồm có 81 ghế, phân bố đều mỗi 3 ghế cho 26 bang và quận liên bang (thủ đô) và có nhiệm kỳ 8 năm. Hạ viện có tổng cộng 513 ghế, được bầu cử theo nhiệm kỳ 4 năm và phân bố theo tỉ lệ bang.
Một trong những nguyên tắc chính trị của nền cộng hòa là hệ thống đa đảng, như một sự đảm bảo về tự do chính trị. Hiện nay có tổng cộng 15 đảng chính trị lớn nhỏ có ghế trong Quốc hội Brasil. Bốn đảng lớn nhất hiện nay là Đảng Công nhân Brasil (PT), Đảng Dân chủ Xã hội Brasil (PSDB), Đảng Vận động Dân chủ Brasil (PMDB) và Đảng Dân chủ (tiền thân là Đảng Mặt trận Tự do – PFL).
Luật pháp
Luật pháp của Brasil dựa trên luật La Mã – Germania truyền thống[16]. Hiến pháp Liên bang, được thông qua vào ngày 5 tháng 10 năm 1988 là bộ luật cơ bản nhất của Brasil. Tất cả những quyết định của nhánh lập pháp và tòa án đều phải dựa trên Hiến pháp Brasil. Các bang của Brasil đều có hiến pháp riêng của bang mình, nhưng không được trái với Hiến pháp Liên bang. Các chính quyền thành phố và quận liên bang không có hiến pháp riêng mà có bộ luật của riêng mình, gọi là luật cơ bản (leis orgânicas).
Quyền lực pháp lý được thực thi bởi nhánh tư pháp, mặc dù trong một số trường hợp đặc biệt Hiến pháp Brasil cũng cho phép Thượng viện Liên bang thông qua những quyết định về mặt luật pháp. Cơ quan quyền lực cao nhất trong ngành tư pháp của Brasil là Tòa án Liên bang Tối cao. Tuy nhiên hệ thống tư pháp của Brasil bị chỉ trích làm việc kém hiệu quả trong vài thập kỉ qua trong việc thực hiện nốt các bước cuối của việc xét xử. Các vụ kiện cáo thường mất tới vài năm để giải quyết và đi đến phán quyết cuối cùng[17].
Quan hệ ngoại giao và quân đội
Lực lượng gìn giữ hòa bình Brasil đi làm nhiệm vụ tại
Haiti
Brasil là quốc gia dẫn đầu khu vực Mỹ Latinh về chính trị và kinh tế[18]. Tuy nhiên, những bất ổn về kinh tế và xã hội trong lòng Brasil đã ngăn cản nước này tiến lên và trở thành một cường quốc có ảnh hưởng lớn trên thế giới. Trong suốt giai đoạn từ sau Thế chiến thứ hai đến thập niên 1990, các chính phủ Brasil đều tìm cách mở rộng ảnh hưởng của nước này ra tầm quốc tế bằng cách tập trung phát triển kinh tế và có một chính sách ngoại giao độc lập. Những năm gần đây, Brasil ngày càng tăng cường quan hệ với các nước Mỹ Latinh láng giềng, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong các sứ mệnh của Liên Hiệp Quốc. Chính sách ngoại giao của Brasil là có quan điểm hòa bình trong các vấn đề tranh chấp quốc tế và không can thiệp vào tình hình nước khác.
Brasil là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới và Khối Thị trường chung Nam Mỹ (Mercosur)…
Brasil thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 8 tháng 5 năm 1989[19].
Quân đội Brasil bao gồm 3 bộ phận chính là lục quân, hải quân và không quân. Lực lượng cảnh sát được coi là một nhánh của quân đội trong hiến pháp nhưng nằm dưới sự chỉ huy của mỗi bang. Brasil là quốc gia có lực lượng quân đội lớn nhất Mỹ Latinh, với tổng quân số là 287.000 quân nhân vào năm 2006. Tổng thống Brasil cũng là tổng chỉ huy quân đội của nước này. Chi phí cho quân sự của Brasil năm 2006 ước tính đạt khoảng 2,6% GDP. Brasil có chế độ nghĩa vụ quân sự dành cho nam giới tuổi từ 21-45, kéo dài trong khoảng 9 đến 12 tháng, còn tự nguyện thì tuổi từ 17-45. Tuy nhiên, với một nước có dân số lớn như Brasil thì đa phần nam giới nước này không phải gọi nhập ngũ. Brasil là nước đầu tiên tại Nam Mỹ chấp nhận phụ nữ phục vụ trong quân ngũ vào thập niên 1980[20]. Vai trò chủ yếu của quân đội Brasil là bảo vệ chủ quyền quốc gia và tham gia vào các chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tại nước ngoài.
Phân chia hành chính
-
-
Các vùng
1 • Vùng Trung Tây
2 • Vùng Đông Bắc
3 • Vùng Bắc
4 • Vùng Đông Nam
5 • Vùng Nam
Bản đồ các bang của Brasil
Lãnh thổ Brasil được chia thành năm vùng riêng biệt: Bắc, Đông Bắc, Trung Tây, Đông Nam và Nam.
- Vùng Bắc chiếm 45,27% lãnh thổ Brasil nhưng lại là vùng có số lượng dân cư thấp nhất. Vùng Bắc có mức độ công nghiệp hóa và phát triển thấp (ngoại trừ Manaus, là nơi có một khu công nghiệp miễn thuế). Đây là nơi có nhiều rừng mưa nhiệt đới xanh tốt và nơi cư trú của một số lượng lớn người da đỏ.
- Vùng Đông Bắc chiếm một phần ba dân số Brasil. Vùng này có nền văn hóa đa dạng, bao gồm những ảnh hưởng văn hóa thời thuộc địa Bồ Đào Nha, văn hóa châu Phi và văn hóa thổ dân da đỏ. Đây cũng là vùng nghèo nhất Brasil. Vùng Đông Bắc có mùa khô kéo dài và nhiều bãi biển đẹp nổi tiếng.
- Vùng Trung Tây là vùng có diện tích lớn thứ hai tại Brasil, nhưng mật độ dân số lại thấp. Thủ đô của Brasil – thành phố Brasília, thuộc vùng này. Đây là nơi có đầm lầy Pantanal lớn nhất thế giới và một phần của rừng mưa Amazon nằm ở phía tây bắc. Về khí hậu, vùng này có hai mùa riêng biệt: mùa mưa (từ tháng 10 tới tháng 4) và mùa khô (từ tháng 5 tới tháng 9). Đây cũng là vùng nông nghiệp quan trọng nhất đất nước. Các thành phố lớn nhất là: Brasilia, Goiania, Campo Grande và Cuiaba.
- Vùng Đông Nam là vùng giàu có tài nguyên và đông dân nhất nước. Riêng dân số vùng này đã lớn hơn dân số của bất kỳ một nước Nam Mỹ nào khác. Đây là nơi có hai thành phố lớn nhất của Brasil: Rio de Janeiro và Sao Paulo. Cảnh quan vùng này khá đa dạng, với trung tâm thương mại chủ yếu của đất nước là São Paulo, thành phố lịch sử Minas Gerais và bãi biển Rio de Janeiro nổi tiếng.
Các bang
Brasil được tổ chức theo hình thức liên bang. Các bang của Brasil (estado) có quyền tự tổ chức chính phủ, pháp luật, duy trì an ninh công cộng và thu thuế. Chính phủ bang do một thống đốc bang (governador) đứng đầu, được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu. Ngoài ra còn có một cơ quan lập pháp riêng của bang (assembléia legislativa).
Brasil gồm 26 bang và 1 quận liên bang (distrito federal), tổng cộng là 27 đơn vị liên bang. Quận liên bang của Brasil bao gồm thủ đô của nước này, Brasilia.
Mỗi bang lại được chia thành nhiều hạt (municípios) với hội đồng lập pháp (câmara de vereadores) và một thị trưởng (prefeito) riêng. Các hạt này có quyền tự trị và về mặt hệ thống là độc lập với cả liên bang và chính phủ bang. Một hạt có thể gồm các thị trấn (distritos) khác bên cạnh khu vực, tuy nhiên các khu đô thị tự trị này không có chính phủ riêng biệt.
Tòa án được tổ chức ở mức liên bang và bang bên trong các quận được gọi là comarca. Một comarca có thể gồm nhiều khu đô thị tự trị.
Địa lý
-
Lãnh thổ và địa hình
Ảnh chụp rừng Amazon từ vệ tinh
Brasil là một quốc gia rộng lớn. Tổng diện tích của nước này là 8.514.876,599 km²,[21] chiếm tới một nửa diện tích lục địa Nam Mỹ. Lãnh thổ Brasil tiếp giáp với các quốc gia và vùng lãnh thổ là Argentina, Bolivia, Colombia, Guiana thuộc Pháp, Guyana, Paraguay, Peru, Suriname, Uruguay và Venezuela. Brasil có quốc gia có diện tích lớn thứ năm trên thế giới, chỉ đứng sau Nga, Canada, Mỹ và Trung Quốc. Lãnh thổ nước này trải dài trên 4 múi giờ khác nhau. Brasil còn có một đường bờ biển dài 7367 km tiếp giáp với Đại Tây Dương.
Về địa hình, Brasil là một trong những nước có nhiều hệ thống sông lớn nhất trên thế giới. Nước này có tổng cộng 8 bồn địa lớn, nước của các con sông đi qua các bồn địa này để thoát ra Đại Tây Dương. Sông Amazon là con sông lớn nhất thế giới tính theo dung lượng nước và đồng thời là con sông dài thứ hai trên thế giới. Lưu vực sông Amazon rộng lớn và màu mỡ đã tạo điều kiện cho những cánh rừng mưa nhiệt đới hùng vĩ phát triển cùng với một hệ thống sinh vật phong phú. Ngoài ra còn phải kể đến hệ thống sông Parana và phụ lưu của nó, sông Iguacu, nơi có thác nước Iguacu nổi tiếng. Bên cạnh đó còn có các sông Negro, Sao Francisco, Xingu, Madeira và Tapajos. Một số hòn đảo và đảo san hô trên Đại Tây Dương cũng thuộc chủ quyền của Brasil.
Địa hình của Brasil phân bố rất đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên nhìn chung ta có thể chia địa hình của Brasil ra làm hai vùng chính. Phần lớn lãnh thổ ở phía bắc của Brasil là những vùng đất thấp được che phủ bởi rừng Amazon. Trong khi đó, phía nam của nước này có địa hình chủ yếu lại là đồi và những vùng núi thấp. Vùng bờ biển giáp Đại Tây Dương có nhiều dãy núi cao, có độ cao so với mặt nước biển là 2900 m. Đỉnh núi cao nhất Brasil là đỉnh Pico da Neblina, cao 3.014 m thuộc cao nguyên Guiana.
Khí hậu
Bão Catarina, đổ bộ vào Brasil tháng 3 năm 2004
Phần lớn diện tích Brasil nằm trong khoảng từ xích đạo cho đến đường chí tuyến nam. Mặc dù 90% lãnh thổ Brasil nằm trong vùng nhiệt đới nhưng giữa vùng này với vùng khác trên đất nước vẫn có những sự khác biệt khá lớn về khí hậu. Từ bắc xuống nam, khí hậu Brasil chuyển dần từ khí hậu nhiệt đới (giữa chí tuyến nam và xích đạo) cho đến khí hậu cận nhiệt tương đối ôn hòa (nằm dưới chí tuyến nam). Brasil có tổng cộng năm dạng khí hậu khác nhau: xích đạo, nhiệt đới, nhiệt đới khô, núi cao và cận nhiệt đới.
Nhiệt độ trung bình năm quanh đường xích đạo khá cao, trung bình đạt khoảng 25 °C[22]. Tuy nhiên trong những ngày nóng bức nhất của mùa hạ, nhiệt độ tại một số vùng của Brasil có thể lên tới 40 °C[23]. Miền nam Brasil có khí hậu tương đối cận nhiệt đới và có thể có sương giá về mùa đông. Tuyết rơi có thể xảy ra ở những vùng núi cao như Rio Grande do Sul hay Santa Catarina. Lượng mưa tại Brasil nhìn chung tương đối cao, khoảng 1000 đến 1500 mm mỗi năm. Mưa tập trung nhiều hơn tại vùng lòng chảo Amazon nóng ẩm ở phía bắc, nơi lượng mưa có thể lên đến 2000 mm mỗi năm hoặc thậm chí cao hơn. Tuy có một lượng mưa hàng năm lớn như vậy song khu vực này cũng có mùa khô, kéo dài từ 3 tháng đến 5 tháng tùy theo vĩ độ.
Do nằm tại Nam bán cầu nên thời gian các mùa trong năm tại Brasil ngược lại so với các nước Bắc bán cầu. Mùa hạ ở đây kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4, còn mùa đông lại nằm trong khoảng từ tháng 5 đến tháng 11. Trên thực tế, ở những vùng nằm gần xích đạo, sự chênh lệch về mùa gần như không đáng kể với khí hậu nóng ẩm quanh năm, trong khi những vùng có khí hậu nhiệt đới thường chỉ có mùa mưa và mùa khô. Tại vùng có khí hậu cận nhiệt ở phía nam, thời tiết chia ra đủ 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Brasil cũng thường phải hứng chịu những trận bão lớn từ Đại Tây Dương đổ vào.
Môi trường
Chim Toco Toucan, một loài động vật đặc trưng tại Brasil
-
Brasil là quốc gia có độ đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới, hơn hẳn so với mọi quốc gia khác[24]. Nước này có số lượng động vật có vú nhiều nhất trên thế giới, đứng thứ nhì về tổng số các loài lưỡng cư và bướm, thứ ba thế giới về các loài chim và thứ năm thế giới về các loại bò sát. Rừng nhiệt đới Amazon là ngôi nhà của nhiều loài thực vật và động vật độc đáo tại Brasil.
Về thực vật, ở Brasil người ta đã phát hiện được hơn 55.000 loài, xếp thứ nhất trên thế giới và 30% trong số đó là những loài thực vật đặc hữu của Brasil. Khu vực Rừng Đại Tây Dương là nơi tập trung rất nhiều các loài thực vật khác nhau, bao gồm các loài nhiệt đới, cận nhiệt đới và rừng ngập mặn. Vùng Pantanal là một vùng đất ẩm và là nhà của khoảng 3500 loài thực vật trong khi Cerrado là một trong những vùng savan đa dạng nhất trên thế giới. Về động vật, Brasil nổi tiếng với các loài báo jaguar, báo sư tử, thú ăn kiến, cá piranha, loài trăn khổng lồ anaconda… và rất nhiều các loài linh trưởng, chim và côn trùng khác chỉ có tại đất nước này.
Tuy nhiên trong mấy thập kỉ trở lại đây, sự phát triển kinh tế và gia tăng dân số quá mức[cần dẫn nguồn] đang có nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên của Brasil. Sự phá rừng lấy gỗ và đất canh tác, bao gồm cả hợp pháp và bất hợp pháp đang tàn phá những khu rừng lớn tại nước này, đe dọa gây ra những thảm họa nghiêm trọng về môi trường. Từ năm 2002 đến năm 2006, rừng Amazon đã bị mất đi một phần diện tích xấp xỉ nước Áo[25]. Dự kiến đến năm 2020, ít nhất 50% các loài sinh vật tại Brasil sẽ đứng trước bờ vực tuyệt chủng[25]. Trước tình hình này, chính phủ Brasil đã ban hành nhiều chính sách nhằm bảo về môi trường. Một mạng lưới các khu vực bảo vệ đã được thiết lập trên diện tích hơn 2 triệu km² (khoảng một phần tư diện tích Brasil) để bảo vệ những vùng rừng và các hệ sinh thái tại nước này. Tuy nhiên công tác bảo vệ môi trường tại Brasil cũng gặp rất nhiều khó khăn.[cần dẫn nguồn]
Kinh tế
-
Sao Paulo, trung tâm tài chính lớn nhất Brasil
Sở hữu nền nông nghiệp, khai mỏ, gia công và lĩnh vực dịch vụ lớn ở mức độ phát triển cao, cũng như một lực lượng lao động dồi dào, GDP (theo sức mua tương đương) của Brasil vượt xa nhiều quốc gia Mỹ Latinh khác, và là nền kinh tế chủ chốt của khối Mercosur. Brasil hiện nay đã mở rộng sự hiện diện của mình trong nền kinh tế thế giới. Các sản phẩm xuất khẩu chính gồm máy bay, cà phê, xe cộ, đậu nành, quặng sắt, nước cam, thép, dệt may, giày dép và thiết bị điện tử.
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới, Brasil là nền kinh tế lớn thứ chín thế giới theo sức mua tương đương. Brasil có nền kinh tế đa dạng ở mức thu nhập trung bình với mức độ phát triển rất khác nhau. Đa số các ngành công nghiệp lớn nằm ở phía nam và phía đông nam. Đông Bắc là vùng nghèo nhất Brasil, nhưng hiện đang thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài.
Brasil có lĩnh vực công nghiệp phát triển nhất Mỹ Latinh. Chiếm một phần ba GDP, các ngành công nghiệp đa dạng của Brasil từ sản xuất ô tô, thép, hóa dầu tới máy tính, máy bay và các sản phẩm tiêu dùng. Với nền kinh tế phát triển ổn định nhờ Kế hoạch Real, các công ty Brasil và các công ty đa quốc gia đầu tư mạnh vào công nghệ và thiết bị mới, một phần lớn trong số đó được nhập khẩu từ các công ty Bắc Mỹ.
Brasil cũng sở hữu một nền công nghiệp dịch vụ đa dạng và có chất lượng cao. Những năm đầu thập niên 1990, lĩnh vực ngân hàng chiếm tới 16% GDP. Dù trải qua một quá trình tái cơ cấu rộng lớn, công nghiệp dịch vụ tài chính nước này đã cung cấp tiền vốn cho nhiều công ty trong nước sản xuất ra các loại hàng hóa phong phú, lôi cuốn nhiều nhà đầu tư nước ngoài mới, kể cả các công ty tài chính lớn của Mỹ. Thị trường chứng khoán Sao Paulo và Rio de Janeiro đang trải qua quá trình hợp nhất.
Theo bản báo cáo mới [26] của Ngân hàng Thế giới, mức độ thuận lợi trong kinh doanh tại các thành phố nước này rất khác nhau. Thời gian và chi phí để đăng ký tài sản tại các thành phố ở Brasil ở mức tốt. Nhưng dù có những quy định như nhau trên toàn lãnh thổ, thời gian cần thiết để chuyển đổi tài sản vẫn khác biệt nhiều tại từng thành phố.
Dù nền kinh tế Brasil có kích thước và tầm quan trọng lớn trong khu vực, những vấn đề đang ngày càng phát triển như tham nhũng, nghèo đói và mù chữ vẫn là những cản trở lớn cho sự phát triển.
Các sự kiện hiện tại
Tốc độ tăng GDP của Brasil
(Thập niên 2000) |
2000 |
4,3% |
2001 |
1,3% |
2002 |
2,7% |
2003 |
1,1% |
2004 |
5,7% |
2005 |
3,2% |
2006 |
3,7% |
2007 |
4,5% |
2008 |
4,5% (ước tính) |
Nguồn:[27] |
Sau nhiều thập kỷ có mức lạm phát cao và nhiều nỗ lực kiểm soát, Brasil đã thực thi một chương trình ổn định kinh tế với tên gọi Kế hoạch Real (được đặt theo tên đồng tiền tệ mới real) vào tháng 7 năm 1994 trong thời kỳ nắm quyền của tổng thống Itamar Franco. Tỷ lệ lạm phát vốn từng đạt mức gần 5.000% thời điểm cuối năm 1993, đã giảm rõ rệt, ở mức thấp 2,5% vào năm 1998. Việc thông qua Luật Trách nhiệm Thuế năm 2000 đã cải thiện tình trạng thu thuế từ địa phương và từ các chính phủ liên bang, dù vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng và cải thiện các dịch vụ xã hội.
Trong thời cầm quyền của tổng thống Fernando Henrique Cardoso (1995-2002), chính phủ Brasil đã có nỗ lực nhằm thay thế nền kinh tế chỉ huy nhà nước bằng một nền kinh tế theo định hướng thị trường. Nghị viện đã thông qua nhiều sửa đổi mở đường cho sự tham gia lớn hơn của khu vực tư nhân, và khuyến khích lĩnh vực có đầu tư nước ngoài. Tới cuối năm 2003, chương trình tư nhân hóa của Brasil, gồm cả việc tư nhân hóa các công ty thép, điện lực, viễn thông đã đạt giá trị hơn 90 tỷ dollar.
Tháng 1 năm 1999, Ngân hàng Trung ương Brasil thông báo rằng nước này sẽ không giữ ổn định tỷ giá đồng real với dollar Mỹ nữa, việc này khiến cho đồng tiền tệ nước này bị mất giá mạnh. Nền kinh tế Brasil tăng trưởng 4,4% năm 2000, giảm xuống còn 1,3% năm 2001.
Năm 2002, những dự đoán rằng ứng cử viên tổng thống nhiều triển vọng Luis Inácio Lula da Silva, sẽ từ chối thanh toán nợ, gây ra một cuộc khủng hoảng niềm tin sâu sắc khiến nền kinh tế giảm sút tăng trưởng. Tuy nhiên, khi đã trúng cử Lula tiếp tục theo đuổi các chính sách kinh tế của người tiền nhiệm. Năm 2003, Tổng thống Lula đưa ra một chương trình kinh tế kham khổ bằng cách kiểm soát lạm phát và tìm kiếm thặng dư nhằm đưa tình trạng nợ nần của Brasil về mức ổn định.
Năm 2007, kinh tế Brasil tăng trưởng ở mức 4,5%[28].
Các vấn đề lớn
Nền kinh tế của Brasil vẫn đang phải đối đầu với những vấn đề lớn và cần những cải cách quan trọng được đưa ra. So với những nước đang phát triển khác, những vấn đề nghiêm trọng là cơ sở hạ tầng yếu kém, thu nhập phân bố không đều, chất lượng dịch vụ công thấp, tham nhũng, những xung đột xã hội và tình trạng quan liêu của chính phủ vẫn tồn tại và đe dọa sự tăng trưởng kinh tế.
Nợ công trong nước đã đạt tới kỷ lục từ trước tới nay và chi tiêu công cũng tăng thêm. Các loại thuế đã chiếm một phần lớn thu nhập quốc gia và là một gánh nặng với mọi tầng lớp xã hội, làm giảm các cơ hội đầu tư. Hơn nữa, việc thành lập doanh nghiệp cũng phải gánh chịu chi phí giấy tờ cao và các thủ tục hành chính phức tạp.
Mức tăng trưởng kinh tế hiện nay của Brasil thấp hơn các nước Mỹ Latinh khác và hai cường quốc mới nổi Ấn Độ, Trung Quốc. Brasil đã tụt 11 bậc trong bảng Chỉ số Tăng trưởng Cạnh tranh của Diễn đàn Kinh tế Thế giới trong giai đoạn 2003 – 2005[29]
Năng lượng
Brasil là quốc gia đứng thứ mười thế giới về tiêu dùng năng lượng và thứ nhất tại khu vực Mỹ Latinh. Tuy nhiên, Brasil cũng lại là nước khai thác dầu mỏ và khí đốt nhiều nhất trong khu vực và là nhà sản xuất năng lượng ethanol lớn nhất trên thế giới. Với sự đi tiên phong trong lĩnh vực sản xuất ethanol, Brasil được mệnh danh là một cường quốc về năng lượng sinh học của thế giới. Năng lượng ethanol ở Brasil được sản xuất từ cây mía, loại cây được trồng rất phổ biến tại Brasil.
Sau cuộc Khủng hoảng Dầu mỏ 1973, chỉnh phủ Brasil đã thiết lập chương trình Programa Nacional do Álcool được chính phủ cấp kinh phí nhằm thay thế các nguồn nhiên liệu hóa thạch như dầu mỏ bằng năng lượng ethanol thân thiện hơn với môi trường. Chương trình đã thành công khi giảm số ô tô chạy bằng dầu hỏa tại Brasil xuống chỉ còn 10 triệu, từ đó giảm sự phụ thuộc của nước này vào các nguồn dầu nhập khẩu[30]. Dầu diesel sinh học được kỳ vọng sẽ chiếm 2% tổng lượng dầu diesel trong năm 2008, rồi nâng lên 5% vào năm 2013.
Brasil đứng thứ ba thế giới về sản lượng thủy điện, chỉ sau Trung Quốc và Canada. Năm 2004, thủy điện chiếm tới 83% tổng năng lượng sản xuất ra tại nước này. Brasil cùng với Paraguay sở hữu đập nước Itaipu, nhà máy thủy điện lớn nhất thế giới hiện nay.
Khoa học kỹ thuật
Lắp ráp máy bay cũng là một ngành tiên phong của kinh tế Brasil
Từ khi người Bồ Đào Nha xâm chiếm Brasil làm thuộc địa, nền khoa học kĩ thuật tại vùng đất này hầu như không được chú trọng phát triển. Tuy là một thuộc địa rộng lớn và có vai trò quan trọng đối với chính quốc Bồ Đào Nha nhưng Brasil lại là một vùng đất nghèo nàn và thất học. Mãi cho đến tận đầu thế kỉ 19, tại Brasil vẫn không có bất kỳ một trường đại học nào trong khi các thuộc địa láng giềng của Tây Ban Nha đã có những trường đại học đầu tiên ngay từ thế kỉ 16. Năm 1807, hoàng gia Bồ Đào Nha đến Rio de Janeiro để tránh cuộc tấn công của Napoleon I và đã khởi đầu cho thời kỳ phát triển khoa học và văn hóa tại vùng đất này.
Việc nghiên cứu khoa học tại Brasil ngày nay được thực hiện rộng rãi trong khắp các trường đại học và học viện, với 73% nguồn quỹ được lấy từ những nguồn của chính phủ. Một số học viện khoa học nổi tiếng của Brasil là Học viện Oswaldo Cruz, Học viện Butantan, Trung tâm Công nghệ Vũ trụ của không quân, Tổ chức Nghiên cứu Nông nghiệp Brasil và INPE. Brasil là quốc gia có cơ sở tốt nhất Mỹ Latinh trong lĩnh vực hàng không vũ trụ[31]. Vào ngày 14 tháng 10 năm 1997, Cơ quan Hàng không vũ trụ Brasil đã ký với NASA về việc cung cấp các phần thiết bị cho ISS[32]. Uranium cũng được làm giàu tại Nhà máy Năng lượng Nguyên tử Resende để giải quyết phần nào nhu cầu năng lượng của quốc gia. Brasil cũng là một trong hai nước ở khu vực Mỹ Latinh có phòng thí nghiệm máy gia tốc Synchrotron, một hệ thống thiết bị nhằm nghiên cứu nhiều ngành khoa học khác nhau như vật lí, hóa học, khoa học vật liệu và khoa học đời sống[33].
Nhân khẩu
-
Đồ thị tăng dân số của Brasil giai đoạn 1961-2003
(đơn vị: 1000 dân
[34])
Đa phần người Brasil ngày nay có tổ tiên là người Bồ Đào Nha từ thời nước này còn là thuộc địa của Đế chế Bồ Đào Nha (từ thế kỷ 16 đến thế kỉ 18) và những người dân di cư Bồ Đào Nha (thế kỷ 19 và thế kỉ 20), và sau đó là người nhập cư Ý. Những khu định cư Bồ Đào Nha bắt đầu xuất hiện tại Brasil sau năm 1532. Cho tới khi giành độc lập năm 1822, người Bồ Đào Nha vẫn là những người Châu Âu duy nhất thực hiện thành công chính sách thực dân ở nước này và nền văn hóa Brasil chủ yếu dựa trên văn hoá Bồ Đào Nha.
Các nước Châu Âu khác cũng có một số sự hiện diện tại Brasil trong giai đoạn thuộc địa. Người Hà Lan và người Pháp đã tìm cách thực dân hóa Brasil trong thế kỷ 17, nhưng thời gian họ có mặt chỉ kéo dài vài thập kỷ.
Người da đỏ bản xứ Brasil (khoảng 3-5 triệu người) phần lớn đã bị tiêu diệt hay đồng hóa bởi người Bồ Đào Nha. Từ đầu thời kỳ thực dân hoá Brasil, những cuộc hôn nhân lai chủng giữa người Bồ Đào Nha và những người Brasil bản xứ đã trở nên phổ biến. Ngày nay, Brasil có khoảng 700.000 dân bản xứ, chiếm chưa tới 1% dân số nước này.
Brasil cũng có một số lượng lớn người da đen, là con cháu của những người nô lệ Châu Phi bị bắt tới đây từ thế kỷ 16 tới thế kỷ 19. Hơn 3 triệu người Châu Phi đã bị bán và đem qua Brasil cho tới khi chế độ buôn bán nô lệ chấm dứt vào năm 1850. Chủ yếu họ bị bắt đi từ Angola, Nigeria, Benin, Togo, Ghana, Côte d’Ivoire và São Tomé e Príncipe. Những người Châu Phi này sau đó đã lai tạp với người Bồ Đào Nha, trở thành một bộ phận dân cư lai khá lớn tại Brasil.
Bắt đầu thế kỷ 19, chính phủ Brasil đã khuyến khích những người Châu Âu nhập cư tới đây để thay thế nguồn nhân công của các nô lệ cũ. Những người nhập cư không phải là người Bồ Đào Nha đầu tiên tới định cư ở Brasil là người Đức vào năm 1824. Năm 1869 những người Ba Lan đầu tiên đặt chân tới Brasil. Tuy nhiên đợt di cư mạnh nhất của người Châu Âu tới nước này chỉ bắt đầu sau năm 1875, khi những người nhập cư từ Ý, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha tới đây tăng mạnh. Trong giai đoạn 1870 – 1953, Brasil đã thu hút hơn 5,5 triệu người nhập cư[35], bao gồm gần 1.550.000 người Ý, 1.470.000 người Bồ Đào Nha, 650.000 người Tây Ban Nha, 210.000 người Đức, 190.000 người Nhật, 120.000 người Ba Lan và 650.000 từ nhiều quốc gia khác. Những con số này có thể còn kém xa thực tế, bởi những người vợ đi cùng không được tính vào, một số lượng lớn những người nhập cư bất hợp pháp, thay đổi tên họ để giấu quốc tịch, và những văn bản lưu trữ của Brasil cũng đã mất mát nhiều. Brasil là nước có số lượng người Ý ở nước ngoài lớn nhất thế giới, với tổng số 25 triệu người. Brasil cũng là nước có cộng đồng người Liban đông nhất thế giới, với khoảng 8 triệu người.[cần dẫn nguồn]
Bắt đầu từ thế kỷ 20, Brasil cũng đã tiếp nhận một số lượng lớn người Châu Á: người Hàn Quốc, người Trung Quốc, người Đài Loan và người Nhật. Người Nhật là cộng đồng thiểu số Châu Á lớn nhất tại Brasil, và những người Nhật Bản-Brasil là cộng đồng người Nhật bên ngoài nước Nhật lớn nhất với 1,6 triệu người.
Dân số Brasil chủ yếu tập trung dọc bờ biển, trong nội địa mật độ dân số khá thấp. Dân chúng các bang miền nam chủ yếu là con cháu người Âu da trắng, trong khi đa số dân chúng miền bắc và đông bắc là người lai giữa các chủng tộc (người da đỏ Châu Mỹ, người Phi, người Âu).
Các thành phố lớn nhất Brasil
Chủng tộc và nòi giống
Tổ tiên người Brasil hiện nay khá đa dạng, gồm người da đỏ Châu Mỹ (chủ yếu là người Tupi và Guarani), người Châu Âu (chủ yếu là Bồ Đào Nha, Ý, Đức, Tây Ban Nha) và người Châu Phi (chủ yếu là Bantu và Yoruba), với một số cộng đồng thiểu số Châu Á (chủ yếu là Nhật Bản), Liban, và Ả Rập Syria.
Miền nam Brasil với đa số dân là con cháu người Âu còn ở phía đông nam và trung tây Brasil số lượng người da trắng tương đương người Phi và những người Brasil đa chủng khác. Đông bắc Brasil có đa số dân là con cháu người Bồ Đào Nha và Châu Phi, trong khi miền bắc Brasil có số lượng hậu duệ người da đỏ Châu Mỹ lớn nhất nước.
Theo hiến pháp năm 1988 của Brasil, phân biệt chủng tộc là một tội không được bảo lãnh và buộc phải ngồi tù. Đạo luật này được thi hành rất chặt chẽ.[38]
Hơn 90 triệu người Brasil có nguồn gốc từ các làn sóng di cư từ nước ngoài vào. Những nhóm người đông đảo nhất là người thuộc bán đảo Iberia, Ý và người Đức ở Trung Âu. Các nhóm thiểu số gồm người Slave (đa số là người Ba Lan, Ukraina và Nga). Những nhóm nhỏ hơn gồm người Armenia, người Phần Lan, người Pháp, người Hy Lạp, người Hungary, người Romania, người Anh và người Ireland. Trong số các nhóm thiểu số còn có 200.000 người Do Thái, chủ yếu là Ashkenazi.
Dân nhập cư Brasil có cơ cấu như sau:
Ngôn ngữ
Tiếng Bồ Đào Nha là ngôn ngữ chính thức duy nhất tại Brasil. Toàn bộ dân chúng sử dụng thứ tiếng này và rõ ràng nó là ngôn ngữ duy nhất được sử dụng trong các trường học, trên các phương tiện truyền thông, trong kinh doanh và mọi mục đích hành chính. Hơn nữa, Brasil là nước nói tiếng Bồ Đào Nha duy nhất tại Châu Mỹ nên nó đã biến ngôn ngữ này trở thành một trong những đặc trưng riêng của quốc gia. Tiếng Bồ Đào Nha ở Brasil đã phát triển độc lập với tiếng mẹ đẻ Châu Âu, và đã trải qua ít sự thay đổi ngữ âm hơn so với tiếng Bồ Đào Nha gốc, vì thế nó thường được gọi là ngôn ngữ “Camões”, vốn đã tồn tại ở thế kỷ 16, tương tự như thứ ngôn ngữ Bồ Đào Nha ở phía nam Brasil ngày nay, chứ không phải là thứ ngôn ngữ được dùng ở Bồ Đào Nha ngày nay. Tiếng Bồ Đào Nha Brasil có ảnh hưởng lớn tới các ngôn ngữ da đỏ Châu Mỹ và ngôn ngữ Châu Phi. Nói chung, những người nói bất kỳ một biến thể nào đều có thể hiểu được biến thể kia, nhưng họ, những phương ngữ Bồ Đào Nha có nhiều khác biệt lớn với nhau về âm điệu, từ vựng và chính tả.
Nhiều ngôn ngữ bản xứ được sử dụng hàng ngày trong các cộng đồng thổ dân, chủ yếu ở phía bắc Brasil. Dù nhiều trong số các cộng đồng đó tiếp xúc thường xuyên với người Bồ Đào Nha, hiện nay việc dạy các ngôn ngữ bản xứ đang được khuyến khích. Một số ngôn ngữ khác được con cháu những người nhập cư sử dụng, họ thường có khả năng nói cả hai thứ tiếng, tại các cộng đồng nông nghiệp ở phía nam Brasil. Những ngôn ngữ khác được dùng nhiều nhất là tiếng Đức và tiếng Ý. Ở thành phố São Paulo, có thể gặp những cộng đồng sử dụng tiếng Nhật như tại Liberdade.
Tiếng Anh là một phần trong chương trình giảng dạy của các trường cao học, nhưng ít người Brasil thực sự thông thạo ngôn ngữ này. Đa số những người sử dụng tiếng Bồ Đào Nha đều có thể hiểu tiếng Tây Ban Nha ở mức độ này hay mức độ khác vì sự tương đồng giữa hai ngôn ngữ cùng hệ Latinh.
Giáo dục và y tế
Đại học Parana ở thành phố Curitiba
Hiến pháp Brasil và Luật Giáo dục Brasil ban hành năm 1996 xác định chính quyền liên bang, tiểu bang, quận liên bang và các đô thị tự trị tự quản lý và điều hành hệ thống giáo dục của mình. Mỗi hệ thống giáo dục tự chịu trách nhiệm về việc duy trì hoạt động, quản lý cơ cấu và các nguồn tài chính của mình. Hiến pháp mới của Brasil cũng quy định dành 25% tiền thuế tiểu bang và đô thị tự trị cũng như 18% tiền thuế của liên bang cho giáo dục[39]. Hệ thống trường tư được thành lập tại Brasil để hoàn thiện những thiết sót của hệ thống trường công. Vào năm 2003, tỉ lệ người biết chữ ở Brasil đạt 88%, và đạt 93,2% đối với độ tuổi từ 15 đến 19 tuổi. Tuy nhiên theo UNESCO, nền giáo dục Brasil vẫn còn nhiều bất cập và chất lượng thấp, đặc biệt trong hệ thống trường công. Giáo dục bậc cao tại Brasil bao gồm các trường đại học và các trường hướng nghiệp.
Hệ thống chăm sóc sức khỏe được điều hành và cung cấp bởi các cấp chính quyền, trong khi hệ thống y tế tư nhân cũng được thành lập thêm để hoàn chỉnh. Hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Brasil chưa phát triển hoàn thiện, đặc biệt ở những bang nghèo và vẫn còn nhiều bất cập. Những vấn đề chủ yếu của nền y tế Brasil là tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, trẻ em và người mẹ còn khá cao. Ví dụ như năm 2008, tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh tại Brasil là 26,67/1000 trẻ[40]. Ngoài ra các nguyên nhân tử vong chủ yếu khác ở Brasil còn có các bệnh dịch truyền nhiễm và không truyền nhiễm, tai nạn giao thông, bạo lực và tự tử. Nạn HIV/AIDS cũng là một trong những bệnh dịch hàng đầu đe dọa sức khỏe của người dân Brasil.
Các vấn đề xã hội
Chênh lệch giàu nghèo
Dù là một nước lớn với những nguồn tài nguyên phong phú và một nền kinh tế khá mạnh, Brasil hiện vẫn có hơn 22 triệu người sống dưới mức nghèo khổ. Gộp cả những người sống trong tình trạng khá nghèo (có thu nhập không đủ cho những nhu cầu cơ bản), con số này có thể lên tới hơn 53 triệu người (khoảng 30% dân số). Đây là vấn đề đáng báo động, và nó góp phần vào sự bất bình đẳng kinh tế của đất nước, nước này được coi là đứng hàng đầu thế giới theo hệ số Gini.
Sự nghèo khổ tại Brasil được thể hiện bởi số lượng lớn các khu ổ chuột (favela), đa số chúng đều tồn tại ở những khu vực thành thị và ở những vùng xa xôi nơi ít có những phát triển kinh tế và xã hội. Vùng Đông Bắc gặp phải những vấn đề kinh niên vì khí hậu nửa khô cằn ở những vùng nội địa, những đợt hạn hán thường kỳ ảnh hưởng tới cuộc sống của hàng triệu người[41].
Nỗ lực gần đây nhất nhằm giảm nhẹ tình trạng này đang được tổng thống đương nhiệm Luiz Inacio Lula da Silva thử nghiệm. Ông đã đề xuất một chương trình loại trừ nạn đói (Fome Zero) và tăng ngân sách dành cho các chương trình phân phối công bằng từng được đưa ra trước đó, nhưng có nhiều tranh cãi về hiệu quả thực sự của những chương trình này.
Trong vòng 12 năm qua, thuế suất của Brasil đã tăng đều hàng năm từ 28% GDP quốc gia lên tới 37% [42]. Dù vậy, dưới con mắt của người dân những cải thiện trong các lĩnh vực công cộng do chính phủ liên bang và các bang hay các chính phủ địa phương là chưa đủ (trong một số trường hợp, chưa có một cải thiện nào cả) [43]. Mọi người tin rằng hai nguyên nhân chính của tình trạng này là:
Khoảng 16 triệu người dân Brasil chính thức được coi là mù chữ.
Tội phạm
Trong những thập kỷ qua, tình trạng tội phạm trên khắp Brasil đã trở thành một vấn nạn. Tỷ lệ giết người ở Brasil cao hơn bốn lần so với Mỹ, và đa số các vụ tội phạm không được khám phá. Những vụ tội phạm đường phố là một vấn đề đau đầu cho các quan chức địa phương, đặc biệt vào buổi tối, trong khi ở những vùng nông thôn, những vụ cướp bóc dọc đường xảy ra thường xuyên.
Rio de Janeiro được coi là có tình trạng tội phạm tồi tệ nhất nước. Những vụ bắn nhau trong các khu nhà ổ chuột giữa cảnh sát và tội phạm hay giữa các băng nhóm tội phạm với nhau trở nên quá quen thuộc, tương tự như một cuộc chiến tranh du kích trong đô thị. Các quan chức thành phố hầu như không thể kiểm soát được khu vực bên trong các khu ổ chuột, khiến chúng trở thành hang ổ của những kẻ buôn bán ma tuý, thậm chí một số tên đã bị bỏ tù nhưng vẫn điều hành đường dây của chúng. Thậm chí có điều luật cho phép từ 10 giờ chiều tới 6 giờ sáng, các lái xe được phép không dừng khi có hiệu đèn bởi nguy cơ cao bị tấn công hay bắt cóc vào ban đêm[46].
Văn hoá
-
Những ảnh hưởng khác nhau
Lễ hội Oktoberfest của Đức tại Brasil
Văn hóa của Brasil chủ yếu dựa trên nền văn hóa của Bồ Đào Nha. Nước này đã từng là thuộc địa của Bồ Đào Nha trong vòng ba thế kỉ và những người dân di cư Bồ Đào Nha đã mang đến cho Brasil những nền tảng quan trọng của nền văn hóa nước này là tiếng Bồ Đào Nha, đạo Công giáo và kiến trúc. Bên cạnh đó còn có những phong tục tập quán và lối sống đặc trưng của người dân Bồ Đào Nha.
Là một đất nước đa chủng tộc với nhiều màu sắc văn hóa, Brasil còn chịu ảnh hưởng của nhiều dân tộc khác nữa. Những người thổ dân châu Mỹ có ảnh hưởng đến vốn từ vựng và ẩm thực của Brasil, trong khi người da đen gốc châu Phi, vốn được mang đến Brasil để làm nô lệ trước kia, lại có ảnh hưởng quan trọng trong âm nhạc và các điệu nhảy của nước này. Vào thế kỉ 19 và thế kỉ 20, những dòng người nhập cư đến từ Ý, Đức, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Trung Đông đã đến Brasil và thiết lập nên những cộng đồng lớn sinh sống với nhau tại các thành phố, tạo nền những dấu ấn độc đáo khác nhau và tập trung chủ yếu tại miền nam Brasil.
Văn học
Machado de Assis, nhà văn nổi tiếng Brasil thế kỉ 19
Một trong những văn bản đầu tiên viết về đất nước Brasil là lá thư của Pêro Vaz de Caminha gửi cho vua Manuel I của Bồ Đào Nha, người ghi chép trên tàu của Pedro Álvares Cabral, nhà thám hiểm đã khám phá ra đất nước Brasil. Tiếng Bồ Đào Nha có ảnh hưởng quan trọng nhất đối với nền văn học của Brasil. Trong thời kỳ thuộc địa, những nhà văn tại Brasil đã cho ra đời nhiều tác phẩm văn học về sử thi, thơ và kịch phản ánh về cuộc sống và những sự kiện diễn ra trên đất nước này. Một trong những nhà văn nổi tiếng nhất thời kỳ này là cha António Vieira, một linh mục dòng Tên với những tác phẩm mang phong cách văn học Baroque. Năm 1822, Brasil giành được độc lập và sau đó là những chuyển biến mới trong nền văn học của nước này. Chủ nghĩa lãng mạn xuất hiện cùng với những tác phẩm văn học về những người thổ dân và người da đen, cũng như phản ánh và quan tâm hơn đến các vấn đề xã hội. Tiêu biểu là nhà văn Gonçalves Dias và José de Alencar đã viết nhiều tác phẩm về những người dân bản xứ Brasil, hay nhà văn Antônio Castro Alves đã viết về những nỗi khốn khổ của người nô lệ da đen.
Đến giữa thế kỉ 19, chủ nghĩa lãng mạn dần thoái trào và nhường chỗ cho những tác phẩm thuộc chủ nghĩa hiện thực. Văn xuôi được sử dụng nhiều hơn. Với ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên, các tác phẩm văn học thời kỳ này phản ánh nhiều phương diện và tầng lớp xã hội. Hai nhà văn lớn nhất thời kỳ này là Machado de Assis và Euclides da Cunha. Thế kỉ 20 chứng kiến sự phát triển của chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại trong văn học Brasil với những tên tuổi như Mário de Andrade, Jorge Amado…
Kiến trúc
Nền kiến trúc của Brasil bắt đầu từ thời kỳ thuộc địa Bồ Đào Nha, khi những pháo đài trung cổ đầu tiên được người Bồ Đào Nha thiết lập tại đây từ khoảng năm 1530. Trong thời kỳ thuộc địa, những công trình lớn chủ yếu được xây dựng là các nhà thờ và thánh đường mang đậm ảnh hưởng của phong cách kiến trúc Baroque Bồ Đào Nha. Nhiều thị trấn và thành phố cổ ở Brasil được xây dựng với nhiều nét giống với các thành phố của châu Âu. Đầu thế kỉ 19, tại Brasil bắt đầu xuất hiện trường phái kiến trúc tân cổ điển. Rồi đến giai đoạn cuối thể kỉ 19 – đầu thế kỉ 20, các tòa nhà ở Brasil lại chịu ảnh hưởng của phong cách kiến trúc Pháp. Bên cạnh đó, những dòng người nhập cư khác cũng mang đến cho kiến trúc Brasil nhiều sắc thái khác nhau, ví dụ như kiến trúc kiểu Đức tại các bang miền nam Brasil.
Sang thế kỉ 20, kiến trúc hiện đại Brasil đã có nhiều bước phát triển vượt bậc. Oscar Niemeyer là một trong những kiến trúc sư nổi tiếng nhất ở Brasil. Ông đã phụ trách rất nhiều công trình lớn tại thủ đô Brasilia và thành phố này đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Tôn giáo
Bức tượng Chúa Cứu Thế nổi tiếng tại Rio de Janeiro
Tôn giáo chủ yếu tại Brasil là Công giáo Rôma. Nước này cũng là nước có cộng đồng người theo đạo Công giáo lớn nhất trên thế giới. Bên cạnh đó, số lượng tín đồ theo đạo Tin lành cũng đang ngày càng tăng lên. Mặc dù Hồi giáo đầu tiên được những nô lệ da đen theo nhưng hiện nay cộng đồng người Hồi giáo đông nhất tại Brasil lại là những người Brasil gốc Arab. Brasil cũng là nước có cộng đồng Phật giáo lớn nhất Mỹ Latinh do nước này tập trung một lượng lớn cộng đồng người Nhật Bản tại nước ngoài. Bên cạnh đó ở Brasil còn có những tôn giáo truyền thống của người da đen gốc châu Phi.
Cơ cấu tôn giáo của người dân Brasil như sau (theo cuộc điều tra của IBGE)[47][48]:
- 64,6% dân số theo Công giáo.
- 22,2% dân số theo Đạo Tin lành.
- 8,0% dân số tự cho mình là người theo Thuyết bất khả tri hay Thuyết vô thần.
- 2,0% dân số theo Thuyết thông linh.
- 2,7% dân số là thành viên của các tôn giáo khác. Một số tôn giáo đó là Mormon (227.000 tín đồ), Nhân chứng Jehovah (1.393.000 tín đồ), Phật giáo (244.000 tín đồ), Do Thái giáo (107.000 tín đồ), và Hồi giáo (35.000 tín đồ)
- 0,3% dân số theo các tôn giáo truyền thống Châu Phi như Candomblé, Macumba và Umbanda.
- 0,1% không biết
- Một số người theo tôn giáo pha trộn giữa các tôn giáo khác nhau, như Công giáo, Candomblé, và tổng hợp các tôn giáo truyền thống Châu Phi.
Thể thao
-
Môn thể thao phổ biến nhất tại Brasil là môn bóng đá. Đồng thời, Brasil cũng được coi là một cường quốc trong môn thể thao này. Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil là đội tuyển thành công nhất trong tất cả các đội tuyển bóng đá quốc gia trên thế giới. Nước này đã 5 lần vô địch World Cup vào các năm 1958, 1962, 1970, 1994, 2002, đồng thời là đội tuyển duy nhất tham dự đủ mọi kỳ World Cup. Sau khi vô địch World Cup lần thứ ba, đội tuyển Brasil đã được phép giữ vĩnh viễn chiếc Cúp vô địch. Brasil cũng có nhiều cầu thủ nổi tiếng thế giới như Pelé, Garrincha, Jairzinho, Rivelino, Carlos Alberto, Zico, Romário, Ronaldo, Rivaldo, Roberto Carlos, Ronaldinho và Kaká. Cơ quan đại diện cho bóng đá tại Brasil là Liên đoàn Bóng đá Brasil. Bóng đá từ lâu đã trở thành một phần văn hóa Brasil. Đây là môn thể thao yêu thích của nhiều thanh niên và các kỳ World Cup tại đất nước này được coi là những sự kiện lớn và thu hút rất nhiều người dân theo dõi.
Bên cạnh đó, đội tuyển bóng đá nữ Brasil cũng thu được khá nhiều thành tích. Tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2007, họ đã giành vị trí thứ hai. Nữ cầu thủ bóng đá nổi tiếng nhất Brasil là Marta, người đoạt hai danh hiệu Quả bóng Vàng và Chiếc giày Vàng tại World Cup 2007 cũng như được FIFA bình chọn là nữ cầu thủ xuất sắc nhất năm 2006.
Brasil dự kiến sẽ tổ chức World Cup 2014.
Không chỉ có bóng đá, Brasil cũng là nước có thế mạnh tại nhiều môn thể thao khác như bóng rổ, bóng chuyền, tennis, bơi lội. Capoeira, một môn võ thuật có nguồn gốc châu Phi cũng được đông đảo người dân Brasil ưa chuộng. Nhu thuật Brasil (Brazilian Jiu-Jitsu, viết tắt BJJ) được coi là một môn võ thuật có tính chiến đấu cao, thường xuyên xuất hiện trên các võ đài võ tự do. Ngoài ra, đất nước này còn sản sinh ra nhiều môn thể thao khác nữa. Có thể kể ra như môn bóng đá bãi biển, bắt nguồn trên những bãi biển của Rio de Janeiro hay biribol, một biến thể chơi dưới nước của bóng chuyền.
Lễ hội Carnaval
Carnaval là một lễ hội nổi tiếng của đất nước Brasil. Lễ hội diễn ra 40 ngày trước Lễ Phục sinh và là thời điểm để bắt đầu mùa ăn chay. Lễ hội Carnaval ở Brasil rất nổi tiếng, đặc biệt là tại Rio de Janeiro. Trong lễ hội, những đoàn diễu hành đầy màu sắc đi qua những con phố lớn với những chiếc xe được trang trí rực rỡ, những vũ công mặc trang phục nhiều màu sắc và âm nhạc rộn rã. Tại Rio de Janeiro có hẳn những trường lớp đào tạo vũ công samba cho dịp lễ hội này. Bên cạnh đó, lễ hội Carnaval còn được tổ chức tại nhiều nơi khác trên đất nước Brasil như tại các bang Bahia, Pernambuco hay Minas Gerais với một số điểm khác biệt riêng nhưng lễ hội Carnaval tại Rio de Janeiro là nổi tiếng nhất. Lễ hội này cũng là một trong những yếu tố thu hút khách du lịch nước ngoài tới Brasil.
Du lịch
Thành phố du lịch Salvador, bang Bahia
Du lịch hiện là một lĩnh vực hiện đang tăng trưởng mạnh tại Brasil. Đất nước Brasil có khá nhiều ưu thế về du lịch và mỗi vùng miền trên đất nước Brasil có những phong cảnh và nét độc đáo riêng biệt. Vùng Bắc của Brasil nổi tiếng với khung cảnh thiên nhiên hoang sơ của núi rừng Amazon và có ưu thế trong lĩnh vực du lịch sinh thái. Vùng Đông Bắc của Brasil có nhiều bãi biển đẹp. Địa điểm du lịch nổi tiếng nhất tại vùng Đông Bắc là thành phố Salvador, Bahia. Thành phố này hội tụ nhiều vẻ đẹp khác nhau của đất nước Brasil, từ những bãi biển đẹp bên bờ Đại Tây Dương đến Trung tâm Lịch sử Salvador, Bahia với nhiều tòa nhà và thánh đường cổ kính đã được UNESCO xếp hạng Di sản Văn hóa Thế giới. Bên cạnh đó cũng phải kể đến hai thành phố Recife và Fortaleza. Vùng Trung Tây, bao gồm cả thủ đô Brasilia của Brasil nằm ở trung tâm đất nước lại có nhiều công viên quốc gia đẹp và hùng vĩ. Vùng Đông Nam là nơi tập trung đông dân nhất tại Brasil với hai thành phố lớn: Rio de Janeiro có những bãi biển đẹp, bức tượng Chúa Cứu Thế khổng lồ và lễ hội Carnaval tưng bừng náo nhiệt trong khi Sao Paulo là một khu đô thị sầm uất và giàu có. Những bang miền Nam Brasil với khí hậu mát mẻ thì mang đậm bản sắc châu Âu cổ kính với các kiến trúc Đức, Italia… của những dòng người nhập cư gốc Âu.
Trong năm 2005, Brasil thu hút 5.358.000 khách du lịch, tăng 4% so với năm 2004. Brasil là địa điểm du lịch hấp dẫn thứ tư tại châu Mỹ với những du khách chủ yếu đến từ Argentina, Mỹ và Bồ Đào Nha. Doanh thu từ du lịch của Brasil mỗi năm ước tính đạt 4 tỉ real và góp phần tạo thêm khoảng 678.000 nghề nghiệp mới của người dân.
Xếp hạng quốc tế
Ngày lễ quốc gia
Hình ảnh về Brasil
Thiên nhiên
-
Một vùng thôn quê ở Brasil
-
Bãi biển ở Rio de Janeiro
-
-
Bãi biển tại bang Bahia, thuộc vùng Đông Bắc
-
Sông Madeira ở bang Rondônia, thuộc vùng Bắc
-
Sông Guapore, bang Mato Grosso, vùng Trung Tây
-
Thác nước tại bang Minas Gerais, vùng Đông Nam
-
Thác Iguacu ở bang Parana, vùng Nam
Văn hóa – xã hội
-
-
Thành phố Manaus, bang Amazonas
-
Thánh đường ở Belem, bang Para
-
Bãi biển ở Salvador, bang Bahia
-
Trung tâm lịch sử thành phố Salvador, Bahia
-
Nhà thờ Santo Antônio, bang Pernambuco
-
Natal, thủ phủ bang Rio de Grande do Norte
-
Campo Grande, thủ phủ bang Mato Grosso do Sul
-
Thành phố Belo Horizonte, bang Minas Gerais
-
-
Người dân nhảy múa trên đường phố bang Rio Grande do Sul
-
Tham khảo
- ^ CIA World Factbook ước tính, CIA World Factbook ước tính
- ^ IBGE (31/8/2011). “IBGE divulga as estimativas populacionais dos municípios em 2011” (bằng Tiếng Bồ Đào Nha). Viện Địa lý và Thống kê Brazil IBGE. Truy cập 22/11/2011. ‘“Estima-se que o Brasil tenha 192.376.496 habitantes, 1.620.697 a mais que em 2010, quando a população chegou a 190.755.799” (Ước tính dân số năm 2011 là 192.376.496 người, nhiều hơn 1.620.697 người so với năm 2010)’
- ^ “People of Brazil”. The World Factbook. Central Intelligence Agency. 2008. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2008.
- ^ a ă â “Geography of Brazil”. The World Factbook. Central Intelligence Agency. 2008. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2008.
- ^ a ă “Introduction of Brazil”. The World Factbook. Central Intelligence Agency. 2008. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2008.
- ^ a ă “Brazilian Federal Constitution” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Presidency of the Republic. 1988. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2008. “Brazilian Federal Constitution”. v-brazil.com. 2007. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2008. “Unofficial translate”
- ^ “Territorial units of the municipality level” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Brazilian Institute of Geography and Statistics. 2008. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2008.
- ^ “World Development Indicators database” (PDF file), World Bank, ngày 7 tháng 10 năm 2009.
- ^ “CIA – The World Factbook – Country Comparisons – GDP (purchasing power parity)”. Cia.gov. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2011.
- ^ Clendenning, Alan (17 tháng 4 năm 2008). “Booming Brazil could be world power soon”. USA Today – The Associated Press. tr. 2. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2008.
- ^ Lucas Nácul (NIEE – UFRGS) & Ana Paula (FACCAT). “Os Primeiros Habitantes do Brasil (origem, distribuição, população, etc.)” (html) (bằng Tiếng Bồ Đào Nha). Núcleo de Informática na Educação Especial. Truy cập 22/11/2011. “Em terras brasileiras, pelo menos até a década de 1970, os estudos arqueológicos, paleontológicos e geológicos apontavam os vestígios humanos encontrados na região de Lagoa Santa, Minas Gerais, como os mais antigos, datando de 8.000 anos atrás”
- ^ Những cuộc nổi dậy của nô lệ tại Brasil
- ^ Chương trình tư hữu hóa ở Brasil (tiếng Bồ Đào Nha)
- ^ Chính sách kinh tế của tổng thống Lula de Silva Theo BBCBrasil (tiếng Bồ Đào Nha)
- ^ Hiến pháp Liên bang Brasil (tiếng Bồ Dào Nha)
- ^ Hệ thống luật pháp Brasil – Tổ chức các quốc gia châu Mỹ
- ^ Nossos direitos nas suas mãos – Đại học São Paulo
- ^ Brazil as an intermediate state and regional power: action, choice and responsibilities – Theo Blackwell Synergy
- ^ Thông tin cơ bản về Liên bang Brasil và quan hệ với Việt Nam trên trang của Bộ Ngoại giao Việt Nam
- ^ The World Factbook, quân đội Brasil – trang của CIA
- ^ IBGE (10 tháng 11 năm 2002). “Área Territorial Oficial” (bằng Tiếng Bồ Đào Nha). Viện Địa lý và Thống kê Brazil IBGE. Truy cập 22/11/2011. ‘“Nestas circunstâncias, obteve-se para a área do Brasil o valor de 8.514.876,599 km2”’
- ^ “Average Conditions – Rio de Janeiro (Nhiệt độ trung bình tại Rio de Janeiro])” (bằng Tiếng Anh). BBC. 11 tháng 7 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2003.
- ^ Khí hậu Brasil
- ^ Báo cáo môi trường Brasil – The University of Chicago Press
- ^ a ă Tình trạng môi trường tại Brasil – The National Academies Press
- ^ Báo cáo kinh doanh tại Brasil – trang Doing Business
- ^ PIB revisado
- ^ The World Factbook – Kinh tế Brasil – CIA
- ^ Chỉ số tăng trưởng cạnh tranh giữa các nền kinh tế – Diễn đàn Kinh tế Thế giới
- ^ Báo cáo Năng lượng Thế giới
- ^ Thông tin số liệu về Brasil
- ^ BISSP. “Brazilian International Space Station Program” (bằng Tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ 19/12/2000. Truy cập 22/11/2011. ‘“On ngày 14 tháng 10 năm 1997, the Brazilian and US governments (represented by the Brazilian Space Agency – AEB and by NASA) signed an agreement where Brazil agreed to provide parts for the ISS to NASA and will have utilization rights”’ Chương trình ISS – Instituto Nacional de Pesquisas Espaciais
- ^ Danh sách các máy gia tốc Synchrotron trên thế giới – Rheinischen Friedrich-Wilhelms-Universität Bonn
- ^ Data FAOSTAT, year 2005
- ^ Memorial do Imigrante Số liệu về dân nhập cư của chính phủ Brasil
- ^ “Cidades@”. IBGE. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2007.
- ^ “PNAD” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 2006. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2007.
- ^ Thirteenth periodic report of States parties due in 1994 – Văn bản luật 1994 của Brasil – UN Human Rights
- ^ [1] Báo cáo về giáo dục Brasil
- ^ Nhân khẩu Brasil – CIA The World Factbook
- ^ SECA NO NORDESTE BRASILEIRO – Theo Chính phủ Brasil
- ^ Thuế quan Brasil
- ^ Por que o Brasil não cresce? – Theo Fzort.org
- ^ Lãi suất nợ chính phủ – Theo Febraban.org.br
- ^ Tham nhũng tại Brasil – Theo Monitor das Fraudes
- ^ Thông tin du lịch của chính phủ
- ^ Censo Demográfico 2010: Características gerais da população, religião e pessoas com deficiência (In Portuguese). IBGE: Instituto Brasileiro de Geografia e Estatística. Truy cập at 2012-07-03.
- ^ IBGE: catolicismo cai 22,4% e vê nova ascensão de evangélicos(In Portuguese). Terra Notícias. Truy cập at 2012-07-03.
- ^ Bảng xếp hạng mức độ tự do kinh tế giữa các quốc gia – The Heritage Foudation
- ^ O que é carnaval?
- ^ Carnaval
Liên kết ngoài
- Chính phủ và Hành chính
- Thông tin và Thống kê
- Kinh tế và Kinh doanh
- Tin tức và Quan điểm
- Du lịch
Thể loại:
Bạch lộ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bạch lộ (tiếng Hán: 白露) là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 7 hay 8 tháng 9 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 165° (kinh độ Mặt Trời bằng 165°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Nắng nhạt.
Theo quy ước, tiết bạch lộ là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 7 hay 8 tháng 9 khi kết thúc tiết xử thử và kết thúc vào khoảng ngày 23 hay 24 tháng 9 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết thu phân bắt đầu.
Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Bạch lộ nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Bạch lộ ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 165°. Ngày bắt đầu tiết Bạch lộ do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 7 hay 8 tháng 9 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Bạch lộ là Xử thử và tiết khí kế tiếp sau là Thu phân.
Xem thêm
Tham khảo
Thể loại:
Vụ án Lệ Chi Viên
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vụ án Lệ Chi Viên, tức vụ án vườn vải, là vụ án mà đại thần Nguyễn Trãi bị vu oan và bị tru di tam tộc thời Lê sơ trong lịch sử Việt Nam.
Vụ án
Ngày 27 tháng 7 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh, Hải Dương. Nguyễn Trãi đón vua ngự ở chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8 (âm lịch) vua về đến Lệ Chi Viên thuộc huyện Gia Định (nay thuộc thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi khi ấy đã vào tuổi 40[1] được vua Lê Thái Tông yêu quý vì sự xinh đẹp, có tài văn chương, luôn được vào hầu bên cạnh vua. Khi về đến Lệ Chi Viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ[2][3] rồi băng hà, lúc này ông mới 20 tuổi[3]. Các quan bí mật đưa về, ngày 6 tháng 8 (âm lịch) mới đến kinh sư, nửa đêm vào đến cung mới phát tang. Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ tội giết vua. Nguyễn Trãi và gia đình bị án tru di tam tộc và bị giết ngày 16 tháng 8 (âm lịch) năm này[2]. Đến tháng 7 (âm lịch) năm Giáp Thân (1464), vua Lê Thánh Tông đã rửa oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước Tán Trù bá và bổ dụng người con còn sống sót của ông là Nguyễn Anh Vũ[4].
Giai thoại
Có giai thoại nói rằng lúc Nguyễn Trãi (có bản ghi Nguyễn Phi Khanh) còn dạy học có dự định cho học trò phát hoang khu vườn, đến đêm nằm mơ thấy một người đàn bà với bầy con dại tới xin ông cho thư thả ít hôm mới dọn nhà vì con mọn, sáng ra khi học trò của ông phát cỏ vườn nhà thì đánh chết một bầy rắn, lúc đó ông mới hiểu ra ý nghĩa giấc mơ, ông than thở, cho chôn bầy rắn và cho học trò biết là loài rắn thường hay thù dai, thế nào cũng trả thù ông. Đêm đó, lúc ông đọc sách thì có con rắn bò trên xà nhà nhỏ một giọt máu thấm vào chữ “đại” (“đời”) qua ba lớp giấy ứng với việc gia tộc ông bị hại đến ba đời. Ngày sau con rắn hóa ra bà Nguyễn Thị Lộ dụ dỗ ông, hại ba đời nhà ông và biến thành rắn bò đi khi bà Nguyễn Thị Lộ bị dìm xuống sông.
Nhiều người tin rằng giai thoại này nhằm đổ tội cho bà Nguyễn Thị Lộ, giải thích nguyên nhân tiền định về cái chết của vua Lê Thái Tông và Nguyễn Trãi, xoa dịu lòng tiếc thương Nguyễn Trãi và chán ghét nhà Lê nhỏ mọn đối với công thần. Họ cho rằng đây là thuật tuyên truyền của tầng lớp thống trị hồi đó lợi dụng lòng mê tín của nhân dân. Ngày nay giai thoại này bị bác bỏ và không được xác chứng. [cần dẫn nguồn]
Nguyên nhân
Đến nay, một số nhà nghiên cứu sử Việt Nam, như Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ (trong tác phẩm “Nhìn lại lịch sử”), cho rằng chủ mưu vụ án chính là Nguyễn Thị Anh[5], vợ thứ vua Lê Thái Tông.
Ngôi thái tử
Ngoài các suy đoán căn cứ vào sử sách, gần đây các nhà nghiên cứu nói trên đã tham khảo gia phả dòng họ Đinh là con cháu của công thần Đinh Liệt nhà Hậu Lê và phát hiện nhiều bài thơ của chính Đinh Liệt để lại (được công bố trong “Nhìn lại lịch sử” của họ). Bài thơ được viết bằng chữ Hán nhưng viết theo kiểu ẩn ý, dùng phép nói lái để người đọc suy đoán rằng: Thái tử Lê Bang Cơ (tức vua Lê Nhân Tông) không phải là con vua Lê Thái Tông[6].
Vua Lê Thái Tông lúc mất mới 20 tuổi nhưng trước khi mất vua đã có 4 con trai. Con lớn nhất là Lê Nghi Dân, con thứ hai là Khắc Xương, con thứ ba là Bang Cơ (Lê Nhân Tông sau này), con thứ tư là Tư Thành (Lê Thánh Tông sau này). Vì các hoàng tử đều còn quá nhỏ (chỉ chênh nhau một vài tuổi) nên việc tranh chấp ngôi thái tử xảy ra giữa các bà vợ vua Thái Tông. Nguyễn Thị Anh là mẹ của Bang Cơ.
Nghi Dân là con lớn nhất vốn đã được lập làm thái tử dù còn rất nhỏ. Nhưng sau đó Nguyễn Thị Anh được vua sủng ái nên năm 1441 vua truất ngôi của Nghi Dân mà lập Bang Cơ. Bà mẹ của Khắc Xương vốn không được vua sủng ái nên không thể tranh chấp ngôi thái tử. Tuy nhiên, nhiều người trong triều dị nghị rằng, Nguyễn Thị Anh đã có thai trước khi vào cung và Bang Cơ không phải là con vua Thái Tông[6]. Cùng lúc đó, một bà phi khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại có mang sắp sinh. Nguyễn Thị Anh sợ chuyện bại lộ thì ngôi lớn sẽ thuộc về con bà Ngọc Dao nên tìm cách hại bà Ngọc Dao[7]. Bà này được vợ chồng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ hết sức che chở, mang đi nuôi giấu và sinh được hoàng tử Lê Tư Thành năm 1442.
Biết bà Ngọc Dao đã sinh con trai mà ngày càng nhiều người đồn đại về dòng máu của Bang Cơ, nhân lúc con mình còn đang ở ngôi đương kim thái tử, Nguyễn Thị Anh chủ động ra tay trước[7]. Nhân dịp vua Thái Tông về thăm Nguyễn Trãi, sợ Nguyễn Trãi gièm pha mình và nói tốt cho Tư Thành nên bà sai người sát hại vua Thái Tông rồi đổ tội cho vợ chồng Nguyễn Trãi[7].
Sau khi vua mất, Bang Cơ lên ngôi, Nguyễn Thị Anh được làm thái hậu, nắm quyền trị nước. Nguyễn Trãi không thể biện bạch cho sự oan uổng của mình và phải chịu án tru di tam tộc.
Theo sử sách, ngày 9 tháng 9 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1442), chỉ vài ngày sau khi hành hình gia đình Nguyễn Trãi, triều đình (thực ra chính là thái hậu Nguyễn Thị Anh nhiếp chính thay con[8]), ra lệnh giết hai hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng vì trước khi chết Nguyễn Trãi có nói là “hối không nghe lời của Thắng và Phúc“[2]. Các nhà nghiên cứu nói trên cho rằng chính Đinh Phúc, Đinh Thắng là những người khuyên Nguyễn Trãi sớm tố cáo Nguyễn Thị Anh với vua Thái Tông[7]. Do đó để diệt khẩu, bà sai giết hai người này.
Chính bởi thân thế của Lê Nhân Tông có phần “không chính” nên sau này, năm Kỷ Mão (1459), con trưởng của vua Thái Tông là Lê Nghi Dân lấy lý do để làm binh biến giết hai mẹ con Nguyễn Thị Anh. Trong bài chiếu lên ngôi, Nghi Dân nói rõ: “… Diên Ninh [Nhân Tông] tự biết mình không phải là con của tiên đế [Thái Tông]…“[2]
Dù sao đi nữa, chuyện Bang Cơ có phải con vua Lê Thái Tông thực hay không nhưng cũng như Tần Thủy Hoàng, ngôi chính của ông đã định, bởi thế những người phản lại như Lê Nghi Dân nhà Lê hay tướng Phàn Ô Kỳ nước Tần vẫn bị coi là “nghịch”, là trái lẽ.
Về các bài thơ của Đinh Liệt
Trong cuốn “Ngọc phả họ Đinh” do công bộ thượng thư Đinh Công Nhiếp, con trai đầu của thái sư Đinh Liệt, có một số bài thơ do Đinh Liệt viết[9] có liên quan đến vụ án Lệ Chi Viên.
Bài thơ Nôm nhận xét về Lê Thái Tông:
- Tống Thai dáng dấp một anh quân
- Đắc sắc say chơi biếng kiệm cần
- Hoạ tự trong nhà nhô đầu mọc
- Di căn bệnh hoạn hại cho thân
Trong bài này Đinh Liệt buộc phải dùng phép nói lái: Tống Thai tức là Thái Tông Lê Nguyên Long. Vua là một “anh quân” khi vì ông biết ngăn ngừa cường thần, dẹp phiên trấn, sùng nho, mở thi cử, song lại quá ham tửu sắc. Về “hoạ tự trong nhà”, Đinh Liệt có bài thơ:
- Nhung tân lục cá nguyệt khai hoa
- Bất thức hà nhân chủng bảo đa
- Chủ kháo Tống khai vi linh dược
- Cựu binh tân tửu thịnh y khoa
“Nhông tân” đọc lái là Nhân Tông, tức là Bang Cơ, con Nguyễn Thị Anh, “thạnh i” là “thị Anh”. Bài này có thể tạm dịch:
- Nhân Tông sáu tháng đã ra hoa
- Dòng máu ai đây quý báu à?
- Núp bóng Thái Tông làm linh dược
- Thị Anh dùng ngón đổi dòng cha
Trước khi vào cung, Thị Anh đã gian díu với Lê Nguyên Sơn[6], một người thuộc họ xa của dòng dõi Lê Khoáng (cha Lê Lợi). Một bài thơ khác, Đinh Liệt viết:
- Tống Thai mạc kiến nguy ký hiện
- Nịch ái Thịnh y nhật nhật tăng
- Mỹ sắc điềm ngôn gia phỉ báng
- Cơ đồ sự nghiệp hải hà băng
Dịch là:
- Thái Tông chẳng thấy nguy đã hiện
- Say đắm Thị Anh cứ mãi tăng
- Sắc đẹp lời ngon kèm phỉ báng
- Cơ đồ sự nghiệp có ngày băng
Việc Thị Anh giết hai hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng được Đinh Liệt viết trong bài thơ mà nhiều người cho rằng vì chính hai người này đã mật báo cho ông và Nguyễn Trãi biết:
- Nhung Tân hà hữu Tống thai tinh
- Lục nguyệt khai hoa quái dị hình
- Niên nguyệt nhật thời Thăng Đính ký
- Hoàng bào ô nhiễm vạn niên thanh
chữ Thăng Đính đọc ngược là Đinh Thắng.
Dịch là:
- Nhân Tông không phải máu Nguyên Long
- Sáu tháng hoài thai cảnh lạ lùng
- Năm, tháng, ngày, giờ Đinh Thắng chép
- Hoàng bào dơ bẩn tiếng ngàn năm
Với cách gọi các vua bằng miếu hiệu như Thái Tông, Nhân Tông, chắc chắn các bài thơ này Đinh Liệt viết vào thời Lê Thánh Tông. Dù Nhân Tông và thái hậu Nguyễn thị đã chết nhưng việc này vẫn không thể nói công khai, vì trên danh nghĩa, ngôi vua của Nhân Tông vẫn là hợp pháp. Có như vậy, việc cướp ngôi của Lê Nghi Dân mới là “phản nghịch” và việc lên ngôi của Thánh Tông mới là hợp lẽ. Đây chính là nguyên nhân khiến Đinh Liệt phải dùng phép nói ẩn ý để truyền lại cho đời sau[6]. Sau này tới đời vua Lê Thánh Tông, vua Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi.
Phản biện
Nhà nghiên cứu lịch sử Vũ Thị Hường đã đăng trên Tạp chí sông Hương[10] về nghi án Lệ Chi Viên, tác giả phản đối tác giả Bùi Văn Nguyên trong tác phẩm Văn chương Nguyễn Trãi, khi nhà nghiên cứu này cho rằng: Cuối cùng bọn gian thần phía bà phi Nguyễn Thị Anh âm mưu giết hại vua Lê Thái Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ để giành ngôi cho Bang Cơ khỏi rơi vào tay Tư Thành, người được Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ ủng hộ Với những lập luận như sau:
- Lê Tư Thành là con thứ tư, mới sinh được 14 ngày, mẹ của Tư Thành chỉ được phong Tiệp dư, không phải là mối đe dọa với mẹ con bà Nguyễn Thị Anh.
- Vua Thái Tông là vị vua tài giỏi, không dễ để giết.
- Nguyễn Thị Anh đang được sủng ái, con là Bang Cơ được lập hoàng thái tử, ngôi kế vị cầm chắc trong tay, lẽ nào đi giết đi chỗ dựa vững chắc nhất của họ.
- Nguyễn Trãi trước sau không đóng vai trò gì quan trọng trong triều đình, Nguyễn Thị Lộ chỉ là lễ nghi học sĩ, dạy cung nhân, không đủ quyền lực để tôn phù hay hạ ai xuống.
Tác giả cũng cho rằng vua Lê Thái Tông chết đột ngột ở Lệ Chi Viên, Nguyễn Trãi chỉ là người không may mắn mà thôi, và không nên suy luận đi quá xa.
Trong văn học nghệ thuật
Vụ án Lệ Chi Viên từng được thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học và nghệ thuật trong đó có các tác phẩm được báo chí đánh giá cao như vở cải lương Rạng ngọc Côn Sơn của Sân Khấu đoàn cải lương Trần Hữu Trang,[11] vở chèo Oan khuất một thời của nhà hát chèo Hà Nội.[12] Đặc biệt vở kịch Bí mật Lệ Chi Viên của Công ty Thái Dương (sân khấu IDECAF) từng được báo chí hết lời ca ngợi [13][14] đã giành được ba giải Mai Vàng (năm 2007) (giải Đạo diễn sân khấu cho Nghệ sĩ ưu tú Thành Lộc, giải Nam diễn viên kịch nói cho Hữu Châu (vai Nguyễn Trãi), giải Nữ diễn viên kịch nói cho Thanh Thủy (vai Nguyễn Thị Anh)[15] Ngoài ra phim tài liệu Bí mật vụ án Lệ Chi Viên từng được chiếu trên VTV1.[16]. Gần đây nhất, bộ phim Thiên mệnh anh hùng của đạo diễn Victor Vũ cũng lấy bối cảnh là 12 năm sau khi Nguyễn Trãi chết, các thế lực vương tôn tranh giành nhau, trong đó có Tuyên Từ Thái Hậu.
Xem thêm
Tham khảo
- Đại Việt Sử ký Toàn thư
- Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ (2003), Nhìn lại lịch sử, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
Chú thích
- ^ Theo Danh nhân Thái Bình: Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ, bà sinh năm 1400
- ^ a ă â b Đại Việt Sử ký toàn thư – Bản kỷ thực lục, quyển XI: Kỷ nhà Lê – Thái Tông Văn hoàng đế.
- ^ a ă Khâm định Việt sử thông giám cương mục, chính biên, quyển 17.
- ^ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, chính biên, quyển 19.
- ^ Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ, sách đã dẫn, tr 1083.
- ^ a ă â b Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ, sách đã dẫn, tr 1082
- ^ a ă â b Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ, sách đã dẫn, tr 1084
- ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư, quyển XI
- ^ Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ, sách đã dẫn, tr 1081-1085
- ^ [http://www.tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p0/c7/n17548/May-nghi-van-nhan-doc-van-chuong-Nguyen-Trai-cua-Bui-Van-Nguyen.htmlMấy nghi vấn nhân đọc Văn chương Nguyễn Trãi của Bùi Văn Nguyên
- ^ Vở cải lương Rạng ngọc Côn Sơn
- ^ Oan khuất một thời trên VnExpress
- ^ Bí mật vườn Lệ Chi – cái đẹp thấm đẫm và ngân dài…
- ^ ‘Bí mật vườn Lệ Chi’ nóng bỏng ngày trở lại
- ^ Bí mật vườn Lệ Chi thắng lớn tại giải Mai Vàng 2007
- ^ VTV1 vén màn bí mật vụ oan Nguyễn Trãi
Thể loại:
Nguyễn Trãi
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Trãi |
 |
Công việc |
Nhà chính trị, Nhà thơ, Nhà địa lý học, Nhà ngoại giao |
Quốc gia |
Việt Nam |
Dân tộc |
Kinh |
Quốc tịch |
Việt Nam |
Giai đoạn sáng tác |
Văn học trung đại Việt Nam |
Thể loại |
Thơ, Cáo, Chiếu, Biểu, Tấu |
Tác phẩm nổi bật |
Bình Ngô đại cáo, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Dư địa chí |
Vợ/chồng |
5 vợ |
Con cái |
7 con trai |
Nguyễn Trãi (1380 – 19 tháng 9 năm 1442) là vị quan thời nhà Hồ và là công thần khai quốc nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông quê gốc ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương).
Thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách Minh thuộc. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh.
Năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông.
Nguyễn Trãi là một nhà văn hoá lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc Việt Nam.
Cuộc đời
Thời thơ ấu
Nguyễn Trãi (阮廌), hiệu là Ức Trai (抑齋) sinh năm 1380 mất năm 1442, tại làng Chi Ngại, huyện Chí Linh (nay là thị xã, Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long, tức Nguyễn Phi Khanh, người làng Chi Ngại, một nho sĩ hay chữ nhưng nghèo và mẹ là Trần Thị Thái, con gái thứ ba[1] của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán[2].
Nguyễn Ứng Long dạy Thái, nhân gần gũi thông dâm với Thái, làm Thái có thai rồi bỏ trốn. Đến ngày Thái đẻ, Trần Nguyên Đán cho gọi ông về. Sau đó Ứng Long thi đỗ nhưng vua Trần Nghệ Tông bỏ không dùng, cho rằng “Bọn chúng có vợ giàu sang, như thế là kẻ dưới mà dám phạm thượng [3]
Khi nhà Hồ thay nhà Trần, Nguyễn Phi Khanh được cất nhắc sử dụng, đổi tên là Phi Khanh (Phi Khanh sinh ra Trãi, cũng đỗ thái học sinh). Nguyễn Phi Khanh và Trần Thị Thái có với nhau năm người con theo thứ tự là Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Báo, Nguyễn Phi Ly, Nguyễn Phi Bằng và Nguyễn Phi Hùng[4] Nhưng chưa được bao lâu thì bà Trần Thị Thái qua đời, anh em Nguyễn Trãi lại nương nhờ ông ngoại là Trần Nguyên Đán nhưng đến năm 1390 thì Trần Nguyên Đán mất. Nguyễn Phi Khanh phải một mình nuôi các con ăn học.
Ở Nhị Khê, Nguyễn Phi Khanh đã ra công rèn cặp các con theo khuôn khổ Nho giáo mà có lẽ là Nho giáo Khổng Mạnh chứ không học Tống Nho vì Hồ Quý Ly đã bài bác Tống Nho là không thiết thực[5]. Tuy còn ít tuổi nhưng Nguyễn Trãi rất ham học. Điều đó được cha ông nói đến trong bài thơ Gia viên lạc:
-
- Cố viên loạn hậu hữu tiên lư
- Lục tuế nhi đồng phả ái thư
- Nghĩa là:
- Vườn xưa sau loạn còn nhà cũ
- Sáu tuổi con thơ rất thích sách
Nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét Ông [Nguyễn Trãi] tuổi trẻ đã văn chương nổi tiếng. Kinh sử, bách gia, binh thư thao lược, đều am hiểu cả[6]
Tuổi thơ Nguyễn Trãi là một thời kỳ thanh bần nhưng ông vẫn quyết chí gắng công học tập, nổi tiếng là một người học rộng, có kiến thức rộng về nhiều lĩnh vực, có ý thức về nghĩa vụ của một kẻ sĩ yêu nước thương dân.[cần dẫn nguồn]
Làm quan thời nhà Hồ
Năm 1400, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần Thiếu Đế, lật đổ nhà Trần, nhà Hồ thành lập. Cũng trong năm đó, nhà Hồ mở khoa thi Nho học, Nguyễn Trãi tham dự và đỗ Thái học sinh, đứng thứ tư[7], được trao chức Ngự sử đài Chính chưởng. Nguyễn Phi Khanh cũng ra làm quan, làm đến chức Hàn Lâm viện học sĩ kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám[8]. Năm 1407, Minh Thành Tổ phái Trương Phụ đem quân xâm lược nước Đại Ngu, nhà Hồ kháng chiến thất bại, Hồ Quý Ly cùng nhiều triều thần bị bắt và bị đem về Trung Quốc, Nguyễn Phi Khanh đầu hàng trước đó.
“ |
Còn bọn Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Cẩn, Đỗ Mãn đều đã đầu hàng từ trước. |
” |
—Đại Việ sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển IX |
Sau cuộc Chiến tranh Minh – Đại Ngu, Đại Ngu rơi vào ách Minh thuộc. Lúc này, Nguyễn Trãi đang chạy trốn để thoát khỏi sự truy bắt của quân Minh. Trương Phụ ép Phi Khanh viết thư gọi ông, ông bất đắc dĩ phải ra hàng[6]. Nhiều tài liệu khác thì kể rằng, khi cha bị giải sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi đã theo cha lên cửa ải và tỏ ý muốn đi theo hầu hạ, nhưng Nguyễn Phi Khanh không đồng ý và khuyên ông nên về lo cứu nước báo thù nhà.[9]
Mười năm phiêu dạt
Cuộc đời Nguyễn Trãi từ sau năm 1407 đến khi vào yết kiến Bình Định Vương ở Lỗi Giang để tham gia khởi nghĩa Lam Sơn vẫn còn là một ẩn số. Cho tới nay, chưa thấy được những tài liệu chính xác, đầy đủ về Nguyễn Trãi trong thời kỳ đó. Sử sách không chép cũng như chép không thống nhất và bản thân Nguyễn Trãi cũng không ghi lại điều gì cụ thể [10]. Nguyễn Trãi nói nhiều đến thập niên phiêu chuyển (mười năm phiêu dạt) lênh đênh ở nơi chân trời góc biển trong một số văn thơ của ông, áng chừng là để chỉ khoảng thời gian này. Tất nhiên con số mười năm chỉ mang tính tương đối[11].
- Theo Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, sau khi ra hàng quân Minh, Trương Phụ muốn dụ dỗ ông ra làm quan nhưng Nguyễn Trãi từ chối. Trương Phụ tức giận, muốn đem Nguyễn Trãi giết đi nhưng Thượng thư Hoàng Phúc tiếc tài Nguyễn Trãi, tha cho và giam lỏng ở Đông Quan, không cho đi đâu.[6]. Ông lòng giận quân Minh tham độc, muốn tìm vị chân chúa để thờ nhưng chưa biết tìm ở đâu, bèn trốn đi. Đêm ngủ ở quán Trấn Vũ cầu mộng, được thần báo cho tên họ Lê Thái Tổ, bèn vào Lam Sơn tham gia khởi nghĩa.
- Trần Huy Liệu trong sách Nguyễn Trãi cũng ghi lại tương đối giống vậy, nhưng dè dặt hơn, ông nhận xét Hiện nay vẫn chưa đủ tài liệu để khẳng định dứt khoát rằng trong khoảng thời gian từ năm 1407 đến năm 1417, Nguyễn Trãi ở luôn Đông Quan hay có đi đâu không ? [9].
- Theo Nguyễn Lương Bích trong sách Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, dựa trên văn thơ của Nguyễn Trãi để lại và một vài ghi chép của Lê Quý Đôn trong Toàn Việt thi lục nói Nhà Hồ mất, ông về ở ẩn và Phạm Đình Hổ trong Tang thương ngẫu lục viết Nhà Hồ mất, ông tránh loạn ở Côn Sơn, Nguyễn Lương Bích khẳng định sau cuộc kháng chiến thất bại của Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi đã đi lánh nạn trong một khoảng thời gian khá dài chứ không hề bị quân Minh bắt giữ. Ông đã từng lánh ở Côn Sơn và sau đó còn chu du ở nhiều nơi khác nữa[12].
- Ngoài ra, còn có một số người đoán rằng Nguyễn Trãi đã từng sang Trung Quốc ở thời kì này[9], dựa trên một số bài thơ của ông có nhắc đến các địa danh ở Trung Quốc như Bình Nam[a] dạ bạc (Đêm đỗ thuyền ở Bình Nam), Ngô Châu[b], Giang Tây, Thiều Châu Văn Hiến miếu[c](Thăm miếu thờ ông Văn Hiến ở Thiều Châu), Đồ trung kí hữu (Trên đường gửi bạn)…
Tổng kết về giai đoạn này của cuộc đời Nguyễn Trãi, Nguyễn Lương Bích khẳng định:
“ |
Những tư tưởng chính trị, quân sự ưu tú cùng nhiều quan điểm đạo đức, triết học của ông đã được củng cố và phát triển tốt đẹp trong thời kỳ này. Trên cơ sở của thực tiễn cuộc sống và những kinh nghiệm chiến đấu của các thời đại, đồng thời cũng rút ra từ tư tưởng nhân nghĩa của ông, Nguyễn Trãi đã xây dựng cho mình những quan điểm đúng đắn về khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược[13]. |
” |
—Nguyễn Lương Bích |
Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn
Yết kiến ở Lỗi Giang
Thời điểm Nguyễn Trãi lên Lỗi Giang[d] yết kiến Bình Định Vương Lê Lợi, tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, hiện nay các tài liệu chưa được thống nhất.
- Có người khẳng định Nguyễn Trãi tham gia nghĩa quân Lam Sơn vào năm 1420[15] hoặc 1421 hay sau đó một chút[11][16].
-
- Theo Trần Trọng Kim viết trong Việt Nam sử lược thì Nguyễn Trãi gia nhập nghĩa quân Lam Sơn vào năm 1420. Việt Nam sử lược, chương XIV (Mười năm đánh quân Tàu), đoạn số 6 viết: “Khi Bình Định Vương về đánh ở Lỗi Giang, thì có ông Nguyễn Trãi, vào yết kiến, dâng bài sách bình Ngô, vua xem lấy làm hay,dùng ông ấylàm tham mưu”. Trước đó, đoạn đó 5 viết rằng ” Năm canh tí (1420)Bình Định Vương đem quân ra đóng ở làng Thôi”
Ra mắt Lê Lợi, Nguyễn Trãi còn trao cho vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn bản Bình Ngô sách, trong đó Nguyễn Trãi vạch ra ba kế sách đánh quân Minh[17] mà chủ yếu là tâm công (心 攻), đánh vào lòng người để đi đến chiến thắng[18]
Sau khi xem Bình Ngô sách, Nguyễn Trãi được Lê Lợi phong cho chức Tuyên phong đại phu Thừa chỉ Hàn Lâm viện[17], ngày đêm dự bàn việc quân.
Trù hoạch mưu lược, viết thư thảo hịch
Tháng 6 năm 1423[19][20], Lê Vận và Lê Trăn được Bình Định Vương cử làm sứ giả, mang lễ vật là năm đôi ngà voi cùng thư do Nguyễn Trãi viết đi cầu hoà. Lời lẽ trong thư rất mềm dẻo, khôn khéo[19], Tổng binh nhà Minh là Trần Trí chấp thuận ngay. Từ đây, mọi thư từ giao thiệp giữa quân Lam Sơn và quân Minh cũng như văn thư hiểu dụ các thành trì đều do một tay Nguyễn Trãi soạn thảo.
Nguyễn Trãi cũng đề xuất một diệu kế nhằm tuyên truyền thanh thế cho nghĩa quân Lam Sơn. Ông dùng nước cơm trộn mật[21] (hoặc mỡ[15]) viết vào lá cây tám chữ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần (黎利為君, 阮廌為臣)[22], nghĩa là Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi, với ý đồ khiến kiến ăn mỡ khoét thành chữ trên mặt lá, rồi lá theo dòng nước trôi đi các ngả như tin báo từ trên trời xuống. Tuy vậy, một số tướng lĩnh khác như Lê Sát, Phạm Vấn, Lê Thụ bất bình vì cho rằng Nguyễn Trãi quá cao ngạo và coi thường họ, những người đã chịu nhiều lao khổ từ khi cuộc khởi nghĩa còn trong trứng nước. Đinh Liệt hoà giải mâu thuẫn bằng cách đề nghị Nguyễn Trãi đổi lại thành Lê Lợi vi quân, bách tính vi thần (黎利為君, 百姓為 臣), nghĩa là Lê Lợi làm vua, trăm họ làm tôi[21]. Thế là tin Lam Sơn khởi nghĩa truyền đi khắp nơi, khiến cho mọi người hết sức tin tưởng vào tương lai của nghĩa quân.
Tranh thủ thời gian hoà hoãn hiếm hoi, Lê Lợi dẫn quân về Lam Sơn, nhanh chóng củng cố lực lượng. Năm 1424, Trần Trí biết rằng không thể chiêu dụ Lam Sơn đầu hàng, bèn bắt giữ sứ giả Lê Trăn, tuyệt giao với Lê Lợi. Cuộc khởi nghĩa bước vào một giai đoạn mới.
Chấp thuận ý kiến của Nguyễn Chích, tháng 10 năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn tiến vào nam, tấn công đồn Đa Căng, thành Trà Lân và bao vây thành Nghệ An. Kết hợp với các hoạt động quân sự, Nguyễn Trãi đã viết nhiều thư cho Phương Chính để khiêu chiến với tướng này, hòng khiến quân Minh sơ hở. Tuy nhiên, thành Nghệ An vẫn cố thủ không chịu đầu hàng. Tháng 8 năm 1425, Bình Định Vương mở cuộc tấn công vào Tân Bình, Thuận Hoá và liên tiếp giành được thắng lợi. Cho đến cuối năm 1425, không chỉ Nghệ An mà cả miền đất từ dãy Tam Điệp trở vào đèo Hải Vân đều thuộc địa bàn quản lí của nghĩa quân Lam Sơn, quân Minh chỉ còn cố thủ trong năm thành Tây Đô, Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá chờ cứu viện[23].
Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi chia một bộ phận nghĩa quân Lam Sơn chia làm ba hướng, tấn công ra bắc và thắng quân Minh ở Tốt Động – Chúc Động. Bình Định Vương nghe báo tin, bèn tiến gấp ra Đông Quan, Nguyễn Trãi theo Lê Lợi trở ra bắc. Đầu năm 1427, Lê Lợi phong cho Nguyễn Trãi làm Triều liệt Đại phu Nhập nội Hành khiển Lại bộ Thượng thư, kiêm chức Hành Khu mật viện sự. Đồng thời, ông cũng sai dựng một toà lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề, trên bờ sông Hồng, cao ngang tháp Báo Thiên, hàng ngày ngồi trên lầu trông vào thành Đông Quan xem xét hoạt động của quân Minh; Nguyễn Trãi ngồi hầu ở ngay tầng dưới để bàn luận quân cơ và thảo thư từ đi lại[24]. Sách Đại Việt sử kí toàn thư chép nguyên văn như sau:
“ |
Bấy giờ, vua dựng lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề trên bờ sông Lô (Khi ấy, có hai cây bồ đề ở trong dinh, nên gọi là dinh Bồ Đề), cao bằng tháp Báo Thiên, hằng ngày vua ngự trên lầu nhìn vào thành để quan sát mọi hành vi của giặc, cho Trãi ngồi hầu ở tầng hai, nhận lệnh soạn thảo thư từ qua lại |
” |
—Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ. |
Tại đây, Nguyễn Trãi đã viết hàng chục bức thư gửi vào thành Đông Quan chiêu dụ Vương Thông, gửi đi Nghệ An chiêu dụ Thái Phúc cũng như dụ hàng các tướng lĩnh nhà Minh ở Tân Bình, Thuận Hoá và một số thành trì khác. Kết quả đạt được rất khả quan: các thành Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá ra hàng đầu năm 1427[25]. Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã từng cùng với viên chỉ huy họ Tăng vào dụ hàng thành Tam Giang, khiến Chỉ huy sứ thành này là Lưu Thanh ra hàng vào khoảng tháng 4 năm 1427. Ông cũng đã đem thân vào dụ hàng thành Đông Quan năm lần[26] Quân Minh ở Giao Chỉ càng bị cô lập nhanh chóng, chỉ còn cố thủ được ở một số thành như Đông Quan, Cổ Lộng, Tây Đô… mà thôi[27].
Cuối năm 1427, Minh Tuyên Tông xuống chiếu điều binh cứu viện Vương Thông, sai Liễu Thăng đem 10 vạn quân từ Quảng Tây, Mộc Thạnh đem 5 vạn quân từ Vân Nam, cùng tiến quân sang Việt Nam. Với trận Chi Lăng – Xương Giang, hai đạo viện binh của nhà Minh với số lượng lên tới hơn 10 vạn quân đã bị quân Lam Sơn tiêu diệt hoàn toàn.[28][29]
Tháng 11, năm 1427, tổng binh Vương Thông và nội quan Sơn Thọ nhà Minh sai viên thiên hộ họ Hạ mang thư đến giảng hoà, xin mở cho đường về. Lê Lợi chấp nhận, lại gởi tặng thổ sản và hải sản. Dẫu vậy, Vương Thông vấn do dự, chưa quyết, đem quân ra đánh, bị nghĩa quân đánh bại, suýt bị bắt sống. [30][31]
Ngày 22, tháng 11, năm 1427 (Đinh Mùi), Vương Thông và Lê Lợi tiến hành Hội thề Đông Quan ở cửa nam thành, hẹn đến ngày 12, tháng 12 năm Đinh Mùi sẽ rút hết quân về nước. Lúc bấy giờ, một số tướng sĩ đến yết kiến và khuyên Lê Lợi nên đánh thành Đông Quan, giết hết quân Minh để trả thù cho sự bạo ngược mà người Minh đã gây nên ở Đại Việt. Nhưng ý kiến của Nguyễn Trãi thì lại khác. Sách Đại Việt sử kí Bản kỉ thực lục, quyển X, tờ 44a-44b ghi rằng:
“ |
Duy có hành khiển Nguyễn Trãi ở nơi tham mưu, được xem thư bọc sáp của [Vương] Thông gửi về nước nói “Chớ tham chỗ đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm; giả sử dùng quân được như số quân đi đánh khi đầu, lại được sáu, bảy, tám đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được; tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được”, nên biết rõ thế mạnh yếu của giặc, mới chuyên chủ mặt chủ hoà. Vua [Lê Thái Tổ] nghe theo và hạ lệnh cho các quân giải vây lui ra[32][33][34]. |
” |
—Đại Việt sử ký toàn thư |
Lê Lợi nghe theo cho quân giải vây rút ra. Khi quân Minh sắp rút đi, một số tướng khuyên Lê Lợi nên đánh thêm một trận để cho giặc không dám sang nữa nhưng Lê Lợi không đồng ý, quân Minh rút về nước an toàn. Năm 1428, nhà Hậu Lê hình thành.[35][36]
Phong thưởng
Vua Lê Thái Tổ có 2 đợt phong thưởng chính, lần một vào tháng 2, năm Thuận Thiên thứ nhất (1428) cho những Hỏa thủ và quân nhân Thiết đột ở Lũng Nhai, gốm 121 người. Lần 2, vào tháng 5, năm Thuân Thiên thứ 2 (1429), ban biển ngạch công thần cho 93 viên. Cả 2 đợt phong thưởng này không có tên của Nguyễn Trãi.[37][38]
Vào tháng 3, năm 1428, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: Đại hội các tướng và các quan văn võ để định công, ban thưởng, xét công cao thấp mà định thứ bậc. Lấy thừa chỉ Nguyễn Trãi làm Quan phục hầu; tư đồ Trần Hãn làm Tả tướng quốc; Khu mật đại sứ Phạm Văn Xảo làm Thái Bảo; đều được ban quốc tính. [39][40]
Văn thần triều Lê
Triều vua Lê Thái Tổ
Đầu năm 1428, ngay cả khi chưa chính thức lên ngôi vua, Bình Định Vương đã đại hội các tướng và các quan văn võ, định công ban thưởng. Nguyễn Trãi được ban cho quốc tính (họ Lê) và tước Quan phục hầu, tiếp tục giữ chức Nhập nội Hành khiển như cũ, được khắc tên trên biển Khai quốc công thần[41][42][43]. Ngày 29 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi ở điện Kính Thiên tại Đông Kinh, đại xá thiên hạ, giao cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để bố cáo với cả nước về việc chiến thắng quân Minh[44].
Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, an táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn. Lê Thái Tông xuống sắc chỉ sai Nguyễn Trãi, với tư cách là Vinh lộc Đại phu Nhập nội Hành khiển tri Tam quán sự, soạn văn bia Vĩnh Lăng thần đạo bi[45].
Triều vua Lê Thái Tông
Ngày 21 tháng 2 năm 1434, Lê Thái Tông bổ nhiệm 156 quan viên lớn nhỏ, trong số đó có Nguyễn Trãi[46]. .[47]. Năm 1435, Nguyễn Trãi dâng lên vua sách Dư địa chí, trong đó ông ghi chép khá đầy đủ về bờ cõi hành chính nước Đại Việt thời đó[48].
Tháng 5, ngày mồng 8, năm 1434 lúc đó Nguyễn Trãi giữ chức Hành khiển, soạn xong tờ tâu, Nội mật viện Nguyễn Thúc Huệ và Học sĩ Lê Cảnh Xước muốn đổi lại mấy chữ: Nguyễn Trãi giận nói: Bọn các ngươi là hạng bề tôi vơ vét, nạn hạn hán này là do các ngươi gây nên cả. Thúc Huệ tố các với Đại tư đồ Sát và Đô đốc Phạm Vấn. Lê Sát và Phạm Vấn tức lắm, trách Trãi rằng: Làm nên nỗi có thiên tai không phải là do lỗi của bọn ấy, lỗi ở vua và tể tướng thôi, sao ông trách nhau quá như thế ?.Nguyễn Trãi từ tạ nói:Thúc Huệ chỉ vì chút tài vét thuế mà chiếm chỗ then chốt của thiên hạ, mỗi khi có sổ sách tâu vào đều muốn vơ của dân về cho quan, để mong hợp ý vua, cho nên tôi nhân việc này mà nói ra thôi, không dám chê bàn gì đến vua và tể tướng cảLê Sát vẫn chưa nguôi giận. Nhưng bản tâu vẫn theo như của Trãi, không thay đổi. [49][50]
Tháng 12, năm 1434, vua Lê Thái Tông sai Nhập nội thiếu bảo Bùi Quốc Hưng; Nhập nội hữu bật Lê Văn Linh làm lễ tấu cáo ở Thái miếu, rước thần chủ mới của Thái Tổ và Quốc thái mẫu vào thờ ở Thái miếu. Lại sai các quan văn võ tới đô sảnh đài bàn việc bỏ áo tang, các quan trong đó có Hành khiển Nguyễn Trãi đều bàn nên mặc áo trắng 27 ngày nữa rồi sau hãy bỏ.[51][52]
Năm Thiệu Bình thứ 2, (1435), tháng 6, Đại tư đồ Lê Sát tiến cử Hành khiển thừa chỉ Nguyễn Trãi và một số viên quan khác vào dạy học cho Lê Thái Tông ở toà Kinh Diên, lời tâu lên nhưng vua Lê Thái Tông không chấp thuận[53][54]
Trong vụ án bảy tên trộm vào tháng 3 năm 1435, có bảy tên ăn trộm can tội tái phạm, đều còn ít tuổi, hình quan chiếu luật đáng xử chém. Đại tư đồ Lê Sát thấy giết người nhiều quá, trong lòng ngần ngại. Vua Thái Tông đem việc ấy hỏi Thừa chỉ Nguyễn Trãi, ông trả lời:
Pháp lệnh không bằng nhân nghĩa cũng rõ lắm rồi. Nay một lúc giết bảy người, e không phải là hành vi của bậc đại đức. Kinh Thư có câu: “An nhữ chỉ” (hãy yên với chổ đứng của mình), sách truyện có câu “Tri chỉ nhi hậu hữu định” (biết dừng rồi thì mới vững). Thần xin thuật lại nghĩa của chữ “chỉ” để bệ hạ nghe: “Chỉ” có nghĩa là yên với chổ đứng của mình, như trong cung là chổ đứng của bệ hạ, thỉnh thoảng bệ hạ có ngự ra nơi khác, thì mới yên chổ đứng của mình được. Người làm vua đối với nhân nghĩa cũng vậy, phải để lòng nơi nhân nghĩa, coi nhân nghĩa là chổ đứng của mình. Tuy có lúc ra oai giận dữ, nhưng không thể như thế mãi được, xin bệ hạ lưu ý những lời của thần.
Bấy giờ Lê Sát và Lê Ngân nói:
Ông có nhân nghĩa, có thể cảm hóa kẻ ác thành người thiện, xin giao chúng cho ông, phiền ông cảm hóa cho. Bèn bảo Nguyễn Trãi và Phan Thiên Tước nhận lấy những tên tù ấy.
Nguyễn Trãi nói:
Chúng là hạng trẻ con ương ngạnh, ranh mãnh, pháp chế của triều đình còn không trừng trị được, huống hồ bọn chúng tôi đức mỏng, cảm hóa thế nào được. Rồi sau xử chém 2 tên, còn lại thì xử đi đày. [55][56]
Tháng 2 năm 1437, vua Lê Thái Tông lại sai Hành khiển Nguyễn Trãi cùng với Lỗ bộ ty giám Lương Đăng sửa định nhã nhạc và qui chế lễ nghi trong triều đình. Nguyễn Trãi đã dâng lên bản vẽ khánh đá và biểu tâu rằng
“ |
Kể ra, thời loạn dùng võ, thời bình chuộng văn. Nay đúng là lúc nên làm lễ nhạc. Song không có gốc thì không thể đứng vững, không có văn thì không thể thi hành. Hoà bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng chiếu soạn nhạc, không dám không hết lòng hết sức, nhưng vì học thuật nông cạn, sợ rằng trong khoảng thanh luật, khó được hài hoà. Xin bệ hạ yêu nuôi muôn dân, để cho các nơi làng mạc không có tiếng oán giận than sầu, đó là không mất cỗi gốc của nhạc vậy[57][58] |
” |
—Nguyễn Trãi |
Vua Thái Tông khen ngợi và tiếp nhận sai thợ đá huyện Giáp Sơn lấy đá ở núi Kính Chủ để làm.
Trước đây, thời vua Lê Thái Tổ đã sai Nguyễn Trãi định ra quy chế mũ áo, chưa kịp thi hành, đến nay tháng 5, năm 1437, Lương Đăng dâng sớ thư đại ý nói:
Về lễ thì có lễ đại triều và lễ thường triều. Tế trời, cáo miếu, ngày thánh tiết 5 , ngày chính đám , thì làm lễ đại triều, hoàng đế mặc áo cổn, đội mũ miện, lên ngồi ngai báu, trăm quan đều mặc triều phục đội mũ chầu. Còn những ngày mồng một, ngày rằm hằng tháng thì Hoàng đế mặc áo bào vàng, đội mũ xung thiên, ngồi ngai báu, trăm quan đều mặc công phục, đội mũ. Lễ thường triều thì hoàng đế mặc áo bào vàng, đội mũ xung thiên, ngồi sập vàng, trăm quan mặc thường phục cổ tròn, đội mũ sa đen. Về nhạc thì có nhạc tế Giao, nhạc tế Miếu, nhạc tế Ngũ tự, nhạc cứu khi có nhật thực, nguyệt thực, nhạc đại triều, nhạc thường triều, nhạc cửu tấu khi đại yến, nhạc dùng trong cung, không thể dùng nhất loạt được. Về lỗ bộ đại giá, như xe kiệu thì có đại lộ, tượng lộ, mã lộ , có cửu long dư, thất long dư , có bộ liễn, có phi liễn; về nghi trượng thì có kim qua, phủ, việt, chàng, phướn, tinh kỳ, mao tiết, chương phiến , long ngũ phượng. Số ngựa đóng vào xe và số đội ngũ theo hầu cũng đều có quy định cả, thần không thể chép hết được. Thư ấy dâng lên, vua Thái Tông sai Lương Đăng định ra các quy chế. [59][60]
Nguyễn Trãi tâu với nhà vua rằng:
Mới rồi, bọn thần cùng với Lương Đăng hiệu định nhã nhạc, nhưng kiến giải của thần không giống với Lương Đăng, thần xin trả lại công việc được sai.[61][62]
Tháng 11 năm 1437, vua Lê Thái Tông cho ban bố các nghi thức lễ đại triều do Lương Đăng soạn định với triều đình, Nguyễn Trãi cầm đầu một nhóm văn thần như Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyến, Nguyễn Liễu, Nguyễn Truyền dâng sớ phản đối. Tờ tâu rằng:
Muốn chế tác lễ nhạc, phải đợi có người rồi hãy làm, được như Chu Công thì sau mới không có lời chê trách. Nay sai kẽ hoạn quan Lương Đăng chuyên định ra lễ nhạc, chẳng nhục cho nước lắm sao! Vả lại, quy chế lễ nhạc của y là dối vua lừa dưới, không dựa vào đâu cả, như đánh trống là bao giờ ra chầu triều sớm, nay vua ra chầu triều sớm, nay vua ra chầu rồi mới đánh.Theo quy chế xưa, khi vua ra, thì bên tả đánh chuông hoàng chung, rồi năm chuông bên hữu ứng theo, lúc vua vào đánh chuông chưng tân rồi năm chuông cũng ứng theo. Nay vua ra chầu, đánh 108 tiếng chuông, đó là số lần đếm tràng hạt của nhà sư. Nếu theo quy chế của nhà Minh, thì khi vua ngồi ở cửa Phụng Thiên phải có ngai báu, nay chỉ có một điện Hội Anh, lại chỉ có sập vàng, nếu di chuyển thì sợ không yên, đặt cả hai thứ cũng không được, thế là lễ nghi gì?. Làm xe thì đằng trước có diềm, đằng sau mở cửa. Nay lại mở cửa đằng trước, quy chế xưa làm như thế hay sao?. Khi vua ra thì có hô thét, khi vào thì có thu dẹp, đó là quy định của nghi lễ. Nay quan coi cửa xướng tâu mọi việc xong, các quan lui ra, vua con ngồi mà người thu dẹp đã la thét dọn dẹp là làm sao?. Vả lại, Đăng là đứa hoạn quan, thần trộm lấy làm ngờ lắm.[63][64]
Lỗ bộ ty đồng giám kiêm tri điển nhạc sự Lương Đăng tâu rằng:
Thần không có học thức, không biết quy chế cổ, các nghi thức nay đã làm, chỉ trông cả vào hiểu biết của thần mà thôi, còn ban hành hay không là quyền của bệ hạ, thần đâu dám chuyên quyền.[65][66]
Nguyễn Liễu tâu rằng: “Từ xưa đến nay chưa bao giờ có cảnh hoạn quan chuyên phá hoại thiên hạ như thế này”.Đinh Thắng từ trong bước ra, mắng rằng:”Hoạn quan làm gì mà phá hoại thiên hạ? Nếu phá hoại thiên hạ thì chém đầu ngươi trước”. Cuối cùng phải giao Liễu cho hình quan xét hỏi. Án xử xong, tội đáng chém, nhưng được lệnh riêng, cho thích chử vào mặt, đày ra châu xa. [67][68]
Khoảng cuối năm 1437, đầu năm 1438, Nguyễn Trãi xin về hưu trí ở Côn Sơn[69]– nơi trước kia từng là thái ấp của ông ngoại ông – chỉ thỉnh thoảng mới vâng mệnh vào chầu vua[6].
Năm 1439, Lê Thái Tông mời ông ra làm quan, ban cho chức tước là Vinh lộc Đại phu, Nhập nội Hành khiển Môn hạ sảnh Tả ty Hữu Gián nghị Đại phu kiêm Hàn Lâm viện Học sĩ Tri Tam quán sự Đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự[70]. Ông cũng được giao cho việc coi giữ sổ sách, xét án kiện quân dân ở Tây đạo và Bắc đạo[71]. Nguyễn Trãi nhận mệnh vua, dâng biểu tạ ơn với sự hả hê thấy rõ. Trần Huy Liệu cho rằng đây là những năm đắc chí nhất của Nguyễn Trãi[69]. Trong khoa thi Hội năm 1442, Nguyễn Trãi với danh nghĩa là Hàn Lâm viện Học sĩ kiêm Tri Tam quán sự ra làm Giám khảo và lấy đỗ Trạng nguyên Nguyễn Trực[69].
Vụ án Lệ Chi Viên
-
Tháng 9 năm 1442, vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông[72].
Ngày 1 tháng 9 năm 1442, sau khi nhà vua duyệt binh ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đón Lê Thái Tông đi thuyền vào chơi chùa Côn Sơn. Khi trở về Đông Kinh, người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ theo hầu vua. Ngày 7 tháng 9 năm 1442, thuyền về đến Lệ Chi Viên[e] thì vua bị bệnh, thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất. Các quan giấu kín chuyện này, nửa đêm ngày 9 tháng 9 năm 1442 về đến Đông Kinh mới phát tang. Triều đình qui tội Nguyễn Thị Lộ giết vua, bèn bắt bà và Nguyễn Trãi, khép hai người vào âm mưu thí nghịch.
Ngày 19 tháng 9 năm 1442 (tức ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất), Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc.
“ |
Ngày 16, giết Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ là Nguyên Thị Lộ, bắt tội đến ba họ. |
” |
—Đại Việt sử ký toàn thư, quyển XI |
Được phục hồi danh dự
Sau khi Nguyễn Trãi chết, đa phần những di cảo thơ văn và trước tác của ông đều bị tiêu hủy. Bản khắc in sách Dư địa chí bị Đại Tư đồ Đinh Liệt sai hủy[73] năm 1447[74]. Nhiều trước tác mất vĩnh viễn đến nay như Luật thư[75], Ngọc đường di cảo, Giao tự đại lễ,… Gia quyến Nguyễn Trãi cũng lưu tán khi biến cố Lệ Chi Viên xảy đến. Theo gia phả họ Nguyễn Nhị Khê, em trai Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Hùng chạy về Phù Khê, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Nguyễn Phù – một người con của Nguyễn Trãi – chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn. Bà vợ thứ năm của Nguyễn Trãi là Lê thị, đang mang thai, phải trốn về Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương[76]. Đặc biệt, bà vợ thứ tư của Nguyễn Trãi là Phạm Thị Mẫn, lúc đó cũng đang mang thai, được người học trò cũ của chồng là Lê Đạt giúp chạy trốn vào xứ Bồn Man, sau về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Tại Đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm Anh Vũ[76].
Tháng 8 năm 1464, sau 22 năm, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước hiệu là Tán Trù bá, bãi bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng con cháu ông làm quan. Nguyễn Anh Vũ khi ấy đi thi đỗ Hương cống[76], bèn được nhà vua bổ nhiệm làm Tri huyện[77].
Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Sau khi Nguyễn Trãi bị nạn 70 năm, ngày 8 tháng 8 năm 1512, vua Lê Tương Dực truy tặng Nguyễn Trãi tước Tế Văn hầu, chế văn truy tặng có câu
“ |
Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyênVăn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế
Dịch là:
Gặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũTruyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau[78] |
” |
Gia đình
Nguyễn Trãi có 5 bà vợ và 7 người con trai[76]
Vợ
- Bà Phạm Đỗ Minh Hiển
- Bà Phùng Thị
- Bà Nguyễn Thị Lộ
- Bà Phạm Thị Mẫn
- Bà Trần Anh Minh.
Con
- Nguyễn Khuê (con bà Trần Thị)
- Nguyễn Ứng (con bà Trần Thị)
- Nguyễn Phù (con bà Trần Thị)
- Nguyễn Bảng (con bà Phùng Thị)
- Nguyễn Tích (con bà Phùng Thị)
- Nguyễn Anh Võ(con bà Phạm Thị)
- Ông tổ chi họ Nguyễn ở Quế Lĩnh, Phương Quất, huyện Kinh Môn, Hải Dương (con bà Lê Thị)
Tư tưởng Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi được coi là một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam[79], tư tưởng của ông là sản phẩm của nền văn hóa Việt Nam thời đại nhà Hậu Lê khi mà xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển[80], đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam[79].
Tư tưởng Nguyễn Trãi không được ông trình bày thành một học thuyết có hệ thống[79] hay chứa đựng trong một trước tác cụ thể nào mà được thể hiện rải rác qua các tác phẩm của ông, được phát hiện bằng các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội hiện đại. Nét nổi bật trong tư tưởng Nguyễn Trãi là sự hòa quyện, chắt lọc giữa tư tưởng Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo[81] (trong đó Nho giáo đóng vai trò chủ yếu), có sự kết hợp chặt chẽ với hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam lúc đó.
Ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi
Tư tưởng Nguyễn Trãi xuất phát từ Nho giáo, mà cụ thể là Nho giáo Khổng Mạnh[5]. Ông đã vận dụng xuất sắc các tư tưởng Nho giáo vào công cuộc khởi nghĩa, chống lại sự thống trị của nhà Minh lên Việt Nam cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước thời kì đầu nhà Hậu Lê.
- Tư tưởng nhân nghĩa: Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học – chính trị của ông. Tư tưởng ấy có phạm vi rộng lớn, vượt ra ngoài đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức độ khái quát, trở thành nền tảng, cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ chính trị, là nguyên tắc trong việc quản lý, lãnh đạo quốc gia[82]. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng nhân dân, tinh thần yêu nước, tư tưởng hòa bình là một đường lối chính trị, một chính sách cứu nước và dựng nước. Nhân nghĩa còn được thể hiện ước mơ xây dựng xã hội lý tưởng cho nền thái bình muôn thuở: xã hội Nghiêu Thuấn của Nguyễn Trãi[82]. Tất nhiên mơ ước ấy của ông là không tưởng[83].
- Mệnh trời: Nguyễn Trãi tin ở Trời và ông coi Trời là đấng tạo hóa sinh ra muôn vật. Cuộc đời của mỗi con người đều do mệnh trời sắp đặt. Vận nước, mệnh vua cũng là do trời quy định. Nhưng Trời không chỉ là đấng sinh thành, mà còn có tình cảm, tấm lòng giống như cha mẹ. Lòng hiếu sinh và đạo trời lại rất hòa hợp với tâm lý phổ biến và nguyện vọng tha thiết của lòng người, đó là hạnh phúc, ấm no và thái bình. Nếu con người biết tuân theo lẽ trời, mệnh trời, thì có thể biến yếu thành mạnh, chuyển bại thành thắng. Và ngược lại, theo Nguyễn Trãi, nếu con người không theo ý trời, lòng trời, thì có thể chuyển yên thành nguy và tự rước họa vào thân.[79]
- Tư tưởng nhân dân: Nguyễn Trãi đầy lòng thương dân, yêu dân và trọng dân. Ông khẳng định nhân dân là lực lượng sản xuất ra vật chất của xã hội và động lực quyết định sự hưng vong của triều đại, đất nước. Ông được coi là nhân vật lịch sử có tư tưởng nhân dân cao quý nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam[84]
- Quan điểm sống: Nguyễn Trãi khuyên con người ta nên tu thân theo các tiêu chuẩn Nho giáo: sống trung dung, tuân theo tam cương ngũ thường, đặc biệt là đạo hiếu và đạo trung.
Về ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi, Trần Đình Hượu cho rằng
“ |
Về hệ thống, tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Trãi vẫn thuộc Nho giáo nhưng là một Nho giáo khoáng đạt, rộng rãi, không câu nệ và vì vậy không chỉ là gần gũi mà còn là phong phú hơn, cao hơn lối sống thuộc dân tộc trước đó |
” |
—Trần Đình Hượu |
Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi
Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi chủ yếu qua các tác phẩm thơ văn của ông với nội dung khuyên răn luân lí[85]. Ông khuyên con người ta không coi trọng vật chất mà nên sống với chữ đức, hiểu được giá trị bền vững của đạo đức, coi trọng danh dự và sự giàu có về tâm hồn hơn là sự giàu có về tiền bạc. Danh lợi là sắc không, đạo đức mới là của chầy. Muốn có đạo đức thì phải làm điều thiện, sống có hiếu, có khí tiết, không uốn mình, không cầu xin danh lợi, không oán thán, biết tha thứ cho người khác, sống trong sạch, lành mạnh, thanh tịnh, luôn nhận phần thiệt thòi về mình[85]. Tư tưởng Lão – Trang thể hiện ở quan niệm sống phủ nhận danh lợi, ung dung tự tại, vô vi và hòa hợp với thiên nhiên[86].
Một số ý kiến cho rằng, ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo, dù chỉ giữ vị trí thứ yếu trong tư tưởng Nguyễn Trãi, chính là ảnh hưởng của tam giáo đồng nguyên trong hệ tư tưởng Lý – Trần. Nguyễn Trãi sống trong một thời kỳ quá độ, thời kỳ bản lề của hai chặng đường lịch sử văn hoá Việt Nam. Trước Nguyễn Trãi là một văn hoá Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Phật giáo, sau Nguyễn Trãi là một văn hoá Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Nho giáo từ Trung Quốc. Nguyễn Trãi chủ trương xây dựng một nền văn hóa dân tộc, Nho giáo trong tư tưởng của ông có thể gọi là tư tưởng Nho giáo dân gian. Sự thất bại của Nguyễn Trãi trong việc chế định nhã nhạc và việc Lương Đăng hoàn toàn mô phỏng nhã nhạc triều Minh trong việc soạn nhạc cung đình triều Lê đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự tiến triển của tình trạng nhị nguyên văn hoá giữa cung đình và dân gian. Sức sống của nền văn hoá dân tộc giờ đây phải tìm về kho tàng văn hoá dân gian, ở đó các cương lĩnh Nho giáo đã bị lật ngược lại, còn trong triều đình thì về chính trị là chế độ trung ương tập quyền theo hướng chuyên chế, về tư tưởng – văn hóa thì theo hướng độc tôn Nho giáo, bài xích Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian[87].
Sự nghiệp văn chương
Nguyễn Trãi để lại rất nhiều trước tác văn chương, cả bằng chữ Hán và chữ Nôm, bao gồm các lĩnh vực văn học, lịch sử, địa lý, luật pháp, lễ nghi… song đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi Viên. Các tác phẩm còn lại đến nay của ông, phần lớn được sưu tập và tập hợp trong bộ Ức Trai thi tập của Dương Bá Cung, được khắc in vào năm 1868 đời nhà Nguyễn.
Văn chính luận
Lịch sử
- Lam Sơn thực lục là quyển lịch sử ký sự ghi chép về công cuộc 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn, do vua Lê Thái Tổ sai soạn vào năm 1432. Vấn đề tác giả của trước tác này vẫn còn chưa rõ ràng[89], dù cho đến nay nhiều người khẳng định rằng Lam Sơn thực lục là tác phẩm do Nguyễn Trãi nhưng điều đó vẫn chỉ mang tính phỏng đoán[90].
Văn bia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi soạn năm
1433
Địa lý
Thơ phú
- Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, gồm 254 bài thơ, chia làm 4 mục: Vô đề (192 bài), Thời lệnh môn (21 bài), Hoa mộc môn (34 bài), Cầm thú môn (7 bài). Đây là tập thơ nôm xưa nhất của Việt Nam còn lại đến nay[91]. Bằng tập thơ này, Nguyễn Trãi là người đặt nền móng cho văn học chữ Nôm của Việt Nam[92]
- Chí Linh sơn phú là bài phú bằng chữ Hán, kể lại sự kiện nghĩa quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba vào năm 1422.
Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn có một số tác phẩm khác như Ngọc đường di cảo, Thạch khánh đồ, Luật thư, Giao tự đại lễ nhưng đều không còn lại đến ngày nay.
Nhận định
Sách Khâm định việt sử thông giám cương mục chép rằng:
- Đời Lê Thái Tông, vua thì buông tuồng, bầy tôi thì chuyên quyền. Trãi nếu là người hiền, thì nên sớm liệu rút lui, ẩn náu tung tích để cho danh tiếng được toàn vẹn. Thế mà lại đi đón trước ngự giá, thả lỏng cho vợ làm việc hoang dâm, vô liêm sỉ. Vậy thì cái vạ tru di cũng là tự Trãi chuốc lấy. Như thế sao được gọi là người hiền?
Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Lê Thánh Tông chú thích rằng:Ức Trai tiên sinh, đương lúc Thái Tổ mới sáng nghiệp theo về Lỗi Giang, trong thì bàn kế hoạch nơi màn trướng, ngoài thì thảo văn thư dụ các thành; văn chương tiên sinh làm vẻ vang cho nước, lại được vua yêu tin quí trọng. [93]
Về phẩm chất và sự nghiệp
-
-
-
- Công giúp hồng đồ cao nữa (tựa) núi
Danh ghi thanh sử sáng bằng gương [94]
- Người thế kỉ 17 còn đánh giá ông cao hơn nữa. Đỗ Nghi cũng là người triều Lê, nhưng ông đã nói thẳng: Nhà Lê sở dĩ lấy được thiên hạ đều do sức ông cả và Đỗ Nghi tiếc rằng: Tiếc thay trời chưa muốn bình trị thiên hạ, cho nên cuối cùng ông vẫn chỉ làm chức hành khiển Đông đạo, không được giở hết hoài bão của mình; việc đó không phải là không may cho ông, mà chính là không may cho sinh dân đời Lê vậy.[95]
- Sang thế kỉ 18 Dương Bá Cung cũng phải thừa nhận công lao của ông trùm khắp trên đời [96]
- Lê Quý Đôn trong Kiến Văn tiểu lục nhận định về ông: “đứng vào bậc nhất một đời, chức vị Thượng thư, cấp bậc công thần. Cứ xem ông giúp chính trị hai triều vua hết lòng trung thành, tuy dâng lời khuyên răn thường bị đè nén mà không từng chịu khuất… nhưng vì tối nghĩa về “chỉ, túc” thành ra cuối cùng không giữ được tốt lành, thật đáng thương xót!… Người có công lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn năm cũng không thể mai một được”[97].
- Cho tới 400 năm sau khi Nguyễn Trãi chết, người Việt Nam ở thế kỷ 19 vẫn rất mực tôn quý ông và khẳng định: Nước Việt ta, từ Đinh, Lê, Lý, Trần, đời nào sáng lập cơ nghiệp đế vương, tất cũng đều phải có các tướng tá giúp sức, nhưng tìm được người toàn tài toàn đức như Ức Trai tiên sinh, thật là ít lắm[98]
- Ở thế kỉ 20, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá: Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị: chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị ngoại giao “mở nền thái bình muôn thủa, rửa nỗi thẹn nghìn thu”; võ là quân sự: chiến lược và chiến thuật, “yếu đánh mạnh ít địch nhiều… thắng hung tàn bằng đại nghĩa”; văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao… Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử nước ta[99].
Công lao, sự nghiệp của Nguyễn Trãi rõ ràng là huy hoàng, vĩ đại, Nguyễn Trãi quả thật là anh hùng, là khí phách, là tinh hoa của dân tộc. Công lao quý giá nhất và sự nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước yêu dân tha thiết và sự nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang của ông. Ông đã đem hết tâm hồn, trí tuệ, tài năng phục vụ lợi ích của dân tộc trong phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng chính trị quân sự ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của ông đã dẫn đường cho phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng lợi.[100] Thiên tài của Nguyễn Trãi là sản phẩm của phong trào đấu tranh anh dũng của dân tộc trong một cao điểm của lịch sử. Thiên tài ấy đã để lại một sự nghiệp lớn về nhiều mặt mà chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm mới có thể đánh giá đầy đủ và chính xác được. Dầu sao, nếu chỉ xét về mặt văn hóa thì cũng có thể khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã cắm một cột mốc quan trọng trên con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực văn học.
Về văn chương
Nguyễn Trãi được đánh giá là một nhà văn chính luận kiệt xuất[101]. Đời sau có nhiều người ca ngợi văn chương của ông[101]:
- Nguyễn Mộng Tuân xem ông là “bậc văn bá”
- Lê Quý Đôn đánh giá ông là “văn thư thảo hịch giỏi hơn hết một thời”
- Tô Thế Nghi ca ngợi ông là “sông Giang sông Hán trong các sông và sao Ngưu sao Đẩu trong các sao”
- Phạm Đình Hổ xem văn chương của ông “có khí lực dồi dào… đọc không chán miệng”
- Theo Dương Bá Cung, văn Nguyễn Trãi “rõ ràng và sang sảng trong khoảng trời đất”
- Theo Phan Huy Chú: “văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế”
- Phạm Văn Đồng nhìn nhận văn chương Nguyễn Trãi “đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường”
Riêng những tác phẩm văn chính luận của ông mang tính chiến đấu xuất phát từ ý thức tự giác dùng văn chương phục vụ cho những mục đích chính trị, xã hội, thể hiện lý tưởng chính trị – xã hội cao nhất trong thời phong kiến Việt Nam[102]. Ngoài ra, các tác phẩm này còn phản ánh tinh thần dân tộc đã trưởng thành, điều này được đánh giá là một thành tựu lịch sử tư tưởng và lịch sử văn học Việt Nam[103].
Về nhận định của Lê Thánh Tông trong thơ ca
Lê Thánh Tông trong bài “Quân minh thần lương” (君明臣良) của tập thơ “Quỳnh uyển cửu ca” (瓊苑九歌) có câu: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo” (抑齋心上光奎藻). Trong một thời gian dài, nhiều sách giáo khoa lịch sử và văn học dịch câu này là: “Tâm hồn Úc Trai trong sáng như sao Khuê buổi sớm”. Nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân khẳng định đây là một cách dịch sai lầm và lý giải nguồn gốc như sau:
Cách dịch câu thơ trên của Lê Thánh Tông như mọi người thường biết bắt đầu từ năm 1962, khi nhà sử học Trần Huy Liệu đưa ra bản dịch câu thơ đó trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 520 năm ngày mất của Nguyễn Trãi, mà Bùi Duy Tân khẳng định là dịch sai: “Ức Trai lòng sáng như sao Khuê”[104]. Bùi Duy Tân phân tích, trong câu dịch này, chữ “tảo” không được dịch, chữ “Khuê” bị hiểu sai nghĩa về văn cảnh. Các nhà xuất bản, trường học lần lượt sử dụng lời dịch sai này, xem đây là lời bình luận về nhân cách Nguyễn Trãi. Hệ quả là sau đó nhiều tác phẩm văn học, ca kịch… nói về Nguyễn Trãi dùng “sao Khuê” làm cách hoán dụ để nói về ông (“Sao Khuê lấp lánh”, “Vằng vặc sao Khuê”…)[104].
Trong giới nghiên cứu, giảng dạy văn học cổ đã từng có nhiều ý kiến nói về cách dịch sai này, nhưng ít tác giả làm rõ vấn đề[105]. Cần xem câu thơ của Lê Thánh Tông trong toàn bộ bài “Quân minh thần lương” để làm rõ nghĩa:
Nguyên văn chữ Hán:
-
-
- 高帝英雄蓋世名
文皇智勇撫盈成
抑齋心上光奎藻
武穆胸中列甲兵
十鄭第兄聯貴顯
二申父子佩恩榮
孝孫洪德承丕緒
八百姬周樂治平
Phiên âm Hán Việt:
-
-
- Cao Đế anh hùng cái thế danh
Văn Hoàng trí dũng phú doanh thành
Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo
Vũ Mục hung trung liệt giáp binh
Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển
Nhị Thân phụ tử bội ân vinh
Hiếu tôn Hồng Đức thừa phi sự
Bát bách Cơ Chu lạc trị bình
Bài thơ này ca ngợi sự nghiệp nhà Hậu Lê. Bản dịch thơ của Hoàng Việt thi văn tuyển xuất bản năm 1958 (xuất bản trước thời điểm Trần Huy Liệu đưa ra bài viết có câu dịch được phổ biến năm 1962) được các nhà nghiên cứu đính chính câu thơ trên cho rằng đã dịch đúng[104]:
- Cao Đế anh hùng dễ mấy ai
Văn Hoàng trí dũng kế ngôi trời
Văn chương Nguyễn Trãi lòng soi sáng
Binh giáp Lê Khôi bụng chứa đầy
Mười Trịnh vang lừng nền phú quý[f]
Hai Thân sáng rạng vẻ cân đai[f]
Cháu nay Hồng Đức nhờ ơn nước
Cơ nghiệp Thành Chu vận nước dài
Một dị bản khác là Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, câu thứ 4 không dùng “liệt” mà dùng “uẩn” mang nghĩa chất chứa, được nhìn nhận là chuẩn xác hơn, và do đó đối chỉnh nghĩa với câu 3 về Nguyễn Trãi hơn. Theo nghĩa đen, “khuê” là 1 trong 28 vị tinh tú, biểu tượng của văn chương; tảo là loài rong biển, nghĩa rộng là màu vẻ đẹp đẽ, không phải mang nghĩa “sớm”[106].
“Khuê tảo” đi với nhau chỉ văn, đối với “giáp binh” ở câu dưới chỉ võ. Cách dùng “khuê” để chỉ văn chương khá quen thuộc, ngay cả Lê Thánh Tông trong “Quỳnh uyển cửu ca” cũng có viết “…thổ hồng nghê chí khí, quang khuê tảo chi văn” (nghĩa là: “nhả cái khí vồng mống, rạng cái vẻ văn chương…”). Do đó “khuê tảo” trong câu thơ của Lê Thánh Tông là ca ngợi văn chương Nguyễn Trãi chứ không phải ca ngợi nhân cách của ông[107].
Ảnh hưởng
Ảnh hưởng trong văn hóa
Năm 1956, Bộ Văn hoá Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tổ chức lần đầu tiên lễ kỷ niệm Nguyễn Trãi nhân 514 năm ngày mất của ông[108]. Sau đó, vào các năm 1962, 1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều đặn kỉ niệm 520 năm và 525 năm ngày mất của Nguyễn Trãi và đã phát hành một bộ tem về ông vào năm 1962[109]. Năm 1980, Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phát hành một bộ tem về Nguyễn Trãi nhân kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông[110].
Đền thờ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê, Hà Nội vốn là từ đường của họ Nguyễn Nhị Khê, được xây dựng sau khi vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết cho ông[76]. Đền còn lưu giữ bức chân dung Nguyễn Trãi cổ vẽ trên lụa và nhiều bức hoành phi nêu bật công lao và đức độ Nguyễn Trãi. Nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, nhà thờ đã được tôn tạo mở rộng, có thêm phòng trưng bày về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi và tượng đài Nguyễn Trãi. Đền được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá vào tháng 1 năm 1964.[111].
Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, Hải Dương được khởi công xây dựng vào năm 2000 và khánh thành vào năm 2002. Toạ lạc tại khu vực động Thanh Hư, đền có mặt bằng rộng 10.000m2, xoải dốc dưới chân dãy Ngũ Nhạc kề liền núi Kỳ Lân, chia thành nhiều cấp, tạo chiều sâu và tăng tính uy nghiêm. Nghệ thuật trang trí mô phỏng phong cách Lê và Nguyễn. Đền đã được công nhận di tích nghệ thuật kiến trúc năm 2003.[111].
Ngoài ra, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ cũng được thờ ở làng Khuyến Lương, nay là phường Trần Phú, quận Hoàng Mai và ở xã Lệ Chi Viên, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Tên ông cũng đã được đặt tên cho nhiều con đường ở Việt Nam như: tại Hà Nội đường Nguyễn Trãi nối Ngã tư Sở với quốc lộ 6, thành phố Uông Bí (từ phố Thanh Sơn đến phố Trần Khánh Dư), Hoành Bồ (Quảng Ninh) và tại nhiều thành phố khác ở Việt Nam.
Ảnh hưởng trong nghệ thuật
Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi đã trở thành cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật.
Chú giải
• a)^ Một huyện xưa ở phủ Tầm Châu, Quảng Tây, Trung Quốc
• b)^ Một châu quận ở Quảng Tây, Trung Quốc
• c)^ Thiều Châu: là một châu quận thuộc Trung Quốc. Văn Hiến là Trương Cửu Linh
• d)^ Lỗi Giang: tên một địa điểm nằm ở trên bờ sông Mã, giữa huyện Cẩm Thủy, Bá Thước và Quan Hóa (Thanh Hóa)
• e)^ Nay thuộc thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
• f)^ Mười Trịnh là mười anh em họ Trịnh, con của Trịnh Khả đều làm quan trong triều, hai Thân là cha con Thân Nhân Trung và Thân Nhân Vũ.
Chú thích và tham khảo
Ghi chú
- ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 216, dẫn lại từ Băng Hồ di sự lục
- ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 18
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư
- ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 19. Nguyễn Lương Bích 1973, tr. 39 thì ghi rằng chỉ có bốn người con là Nguyễn Trãi, Nguyễn Báo, Nguyễn Hùng và Nguyễn Ly.
- ^ a ă Trần Huy Liệu 1966, tr. 49
- ^ a ă â b Phan Huy Chú 1961, tr. 192
- ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 49
- ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 20
- ^ a ă â Trần Huy Liệu 1966, tr. 21
- ^ Nguyễn Lương Bích 1973, tr. 58
- ^ a ă Nguyễn Lương Bích 1967, tr. 23-38
- ^ Nguyễn Lương Bích 1973, tr. 62-63
- ^ Nguyễn Lương Bích 1973, tr. 79-80
- ^ Hoàng Xuân Hãn 1966, tr. 3-23. Đặng Nghiêm Vạn 1967, tr. 42-49. Phan Huy Lê trong sách Khởi nghĩa Lam Sơn (NXB Khoa học xã hội, 1988) cũng ghi tên Nguyễn Trãi vào danh sách người dự hội thề Lũng Nhai.
- ^ a ă Trần Huy Liệu 1960, tr. 22
- ^ Nhị Khê Nguyễn tộc thế phả, thế phả của họ Nguyễn Nhị Khê
- ^ a ă Lê Quý Đôn, Toàn Việt thi lục, tiểu chú về Nguyễn Trãi
- ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007
- ^ a ă Trần Huy Liệu 1966, tr. 110
- ^ Lê Quý Đôn 2007, tr. 48 chép việc cầu hoà xảy ra vào khoảng cuối năm 1422
- ^ a ă “Đinh tộc ngọc phả (phần bốn)”. Đinh Xuân Vinh. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2010.
- ^ Nhị Khê Nguyễn tộc thế phả chép là Lê Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi thần. Gia phả của nhà Lưu Nhân Chú ghi rằng chính cha Lưu Nhân Chú là Lưu Trung, anh rể Lưu Nhân Chú là Phạm Cuống và Lưu Nhân Chú mới là người nghĩ và thi hành kế này
- ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 114
- ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 30 và Lê Quý Đôn 2007, tr. 66
- ^ Lê Quý Đôn 2007, tr. 64
- ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 50, dẫn lại từ Ức Trai thi tập tự của Trần Khắc Kiệm
- ^ Nguyễn Trãi 1976, tr. 64
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điển tử, trang 351
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điển tử, trang 351, 352
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 47-48
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điển tử, trang 351, 352
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điển tử, trang 351, 352, 353, 354
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điển tử, trang 361, 362, 366
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điển tử, trang 361, 362, 366
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Quan Phục hầu là chức thấp nhất trong báng phong thần, xếp thứ 9
- ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 60
- ^ Trong Băng Hồ di sự lục do Nguyễn Trãi viết vào tháng 11 âm lịch năm 1429 thì chức tước đầy đủ của ông là Tuyên phong Đại phu, Nhập nội Hành khiển Môn hạ (sảnh) Hữu Gián nghị Đại phu, Đồng Trung thư lệnh sự, ban cho kim tử ngư đại, Thượng hộ quốc, Quan phục hầu, cho quốc tính, Lê Trãi
- ^ Lê Quý Đôn 2007, tr. 89
- ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 78
- ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 81
- ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 104 ghi rằng vua không chấp nhận đề nghị này của các quan đại thần. Tuy vậy, trong Ức Trai di tập tự của Trần Khắc Kiệm ghi chức quan của Nguyễn Trãi có chép là ông hầu giảng toà Kinh Diên và cầm đầu Ngũ kinh Bác sĩ
- ^ Nguyễn Trãi 1976, tr. 211. Trần Văn Giáp trong Ức Trai quân trung từ mệnh tập bổ biên, Tài liệu đánh máy, Thư viện Quốc gia Việt Nam cho rằng sách Dư địa chí nằm trong một bộ sách có nhan đề Quốc thư bảo huấn và phỏng đoán rằng đây có thể là một bộ sử lớn, bách khoa thư hoặc tùng thư
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 378
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 384
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, Nhà xuất bản giáo dục, 2006, Phan Huy Chú, Nhân vật chí, trang 276 Nhà xuất bản giáo dục 2006
- ^ Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976,trang 243
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 387
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 393
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 394
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 394
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 400
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 400
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1993, bản điện tử, trang 400
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ a ă â Trần Huy Liệu 1966, tr. 29
- ^ Nguyễn Trãi 1976, tr. 204. Chức Đề cử Tư Phúc tự (trông coi chùa Côn Sơn) có lẽ được Lê Thái Tông ban cho Nguyễn Trãi vào khoảng mười năm thanh chức,, tức khoảng năm 1430 đến những năm 1440
- ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 50, dẫn lại từ Trần Khắc Kiệm, Ức Trai di tập tự. Trần Huy Liệu 1966, tr. 29 thì ghi hai đạo là Đông đạo và Bắc đạo
- ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 131
- ^ Nguyễn Trãi 1976, tr. 246
- ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 45
- ^ Lê Quý Đôn 2007, tr. 128
- ^ a ă â b c “Tìm hiểu phả hệ dòng họ Nguyễn Trãi”. Nguyễn Khắc Minh.
- ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 189
- ^ Lê Quý Đôn 2007, tr. 309
- ^ a ă â b “Về tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi”. Doãn Chính.
- ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 74
- ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 78
- ^ a ă “Về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi”. Lương Minh Cừ – Nguyễn Thị Hương.
- ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 144
- ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 56
- ^ a ă “Về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi”. La Kim Liên.
- ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 164-173
- ^ “Nguyễn Trãi trong bối cảnh văn hóa Việt Nam”. Trần Quốc Vượng.
- ^ Nguyễn Trãi 1976, tr. 99
- ^ Nhiều tác giả 1963, tr. 385
- ^ Trần Văn Giáp trong Ức Trai quân trung từ mệnh tập bổ biên, Tài liệu đánh máy, Thư viện Quốc gia Việt Nam phê phán người đem Lam Sơn thực lục gán ghép cho Nguyễn Trãi là thiếu thận trọng
- ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 159
- ^ Nhiều tác giả 2007, tr. 17
- ^ Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, Nhà xuất bản giáo dục, 2006, trang 277
- ^ Hà Nhiệm Đại, Khiếu vịnh tập, dẫn trong Quốc âm thi tập, bản phiên âm của NXB Văn Sử Địa, 1956, trang 16
- ^ Dương Bá Cung, Bình luận chư thuyết trong Ức Trai di tập, quyển 5
- ^ Dương Bá Cung, Tiên sinh sự trạng khảo trong Ức Trai di tập, quyển 5
- ^ Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, NXB Văn hóa thông tin, 2007, tr 308-309. Ý Lê Quý Đôn nói theo lời của Lão Tử, cho rằng Nguyễn Trãi có tài nhưng không biết thời thế không thuận lợi thì nên rút lui nên mới gặp họa
- ^ Nguyễn Năng Tĩnh, Tựa Ức Trai di tập của Dương Bá Cung
- ^ Phạm Văn Đồng, Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, báo Nhân dân số 3099, ngày 19-9-1962
- ^ Nguyễn Lương Bích, trang 603
- ^ a ă Bùi Duy Tân, sách đã dẫn, tr 72
- ^ Bùi Duy Tân, sách đã dẫn, tr 79
- ^ Bùi Duy Tân, sách đã dẫn, tr 73, 76
- ^ a ă â Bùi Duy Tân, sách đã dẫn, tr 94
- ^ Bùi Duy Tân, sách đã dẫn, tr 95
- ^ Bùi Duy Tân, sách đã dẫn, tr 96
- ^ Bùi Duy Tân, sách đã dẫn, tr 96-97
- ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 5
- ^ “Nguyễn Trãi (1380 – 1442)”.
- ^ “Kỷ niệm 600 năm năm sinh Nguyễn Trãi (1380 – 1980)”.
- ^ a ă “Đền Nguyễn Trãi”.
Thư mục
- Lê Quý Đôn (2007), Đại Việt thông sử, Hà Nội: NXB Văn hoá – Thông tin
- Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, Hà Nội: NXB Văn hoá – Thông tin
- Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, Bản dịch 4, Hà Nội: NXB Sử học
- Quốc sử quán triều Nguyễn (1969), Đại Nam Nhất thống chí, Hà Nội: NXB Khoa học xã hội
- Nhiều tác giả (1963), Mấy vấn đề về sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi: Nhân kỷ niệm 520 năm ngày Nguyễn Trãi mất, Hà Nội: NXB Khoa học
- Hoàng Xuân Hãn (1966), Những lời thề của Lê Lợi, Sài Gòn: Tập san Sử – Địa số 1 – 2
- Nguyễn Lương Bích (1967), Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ bao giờ ?, Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 98
- Đặng Nghiêm Vạn (1967), Tìm thấy gia phả dòng họ Lưu Nhân Chú, Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 105
- Trần Văn Giáp (1970), Ức Trai Quân trung từ mệnh tập bổ biên, Hà Nội: Tài liệu đánh máy
- Nguyễn Lương Bích (1973), Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, Hà Nội: NXB Quân đội Nhân dân
- Nguyễn Trãi (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Hồ Chí Minh: NXB Khoa học xã hội
- Phan Huy Lê (1988), Khởi nghĩa Lam Sơn, Hà Nội: NXB Khoa học xã hội
- Nguyễn Hữu Sơn (2007), Nguyễn Trãi – Về tác gia và tác phẩm, Hà Nội: NXB Giáo dục
- Nhiều tác giả (2007), Bài tập Ngữ văn 10 tập hai (nâng cao), Hà Nội: NXB Giáo dục
- Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận về một số tác gia-tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, tập 1, Hà Nội: NXB Khoa học giáo dục
Liên kết ngoài
Thể loại:
Trận Borodino
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Về các trận chiến khác đã diễn ra tại Moskva, xem bài định hướng Trận Moskva
|
Tranh về trận chiến Borodino của Louis Lejeune. |
. |
|
Tham chiến |
|
|
Chỉ huy |
Napoléon Bonaparte |
Mikhail Kutuzov |
|
|
Lực lượng |
130.000 người, 587 pháo[6] |
132.000 quân, 640 pháo |
Tổn thất |
35.000 chết, thương và bị bắt[7] |
39.000-45.000 chết, thương và bị bắt[8][9] |
. |
¹ Lưu ý rằng mặc dù không tồn tại cờ hiệu chính thức trong thời kỳ này, nhưng ba màu tượng trưng cho các màu khăn quàng vai của sĩ quan và đại bàng hai đầu tượng trưng cho biểu tượng quốc gia chính thức của Sa hoàng nước Nga. |
|
Trận Borodino (tiếng Nga: Бородинское сражение, Borodinskoe srazhenie; tiếng Pháp: Bataille de la Moskova) giữa quân đội Pháp do Napoléon I chỉ huy và quân đội Nga dưới sự chỉ huy của tướng M. I. Kutuzov diễn ra tại vùng Borodino – ngoại ô Moskva vào ngày 7 tháng 9 năm 1812 (hay 26 tháng 8 năm 1812 theo lịch Nga cổ). Đây được coi là trận chiến lớn thứ 3 và đẫm máu nhất trong các cuộc chiến tranh xâm lược của Napoléon Bonaparte, với sự tham gia của trên 25 vạn quân từ cả hai phía và số thương vong ít nhất trên 7 vạn người.
Để bảo vệ đất nước, những chiến binh Nga đã chiến đấu ngoan cường.[10] Trận đánh lịch sử kéo dài chỉ vỏn vẹn trong một ngày trời với thiệt hại nặng nề cho cả đôi bên, nhưng vì những lý do chiến thuật quân đội Nga – sau khi tuyên bố thắng trận [1] – đã tự động rút lui để nhường đường cho quân Pháp tiến vào thành phố Moskva. Tuy vậy, Napoléon đã thất bại trong mục đích tiêu diệt Quân đội Nga trong trận đánh lớn một ngày.[11] Do đó, Kutuzov và ba quân vẫn đứng vững[10] và trận kịch chiến tại Borodino trở thành một chiến thắng tinh thần của nước Nga.[12]
Và, sau trận đánh này quân xâm lược tinh nhuệ của Pháp đã bị tiêu hao sinh lực đáng kể, không đủ khả năng để tiếp tục đánh chiếm các vùng đất khác của Đế quốc Nga. Trong khi đó các nguồn tiếp tế lương thực thuốc men từ hậu phương đều bị quân Nga đánh phá. Kết cục mùa đông năm 1812 quân Pháp đã phải tháo chạy khỏi nước Nga và chiến dịch quân sự đánh chiếm nước Nga của Napoleon I hoàn toàn phá sản, mà nguyên nhân chủ chốt là nhờ sự sống còn của lực lượng Quân đội Nga sau trận đánh Borodino này.[13]
Cuộc đại chiến Borodino có tầm quan trọng đặc biệt lớn trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc Nga, là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của họ, đưa nước Nga cận đại trở nên vinh quang trên võ đài quốc tế.[11] Trận đánh ác liệt này luôn lôi cuốn giới sử học.[13] Nhờ tài nghệ chỉ huy nhân dân Nga đấu tranh chống những kẻ xâm lăng, Nguyên soái Mikhail Illarionovich Kutuzov – vị Tổng tư lệnh Quân đội Nga trong cuộc đại chiến này – được tôn vinh làm anh hùng thiên cổ.[14] Hàng triệu người biết đến trận đánh lớn này thông qua cuốn tiểu thuyết “Chiến tranh và Hòa bình của đại văn hào nước Nga Lev Nikolayevich Tolstoy.[15]
Bối cảnh lịch sử
Tình hình châu Âu vào năm 1812, quân Pháp tiến quân theo nhiều hướng vào nước Nga. Mặc dù từng liên minh với Nga chống lại Pháp, nhưng trong lần này quân Áo và Phổ lại hỗ trợ quân Pháp đánh Nga.
Sau khi Quân đội Nga bị quân Pháp đánh bại trong các năm 1805 và 1807, nên Nga hoàng Aleksandr I ký kết Hiệp định Tilsit với Napoléon, theo đó người Pháp áp đặt Hệ thống Phong tỏa Lục địa lên người Nga. Trước tình cảnh đó, quý tộc Nga cảm thấy căm phẫn trước cái mà họ cho là Nga thần phục Pháp. Như Công tước Sergei Volkonsky mô tả, các thất bại tại Austerlitz và Friedland cùng với sự bất lực của Nga hoàng trước các chính sách của Napoléon là “những vết thương sâu nặng trong con tim của mọi người Nga”. Người Nga quyết tâm phải trả thù. Dù Napoléon có gặp gỡ Nga hoàng vào năm 1808, nước Nga càng trở nên căng thẳng với Pháp.[16][17] Thế rồi, đầu năm 1812, Triều đình Nga bí mật ký kết thoả ước thương mại với Anh Quốc, vi phạm Hệ thống Phong toả Lục địa. Nhờ đó, Nga hoàng Aleksandr I cảm thấy ông được tự do thoát khỏi sự cường quyền của ngoại bang. Tuy nhiên, Napoléon không thể chấp nhận được điều này và ông quyết định xâm lược nước Nga, để buộc Nga phải phục tùng.[18]
Đội quân La Grande Armée dưới sự chỉ huy của Napoléon bắt đầu hành quân vào nước Nga vào ngày 16 tháng 6 năm 1812. Sa hoàng Aleksandr I đã phát động một cuộc chiến tranh Vệ quốc nhằm chống lại kẻ xâm lược. Theo kế hoạch của viên tướng người Đức, Karl Ludwig von Phull, đại quân dưới quyền chỉ huy của Hầu tước Mikhail Barklay-de-Tolli sẽ chặn quân Pháp ở vùng Vilnius, còn đạo quân phía Nam do Bagration chỉ huy sẽ phát động đánh thọc sườn quân Pháp. Tuy nhiên, mọi người sớm nhận ra rằng kế hoạch của von Phull là một sai lầm chết người, với 60 vạn quân, La Grande Armée thừa sức nghiền nát hai đạo quân Nga. Hơn nữa, sự có mặt của Sa hoàng Nga trong lúc này càng khiến nội bộ người Nga lục đục hơn. Quân Nga đang đóng ở dọc biên Ba Lan buộc phải rút lui trược sự tiến công của người Pháp.[19]
Vì vậy, trong những ngày đầu của cuộc chiến quân đội Pháp đã tiến rất nhanh vào sâu lãnh thổ nước Nga mà không gặp phải bất cứ sự kháng cự đáng kể nào. Sau khi đến Vitebsk, Napoléon hy vọng sẽ chạm trán và tiêu diệt quân Nga đâu đó gần đây, nhưng trên thực tế, quân Pháp đang ở cách nơi đóng quân gần nhất của quân Nga tại Kaunas tới 925 km (575 mi) [20] Du mục Cozak, Khinh Kỵ binh, lính du kích và cả lính Pháp đào ngũ đều được điều động đánh phá vào đường vận lương của quân Pháp khiến họ gặp nhiều khó khăn và suy giảm lực lượng.[21] Đại quân dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Napoléon vượt sông Neman gồm có 286.000 người nhưng vào lúc mà trận đánh diễn ra chỉ còn có 161.475, phần lớn đều chết do đói hoặc do bệnh tật.[22] Tuy nhiên, với tham vọng đả bại quân Nga, Napoléon bỏ qua mọi trở ngại mà hành quân tiến sâu vào đất Nga và kéo dài con đường vận lương thực.
Trong khi đó, cuộc đấu đá nội bộ quân Nga giữa phe Barclay và những người còn lại nổ ra khi ông chủ trương rút tiếp để bảo toàn lực lượng và chờ đợi quân Pháp suy yếu vì thiếu đói và giá lạnh để phản công.[23] Ông nhận thức rõ chạm trán với quân Pháp lúc này là chuốc lấy thất bại. Tuy nhiên các binh sĩ Nga đều khao khát chiến đấu chống lại quân xâm lược. Đã có nhiều tin đồn ác ý về Barclay, vì thế ông bị thất sủng và được thay thế bởi Nguyên Soái Mikhail Illarionovich Kutuzov sau khi ông này được một Ủy ban đặc biệt bầu chọn vào ngày 5 tháng 8.[24] Vị tướng 67 tuổi không nhận được đánh giá cao từ người đương thời với ông là Napoléon.[25] Ông thực sự cũng không ưa Barklay vì ông này là người gốc Scotland và nhiều người không chấp nhận Barklay phục tùng Kutosov.[26] Ngày 18 tháng 8, Kutosov đến Sarevo để ra mắt quân đội.[19]
Sau khi nắm tình hình quân đội, Kutosov tổ chức một đội hậu quân mạnh do tướng Konovnytsyn chỉ huy, rồi hạ lệnh vừa rút lui vừa chuẩn bị một trận đánh lớn. Ông hiểu rõ quyết định rút lui của tướng Barklay là chính xác nhưng cứ tiếp tục rút lui như thế này thì sĩ khí của quân Nga sẽ tiêu tan hết.[19] Vì vậy, một trận đánh để giữ sĩ khí ba quân lúc này là rất cần thiết. Tuy nhiên, vị chỉ huy mới vẫn chưa quyết định lập đồn phòng thủ khi Moskva chỉ còn cách 125 kilômét (78 mi). Ông ra lệnh quân đội cho những người khác rút khỏi Gzhatsk (Gagarin) khi mà tỷ lệ chênh lệch giữa quân Pháp và quân Nga giảm từ 3:1 chỉ còn 5:4.[27] Thời cơ đã đến.[19]
Một hàng phòng ngự được thiết lập tại Borodino, vị trí đẹp nhất nằm ngay trước Moskva.[28] Chiến trường Borodino quá mở và quá ít chướng ngại để bảo vệ quân Nga khi bị đánh thọc sườn vào bên trái. Tuy nhiên, nó được bao quanh bởi sông Kolocha và nó nằm ngay trên con đường nối liền Smolensk và Moskva, và thực tế là không có vị trí nào tốt hơn như vậy.[19] Ngày 3 tháng 9, Kutosov bắt đầu cho đào quân lính đào hào đắp đất, bao gồm cả trận địa pháo của Raevski ở chính giữa bên cánh phải và trận địa pháo của Bagration, được người Pháp gọi là “Bagration flèches” ở bên trái.
Trận đánh tại đồn Shevardino
Các phòng tuyến ban đầu của quân Nga, vốn kéo dài từ xa lộ Smolensk (còn đường hành quân mà Napoléon dự kiến), được che chở bằng một công sự hình ngũ giác được xây dựng trên một gò đất tại làng Shevardino.[29] Tuy nhiên, các tướng Nga sớm nhận ra rằng, đây là tử địa vì cánh trái quá trống trải và dễ bị tấn công đột xuất.[19] Vì vậy, quân Nga được lệnh rút khỏi cứ điểm này, nhưng vẫn còn có người ở lại công sự, Kutosov nói rằng việc làm này chỉ là cố cầm chân quân Pháp trong một thời gian mà thôi. Theo ý kiến của sử gia Dmitry Buturlin, cứ điểm này được sử dụng như là nơi quan sát tiến trình của quân Pháp. Các nhà sử học Winter, Ratch cùng vài người khác thì cho rằng, nó được dụng để đe dọa cánh phải quân Pháp, mặc dù khoảng giữa cách hai bên nằm qua tầm bắn của súng thời kỳ này.[30] Tham mưu trưởng Tập đoàn quân I của Nga, Aleksey Petrovich Yermolov, từng ghi lại trong hồi ký của mình rằng cánh trái quân Nga đã được dịch chuyển khi quân Pháp bất ngờ xuất hiện sớm hơn dự kiến, do đó, Shevardino trở thành một tấm lá chắn tạm thời để che chắn cái công sự đang được sửa ở phía đó.[31] Tuy nhiên, việc này vẫn là tâm điểm cho những cuộc tranh cãi của các sử gia cho đến tận ngày nay[32]
Cuộc giao tranh nổ ra vào ngày 5 tháng 9 khi đạo quân của thống chế Joachim Murat chạm trán Konovnitzyn trong một cuộc đụng độ lớn giữa kỵ binh hai bên. Tuy nhiên, quân Nga rút lui về tu viện Kolorzkoi không bao lâu sau đó, khi mà phía bên sườn của họ đang bị đe dọa trầm trọng.[33] Chiến trận tiếp tục diễn ra ngày hôm sau, khi gặp quân đoàn IV của Pháp do Phó vương Ý Eugène de Beauharnais dẫn đầu, tuy nhiên Konovnitzyn lại tiếp tục rút lui. Người Nga rút về gác tại đồn Shevardino, nơi mà một cuộc đụng độ lớn sắp xảy ra.[34] Giao tranh lại nổ ra khi thông chế Murar dẫn đầu hai quân đoàn kỵ binh là Nansouty và Montbrun, được yểm trợ bởi Sư đoàn bộ binh Compan thuộc Quân đoàn I dưới quyền của thống chế Louis Nicolas Davout. Ngoài ra, quân Nga còn bị đạo quân do thống chế Józef Poniatowski tấn công từ phía nam. Sau một hồi giao tranh, con số thương vong của cả hai bên khá lớn, tuy nhiên những người lính Nga kiên quyết chiến đấu tới cùng và không chịu rút lui trước khi Kutosov phải lên tiếng.[19] Quân Nga được yểm trở bởi 1 sư đoàn Thiết kỵ binh và 1 tiểu đoàn bộ binh đơn độc, họ khua chiêng trống ầm ĩ đễ làm người Pháp nhầm tưởng về quân số mà không giám đuổi theo. Sau đó, quân Pháp chiếm được đồn Shevardino, có ít nhất 4.000-5.000 người ở phía Pháp và 6.000 người Nga bị thương hoặc đã bỏ mạng.[35] Công sự bị phá hủy, và được bao phủ bởi một lớp xác lính của hai phe.[36]
Việc quân Pháp bất ngờ đánh vào từ phía tây và sự sụp đổ của đồn Shevardino khiến nội tình quân Nga rơi vào tình trạng lộn xộn. Cánh trái của phòng tuyến của họ đã vỡ, quân Nga buộc phải rút lui về phía đông, xây dựng một vị trí phòng thủ tạm bợ tại làng Utitza. Và như vậy, một cuộc tấn công của người Pháp vào cánh trái của quân Nga là điều dễ hiểu.[37]
Lực lượng của hai bên
Diễn biến trận chiến
Bản đồ mô tả hình thế chiến trường Borodino năm 1812
Bố trí đội hình
“ |
Tiền đồn ở cánh trái không thể hiện được lợi thế gì đặc biệt. Một số gò có có giốc thoải, và có lẽ chỉ cao có hai mươi thước, cùng với thanh gỗ có nhiều cây bao quanh, hình thành một nơi rậm rạp, và rằng rất khó để nói rằng bên nào sẽ có lợi thế hơn. Như vậy, mặt tốt nhất là phía bên cánh phải, mặc dù có thể là nó không thể che hết khuyết điểm ở bên trái. |
” |
— Carl von Clausewitz, The Battle of Borodono, Mikaberidze, Alexander tr. 26 |
Vị trí của quân Nga tại Borodino được bao bọc bởi một loạt công sự bằng đất chạy dài theo một vòng cung từ phía sông Moskva bên phải, và chạy dọc theo nhánh của nó là sông Kolocha (bờ sông có dốc thẳng đứng, góp phần vào phòng thủ), và hướng tới làng Utitza ở bên trái.[38] Rừng dày rải rác dọc theo bên cánh trái người Nga và ở trung quân Pháp (phía Kolocha), khiến việc triển khai và kiểm soát của người Pháp trở nên khó khăn, và đi song song nó lại giúp những người đang cố phòng thủ. Trung quân Nga được bao quanh bởi trận địa pháo Raevsky, được lắp hàng chục khẩu pháo từ 12 đến 19 pao.
Kutuzov là rất quan tâm tới việc người Pháp có thể đánh chiếm xa lộ Smolensk mới xung quanh vị trí của mình và hướng đến Moskva, do vậy, ông sai tướng Barclay cùng Tập đoàn quân thứ 1 đóng ở phía bên phải bên phải, vị trí này vốn được phòng thủ chắc chắn và hầu như không thể bị tấn công bởi người Pháp. Tập đoàn quân thứ 2 dưới quyền tướng Bagration vốn được dự kiến đóng ở phía bên trái, và phòng tuyến Shevardino đã vỡ khiến tình thế trở nên nghiêm trọng nhưng Kutozov không làm gì để thay đổi các khuynh hướng ban đầu mặc dù các tướng luôn xin triển khai lại quân đội.
Bagration flèches
Khu vực đầu tiên xảy ra đụng độ là Bagration flèches, như đã được dự báo bởi hai tướng Barclay de Tolly và Bagration. Napoleon, thống lĩnh quân đội Pháp, đưa ra nhiều mệnh lệnh thiếu mạch lạc tương tự như đối thủ Nga của mình, việc triển khai quân đội của ông không tỏ ra hiệu quả và không khai thác những điểm yếu của quân Nga. Pháo binh Pháp khai hỏa lúc sáu giờ sáng và cùng lúc đó là liên tiếp những cú đáp trả của người Nga. Quân đội hai bên đều đứng trong tầm bắn của pháo binh đối phương nên thiệt hại về quân số khá lớn.[39] Hai phía sử dụng ba loại đạn khác nhau: đạn thượng, lựu đạn và đạn bi.[40] Những người lính Nga dày dặn kinh nghiệm đừng nhìn đạn pháo địch bay vút qua và nhắc nhở những anh dân quân chớ dại mà dùng chân phan đạn pháo. Sư đoàn Delzon, thuộc quân đoàn của tướng Eugène de Beauharnais, được lệnh chiếm làng Borodino và thành công sau khi bị mất nữa quân số. Hai sư đoàn khác được lệnh vượt sông Kolocha nhằm đáp trả lại bộ binh Nga. Cùng lúc đó Davout tung hai sư đoàn của mình đánh thẳng vào flèches phía nam và san bằng nó sau hai giờ đồng hồ.[41] Mặc dù thành công nhưng Compans lại bị dính chấn thương nặng. Ở phía nam, sư đoàn Tutschkows theo lệnh tướng Poniatowski chiếm được làng Utiza.
Quân Nga được lệnh của Kutosov nhanh chóng đáp trả bằng một cuộc tấn công vào flèches phía nam vốn bị Pháp chiếm trước đó. Thống chế Jean Rapp ra lệnh cho sư đoàn của tướng Compans, được yểm trở bởi tướng Desaix và Junot, sư đoàn Ledrus thuộc quân đoàn của Ney đánh chiếm công sự tiếp theo.[42] Cả hai công sự đều bị người Pháp chiếm sau đó không lâu, nhưng họ lại gặp khó khăn ngay sau đó. Các flèches được thiết kế hình chữ V nên quân Pháp bị đe dọa cả hai phía. Trong 3 giờ đồng hồ tiếp theo, công sự này bị công ít nhất 7 lần. Ngay từ lúc 7 giờ, Kutosov điều ba trung đoàn Cận vệ, 3 trung đoàn Thiết kỵ binh, và 8 trung đoàn lính nem lựu cùng 24 khẩu đại pháo 24 pao vào đội dự bị.[43] Trong 2 giờ đồng hồ tiếp theo, Kutosov liên tiếp đưa ra các lệnh rút quân.[44] Lúc mười giờ quân Pháp đánh bật được Bagration và chiếm được tất cả 3 flèches. Bagration ngay sau đó thu thập tàn quâ và chiếm được lại công sự của mình, nhưng ông lại bị trúng đạn vào chân và chết ngay sau đó ít lâu.[45]
Cuộc tấn công đầu tiên vào đồn Raevsky
“ |
Hỡi ba quân, phải Moskva đang ở phía sau chúng ta đó không? Chúng ta hãy hy sinh trước Moskva như cha ông ta ngày trước vậy. Và chúng ta thề quyết tử và chúng ta phải giữ lời tuyên thệ trung thành của chúng ta trong trận đánh Borodino. |
” |
—Lời một binh sĩ Nga già, giàu lòng yêu nước |
Do Napoléon chẳng biết gì về lòng kiên cường đấu tranh của người Nga nên ông nghĩ rằng chỉ một trận đánh Borodino cùng với cuộc xâm lược thành Moskva sẽ buộc người Nga phải thần phục ông.[46] 5 giờ sáng ngay 7-9-1812, quân Pháp bắt đầu tiến công. Thế là mở ra trận Borodino – trận đánh khốc liệt nhất ở châu Âu trước cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.[47] Các đợt tấn công đầu tiên của quân Pháp nhằm vào cánh phải quân Nga, nhưng ít lâu sau đó, ý đồ của Napoleon đã lộ rõ: mục tiêu thật sự là các lực lượng cánh trái và trung tâm, cụ thể là trận địa pháo Raievsky. Sau khi chiếm lĩnh được nó rồi, quân Pháp sẽ ép quân Nga về dòng sông Co-lô-tra để tiêu diệt
Lúc đầu do có lực lượng ưu thế nên quân Pháp đã chiếm được thôn Bôrôđinô nhưng không phát triển tiếp theo được do quân Nga đánh trả dữ dội. Nhìn chung các cuộc đột kích đầu tiên của quân Pháp nhằm lôi kéo Quân đội Nga di chuyển đội hình về hai cạnh sườn đều không đạt kết quả.
Đến 6 giờ, quân Pháp chuyển sang tiến công trận địa phòng ngự quân Nga ở thôn Semenovski nhưng cũng bị đẩy lùi. Ngay sau đó, Napoléon tập trung 8 sư đoàn bộ binh, 3 quân đoàn kị binh và 120 pháo mở cuộc đột kích lần thứ hai. Quân Pháp lúc đầu chiếm được phía Nam khu vực phòng ngự do tướng Bagratiôn chỉ huy, nhưng sau đó quân Nga phản kích chiếm lại. 8 giờ, quân Pháp mở cuộc công kích lần thứ 3, nhưng lại bị thất bại. Trong khi đó 2 sư đoàn kỵ binh Pháp tiến công trận địa pháo do Raévski chỉ huy cũng không đạt kết quả. Như vậy, cả 3 cuộc công kích của quân Pháp vào khu vực chủ yếu trận địa của quân Nga đã thất bại.
Ở cánh trái trận địa Quân đội Nga, một quân đoàn Pháp sau 3 giờ công kích liên tục đã chiếm được thôn Utisa. Thắng lợi ở Utisa đã củng cố quyết tâm xâm lược của Napoléon. Ông tiếp tục mở 8 cuộc công kích vào trận địa pháo của Raévski và khu vực phòng ngự ở Semenovski. Cuộc chiến tại đây diễn ra rất quyết liệt. Quân Pháp và quân Nga giành giật nhau các khu vực trận địa. Quân đội Nga đã liên tiếp đánh lui các đợt tấn công ác liệt của quân Pháp. Trong đợt công kích lần thứ 6, Napoléon tập trung trên một đoạn hẹp rộng 1.5 km tới 100 khẩu pháo, và 4.5 vạn quân. Quân Nga có khoảng 1.5 vạn quân và 200 khẩu pháo đã kháng cự lại một cách rất quyết liệt. Trong lần công kích này của quân Pháp, hơn một nửa số pháo Nga bị phá hủy, công sự bị san bằng nhưng quân Pháp không thể chiếm được trận địa. Vị Nguyên soái anh dũng Bagratiôn bị thương nặng, được đưa ra khỏi chiến trường và không lâu sau qua đời do vết thương không thể chữa được,[48] nhưng tinh thần dũng cảm và ý chí của ông đã thôi thúc những người lính Nga tiếp tục chiến đấu. Mệnh lệnh của Kutuzốv “giữ vững trận địa đến người cuối cùng” đã được thông báo cho toàn bộ các đơn vị Quân đội Nga. Tuy nhiên, do lực lượng quân Pháp chiếm ưu thế nên Kutuzốv quyết định cho ba quân rút lui theo khe núi ở thôn Semenovski để củng cố lực lượng.
Sau khi chiếm được một số khu vực phòng ngự, quân Pháp tập trung lực lượng mở đợt tiến công và chiếm được khu vực phía Tây thôn Semenovski. Tại đây, trận địa pháo của Raevski đã ở trước mặt quân Pháp. Napoléon tung hầu hết lực lượng dự bị và đang cân nhắc liệu có tung đội cận vệ của mình vào chiến đấu hay không. Trước tình thế nguy hiểm đó, Kutuzốv đã có một quyết định kịp thời: lệnh cho kỵ binh Nga của tướng Platov tiến công đánh vào cánh trái quân Pháp, đồng thời sử dụng đội kỵ binh Kazak tiến công đoàn xe vận tải của đối phương. Kỵ binh Nga đã chọc thủng được đội hình quân Pháp và gây ra sự hoảng loạn ở hậu phương, buộc Napoléon phải điều lực lượng về cánh trái để duy trì cuộc tiến công vào trận địa pháo của Raevski và không tung đội cận vệ vào trận chiến. Trận tấn công bị hoãn lại. Chớp thời cơ, Kutuzốv tăng cường lực lượng ở trung tâm và cánh trái bằng cách điều lực lượng dự bị và lực lượng từ cánh phải dồn lại. Trong suốt trận đánh kịch liệt, Bá tước Caulaincourt tháp tùng Napoléon. Ông ngồi trong trại quân, cảm thấy thật nhớ thương người vợ mới cưới của mình, cưới chưa được bao ngày thì phải xa cách.[49]
Đến 14 giờ, Napoléon tiếp tục cho lực lượng tiến công trận địa pháo quân Nga và đưa đội dự bị cuối cùng vào chiến đấu. Đội giáp binh của Bá tước Cô-lanh-cua được tung vào trận, sau khi Quân đội Nga tiêu diệt được tướng Pháp Montbrunn.[49] Về phía Nga, sư đoàn 24 của tướng Likhatrov được điều đến bảo vệ. Trận chiến lại diễn ra quyết liệt. Quân Nga chiến đấu dũng cảm theo lời kêu gọi của tướng Likhatrov: “Anh em ơi, phía sau là Mát-xcơ-va.” Tuy nhiên quân Pháp càng lúc càng áp đảo. Các khẩu pháo Nga lúc này không thể khai hỏa vì quân Pháp quá gần. Các pháo thủ phải dùng cả cây thông nòng để chiến đấu. Mặc dù bị thiệt hại nặng nề, nhưng đến 15 giờ 30 phút, quân Pháp đã chiếm được trận địa. Toàn bộ sư đoàn 24 Nga nằm lại trận địa. Likhatrov cũng phanh ngực xông thẳng vào lưỡi lê của quân địch. Trận địa pháo thất thủ. Bên cạnh xác các binh sĩ Nga là 1000 xác chết thuộc đội giáp binh của quân Pháp, trong đó có cả Cô-lanh-cua. Khi giao chiến với Likhatrov, Caulaincourt đã bị trúng một viên đạn của súng hỏa mai Quân đội Nga và ngã xuống trước toàn thể đội giáp binh của ông ta, và đây là một tổn thất lớn lao đối với Napoléon nói riêng và toàn thể quân địch nói chung.[49][50]
Song việc chiếm trận địa pháo của Raevski không còn ý nghĩa. Lúc đó, quân Nga đã bỏ khu vực phòng ngự ở cánh trái và trung tâm lên chiếm lĩnh trận địa mới cách đó từ 1 đến 1.5 km. Như vậy, quân Nga mặc dù bị mất một số khu vực nhưng vẫn giữ được vững đội hình chiến đấu. Trong khi đó quân Pháp sau nhiều lần công kích, lực lượng bị tiêu hao quá lớn buộc Napoléon phải ngừng công kích, ra lệnh cho quân Pháp rút về vị trí xuất phát tiến công. Đó cũng là biểu hiện sự bế tắc của Napoléon trong trận này. Ngay sau đó quân Nga đã chiếm lại các vị trí tiền tiêu. Đại vă n hào Lev Nikolayevich Tolstoy có viết:[5]
“ |
Quân Pháp tấn công quân Nga với mục đích đánh bật quân Nga ra khỏi vị trí của nó, đáng lý phải thực hiện sự cố gắng ấy vì hễ quân Nga còn chặn con đường vào Moskva thì quân Pháp vẫn còn chưa đạt được mục đích, và tất cả những cố gắng cũng như những tổn thất của họ đều thành ra vô ích. Nhưng quân Pháp đã không thực hiện sự cố gắng ấy. |
” |
—Lev Nikolayevich Tolstoy |
Đến 18 giờ, sau khi tổ chức củng cố lại trận địa, Kutuzốv tuyên bố quân Nga chiến thắng và ông vẫn động viên quân Nga sẵn sàng đánh bại các cuộc tiến công của quân Pháp đồng thời chuẩn bị cho cuộc tiến công quân địch vào sáng hôm sau. Với cuộc đấu tranh anh dũng của Quân đội Nga, giờ đây quân cướp nước đã suy yếu, và trận đánh Borodino đã trở thành một chiến thắng thực sự của nước Nga.[51] Song, về phía quân Nga cũng bị tổn thất lớn qua các đợt công kích liên tục của quân Pháp khiến Kutuzốv phải suy nghĩ. Ông cho rằng dù đã đánh bại các cuộc công kích của quân Pháp, song cho đến thời điểm này, lực lượng chủ yếu của Quân đội Nga vẫn cần phải được bảo toàn, chờ thời cơ giành chiến thắng quyết định. Bằng sự cân nhắc trận trọng đó, Kutuzốv quyết định cho Quân đội Nga rút khỏi Borodino.
Trung đoàn Izmailovsky của Nga trong trận chiến Borodino
Cuộc chiến đấu của người Nga ở cứ điển Shevardin. Tranh của
Nikolai Samokish năm 1910
Napoléon không tung đội Cận vệ tham chiến
Cuộc chiến đã rằng co tới mức Napoleon đã không dám sử dụng 37.000 quân thuộc lực lượng Cận vệ Đế chế vì sợ rằng cuộc chiến sẽ còn tiếp diễn vào ngày tiếp theo. Napoléon từng nói rằng một trận thắng vang dội thể hiện qua số lượng tù binh đối phương bị bắt, trong khi trong trận đánh này quân Pháp xâm lược chỉ có thể bắt sống được 800 tù binh Nga, do đó hào khí của Quân đội Nga hoàn toàn không bị lung lay.[52] Theo thấu hiểu của Nguyên soái Kutuzov, chừng nào lực lượng Quân đội Nga vẫn còn tồn tại thì quân xâm lược không thể nào thắng cuộc được.[53] Trong kiệt tác Chiến tranh và Hòa bình, đại văn hào Lev Nikolayevich Tolstoy có viết:[5]
“ |
Một vài sử gia nói rằng Napoléon cho đội Cận Vệ nguyên vẹn của ông ra chiến trường là có thể thắng trận. Nhưng nói về những việc sẽ diễn ra nếu Napoléon cho đội Cận Vệ của mình nhập trận thì cũng chẳng khác gì nói về những việc sẽ xảy ra nếu mùa thu bỗng chốc biến thành mùa xuân. Điều đó không thể có được. Sở dĩ Napoléon không tung đội cận vệ của mình ra không phải vì ông ta không muốn, mà là vì ông ta không thể làm như thế được. Tất cả các tướng tá và quân sĩ đều biết rằng không thể làm như vậy, bởi vì tinh thần quân đối đã suy sụp không cho phép làm như vậy. |
” |
—Lev Tolstoy |
Tuy nhiên, khi chiều tối, Kutuzov đã quyết định rút khỏi trận chiến và lệnh cho tướng Gortrakov bí mật rút quân ra sau thung lũng Semenovski. Do việc tuyên bố chiến thắng của ông trước đó đã làm cho hào khí của Quân đội Nga lên đến tột độ, nhiều chiến binh không đồng ý với việc lui quân. Tuy nhiên, họ vẫn tuyên lệnh vị chủ tướng. Trận chiến Borodino đã kết thúc giữa chừng. Trên đường rút, các chiến binh Nga chôn cất các liệt sỹ, và quân thù phải lác mắt trước cuộc lui binh này. Có người Pháp tên Fantin des Odoards phải viết trong nhật ký của ông ta: “Nói trắng ra, những con người đó – mà chúng ta hay gọi là man di mọi rợ đã chăm sóc kỹ lưỡng các thương binh và chôn cất tử tế các binh sĩ trận vong của họ…” Tuy nhiên, vẫn còn hàng trăm thương binh Nga tập hợp ở Mozhaisk, và họ bị kẹt lại ở đó vì không có ai đưa khỏi. Theo như lời giải thích của Mikhailovsky- Danilevsky:[54]
“ |
Chính quyền dân sự của tỉnh Moskva giải thích về việc thiếu thốn phương tiện vận chuyển là do những quận gần với chiến trường nhất được Bộ trưởng Bộ Chiến tranh theo dõi, trong khi chính quyền quân sự tìm thấy rất ít người còn lại ở làng, do phần lớn người phải rút đi để tránh bị rơi vào tay địch. |
” |
—Mikhailovsky-Danileysky |
Những lời yêu cầu khẩn thiết của Kutuzov đến quan Tổng đốc Rostopchin về việc cung cấp ngựa và phương tiện vận tải đều bị phớt lờ, và cuối cùng những thương binh Nga tại Mozhaisk bị bỏ qua.[54] Sáng hôm sau trận đánh khốc liệt, Napoléon ra quan sát chiến trường, và một bộ tướng của ông ta là Armand Augustin Louis de Caulaincourt phải nhận định, Borodino “chất đầy thây người”.[54] Trận chiến Borodino được coi là trận đánh một ngày đẫm máu nhất trong lịch sử hiện đại. Theo thống kê của nhà sử học Adam Zamoyski, quân đội Pháp đã có 28.085 binh sĩ thiệt mạng và bị thương[55], còn theo ông Lê Vinh Quốc thì thiệt hại là 58 ngàn, trong đó có 53 tướng. Theo “USSR information bulletin” trong quân Pháp thì Kỵ binh bị thiệt hại thê thảm hơn cả.[4] Quân đội Nga mất 45.000 quân, trong đó có 48 tướng. Tổng cộng thiệt hại cho cả hai bên là 73.000 quân, tức gần 1/4 tổng số quân được hai bên huy động cho trận đánh. Nếu tính trung bình mỗi giờ có 8.500 binh sĩ của cả hai bên phải bỏ mạng tại chiến trường, một trung đội trong một phút. Có những đơn vị mất gần 80% quân số. Song, Nguyên soái Kutuzov hãy còn nhiều quân dự bị để có thể huy động thêm, và ông có thể không cần phải lo âu nếu địch quân tuyên bố chiến thắng. Ông đã giữ vững được lực lượng Quân đội Nga và đánh cho quân đội địch bị suy nhược.[56] Như đại văn hào Lev N. Tolstoy đã tưởng tượng trong tiểu thuyết “Chiến tranh và Hòa bình“:[5]
Tử thi quân Nga khi kết thúc trận chiến
“ |
Nhìn cảnh tượng khủng khiếp của bãi chiến trường ngổn ngang những chiếc xác chết, những người bị thương, trong khi đầu óc còn choáng váng vì được tin hai mươi viên tướng quen thuộc của mình đã bị thương và tử trận, và nhận thức rõ rệt rằng cánh tay bấy lâu vô địch của mình đã trở thành bất lực, Napoléon thể nghiệm một ấn tượng không ngờ, mặc dầu thường ngày ông vẫn thích nhìn những người tử trận và bị thương, để thử thách sức mạnh tinh thần của mình (như ông ta vẫn tưởng). Nhưng hôm nay cảnh tượng ghê rợn của chiến trường đã thắng cái sức mạnh tinh thần mà ông ta cho là đã làm và nên làm những công đức và vì sự vĩ đại của mình. Ông vội vã rời khỏi chiến trường và trở về đồi Sevadino. Mặt vàng võ sưng húp, người nặng nề, mắt đục ngầu, mũi đỏ gay và tiếng nói khản đặc, ông ta ngồi trên chiếc ghế xếp, bất giác lắng nghe tiếng súng, mắt ngước lên. Ông ta bồn chồn lo lắng chờ giờ kết thúc trận chiến đấu mà ông tưởng mình đã nhúng tay vào, nhưng thực ra thì ông không thể nào bắt nó dừng lại được. |
” |
—Lev Nikolayevich Tolstoy |
Theo truyện “chiến tranh và Hòa bình” của Lev Tolstoy thì “Không những Napoléon mà toàn quân Pháp – dù có đích thân tham chiến hoặc là không đích thân tham chiến, và dù đã có được nhiều trải nghiệm vì chuyên đi cướp nước trong vòng nhiều năm, đều cảm thấy hoảng sợ vì Quân đội Nga vẫn sống còn dù nhiều binh sĩ Nga đã hy sinh.[5] Vào ngày 11 tháng 9 năm 1812, tại kinh thành Sankt-Peterburg, Nga hoàng Aleksandr I đã nghe được những tin tức đầu tiên về trận đánh kịch liệt tại Borodino, và về chiến thắng vang dội của Kutuzov nữa. Không những thế, sau đó diễn ra lễ mừng thọ Nga hoàng, do đó người Nga vui sướng làm lễ tại chốn kinh kỳ trong suốt hai ngày liền. 9 ngày sau đó Kutuzov cũng trình bày chiến lược của ông cho nhà vua”.[57] Trong khi đó cũng theo tiểu thuyết “chiến tranh và Hòa bình” của Nga thì “đối với người Pháp, thất bại này góp phần làm cho sự sụp đổ và thất bại của bọn họ là khó tránh khỏi”.[5]
Đánh giá về trận chiến Borodino
Cuộc đại chiến Borodino được chính Nguyên soái Mikhail Illarionovich Kutuzov xem là “trận đánh đẫm máu nhất thời nay”. Nhưng trận chiến này lại không có kết quả quyết định,[11] bất cháp một sự thật là cả hai đều tuyên bố chiến thắng.[58] Dù Napoléon có gửi thư về cho vợ của ông ta: “Nàng ơi Ta viết cho nàng từ trận địa Borodino. Hôm qua Ta đã đập tan bọn Nga và toàn thể quân đội của chúng… Trận đánh thật khốc liệt… Nhiều chiến binh của Ta bị thương vong và thiệt mạng”, bãi chiến trường khốc liệt Borodino đã trở thành mồ chôn của Kỵ binh Pháp.[4] Vả lại, Nguyên soái Kutuzov cũng viết cho vợ của ông: “Ta vẫn tốt, em ạ, và ta không thua trận; Ta đã đánh thắng được Bonaparte”.[59] Theo nhà sử học quân sự Christopher Duffy, Trận đánh ác liệt này có thể được xem là một cuộc đại chiến Torgau của thế kỷ XIX, là một trận đánh hết sức đẫm máu và quy mô lớn, nhưng làm cho cả hai đoàn quân tham chiến đều không thật sự đạt được mục tiêu quyết định của mình.[60] Giống như cuộc đại chiến tại Zorndorf (1758) chống vua Friedrich II Đại Đế nước Phổ, các chiến binh Nga đã thể hiện lòng quyết tâm đấu tranh tới cùng.[61] Và, đại văn hào nước Nga Lev Nikolayevich Tolstoy – người đã tái hiện rất thành công về trận đánh Borodino trong tác phẩm “Chiến tranh và Hòa bình“[62] – đã viết:[5]
“ |
Sức mạnh tinh thần của quân đội Pháp, là quân đội tấn công, đã tiêu ma hết rồi. Đây không phải là một chiến thắng được tính bằng những mảnh vải buộc vào các cây gậy mà ta gọi là quân kỳ, hay là bằng những khoảng đất chiếm được. Đây là một thắng lợi về tinh thần, nó chứng minh sức mạnh của quân ta và sự bất lực của quân thù. |
” |
—Lev Tolstoy[19] |
Thống chế Davout của Pháp ở Moskva năm 1812
Thật vậy, quân Nga đã trụ vững trước các đợt tấn công của quân Pháp. Napoleon không đạt được một mục tiêu chiến lược rõ rệt mặc dù quân Pháp đã tổn thất rất nhiều binh tướng. Không những về nhân lực mà trận Borodino còn là một đòn giáng nặng nề về tinh thần của Quân đội xâm lược Pháp, chứng tỏ việc lui binh của Napoléon giờ đây chỉ còn là vấn đề thời gian.[12] Một nhà sử học Liên Xô (cũ) cho rằng: “Trận chiến ở Borodino là đòn giáng nặng nề đầu tiên vào Napoléon khi ông ta làm nhà độc tài của toàn châu Âu.“[11] Nhiều nhà sử học đã cho rằng Kutuzov đánh giá quân Nga không đủ sức chống trả lại quân Pháp nếu tiếp tục cuộc chiến vì thế đã quyết định rút lui bảo toàn lực lượng. Ông khẳng định: “Mất Moskva nhưng nước Nga vẫn còn. Nhiệm vụ đầu tiên là bảo toàn quân đội. Bằng cách rút khỏi Moskva, chúng ta chuẩn bị mồ chôn quân thù. Tôi biết rằng trách nhiệm đổ lên vai tôi, nhưng tôi hiến thân mình vì lợi ích của Tổ Quốc. Tôi ra lệnh rút quân”. Sau trận đánh Borodino, quân Nga theo lệnh của Sa hoàng đã đốt trụi Moskva ra tro – một điều mà Napoléon không thể ngờ được khi ông ta tiến vào được thành phố Moskva không một bóng người. Trong khi có người xem trận đánh kịch liệt tại Borodino là chiến thắng của người Nga[63], có người xem đây là một chiến thắng kiểu Pyrros của người Pháp, quân Pháp trong trận này phản ánh rõ câu nói của vua Pyrros khi ông đánh thắng quân La Mã, rằng một thắng lợi như thế nữa sẽ tiêu diệt được ông.[64] Trận đánh Borodino được coi là cuộc chiến đấu xuất sắc của quân dân Nga đã bảo vệ đất nước, với tầm quan trọng quốc tế vô cùng lớn lao vì một kẻ độc tài khét tiếng châu Âu là Napoléon đã phải nếm mùi thất bại. Trong bài thơ kể về trận chiến tại Borodino, thi hào nước Nga là Mikhail Yuryevich Lermontov ca ngợi: “Không có lý gì mà toàn thể nước Nga không nhớ đến trận Borodino”.
Tuy nhiên đây là một sách lược tuyệt vời, mang tính bước ngoặt đối với toàn cuộc chiến tranh. Đúng như Kutuzov dự đoán, Moskva mở đầu sự sụp đổ của chế độ độc tài Napoléon.[4] Do bị tiêu hao binh lực sau trận Borodino quân Pháp không thể tiếp tục tiến sâu vào Nga hơn nữa, Napoleon quyết định dừng lại ở Moskva để chờ viện binh và lương thực, đồng thời củng cố lực lượng để tiếp tục chiến dịch quân sự vào mùa xuân năm sau. Nhưng dự định đó đã bị phá sản khi mọi nguồn lương thực và viện binh của Pháp đều bị các cánh quân du kích của Nga chặn đánh, tiêu diệt không tới được với đại quân của Napoleon I. Như vậy, tuy cả hai đoàn quân đều tuyên bố thắng trận tại Borodino nhưng sau chiến thắng khốc liệt này chỉ có Quân đội Nga là có thể tồn tại được.[1] Tới mùa đông quân Pháp rơi vào tình trạng bệnh tật và tử vong cao do thời tiết lạnh khắc nghiệt của Nga và sự thiếu lương thực trầm trọng. Napoleon buộc phải rút tàn quân khỏi Moskva, tháo chạy khỏi nước Nga theo con đường cũ Smolensk. Chiến dịch xâm lược nước Nga coi như đã thất bại. Tất cả những thiệt thòi ấy đều là hậu quả trực tiếp mà ông ta phải hứng chịu tại Borodino.[5] Và, hai năm sau trận đánh ác liệt tại Borodino, Quân đội Nga trong niềm vui chiến thắng đã tiến vào sào huyệt Paris của địch, chấm dứt triều đại của Napoléon – nhà độc tài ghê tởm nhất châu Âu thời đó.
Sau khi Quân đội Đức Quốc Xã tấn công Liên bang Xô viết vào năm 1941, nhà sử học E. V. Tarle và nhiều đồng nghiệp của ông đã cho ra mắt nhiều tư liệu về cuộc xâm lược của Napoléon vào năm 1812 với mục đích “cho toàn dân biét về một trong những trang sử chói lọi nhất trong lịch sử quân sự nước Nga, nhờ đó kêu gọi nhân dân cùng đấu tranh chóng bọn phát xít Đức”. Cuối thời Stalin, một bộ tư liệu tiểu sử “Russkie Polkovodtsy” được xuất bản, trong đó có kể về những dũng tướng của cuộc đại chiến Borodino là Kutuzov và Bagration.[65] Và trong các thập niên 1950 – 1960, giới sử học Liên Xô đã vinh danh vị Nguyên soái xuất sắc Kutuzov:[66][67]
“ |
Chiến thắng của chiến lược và các chiến thuật của Kutuzov trong cuộc tranh đấu với Napoleon thể hiện thắng lợi của truyền thống quân sự nước Nga… |
” |
Ghi chú
- ^ a ă â John Powell, Magill’s Guide to Military History: A-Cor, trang 203
- ^ Owen Connelly. Blundering to glory: Napoleon’s military campaigns. Rowman & Littlefield, 2006, ISBN 0-7425-5318-3, 9780742553187, p. 178.
- ^ Riehn, Richard K. Napoleon’s Russian Campaign, John Wiley & Sons, 2005. ISBN 978-0-471-54302-2 p.285-288
- ^ a ă â b Soviet Union. Posolʹstvo (U.S.), USSR information bulletin, Tập 5, Số phát hành 66-131, Embassy of the Union of the Soviet Socialist Republics, 1945.
- ^ a ă â b c d đ e Leo Tolstoy (graf), War and peace, các trang 764-765.
- ^ Richard K. Riehn, Napoleon’s Russian Campaign, John Wiley & Sons, 2005, trang 479.
- ^ Sách ‘Napoleon’ của Herman Lindqvist. Trang 368, chương 20, ‘The battle of Borodino, the bloodiest of them all’
- ^ Smith D., The Greenhill Napoleonic Wars Data Book. London: Greenhill Books, 1998, trang 392
- ^ Riehn Richard K. Napoleon’s Russian Campaign, John Wiley & Sons, 2005, trang 255
- ^ a ă Vladimir Terentʹevich Pashuto, An Illustrated history of the USSR, trang 44
- ^ a ă â b Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 11. Seeley, Service, 1972, trang 11. ISBN 0-85422-077-1.
- ^ a ă John Gooding, The catkin and the icicle: aspects of Russia, trang 27
- ^ a ă Alexander Mikaberidze, “Borodino” The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov, Pen & Sword Military, 2007. ISBN 1-84415-603-6.
- ^ Alexander Mikaberidze, The Russian Officer Corps of the Revolutionary and Napoleonic Wars: 1792-1815, trang 215
- ^ Christopher Duffy, Borodino and the war of 1812, Cassell, 1999. ISBN 0-304-35278-0.
- ^ Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 17
- ^ Mikaberidze, tr. 1
- ^ Duffy, tr. 18
- ^ a ă â b c d đ e Lê Vinh Quốc (chủ biên), Nguyễn Thị Thư, Lê Phụng Hoàng, Các nhân vật Lịch sử Cận đại, Tập II: Nga. NXB Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh 1997; Chương IV: Cutudốp.
- ^ Riehn, tr. 229.
- ^ Riehn, tr. 230.
- ^ Riehn, tr. 231.
- ^ Riehn, tr. 234.
- ^ Riehn, tr. 237.
- ^ Mikaberidze, các trang 21–22.
- ^ Riehn, tr. 236.
- ^ Riehn, các trang 237–8.
- ^ Riehn, tr. 238.
- ^ Mikaberidze, tr. 33.
- ^ Mikaberidze, tr.33.
- ^ Mikaberidze, tr. 34.
- ^ Mikaberidze, các trang 33–34.
- ^ Zamoyski, tr. 231
- ^ Zamoyski, tr. 232
- ^ Mikaberidze, tr. 47.
- ^ Mikaberidze, tr. 45.
- ^ Zamoyski, tr. 233
- ^ Riehn, tr. 244.
- ^ Zamoyski, tr. 303
- ^ Zamoyski, tr. 306
- ^ Zamoyski, tr. 304
- ^ Zamoyski, tr. 305
- ^ Riehn, các trang 246–8.
- ^ Mikaberidze, tr. 107.
- ^ Zamoyski, tr. 307
- ^ George Peabody Gooch, Historical surveys and portraits, trang 120
- ^ Mara Vorhees, Moscow, trang 326
- ^ Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 148
- ^ a ă â John Stevens Cabot Abbott, The history of Napoleon Bonaparte, Tập 2, trang 529
- ^ Alexander Mikaberidze, The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov, trang 189
- ^ Mikhail Bragin, Field Marshal Kutuzov: a short biography, trang 88
- ^ William C. Fuller, Strategy and Power in Russia 1600-1914, trang 191
- ^ Robert Cowley, Geoffrey Parker, The Reader’s Companion to Military History, trang 252
- ^ a ă â Alexander Mikaberidze, The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov’, trang 204
- ^ Fox’s Regimental Losses, Chapter V, CASUALTIES COMPARED WITH THOSE OF EUROPEAN WARS–LOSS IN EACH ARM OF THE SERVICE–DEATHS FROM DISEASE–CLASSIFICATION OF DEATHS BY CAUSES.
- ^ David Nicholls, Napoleon: a biographical companion, trang 39
- ^ Evgeniĭ Viktorovich Tarle, Napoleon’s invasion of Russia, 1812, trang 244
- ^ Gregory Fremont-Barnes, The encyclopedia of the French revolutionary and Napoleonic Wars: a political, social, and military history, Tập 1, trang 174
- ^ Henri Troyat, Alexander of Russia: Napoleon’s Conqueror, trang 152
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 217
- ^ Christopher Duffy, Russia’s military way to the West: origins and nature of Russian military power, 1700-1800, trang 240
- ^ George Peabody Gooch, Studies in modern history, trang 377
- ^ Russian studies in history, Tập 32, trang 62
- ^ The Spectator, Tập 115, trang 100
- ^ Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 164
- ^ Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 217
- ^ Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 165
Tài liệu tham khảo
- Chandler, David G. (1995). The Campaigns of Napoleon. New York: Simon & Schuster. ISBN 978-0025236608.
- ——— (1999) [First published 1993]. Dictionary of the Napoleonic Wars. Ware, UK: Wordsworth Editions. ISBN 978-1840222036.
- Chandler, David; Nafziger, George F. (1988). Napoleon’s Invasion of Russia. Novato CA: Presidio Press. ISBN 978-0891416616.
- Duffy, Christopher (1972). Borodino and the War of 1812. London: Cassell & Company. ISBN 978-0304352784.
- Dyer, Gwynne (1988). War. Crown Pub. ISBN 978-0517556153.
- Hourtoulle, F.G. (2000). Borodino: The Moskova. The Battle for the Redoubts. Paris: Histoire & Collections. ISBN 978-2908182965.
- Mikaberidze, Alexander (2007). The Battle of Borodino: Napoleon Against Kutuzov. London: Pen & Sword. ISBN 978-1848844049.
- Markham, David (2005). Napoleon for Dummies. New York: John Wiley & Sons. ISBN 978-0764597985.
- (tiếng Pháp) Pigeard, Alain (2004). Dictionnaire des batailles de Napoléon. Tallandier, Bibliothèque Napoléonienne. ISBN 2847340734.
- (tiếng Nga) Razin, Eugene A. (1966). История военного искусства (History of Military Art). Moscow: Воениздат.
- Riehn, Richard K. (2001). 1812: Napoleon’s Russian Campaign. New York: John Wiley & Sons. ISBN 978-0471543022.
- Smith, Digby (1998). The Greenhill Napoleonic Wars Data Book. London: Greenhill Books. ISBN 978-1853672767.
- ——— (2003). Charge! Great Cavalry Charges of the Napoleonic Wars. London: Greenhill Books. ISBN 978-1853675416.
- (tiếng Pháp) Sokolov, Oleg (2005). L’armée de Napoléon. Éditions Commios. ISBN 978-2951836419.
- (tiếng Nga) Troitsky, Nikolai (2003). Фельдмаршал Кутузов: Мифы и Факты (Field Marshal Kutuzov: Myths and Facts). Moscow: Центрполиграф.
- (tiếng Việt) Các nhân vật Lịch sử Cận đại, Tập II: Nga. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Giáo dục. 1997.
Liên kết ngoài