Quách Mạt Nhược
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Quách Mạt Nhược (郭沫若; 16 tháng 11 1892 – 12 tháng 6 1978), người Lạc Sơn, Tứ Xuyên là nhà thơ, nhà soạn kịch, nhà sử học, nhà hoạt động xã hội Trung Quốc. Ông từng làm hiệu trưởng Trường nghệ thuật mang tên Lỗ Tấn. Sau ngày thành lập Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, là chủ tịch Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Trung Quốc. Là nhà sử học chuyên về cổ sử Trung Quốc, Quách Mạt Nhược có nhiều cống hiến trong việc nghiên cứu văn tự cổ (ghi trên mai rùa xương thú) và thể chế xã hội nô lệ. Ông còn là viện trưởng đầu tiên Viện khoa học xã hội Trung Quốc trong một thời gian dài. Ông từng bị phê phán trong Cách mạng văn hóa.
Quách Mạt Nhược còn tham gia Hội đồng hoà bình thế giới và từng là phó chủ tịch. Năm 1951, ông được tặng Giải thưởng Hòa bình Lenin.
Các tác phẩm nổi tiếng
- Tập thơ “Nữ thần” (1921).
- Kịch lịch sử “Khuất Nguyên” (1942)
Tham khảo
Thể loại:
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc, viết tắt UNESCO (tiếng Anh: United Nations Educational Scientific and Cultural Organization) là một trong những tổ chức chuyên môn lớn của Liên hiệp quốc, hoạt động với mục đích “thắt chặt sự hợp tác giữa các quốc gia về giáo dục, khoa học và văn hóa để đảm bảo sự tôn trọng công lý, luật pháp, nhân quyền và tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo” (trích Công ước thành lập UNESCO).
UNESCO hiện có 195 quốc gia thành viên[1] và 9 quan sát viên[2][3]. Trụ sở chính đặt tại Paris, Pháp, với hơn 50 văn phòng và vài viện hay trung tâm trực thuộc đặt khắp nơi trên thế giới. Hầu hết các văn phòng của UNESCO làm việc với 3 nước hoặc nhiều hơn trong cùng khu vực.
Một số các dự án nổi bật của UNESCO là duy trì danh sách các di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển thế giới, di sản tư liệu thế giới, công viên địa chất toàn cầu, di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại…
Chức năng
UNESCO có 3 chức năng hoạt động chính phục vụ cho mục đích của tổ chức, bao gồm:
- Khuyến khích sự hiểu biết và thông cảm lẫn nhau giữa các dân tộc thông qua những phương tiện thông tin rộng rãi; khuyến nghị những hiệp định quốc tế cần thiết để khuyến khích tự do giao lưu tư tưởng bằng ngôn ngữ và hình ảnh;
- Thúc đẩy mạnh mẽ việc giáo dục quần chúng và truyền bá văn hóa bằng cách:
- Hợp tác với các nước thành viên trong việc phát triển các hoạt động giáo dục theo yêu cầu của từng nước;
- Hợp tác giữa các quốc gia nhằm thực hiện từng bước lý tưởng bình đẳng về giáo dục cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ hoặc bất cứ sự khác biệt nào khác về kinh tế hay xã hội;
- Đề xuất những phương pháp giáo dục thích hợp để luyện tập thiếu nhi toàn thế giới về trách nhiệm của con người tự do;
- Duy trì, tăng cường và truyền bá kiến thức bằng cách:
- Bảo tồn và bảo vệ di sản thế giới về sách báo, tác phẩm nghệ thuật và các công trình lịch sử hay khoa học, khuyến nghị với các nước hữu quan về các Công ước quốc tế cần thiết;
- Khuyến khích hợp tác giữa các quốc gia về tất cả các ngành hoạt động trí óc, trao đổi quốc tế những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục, khoa học và văn hóa kể cả trao đổi sách báo, tác phẩm nghệ thuật, dụng cụ thí nghiệm và mọi tư liệu có ích;
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc tiếp xúc với các xuất bản phẩm của mỗi nước thông qua các phương pháp hợp tác quốc tế thích hợp.
- Nguồn: Công ước thành lập UNESCO
Cơ cấu
UNESCO được tổ chức với một Đại hội đồng, một Hội đồng chấp hành và một Ban Thư ký. Đại hội đồng gồm các đại diện của các nước thành viên UNESCO (mỗi nước thành viên được chọn cử 5 đại biểu). Hội đồng chấp hành gồm các ủy viên được Đại hội đồng bầu ra trong số các đại biểu được các nước thành viên ứng cử; mỗi ủy viên của Hội đồng chấp hành đại diện cho Chính phủ nước mình. Ban Thư Ký UNESCO gồm có Tổng Giám đốc và số nhân viên được thừa nhận là cần thiết. Tổng Giám đốc do Hội đồng chấp hành đề nghị và Đại hội đồng bầu cử (nhiệm kỳ 6 năm) với những điều kiện được Đại hội đồng chấp nhận. Tổng Giám đốc là viên chức cao nhất của UNESCO.
Hiện UNESCO có 195 quốc gia là thành viên. Các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc có quyền gia nhập UNESCO; còn các quốc gia khác có thể được chấp nhận nếu được Hội đồng chấp hành giới thiệu và được Đại hội đồng biểu quyết với đa số hai phần ba thành viên có mặt tán thành.
Các quốc gia thành viên thường thành lập một tổ chức đại diện cho UNESCO ở nước mình, tùy điều kiện cụ thể. Phổ biến hiện nay là Ủy ban quốc gia UNESCO, trong đó có đại diện của Chính phủ và của các ngành Giáo dục, Khoa học, Văn hóa và Thông tin. Tuy có đại diện tại từng quốc gia, phương châm hoạt động của UNESCO là không can thiệp vào vấn đề nội bộ của các quốc gia. Ủy ban quốc gia UNESCO làm nhiệm vụ cố vấn cho đoàn đại biểu nước mình ở Đại hội đồng và cho Chính phủ trong các vấn đề liên quan đến UNESCO. Ủy ban này thường gồm đại diện các Vụ, Cục, các Bộ, các cơ quan và tổ chức khác quan tâm đến các vấn đề giáo dục, khoa học, văn hóa và thông tin, các nhân vật độc lập tiêu biểu cho các giới liên quan. Nó cũng có thể bao gồm Ban chấp hành thường trực, các cơ quan phối hợp, các tiểu bang và các cơ quan phụ cần thiết khác.
Lịch sử
UNESCO được thành lập ngày 16 tháng 11 năm 1945 với việc ký kết Công ước thành lập của UNESCO. Ngày 1 tháng 11 năm 1946, Công ước này được chính thức có hiệu lực với 20 quốc gia công nhận:
Thập niên 1970 và 1980, UNESCO là trung tâm của một tranh cãi trong đó Hoa Kỳ và Anh cho rằng đây là một diễn đàn để các nước theo chủ nghĩa cộng sản và thế giới thứ ba chống lại phương tây. Hoa Kỳ và Anh lần lượt rút khỏi tổ chức này năm 1984 và 1985. Sau đó, Anh và Hoa Kỳ lại tham gia tổ chức này lần lượt vào các năm 1997 và 2003.
Những năm cuối thập niên 1990, UNESCO đã thực hiện một số cải cách trong tổ chức, như cắt giảm nhân lực và số đơn vị. Số văn phòng giảm từ 79 (năm 1999) xuống 52 (hiện nay).
Năm 1998, UNESCO ủng hộ phần mềm tự do.
Các tổ chức phi chính phủ UNESCO NGO
UNESCO có quan hệ chính thức với 322 tổ chức phi chính phủ quốc tế (NGO).[4] Phần lớn số đó được UNESCO gọi là “operational”, và một số chọn lọc là “formal”.[5] Mức quan hệ cao nhất với UNESCO là “formal associate” và có 22 NGO như vậy[6].
Các viện và trung tâm
Các viện và trung tâm
Những ngày Quốc tế của UNESCO
Những ngày Quốc tế do UNESCO đề xuất và được thừa nhận[18]
Đại hội đồng
Các chủ tịch (Director-General) từ 1946
Đại hội đồng UNESCO từ 1946:[19]
Ban điều hành
Ban điều hành được bầu tại kỳ họp của Đại hội đồng UNESCO. Mỗi ủy viên được bầu đảm trách nhiệm kỳ 4 năm, tính từ 01 tháng Giêng năm sau trúng cử. Kỳ họp tháng 11/2015 chưa có kết quả cuối cùng.
Các văn phòng
The Garden of Peace, tại trụ sở chính của UNESCO, Paris. Được chính phủ Nhật Bản tài trợ, vườn hoa này được Isamu Noguchi, một nhà điêu khắc mang hai dòng máu Mỹ-Nhật thiết kế và được Toemon Sano, một người làm vườn Nhật Bản thực hiện.
UNESCO có văn phòng tại nhiều nơi trên toàn cầu; trụ sở chính của nó đặt tại Place de Fontenoy, Paris, Pháp, hiện tại đã đổi tên thành World Heritage Centre.[23]
UNESCO’s field offices are categorized into four primary office types based upon their function and geographic coverage: cluster offices, national offices, regional bureaux and liaison offices.
Các văn phòng theo vùng
Danh sách sau đây bao gồm tất cả các văn phòng UNESCO được phân chia theo vùng và được đánh dấu bằng tên các nước văn phòng đó phục vụ.[24]
Châu Phi
- Abuja – Văn phòng Quốc gia Nigeria
- Accra – Văn phòng chung cho Benin, Bờ Biển Ngà, Ghana, Liberia, Nigeria, Sierra Leone và Togo
- Addis Ababa – Văn phòng cho Liên minh châu Phi (AU, African Union) và Economic Commission for Africa
- Bamako – Văn phòng chung cho Burkina Faso, Guinea, Mali và Niger
- Brazzaville – Văn phòng Quốc gia Cộng hòa Congo
- Bujumbura – Văn phòng Quốc gia Burundi
- Dakar – Văn phòng cấp vùng cho Giáo dục ở châu Phi và Văn phòng chung cho Cape Verde, Gambia, Guinea-Bissau, và Senegal
- Dar es Salaam – Văn phòng chung cho Comoros, Madagascar, Mauritius, Seychelles và Tanzania
- Harare – Văn phòng chung cho Botswana, Malawi, Mozambique, Zambia và Zimbabwe
- Kinshasa – Văn phòng Quốc gia Cộng hòa Dân chủ Congo
- Libreville – Văn phòng chung cho Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Guinea xích đạo, Gabon và Sao Tome và Principe
- Maputo – Văn phòng Quốc gia Mozambique
- Nairobi – Văn phòng cấp vùng cho Sciences in Africa và Văn phòng chung cho Burundi, Djibouti, Eritrea, Kenya, Rwanda, Somalia, Nam Sudan và Uganda
- Windhoek – Văn phòng Quốc gia Namibia
- Yaoundé – Văn phòng chung cho Cameroon, Cộng hòa Trung Phi và Chad
Các nước A rập
- Iraq – Văn phòng Quốc gia Iraq (hiện tại đang đặt ở Amman, Jordan)
- Amman – Văn phòng Quốc gia Jordan
- Beirut – Văn phòng cấp vùng cho Giáo dục tại các nước A rập và Văn phòng chung cho Lebanon, Syria, Jordan, Iraq và Palestine
- Cairo – Văn phòng cấp vùng cho Khoa học tại các nước A rập và Văn phòng chung cho Egypt, Libya và Sudan
- Doha – Văn phòng chung cho Bahrain, Kuwait, Oman, Qatar, Saudi Arabia, United Arab Emirates và Yemen
- Khartoum – Văn phòng Quốc gia Sudan
- Rabat – Văn phòng chung cho Algeria, Mauritania, Morocco và Tunisia
Châu Á Thái Bình dương
-
- Almaty – Văn phòng chung cho Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan
- Apia – Văn phòng chung cho Australia, Quần đảo Cook, Fiji, Kiribati, Quần đảo Marshall, Liên bang Micronesia, Nauru, New Zealand, Niue, Palau, Papua New Guinea, Samoa, Quần đảo Solomon, Tonga, Tuvalu, Vanuatu và Tokelau (quan sát viên)
- Bangkok – Văn phòng cấp vùng cho Giáo dục tại châu Á Thái Bình Dương và Văn phòng chung cho Thái Lan, Miến Điện, Lào, Singapore, Việt Nam và Campuchia
- Bắc Kinh – Văn phòng chung cho Bắc Triều Tiên, Nhật Bản, Mông Cổ, Trung Quốc và Hàn Quốc
- Dhaka – Văn phòng Quốc gia Bangladesh
- Hà Nội – Văn phòng Quốc gia Việt Nam
- Islamabad – Văn phòng Quốc gia Pakistan
- Jakarta – Văn phòng cấp vùng cho Khoa học tại châu Á Thái Bình Dương và Văn phòng chung cho Brunei, Indonesia, Malaysia, the Philippines và Đông Timor
- Kabul – Văn phòng Quốc gia Afghanistan
- Kathmandu – Văn phòng Quốc gia Nepal
- New Delhi – Văn phòng chung cho Bangladesh, Bhutan, Ấn Độ, Maldives, Nepal và Sri Lanka
- Phnom Penh – Văn phòng Quốc gia Campuchia
- Tashkent – Văn phòng Quốc gia Uzbekistan
- Tehran – Văn phòng chung cho Afghanistan, Iran, Pakistan và Turkmenistan
Châu Âu và Bắc Mỹ
Mỹ Latinh và quần đảo Caribê
- Brasilia – Văn phòng Quốc gia Brazil
- Guatemala City – Văn phòng Quốc gia Guatemala
- Havana – Văn phòng cấp vùng cho Văn hóa ở châu Mỹ Latinh và quần đảo Caribê và Văn phòng chung cho Cuba, Dominican Republic, Haiti và Aruba
- Kingston – Văn phòng chung cho Antigua và Barbuda, Bahamas, Barbados, Belize, Dominica, Grenada, Guyana, Jamaica, Saint Kitts và Nevis, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadines, Suriname và Trinidad và Tobago cũng như cho các quan sát viên Quần đảo Virgin thuộc Anh, Quần đảo Cayman, Curaçao và Sint Maarten
- Lima – Văn phòng Quốc gia Peru
- Mexico City – Văn phòng Quốc gia Mexico
- Montevideo – Văn phòng cấp vùng cho Khoa học vùng Mỹ Latinh và quần đảo Caribê và Văn phòng chung cho Argentina, Brazil, Chile, Paraguay và Uruguay
- Port-au-Prince – Văn phòng Quốc gia Haiti
- Quito – Văn phòng chung cho Bolivia, Colombia, Ecuador và Venezuela
- San José – Văn phòng chung cho Costa Rica, El Salvador, Guatemala, Honduras, Mexico, Nicaragua và Panama
- Santiago de Chile – Văn phòng cấp vùng cho Giáo dục vùng Mỹ Latinh và quần đảo Caribê và Văn phòng Quốc gia Chile
Đại sứ thiện chí
-
Các Đại sứ thiện chí của UNESCO là người sử dụng tài năng hay sự nổi tiếng của mình để truyền bá tư tưởng của UNESCO, đặc biệt là thu hút sự chú ý của giới truyền thông. Chất chuyên ngành khác nhau của người ủng hộ bao gồm những ngưới hoạt động vì hòa bình, hoạt động thể thao, hay làm Đặc phái viên cho UNESCO.
Danh sách giải thưởng UNESCO
UNESCO có 22 giải thưởng[26] trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa và hòa bình:
Các giải thưởng ngừng trao tặng
Tranh cãi và cải cách
Trật tự thông tin và truyền thông thế giới mới
UNESCO đã từng là trung tâm của tranh cãi trong quá khứ, đặc biệt là trong mối quan hệ với Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Singapore và Liên Xô cũ.
Trong những năm 1970 và 1980, UNESCO hỗ trợ cho một “Trật tự thông tin và truyền thông thế giới mới” (New World Information and Communication Order), và báo cáo MacBride (MacBride report) của nó kêu gọi dân chủ hóa phương tiện truyền thông và tiếp cận bình đẳng hơn với các thông tin, đã bị lên án ở các nước vốn có nỗ lực kiềm chế tự do báo chí.
UNESCO đã được một số nước cảm nhận như là sân đấu cho các nước cộng sản và các nhà độc tài của thế giới Thứ ba để tấn công phương Tây[27]. Nó thể hiện rõ rệt trong tố cáo của Liên Xô vào những năm cuối thập niên 1940 và đầu những năm 1950. Năm 1984, Hoa Kỳ đã cắt giảm của mình đóng góp và rồi rút lui khỏi UNESCO để phản đối, tiếp theo năm 1985 là Vương quốc Anh. Singapore cũng rút theo, với lý do phí thành viên tăng.[28]
Sau khi thay đổi chính phủ trong năm 1997, Anh gia nhập trở lại. Hoa Kỳ gia nhập lại vào năm 2003, tiếp theo là Singapore ngày 08/10/2007.
Israel
Wikileaks và UNESCO
Vào ngày 16 và 17 tháng Hai 2012, UNESCO đã tổ chức một hội nghị mang tên Truyền thông thế giới sau WikiLeaks và Tin tức thế giới (The Media World after WikiLeaks and News of the World). Mặc dù tất cả sáu tấm áp phích đều tập trung về WikiLeaks, nhưng lại không có ai từ WikiLeaks được mời là diễn giả. Sau khi nhận được đơn khiếu nại từ người phát ngôn WikiLeaks Kristinn Hrafnsson, UNESCO đã mời ông tham dự, nhưng không đưa ra bất kỳ một vị trí trên bảng.[29] Các đề nghị cũng chỉ được đưa ra một tuần trước khi hội nghị được tổ chức tại Paris, Pháp. Những diễn giả khác như David Leigh và Heather Brooke thì lên tiếng công khai chống lại WikiLeaks và người sáng lập Julian Assange trong quá khứ.
WikiLeaks phát hành một thông cáo báo chí vào ngày 15/02/2012 tố cáo UNESCO trong đó nói: “UNESCO đã tự biến mình thành một trò đùa về nhân quyền quốc tế. Sử dụng “tự do ngôn luận” để kiểm duyệt WikiLeaks từ một hội nghị về WikiLeaks là một điều Orwellian ngớ ngẩn vượt mọi ngôn từ. Đây là một sự lạm dụng quá quắt Hiến chương UNESCO. Đây là thời gian để chiếm UNESCO.”[30] Kèm theo tuyên bố là email trao đổi của người phát ngôn WikiLeaks Kristinn Hrafnsson và ban tổ chức hội nghị UNESCO.
Xem thêm
Tham khảo
- ^ UNESCO’s General Conference voted on ngày 31 tháng 10 năm 2011 “to admit Palestine as a member State”. However, it notes that, for “its membership to take effect, Palestine must sign and ratify UNESCO’s Constitution”. “UNESCO ” Media Services ” General Conference admits Palestine as UNESCO Member State”. UNESCO.
- ^ “Member States | United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization”. UNESCO.
- ^ “The Faroes become associated <ny specialized institutes and centres throughout the world”.[liên kết hỏng]
- ^ “Quoted on UNESCO official site”. Ngo-db.unesco.org. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Full list of NGOs that have official relations with UNESCO”. UNESCO. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
- ^ “UNESCO Headquarters Committee 107th session 13 Feb 2009”. Ngo-db.unesco.org. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
- ^ IBE official site
- ^ UIL official site
- ^ IIEP official site
- ^ IITE official site
- ^ IICBA official site
- ^ IESALC official site
- ^ UNEVOC official site
- ^ CEPES official site
- ^ UNESCO-IHE official site
- ^ ICTp official site
- ^ UIS official site
- ^ International Days | United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization. UNESCO. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2013.
- ^ UNESCO official site: Previous Sessions of the General Conference
- ^ “President of the 38th session of the General Conference”. UNESCO. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2015.
- ^ Executive Board – Results of elections. UNESCO General Conference, November 2015. Retrieved 12/11/2015.
- ^ Table_2013-2015.pdf UNESCO Membership by Electoral Groups. Retrieved 12/11/2015.
- ^ Charlotte L Joy (ngày 15 tháng 1 năm 2012). The Politics of Heritage Management in Mali: From UNESCO to Djenné. Left Coast Press. tr. 79–. ISBN 978-1-61132-094-7. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2012.
- ^ “List of All UNESCO Field Offices by Region with Descriptions of Member State Coverage”. UNESCO. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2011.
- ^ “City of Quito – UNESCO World Heritage”. UNESCO. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
- ^ UNESCO Executive Board Document 185 EX/38, Paris, ngày 10 tháng 9 năm 2010
- ^ “UNESCO Gets Chummy With Equatorial Guinea’s Dictator”. News.change.org. Truy cập 11/05/2015.
- ^ Singapore to withdraw from UNESCO, The Telegraph, ngày 28 tháng 12 năm 1984.
- ^ “UNESCO-leaks to refute wikileaks accusation”. UNESCO. ngày 16 tháng 2 năm 2012. Truy cập 01/05/2015.
- ^ “WikiLeaks denounces UNESCO after WikiLeaks banned from UNESCO conference on WikiLeaks”. WikiLeaks. ngày 15 tháng 2 năm 2012. Truy cập 15/02/2012.
Liên kết ngoài
Thể loại:
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (tiếng Anh: United Nations Convention on Law of the Sea – UNCLOS), cũng gọi là Công ước Luật biển hay cũng được những người chống đối nó gọi là Hiệp ước Luật biển, là một hiệp ước quốc tế được tạo ra trong Hội nghị về luật biển Liên Hiệp Quốc lần thứ 3 diễn ra từ năm 1973 cho đến 1982 với các chỉnh sửa đã được thực hiện trong Hiệp ước Thi hành năm 1994.
Công ước Luật biển là một bộ các quy định về sử dụng các đại dương của thế giới, chiếm 70% diện tích bề mặt Trái Đất. Công ước đã được ký kết năm 1982 để thay thế cho 4 hiệp ước năm 1958 đã hết hạn. UNCLOS có hiệu lực từ năm 1994, và cho đến tháng 10 năm 2014, có 167 quốc gia và Cộng đồng châu Âu đã tham gia Công ước này.[2] Hoa Kỳ không tham gia vì nước này tuyên bố rằng hiệp ước này không có lợi cho kinh tế và an ninh của Mỹ.
Công ước quy định quyền và trách nhiệm của các quốc gia trong việc sử dụng biển, thiết lập các hướng dẫn rõ ràng cho các hoạt động kinh doanh, bảo vệ môi trường và cải thiện quản lý các tài nguyên thiên nhiên đại dương. Các sự kiện mà thuật ngữ đề cập trong Công ước là: Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc lần 1, Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc lần 2, Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc lần 3. Công ước này là kết quả của Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc lần 3 và cũng mang tên gọi Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc.
Trong khi Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc nhận được các công cụ phê chuẩn và gia nhập và Liên Hiệp Quốc quy định ủng hộ các cuộc họp của các quốc gia là thành viên của Công ước thì Liên Hiệp Quốc không có vai trò hoạt động trong việc thi hành Công ước này. Tuy nhiên các tổ chức liên chính phủ tự trị như: Tổ chức Hàng hải Quốc tế, Ủy ban Cá voi Quốc tế và Cơ quan quản lý Đáy biển Quốc tế được Công ước này thành lập lại có một vai trò trong việc thực thi Công ước.
Bối cảnh lịch sử
UNLOS đã tỏ ra cần thiết do tính pháp lý yếu của ý niệm ‘quyền tự do về biển‘ có từ thế kỷ 17: quyền của các quốc gia đã bị giới hạn trong một vành đai lãnh hải mở rộng ra từ các bờ biển của quốc gia đó, thường là 3 hải lý, theo quy định phát đạn pháo được thẩm phán người Hà Lan Cornelius Bynkershoek phát triển. Tất cả các lãnh hải nằm ngoài biên giới quốc gia được xem như lãnh hải quốc tế – tự do cho tất cả các quốc gia, nhưng không thuộc quốc gia nào cả (nguyên tắc mare liberum được Grotius công bố).
Đầu thế kỷ 20, nhiều quốc gia biểu lộ ý muốn mở rộng quyền tuyên bố chủ quyền quốc gia nằm đưa các nguồn tài nguyên khoáng sản, bảo vệ nguồn cá và có các phương tiện để thực thi kiểm soát ô nhiễm. Hội Quốc Liên đã tổ chức một hội nghị năm 1930 tại Hague để bàn về điều này, nhưng hội nghị không đạt được thỏa thuận nào.
Một quốc gia phản ánh nguyên tắc luật bất thành văn quốc tế về quyền một quốc gia để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của mình là Hoa Kỳ, khi năm 1945, Tổng thống Harry S. Truman đã mở rộng sự kiểm soát quốc gia trên các tài nguyên thiên nhiên ở trong thềm lục địa của mình. Các quốc gia khác cũng nhanh chóng ganh đua theo Mỹ. Giữa năm 1946 và 1950, Argentina, Chile, Peru và Ecuador đều nới rộng chủ quyền của mình ra khoảng cách 200 hải lý nhằm bao quát cả ngư trường trong hải lưu Humboldt của họ. Các quốc gia khác đã nới rộng vùng lãnh hải đến 12 hải lý.
Đến năm 1967, chỉ có 25 quốc gia vẫn sử dụng giới hạn 3 hải lý, 66 quốc gia đã quy định giới hạn lãnh hải 12 hải lý và 8 quốc gia đưa ra giới hạn 200 hải lý. Để xem bảng các tuyên bố hàng hải được Liên Hiệp Quốc biên tập, xem [3]. Theo bảng này, đến ngày 27 tháng 7 năm 2007, chỉ có vài nước sử dụng giới hạn 3 hải lý là Jordan, Palau và Singapore. Giới hạn 3 hải lý này cũng được sử dụng ở một số đảo của Úc, một khu vực của Belize, một vài eo biển của Nhật Bản, một vài khu vực của Papua New Guinea, và một vài lãnh thổ phụ thuộc của Anh Quốc như Anguilla.
Hội Nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển lần I
Năm 1956, Liên Hiệp Quốc tổ chức Hội nghị về Luật Biển đầu tiên (UNCLOS I) ở Geneva, Thụy Sĩ. Hội nghị này đạt được bốn hiệp định ký kết năm 1958:
Mặc dầu Hội nghị lần này được cho là thành công, nhưng nó vẫn để ngỏ vấn đề quan trọng là bề rộng của vùng lãnh hải.
Hội Nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển Lần II
Năm 1960, Liên Hiệp Quốc tổ chức Hội nghị về Luật Biển lần hai (“UNCLOS II”). Tuy nhiên, hội nghị sáu tuần ở Geneva không đạt được tiến triển nào mới. Nhìn chung, các nước đang phát triển chỉ tham dự như là như là khách, liên minh, hoặc nước độc lập của Mỹ hay Liên Xô mà không nói lên được tiếng nói của mình.
Hội Nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển Lần III
Các vùng biển theo luật biển quốc tế.
Năm 1967, vấn đề về các tuyên bố khác nhau về lãnh hải đã được nêu ra tại Liên Hiệp Quốc. Năm 1973, Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ 3 về Luật biển (Third United Nations Conference on the Law of the Sea) được tổ chức tại New York. Để cố gắng giảm khả năng các nhóm quốc gia thống trị đàm phán, hội nghị dùng một quy trình đồng thuận thay cho bỏ phiếu lấy đa số. Với hơn 160 nước tham gia, hội nghị kéo dài đến năm 1982. Kết quả là một công ước có hiệu lực từ ngày 16 tháng 11 năm 1994, một năm sau khi Guyana – nước thứ 60 ký công ước.
Nội dung công ước có một loạt điều khoản. Những điều khoản quan trọng nhất quy định về việc thiết lập các giới hạn, giao thông đường biển, trạng thái biển đảo, và các chế độ quá cảnh, các vùng đặc quyền kinh tế, quyền tài phán thềm lục địa, khai khoáng lòng biển sâu, chính sách khai thác, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học, và dàn xếp các tranh chấp.
Công ước đặt ra giới hạn cho nhiều khu vực, tính từ một đường cơ sở (baseline) được định nghĩa kỹ càng. (Thông thường, một đường biển cơ sở chạy theo đường bờ biển khi thủy triều xuống, nhưng khi đường bờ biển bị thụt sâu, có đảo ven bờ, hoặc đường bờ biển rất không ổn định, có thể sử dụng các đường thẳng làm đường cơ sở). Có các khu vực dưới đây:
- Nội thủy
- Bao phủ tất cả vùng biển và đường thủy ở bên trong đường cơ sở (phía đất liền). Tại đây, quốc gia ven biển được tự do áp đặt luật, kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài không có quyền đi lại tự do trong các vùng nội thủy.
- Lãnh hải
- Vùng nằm ngoài đường cơ sở có chiều ngang 12 hải lý. Tại đây, quốc gia ven biển được quyền tự do đặt luật, kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài được quyền “qua lại không gây hại” mà không cần xin phép nước chủ. Đánh cá, làm ô nhiễm, dùng vũ khí, và do thám không được xếp vào dạng “không gây hại”. Nước chủ cũng có thể tạm thời cấm việc “qua lại không gây hại” này tại một số vùng trong lãnh hải của mình khi cần bảo vệ an ninh.
- Vùng nước quần đảo
- Công ước đưa ra định nghĩa về các quốc gia quần đảo trong phần IV, cũng như định nghĩa về việc các quốc gia này có thể vẽ đường biên giới lãnh thổ của mình như thế nào. Đường cơ sở được vẽ giữa các điểm ngoài cùng nhất của các đảo ở ngoài cùng nhất, đảm bảo rằng các điểm này phải đủ gần nhau một cách thích đáng. Mọi vùng nước bên trong đường cơ sở này sẽ là vùng nước quần đảo và được coi như là một phần của lãnh hải quốc gia đó.
- Vùng tiếp giáp lãnh hải
- Bên ngoài giới hạn 12 hải lý của lãnh hải là một vành đai có bề rộng 12 hải lý, đó là vùng tiếp giáp lãnh hải. Tại đây, nước chủ có thể vẫn thực thi luật pháp của mình đối với các hoạt động như buôn lậu hoặc nhập cư bất hợp pháp.
- Vùng đặc quyền kinh tế
- Rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng này, quốc gia ven biển được hưởng độc quyền trong việc khai thác đối với tất cả các tài nguyên thiên nhiên. Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế được đưa ra để ngừng các cuộc xung đột về quyền đánh cá, tuy rằng khai thác dầu mỏ cũng đã trở nên một vấn đề quan trọng. Trong vùng đặc quyền kinh tế, nước ngoài có quyền tự do đi lại bằng đường thủy và đường không, tuân theo sự kiểm soát của quốc gia ven biển. Nước ngoài cũng có thể đặt các đường ống ngầm và cáp ngầm.
- Thềm lục địa
- Được định nghĩa là vành đai mở rộng của lãnh thổ đất cho tới mép lục địa (continental margin), hoặc 200 hải lý tính từ đường cơ sở, chọn lấy giá trị lớn hơn. Thềm lục địa của một quốc gia có thể kéo ra ngoài 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục địa, nhưng không được vượt quá 350 hải lý, không được vượt ra ngoài đường đẳng sâu 2500m một khoảng cách quá 100 hải lý. Tại đây, nước chủ có độc quyền khai thác khoáng sản và các nguyên liệu không phải sinh vật sống.
Bên cạnh các điều khoản định nghĩa các ranh giới trên biển, công ước còn thiết lập các nghĩa vụ tổng quát cho việc bảo vệ môi trường biển và bảo vệ quyền tự do nghiên cứu khoa học trên biển. Công ước cũng tạo ra một cơ chế pháp lý mới cho việc kiểm soát khai thác tài nguyên khoáng sản tại các lòng biển sâu nằm ngoài thẩm quyền quốc gia, được thực hiện qua Ủy ban đáy biển quốc tế (International Seabed Authority).
Các nước không có biển được quyền có đường ra biển mà không bị đánh thuế giao thông bởi các nước trên tuyến đường nối với biển đó.
Ký và phê chuẩn
đã phê chuẩn
đã kí nhưng chưa phê chuẩn
chưa kí
Bắt đầu kí – 10 tháng 12 năm 1982.
Đi vào hiệu lực – 16 tháng 11 năm 1994.[2]
Các nước đã kí nhưng chưa phê chuẩn – (17) Afghanistan, Bhutan, Burundi, Campuchia, Cộng hòa Trung Phi, Colombia, El Salvador, Ethiopia, Iran, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Libya, Liechtenstein, Niger, Rwanda, Swaziland, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Hoa Kỳ.
Các nước chưa kí – (17) Andorra, Azerbaijan, Ecuador, Eritrea, Israel, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Nam Sudan, Peru, San Marino, Syria, Tajikistan, Đông Timor, Thổ Nhĩ Kỳ, Turkmenistan, Uzbekistan, Venezuela.
Thông tin thêm
Ngày 20 tháng 9 năm 2007, một tòa án trọng tài thành lập dưới Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển đã ra phán quyết về một tranh chấp biên giới trên biển từ lâu giữa Guyana và Suriname[4].
Tham khảo
Xem thêm
Liên kết ngoài
Thể loại:
Kanji
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Có một số bất đồng về cách thức chữ Hán du nhập vào Nhật Bản, nhưng ý kiến được chấp nhận rộng rãi nhất là các nhà sư đã mang các văn bản chữ Hán vào Nhật vào khoảng thế kỉ thứ 5. Các văn bản này được viết bằng chữ Hán vào và lúc đầu cũng được đọc bằng âm Hán. Tuy nhiên qua thời gian, hệ thống Hán văn (漢文, kanbun) xuất hiện – nó dùng văn bản chữ Hán với dấu thanh cho phép người Nhật đọc nó theo quy tắc ngữ pháp tiếng Nhật.
Lúc bấy giờ tiếng Nhật chưa có dạng chữ viết. Ngay cả hệ thống chữ viết man’yōgana (万葉仮名, được dùng trong tuyển tập thơ cổ Man’yōshū) cũng dùng bộ chữ kanji với số ký tự hạn chế nhằm ký âm, chứ không nhằm diễn đạt ngữ nghĩa. Man’yōgana viết ở dạng đường cong trở thành hiragana (ひらがな, 平仮名), một hệ thống chữ viết dành cho phụ nữ (không được phép tham gia vào nền giáo dục cao). Hầu hết văn chương của phụ nữ vào thời đại Heian được viết bằng hiragana. Song song đó, katakana (カタカナ, 片仮名) xuất hiện do được các tu sinh giản lược manyogana thành một thành tố đơn. Hiragana và katakana được gọi chung là kana.
Khi hệ thống chữ viết tiếng Nhật trưởng thành và mở rộng, kanji được dùng để viết một số phần trong câu, như danh từ, tính từ và động từ, còn hiragana được dùng để viết đuôi của động từ (okurigana), từ chỉ có ở tiếng Nhật và từ khó đọc hay nhớ bằng Kanji. Hiragana cũng được dùng trong sách dùng cho trẻ em và khi muốn giảm nhẹ mức độ của từ hoặc lời yêu cầu, thí dụ như từ kudasai (ください, xin vui lòng) và kodomo (子供, trẻ em). Ngược lại, vì có hình dạng góc cạnh, katakana được dùng để biểu thị từ tượng thanh, các âm thô và đột ngột, âm thanh của động vật và từ vay mượn của nước ngoài. Tuy nhiên cần lưu ý rằng việc dùng katakana để viết từ vay mượn chỉ xuất hiện sau này. Lúc đầu, các từ này được viết bằng kanji, dựa theo nghĩa (煙草 tabako, thuốc lá) hay theo phát âm (tempura 天婦羅 hay 天麩羅, tên một món ăn). Ngày nay thì ngược lại. Từ vay mượn, đặc biệt là gốc tiếng Anh, đang nhanh chóng thay thế cả những từ thường dùng có sẵn dạng tương đương trong tiếng Nhật thay vì được dùng để lấp khoảng trống từ vựng. Một giáo sư ngôn ngữ học ước tính đến 1/3 tiếng Nhật văn nói dùng từ vay mượn hay wasei-eigo, từ tiếng Anh được phát minh bởi người Nhật và từ kết hợp như パソコン pasokon (personal computer, máy tính cá nhân)
Phân loại chữ Hán Nhật văn theo lịch sử
Quốc tự (Kokuji)
Trong khi một số từ chữ Hán trong tiếng Nhật và trong tiếng Trung có thể đọc qua lại lẫn nhau, một số từ chữ Kanji của tiếng Nhật không có chữ Hán tương đương trong tiếng Trung. Ngoài những từ được dùng với nghĩa khác, những từ có cùng nghĩa nhưng viết khác, cũng có những từ riêng của tiếng Nhật được gọi là Kokuji (国字), còn được gọi là Wasei kanji (和製漢字, tức Kanji được chế ra tại Nhật). Có hàng trăm chữ Quốc tự (xem danh sách ở sci.lang.japan AFAQ), và mặc dù một số từ này ít được dùng, những từ còn lại đã góp phần quan trọng và ngôn ngữ viết tiếng Nhật. Ví dụ như:
- 峠 tōge (đỉnh đèo)
- 榊 sakaki (cây sakaki, chi Cleyera)
- 畑 hatake (cánh đồng)
- 辻 tsuji (ngã tư đường)
- 働 dō, hatara(ku) (làm việc)
Quốc huấn (Kokkun)
Kokkun (国訓) là những chữ Kanji có nghĩa trong tiếng Nhật khác với nghĩa nguyên thuỷ trong tiếng Trung. Thí dụ:
- 沖 oki (ngoài khơi; tiếng Trung: chōng rửa)
- 椿 tsubaki (Camellia japonica, cây sơn trà Nhật Bản; tiếng Trung: chūn cây xuân Toona spp.)
Cách viết cũ và mới
-
Một số chữ kanji trong tiếng Nhật có thể được viết theo 2 cách khác nhau: cách viết cũ hay “Kyūjitai” (旧字体(きゅうじたい) – “cựu tự thể”) và cách viết mới hay “Shinjitai” (新字体 (しんじたい)- “tân tự thể”). Dưới đây là một số thí dụ về hai cách viết, trong đó cách viết cũ đứng trước cách viết mới:
- 國 国 kuni (quốc, tức quốc gia)
- 號 号 gō (hào, nghĩa là số, ký hiệu, dấu hiệu)
- 變 変 hen, ka(waru) (biến, nghĩa là thay đổi)
Cổ tự thể được dùng trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc; sau chiến tranh chính phủ Nhật đưa ra tân tự thể với lối viết đơn giản hóa. Một số chữ mới này tương tự với chữ Hán giản thể được dùng tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thường thì trong tiếng Nhật, nếu chữ Hán đó có Shinjitai thì Kyujitai sẽ không được sử dụng. Tuy vậy nhiều chữ ở Kyujitai vẫn được dùng thường xuyên dù có Shinjitai, và giữa 2 tự thể còn có thể khác nghĩa. Ví dụ chữ “Long” (ryuu – “rồng”), Kyujitai: 龍, Shinjitai: 竜, đều dùng phổ biến như nhau. Hay chữ “diệp”, Kyujitai: 葉 – “は(ha) – lá cây”, nhưng ở Shinjitai: 叶, nó chỉ được dùng trong động từ “kanaimasu” – 叶います – “đáp ứng, phù hợp”, và không thể tráo đổi 2 thể này ở từ “lá cây” và “đáp ứng” được (tức là muốn viết chữ “diệp” có nghĩa là “lá cây”, phải viết chữ 葉, không được viết chữ 叶, dù 2 thể của chữ này trong tiếng Nhật đều được sử dụng phổ biến).
Cũng có những chữ Hán được dùng trong tiếng Nhật chỉ với mục đích phát âm (当て字 ateji). và nhiều chữ Hán không được dùng trong tiếng Nhật. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết, bất cứ chữ Hán nào cũng có thể là chữ Nhật Bản. Đại Hán-Hòa từ điển (大漢和辞典, Morohashi Daikanwa Jiten) là từ điển chữ Hán dùng trong tiếng Nhật lớn nhất cho đến nay; nó có gần 5 vạn mục từ, bao gồm cả những mục từ chưa từng được dùng trong tiếng Nhật.
Ký tự đặc biệt đứng cùng Kanji
Trong tiếng Nhật, có một số ký tự đặc biệt được sử dụng khi viết cùng Kanji:
Dấu lặp lại Kanji ngay trước – “々” – được gọi là “kurikaeshi” (くりかえし). Ký tự này khi viết sau 1 chữ Hán, ta sẽ đọc nó theo âm của chữ Hán trước nó (tất nhiên sẽ có vài trường hợp biến âm sang âm đục hay âm bán đục cùng hàng). Ký tự này giúp người viết không cần phải viết lại chữ Hán ở trước nó. VD:
- “tokidoki” (ときどき – “thỉnh thoảng”) vốn sẽ viết là 2 chữ “thời” – 時時 – trong tiếng Nhật ta sẽ viết 1 chữ “thời” với ký tự này – 時々.
- ”hibi” (ひび – “ngày ngày”) vốn sẽ viết là 2 chữ “nhật” – 日日 – trong tiếng Nhật ta sẽ viết 1 chữ “nhật” với ký tự này – 日々.
- ”iroiro” (いろいろ- “nhiều”) vốn sẽ viết là 2 chữ “sắc” – 色色 – trong tiếng Nhật ta sẽ viết 1 chữ “sắc” với ký tự này – 色々.
- Tương tự như vậy trong một số tên của người Nhật: Nene (寧々), Nonohana (野々花),…
Chữ “ke – ケ” của katakana khi viết nhỏ lại (nhỏ bằng chữ “tsu – っ/ッ” với chức năng là âm ngắt) và đứng cạnh chữ Hán, sẽ được đọc là “ka” hoặc “ga”.
- VD: 2ヶ月 (にかげつ – “ni-ka-getsu” – “2 tháng”).
Cách đọc
Do cách thức du nhập vào tiếng Nhật, một ký tự kanji có thể được dùng để viết một hoặc nhiều từ (hay hình vị, trong hầu hết các trường hợp) khác nhau. Từ cách nhìn nhận của người đọc, kanji cũng có một hoặc nhiều cách đọc khác nhau. Để quyết định sử dụng cách đọc nào, người ta phải dựa vào văn cảnh, dụng ý, hoàn cảnh phức hợp, thậm chí là vị trí từ kanji đó trong câu. Một số từ kanji thông dụng có từ 10 cách đọc trở lên. Những cách đọc này thường được phân loại thành nhóm on’yomi (hay cách đọc on) hoặc kun’yomi (hay cách đọc kun).
On’yomi (Cách đọc kiểu Hán)
On’yomi (音読み), cách đọc Hán-Nhật, là sự Nhật hóa cách phát âm tiếng Hán của Hán tự vào thời điểm nó được du nhập vào. Một số ký tự Kanji được du nhập từ các vùng khác nhau của Trung Quốc vào các thời điểm khác nhau, dẫn đến có nhiều on’yomi, và thường có nhiều ý nghĩa. Những kanji được phát minh thêm ở Nhật thường không có on’yomi, nhưng cũng có một số ngoại lệ, chẳng hạn ký tự 働 (động) “làm việc”, có kun’yomi là hataraku và on’yomi là dō, hay ký tự 腺 (tuyến), chỉ có cách đọc on’yomi là sen.
Nhìn chung, on’yomi chia làm 4 kiểu:
- Cách đọc Go-on (呉音 – “Ngô âm” – âm của tiếng Ngô) có xuất xứ từ cách phát âm trong thời kỳ Nam-Bắc triều ở Trung Quốc hay Bách Tế ở Triều Tiên, vào thế kỷ thứ 5 – 6. “Ngô” ở đây chính là khu vực nước Ngô thời Xuân Thu hoặc nước Đông Ngô thời Tam Quốc ở Trung Quốc (đều có có trung tâm là là thành phố Thượng Hải ngày nay).
- Cách đọc Kan-on (漢音 – “Hán âm” – âm của tiếng Hán) có xuất xứ từ cách phát âm trong thời kỳ nhà Đường[4] vào khoảng thế kỷ thứ 7 – 9, chủ yếu lấy cách phát âm ở kinh đô Trường An (長安,长安) của nhà Đường làm tiêu chuẩn.
- Cách đọc Tō-on (唐音 – “Đường âm”) có xuất xứ từ cách phát âm của các triều đại sau đó, như nhà Tống[5] (宋) và nhà Minh (明). Đây là cách đọc chủ yếu được du nhập trong các thời kỳ Heian (平安) cho đến Edo (江戸). Ngoài ra còn một dạng khác là Tōsō-on (唐宋音 – “Đường Tống âm”).
- Cách đọc Kan’yō-on (慣用音 – “Quán dụng âm”- âm đọc theo thói quen) là những cách đọc ra đời do bị biến đổi, nhầm lẫn và được người Nhật chấp nhận trong ngôn ngữ của họ.
Các ví dụ (những cách đọc hiếm dùng nằm trong dấu ngoặc đơn)
Kanji |
Hán Việt |
Nghĩa |
Go-on |
Kan-on |
Tō-on |
Kan’yō-on |
明 |
minh |
sáng |
myō |
mei |
(min) |
— |
行 |
hành |
đi, đến |
gyō |
kō |
(an) |
— |
極 |
cực |
cực hạn |
goku |
kyoku |
— |
— |
珠 |
châu |
ngọc, châu báu |
shu |
shu |
ju |
(zu) |
度 |
độ |
mức độ, trình độ |
do |
(to) |
— |
— |
輸 |
thâu |
chuyên chở |
(shu) |
(shu) |
— |
yu |
雄 |
hùng |
giống đực, mạnh |
— |
— |
— |
yū |
熊 |
hùng |
con gấu |
— |
— |
— |
yū |
子 |
tử |
đứa trẻ |
shi |
shi |
su |
— |
清 |
thanh |
trong |
shō |
sei |
(shin) |
— |
京 |
kinh |
thủ đô |
kyō |
kei |
(kin) |
— |
兵 |
binh |
quân, lính |
hyō |
hei |
— |
— |
強 |
cường |
mạnh khỏe |
gō |
kyō |
— |
— |
Kiểu đọc thông dụng nhất là kan-on. Cách đọc go-on đặc biệt thông dụng trong các thuật ngữ đạo Phật, chẳng hạn gokuraku 極楽 “cực lạc”. Cách đọc tō-on được dùng trong một số từ như isu 椅子 (ỷ tử) “chiếc ghế” hay futon 布団 (bố đoàn) “tấm nệm”.
Trong tiếng Hán, hầu hết các ký tự chỉ có một âm tiết tiếng Hán duy nhất. Tuy nhiên, một số từ đồng chuế khác nghĩa (cùng cách viết, khác ý nghĩa) được gọi là 多音字 (đa âm tự – bính âm: duōyīnzì) như 行 (hành – bính âm: háng hay xíng) (tiếng Nhật: kō, gyō) có nhiều hơn một cách đọc biểu diễn những ý nghĩa khác nhau, điều này cũng được phản ánh ở sự tiếp nhận trong tiếng Nhật. Ngoài ra, nhiều âm tiết tiếng Hán, đặc biệt là các âm tiết với thanh nhập (入声), không tương thích với các âm vị phụ-nguyên âm dùng rộng rãi trong tiếng Nhật cổ. Do đó hầu hết on’yomi được hình thành bởi hai morae (âm tiết hay nhịp), mora thứ hai có thể là sự kéo dài của nguyên âm trong mora thứ nhất, hoặc là một trong các âm tiết ku, ki, tsu, chi, hoặc âm tiết n, và được lựa chọn một cách tương đương nhất so với các nguyên âm cuối trong tiếng Hán trung cổ. Thực tế, các phụ âm vòm ở trước các nguyên âm không phải là i, cũng như âm tiết n, có lẽ đã được thêm vào tiếng Nhật để mô phỏng dễ hơn tiếng Hán; không đặc điểm nào trong số này xảy ra trong tiếng Nhật nguyên gốc.
On’yomi được dùng chủ yếu trong các từ ghép kanji (熟語 jukugo thục ngữ), một số là kết quả do du nhập cùng với chính những ký tự kanji đó từ các từ các từ tiếng Hán do có thể không tồn tại trong tiếng Nhật hoặc không thể phát âm rõ ràng nếu chỉ sử dụng ngôn ngữ bản địa. Quá trình vay mượn ngôn ngữ này tương tự với quá trình vay mượn các từ tiếng Latin hoặc tiếng Pháp Noóc-măng đối với tiếng Anh, hay vay mượn các từ tiếng Pháp hoặc tiếng Anh đối với tiếng Việt; bởi các thuật ngữ mượn tiếng Hán thường có tính chuyên môn hóa uyên bác, âm tiết kiểu cách hơn so với từ bản địa tương ứng. Ngoại lệ đáng kể nhất trong nguyên tắc này là tên họ, trong đó thường sử dụng cách đọc kun’yomi hơn.
Kun’yomi (cách đọc kiểu Nhật)
Cách đọc kiểu Nhật hay cách đọc bản địa, kun’yomi (訓読み), là cách đọc một chữ kanji lấy nghĩa, dựa trên cách phát âm của một từ tương đương tiếng Nhật, tức yamatokotoba. Cách đọc này chuyển nghĩa của kanji sang một chữ tương xứng nhất trong tiếng Nhật. Giống với on’yomi, mỗi kanji có thể có một hoặc nhiều cách đọc. Có khi kanji đó chỉ có on’yomi mà không có kun’yomi.
Lấy ví dụ, ký tự kanji 東, “phía đông“, có cách đọc on’yomi là tō. Tuy nhiên, tiếng Nhật vốn đã có 2 từ mang nghĩa “phía đông” là: higashi và azuma. Do đó, ký tự 東 có những cách đọc kun là higashi và azuma. Ngược lại, ký tự kanji 寸, “thốn”, biểu thị một đơn vị đo chiều dài trong tiếng Hán (xấp xỉ 3 cm), tiếng Nhật bản địa không có từ nào mang nghĩa tương đương. Do đó, nó chỉ có cách đọc on là sun và không có cách đọc kun nào. Hầu hết các kokuji, tức các ký tự kanji do người Nhật tạo ra thêm, chỉ có các cách đọc kun.
Đặc trưng của kun’yomi được quyết định bởi cấu trúc âm tiết (phụ)-nguyên của yamatokotoba. Hầu hết các kun’yomi của danh từ và tính từ thường có độ dài từ 2 đến 3 âm tiết, không tính các ký tự hiragana đi kèm có tên gọi okurigana. Okurigana không được xem là một phần trong bản chất cách đọc của ký tự, mặc dù chúng là một phần trong cách đọc của toàn bộ từ. Người mới học tiếng Nhật có thể ít khi gặp phải các ký tự có cách đọc dài, nhưng những cách đọc có ba bốn âm tiết hay thậm chí nhiều hơn không hề hiếm. Những ký tự như 承る uketamawaru và 志 kokorozashi có đến 5 âm tiết chỉ để biểu đạt một ký tự kanji, đây là những cách đọc dài nhất trong số các kanji nằm trong bộ Jōyō kanji.
Trong một số trường hợp, nhiều hơn một từ kanji được dùng để biểu diễn một từ tiếng Nhật duy nhất. Điều này thường xảy ra khi những từ kanji khác nhau biểu diễn những sắc thái ý nghĩa khác nhau. Chẳng hạn, từ なおす (naosu) có nghĩa là “sửa”, “chữa”, nhưng khi viết là 治す thì mang nghĩa là “chữa bệnh” (sinh vật sống), còn khi viết là 直す thì mang nghĩa là “sửa chữa cái gì đó” (đồ vật). Đặc điểm phân biệt nhiều khi rất rõ ràng nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Sự khác biệt quan điểm giữa các tài liệu tham khảo không phải là hiếm; một cuốn từ điển có thể nói rằng những từ kanji này là tương đương, trong khi một cuốn từ điển khác lại chỉ ra những điểm khác biết trong cách dùng. Kết quả là, người bản địa cũng có thể không nắm rõ từ kanji nào được dùng, họ dựa vào sở thích cá nhân hoặc đành viết từ đó bằng hiragana. Thói quen này thường gặp đối với những trường hợp phức tạp như từ もと moto, có thể viết bằng ít nhất 5 ký tự kanji: 元, 基, 本, 下 và 素, ba ký tự đầu trong số đó chỉ có rất ít sự khác biệt về sắc thái.
Những cách đọc kanji trong ngôn ngữ địa phương cũng được phân loại bằng kun’yomi, cách đọc đáng chú ý nhất là trong tiếng Ryukyu.
Những cách đọc khác
Có nhiều từ ghép kanji sử dụng kết hợp cách đọc on’yomi và kun’yomi, gọi là các từ jūbako (重箱) hay yutō (湯桶), chúng chính là những ví dụ của loại từ ghép này (chúng là những từ tự diễn giải): ký tự đầu tiên của jūbako được đọc bằng on’yomi, ký tự thứ hai dùng kun’yomi, những cách đọc khác liên quan đến yutō. Đó là dạng từ lai trong tiếng Nhật. Có thể kể một số ví dụ khác, như 場所 basho “nơi, địa điểm” (cách đọc kun-on), 金色 kin’iro “màu vàng kim” (on-kun) hay 合気道 aikidō “môn võ Aikido” (kun-on-on).
Một số kanji cũng có những cách đọc ít được biết đến hơn gọi là nanori (名乗り), hầu hết được dùng cho tên người, và thường liên quan đến cách đọc kun’yomi. Tên địa danh đôi khi cũng dùng cách đọc nanori hoặc, thỉnh thoảng hơn, có những cách đọc rất riêng không theo quy luật nào cả.
Gikun (義訓) hay jukujikun (熟字訓 thục tự huấn) là những cách đọc các từ ghép kanji không tương ứng với cả on’yomi hay kun’yomi của mỗi ký tự trong từ đó. Lấy ví dụ, 今朝 (“sáng nay”) không đọc là *ima’asa – tương ứng với kun’yomi của mỗi ký tự -, cũng không đọc là *konchō – tương ứng với on’yomi của mỗi ký tự -, mà được đọc là kesa — một từ tiếng Nhật Bản địa có 2 âm tiết (đây có thể được xem là một hình vị đơn nhất, hoặc sự hợp nhất của 今日 kyō (trước đây là kefu), “hôm nay”, và 朝 asa, “buổi sáng”).
Nhiều ateji (当て字, kanji chỉ dùng để biểu diễn ngữ âm) có các ý nghĩa được suy ra từ cách dùng của chúng: ví dụ, từ cổ 亜細亜 ajia trước đây được dùng để biểu diễn “Asia” (châu Á) bằng kanji; ký tự 亜 (á) ngày nay có nghĩa là “Asia” (châu Á) trong những từ ghép như 東亜 tōa, “Đông Á”. Từ cách viết 亜米利加 amerika, “Hoa Kỳ”, lấy ra ký tự thứ 2, tạo thành từ gần chính thức 米国 beikoku, dịch sát nghĩa là “mễ quốc” nhưng vẫn mang nghĩa “Hoa Kỳ”.
Khi nào dùng cách đọc nào
Mặc dù có nhiều quy tắc khi nào dùng cách đọc on’yomi hay khi nào dùng kun’yomi, trong tiếng Nhật tràn ngập các trường hợp không theo quy tắc, và ngay cả người bản địa không phải lúc nào cũng có thể biết cách đọc của một ký tự nếu không có kiến thức tốt.
Quy tắc vỡ lòng là đối với những kanji độc lập, chẳng hạn một ký tự biểu diễn một từ đơn nhất, thường được đọc bằng cách đọc kun’yomi của chúng. Chúng có thể được viết cùng với okurigana để biểu đạt biến cách kết thúc của động từ hay tính từ, hay do qui ước. Ví dụ: 情け nasake “sự cảm thông”, 赤い akai “đỏ”, 新しい atarashii “mới”, 見る miru “nhìn”, 必ず kanarazu “nhất định, nhất quyết”. Okurigana là một khía cạnh quan trọng trong cách dùng kanji trong tiếng Nhật; xem bài viết đó để biết thêm về kun’yomi.
Các từ ghép kanji nhìn chung được đọc bằng on’yomi, trong tiếng Nhật gọi là 熟語 jukugo (thục ngữ). Ví dụ, 情報 jōhō “thông tin”, 学校 gakkō “trường học”, và 新幹線 shinkansen “tàu tốc hành” đều tuân theo dạng này. Sự khác nhau giữa quy tắc đọc kanji độc lập và ghép làm cho nhiều từ có ý nghĩa gần giống nhau nhưng lại có cách đọc hoàn toàn khác nhau. 東 “hướng đông” và 北 “hướng bắc” khi đứng độc lập dùng cách đọc kun tương ứng là higashi và kita, trong khi từ ghép 北東 “hướng đông bắc” lại dùng cách đọc on là hokutō. Điều này còn phức tạp hơn bởi thực tế nhiều kanji có nhiều hơn một cách đọc on’yomi: 生 đọc là sei trong từ 先生 sensei “giáo viên” nhưng lại đọc là shō trong 一生 isshō “cả đời người”. Ý nghĩa cũng có thể là tác nhân đối với cách đọc; 易 đọc là i khi nó mang nghĩa “đơn giản”, những lại thành eki khi nó mang nghĩa “tiên đoán, bói toán”, cả hai cách đọc đều là on’yomi của ký tự này.
Quy tắc vỡ lòng này cũng có rất nhiều ngoại lệ. Số lượng những từ ghép đọc bằng kun’yomi không lớn như on’yomi, nhưng cũng không phải là hiếm. Chẳng hạn như 手紙 tegami “thư”, 日傘 higasa “cái ô”, hay một từ khá nổi tiếng 神風 kamikaze “ngọn gió thần thánh”. Những từ ghép như thế cũng có thể có okurigana, như 空揚げ (còn được viết là 唐揚げ) karaage “đồ ăn chiên” và 折り紙 origami “nghệ thuật gấp giấy”, mặc dù nhiều khi chúng được viết bỏ đi okurigana (ví dụ, 空揚 hay 折紙).
Tương tự, một số ký tự on’yomi cũng có thể được dùng như một từ khi đứng độc lập: 愛 ai “tình yêu”, 禅 Zen “thiện”, 点 ten “dấu chấm”. Hầu hết các trường hợp này liên quan đến những kanji không có kun’yomi, nên có thể không có sự nhầm lẫn, mặc dù vẫn có các ngoại lệ. Ký tự độc lập 金 có thể đọc là kin “tiền, vàng” hoặc cũng có thể là kane “tiền, kim loại”; chỉ có cách dựa vào ngữ cảnh mới biết được cách đọc và ý nghĩa trong dụng ý của người viết.
Do có nhiều cách đọc nên số lượng từ cùng cách viết khác ý nghĩa cũng tăng lên, nhiều khi chúng có các ý nghĩa khác nhau phụ thuộc vào cách đọc. Lấy một ví dụ là từ 上手, có thể đọc theo 3 cách khác nhau: jōzu (khéo léo, giỏi), uwate (phần trên), hoặc kamite (phần trên). Thêm nữa, từ 上手い lại được đọc là umai (khéo léo, giỏi). Người ta thường furigana trong những trường hợp này để làm rõ sự nhập nhằng về ý nghĩa.
Như đã nói ở trên, cách đọc 重箱 jūbako và 湯桶 yutō cũng không hề hiếm. Thực tế, toàn bộ 4 kiểu kết hợp cách đọc đều có thể xảy ra: on-on, kun-kun, kun-on và on-kun.
Nhiều tên địa danh nổi tiếng, như Tokyo (東京 Tōkyō) hay ngay cả tên Nhật Bản (日本 Nihon hoặc nhiều khi đọc là Nippon) được đọc bằng on’yomi; tuy nhiên, đại đa số tên địa danh ở Nhật được đọc bằng kun’yomi: 大阪 Ōsaka, 青森 Aomori, 箱根 Hakone. Khi các ký tự được dùng để viết tắt tên địa danh, cách đọc của chúng có thể không như nguyên gốc. Đội bóng chày của Osaka (大阪) và Kobe (神戸) có tên gọi Hanshin (阪神) Tigers, được lấy từ cách đọc on’yomi của ký tự kanji thứ 2 trong từ Ōsaka và đầu tiên trong từ Kōbe. Tên của tuyến đường sắt Keisei (京成) nối thành phố Tokyo (東京) và Narita (成田) cũng tương tự như vậy, nhưng cách đọc ký tự 京 trong 東京 lại biến thành kei, mặc dù kyō là một cách đọc on’yomi trong từ Tōkyō.
Tên họ của người Nhật cũng thường được đọc bằng kun’yomi: 山田 Yamada, 田中 Tanaka, 鈴木 Suzuki. Tên riêng tuy không hẳn được đọc theo kiểu jūbako hay yutō đã đề cập, mà cũng bao gồm lẫn lộn kun’yomi, on’yomi và nanori: 大助 Daisuke [on-kun], 夏美 Natsumi [kun-on]. Do các bậc cha mẹ thường tự lựa chọn theo ý riêng, nên cách đọc tên riêng thường không theo bất kỳ quy tắc nào và cũng không thể biết chắc chắn cách đọc tên riêng của một người nếu không xác định lại. Người đặt tên có thể khá sáng tạo, có những đứa trẻ mang tên 地球 Āsu hay 天使 Enjeru, nghĩa đen tương ứng là “Địa Cầu” và “Thiên Sứ”, những cách phát âm cũng gần giống các từ tiếng Anh “Earth” và “Angel” (khi được Nhật hóa phát âm); chúng không phải là tên phổ biến, cách đọc thông thường của 2 từ này tương ứng là chikyū và tenshi. Tuy nhiên, luôn có những quy tắc phổ biến giúp người đọc có kinh nghiệm có thể đoán trước khá chính xác cách đọc của hầu hết tên riêng.
Hỗ trợ phát âm
Do thường xảy ra các trường hợp tối nghĩa, kanji nhiều khi được viết kèm theo cách phát âm trong văn cảnh đó, bằng cách dùng các ký tự rubi (ルビ) gọi là furigana (những ký tự kana nhỏ viết kèm theo bên trên – khi viết theo hàng ngang – hoặc bên phải – khi viết theo hàng dọc – của ký tự kanji) hay kumimoji (những ký tự kana nhỏ nằm ngay trên dòng viết ngay sau ký tự kanji). Kiểu viết này đặc biệt thường gặp trong các văn bản dành cho trẻ em hoặc người nước ngoài, và trong manga (truyện tranh Nhật Bản). Nó cũng thường được dùng trên báo chí để diễn đạt những cách đọc hiếm dùng hay những ký tự không có trong bảng kanji thường dùng đã được công nhận chính thức.
Tổng số chữ Kanji trong tiếng Nhật
Đây đang là con số bị tranh cãi. Đại Hán Hòa Từ điển – từ điển chữ Hán được Haruo Shirane đánh giá là cực kỳ đáng tin cậy – có chứa khoảng 5 vạn chữ Hán và được cho là khá đầy đủ. Tuy nhiên những từ điển tiếng Trung gần đây có đến trên 8 vạn chữ Hán, nhiều ký tự bao gồm cả những biến thể rất ít biết đến. Hầu hết số đó đều không phổ biến ở cả Nhật Bản và Trung
Cải cách chính tả và các danh sách chữ Hán trong tiếng Nhật
Kyōiku kanji
Jōyō kanji
Jinmeiyō kanji
Hyōgaiji
Các tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản đối với kanji
Gaiji
Các thể loại kanji
Giảng dạy chữ Kanji trong tiếng Nhật
Bảng chữ Hán trong nhóm “Thường dụng Hán tự” – tức các chữ Hán thông dụng trong sách báo tiếng Nhật – bao gồm 2.230 chữ Hán, trong đó các chữ Hán trong giảng dạy (“giáo dục Hán tự”) in màu đỏ. Theo hệ thống sắp xếp KLD của Halpern trong Từ điển cho người học Kanji, Kodansha.
Học sinh tiểu học ở Nhật được dạy và cố gắng nắm được 1.006 ký tự kanji cơ bản trong “Kyōiku kanji” (教育漢字) trước khi kết thúc lớp sáu. Thứ tự các ký tự được học đã được thay đổi. Danh sách Kyōiku kanji là một phần của danh sách lớn hơn bao gồm 1.945 chữ Hán gọi là “Jōyō kanji” (常用漢字) – đây là những ký tự cần phải nắm được để có thể đọc tốt sách báo tiếng Nhật. Các học sinh Nhật thường nắm bắt được danh sách lớn hơn trước khi kết thúc lớp chín.[6] Học sinh tiểu học học các ký tự này bằng cách bắt chước và học các bộ.
Các học viên học tiếng Nhật như một ngoại ngữ thường phải học chữ kanji mà không nắm được trước những từ vựng liên quan đến chúng. Do vậy, giải pháp cho những học viên này rất đa dạng, từ những phương pháp bắt chước, học thuộc lòng, hay các phương pháp sao cho dễ nhớ hơn, như dùng hình ảnh, hay những cách liên tưởng. Những học viên tiếng Nhật là người nói tiếng Việt thường cố gắng học thuộc cả phiên âm Hán Việt của ký tự đó (trừ những kokuji do người Nhật tự sáng chế) để dễ đoán nghĩa các từ vựng được viết bằng ký tự đó, hoặc một số người học thuộc các nét bộ như khi học tiếng Hán.
Chính phủ Nhật Bản đưa ra các kỳ thi “kiểm định thí nghiệm” (Kanji kentei), viết tắt của 日本漢字能力検定試験 (Nihon kanji nōryoku kentei shiken có nghĩa là “Kiểm tra năng lực nắm bắt chữ Kanji trong tiếng Nhật”) để kiếm tra khả năng đọc và viết chữ Kanji. Cấp độ cao nhất của kỳ thi này kiểm tra trong phạm vi khoảng 6.000 chữ Kanji.
Chú thích
- ^ Taylor, Insup; Taylor, Maurice Martin (1995). Writing and literacy in Chinese, Korean, and Japanese. Amsterdam: John Benjamins Publishing Company. tr. 305. ISBN 90-272-1794-7.
- ^ Suski, P.M. (2011). The Phonetics of Japanese Language: With Reference to Japanese Script. tr. 1. ISBN 9780203841808.
- ^ Hànzì, giản thể: 汉字; phồn thể: 漢字. Malatesha Joshi, R.; Aaron, P.G. (2006). Handbook of orthography and literacy. New Jersey: Routledge. tr. 481–2. ISBN 0-8058-4652-2.
- ^ Dù cách đọc này du nhập vào Nhật vào thời Đường nhưng cách đọc lại gọi là âm của thời nhà Hán.
- ^ Dù cách đọc này du nhập vào Nhật vào thời Tống nhưng cách đọc lại gọi là âm của thời nhà Đường.
- ^ J. Halpern, “The Kodansha Kanji Learner’s Dictionary”, p. 38a (2006)
Tham khảo
- RomajiDesu Kanji Lookup Tìm Kanji theo nhiều bộ thủ/chi tiết, hỗ trợ hướng dẫn viết Kanji.
- Chuyển đổi Kanji thành Romaji, Hiragana Chuyển đổi văn bản hay trang web có chứa kanji thành các dạng dễ đọc hơn, và dịch nghĩa (tiếng Anh) từng từ một.
- Tangorin Tìm kanji bằng cách lựa chọn các chi tiết của nó.
- Từ điển Hán Việt Từ điển Hán Việt dùng cho điện thoại Blackberry, giúp bạn tra cứu kanji với nhiều ví dụ được lấy từ các bài thi năng lực nhật ngữ đã được dịch ra tiếng việt.
Xem thêm
 |
Wikimedia Commons có thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Kanji |
|