|

Pháo của Quân đội Nhân dân Việt Nam bắn phá gần đường băng |
. |
|
Tham chiến |
Hoa Kỳ
Việt Nam Cộng hòa |
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa |
Chỉ huy |
Đại tướng William C. Westmoreland (toàn chiến trường)
Đại tá David E. Lownds (tại chỗ) |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (toàn chiến trường)
Thiếu tướng Trần Quý Hai (tại chỗ)
Thiếu tướng Lê Quang Đạo (tại chỗ)
Đại tá Cao Văn Khánh |
|
|
Lực lượng |
~45.000 (sau tăng lên 69.000) trên toàn tuyến, trong đó 6.680 đóng tại Khe Sanh[3] Chiến dịch Pegasus: ~20.000 (Sư đoàn 1 Không Kỵ, 2 trung đoàn TQLC Mỹ và 1 trung đoàn biệt kích Dù VNCH)
Chiến dịch Niagara và Chiến dịch Arc Light: Không quân chiến thuật và chiến lược Hoa Kỳ (khoảng 2.000 máy bay và 3.300 trực thăng), ném hơn 114.810 tấn bom (chỉ tính tới tháng 4, chưa kể lượng bom ném sau đó).
Pháo binh bắn chi viện 159.000 viên đạn pháo[4] |
~40.000 trên toàn tuyến, trong đó 17.000 quân bao vây Khe Sanh (Sư đoàn 304 và sư đoàn 325), 17.000 quân phòng ngự Đường 9 (Sư đoàn 320 và sư đoàn 324)[5]
Pháo binh bắn chi viện 10.900 viên đạn pháo. |
Tổn thất |
Tại Khe Sanh:
Mỹ: 274 chết, 2.541 bị thương (chưa kể thương vong của Biệt động quân VNCH, Sở chỉ huy tiền phương FOB-3 của Lục quân Mỹ và Quân đội Hoàng gia Lào)[6]
Chiến dịch Scotland I và Pegasus:
Mỹ: 703 chết, 2.642 bị thương, 7 mất tích, 3 bị bắt
VNCH:
229 chết, 436 bị thương
Dân vệ (CIDG): 309 chết, 64 bị thương, 250 bị bắt [7]
Tổng từ 20 tháng 1 đến 14 tháng 4:
Trên 7.485 thương vong (1,542 chết, 5.675 bị thương, 7 mất tích, 253 bị bắt)[6][8][9]
Từ 15 tháng 4 đến 15 tháng 7 (Chiến dịch Scotland II):
Gần 3.000 thương vong[10]
Tổng cộng toàn chiến dịch: Trên 10.350 thương vong, trong đó có khoảng 9.000 lính Mỹ (chưa kể vài trăm thương vong của Lục quân Mỹ và Quân đội Hoàng gia Lào)
Theo QĐNDVN: ~11.900 chết hoặc bị thương; 197 máy bay, 78 xe tăng-thiết giáp, 46 khẩu pháo, 50 kho đạn bị phá hủy[11] |
Theo QĐNDVN: Nguồn 1: Khoảng 3.500 chết hoặc mất tích, 5.500 bị thương[12] Nguồn 2: 2.469 tử trận (tính từ 20 tháng 1 đến 20 tháng 7 năm 1968).[13]
Theo Hoa Kỳ: Phát hiện 1.600 thi thể,[14] Hoa Kỳ tuyên bố trước dư luận QĐNDVN có khoảng 10.000-15.000 người chết, nhưng báo cáo mật chỉ ước tính vào khoảng 5.550 người chết.[13] |
. |
|
Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh còn được gọi là “Chiến dịch Đường 9” hay “Trận Khe Sanh”, là một chiến dịch chính yếu trong chiến cục năm 1968 tại Việt Nam.
Các tài liệu Hoa Kỳ thường ghi nhận trận đánh diễn ra trong 77 ngày từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1968, và cũng chỉ đề cập đến diễn biến trong 77 ngày này, mà theo đó kết thúc với việc Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (TQLC) đóng ở Khe Sanh được Sư đoàn Không Kỵ cứu viện. Tuy nhiên đối với QĐNDVN thì đây chỉ là giai đoạn 1 của chiến dịch, giai đoạn 2 kéo dài từ 9 tháng 4 đến 25 tháng 7 nhằm chiếm dứt điểm Khe Sanh, cũng diễn ra rất quyết liệt. Tổng cộng 2 giai đoạn kéo dài 170 ngày, kết thúc khi lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Khe Sanh và QĐNDVN hoàn toàn kiểm soát cứ điểm này, đánh dấu sự cáo chung của Hàng rào điện tử McNamara[15]. Khe Sanh đã trở thành nơi mà lần đầu tiên, quân đội Hoa Kỳ phải rút bỏ một căn cứ quân sự trọng yếu bởi áp lực của đối phương.[13]
Bởi vai trò chiến lược vô cùng quan trọng của trận đánh này, đây là một trong những trận chiến ác liệt và được bàn thảo nhiều nhất. Chỉ huy căn cứ Khe Sanh lúc đó là Đại tá Lownds (TQLC Hoa Kỳ), gồm có 1 tiểu đoàn pháo binh, 4 tiểu đoàn TQLC và sau đó nhận thêm Tiểu đoàn 37 Biệt động quân – Quân lực Việt Nam Cộng hòa, nâng tổng số quân tham chiến lên đến 6.680 người vào cuối tháng giêng.
Mục đích chủ yếu của Quân đội Nhân dân Việt Nam khi tấn công Khe Sanh là nhằm “nghi binh” cho các hướng tiến công chính trong Chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, bởi:
- Vị trí đặc biệt quan trọng của Khe Sanh giống như “cái mỏ neo” trong bản đồ quân sự của Mỹ, đặc biệt là uy hiếp đường Hồ Chí Minh và bảo vệ vùng I chiến thuật. Đây là trung tâm chỉ huy của Hàng rào điện tử McNamara mà Mỹ đang xây dựng nhằm cắt đứt đường Hồ Chí Minh. Phá hủy được cứ điểm này thì QĐNDVN mới nhổ được “cái gai” mà Mỹ định găm vào tuyến đường chi viện chiến lược này.
- Tập trung đánh và bao vây nhằm thu hút 1 lực lượng lớn quân Mỹ tham chiến, thu hút cả nước Mỹ hồi hộp theo dõi “Trận Điện Biên Phủ thứ 2″ có thể thay đổi cuộc chiến Việt Nam.
Tầm quan trọng của Khe Sanh
Từ năm 1962, Mỹ và VNCH xây một căn cứ không quân – lục quân ở một thung lũng hẻo lánh ở gần khu vực biên giới Việt-Lào, có ý nghĩa chiến lược do nằm gần tuyến vận chuyển Đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng. Năm 1962, căn cứ này được Lực lượng Mũ Xanh (Green Berets) Hoa Kỳ sử dụng đầu tiên làm nơi xuất phát các phi vụ thám thính đi sâu vào vùng đất Lào. Vị trí chiến lược của Khe Sanh do đó đã gây nhiều trở ngại lớn cho sự tiếp vận từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam.
Sau thất bại trong mùa khô 1965-1966, Robert McNamara, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã nảy ra ý định thiết lập một phòng tuyến chống xâm nhập hiện đại nhất ở bờ nam sông Bến Hải để ngăn chặn đối phương. Ý tưởng của McNamara đã được 47 nhà khoa học tài ba nhất nước Mỹ tổ chức nghiên cứu thực thi. Sau ba tháng nghiên cứu, hội đồng khoa học dưới sự điều khiển của McNamara đã vạch ra một kế hoạch với tham vọng lớn:
- Phòng tuyến ước tính có chiều rộng khoảng 20 km, từ nam vĩ tuyến 17 đến đường 9, chiều dài trên 100 km chạy song song với sông Bến Hải từ biển Đông đến Sê Pôn (Lào) trong đó hành lang mặt bằng xây dựng có bề ngang 500m sẽ được san bằng như một sân bóng.
- Xây dựng một hệ thống đồn bốt dày đặc, cứ khoảng 2 km có 1 tháp canh khoảng 4 km có 1 căn cứ cỡ đại đội hoặc tiểu đoàn.
- Bố trí một hệ thống công sự gồm đủ hầm hào, lô cốt kiên cố, hàng chục lớp hàng rào kẽm gai chằng chịt, xen kẽ với nhiều lớp bom mìn đủ kiểu: mìn định hướng, mìn đĩa, mìn lá, mìn Claymore, mìn chiếu sáng, lựu đạn nổ tức thì (Mỹ dự kiến sử dụng 20 triệu quả mìn và 25 triệu quả bom cỡ nhỏ). Đặc biệt phòng tuyến được trang bị phương tiện điện tử tối tân như “cây nhiệt đới”, “máy thông minh”, “máy phát hiện hơi người”. Đây là các loại máy thu phát tiếng động tinh vi đủ cỡ 15 ngày, 3 tháng, hoặc 6 tháng thay pin một lần.
Căn cứ Khe Sanh được xác định là trung tâm của hệ thống hàng rào điện tử trên. Do đó, Khe Sanh- Quảng Trị được Mỹ xây dựng một tập đoàn phòng ngự mạnh, liên hoàn, kiên cố nhất của Mỹ ở địa đầu miền Nam Việt Nam gồm các cứ điểm Làng Vây, Chi khu quân sự Hướng Hóa, cụm cứ điểm phòng ngự sân bay Tà Cơn.
Cụm cứ điểm Tà Cơn là cái lõi của tập đoàn phòng ngự Khe Sanh của Mỹ, có chiều dài khoảng 5 km, rộng khoảng 3 km, có một đường băng dã chiến dài khoảng hơn 3.000 m đảm bảo hoạt động của máy bay C-130 Hercules và một số trực thăng vũ trang. Hệ thống công sự, vật cản được xây dựng kiên cố và liên hoàn; công sự chiến đấu bằng bê tông đúc sẵn, hố chiến đấu cá nhân có nắp bằng bao cát, một số lô cốt bằng bê tông, hầm ngầm, hệ thống giao thông hào, chiến hào liên hoàn; xung quanh bao bọc từ 6 đến 10 hàng rào dây kẽm gai các loại, các bãi mìn dày đặc, xen kẽ rải “cây nhiệt đới” (thiết bị thu tin điện tử) khắp các nơi.
Kế hoạch của hai bên
Hoa Kỳ
Ở ngưỡng cửa năm 1968, tư lệnh quân Mỹ ở Nam Việt Nam, tướng William Westmoreland, quyết định rằng cần phải “thả mồi ngon” lùa quân địch vào bẫy, để buộc tướng Giáp phải đánh nhau theo cung cách quy ước, vốn là sở trường của quân Mỹ. Chiến dịch này mang tên Operation Scotland (từ ngày 1 tháng 11 năm 1967 đến ngày 31 tháng 3 năm 1968), nhận được sự tán thưởng của bộ sậu “diều hâu” ở Mỹ và Sài Gòn, Tổng thống Johnson cho đắp sa bàn Khe Sanh ở Nhà trắng và hằng ngày nghe “giao ban” về chiến sự ở đây. Vậy là, trong vành đai sắt dựng trên khu vực giáp giới với miền Bắc và Lào, ngoài hàng rào điện tử McNamara và hàng loạt căn cứ như Cửa Việt, Cồn Tiên, Đông Hà, Cam Lộ… Khe Sanh được kỳ vọng sẽ là “nam châm” hút quân Bắc Việt, để Hoa Kỳ dùng ưu thế hỏa lực tiêu diệt trong một thế trận “Điện Biên Phủ đảo ngược”.
Cả Nhà Trắng, Lầu Năm Góc và Bộ chỉ huy viễn chinh Mỹ ở Sài Gòn (MACV) tập trung nghiên cứu chiến lệ Điện Biên Phủ (Hồ sơ nghiên cứu trận Điện Biên Phủ phục vụ riêng cho Tổng thống Johnson dày hàng chục trang). Cả MACV lẫn Bộ chỉ huy tối cao Hoa Kỳ đều đã nhận thấy Khe Sanh có một thế mạnh căn bản so với không chỉ với Điện Biên Phủ, mà với mọi pháo đài từng có trong lịch sử. Đó là Khe Sanh được hỗ trợ bởi hệ thống hỏa lực cực mạnh, chế áp độc lập từ bên ngoài, gồm hàng chục lần chiếc pháo đài bay B-52 đánh phá mỗi ngày (lấy từ Chiến dịch Arc Light, 1965-1973, theo hồ sơ mật Nhà Trắng), gồm yểm trợ đường không cự ly gần bởi lực lượng khoảng 2.000 máy bay chiến đấu khác của không quân chiến thuật, không lực của Hải quân, không lực của Thủy quân lục chiến, với tần suất 500 lần chiếc ngày, hoạt động được cả trong điều kiện tầm nhìn zero (bay hoàn toàn bằng khí tài) cũng như ban đêm. Và đây đã trở thành “chiến dịch hỗ trợ hỏa lực đường không dày đặc nhất trong lịch sử chiến tranh“[16]
Tuy nhiên, trong số những người ở Washington tin tưởng rằng sẽ có một “Điện Biên Phủ” ở Khe Sanh, không phải nhân vật nào cũng nhất quyết rằng Mỹ chắc thắng được ở đó. Theo thư gửi Tổng thống ngày 10 tháng Giêng năm 1968, một đại diện cho khuynh hướng ngờ vực này phát biểu: “Điều đáng lo ngại là sự tập trung của bộ đội Việt Nam ở Lào chống lính thủy đánh bộ đồn trú ở Khe Sanh. Tổng thống nên yêu cầu tướng Westmoreland cân nhắc lợi hại về việc rút khỏi Khe Sanh, nhất là khi Đường 9 đã bị cắt… Tổng thống cần được yên tâm rằng, tướng Westmoreland tuyệt đối tự tin về khả năng đương đầu ở Khe Sanh; vì đây chính là cơ hội tốt nhất để một Điện Biên Phủ xảy ra. Mà kẻ địch thì đang tìm kiếm một trận Điện Biên Phủ”. Cho dù thông điệp đầu năm 1968 của Tổng thống Mỹ đầy khích lệ, nhưng mối lo ngại về cái dớp “Điện Biên Phủ” vẫn lơ lửng trong phòng bầu dục. Có lần, Johnson quay về phía các trợ lý quân sự và hét to: “Quỷ tha ma bắt cái trận Điện Biên Phủ kia đi!”.
Nhà báo, sử gia Mỹ Stanley Karnow kể: “Tổng thống Lyndon Johnson và Washington đã nghĩ rằng Khe Sanh là một Điện Biên Phủ nữa. Và họ đã làm cả sa bàn Khe Sanh ở Washington. Thậm chí, họ còn yêu cầu tướng Westmoreland – Tư lệnh Bộ chỉ huy cố vấn Quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam – phải ký giấy cam đoan không được để mất Khe Sanh vì đó là danh dự của nước Mỹ”[17]. Westmoreland sau đó đã viết rằng: “Washington lo ngại rằng một số từ ngữ nặng nề mà tôi đã nói với báo chí cần phải chấm dứt, trớ trêu thay, câu trả lời những hậu quả đó có thể là: một thảm họa chính trị”[18]
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Qua nghiên cứu tình hình cách bố trí lực lượng cuối năm 1967, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng VNDCCH đã vạch ra kế hoạch chiến lược năm 1968 là: Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực nhằm thu hút, phân tán lực lượng, tiêu diệt địch mà chiến trường chính là hướng Đường 9 – Khe Sanh, thực hiện cuộc tiến công đồng loạt vào thành phố, thị xã kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng mở đầu cho một cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Nam Bộ, Trị – Thiên – Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Mặt trận Đường 9 – Khe Sanh sẽ thực hiện nhiệm vụ thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược của địch (chủ yếu là lính Mỹ), góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho toàn Miền thực hiện đòn chiến lược tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968.
Để thực hiện quyết tâm chiến lược trên, ngày 6 tháng 12 năm 1967, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh. Theo quyết định trên, Thiếu tướng Trần Quý Hai Phó tổng tham mưu trưởng làm tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy mặt trận.
Quân ủy Trung ương và Bộ tổng tư lệnh, Đảng ủy Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 – Bắc Quảng Trị ra nghị quyết chỉ rõ: Trong Xuân – Hè năm 1968, toàn mặt trận phải quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, chủ yếu là Mỹ. Khi có điều kiện thì phá vỡ một phần hệ thống phòng ngự của địch ở đường 9 và phát triển vào Trị – Thiên – Huế. Thu hút, giam chân, tiêu diệt lực lượng Mỹ – ngụy ra Đường 9 càng nhiều càng tốt.
Đối với phía Mỹ, cho đến nhiều thập niên sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, mục đích thực sự của QĐNDVN trong Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh vẫn còn là một điều bí ẩn. Tướng Westmoreland vẫn tin mục đích chính của QĐNDVN là chiếm giữ Khe Sanh và tạo nên một “trận Điện Biên Phủ mới”. Theo đó thì đây chính là nguyên nhân vì sao QĐNDVN tập trung một lực lượng rất lớn cho trận đánh này (4 sư đoàn, trong đó 2 sư đoàn trực tiếp bao vây Khe Sanh). Nhiều ý kiến khác lại cho rằng lực lượng quanh Khe Sanh đơn giản chỉ để phục vụ mục đích phòng thủ cục bộ tại Khu phi quân sự vĩ tuyến 17, hoặc để dự phòng trong trường hợp một cuộc tấn công ra miền Bắc của quân Mỹ tương tự như Trận Inchon trong Chiến tranh Triều Tiên. Theo John Prados và Ray Stubbe thì “hoặc có thể cuộc Tổng tiến công Tết là một đòn đánh lạc hướng nhằm phục vụ cho sự chuẩn bị của QĐNDVN/MTDTGPMN cho một trận đánh quyết định tại Khe Sanh, hoặc Khe Sanh là một đòn đánh lạc hướng để thu hút sự chú ý của Westmoreland trong những ngày trước Tết”[19]
Sau này, việc đối chiếu với các tài liệu của QĐNDVN đã cho thấy vế thứ hai là chuẩn xác, có nghĩa là Westmoreland thực sự đã bị đối phương dùng kế nghi binh đánh lạc hướng[20] Trong cuộc phỏng vấn vào tháng 9-1994 của 1 đại tá Hoa Kỳ, đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết: ông biết khả năng không quân của Mỹ là cực mạnh khiến việc lặp lại Điện Biên Phủ là không thể, mục tiêu thực tế mà ông theo đuổi là gây cho quân Mỹ thương vong lớn khiến họ phải sa lầy, nhụt chí và cuối cùng phải tự rút khỏi đó. Thực tế ông đã đạt được mục tiêu đó sau 6 tháng giao chiến khiến quân Mỹ liên tục bị tiêu hao sinh mạng ở mức độ cao[21]
Binh lực các bên
Quân đội Nhân dân Việt Nam
Các Sư đoàn bộ binh 304, 320, 324B và 325 (từ tháng 5, Sư đoàn 308 và Trung đoàn 246 vào thay cho các Sư đoàn 324B và 325 đi chiến trường khác), Trung đoàn 270 (Vĩnh Linh) và 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị, 1 đoàn và 5 đại đội đặc công, 5 trung đoàn pháo binh (16, 45, 84 và 204), 3 trung đoàn pháo phòng không, 1 tiểu đoàn tăng – thiết giáp (16 xe tăng hạng nhẹ PT-76), 1 tiểu đoàn thông tin, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn hoá học, 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội súng phun lửa, 6 tiểu đoàn vận tải và lực lượng vũ trang các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hoá.
Tổng cộng lực lượng trên toàn tuyến có khoảng 40.000 quân. Trong đó Sư đoàn 304 và Sư đoàn 325 (tổng cộng khoảng 17.000 quân) thực hiện bao vây Khe Sanh, còn các Sư đoàn 320 và 324 thực hiện cắt Đường 9, chặn quân tiếp viện của Mỹ. Các lực lượng vũ trang địa phương thực hiện đánh tập kích diệt các đoàn vận tải, tiêu hao sinh lực địch
Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ
Lực lượng của Hoa Kỳ trong trận Khe Sanh chủ yêu thuộc Quân đoàn tác chiến thủy – bộ III Thủy quân lục chiến (III Marine Amphibious Force). Có khoảng 45.000 quân trên toàn tuyến (trong đó có 28.000 quân Mỹ), gồm 3 trung đoàn tăng cường thuộc Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 3; 4 tiểu đoàn tàu tuần tra và vận tải (5, 10, 53 và 301), 9 tiểu đoàn pháo binh, 3 tiểu đoàn và 1 đại đội cơ giới, trong quá trình phòng ngự được sự chi viện mạnh của không quân, pháo binh ở phía sau.
Riêng ở Khe Sanh, Mỹ có 3 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 26, 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 9 TQLC Mỹ, Sở chỉ huy tiền phương số 3 (Forward Operating Base 3) của Lục quân Hoa Kỳ với quân số 5.880 lính, 1 tiểu đoàn pháo 155 mm, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội chống tăng, Tiểu đoàn 37 Biệt động quân VNCH, 1 đội thám báo 300 lính, tổng cộng 6.680 lính.

Trung tâm radar chỉ huy của Mỹ ở Khe Sanh
Từ tháng 4 khi Mỹ mở Chiến dịch Pegasus huy động thêm Sư đoàn Không Kỵ số 1 của Mỹ, Trung đoàn 1 và Trung đoàn 26 TQLC Mĩ, Chiến đoàn dù 3 VNCH cùng nhiều đơn vị Biệt động quân và bảo an, tổng cộng 20.000 quân yểm trợ bởi 300 trực thăng, 148 khẩu pháo.
Bên cạnh đó, Chiến dịch Niagara và Chiến dịch Arc Light để hỗ trợ không quân cho Khe Sanh cũng thu hút một lực lượng hùng hậu: hơn 1.000 trực thăng (nhiều hơn số trực thăng chiến đấu của 3 nước Anh, Pháp, Đức cộng lại), không quân Mỹ đã xuất kích 24.000 lần chiếc kể cả máy bay chiến lược B-52, trút hơn 114.000 tấn bom các loại (gấp 7 lần quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Hiroshima và bằng lượng bom ném xuống Nhật suốt cả năm 1945).
Bảo đảm kỹ thuật – hậu cần cho Khe Sanh, bao gồm tải thương bằng trực thăng (MediVac); và phương thức tiếp tế LAPES (Low Attiude Parachute Extraction System – thả dù ở độ cao tầm thấp) thực hiện bởi một cầu hàng không hiện đại, qui mô khổng lồ trên các máy bay vận tải C-130. Mỹ có thể đáp ứng cho Khe Sanh tới 600 tấn hàng tiếp tế/ngày (trong khi Pháp chỉ cung cấp được cho Điện Biên Phủ 100 tấn). Từ 19 đến 25 tháng 1, một hệ thống cảm biến điện tử hiện đại mang bí hiệu Muscle Shoals cũng được triển khai quanh Khe Sanh để hỗ trợ cho các hệ thống trinh sát đường không và trên bộ.
Quân đội Hoa Kỳ ở Khe Sanh được yểm trợ hỏa lực bởi những vũ khí tân kỳ nhất thời đó. Các tổ hợp radar phản pháo mới như SKY SPOT; 16 pháo tự hành “Vua Chiến trường” M107 175 mm bố trí tại Trại Carroll ở gần Cam Lộ và trận địa trên đỉnh đồi Rockpile, 18 lựu pháo 105 mm, 8 pháo 155 mm tại các căn cứ pháo binh tại Quảng Trị, pháo yểm trợ tầm trung từ trận địa bắc đèo Hải Vân… Được đặc biệt tin tưởng còn có đạn pháo 105 mm COFAM (Combined Ordinance Fragmentary Antipersonnel Munition) nổ từng tràng trên cao, văng vô vàn mảnh bao phủ một tầm sát thương rộng lớn, giống như bom bi; cũng như đạn pháo “tổ ong” (flechettes), khi nổ bắn ra muôn vàn mũi tên thép trong một hình nón 30 độ, rất hữu hiệu chống bộ binh…
Diễn biến
Quân đội Nhân dân Việt Nam chia chiến dịch ra làm 4 giai đoạn:
- Đợt 1 (20 tháng 1 – 7 tháng 2), Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến công quận lỵ Hướng Hoá và cứ điểm Huội San (xem trận Huội San, 24 tháng 1 năm 1968), diệt cứ điểm Làng Vây (xem trận Làng Vây, 6 và 7 tháng 2 năm 1968), làm chủ đoạn đường 9 từ Cà Lu đến biên giới Việt – Lào.
- Đợt 2 (8 tháng 2 – 31 tháng 3): phát triển lên vây lấn và pháo kích căn cứ Khe Sanh suốt 50 ngày đêm; bao vây Cồn Tiên, đánh một số trận ở hướng Đông Quốc lộ 1.
- Đợt 3 (1 tháng 4 – 30 tháng 4): đánh quân Mỹ ứng cứu trong Chiến dịch Pegasus, giải toả, giữ vững các khu vực làng Khoai, Cu Bốc, các cao điểm 689 và 622, triệt phá giao thông trên Đường 9.
- Đợt 4 (8 tháng 5 – 15 tháng 7), khôi phục thế vây lấn Tà Cơn, đánh quân Mỹ rút chạy khỏi Khe Sanh.
Đợt 1
Trận đánh mở màn nổ ra ngày 20 tháng 1 năm 1968, xảy ra trên Cao điểm 881-Nam (Có hai ngọn đồi mang tên “881”, một ngọn nằm về hướng Bắc của Khe Sanh, và ngọn kia nằm về hướng Nam). Ngọn đồi này được phòng thủ bởi một cánh quân của Tiểu đoàn 1/3 TQLC Hoa Kỳ, gồm Ban chỉ huy của Đại đội M, hai trung đội bảo vệ, và toàn thể lực lượng của Đại đội K. Rạng sáng 20 tháng 1, Đại đội I Tiểu đoàn 3/26 TQLC Mỹ bị QĐNDVN phục kích ở gần 881 Nam, chỉ trong ít phút đã có hơn 15 lính Mỹ chết, 21 bị thương và 19 mất tích (ngày hôm sau tìm thấy xác). Các căn cứ hỏa lực Mỹ quanh vùng đáp trả, bom napalm từ phi cơ không yểm ném xuống ngăn cản các đợt xung phong của QĐNDVN. Toán TQLC Mỹ bị thiệt hại nặng, phải rút lui về vị trí cũ trên Cao điểm 881-Nam.
Trong khi ấy, hai trung đội TQLC của Đại đội M Tiểu đoàn 3/26 được trực thăng vận đến Cao điểm 881-Nam. Toán quân này chuẩn bị hợp sức với Đại đội I Tiểu đoàn 3/26 để ngày hôm sau mở cuộc lục soát về hướng Cao điểm 881-Bắc. Cuộc hành quân này đưa đến một vụ đụng độ ác liệt dưới chân Cao điểm 881-Bắc với Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 95C QĐNDVN. Quân Mỹ có ưu thế hỏa lực áp đảo nhờ có trực thăng chiến đấu yểm trợ và đẩy lùi được đợt tấn công. Kết thúc trận đánh, Mỹ thiệt hại 7 chết và 35 bị thương, QĐNDVN có 15 người chết và 95 bị thương[20].
Rạng ngày 21 tháng 1 năm 1968, Sư đoàn 325 QĐNDVN dùng Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 2 đánh Cao điểm 832 (Mỹ gọi là 861, về phía tây bắc Tà Cơn khoảng 4 km) do Đại đội K, Tiểu đoàn 3/26 TQLC Mỹ tổ chức phòng ngự. Mặc dù được hỏa lực pháo binh chi viện nhưng quân Mỹ dựa vào lợi thế điểm cao, có hệ thống công sự trận địa phòng ngự vững chắc, đặc biệt là được cụm pháo Tà Cơn chi viện trực tiếp nên các đợt tấn công Tiểu đoàn 6 đều bị đẩy lùi và bị thiệt hại lớn, 20 người chết, 68 bị thương. Quân Mỹ có 4 chết và 11 bị thương[20].

Căn cứ Khe Sanh bốc cháy vì pháo kích
Đêm ngày 20, rạng ngày 21 tháng 1, pháo binh chiến dịch của Sư đoàn 304 QĐNDVN phát hỏa. Đòn tiến công bất ngờ kéo dài với uy lực mạnh đánh vào nhiều mục tiêu quan trọng ở Khe Sanh đã “khoan” nhiều hố trên đường băng, làm nổ tung kho đạn 1.500 tấn, phá một máy bay lên thẳng [22]. Mô tả cảnh tượng trên, nhà báo Mỹ Micheal McClear viết: “Rạng sáng ngày 21 tháng 1 năm 1968, pháo tầm xa của Bắc Việt Nam mở màn cuộc bao vây ở Khe Sanh với sự chính xác tai hại, 300 quả đạn đã làm 18 lính Mỹ chết, 40 bị thương, những quả đạn pháo ấy như rơi ngay vào Oa-sinh-tơn”[23]
Ngày 22 tháng 1 năm 1968, tình hình Khe Sanh nguy ngập bởi kho đạn 1.500 tấn, chiếm phần lớn dự trữ đã bị phá hủy. Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 9 TQLC Hoa Kỳ cùng máy bay vận tải chở đạn dược khẩn cấp đến tăng cường cho Khe Sanh.
Tiếp tục thực hiện ý định chiến dịch, ngày 23 tháng 1, Bộ Tư lệnh Mặt trận Đường 9 – Khe Sanh hạ lệnh tiến công tiêu diệt cứ điểm Huội San nằm sát biên giới Việt – Lào. Huội San là khu vực phòng ngự của quân Hoàng gia Lào (6 đại đội) và một số trung đội dân vệ, tổng cộng gần 1.000 quân tổ chức thành 12 cứ điểm nhỏ, trung tâm là cứ điểm Tà Mây. Để đảm bảo đánh chắc thắng, ngoài lực lượng Trung đoàn 24 Sư đoàn 304, Bộ Tư lệnh đã tăng cường thêm 1 đại đội xe tăng lội nước (11 xe PT-76) 1 đại đội công binh, một số trung đội địa phương và một số cán bộ địch vận của Quân Giải phóng Lào.
19 giờ ngày 23 tháng 1, khi hỏa lực pháo binh bắn chuẩn bị, các mũi tiến công của bộ binh và xe tăng QĐNDVN bắt đầu xuất phát xung phong. Được xe tăng chi viện, các mũi tiến công của bộ binh nhanh chóng vượt qua cửa mở, tiến vào tung thâm, chia cắt địch, diệt sở chỉ huy, chiếm các mục tiêu và dập tắt mọi sự chống cự của Quân đội Hoàng gia Lào. 8 giờ sáng cùng ngày, QĐNDVN đã làm chủ căn cứ Tà Mây cùng hệ thống phòng ngự Huội San. Phần lớn hơn 800 quân Lào chốt giữ ở đây đều bị tiêu diệt hoặc bị bắt, chỉ một bộ phận nhỏ (khoảng 350 lính) chạy thoát về Làng Vây. QĐNDVN chỉ bị thiệt hại nhẹ với 29 chết và 54 bị thương.[20]
Đêm ngày 23 tháng 1, Sư đoàn 320 QĐNDVN lệnh cho Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 64 cùng các Tiểu đoàn 14 (pháo, cối mang vác) và 16 khẩu súng máy cao xạ 12,7 ly… cơ động triển khai xây dựng hệ thống công sự trận địa ở Động Mã; lệnh cho Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64 vào bố trí ở đông nam Cù Đinh (Cao điểm 182) sẵn sàng đánh địch ra ứng cứu Đường 9. Qua 4 ngày chiến đấu quyết liệt (23 đến 28 tháng 1), tổn thất 97 người tử thương, Tiểu đoàn 7 và 8 Trung đoàn 64 đã phá hủy 10 xe quân sự (có 2 xe tăng), loại khỏi vòng chiến đấu hơn 200 quân Mỹ, hoàn thành được nhiệm vụ cắt đứt Đường 9, tạo điều kiện thuận lợi cho các Sư đoàn 304 và 325 siết chặt vòng vây ở Khe Sanh.
Cùng với các đòn tiến công trên bộ, trong các ngày 20, 21, 22 tháng 1 năm 1968, Đoàn 126 Đặc công hải quân QĐNDVN có sự phối hợp chiến đấu của Tiểu đoàn 47 bộ đội Vĩnh Linh và du kích huyện Gio Linh đã liên tiếp đánh chìm 6 tàu LCU trên cảng Đông Hà và đoạn sông làng Xuân Khánh. Tiếp đó, trong 3 ngày 26, 27 và 28 tháng 1, đặc công hải quân Đoàn 126 lại dùng thủy lôi diệt thêm 3 tàu LCU chở đầy hàng hóa quân sự của Mỹ từ Đà Nẵng qua Cửa Việt lên Đông Hà. 9 giờ sáng ngày 8 tháng 2, đặc công hải quân Đoàn 126 lại phục kích đoàn tàu vận tải Mỹ, đánh chìm 4 tàu LCU cùng hàng ngàn tấn đạn dược.
Thắng lợi bước đầu trong việc phong tỏa cảng sông Cửa Việt đã góp phần quan trọng cho cho việc cô lập quân Mỹ trên hướng chủ yếu Khe Sanh.
Sau khi tiêu diệt các căn cứ Hướng Hóa, Huội San, đánh thiệt hại lực lượng Mỹ trên Đường 9 và chi khu Cam Lộ, Bộ Tổng Tham mưu QĐNDVN đã gửi công điện khẩn cho Mặt trận Đường 9 – Bắc Quảng Trị: “Phải diệt căn cứ Làng Vây trong ngày 6 tháng 2 để phối hợp tác chiến chung với toàn Miền”.
Để đánh chắc thắng Làng Vây, Bộ Tư lệnh Mặt trận chủ trương dùng một lực lượng mạnh áp đảo gồm Trung đoàn 24 Sư đoàn 304, Tiểu đoàn 3 (Sư đoàn 325), Trung đoàn công binh 7 (thiếu), 2 đại đội xe tăng với 14 xe PT-76, 2 đại đội đặc công. Đến 3 giờ 30 phút ngày 7 tháng 2, cả ba hướng đã cơ bản hoàn thành việc đánh chiếm được các mục tiêu theo phân công. Đến 10 giờ trưa ngày 7 tháng 2, trận Làng Vây kết thúc, trong số hơn 900 quân biệt kích phòng ngự Làng Vây, 316 lính bị chết và 253 bị bắt sống, chỉ có 255 thoát về được Khe Sanh (trong đó có 75 bị thương). QĐNDVN diệt gọn một cứ điểm quan trọng án ngữ trên đường 9, đẩy cụm cứ điểm Tà Cơn vào thế bị cô lập hoàn toàn giữa lòng chảo thung lũng Khe Sanh.
Sức ép của QĐNDVN ở Đường 9 – Khe Sanh ngày càng tăng đã làm cho Bộ Tư lệnh quân Mỹ ở Nam Việt Nam thực sự lo ngại. Tướng Westmoreland đã từ Sài Gòn ra Đà Nẵng để gặp các tướng lĩnh chỉ huy các sư đoàn TQLC và Lục quân tại Vùng I chiến thuật bàn cách đối phó. Cùng với việc tăng quân, Mỹ thiết lập một Sở chỉ huy quân sự Mỹ (MACVFOARD) tại Phú Bài để điều khiển lực lượng đánh trả các cuộc tiến công của QĐNDVN trên Đường 9 – Khe Sanh. Vì vậy số lượng quân chiến đấu của Mỹ ở đây đã lên tới 43 tiểu đoàn chủ lực (25 tiểu đoàn Mỹ, 18 tiểu đoàn QLVNCH) với tổng quân số 69.490 lính (trong đó có 40.800 lính Mỹ).
Đến đây, Mặt trận Đường 9 – Khe Sanh đã hoàn thành được nhiệm vụ thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược của Mỹ, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho toàn Miền thực hiện đòn chiến lược tổng tấn công Tết Mậu Thân. Tiêu biểu như ở Huế, việc quân Mỹ bị điều khỏi thành phố đã tạo điều kiện cho Quân Giải phóng nhanh chóng kiểm soát 90% thành phố chỉ trong 2 ngày. Giai đoạn 1 chiến dịch đến đây cũng kết thúc.
Đợt 2
Sau các trận đánh ở Động Tri, Huội San, Hướng Hóa, Cam Lộ… thất bại ở Làng Vây đã đẩy cụm cứ điểm Khe Sanh của Mỹ vào thế bị cô lập hoàn toàn giữa lòng chảo thung lũng Khe Sanh. Để bảo vệ Khe Sanh, ngoài lực lượng hỏa lực bố trí trong căn cứ, Mỹ còn dùng pháo binh hỗn hợp cùng máy bay các loại kể cả B-52 chi viện tối đa (có ngày pháo binh bắn tới 15.000 quả, máy bay chiến thuật oanh tạc tới 300 lần xung quanh căn cứ mỗi ngày).
Ngày 8 tháng 2, để đảm bảo cho việc phục vụ vây lấn ở hướng tây chắc chắn thắng lợi, Bộ Tư lệnh Mặt trận đã điện cho Sư đoàn 304, Sư đoàn 325 phải thực hiện tốt việc nhanh chóng chuẩn bị chu đáo mọi yếu tố cần thiết để đưa lực lượng vào thực hành vây lấn ngay. Thực hiện chỉ thị của Bộ tư lệnh Mặt trận, bằng sự nỗ lực rất cao của các chiến sĩ, đến ngày 10 tháng 2 năm 1968, hai Trung đoàn 9 và 66 của Sư đoàn 304, các Trung đoàn 95C và 101D thuộc Sư đoàn 325C cùng bộ đội địa phương Hướng Hóa đã xây dựng được 13 trận địa vây lấn bao quanh căn cứ Khe Sanh. Chiến thuật vây lấn từng làm nên thắng lợi của QĐNDVN tại trận Điện Biên Phủ sẽ được sử dụng.

Pháo M107 được Mỹ mệnh danh là Vua chiến trường vì tầm bắn xa và uy lực mạnh.
Không quân Mỹ ra sức tìm cách tiêu diệt các vị trí đặt pháo hạng nặng của QĐNDVN. Việt Nam đối phó bằng cách phân tán vị trí của các khẩu đội pháo (một số vị trí cách nhau 800 mét, mặc dù 100-300 mét là điển hình hơn), có sẵn ụ trú ẩn để kéo pháo vào sau khi bắn, xung quanh có các vị trí súng phòng không. Việc triển khai trận địa pháo cực kỳ bí mật và được ngụy trang kĩ lưỡng. Nhờ vậy nên trong suốt chiến dịch, quân Mỹ không thể dập tắt được hỏa lực pháo binh QĐNDVN. Hai trung đoàn pháo binh của QĐNDVN tham gia chiến dịch chỉ có 185 người thương vong, các đơn vị pháo phòng không thì chỉ thương vong 88 người. Tính tới đầu tháng 4, QĐNDVN đã sử dụng 9.423 viên đạn pháo và súng cối, trong đó có 4.040 viên đạn cối 82 ly, 3.781 viên đạn pháo 122 ly và hơn 700 rocket[20], khiến cho gần 2.000 lính Mỹ bị thương vong (xem thống kê chi tiết các vụ pháo kích trong tháng 2 tại đây).
Vì cụm cứ điểm Khe Sanh là một cụm phòng ngự mạnh, kiên cố, vững chắc nhất của Mỹ tại miền Nam Việt Nam, do đó QĐNDVN chủ trương “Diệt một số cứ điểm ngoại vi sau đó vây ép chặt buộc địch ra giải tỏa, để ta đánh địch ngoài công sự, vừa diệt được nhiều địch, lại giảm thương vong của ta”. Ngay ngày 9 tháng 2, một trận kịch chiến xảy ra trên Cao điểm 64 giữa quân Mỹ được trực thăng và phi cơ yểm trợ với 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 101D QĐNDVN. Quân Mỹ có 26 lính tử trận và 27 bị thương. QĐNDVN chịu thương vong 58 chết và 71 bị thương, song đã giữ được trận địa.
Trung đoàn 9 QĐNDVN vào vây lấn trực tiếp trên 2 hướng: đông đông nam và tây tây nam, Trung đoàn 95 và 101D (F325) vây xa trên các cao điểm phía bắc: 845, 852, 550. Chỉ trong thời gian ngắn trận địa vây lấn đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh: Có hệ thống công sự chiến đấu có nắp, hệ thống chiến hào, giao thông hào liên hoàn; trung đoàn còn huy động các lực lượng của đơn vị đào được 2 giao thông hào dài 5 km nối liền từ các trận địa chốt với phía sau nam đường 9. Hệ thống hỏa lực được bố trí chặt chẽ có thể khống chế được sân bay, đồng thời một số tổ bắn tỉa có kính ngắm hồng ngoại đã vào sát hàng rào xây dựng công sự chiến đấu, cả ngày và đêm. Ngoài các loại hỏa lực bản thân, khi xảy ra tác chiến trung đoàn còn được các cụm pháo của sư đoàn và mặt trận chi viện trực tiếp.
Sau khi xây dựng được trận địa tương đối hoàn chỉnh, các trận địa chốt và hỏa lực cối, đại liên 12,7 ly bắt đầu khống chế sân bay làm cho máy bay Mỹ xuống tiếp tế gặp khó khăn, hoạt động đi lại của quân Mỹ trong căn cứ cũng bị khống chế, một số đã bị bắn tỉa tiêu diệt. Đồng thời các mũi lấn dũi cũng ngày càng phát triển sâu vào áp sát các cứ điểm, có mũi đã lấn dũi qua hàng rào thứ 2, 3 của Mỹ.
Ngày 11 tháng 2, một tin xấu đến với hệ thống vận tải chi viện cho Khe Sanh của Mỹ. Hai vận tải cơ C-130 đáp xuống Khe Sanh thì 1 đã nổ tung vì trúng đạn pháo kích, toàn bộ 6 phi công thiệt mạng. Chiếc còn lại gấp rút được sửa chữa rồi bay “khập khễnh” về phi trường Đà Nẵng. Từ đó về sau, các máy bay vận tải của Mỹ không còn dám đáp xuống đường băng mà phải sử dụng cách bay sát đường băng rồi đẩy hàng có buộc dù qua cửa sau bụng phi cơ, dù cách này sẽ khiến một lượng lớn hàng hóa bị hư hỏng khi tiếp đất.
Việc tiếp vận cho các ngọn đồi quanh lòng chảo cũng có ý nghĩa sống còn với Mỹ, bởi nếu mất các ngọn đồi này thì pháo binh QĐNDVN sẽ có thể bắn trực xạ vào căn cứ với độ chính xác rất cao. Mỹ phải huy động hàng trăm trực thăng mỗi ngày để tiếp tế cho các ngọn đồi này. Thậm chí việc tắm rửa của lính Mỹ cũng bằng nước thả xuống từ trực thăng. Một sỹ quan QĐNDVN đã viết trong hồi ký: “Chúng tôi vượt hàng trăm cây số đường rừng chỉ với 1 bi đông nước, trong khi lính Mỹ dùng tới cả trực thăng chỉ để tắm giặt. Khi thấy cảnh này, tôi tin chắc nếu kiên trì, chúng tôi sẽ chiến thắng cuộc chiến này”.
Nắm được quy luật hoạt động của trực thăng, QĐNDVN bố trí các khẩu đội súng máy 12,7 ly ngụy trang kĩ để đón lõng trực thăng Mỹ khi thả hàng. Chỉ trong 2 tuần đã có hàng chục trực thăng Mỹ bị hạ. Không quân Mỹ phải bố trí các phi vụ ném bom yểm trợ cho đội trực thăng thì thiệt hại mới giảm đi.
Để đẩy lùi lực lượng QĐNDVN ra khỏi Khe Sanh, Mỹ đã sử dụng hỏa lực pháo binh và không quân không hạn chế. Tính từ ngày 21 tháng 1 đến ngày 3 tháng 3 năm 1968, Không quân Mỹ đã xuất kích 24.000 lần chiếc kể cả máy bay chiến lược B-52, trút 114.810 tấn bom các loại, bằng lượng bom Mỹ ném xuống toàn nước Nhật Bản trong cả năm 1945. Trung bình mỗi ngày Mỹ lại huy động 32 phi vụ B-52 và và 200 phi vụ cường kích, rải xuống 1.800 tấn bom. Đồng thời pháo binh từ trong căn cứ, từ Trại Carroll và Rockpile bắn 159.000 quả đạn lên một khu vực chỉ rộng 32 km2 quanh Khe Sanh[24], tạo nên những trận bão lửa dữ dội chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh.
Đối phó với hỏa lực cực mạnh của Mỹ, QĐNDVN đã dùng thứ vũ khí thô sơ nhưng hiệu quả nhất: các chiến hào, vốn từng được kiểm nghiệm qua trận Điện Biên Phủ. Theo tính toán của Mỹ, cần tới 1.000 viên đạn pháo chỉ để phá hủy 30 mét đường hào cùng một vài binh sĩ trong đó. Tuy nhiên trước sức mạnh hỏa lực áp đảo của đối phương, vốn được đánh giá là mạnh hơn gấp hàng chục lần so với quân Pháp ở Điện Biên Phủ, thiệt hại của QĐNDVN cũng tăng dần. Mỗi ngày QĐNDVN phải sửa, đào mới 40-50% chiến hào, ngày cao điểm đánh phá có hướng, mũi phải sửa chữa đến 70% công sự trận địa. Cùng với thiệt hại về công sự, vật chất kỹ thuật, số cán bộ chiến sĩ hy sinh hoặc bị thương lên tới gần 200 người mỗi tuần. Tính đến giữa tháng 3 năm 1968, tổng số bộ đội bị thương từ đầu chiến dịch là 1.436 người. Trong số đó, 484 người bị thương nhẹ được trả về đơn vị sau khi điều trị, 396 người bị thương nặng thì được đưa ra miền Bắc điều trị[20].
Thấy dùng không quân và pháo binh không ngăn được phát triển của các mũi vây lấn, Mỹ phải đưa lực lượng trong căn cứ ra thực hành phản kích hòng đẩy lùi các mũi lấn dũi ra xa và chiếm lại một số chốt. Nhiều cuộc chiến đấu diễn ra cực kỳ ác liệt. Ví dụ như cuộc giao tranh ngày 25 tháng 2, 1 trung đội thuộc Đại đội B Tiểu đoàn 1/26 của Mỹ mất gần hết quân số với 9 lính chết, 25 bị thương, 18 mất tích và 1 bị bắt.[25]
Kết hợp với vây lấn, pháo binh QĐNDVN liên tục pháo kích tiêu hao sinh lực của quân Mỹ. Đỉnh điểm là ngày 23 tháng 2, pháo kích làm nổ tung 1 kho đạn, khiến 12 lính Mỹ chết và 51 bị thương.[26] Nhớ lại khoảng thời gian bị vây hãm tại Khe Sanh, cựu binh John Scott Jones vẫn không thôi bị ám ảnh: “Chúng tôi đã ở dưới những căn hầm trú ẩn nhỏ, có rất nhiều bom đạn thả xuống, rất nhiều người chết và bị thương. Đó là khoảng thời gian rất khó khăn. Chúng tôi không có nước uống và thiếu lương thực trầm trọng, chỉ cố gắng cầm cự để mong sống sót”[17].
Sau 2 tháng bị vây, số phận của hơn 6.000 lính Mỹ trong căn cứ Khe Sanh vô cùng khốn đốn; nhưng lúc này giao tranh ác liệt vẫn đang diễn ra trên khắp chiến trường Nam Việt Nam, nên Mỹ vẫn chưa thể đưa quân giải tỏa cho Khe Sanh.
Trung tuần tháng 3 năm 1968, Bộ chỉ huy QĐNDVN dự kiến “Nếu cuối tháng 3 năm 1968 địch chưa tung quân ra giải tỏa thì ta sẽ đưa lực lượng đánh chiếm một đoạn tiền duyên phòng ngự của địch để tăng sức ép”; nhiệm vụ đánh chiếm tiền duyên được giao cho Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 9 chốt ở đông sân bay Tà Cơn. Ngày 22 tháng 3 năm 1968, mặt trận quyết định đánh chiếm tiền duyên ở phía đông sân bay Tà Cơn. Đúng 23 giờ 30 phút, ngày 22 tháng 3 năm 1968, lệnh tấn công pháo binh của Sư đoàn và mặt trận bắn vào Sở chỉ huy cụm phòng ngự Tà Cơn và chế áp các trận địa pháo, súng cối và hỏa lực bắn thẳng của Mỹ. Trận đánh diễn ra quyết liệt, tổ bộc phá của QĐNDVN thương vong gần hết. Nhận thấy việc đánh chiếm tiền duyên khó thành công nên Mặt trận và Sư đoàn đã lệnh dừng tấn công, lui vào trận địa chốt củng cố. Quân Mỹ có 8 lính chết và 21 bị thương, QĐNDVN có 57 người chết.
Trận tấn công đánh chiếm một bộ phận tiền duyên ở đông sân bay Tà Cơn tuy chưa thành công nhưng đã tăng thêm sức ép vốn đã rất ghê gớm đối với phía Mỹ. Báo chí Mỹ phải thốt lên: “Sống ở Khe Sanh nào khác gì kẻ bị kết án ngồi trên ghế điện” (Tin AP). Để giảm áp lực, ngày 30 tháng 3 năm 1968 quân Mỹ tổ chức một cuộc phản kích lớn vào trận địa chốt số 3 của Đại đội 6 Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 9 với 2 tiểu đoàn TQLC Mỹ, 2 đại đội quân VNCH và xe tăng yểm hộ, ý định chiếm bằng được chốt, nhưng sau gần 5 giờ chiến đấu liên tục, quân Mỹ phải rút lui với 12 lính chết và 100 bị thương. Đây là trận phản kích cuối cùng của quân Mỹ trong căn cứ.
Đến lúc này cả Tổng thống Johnson và Quốc hội Mỹ đều lo cho gần 6.000 quân Mỹ đang bị vây hãm ở Khe Sanh; cả thế giới cũng hồi hộp theo dõi diễn biến chiến sự tại Khe Sanh. Trước nguy cơ Khe Sanh bị tiêu diệt như Điện Biên Phủ, cuối cùng Tổng thống Johnson phải quyết định điều một lực lượng thật mạnh cứu nguy cho Khe Sanh. Giai đoạn 2 chiến dịch kết thúc chuyển sang giai đoạn 3.
Đợt 3
Ngày 1 tháng 4 năm 1968, Chiến dịch Pegasus (Ngựa bay) nhằm giải tỏa cho Khe Sanh bắt đầu. Sư đoàn Không Kỵ số 1 – lực lượng cơ động mạnh nhất của Lục quân Hoa Kỳ, được tung vào Khe Sanh. Sư đoàn gồm 3 lữ đoàn, mỗi lữ đoàn có 3 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn có từ 800 đến 1.000 quân; 1 tiểu đoàn trinh sát Không Kỵ; 1 tiểu đoàn trực thăng vũ trang; 3 tiểu đoàn pháo 105 ly; 2 đại đội pháo sáng; 1 đại đội máy bay vận tải với tổng cộng 439 máy bay trực thăng và một số máy bay vận tải. Ngoài ra, còn có Chiến đoàn dù số 3 của QLVNCH và 1 tiểu đoàn pháo 105 ly cùng tham gia.
Với tổng biên chế 15.787 quân, 434 máy bay (chủ yếu là trực thăng), 1.600 xe các loại, 54 khẩu pháo 105 ly, 87 dàn rốc két với 1.872 ống phóng cỡ 70 ly lắp đặt trên trực thăng vũ trang, sư đoàn kỵ binh 1 có một khả năng cơ động và hỏa lực mạnh mà không một đơn vị nào khác trên thế giới có được.

Tổ chống tăng Quân đội Nhân dân Việt Nam chiến đấu
Ngay sau khi Mỹ mở cuộc hành quân Pegasus giải tỏa cho Khe Sanh, Bộ Tư lệnh QĐNDVN điều động thêm Sư đoàn 308 vào tham gia chiến đấu thay cho Sư đoàn 325 tại chiến trường Khe Sanh. Sư đoàn 325 được lệnh hành quân sang chi viện cho mặt trận khác.
Sáng ngày 1 tháng 4 năm 1968, Không quân Mỹ đã sử dụng 15 lần chiếc B-52, rải 450 tấn bom dọc hai bên trục Đường 9, tiếp đó các máy bay trực thăng đổ 1 tiểu đoàn Không Kỵ xuống Bồng Nho, Động Tro và Úc Nghi, đổ 1 đại đội pháo binh xuống Khe Sanh. Cùng với đường không, trong ngày phía Mỹ còn cho 147 lần chiếc xe vận tải chuyển đồ dùng quân sự và đạn dược từ Tân Lâm đến Cà Lu. Ngày 2 tháng 4, B-52 oanh tạc đông nam Khe Sanh, 14h30 trực thăng đổ 1 tiểu đoàn quân Mỹ xuống đông làng Cát và 1 tiểu đoàn xuống Cà Lu. Sau khi được thả xuống bãi đáp, Tiểu đoàn 1/5 Không Kỵ hướng về mục tiêu đồn Pháp cũ, đã đụng độ với một tiểu đoàn QĐNDVN đang phòng thủ tại đây, Tiểu đoàn 1/5 của Mỹ bị thiệt hại nặng, Trung tá Runkle Tiểu đoàn trưởng thiệt mạng. Tiểu đoàn 2/5 được lệnh vào thay thế nhưng QĐNDVN đã rút lui.
Ngày 3 tháng 4, quân Mỹ tiếp tục cho 200 lần chiếc trực thăng đổ Lữ đoàn 1 Không Kỵ xuống Pa Ka, Làng Con, Cao điểm 420, Cô Nhôm. Sáng ngày 4 tháng 4 năm 1968, với ý định đánh chiếm bằng được Cao điểm 471, khống chế vùng tây nam Tà Cơn, Mỹ dùng hỏa lực pháo binh và không quân bắn phá dữ dội nhiều giờ vào điểm cao và đưa Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 9 TQLC ra chiếm các mỏm 3, 4, 5 ở động Ché Riêng, nhưng đã bị Đại đội 7 Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 9 và 1 phân đội của Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 66 QĐNDVN chặn đánh. Trận chiến đấu giằng co kéo dài từ 10 giờ sáng đến 15 giờ chiều vẫn không phân thắng bại, số thương vong của Mỹ đã là 10 chết và 56 bị thương, chỉ huy quân Mỹ quyết định dùng trực thăng đổ một tiểu đoàn Không Kỵ vận xuống mỏm 3 và 4 động Ché Riêng, tiếp tục tổ chức đánh chiếm Cao điểm 471.
Sau một ngày chiến đấu ác liệt, QĐNDVN cũng có 16 người tử trận, nhưng ngay trong đêm ngày 5 tháng 4 đã bất ngờ tập kích vào khu trú quân của Mỹ trên mỏm 2 tại động Ché Riêng khiến 1 lính Mỹ chết và 28 lính bị thương.
Tại hướng khác, Tiểu đoàn 3 QĐNDVN đã được lệnh xây dựng chốt ngăn chặn ở làng Khoai, lực lượng bố trí chốt làng Khoai gồm 20 binh sỹ do Nguyễn Văn Bình – tham mưu trưởng Tiểu đoàn và Bùi Ngoãn, đại đội phó Đại đội 11 Tiểu đoàn 3 chỉ huy. Sáng 4 tháng 4 năm 1968, sau khi cho pháo binh và trực thăng vũ trang bắn phá hàng giờ đồng hồ vào trận địa chốt làng Khoai, một tiểu đoàn Mỹ chia làm 2 mũi tấn công vào chốt làng Khoai. Trong ngày hôm đó, 5 đợt tấn công của Mỹ đã bẻ gãy, thương vong gần 100 lính (theo phía Việt Nam); đợt tiến công thứ 3 đại đội phó Bùi Ngoãn bị thương gãy chân đã yêu cầu 1 chiến sĩ dùng lưỡi lê cắt chân bị gãy để tiếp tục chỉ huy chiến đấu và đã hy sinh tại trận địa (kết thúc chiến dịch, Bùi Ngoãn được đề nghị tuyên dương Anh hùng LLVTND và được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba).
Sau 1 ngày chiến đấu, 20 chiến sĩ đã bị thương vong mất 10, trận địa bị phá hoại một phần nên chiều hôm đó QĐNDVN lui về tuyến 2 chốt giữ. Chốt làng Khoai còn chiến đấu liên tục đến ngày 7 tháng 4 năm 1968 thì được lệnh rút sang phía nam để phối hợp với hỏa lực tiếp tục đánh quân Mỹ.

Giao chiến trên các ngọn đồi
Tiêu biểu nhất trong các trận đánh giành chốt trong các ngày đầu tháng 4 năm 1968 là Cao điểm 558, nằm ở phía tây cụm cứ điểm Tà Cơn. Lực lượng QĐNDVN giữ chốt ở đây ngoài 2 tiểu đội bộ binh chiếm giữ ở hai mỏm đồi còn có hai khẩu 12,7 ly và một khẩu súng cối 60 ly bố trí ở khu vực yên ngựa, có hệ thống hầm hào, công sự trận địa khá vững chắc. Tại chốt 595 diễn ra trận chiến đấu ác liệt suốt 2 ngày, từ ngày 6 đến 7 tháng 4, được gọi là “kỳ tích 1 chống 40”. 2 tiểu đội QĐNDVN đã chặn đánh 2 tiểu đoàn Mỹ trong 2 ngày, được ghi nhận là đã triệt hạ gần 200 lính Mỹ (riêng chiến sĩ Nguyễn Hữu Bào diệt 79 lính Mỹ, cuối chiến dịch được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân). Tài liệu Mỹ cũng xác nhận trong ngày đầu tiên đánh chốt đã có 10 lính Mỹ chết và 47 bị thương.
Tuy nhiên với sức cơ động và hỏa lực áp đảo, quân Mỹ vẫn lấn dần đến Khe Sanh. Ngày 6 tháng 4 năm 1968 các đơn vị Không Kỵ đã bắt tay được với TQLC bên trong căn cứ tại Cao điểm 471. Sau đó Tiều đoàn 1/9 TQLC bắt đầu càn quét khu vực chung quanh căn cứ khởi đi từ Cao điểm 552 rồi đến Cao điểm 681 nhưng không gặp một kháng cự nào.
Về phía QĐNDVN, song song với nhiệm vụ đánh quân Mỹ hành quân giải tỏa các điểm cao quan trọng xung quanh Khe Sanh và đường 9, Bộ Tư lệnh QĐNDVN cho các đơn vị chủ động tổ chức các trận tập kích tiêu diệt các vị trí tiến quân tạm thời của lực lượng Không Kỵ của Mỹ.
Sáng ngày 5 tháng 4, Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 24 QĐNDVN bất ngờ tiến công loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 lính Không Kỵ trên Cao điểm 400. Sáng ngày 7 tháng 4, Chiến đoàn Dù số 3 VNCH đã dùng 132 máy bay lên thẳng từ Nhơn Biểu đổ xuống các ngọn đồi phía tây bắc Làng Vây cũ và tiến hành đổ bộ đợt hai xuống Rồ Cút. Nhưng ngay sau khi đổ quân đã bị pháo tập kích trúng đội hình, hàng chục lính thuộc Tiểu đoàn 2 và 6 Dù bị loại khỏi vòng chiến đấu. Tiểu đoàn 3 và 8 Dù QLVNCH bị Trung đoàn 24 Sư đoàn 304 QĐNDVN bám đánh liên tục, tiêu hao một bộ phận lực lượng và phương tiện, buộc phải co cụm lên Cao điểm 400. Đêm ngày 8 tháng 4, Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 24 bất ngờ tập kích diệt thêm một số, trong đó có Thiếu tá Tham mưu trưởng Chiến đoàn dù số 3 là Bùi Văn Thạch cũng tử trận.
Cùng ngày 7 tháng 4, ở Cao điểm 552 và 689, Tiểu đoàn 1/9 của TQLC Mỹ cũng bị pháo kích bằng súng cối làm 9 lính Mỹ chết và 27 bị thương.
Để tạo hành lang an toàn, quân Mỹ tiếp tục cho quân đánh nống ra các điểm cao. Ngày 10 tháng 4, Tiểu đoàn 6 Dù QLVNCH được một tiểu đoàn Không Kỵ của Mỹ yểm trợ chia làm 3 mũi hành quân đánh chiếm Làng Vây cũ. Được pháo binh chi viện, Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 66 QĐNDVN đã liên tục đẩy lùi 3 đợt xung phong vào căn cứ Làng Vây, buộc Tiểu đoàn 6 QLVNCH phải lùi về Cao điểm 500 (tây bắc Làng Vây). Ngay đêm ngày 11 tháng 4, Tiểu đoàn 7 quyết định tiến công Cao điểm 500, diệt thêm một đại đội, làm thiệt hại nặng một đại đội khác. Các lực lượng Hoa Kỳ sau đó đã sử dụng tối đa ưu thế của không quân, pháo binh và cả chất độc hoá học khiến Trung đoàn 66 phải rút lui.
Lữ đoàn 1 Không Kỵ của Mỹ sau khi chiếm được Làng Vây cũ đã nhanh chóng đánh chiếm Pa Ka, Làng Con, Làng Trài, Bi Hiên, đẩy được một số đơn vị của QĐNDVN ra xa. Tuy vậy sau một tuần tác chiến ở khu vực Làng Vây, Lữ đoàn Dù số 3 QLVNCH đã bị thiệt hại tới 40% quân số. Tinh thần của QLVNCH mất ổn định nghiêm trọng, phải rút về căn cứ ở Huế để củng cố. Cuộc hành quân Lam Sơn 207 của Lữ đoàn Dù số 3 đến đây chấm dứt.

Hình ảnh chiến sự tại Khe Sanh
Theo tuyên bố của Hoa Kỳ, Chiến dịch Pegasus kết thúc ngày 8 tháng 4 và Khe Sanh đã được giải vây. Tối ngày 14 tháng 4 năm 1968, hãng UPI và đài BBC đều công bố: “Cuộc hành quân Pegasus đã chấm dứt”. Song thực tế quân Mỹ mới chỉ tạo được một tuyến tiếp vận đến Khe Sanh từ hướng đông, 3 mặt còn lại của căn cứ vẫn bị vây lỏng, các trận đánh ác liệt vẫn diễn ra và quân Mỹ thường xuyên bị tập kích. Tiêu biểu như ngày 13 tháng 4 năm 1968, tại Cao điểm 881-Bắc, lợi dụng lúc Tiểu đoàn 3/26 của TQLC Mỹ tiến công đánh chốt 622 lộ toàn bộ đội hình trên trận địa, Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 66 đang ém sẵn ở các vị trí có lợi đã bất ngờ xuất quân trên nhiều hướng tiến đánh đội hình Mỹ; loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục lính Mỹ. Ngày 15 tháng 4, QĐNDVN tập kích bãi đáp của Đại đội A Tiểu đoàn 1/9 ở tây nam Cao điểm 689 và diệt Đại đội C và D của TQLC tới chi viện làm 41 lính Mỹ chết, 32 bị thương và 15 mất tích. Khe Sanh tiếp tục phải hứng chịu pháo kích, có những ngày ghi nhận lên tới 100 viên đạn trút xuống từ các trận địa pháo của QĐNDVN đặt tại Lào, nằm ngoài tầm pháo của quân Mỹ trong căn cứ.
Cùng thời gian trên, trên hướng đông, Sư đoàn 320 QĐNDVN cũng tăng cường hoạt động tác chiến. Trung đoàn 64 liên tục tiến công trên đường 9 diệt nhiều xe cơ giới và quân chiến đấu của Mỹ. Nhiều mũi tiến quân của Mỹ nống ra phá thế vây hãm ở khu vực Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang, An Thái… đã bị Trung đoàn 48 QĐNDVN chặn đánh và tiêu hao.
Ngày 21 tháng 4, 3 tiểu đoàn TQLC Mỹ chia làm nhiều mũi cơ động tiến đánh Cao điểm 622. Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 66 Sư đoàn 304 QĐNDVN đã bám trụ công sự trận địa vững chắc kết hợp với vận động tiến công quy mô nhỏ trên từng hướng, đánh bại từng mũi tiến công lên điểm cao, đẩy quân Mỹ trở lại Khe Sanh.
Ngày 23 tháng 4, gần 1 tiểu đoàn Không Kỵ từ Làng Con – Húc Hạ đã mở cuộc hành quân về phía Làng Vây, khi quân Mỹ vừa đổ quân chiếm vị trí xuất phát xung phong đã bị lực lượng cơ động của Sư đoàn 304 QĐNDVN chặn đánh quyết liệt, bắn cháy 2 máy bay chở quân, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực… Bị đòn phủ đầu thiệt hại lớn về quân số, tổn thương nặng về tinh thần, số còn lại vội rút về Húc Hạ bỏ dở cuộc hành quân.
Trên tuyến Đường 9, Tiểu đoàn 8 QĐNDVN liên tục phục kích đánh các đoàn xe vận tải chở vũ khí trang bị. Ngày 19 tháng 4, diệt 5 xe GMC, 1 xe M-113; ngày 20 tháng 4, loại khỏi vòng chiến đấu 2 trung đội hành quân trên 6 xe chở quân; ngày 21 tháng 4, triệt hạ thêm 108 lính cùng 1 xe tăng và một số xe vận tải.
Cuối tháng 4 năm 1968 quân Mỹ và VNCH buộc phải kết thúc cuộc hành quân Pegasus và Lam Sơn 207 khi ý định giải tỏa Khe Sanh chưa thực hiện được. Dù sao, các cuộc hành quân của Mỹ đã đẩy được một số mũi vây lấn ra xa, chiếm được một số khu vực chốt quan trọng ở khu vực xung quanh Khe Sanh, gây thiệt hại lớn về quân số và trang bị vũ khí kỹ thuật cho đối phương. Nguy cơ Khe Sanh bị tiêu diệt hoàn toàn như Điện Biên Phủ đã được tháo gỡ.
Về phía QĐNDVN, sau khi vòng vây đã bị quân Mỹ chọc thủng trong Chiến dịch Pegasus, các đơn vị cũng bắt đầu giai đoạn 4: khôi phục thế vây lấn để tiếp tục tạo sức ép buộc Mỹ phải rút bỏ Khe Sanh.
Đợt 4
Ngày 4 tháng 5, QĐNDVN bất ngờ tập kích Cao điểm 552 của Mỹ, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội Không Kỵ, một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, phá hủy 4 khẩu pháo 105 ly và 9 khẩu cối 106,7 ly. Cùng thời gian, ở hướng tây và tây bắc Khe Sanh, Trung đoàn 66 thực hành bao vây kiềm chế các Cao điểm 832, 689. Ở hướng đông nam Trung đoàn 9 tiến công áp sát Làng Khoai, tổ chức đánh bại một mũi phản kích của Mỹ, bắn rơi 3 máy bay trực thăng và tiêu diệt, làm bị thương nhiều lính Mỹ.
Trên tuyến Đường 9 liên tục trong các ngày 14 và 15 tháng 5, QĐNDVN đã tổ chức một số trận tập kích ở nam Làng Khoai, diệt nhiều xe vận tải và sinh lực, gây khó khăn cho việc tiếp vận cho Khe Sanh của quân Mỹ.

Những vũ khí mà quân Mỹ bỏ lại ở Khe Sanh.
Trong khi các Sư đoàn 304 và 308 đẩy mạnh hoạt động ở Tà Cơn, Đường 9, Sư đoàn Đồng Bằng cũng vừa chiến đấu tạo thế liên hoàn trên cánh đông vừa nghiên cứu quy luật hoạt động trên sông và cách bố phòng bảo vệ cảng Cửa Việt của địch, chuẩn bị cho đợt tác chiến đánh tàu trên sông Cửa Việt. Do sự chuẩn bị chu đáo và sử dụng hỏa lực ĐKZ, cối 82 ly, B-40, B-41, trọng liên 12,7 ly… một cách linh hoạt, QĐNDVN đã đánh chìm được nhiều tàu chở hàng của Mỹ trên sông Cửa Việt. Tiêu biểu nhất trong đợt hoạt động tháng 5 của Sư đoàn 320 là trận đánh trên khu vực bãi cát Cửa Việt chiều ngày 2 tháng 5, Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 6 phối hợp cùng pháo binh và các đơn vị bộ đội địa phương đã đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 4 TQLC Mỹ.
Bộ chỉ huy Quân đoàn III TQLC Mỹ đã đưa Trung đoàn 4 (thiếu 1 tiểu đoàn), Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 9 tổ chức cuộc hành quân giải tỏa Khe Sanh lần thứ 2 với mật danh Scotland II để kéo giãn đội hình vây lấn của QĐNDVN, tạo điều kiện cho ý định rút bỏ Khe Sanh. Đến ngày 18, chỉ huy TQLC Mỹ đã quyết định “bốc hết lực lượng rải rác ở các điểm cao Kơ Long, Pa Trang, 635… đưa về tăng cường cho Đường 9, Nam Tà Cơn và Đông Hà, Cửa Việt”. Đây cũng là thời điểm Mỹ kết thúc cuộc hành quân giải tỏa Khe Sanh lần 2 – mang tên Scotland II mà không thu được nhiều kết quả. Sau 1 tháng chiến đấu, QĐNDVN ghi nhận đã loại khỏi vòng chiến hơn 1.000 quân Mỹ, 11 máy bay các loại bị phá hủy và bắn rơi, 7 khẩu pháo và cối bị phá hủy, phá hỏng, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 4 TQLC Mỹ. Các tài liệu của Mỹ cũng xác nhận, tính riêng trong Chiến dịch Scotland II đã có 412 lính Mỹ thiệt mạng (gấp đôi con số 205 lính tử trận mà phía Mỹ chính thức đưa ra đối với toàn bộ trận chiến ở Khe Sanh).

Thủy quân lục chiến Mỹ rút chạy khỏi Khe Sanh, ảnh chụp ngày 1/7/1968 tại sân bay Tà Cơn.
Chiến dịch Scotland II kết thúc, lực lượng Mỹ ở Khe Sanh còn lại 5 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, trong đó một bộ phận rải rác dọc Đường 9 để bảo vệ cho tiếp tế Khe Sanh và bảo đảm yểm hộ kịp thời, hiệu quả cho việc rút lui của lính Mỹ ra khỏi Khe Sanh khi cần thiết. Ngày 26 tháng 6, Đại tướng Abrams – chỉ huy quân Mỹ ở Việt Nam đã ra lệnh tiến hành chiến dịch Charlie, tổ chức cho lính Mỹ rút bỏ Khe Sanh. Quân Mỹ tại Khe Sanh được lệnh phá hủy tất cả các công trình, vũ khí hạng nặng không thể di tản để tránh lọt vào tay đối phương.
Tuy cuộc rút quân được sắp đặt rất bài bản, nhưng nhiều đợt rút quân của Mỹ vẫn bị QĐNDVN phát hiện và tổ chức chặn đánh. Trung đoàn 246 QĐNDVN liên tục tổ chức đánh Mỹ rút chạy trên hướng tây, nhưng do lực lượng quá mỏng nên chỉ đánh được nhóm bọc hậu sau cùng, không đánh được vào quân chủ lực nên không phá vỡ được đội hình rút lui. Trên hướng Nam, Trung đoàn 102 QĐNDVN đã rút về tuyến sau củng cố, Trung đoàn 88 cũng triển khai lực lượng đón đánh quân Mỹ trên hướng Đường 9, nhưng cũng chỉ đánh được bộ phận bảo vệ mà không đánh được đội hình rút quân chính. Riêng lực lượng pháo binh QĐNDVN đã tổ chức chặn đánh rất hiệu quả vào sân bay Tà Cơn và chặn đánh trên đường bộ gây cho quân Mỹ nhiều thiệt hại về lực lượng và vũ khí, phương tiện chiến tranh.
Do những hoạt động tích cực của QĐNDVN nên cuộc hành quân rút khỏi Khe Sanh của Mỹ phải kéo dài gần 20 ngày, đến ngày 15 tháng 7 năm 1968 quân Mỹ mới rút hết quân về tập trung ở Cà Lu – Tân Lâm. QĐNDVN đã làm chủ Đường 9 đoạn từ Lao Bảo đến sát Cà Lu (trừ cứ điểm Động Tri), kiểm soát toàn bộ khu vực Khe Sanh – một địa bàn chiến lược quan trọng ở phía tây Đường 9. Quân nhân Mỹ cuối cùng rút khỏi khu vực vào 25 tháng 7, trước đó ngày 9 tháng 7 năm 1968, lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã được cắm trên cột cờ sân bay Tà Cơn.
Trong gần 20 ngày chặn đánh quân Mỹ rút lui, Sư đoàn 308 và Trung đoàn 246 đã phối hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ được ghi nhận đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.333 lính Mỹ, bắn rơi, phá hủy 34 máy bay, 5 khẩu pháo, súng cối và 5 xe vận tải.
Sở dĩ Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh được mệnh danh là “Trận Điện Biên Phủ thứ hai” vì giữa hai trận đánh này có những điểm tương đồng:
- Điểm tương đồng thứ hai là địa hình đều hiểm trở, khó tiếp cận. Chỉ có thể tiếp cận Điện Biên Phủ bằng đường không. Đối với Khe Sanh, ngoài việc tiếp cận bằng đường không, còn có thêm cách tiếp cận bằng đường bộ thông qua Đường 9.
- Về tính chất của cả hai trận đánh lúc bấy giờ đã trở thành tâm điểm chú ý của báo chí và các cơ quan công luận khác. Đối với quân địch cả hai trận đều có bài học giống nhau, đó là sự thất bại.
Thương vong của QĐNDVN được chính phủ Mỹ tuyên bố với giới truyền thông là khoảng 10-15 ngàn người chết, tuy nhiên trong báo cáo mật mà MACV trình tướng Westmoreland, họ ước tính con số này chỉ khoảng 5.550, nghĩa là con số mà chính phủ Mỹ công bố đã bị phóng đại một cách cố tình[13]. Mặt khác, chính phủ Mỹ công bố thương vong của họ chỉ là 205 chết và 443 bị thương. Nghiên cứu của giới sử học Mỹ sau này đã chỉ ra nhiều thiếu sót có chủ ý trong việc tính toán thương vong khi đó, và con số thực tế cao hơn thế gấp khoảng 11 lần.[13], sánh ngang với những trận đánh khốc liệt trong Chiến tranh Thái Bình Dương. Trong bối cảnh nước Mỹ đang chấn động vì cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân, nếu con số thực bị lộ thì chẳng khác nào việc “đổ thêm dầu vào lửa” với những hậu quả lớn không thể lường trước.
Sau khi rút bỏ Khe Sanh, tưởng như mọi việc đã xong, nhưng rồi Nhà Trắng lại chao đảo lần nữa vì Khe Sanh. Ngày 24 tháng 6, phóng viên John Carol của tờ Mặt trời Baltimore đã loan tin Bộ chỉ huy Mỹ “vừa buộc phải rút bỏ Khe Sanh, một căn cứ quân sự được (Mỹ) phòng thủ với một giá đắt, do vị trí rào cản có tính sống còn của nó ở dưới khu giới tuyến”. Bộ chỉ huy Mỹ mập mờ phủ định tin này, nhưng John Carol khẳng định “Các thủy quân lục chiến biết việc này, người Bắc Việt Nam biết việc này, chỉ có nhân dân Mỹ là không biết. Mặc dù Bộ chỉ huy Mỹ giải thích việc này (bỏ Khe Sanh) là do những yêu cầu về quân sự đặt ra, nhưng miền Bắc cho đây là thất bại nghiêm trọng nhất cả về chiến thuật lẫn chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến tranh này”.
Theo báo cáo dành cho tổng thống 25 và 26 tháng 6 năm 1968, các cố vấn tổng thống đã phải nhanh chóng ra tay. Một là, họ thuyết phục hãng tin Mỹ tầm cỡ toàn cầu AP đừng đưa tin của Mặt trời Baltimore. Hai là, họ đã dự thảo để MACV ra một tuyên cáo. Cốt lõi cho tuyên cáo này là, quân Mỹ phải bỏ Khe Sanh chỉ vì “do địch đã thay đổi chiến thuật”.
Tác động của Mỹ rút bỏ Khe Sanh đối với công luận được Peter Bush đánh giá như sau: “Tướng Abrams ra lệnh giữ bí mật chuyện đóng cửa căn cứ càng lâu càng tốt. Đến khi chuyện này buộc phải công bố chính thức, chỉ một lượng thông tin nhỏ được cung cấp. Sự kiện bỏ Khe Sanh được công luận Mỹ nhìn nhận một cách “đầy ngờ vực và hoang mang”. Lầu Năm Góc ghi nhận việc công bố quyết định bỏ Khe Sanh là “một sứ mạng khó khăn về phương diện tuyên truyền”. Chỉ trước đó 4 tháng, Tổng thống Mỹ là Johnson đã từng tuyên bố “sẽ giữ Khe Sanh bằng mọi giá” [2], rồi 2 tháng trước, chính phủ Mỹ đã tuyên bố “chiến thắng” và “Khe Sanh đã được giải vây”. Nay việc “lặng lẽ rút lui” đã bị lộ, đó sẽ là một đòn mạnh giáng vào uy tín của quân đội Mỹ, cũng như làm phong trào phản chiến càng dâng cao.
Ngày 7 tháng 7, tờ Thời báo New York đưa tin từ Hồng Kông cho biết: 70% người châu Á tin rằng lý do Mỹ phải bỏ Khe Sanh là bởi họ đã bị đối phương đánh bại, và bác bỏ cách giải thích của Mỹ, theo đó việc bỏ Khe Sanh là do “tình hình về quân sự đã thay đổi”.[27]
Không giống như một số trận đánh khác, Khe Sanh đã chiếm được chú ý của truyền thông đại chúng và công luận ở Mỹ. 25% thời lượng phim chiếu trên chương trình truyền hình buổi tối trong tháng 2 và tháng 3 năm 1968 tường thuật tình hình ở Khe Sanh. Riêng kênh CBS, tỷ lệ này là 50 phần trăm. Viện Gallup đưa ra số liệu, cứ 5 người thì 1 vừa chuyển từ lập trường ủng hộ sang chống chiến tranh trong khoảng cuối tháng 2, đầu tháng 3. Vì thế, “cách tốt nhất để làm cho Khe Sanh khỏi gây ảnh hưởng xấu đối với công chúng Mỹ là bỏ căn cứ này”. Vậy là, Khe Sanh đã trở thành nơi mà lần đầu tiên, Hoa Kỳ phải rút bỏ một căn cứ quân sự trọng yếu bởi áp lực của đối phương.[13]
Kết quả
Với Hoa Kỳ
Việc giữ vững căn cứ Khe Sanh cho đến tháng 4 năm 1968 có thể coi là một thành quả về mặt chiến thuật của Mỹ. Dù nhiều đơn vị bị thiệt hại nặng, song quân Mỹ không bị tiêu diệt hoặc bắt sống toàn bộ như Pháp ở Điện Biên Phủ. Song cái giá phải trả là không hề rẻ, với gần 7.500 binh sỹ Mỹ và đồng minh thương vong chỉ trong 77 ngày (chưa kể thương vong trong 3 tháng sau đó), quân đồn trú tại Khe Sanh mất gần 1/2 quân số. Tỉ lệ thương vong này của lính Mỹ còn cao hơn trong Thế chiến thứ hai.[27]
Cái giá quá đắt này khiến nhân dân Mỹ cảm thấy tức giận.[28] Hãng Reuter bình luận: “Khe Sanh được ghi vào lịch sử cuộc chiến tranh của Mỹ ở Nam Việt Nam như một nơi phải trả với giá đắt nhất bằng máu…”.
Cùng với tác động của chiến dịch Tết Mậu Thân, nhân dân Mỹ yêu cầu rút quân Mỹ về nước. Do đó, dù các tướng lĩnh Mỹ muốn tiếp tục bám trụ và thậm chí mở rộng căn cứ sang Lào, câu trả lời của Quốc hội là “Không”.[28] Cuối cùng, số phận của căn cứ được định đoạt khi các chính trị gia Mỹ không muốn đánh cược vận mệnh của hàng nghìn lính Mỹ một lần nữa, bởi nó sẽ dẫn tới một thảm họa chiến lược như trận Điện Biên Phủ đã gây ra cho Pháp. Họ quyết định phá hủy và rút khỏi Khe Sanh, chấm dứt vai trò chiến lược của nó. Mỹ mở Chiến dịch Scotland II tổ chức cho lính Mỹ rút khỏi Khe Sanh khi đó vẫn còn bị vây lỏng bởi 2 sư đoàn QĐNDVN. Quân Mĩ tiếp tục bị truy kích trên đường rút lui.
Với Quân đội Nhân dân Việt Nam

Tượng đài Chiến Thắng Khe Sanh.JPG
Trải qua 170 ngày đêm vây lấn Khe Sanh, QĐNDVN tuyên bố đã đánh thiệt hại nặng Quân đoàn III TQLC và Sư đoàn Không Kỵ số 1 Mỹ, diệt 11.900 quân Mĩ và VNCH (trong đó có hơn 10 ngàn lính Mỹ), phá hủy 197 máy bay, 78 xe tăng – xe thiết giáp, 46 khẩu pháo, 50 kho đạn, giải phóng một địa bàn rộng lớn phía tây tỉnh Quảng Trị với 1 vạn dân, phá vỡ một mảng tuyến phòng ngự thép ngăn chặn ở địa đầu Nam Việt Nam. Thông báo của Bộ tư lệnh Mặt trận QĐNDVN tuyên bố: “Sau 170 ngày đêm chiến đấu liên tục, vô cùng anh dũng và quyết liệt, quân giải phóng Mặt trận Khe Sanh đã chiến thắng oanh liệt, đập tan một ý đồ ngông cuồng và ngoan cố của giặc Mỹ tại chiến trường Đường 9 – Bắc Quảng Trị, buộc chúng phải chịu thất thủ Khe Sanh”.[29]
Khi xét về mục tiêu chiến dịch, QĐNDVN đã hoàn thành cả 2 mục tiêu, thậm chí coi như đã hoàn thành mục tiêu thứ 3 là giành quyền kiểm soát đối với Khe Sanh, mặc dù điều này đã không còn nhiều ý nghĩa về chiến thuật khi phía Mỹ đã chủ động rút quân và phá hủy căn cứ. Về mặt chiến lược, kế hoạch xây dựng Hàng rào điện tử McNamara nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh của Hoa Kỳ coi như phá sản. Đây là cơ sở để QĐNDVN coi đây là một thắng lợi chiến lược to lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện khen: “…thắng lợi Khe Sanh tỏ rõ mưu lược và sức mạnh vô địch của quân, dân và cán bộ ta, góp phần vào thắng lợi to lớn của toàn miền Nam… mở đường cho những thắng lợi to lớn hơn nữa…”. Sau chiến dịch, Sư đoàn 304 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì; các trung đoàn đều được tặng thưởng Huân chương, 1.482 cán bộ, chiến sĩ được tặng Huân chương; 2 đồng chí được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.[30]
Đây là lần đầu tiên QĐNDVN dàn quân ở cấp sư đoàn đối mặt với quân Mỹ. Tuy phải chịu thương vong cực lớn do hỏa lực của Mỹ, đặc biệt là bom B-52 rải thảm, song họ cũng gây thiệt hại nặng tương đương cho các lực lượng tinh nhuệ bậc nhất của Hoa Kỳ là Thủy quân Lục chiến, Không Kỵ và lực lượng dân vệ CIDG. Đây là thành tích đáng khích lệ đối với QĐNDVN, khi họ là bên tấn công và hoàn toàn lép vế về hỏa lực.
Với việc Mỹ bỏ Khe Sanh, Hàng rào điện tử McNamara coi như cáo chung. Kế hoạch chiến lược mà Mỹ đang xây dựng nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh coi như phá sản. Từ đây về sau, không còn căn cứ nào có thể uy hiếp trực tiếp tuyến đường cùng dòng hàng đưa ra tiền tuyến. QĐNDVN nhanh chóng tận dụng kết quả thu được: Từ cuối năm 1968, thêm một tuyến đường Trường Sơn được mở, thường gọi là đường Trường Sơn đông để phân biệt với các tuyến ở phía Tây. So với các tuyến phía Tây, đường Trường Sơn đông ngắn hơn và ít khúc khuỷu hơn, nên việc đưa hàng hóa và bộ đội vào miền Nam nhanh hơn đáng kể.
Do đó có thể nói trận Khe Sanh là bàn đạp cho các chiến dịch lớn của QĐNDVN sau này (chiến dịch Hạ Lào, chiến dịch Hè 1972…), và cuối cùng là chiến dịch quyết định Xuân 1975, đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Mở đường cho những thắng lợi to lớn hơn nữa…”.
Xem thêm
Hình ảnh
Chú thích
- ^ Kelley, Michael P. Where We Were In Vietnam. Hellgate Press, 2002 p. 5. ISBN 1-55571-625-3
- ^ a b http://www.presidentprofiles.com/Kennedy-Bush/Lyndon-B-Johnson-The-final-days.html Lyndon B. Johnson – The final days
- ^ The Withdrawal from Khe Sanh ” HistoryNet – From the World’s Largest History Magazine Publisher
- ^ Shore, Moyars S., III (1969). The Battle of Khe Sanh. Washington DC: U.S. Marine Corps Historical Branch. P.90
- ^ Gordan L Rottman, Osprey Campaign 150: The Khe Sanh 1967-68, p. 51
- ^ a b Gordan L Rottman, Osprey Campaign 150: The Khe Sanh 1967-68, p. 91-92
- ^ John A. Cash, John Albright & Allan W. Sandstrum (1985). Seven Firefights in Vietnam. Washington D.C: The Center of Military History, p.137
- ^ Số liệu thấp thường được đưa ra của Mỹ (205 chết, 443 bị thương, 2 mất tích) không bao gồm thương vong của Lục quân và Không quân Mỹ trong chiến dịch Pegasus. Prados and Stubbe, p. 454.
- ^ Về số lính bị bắt, xem thêm tại Trận Làng Vây
- ^ Tổng hợp báo cáo của MACV
- ^ TĐBKQS / Trung tâm TĐBKQS – BQP – Hà Nội: QĐND, 2004.
- ^ Tết Mậu Thân 68, bước ngoặc lớn của cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước-Hồ Khang p362. Thương vong tính chung mặt trận Đường 9 trong cả năm 1968: 3.966 chết, 450 mất tích, 6.868 bị thương trên khu vực Đường 9, trong đó khoảng 80% là từ tháng 1 đến hết tháng 7
- ^ a b c d e f http://www.historynet.com/battle-of-khe-sanh-recounting-the-battlescasualties.htm/4
- ^ http://www.pbs.org/battlefieldvietnam/timeline/index2.html
- ^ . Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy (Nguyên Trung đoàn phó Trung đoàn 9, Sư đoàn 304)
- ^ Morocco, John (1984). Thunder from Above: Air War, 1941–1968. Boston: Boston Publishing Company. ISBN 0-939526-09-3. P. 52
- ^ a b http://phapluattp.vn/20130202045251944p0c1112/mau-than-1968-45-nam-nhin-lai-bai-3-nghi-binh-khe-sanh.htm
- ^ Westmoreland, William C. (1976). A Soldier Reports. New York: Doubleday. ISBN 0-385-00434-6. p. 252
- ^ Prados, John; Stubbe, Ray (1991). Valley of Decision: The Siege of Khe Sanh. Annapolis MD: Naval Institute Press. ISBN 0-395-55003-3.
- ^ a b c d e f http://www.vva.org/veteran/0807/khesanh.html
- ^ Chân trần chí thép. James Zumwalt. NXB tổng hợp TP. HCM. Trang 87
- ^ Lịch sử Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam 1945- 1975. NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội 1980. tr225
- ^ Mai-cơn Mắc-li-a (Michael McClear). Việt Nam – Cuộc chiến tranh mười nghìn ngày, Nxb Hà Nội l990, tr.148
- ^ Gordan L Rottman, Osprey Campaign 150: The Khe Sanh 1967-68, p. 10
- ^ Prados, John; Stubbe, Ray (1991). Valley of Decision: The Siege of Khe Sanh. Annapolis MD: Naval Institute Press. ISBN 0-395-55003-3. P. 405
- ^ Tom Carhart: Battles And Campaigns In Vietnam, tr.129
- ^ a b http://www.historynet.com/the-withdrawal-from-khe-sanh.htm/7
- ^ a b Battlefield Vietnam: Episode 8: Siege at Khe Sanh
- ^ Thông báo của Bộ tư lệnh Mặt trận B5 ngày 11 tháng 7 năm 1968, dẫn theo Sư đoàn Quân tiên phong, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1979, tr. 111
- ^ Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy (Nguyên Trung đoàn phó Trung đoàn 9, Sư đoàn 304)
Liên kết ngoài
Thể loại:
Khe Sanh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tượng đài Chiến Thắng Khe Sanh
Khe Sanh còn là tên gọi dân gian của một điểm tại km 113, tỉnh lộ 105 của tỉnh
Sơn La, thuộc địa phận huyện
Sốp Cộp
Khe Sanh là một thị trấn của Việt Nam, huyện lỵ của huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, cách Đông Hà 63 km về phía Tây, cách cửa khẩu Lao Bảo 20 km về phía Đông. Khe Sanh được cả thế giới biết đến như là “Trận Điện Biên Phủ thứ hai” hay là chốn “địa ngục trần gian” theo cách nghĩ của lính Thuỷ quân Lục chiến Hoa Kỳ qua trận đánh Khe Sanh 1968 lịch sử.
Vị trí chiến lược
Khe Sanh có một vị trí chiến lược rất quan trọng, vì thế quân đội Mỹ đã thiết lập căn cứ Khe Sanh (tại Khe Sanh) với hy vọng sẽ ngăn chặn được sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam của Quân đội Nhân dân Việt Nam và sẽ cắt được đường mòn Hồ Chí Minh.
Khe Sanh nằm trong một thung lũng đất đỏ cao hơn mặt nước biển 400 m. Năm 1965–1966, Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã xây dựng Khe Sanh thành cứ điểm lớn nhất trong tuyến phòng thủ đường 9. Đây là một trong ba “mắt thần” (Khe Sanh, Làng Vây và Tà Cơn) của hàng rào điện tử McNamara. Tại Khe Sanh đã diễn ra những trận đánh lớn trong chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh năm 1968, chiến dịch Đường 9 – Nam Lào năm 1971.
Khe Sanh là một địa điểm được nhắc đến trong một vài bài hát Việt Nam và cũng là tựa đề của một bài hát về những đắng cay mà lính Úc đã phải chịu đựng ở khu quân sự này của nhóm nhạc rock Cold Chisel (dù đã có rất ít binh lính nước này tham chiến tại Khe Sanh suốt trong thời gian họ ở Việt Nam). Trong bài diễn văn tại lễ nhậm chức ngày 20/1/2009, Tổng thống Mỹ Obama cũng đã nhắc đến Khe Sanh như một hành động vinh danh những người Mỹ hy sinh vì nước.
Vị thế lịch sử:
Hàng rào điện tử MCNamara, chiến dịch đường 9-khe sanh:
Địa danh này được biết đến với hệ thống hàng rào điện tử McNamara– hệ thống các phương tiện điện tử phát hiện các thâm nhập được quân đội Mỹ sử dụng dọc theo khu phi quân sự ở Vĩ tuyến 17 và đường mòn hồ chí minh như một biện pháp trinh sát mặt đât. Nhằm phát hiện các hoạt động vận chuyển của quân đội nhân dân việt nam lưu thông qua khu vực này trong thời kỳ chiến tranh việt nam. Tuy nhiên công trình đã phá sản từ sau năm 1968, sau khi quân đội nhân dân việt nam mở cuộc Tổng tiến công Mậu Thân và cuộc tấn công căn cứ khe Sanh
TRận Khe Sanh: hay còn gọi là chiến dịch đường 9-khe sanh kéo dài 4 đợt chính (căn cứ theo lịch sử việt nam)
Đợt 1 (20/1-07/02) Quân đội nhân dân Việt nam diệt cứ điểm Làng Vây (một cứ điểm của quân đội Mỹ đóng tại địa bàn Khe Sanh)
Đợt 2 (08/02-31/03): Chiến dịch phát triển vây lấn và tấn công vào căn cứ Khe Sanh. Đánh chặn 1 số trận khác chặn lực lượng Mỹ ứng cứu cho Khe Sanh
Đợt 3 (01/4-30/4) : đnhá quân mỹ ứng cứu, giải tỏa các khu vực lân cận, triệt phá giao thông trên đường 9
Đợt 4 (08/5-15/07): Chặn đánh quân đội Mỹ rút chạy khỏi Khe Sanh
Theo đánh giá thì mục đích chủ yếu của Quân đội Nhân Dân Việt Nam khi tiến đánh vào Khe Sanh nhằm đánh lạc hướng cho các hướng tiến công chính trong chiến dịch tết mậu thân 1968, vì Vị trí của Khe Sanh là điểm neo của quân đội Mỹ trong đợt uy hiếm đường Hồ Chí Minh và bảo vệ vùng chiến thuật. Đây là trung tâm chỉ huy của hàng rào điện tử MCNamara. Khe Sanh được MỸ xây dựng một tập đoàn phòng thủ khá mạnh, kiên cố, đan xen nhau. Gồm cứ điểm Làng Vây, chi khu Hướng Hoa, cụm cứ điểm phòng ngự sân bay Tà Cơn
Trận đánh Khe Sanh được xem như là “Trận điện Biên Phủ thứ 2” có khả năng thay đổi cuộc chiến tranh tại Việt Nam, cơ bản vì hai trận đánh có nhiều điểm tương đồng nhau:
-Khe Sanh và Điện Biên Phủ đều tiếp giáp với biên giới Việt-Lào, địa hình hiểm trở
-Về tính chất thì cả hai tận đều thu hút được tâm điểm của báo chí nước ngoài, gây sức ép cho đối phương
Khí hậu và địa lý:
Địa thế núi rừng Hướng Hoá rất đa dạng. Núi và sông xen kẽ nhau, tạo thành địa hình chia cắt, sông suối đều bắt nguồn từ núi cao. Khí hậu mang những nét điển hình của khí hậu nhiệt đới – gió mùa, quanh năm nóng ẩm, nhiệt độ trung bình năm 22 độ C, lượng mưa bình quân 2.262 mm/năm. Có thể chia ra 3 tiểu vùng khí hậu mạng những sắc thái khác nhau: Tiểu vùng khí hậu Đông Trường Sơn: gồm các xã nằm phía Bắc của huyện (Hướng Lập, Hướng Việt, Hướng Sơn, Hướng Linh), đây là vùng chịu ảnh hưởng rỏ nét của nhiệt đới gió mùa Đông Bắc. Nền nhiệt tăng cao vào mùa nóng và chịu ảnh hưởng của gió mùa tây nam khô nóng, nhiệt độ bình quân cả năm tương đối cao (24,9 độ C). Tiểu vùng khí hậu chuyển tiếp (giáp các xã Hướng Phùng, Hướng Tân, Tân Hợp, Tân Liên, Tân Lập, Húc, thị trấn Khe Sanh). Là vùng chịu ảnh hưởng của chế độ khí hậu giao thoa giữa Đông và Tây Trường Sơn. Nền khí hậu tương đối ôn hoà trong năm, mang sắc thái á nhiệt đới, nhiệt độ bình quân cả năm là 22 độ C. Đặc biệt, thị trấn Khe Sanh nằm ở giữa đỉnh Trường Sơn nên có khí hậu khá lý tưởng, là lợi thế cho phát triển du lịch và nghỉ dưỡng. Tiểu vùng khí hậu Tây Trường Sơn: còn lại nằm ở phía Tây nam của huyện. Là vùng chịu ảnh hưởng rõ nét của chế độ khí hậu nhiệt đới với nền nhiệt cao hầu như quanh năm, nhiệt độ trung bình năm là 25,3 độ C. Các tiểu vùng khí hậu đã tạo cho huyện Hướng Hoá là vùng có tài nguyên khí hậu đa dạng, đây thực sự là một trong những thế mạnh để phát triển nội lực và thu hút đầu tư vào địa bàn. Đất đai chủ yếu có hai loại: cát pha và đất đỏ bazan, thuận lợi cho việc phát triển nông – lâm nghiệp. Tài nguyên rừng và khoáng sản phong phú, có tiềm năng khai thác lâu dài. Nguồn nước dồi dào từ những con sông: Sê Păng Hiêng, Sê Pôn, Rào Quán và hệ thống ao hồ, hàng trăm con suối, khe nhỏ, nước ngầm, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Đặc biệt, công trình Thuỷ lợi – Thuỷ điện Quảng Trị trên sông Rào Quán giá trị đầu tư trên 2000 tỷ đồng đã hoàn thành cung cấp điện cho Quảng Trị và hoà vào mạng lới điện Quốc gia với công Suất 64MW. Ngoài ra, công trình thuỷ điện Hạ Rào Quán và thuỷ điện La La đang xây dựng sẽ hoàn thành trong nay mai, tạo điều kiện phát triển điện lưới trên địa bàn huyện nói riêng và tỉnh nhà nói chung, đồng thời tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp của bà con tại huyện.
Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi cộng với tiềm năng từ cửa khẩu và Khu vực khuyến khích phát triển kinh tế thương mại Đặc biệt Lao Bảo (gọi tắt là Khu thương mại Đặc biệt Lao Bảo), là đầu mối thông thương với các nước nằm trên tuyến đường xuyên á và Khu vực Miền Trung của Việt Nam… Hướng Hoá đã và đang là một trong những địa phương có vị thế đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Trị.
Đơn vị hành chính:
Hướng Hoá là huyện miền núi, vùng cao, biên giới nằm về phía Tây của tỉnh Quảng Trị, là một trong 10 đơn vị hành chính của tỉnh. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Bình, phía Nam và Tây giáp nớc Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, phía Đông giáp với huyện Do Linh, Vĩnh Linh và Đakrông. Toàn huyện có 22 đơn vị hành chính trong đó 20 xã và 02 thị trấn (Khe Sanh và Lao Bảo) (trong đó có 13 xã đặc biệt khó khăn; 11 xã giáp biên với Lào), có cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo nằm trên trục đường Quốc lộ 9 nối liền với các nước trong khu vực: Lào, Thái Lan, Mianma và Khu vực Miền Trung Việt Nam. Có đường biên giới dài 156km tiếp giáp với 3 huyện bạn Lào. Diện tích tự nhiên toàn huyện là:1150,86km2, dân số đến cuối năm 2013 là: 82 nghìn người, Có 03 dân tộc sinh sống chủ yếu là: Pa Kô, Vân Kiều, Kinh.
Cây cà phê thời hoàng kim và bấp bênh giá cả:
Khe Sanh trở thành một địa danh gắn liền với cây cà phê cách đây hơn 100 năm tại Quảng Trị, khi có các đồn điền do người Pháp lập ra. Và cho đến nay, cà phê khe sanh vẫn nổi tiếng thơm ngon đặc biệt. Đến năm Năm 1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định quy chế khuyến khích phát triển kinh tế và thương mại Lao Bảo với mục đích đưa Quảng Trị đi lên. Từ đó quy hoạch, định hướng đã được lấp với vùng đất phủ rộng bao gồm thị trấn Lao Bảo, thị trấn Khe Sanh cùng các xã: Tân Thành, Tân Long, Tân Lập, Tân Liên, Tân Hợp huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Từ đó cà phê khe sanh lại càng ngụt ngàn hơn.
Toàn huyện Hướng Hóa có khoảng 5.000 ha cà phê (chủ yếu là cà phê chè), được trồng tại Khe Sanh, Hướng Phùng, Hướng Tân, Pa Tầng… Thời hoàng kim của cà phê vùng này là vào khoảng những năm 2004 – 2008, khi giá cà phê từ 13.000 – 14.000 đồng/kg và chưa bao giờ xuống dưới 10.000 đồng/kg. Năm nào người trồng cà phê cũng lãi đậm.
Nhưng sau giai đoạn đó đến nay, người trồng cà phê có nằm mơ cũng không bán cà phê được với mức giá trên. Đặc biệt, từ năm 2011 đến nay, giá cà phê trung bình ít khi vượt mức 7.000 đồng/kg. Mùa vụ giữa năm 2012, người trồng cà phê ở Hướng Hóa một phen méo mặt vì cà phê đã mất mùa lại còn rớt giá. Nhiều nông dân cho hay, chưa có năm nào năng suất lại xuống thấp như năm đó vì thời tiết không thuận lợi, bệnh khô cành, rệp sáp, sâu đục thân hoành hành. Vì thế, giá cà phê chỉ từ 6.000 – 7.000 đồng/kg, thu nhập chỉ đủ để trả tiền phân bón, nhân công…
Đến niên vụ 2013, tình hình càng tồi tệ hơn bởi dù được mùa (năng suất đạt 15 tấn/ha) nhưng giá rớt thảm hại, còn có 3.000 đồng/kg. Có mặt tại các vườn cà phê Hướng Hóa vào thời điểm đó, chúng tôi ghi nhận một không khí hết sức ảm đạm, bởi dù cà phê chín đỏ vườn, nhưng chủ vườn không thèm hái. Chủ tịch Hội Nông dân H.Hướng Hóa, đã phải kêu gọi: “Cái cần nhất bây giờ là mong các nông dân cố gắng bám trụ, đừng vội vàng buông tay với cây cà phê”.
Tuy nhiên, tới năm 2014 và đầu năm nay, đã có không ít người… buông tay. Một số không buồn chăm sóc vườn cây cà phê, trái chín rộm cũng không gọi người hái. Một số thẳng tay chặt bỏ hết cà phê để chuyển sang trồng tiêu, sắn và các loại hoa màu khác.
Song cà phê khe sanh vẫn đang trên đà phát triển và giữ vững thương hiệu cho mình
Một số xí nghiệp, công ty sản xuất rang xay cà phê khe sanh:
– Tập đoàn Thái hòa và Công ty cổ phần Thái Hòa Quảng TRị (THAI HOA QUANG TRỊ,.JSC) Cụm Công Nghiệp, Thị trấn Lao Bảo, Huyện Hướng Hoá, Quảng Trị MST: 3200180940 Giấy phép kinh doanh: 3200180940
– Công ty cà phê dịch vụ đường 9 – địa chỉ : khóm 4 thị trấn khe sanh huyện hướng hóa, Quảng Trị- MST:3780015
– Công ty đầu tư cà phê dịch vụ đường 9 –địa chỉ : khóm 4 tt khe sanh huyện hướng hóa, Quảng Trị -MST: 3880573
– Nông trường cà phê khe sanh – địa chỉ : khóm 1 thị trấn khe sanh huyện hướng hóa, Quảng Trị-MST: 3880728
– Công Ty Khesaca – Địa chỉ : 49 Nguyễn Hoàng, Khóm 3, Thị trấn Hải Lăng, Quảng Trị – Số đt: 0948 754 999
Hình ảnh
Chú thích
Xem thêm
Vladimir Ilyich Lenin
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vladimir Ilyich Lenin
Владимир Ильич Ленин |

Lê-nin năm 1920 |
Chủ tịch Hội đồng Dân ủy Liên Xô |
Nhiệm kỳ |
30 tháng 12 năm 1922 – 21 tháng 1 năm 1924 |
Kế nhiệm |
Alexey Rykov |
Chủ tịch Hội đồng Dân ủy Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga |
Nhiệm kỳ |
8 tháng 11 năm 1917 – 21 tháng 1 năm 1924 |
Kế nhiệm |
Alexey Rykov |
Lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô |
Nhiệm kỳ |
17 tháng 11 năm 1903 – 21 tháng 1 năm 1924 |
Kế nhiệm |
Joseph Stalin |
Tiểu sử |
|
Đảng |
Đảng Cộng sản Liên Xô |
Sinh |
22 tháng 4 năm 1870
Simbirsk, Đế quốc Nga |
Mất |
21 tháng 1 năm 1924 (53 tuổi)
Gorki, Liên Xô |
Quốc tịch |
Liên Xô |
Tôn giáo |
Không |
Hôn nhân |
Nadezhda Krupskaya (Наде́жда Константи́новна Кру́пская) |
Chữ kí |
 |
Vladimir Ilyich Lenin (tiếng Nga: Влади́мир Ильи́ч Ле́нин, phiên âm tiếng Việt: Vla-đi-mia I-lích Lê-nin), tên khai sinh là Vladimir Ilyich Ulyanov (tiếng Nga: Влади́мир Ильи́ч Улья́нов), còn thường được gọi với tên V. I. Lenin hay N. Lenin, có các bí danh: V.Ilin, K.Tulin, Karpov…; sinh ngày 22 tháng 4 năm 1870, mất ngày 21 tháng 1 năm 1924; là một lãnh tụ của phong trào cách mạng vô sản Nga, là người phát triển học thuyết của Karl Marx (1818 – 1883) và Friedrich Engels.
Ông sinh tại làng Gorki, Simbirsk, nay là Ulyanovsk. Tên họ thật là Vladimir Ilyich Ulyanov. Lenin là người tổ chức Đảng Cộng sản Liên Xô và thành lập nước Nga Xô Viết.
Ông được tạp chí Time coi là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất đến lịch sử thế giới.[1][2]
Ông mất tháng 1 năm 1924, thi hài được lưu giữ trong lăng Lênin trên Quảng trường Đỏ, Moskva.
Tuổi trẻ
Vladimir Ilyich Ulyanov (Lenin) khoảng năm 1887
Lenin sinh tại Simbirsk, Nga (hiện là Ulyanovsk), là con trai thứ ba trong gia đình tương đối đầm ấm[3] của vợ chồng Ilya Nikolaevich Ulyanov (1831–1886), một viên chức dân sự Nga làm việc để mở rộng dân chủ và giáo dục đại chúng miễn phí ở Nga, và Maria Alexandrovna Ulyanova (1835–1916), một người theo chủ nghĩa tự do. Lênin là người có dòng máu lai từ thời tổ tiên. Là người Nga nhưng ông có dòng máu của người Kalmyk qua ông nội, của người Đức Volga qua bà ngoại (là một người theo thuyết Luther), và của người Do Thái qua ông ngoại (người đã cải theo Ki-tô giáo). Lênin được rửa tội trong Nhà thờ Chính Thống giáo Nga.
Lenin nổi tiếng học giỏi tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạp. Hai bi kịch đã xảy ra trong thời niên thiếu của ông. Lần đầu khi cha ông qua đời vì xuất huyết não năm 1886. Tháng 5 năm 1887 anh cả của ông là Aleksandr Ilyich Ulyanov – một người theo phái “Dân ý”[4] – bị treo cổ vì tham gia vào một âm mưu ám sát Nga hoàng Aleksandr III. Sự kiện này đã làm Lenin trở thành người cấp tiến. Tiểu sử chính thức của ông thời Xô Viết coi sự kiện này có ảnh hưởng lớn tới các quá trình cách mạng của ông. Một bức tranh nổi tiếng của Belousov, Chúng ta sẽ đi theo một con đường khác, được in lại hàng triệu bản trong những cuốn sách thời Xô Viết, mô tả cậu bé Lenin và mẹ đang buồn bã khi mất người anh trai. Câu nói “Chúng ta sẽ theo một con đường khác” có nghĩa là Lenin đã lựa chọn chủ nghĩa Marx để tiếp cận tới cách mạng nhân dân, thay vì những phương pháp vô chính phủ cá nhân. Khi Lênin bắt đầu quan tâm tới chủ nghĩa Marx, ông tham gia vào các cuộc phản kháng của sinh viên và cuối năm đó bị bắt. Sau đó ông bị đuổi khỏi Đại học Kazan. Ông tiếp tục học tập một mình và tới năm 1891 đã có giấy phép hành nghề luật.
Tháng 7 năm 1898, ông cưới Nadezhda Krupskaya, một người hoạt động xã hội[5].
Cách mạng
Sau khi tốt nghiệp
Lenin, tháng 12 năm 1895 (ảnh lúc bị bắt)
Ngay khi tốt nghiệp, Lênin vào làm trợ lý cho một luật sư. Ông làm việc nhiều năm tại Samara, Nga, sau đó vào năm 1893 chuyển tới kinh đô Sankt-Peterburg. Thay vì tìm kiếm một công việc hợp pháp ổn định, ông ngày càng tham gia sâu vào các hoạt động tuyên truyền cách mạng và nghiên cứu chủ nghĩa Marx. Ngày 7 tháng 12 năm 1895, ông bị nhà chức trách bắt giam 14 tháng sau đó trục xuất tới một làng tại Shushenskoye ở Xibia.
Tháng 4 năm 1899, ông xuất bản cuốn sách Sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản tại Nga[6], một cuốn sách khá đồ sộ.[7] Năm 1900, thời kỳ đi đày chấm dứt. Ông đi du lịch nước Nga và những nơi khác ở châu Âu. Lenin đã sống tại Zürich, Genève, München, Praha, Viên và Luân Đôn và trong khi bị đi đày ông đã sáng lập tờ báo Iskra. Ông cũng viết một số bài báo và cuốn sách về phong trào cách mạng. Trong giai đoạn này, ông đã bắt đầu sử dụng nhiều bí danh, cuối cùng lấy tên Lenin.
Ông hoạt động trong Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (RSDLP; РСДРП trong tiếng Nga), và vào năm 1903 ông lãnh đạo phái Bolshevik sau một sự chia rẽ với những người Menshevik, điều này xảy ra một phần từ cuốn sách nhỏ của ông Điều cần làm?[8] Năm 1906 ông được bầu làm Chủ tịch RSDLP. Năm 1907 ông tới Phần Lan vì những lý do an ninh. Ông tiếp tục đi du lịch châu Âu và tham gia vào nhiều cuộc gặp gỡ cũng như các hoạt động xã hội, gồm cả Hội thảo Đảng Praha năm 1912 và Hội thảo Zimmerwald năm 1915. Khi Inessa Armand rời Nga sang sống tại Paris, bà đã gặp Lênin và những người Bolshevik khác đang bị trục xuất, và được cho là đã trở thành một người cộng tác của Lenin trong thời gian đó. Sau đó Lenin đi sang Thụy Sĩ.
Richard Pipes cho rằng Lenin đã phân tích Công xã Paris và kết luận phong trào này thất bại vì “sự khoan hồng quá mức – đúng ra Công xã phải tiêu diệt những kẻ thù của mình”.[9] Tuy nhiên, cả câu trích dẫn, như Lenin đã nói trong một bài phát biểu đã được chuyển tới một cuộc gặp gỡ quốc tế tại Genève ngày 18 tháng 3 năm 1908, nhân ngày lễ kỷ niệm Công xã như sau: “Dù giai cấp vô sản xã hội đã bị chia rẽ thành nhiều phe, Công xã là một ví dụ cụ thể về sự đoàn kết để khi có nó giai cấp vô sản có thể hoàn thành các nhiệm vụ dân chủ mà giai cấp tư sản chỉ có thể tuyên bố ra. Không cần có một điều luật phức tạp đặc thù nào cả, một cách đơn giản, rõ ràng, giai cấp vô sản, khi đã nắm quyền lực, sẽ tiến hành dân chủ hóa hệ thống xã hội, xóa bỏ quan liêu và khiến cho mọi chức vụ nhà nước đều thông qua bầu cử. Hai sai lầm đã tiêu diệt thành quả của một chiến thắng vẻ vang. Giai cấp vô sản đã dừng lại nửa chừng; thay vì tiếp tục ‘chiếm đoạt của những kẻ chiếm đoạt,’ họ đã cho phép mình đi chệch hướng bởi những mơ ước về một sự công bằng tuyệt đối trong một đất nước thống nhất bởi một mục tiêu quốc gia; những định chế, như ngân hàng, đã không bị nắm giữ…. Sai lầm thứ hai là sự khoan dung quá đáng của giai cấp vô sản: đúng ra họ phải tiêu diệt các kẻ thù, nhưng thay vào đó họ lại gắng sức dùng đạo đức để gây ảnh hưởng tới chúng; họ đã bỏ qua tầm quan trọng của hoạt động quân sự thuần túy trong một cuộc nội chiến và thay vì tiếp tục tiến bước mạnh mẽ tới Versailles và giành lấy chiến thắng ở Paris, họ đã trì hoãn và do vậy cho phép chính phủ Versailles tập hợp các lực lượng của mình, chuẩn bị trước cho những sự kiện đẫm máu trong tuần lễ tháng 5.”[10]
Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ năm 1914, và các đảng Dân chủ Xã hội lớn tại châu Âu (khi đó họ tự coi họ là theo chủ nghĩa Mác), gồm cả những người có uy tín như Karl Kautsky, ủng hộ những nỗ lực chiến tranh của chính quyền nước mình, Lenin đã rất sửng sốt, đầu tiên từ chối tin rằng những người của Đảng Dân chủ Xã hội Đức đã bỏ phiếu ủng hộ chiến tranh. Điều này khiến ông bị chia rẽ lần cuối cùng với Đệ Nhị Quốc Tế, gồm các đảng đó.
Khác với quan điểm chung của người Mác-xít coi cách mạng ở Đức là quan trọng hơn ở Nga, ngày 17 tháng 10 năm 1914, Lenin viếtt: “Chủ nghĩa Nga Hoàng còn trăm lần xấu hơn chủ nghĩa Đức Hoàng.”. Ông lên án chủ nghĩa tư bản cả hai bên đã gây ra cuộc chiến, nhất là chủ nghĩa đế quốc Anh – Pháp.[11][12]
Sau Cách mạng Tháng Hai (1917)
Sau khi Cách mạng Tháng Hai năm 1917 giành thắng lợi tại Nga và Nga hoàng Nikolai II thoái vị, Lênin biết rằng ông cần sớm trở lại nước Nga. Nhưng ông đã bị cô lập tại Thụy Sĩ trung lập khi Chiến tranh thế giới thứ nhất đang ở giai đoạn cao trào và không thể dễ dàng đi qua châu Âu. Tuy nhiên, Fritz Platten, một người cộng sản Thụy Sĩ đã tìm cách đàm phán với Chính phủ Đế quốc Đức để Lenin và những người của ông có thể đi bằng tàu hỏa kín qua nước Đức. Mọi người tin rằng chính Hoàng đế (Kaiser) Wilhelm II của Đức đã hy vọng Lenin sẽ gây ra tình trạng bất ổn chính trị ở Nga giúp ông chấm dứt chiến tranh tại Mặt trận phía Đông. Khi còn ở trên lãnh thổ Đức, Lênin không được phép ra khỏi đoàn tàu. Khi đã qua Đức, Lenin tiếp tục đi phà tới Thụy Điển và chặng đường xuyên Scandinavia còn lại đã được những người cộng sản Thụy Sĩ là Otto Grimlund và Ture Nerman thu xếp.
Theo báo Công an Nhân dân, có người cho rằng sự nghiệp cách mạng của ông đã nhận được sự giúp đỡ về tài chính từ đế quốc Đức. Họ cho rằng Lenin đã nhận được tiền bạc từ tay một nhà tư sản Đức tên là Parvus[13]. Thậm chí, sách The Return of the Kings của tác giả Thomas Purcell còn khẳng định Đức hoàng mong muốn tiêu diệt các Nga hoàng hùng mạnh và ủng hộ Lenin vì nhiều lý do, chẳng hạn Đức hoàng hy vọng Lenin sẽ hỗ trợ cho Đức trong cuộc chiến trên Mặt trận phía Tây sau khi Cách mạng thắng lợi và Mặt trận phía Đông chấm dứt. Cũng theo đó, nếu Đức hoàng không hỗ trợ Lenin thì có lẽ cuộc cách mạng vô sản sẽ thất bại[14]. Tuy nhiên, nghiên cứu của nhà sử học nổi tiếng người Nga Vladlen Loginov không có những tình tiết này. Theo ghi nhận trên giấy tờ, trong các năm 1915 – 1917, có đến ba lần Parvus tìm cách bắt liên lạc với Lenin, với mong muốn đưa tiền cho nhà cách mạng này. Thế nhưng, Parvus đã không thành công trong cả ba lần tìm cách bắt liên lạc nêu trên. Lenin đã phản hồi:[13]
“ |
Cách mạng cần được thực hiện bằng những bàn tay trong sạch. |
” |
— V. I. Lenin
|
Lênin cải trang đeo tóc giả và cạo nhẵn râu ở Phần Lan 11 tháng 8 năm 1917
Còn theo cuốn Lenin: A Revolutionary Life của tác giả Christopher Read, một cựu đảng viên Bolshevik là Grigorii Alexinsky đã tung tin các lãnh đạo Bolshevik, nhất là Lenin, là gián điệp của Đức. Nhiều người tin đây là thật, cũng như những câu chuyện phóng đại về “chuyến tàu đã định” cho Lenin qua Đức trong hành trình từ Thụy Sĩ về nước. Thực sự, dù người Đức có thể đã đút lót cho một số người Bolshevik, chắc hẳn Lenin không phải là gián điệp của Đức và không nhận lệnh từ Berlin. Người Đức và người Bolshevik đều mong muốn nỗ lực chiến tranh của Nga hoàng suy sụp, nhưng vì những lý do khác nhau. Lênin muốn nước Nga là bàn đạp của cách mạng, vậy không thể nào chung ý với Đức hoàng.[15]
Ngày 16 tháng 4 năm 1917, Lênin quay trở về thủ đô Petrograd và nhận vai trò lãnh đạo bên trong phong trào Bolshevik, xuất bản Luận cương tháng 4[16]. Luận cương tháng 4 kêu gọi kiên quyết phản đối chính phủ lâm thời. Ban đầu vì có sự không rõ ràng trong cánh tả Lenin giữ khoảng cách với đảng của ông. Tuy nhiên, lập trường kiên quyết này có nghĩa rằng những người Bolshevik đã trở thành lãnh đạo của quần chúng bởi vì họ không còn ảo tưởng ở chính phủ lâm thời, và nhờ sự xa hoa của phe đối lập những người Bolshevik đã không còn phải chịu trách nhiệm về bất cứ hậu của nào của việc áp dụng những chính sách của họ[17].
Trong khi ấy, Kerenskii và những người đối lập khác trong Bolshevik buộc tội Lenin là một điệp viên ăn lương của Đức. Trước lời buộc tội đó, một lãnh đạo khác là Lev Davidovich Trotsky đã có một bài phát biểu mang tính quyết định ngày 17 tháng 7, cho rằng:
“ |
Một không khí không thể chịu đựng nổi đang diễn ra, trong đó cả các bạn và tôi đều bị sốc. Người ta đang tung ra những lời buộc tội bẩn thỉu nhằm vào Lênin và Zinoviev… Lenin đã đấu tranh vì cách mạng trong ba mươi năm. Tôi đã chiến đấu hai mươi năm chống lại sự áp bức con người. Và chúng ta không thể là gì khác ngoài việc nuôi dưỡng lòng căm thù với chủ nghĩa quân phiệt Đức… Tôi từng bị một tòa án tại Đức kết án tám tháng tù vì tội đấu tranh chống chủ nghĩa quân phiệt Đức. Điều này tất cả mọi người đều biết. Đừng ai trong phòng này nói rằng chúng ta là những kẻ làm thuê của Đức. |
” |
— Lev Davidovich Trotsky[18]
|
Sau cuộc nổi dậy của công nhân
Sau cuộc nổi dậy bất thành của công nhân vào tháng 7, Lenin bỏ trốn tới Phần Lan. Ngày 24 tháng 10 theo lịch cũ Nga, tức ngày 6 tháng 11 năm 1917, ông viết: “Chính phủ sắp sụp đổ. Chúng ta phải giáng cho nó đòn chí mạng bằng mọi giá. Trì hoãn hành động là chết“. Cùng tháng, ông rời Phần Lan và trở lại nước Nga[19][20], phát động một cuộc cách mạng vũ trang với khẩu hiệu “Tất cả quyền lực về tay Xô Viết!” chống lại Chính phủ Lâm thời của Kerensky. Các ý tưởng về chính phủ của ông đã được thể hiện trong bài tiểu luận “Quốc gia và Cách mạng” [21], kêu gọi thành lập một hình thức chính phủ mới dựa trên các hội đồng công nhân hay các Xô viết. Trong tác phẩm này, ông cũng cho rằng, trên nguyên tắc, những người công nhân bình thường có thể điều hành một nhà máy hay một chính phủ. Dù ông nhấn mạnh rằng, để điều hành một quốc gia, người công nhân phải “học chủ nghĩa cộng sản.” Ông còn nhấn mạnh thêm rằng một thành viên chính phủ phải nhận đồng lương không được cao hơn lương một người công nhân tầm trung bình.
Chủ tịch chính phủ
Được bầu cử
Ngày 8 tháng 11, Lênin được Đại hội Xô viết Nga bầu làm Chủ tịch Hội đồng Dân ủy. Lênin nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đưa điện tới mọi vùng nước Nga và hiện đại hóa công, nông nghiệp. Ông rất quan tâm tới việc tạo ra một hệ thống chăm sóc sức khỏe miễn phí và toàn diện cho mọi người dân, giải phóng phụ nữ và dạy cho những người dân mù chữ Nga biết đọc, viết. Nhưng trước hết, chính phủ Bolshevik mới cần đưa nước Nga ra khỏi Thế chiến thứ nhất.
Đối mặt với mối đe dọa xâm lăng từ nước Đức, Lenin cho rằng Nga cần ngay lập tức ký kết một hiệp ước hòa bình. Những lãnh tụ Bolshevik khác, như Bukharin, ủng hộ tiếp tục tham chiến, coi đó là một biện pháp mang cách mạng tới nước Đức. Lev Davidovich Trotsky, người chỉ đạo các cuộc đàm phán, ủng hộ một lập trường trung gian, “Không Chiến tranh, Không Hòa bình”, kêu gọi chỉ ký hiệp ước hòa bình với điều kiện không một phần đất chiếm thêm được của bất kỳ bên nào được hợp nhất với lãnh thổ nước đó. Sau khi những cuộc đàm phán thất bại, Đức tấn công chiếm giữ nhiều vùng rộng lớn phía tây nước Nga. Sau các sự kiện mang tính bước ngoặt này, lập trường của Lenin được đa số ban lãnh đạo Bolshevik ủng hộ. Ngày 3 tháng 3 năm 1918, Lenin rút Nga ra khỏi Thế chiến thứ nhất khi đồng ý ký kết Hiệp ước Brest-Litovsk, theo đó nước Nga mất một phần lớn lãnh thổ tại Châu Âu. Đây được xem là thời điểm tệ nhất của lịch sử Nga trong vòng 200 năm, song với một đất nước bị tàn phá thì Lênin không còn cách nào khác ngoài việc chấp nhận những điều khoản ô nhục[22].
Sau khi những người Bolshevik thất bại trong cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến Nga, cùng với sự hậu thuẫn mạnh mẽ của đại đa số công nhân ở hai thành phố lớn là Petrograd và Moskva, họ đã sử dụng lực lượng Hồng vệ binh buộc cuộc họp lần thứ nhất của Quốc hội phải ngừng lại ngày 19 tháng 1[23]. Sau đó, những người Bolshevik đã tổ chức ra một tổ chức Phản-Quốc hội, Đại hội Xô viết thứ ba, cho phép họ và các đồng minh có được hơn 90% số ghế[24], cho rằng “chuyên chính vô sản” trước tiên là một đạo luật của chính giai cấp vô sản: “Tất nhiên, những người cho rằng có thể lấp đầy hố sâu ngăn cách giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, hay những người tưởng tượng rằng điều đó có thể thuyết phục đa số nhân dân rằng nó có thể xảy ra thông qua trung gian của Quốc hội Lập hiến – những người tin vào câu chuyện ngụ ngôn của tầng lớp tư sản dân chủ, có thể vô tình tin tưởng điều đó, nhưng hãy đừng để họ phàn nàn nếu cuộc sống lật tẩy câu chuyện ngụ ngôn này,” [25] và nói thêm rằng “lý do lớn nhất tại sao ‘những người xã hội chủ nghĩa’ (như, những người dân chủ tiểu tư sản) của Quốc tế Thứ hai không hiểu được sự chuyên chính vô sản là bởi họ không hiểu được rằng quyền lực nhà nước nằm trong tay một tầng lớp, tầng lớp vô sản, có thể và phải trở thành một phương tiện cho phe chiến thắng của tầng lớp vô sản của đông đảo nhân dân vô sản, một phương tiện để giành chiến thắng của tầng lớp đó trước giai cấp tư sản và những đảng tiểu tư sản.”[23]
Những người Bolshevik đã thành lập một chính phủ liên minh với Đảng Xã hội Cách mạng Nga cánh tả. Tuy nhiên, liên minh của họ đã tan vỡ sau khi Cách mạng Xã hội chủ nghĩa phản đối hiệp ước Brest-Litovsk, và họ gia nhập cùng với các đảng khác tìm cách lật đổ chính phủ Xô viết. Tình hình diễn biến theo chiều hướng xấu, các đảng không Bolshevik (gồm một số phái xã hội chủ nghĩa) tích cực tìm cách lật đổ chính phủ Bolshevik. Lênin phản ứng lại cách hành động đó bằng cách ngăn chặn các hoạt động của họ và bỏ tù một số thành viên các đảng đối lập.
Ủng hộ và phản đối
Dù Lenin đã ủng hộ và giúp đỡ thành lập một chế độ “Dân chủ Xô viết,” những người phản đối Lenin thuộc cánh hữu, như Kautsky, và thuộc cánh tả như Kollontai, vẫn cho rằng ông thủ tiêu sự giải phóng giai cấp vô sản và nền dân chủ (quyền kiểm soát của công nhân thông qua các Xô Viết hay các hội đồng công nhân). Có người cho rằng đây là hành động mở đường cho chủ nghĩa Stalin sau này. Dù nhiều cơ quan và chính sách do Stalin lập ra và sử dụng như cảnh sát mật, trại lao động, và việc hành quyết các đối thủ chính trị vốn bị chỉ trích nặng nề cũng đã được sử dụng dưới tới cầm quyền của Lenin, các kỹ thuật đó cũng thường được chế độ Nga hoàng sử dụng từ lâu trước thời Lenin, và cũng từ lâu đã là các phương tiện tiêu chuẩn để đối phó với bất đồng chính trị ở nước Nga. Tuy nhiên, theo Stephane Courtois mức độ sử dụng có khác nhau; số tù nhân chính trị bị hành quyết trong vài tháng đầu cầm quyền của phái Bolshevik lớn gấp ba lần con số đó trong 90 năm cầm quyền của chế độ Nga hoàng.[26] Tuy nhiên, “thực tế” này, hiện vẫn đang bị tranh cãi. Cũng cần nhớ rằng tỷ lệ các hoàn cảnh dẫn tới những phản ứng của người Bolshevik cũng khác rất xa: một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi một cuộc chiến tranh thế giới, một quần chúng thất học sau giai đoạn quân chủ chuyên chế, một lực lượng đối lập sẵn sàng hy sinh để lật đổ chính quyền Bolshevik,… Hơn nữa, Trotsky tuyên bố rằng một “con sông máu” chia tách Lenin khỏi những hành động của Stalin bởi vì Stalin đã hành quyết nhiều đồng chí cũ của Lênin cũng như những người ủng hộ họ, trong nhóm Đối lập cánh Tả. Trong số này có cả chính Trotsky.
Quan điểm của những người theo chủ nghĩa Lenin về cách mạng đòi hỏi một bộ máy cán bộ cách mạng chuyên nghiệp vừa có nhiệm vụ chỉ huy đại chúng trong cuộc đấu tranh giành quyền lực và tập trung hóa kinh tế cũng như quyền lực hành chính vào tay một đất nước của công nhân. Từ mùa xuân năm 1918, Lenin đã vận động đặt những cá nhân có trách nhiệm vào cương vị đứng đầu mỗi nhà máy, trái ngược lại hầu hết các quan điểm về sự tự quản của công nhân, nhưng hoàn toàn cần thiết cho hiệu quả sản xuất và về mặt chuyên môn. Như S.A. Smith đã viết: “Tới cuối cuộc nội chiến, không có nhiều nhà máy hoạt động theo những hình thức dân chủ trong quản lý công nghiệp như kiểu các hội đồng nhà máy từng được cổ động trong năm 1917, nhưng chính phủ cho rằng điều này không phải là vấn đề bởi vì nền công nghiệp đã dựa trên sự sở hữu của một quốc gia công nhân.” Trong cuộc nội chiến, dân chủ không phải được tập trung bên trong đảng Bolshevik và sau này là Bộ Chính trị của Đảng cộng sản Liên Xô.
Để bảo vệ chính phủ Bolshevik mới thành lập trước những kẻ phản cách mạng, chính quyền của Lenin đã tạo ra lực lượng cảnh sát mật, Cheka, ngay sau cuộc cách mạng. Những người Bolshevik đã lập kế hoạch tổ chức một phiên tòa xét xử Hoàng đế Nikolai II vì những tội ác chống lại nhân dân Nga, nhưng vào tháng 8 năm 1918 khi Bạch vệ tiến về Yekaterinburg (nơi gia đình Nikolai II đang bị cầm giữ), Sverdlov đã nhanh chóng ra quyết định hành quyết Nikolai II và cả gia đình để quân Bạch vệ không thể giải thoát cho họ. Sau này Sverdlov đã thông báo với Lenin về vụ hành quyết, Lenin đồng ý rằng đó là một quyết định đúng đắn, bởi vì những người Bolshevik không muốn để Hoàng gia trở thành một biểu tượng của Bạch vệ. Tuy nhiên, có những nhà sử học người Nga đã cho biết, ông không tán thành với việc những người Bolshevik hành hình Nikolai II, vì ông cho rằng sau khi chế độ quân chủ không còn nữa, Nga hoàng nên được đưa ra tòa án để xét xử. Cháu gái Lenin – Olga Ulianova cũng nói: “Bác Volodya làm cách mạng Bolshevic không phải để giết vua Nga. Lenin chỉ muốn thay thế hệ thống tư bản chủ nghĩa ở nước Nga bằng chế độ xã hội chủ nghĩa”.[27]
Lenin trong văn phòng ở điện Kremli, năm 1918
Vụ ám sát và phản ứng của chính phủ
Ngày 30 tháng 8 năm 1918, Fanya Kaplan, một thành viên của Đảng Xã hội Cách mạng Nga, tiếp cận Vladimir Ilyich Lenin sau khi ông tham dự một buổi mít-tinh và đang quay ra xe hơi. Kaplan gọi tên Lenin, ông quay lại trả lời. Bà ngay lập tức bắn ba phát, hai phát trúng Lenin ở khuỷu tay và lưng. Lenin được đưa về căn hộ tại Kremli, từ chối tới bệnh viện bởi ông tin rằng những kẻ ám sát khác đang rình rập ở đó. Các bác sĩ được triệu tới, nhưng cho rằng sẽ là quá nguy hiểm nếu lấy viên đạn ra. Sau này Lenin đã hồi phục dù sức khỏe của ông bắt đầu giảm sút từ thời điểm đó. Mọi người cho rằng vụ ám sát có liên quan tới những cơn đột quỵ sau này của ông.
Chính phủ Bolshevik phản ứng lại vụ ám sát, và những sự tập hợp nỗ lực chống cộng từ các đối thủ của họ bằng cái họ gọi là Khủng bố Đỏ. Hàng chục nghìn người bị coi là kẻ thù của cách mạng, nhiều người bị hành quyết hay tống vào các trại lao động vì có âm mưu chống lại chính phủ Bolshevik.[28]
Theo Orlando Figes, Lenin luôn ủng hộ “sự khủng bố số đông chống lại những kẻ thù cách mạng” và luôn bày tỏ quan điểm rằng nhà nước vô sản là một hệ thống bạo lực được tổ chức chống lại những tổ chức của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên theo Figes, trong khi được những người Bolsheviks khuyến khích, sự khủng bố có gốc rễ trong sự giận dữ của nhân dân chống lại tầng lớp ưu thế. (A Peoples Tragedy, trang 524-525) Vào cuối năm 1918 khi Kamenev và Bukharin tìm cách kìm chế những “sự thái quá” của Cheka, chính Lenin là người đã đứng ra bảo vệ tổ chức này. (Figes trang 649) Tuy nhiên, mức độ của cái gọi là “những sự thái quá,” cũng như những lý do của Lenin ẩn giấu sau sự bảo vệ đó không hề được nêu tên.
Tháng 3 năm 1919, Lenin và các lãnh đạo Bolshevik khác gặp gỡ với các nhà cách mạng xã hội chủ nghĩa từ khắp nơi trên thế giới và lập ra Quốc tế Cộng sản. Các thành viên của Quốc tế Cộng sản, gồm Lenin và cả những người Bolshevik ngừng quan hệ với phong trào xã hội chủ nghĩa ở tầm vóc rộng lớn hơn. Từ đó trở về sau, họ sẽ được gọi là những người cộng sản. Tại Nga, Đảng Bolshevik được đổi tên thành “Đảng Cộng sản Nga (bolshevik)”, (sau này thành Đảng Cộng sản Liên Xô).
Trong lúc ấy cuộc nội chiến lan tràn khắp nước Nga. Nhiều phong trào chính trị và những người ủng hộ họ đứng lên cầm vũ khí nhằm lật đổ chính phủ Xô viết. Dù có nhiều phe cánh tham gia cuộc nội chiến, hai lực lượng chính là Hồng quân (bolshevik) và Bạch vệ (phe ủng hộ chế độ quân chủ). Các cường quốc bên ngoài như Pháp, Anh, Hoa Kỳ và Nhật Bản cũng can thiệp vào cuộc chiến tranh này (đứng bên phía Bạch vệ). Cuối cùng, đội quân được tổ chức tốt và có hiệu quả hơn là Hồng quân, do Trotsky chỉ huy, đã giành chiến thắng, đánh bại các lực lượng Bạch vệ và đồng minh của họ năm 1920. Tuy nhiên, những cuộc chiến ở tầm nhỏ hơn vẫn tiếp tục trong nhiều năm nữa.
Những tháng cuối năm 1919, các chiến thắng giành được trước Bạch vệ khiến Lenin tin rằng đã tới thời điểm mở rộng cách mạng sang phía tây, bằng vũ lực nếu cần thiết. Khi nền Cộng hòa Ba Lan thứ hai mới được thành lập bắt đầu đòi lại những vùng lãnh thổ đã bị nước Nga sáp nhập trong vụ phân chia Ba Lan vào cuối thế kỷ 18, họ đã xung đột với các lực lượng Bolshevik để giành quyền kiểm soát các vùng này, dẫn tới sự bùng nổ Chiến tranh Ba Lan-Xô viết năm 1919. Với sự phát triển của cách mạng tại Đức và Liên đoàn Spartacus, Lenin coi đó là thời điểm và địa điểm chín muồi nhất để “thăm dò Châu Âu bằng những lưỡi lê Hồng quân.” Lenin coi Ba Lan là cây cầu nối mà Hồng quân có thể dùng để kết nối cách mạng Nga với những người ủng hộ Cách mạng Đức, và hỗ trợ các phong trào cộng sản ở Tây Âu. Tuy nhiên sự thất bại của nước Nga Xô viết trong cuộc chiến tranh Ba Lan-Xô viết khiến các kế hoạch đó bị hủy bỏ.
Lenin là người chỉ trích mạnh mẽ chủ nghĩa đế quốc. Năm 1917 ông tuyên bố quyền tự quyết và phân chia các dân tộc quốc gia và đàn áp các quốc gia vô điều kiện, thường được coi là các quốc gia trước kia thuộc quyền kiểm soát của chủ nghĩa tư bản đế quốc. Tuy nhiên, khi cuộc Nội chiến Nga chấm dứt, ông đã dùng các lực lượng quân sự để đồng hóa các quốc gia mới giành độc lập là Armenia, Gruzia và Azerbaijan, cho rằng sự sáp nhập các quốc gia đó vào đất nước Xô viết sẽ che chở họ khỏi những tham vọng của chủ nghĩa đế quốc.[29] Điều này cho phép các quốc gia đó được chấp nhận thành một phần của Liên bang Xô viết hơn là đơn giản buộc họ trở thành một phần lãnh thổ Nga, hành động này sẽ bị coi là hành động đế quốc.
Sau nhiều năm chiến tranh kéo dài, chính sách cộng sản thời chiến của Bolshevik, cộng với Nạn đói năm 1921 tại Nga và sự bao vây từ các chính phủ tư bản thù địch làm đa phần đất nước bị tàn phá. Đã có nhiều cuộc nổi dậy của nông dân, vụ lớn nhất là cuộc Nổi dậy Tambov. Sau một cuộc khởi nghĩa của những thủy thủ tại Kronstadt vào tháng 3 năm 1921, Lenin đã thay thế chính sách Cộng sản thời chiến bằng Chính sách kinh tế mới (NEP) hay còn gợi là cộng sản thời bình, trong một nỗ lực thắng lợi nhằm tái xây dựng công nghiệp và đặc biệt là nông nghiệp.
Đấu tranh chống chủ nghĩa bài Do Thái
Sau cuộc cách mạng, V. I. Lenin rất chú tâm đấu tranh chống Chủ nghĩa bài Do Thái, khi ấy vẫn đang tồn tại ở nước Nga như một di sản từ thời Nga hoàng. Trong một bài phát biểu trên radio năm 1919, ông nói:
“ |
Cảnh sát của chế độ Nga hoàng, cùng với những tên địa chủ và bọn tư bản, đã tổ chức các cuộc tàn sát người Do Thái. Cái lũ địa chủ và tư bản đã tìm cách hướng sự căm thù của công nhân và người nông dân, những tầng lớp nghèo khổ, về phía người Do Thái…. Chỉ những người dốt nát nhất và những người bị áp bức mới có thể tin vào những lời nói dối và những câu báng bổ do chúng tuyên truyền về người Do Thái…. Người Do Thái không phải là kẻ thù của nhân dân lao động. Những kẻ thù của công nhân là bọn tư bản trên thế giới. Trong số những người Do Thái có những người dân lao động, và họ là đa số. Họ là những người anh em của chúng ta, giống như chúng ta, họ cũng bị bọn tư bản bóc lột; họ là những đồng chí của chúng ta trong cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội…. Thật đáng hổ thẹn cho hành động hành hạ người Do Thái của chế độ Nga hoàng. Thật đáng hổ thẹn cho những kẻ gây lòng hận thù với người Do Thái, những kẻ gây sự chia rẽ giữa các quốc gia. |
” |
— Vladimir Ilyich Lenin[30]
|
Qua đời
Sức khỏe Lênin đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng sau những căng thẳng trong cuộc cách mạng và nội chiến. Vụ ám sát ông càng làm tình trạng thêm tồi tệ. Viên đạn vẫn nằm trong cổ ông, quá gần xương sống để có thể lấy ra trong tình trạng kỹ thuật y tế thời ấy. Tháng 5 năm 1922, Lenin bị đột quỵ lần đầu tiên. Ông bị tê liệt nửa người bên phải và dần giảm bớt ảnh hưởng trong chính phủ. Sau vụ đột quỵ thứ hai vào tháng 12 năm ấy, ông hầu như từ bỏ các hoạt động chính trị. Tháng 3 năm 1923, ông bị đột quỵ lần thứ ba và phải nằm liệt giường trong cả phần đời còn lại, thậm chí không thể nói được.
Sau lần đột quỵ đầu tiên, Lenin đã đọc cho thư ký ghi lại một số tài liệu về Chính phủ và vợ ông. Nổi tiếng nhất trong số đó là bản Di chúc của Lenin, trong đó cùng với nhiều sự kiện khác ông đã chỉ trích những nhà lãnh đạo cộng sản hàng đầu, đặc biệt là Joseph Stalin. Về Stalin, người từng là tổng thư ký Đảng cộng sản từ tháng 4 năm 1922, Lenin nói rằng Stlain có “quyền lực vô hạn tập trung trong tay” và đề xuất rằng “các đồng chí nghĩ cách lật đổ Stalin ra khỏi vị trí ấy.” Ngay khi Lênin qua đời, vợ ông đã gửi bản Di chúc tới ủy ban trung ương, nó được đọc trước Đại hội lần thứ 13 của Đảng cộng sản vào tháng 5 năm 1924. Tuy nhiên, vì di chúc chỉ trích tất cả những nhân vật có ảnh hưởng nhiều nhất trong ủy bản trung ương: Zinoviev, Kamenev, Bukharin và Stalin, ủy ban đã quyết định không công bố nó ra đại chúng. Ủy ban trung ương cho rằng di chúc là hậu quả của tình trạng tâm thần bất ổn của Lenin trong những năm cuối đời, và vì thế, những lời phán xét cuối cùng của ông không đáng tin cậy. Việc không đếm xỉa tới những ý kiến của Lenin sau này thường được cho là một sai lầm nghiêm trọng.
Di chúc của Lenin (Lenin’s Testament) được Max Eastman xuất bản chính thức lần đầu tiên năm 1926 tại Hoa Kỳ.
Lãnh tụ Vladimir Ilich Lenin qua đời ngày 21 tháng 1, 1924 ở tuổi 53. Lý do chính thức dẫn tới cái chết của Lenin là do chứng xơ cứng động mạch não, đã gây ra cơn đột quỵ lần thứ tư.
Vào năm 2004 một nhóm bác sĩ Do Thái đã công bố một bài báo, dựa theo các triệu chứng ghi trong hồ sơ bệnh án của Liên Xô, họ đưa ra giả thuyết rằng Lenin đã mắc bệnh hơn 10 năm trước khi qua đời, nguyên nhân bởi bệnh giang mai[31][32]. Nhà sử học Helen Rappaport sau khi khảo sát các tài liệu và hồ sơ bệnh án của Lênin cũng đặt ra giả thuyết rằng ông đã chết vì bệnh giang mai, lây truyền từ một cô gái giang hồ ở Paris[33]. Giả thiết này vẫn tiếp tục tồn tại cho tới nay, nhưng không ai từ các nước phương Tây có thể chứng minh nó vì chỉ có các bác sĩ chuyên trách của Nga được phép khám nghiệm thi hài Lenin. Giả thuyết này rất có thể là không đúng, vì nếu Lenin bị giang mai thì vợ của ông là Nadezhda Krupskaya cũng sẽ bị lây giang mai, nhưng thực tế Nadezhda Krupskaya không bị giang mai. Năm 2012, Tiến sĩ Harry Vinters, giáo sư thần kinh học tại UCLA, căn cứ vào hồ sơ khám nghiệm tử thi và phẫu thuật não của Lenin, đã tuyên bố phủ nhận việc Lenin bị giang mai[34]
Thành phố Petrograd đã được đổi tên thành Leningrad ba ngày sau khi Lenin qua đời để vinh danh ông; cái tên này giữ nguyên cho tới khi Liên bang Xô viết sụp đổ năm 1991, khi nó lấy lại tên cũ là Sankt-Peterburg.Tuy nhiên tỉnh Leningrad vẫn được giữ nguyên, là một tỉnh hành chính trực thuộc Liên Bang Nga.
Thời gian đầu thập kỷ 1920 phong trào vũ trụ luận ở Nga khá sôi động và đã có ý tưởng bảo quản lạnh xác Lenin nhằm tái sinh trong tương lai. Những phương tiện cần thiết đã được mua về từ nước ngoài, nhưng vì một số lý do kế hoạch này không được thực hiện. Thay vào đó xác ông được ướp và đặt trong Lăng Lenin tại Moskva ngày 27 tháng 1, 1924.
Sau khi mất
Lăng Lenin trên Quảng trường Đỏ, Moskva
Thi hài Vladimir Lenin được bảo quản trong Lăng Lenin ở Moskva. Vì vai trò duy nhất của Lenin trong việc tạo lập nhà nước cộng sản đầu tiên, và dù ông đã bày tỏ ý muốn chỉ một thời gian ngắn trước khi qua đời rằng không nên xây dựng một đài tưởng niệm nào dành cho mình, chế độ Xô viết đã tôn vinh ông như một vị thánh tôn giáo. Đôi khi các ngôi nhà Xô Viết treo hình hoặc đặt tượng Lenin[35]. Tới thập kỷ 1980 hầu như mọi thành phố lớn ở Liên bang Xô viết đều có tượng Lenin ở quảng trường trung tâm, hoặc một phố Lenin hay một quảng trường Lenin gần trung tâm, và thường là 20 hay nhiều hơn nữa các bức tượng nhỏ hay tượng bán thân ông trên toàn lãnh thổ. Trẻ em được kể các câu chuyện về “ông Lenin” từ khi chúng còn ở nhà trẻ. Ngoài ra, không ít đường phố, công trình xây dựng, xí nghiệp, nông trại ở Liên Xô được đặt tên là Lenin, chưa kể một tàu phá băng Liên Xô còn được đặt cho cái tên này[35].
Cứ mỗi năm có hàng trăm bài viết và sách viết về ông được xuất bản và thu hút cả người trẻ lẫn già. Rất nhiều vở kịch và phim ảnh nói về cuộc đời Lenin[35]. Từ khi Liên bang Xô viết tan rã, mức độ tôn sùng Lenin tại các nước cộng hòa hậu Xô viết đã giảm sút đáng kể, nhưng ông vẫn được nhiều thế hệ lớn lên trong giai đoạn hậu Xô viết coi là một nhân vật có tầm ảnh hưởng quan trọng.[36] Nhiều bức tượng Lenin đã bị dỡ bỏ ở Đông Âu, nhưng nhiều bức khác vẫn tại vị. Thành phố lớn nhất của nước Nga[35], Leningrad đã trở về với cái tên nguyên thủy của mình, Sankt-Peterburg, nhưng vùng xung quanh vẫn mang tên ông (tỉnh Leningrad). Các công dân Ulyanovsk, nơi sinh của Lenin, vẫn bác bỏ mọi ý định quay trở về cái tên cũ là Simbirsk. Tại Moskva, tượng Lenin vẫn đứng ở các cổng của hệ thống tàu điện ngầm, cũng như quảng trường Lenin vẫn giữ nguyên tên gọi. Trong cuộc bình chọn Những nhân vật vĩ đại nhất trong Lịch sử Nga với hơn 40 triệu người Nga tham gia năm 2008, Lênin đứng ở vị trí thứ 6.[37]
Việc mai táng thi hài Lenin vẫn là chủ đề gây tranh cãi trong 16 năm qua ở nước Nga. Ở thủ đô Hà Nội, Việt Nam, tượng ông được đặt tại một công viên cùng tên.[38]
Tính cách
V.I. Lênin là người có tính nguyên tắc rất cao. Tư tưởng của ông, cũng theo nhận xét của Maxim Gorky, “giống như cái kim địa bàn, bao giờ cũng chỉ về lợi ích giai cấp của nhân dân lao động”.
Để làm việc, Lenin lúc nào cũng cần rất nhiều sách. Tự tay ông đã lập ra bản danh sách đặt mua những cuốn sách tham khảo hay sử dụng nhất: những bộ từ điển bách khoa các lần in khác nhau, trước tác của Karl Marx và Engels in bằng tiếng Nga và tiếng Đức, các tác phẩm của các nhà cách mạng Dân chủ Nga… Biết được nguồn tài chính eo hẹp của Lenin, có lần cán bộ quản trị của Trung ương thanh toán tiền mua sách cho Lenin bằng ngân sách của chính phủ. Lập tức sau đó, Lenin viết thư cho ông này, có đoạn: “Sách tôi mua tôi tự thanh toán. Yêu cầu đồng chí sau khi khỏi ốm tới nhận tiền và cho giấy biên nhận”. Nói chung Lenin không bao giờ thích nhận những chế độ ưu đãi tốt hơn các lãnh đạo khác[39]
Cái tên “Lenin”
“Lenin” là một trong những bí danh cách mạng của ông, và sau khi ông nắm quyền thì trở thành tên chính thức: Vladimir Ilyich Ulyanov trở thành Vladimir Ilyich Lenin. Thỉnh thoảng ông được báo chí phương Tây gọi là “Nikolai Lenin”[40], nhưng người dân Liên Xô không bao giờ nghe tới cái tên này.
Đã có rất nhiều giả thuyết về nguồn gốc biệt hiệu đó, và Lenin cũng chưa từng kể rõ tại sao ông lại lựa chọn nó. Bản thân Lênin cũng đã từng viết một cuốn sách về các biệt danh hoạt động cách mạng của ông nhưng trong cuốn sách không hề có đề cập đến bí danh Lenin-cái tên được kí nhiều nhất trong các văn kiện của ông. Đã có nhiều giả thuyết về cái tên Lênin này. Có giả thuyết cho rằng cái tên Lenin là của một cụ già đã chết, sau khi cụ qua đời Ulyanov đã lấy cái tên này làm bí danh cho mình.
Có lẽ biệt hiệu này liên quan tới con sông Lena, tương tự như một nhân vật theo chủ nghĩa Marx nổi tiếng khác ở Nga, Georgi Plekhanov, người lấy biệt hiệu là Volgin theo tên con sông Volga. Có ý kiến cho rằng Lenin lựa chọn sông Lena vì đây là một con sông dài hơn và chảy theo hướng đối diện, nhưng trong cuộc đời mình Lênin không phản đối Plekhanov. Tuy nhiên, chắc chắn rằng nó không liên quan tới vụ hành quyết Lena, vì biệt hiệu đó đã ra đời trước sự kiện này.
Tượng và tên thành phố
Trong suốt thời đại Xô Viết, nhiều bức tượng của Lenin được dựng lên khắp Đông Âu. Mặc dù nhiều bức tượng đã bị hạ xuống, một số vẫn còn tồn tại, và một số tượng lại được dựng mới[41] Năm 2012, các nhà luật gia của đảng đối lập Dân chủ Cấp tiến Nga đã đưa ra một dự luật, mỗi vùng nên trưng cầu dân ý quyết định là có muốn giữ các tượng Lenin ở vùng mình không, một trong những lý do là tiền bảo trì. Dự luật này cũng được một số đại biểu của đảng cầm quyền Thống nhất Nga hoan nghênh, nhưng nó bị đảng Cộng sản Nga phản đối dữ dội.[42]
Nhiều nơi cũng được đặt tên Lenin để tưởng nhớ. Thành phố Saint Petersburg, nơi mà cách mạng tháng hai cũng như tháng mười bắt đầu, được đổi tên là Leningrad vào năm 1924, 4 ngày sau khi Lenin chết. Vào năm 1991, sau một cuộc bầu cử sôi nổi giữa đảng Cộng sản và đảng Cấp tiến, chính phủ Leningrad đổi tên thành phố trở lại là Saint Petersburg trong khi vùng xung quanh (tỉnh Leningrad) vẫn giữ tên[43]. Tương tự như vậy, Gyumri ở Armenia đã được đổi thành Leninakan từ năm 1924 cho tới 1990, Khujand ở Tajikistan Leninabad từ 1936 cho tới 1991. Thành phố Ulyanovsk (quê hương Lenin) vẫn giữ nguyên tên gọi để tưởng nhớ ông (Lenin có họ là Ulyanov).
Sự kiểm duyệt tác phẩm của Lenin tại Liên bang Xô viết
Những ghi chép của Lenin đã được kiểm duyệt kỹ lưỡng thời Xô viết sau khi ông qua đời. Đầu thập kỷ 1930, dưới thời Stalin, có một giáo điều rằng Lênin và Ủy ban trung ương không bao giờ sai lầm. Vì thế, cần phải bỏ mọi bằng chứng về những sự bất đồng giữa hai bên, bởi vì trong trường hợp đó không thể cả hai bên cùng đúng. Trotsky từng là một người chỉ trích mạnh mẽ việc này, hành động mà ông coi là một hình thức sùng bái cá nhân bởi một người bình thường luôn có thể và chắc chắn đã từng phạm những sai lầm.[44] Sau này, thậm chí lần xuất bản thứ năm tại Liên Xô của tác phẩm Lênin toàn tập (xuất bản với 55 cuốn dày trong giai đoạn 1958 và 1965) cũng bỏ đi những phần trái với giáo điều hay thể hiện những điều được cho là không tốt ở tác giả[45].
Nhận định
Sau khi mất, ông vẫn được coi là vị anh hùng lớn nhất của nhân dân Xô Viết[35]. Lenin được xem là một nhà dân tộc chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa quốc tế Nga; ông khao khát xây dựng một nước Nga hiện đại và hùng mạnh, đó sẽ là hình mẫu trong quan hệ quốc tế. Chủ nghĩa cộng sản Nga cũng chính là hình mẫu của chủ nghĩa cộng sản quốc tế[22]. Ở nước ngoài, ông trở thành một biểu tượng của “tính chất Nga” thế kỷ 20.[3]
Tại một số quốc gia, có sự mâu thuẫn trong việc đánh giá vai trò của Lenin. Khi di dời một bức tượng Lenin vào ngày 14/10/2012, Thị trưởng thủ đô Ulaanbaatar của Mông Cổ, ông Bat-Uul Erdene đã lên án Lenin và các đồng chí của ông là “những kẻ sát nhân”.[46] Ngược lại, nhiều người Mông Cổ vẫn tôn kính Lenin bởi ông đã ủng hộ Mông Cổ trong cuộc chiến giành độc lập khỏi Trung Quốc vào năm 1921, và sau đó Liên Xô còn giúp Mông Cổ một lần nữa trong Thế chiến thứ 2 khi Nhật Bản xâm lược Mông Cổ[47]
Trong hồi ký Ngôi nhà Bến Ngự và con đò sông Hương, nhà báo Tạ Quang Đạm (em giáo sư Tạ Quang Bửu) đã kể lại rằng trên tường căn nhà tranh 3 gian – nơi ở và cũng là nơi nhà Cách mạng Việt Nam Phan Bội Châu dạy học – có treo nhiều tranh ảnh, trong đó ấn tượng nhất là bức chân dung Lenin được treo trang trọng trên bức tường mặt trước gần sát trần nhà. Có lẽ là một bức họa vẽ theo một bức tượng kiểu huy hiệu. Dưới chân dung có hai chữ Hán: Liệt Ninh (Lenin).[48] Phan Bội Châu còn viết “Lược truyện Liệt Ninh, vĩ nhân của nước Nga đỏ” viết in trên Binh sự tạp chí, Hàng Châu, Trung Quốc năm 1921.[49]
Alexandra Kolontai (1872-1952) – nhà ngoại giao nổi tiếng của Liên Xô (cũ) – đánh giá về ông:[50]
“ |
Có những cá nhân – hiếm thấy trong lịch sử loài người – là sản phẩm của một chuyển biến lớn lao đã chín muồi, đã tô đẹp cho cả một thời đại. Trong số những người vĩ đại về tinh thần và ý chí đó là Vladimir Ilich Lenin… Như ở một tiêu điểm, Người đã tập hợp vào trong mình tất cả những cái gì của Cách mạng là nghị lực, là hùng mạnh, không ủy mị trong phá bỏ cái cũ và rất kiên quyết trong xây dựng cái mới. |
” |
— Alexandra Kolontai
|
Theo nhận định của văn hào Nga Maksim Gorky, tràn ngập trong đời sống và công việc của Lenin là “tinh thần hy sinh khắc khổ, thường thấy ở người cách mạng trí thức Nga trung thực, tin tưởng sắt đá vào khả năng thiết lập sự công bằng trên trái đất, tinh thần anh hùng của con người đã từ bỏ mọi niềm sung sướng trên đời để hiến mình cho hoạt động gian khổ vì hạnh phúc của mọi người”.[50]
Văn hào Nga Maksim Gorky cũng cho rằng tư tưởng của Lenin “giống như cái kim địa bàn, bao giờ cũng chỉ về lợi ích giai cấp của nhân dân lao động… Điều đặc biệt vĩ đại ở Lenin chính là lòng căm thù quyết liệt, không bao giờ tắt trước sự bất hạnh của mọi người, niềm tin chói lọi của đồng chí rằng sự bất hạnh không phải là nền tảng không thể tiêu diệt được của cuộc đời, trái lại nó là điều xấu xa, nhơ nhuốc mà mọi người có thể và cần phải quét sạch đi”.[50]
Tác giả “Người Xôviết chúng tôi” là nhà văn Boris Polevoi đã ghi nhận:[50]
“ |
Là người gan dạ và chính trực, đồng chí bao giờ cũng nhìn thẳng vào sự thật. Dù sự thật đôi khi cay đắng và thậm chí khủng khiếp đến thế nào đi nữa, đồng chí cũng không bao giờ giấu giếm mọi người xung quanh, không bao giờ giấu giếm đông đảo đám đông. |
” |
— Boris Polevoi
|
Trong bốn ngày khi mà thi hài Lenin được quàn trong Điện Kremlin, hơn 900.000 người đã tới đưa tang ông. Một trong những chính khách bày tỏ lời chia buồn đến Liên Xô là Thủ tướng Trung Quốc, nhà cách mạng Tôn Trung Sơn, ông đã nói[51]:
- “Qua các thời đại của lịch sử thế giới, hàng ngàn nhà lãnh đạo và học giả đã xuất hiện và nói những lời hùng hồn, nhưng đó vẫn chỉ là những lời nói. Người, Lenin, là một ngoại lệ. Người không chỉ nói và dạy cho chúng ta, mà Người đã thực sự biến lời nói thành hành động. Người đã khai sinh ra một quốc gia mới. Người cho chúng ta thấy con đường của cuộc đấu tranh chung… Người, một vĩ nhân, sẽ sống mãi trong ký ức của những người bị áp bức qua hàng thế kỷ.”
Tạp chí Time nêu tên Lenin là một trong 100 nhân vật quan trọng nhất của thế kỷ 20, và là một trong 25 biểu tượng chính trị hàng đầu qua mọi thời đại; với đề tựa rằng “trong nhiều thập kỷ, những cuộc nổi dậy của chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm rung chuyển thế giới trong khi thi hài của Lenin nằm yên nghỉ tại Quảng trường Đỏ”.
Tại bài viết trong Encyclopedia Britannica (Bách khoa toàn thư Anh quốc) được viết bởi giáo sư của Đại học Bắc Illinois, Albert Resis viết[52]:
- “Nếu cuộc cách mạng Bolshevik là – như một số người đã gọi nó – là sự kiện chính trị quan trọng nhất của thế kỷ 20, thì sau đó Lenin, dù được coi là có vai trò tốt hay xấu, luôn được coi là nhà lãnh đạo chính trị quan trọng nhất của thế kỷ. Không chỉ trong giới học thuật của Liên Xô cũ, mà ngay cả trong số nhiều học giả không đi theo chủ nghĩa cộng sản, ông đã được coi là nhân vật vĩ đại trên cả 2 phương diện: nhà lãnh đạo cách mạng và chính khách cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử, cũng như là nhà tư tưởng cách mạng lớn nhất kể từ Karl Marx“
Nhà bác học vĩ đại nhất thế kỉ XX Albert Einstein– một người theo chủ nghĩa xã hội đã đánh giá về Lenin:
- “Tôi tôn vinh Lenin như là một người hoàn toàn hy sinh bản thân và dành tất cả tâm huyết của mình để thực hiện công bằng xã hội. Tôi không quan tâm phương pháp của ông ấy có thực tế không, nhưng chắc chắn một điều là: ông ấy là mẫu người bảo vệ và phục hưng nhân loại.”
Xem thêm
Những câu nói nổi tiếng
- Người Cộng sản phải có một cái đầu lạnh và một trái tim hồng! [53]
- Các thầy, cô giáo và Hồng quân đều là những thành trì của Cách mạng!
- Chúng ta không ngốc, nhưng hãy giả bộ như những thằng ngốc!
- Một nhà văn nếu như không tưởng tượng mình là thằng ngốc thì sẽ không thể miêu tả về thằng ngốc được!
- Học, học nữa, học mãi!
Tài liệu tham khảo
- ^ Tạp chí Time số 14|Vol. 151 ngày 13 tháng 4 năm 1998. 100 người nổi bật của thế kỷ
- ^ Lê Thùy Chi. 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất đến lịch sử thế giới. NXB Văn hóa – Thông tin. Hà Nội. 2007. Mục từ thú 86: Lê Nin
- ^ a ă Christopher Read. Lenin: A Revolutionary Life. tr. 4.
- ^ “Lịch sử nước Nga thời kỳ TBCN sau CM tháng 10”.
- ^ Lenin: A Biography. Robert Service. ISBN 0-330-49139-3.
- ^ “Vladimir Ilyich Lenin: The Development of Capitalism in Russia”.
- ^ Tiểu sử V.I Lênin (1870-1924) – Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
- ^ Joe Fineberg and George Hanna (1999). “Vladimir Ilyich Lenin: What Is To Be Done?” 1. Lenin’s Selected Works. tr. 119-271.
- ^ Cách mạng Nga 1899-1919. tr. 789-795.
- ^ “V. I. Lenin: Lessons of the Commune”. Zagranichnaya Gazeta. 23 tháng 3, 1908.
- ^ Robert G. Wesson. Lenin’s Legacy: The Story of the Cpsu. tr. 44.
- ^ “Phần 2. Người cách mạng chuyên nghiệp”.
- ^ a ă Kỷ niệm 90 năm cách mạng Tháng 10 Nga vĩ đại từ (7/11/1917-7/11/2007): Những điều mới biết về Lênin
- ^ Thomas Purcell. The Return of the Kings.
- ^ Christopher Read. Lenin: A Revolutionary Life. tr. 161.
- ^ “Vladimir Ilyich Lenin: The Tasks of the Proletariat in the Present Revolution”.
- ^ Christopher Read. Từ chế độ Nga hoàng tới Xô viết. tr. 151–153.
- ^ “Leon Trotsky: The History of the Russian Revolution”.
- ^ Karl G. Heinze. Baltic Sagas: Events and Personalities that Changed the World!. tr. 242.
- ^ Marvin Perry, Matthew Berg, James Krukones. Sources of European History Since 1900. tr. 103.
- ^ “Lenin: The State and Revolution”. Lenin Internet Archive.
- ^ a ă Marvin Perry, Myrna Chase, Margaret Jacob, James R. Jacob, Theodore H. Von Laue. Western Civilization: Ideas, Politics, and Society: From the 1600s 2. tr. 738-739.
- ^ a ă “V. I. Lenin: The Constituent Assembly Elections and The Dictatorship of the Proletariat”. 19 tháng 12, 1919.
- ^ “Lenin and the First Communist Revolutions, IV”.
- ^ “V. I. Lenin: Third All-Russia Congress Of Soviets Of Workers’, Soldiers’ And Peasants’ Deputies”.
- ^ Stephane Courtois, et. al (1999). The Black Book of Communism. Harvard University Press. ISBN 0-674-07608-7.
- ^ “Có một Lenin khác…”. 2008.
- ^ Source List and Detailed Death Tolls for the Twentieth Century Hemoclysm
- ^ “V.I. Lenin: The Revolutionary Proletariat and the Right of Nations to Self-Determination”.
- ^ V. I. Lenin: Anti-Jewish Pogroms
- ^ V. Lerner, Y. Finkelstein, E. Witztum (2004). The Enigma of Lenin’s (1870–1924) malady 11 ((6)). European Journal of Neurology. tr. 371-6. doi:10.1111/j.1468-1331.2004.00839.x.
- ^ “A Retrospective Diagnosis Says Lenin Had Syphilis”. C. J. Chivers. The New York Times. 22 tháng 6 2004. Truy cập 9 tháng 5 2013.
- ^ “Vladimir Lenin died from syphilis, new research claims”. Telegraph. 22 tháng 10, 2009.
- ^ http://www.torontosun.com/2012/05/04/stress-not-syphilis-killed-lenin
- ^ a ă â b c Abraham Resnick. Lenin: Founder of the Soviet Union. tr. 9.
- ^ “Flight From Freedom: What Russians Think and Want”.
- ^ Имя Россия
- ^ Lenin để lại nhiều chỉ dẫn quý báu về xây dựng CNXH hiện thực – Thứ Bảy, 17/04/2010 08:55
- ^ http://cand.com.vn/van-hoa/138-nam-ngay-sinh-cua-VI-Lenin-Dau-an-khong-phai-123945/
- ^ “Soviets in Action”.
- ^ Two Lenin monuments opened in Luhansk Oblast, UNIAN (ngày 22 tháng 4 năm 2008)
- ^ “All monuments of Lenin to be removed from Russian cities”, RT (ngày 20 tháng 11 năm 2012)
- ^ Maryland Government, St Petersburg/Leningrad Oblast
- ^ “Leon Trotsky: The History of the Russian Revolution”.
- ^ Orlando Figes (27 tháng 10, 1996). Censored by His Own Regime Censored by His Own Regime. New York Times. tr. 204.
- ^ “Thủ đô Mông Cổ kéo đổ tượng Lenin”. BBC. 14 tháng 10, 2012.
- ^ 10 tháng 10 năm 2012/an-lenin-statue-to-be-pulled-down-in-mongolia/4306316 “Last stand for Ulaanbaatar’s Lenin statue”. Australia Network News. Truy cập 11 tháng 2 năm 2015.
- ^ Phan Bội Châu, người đầu tiên treo ảnh Lê-nin ở Việt Nam, Nguyễn Khắc Phê, Ông già Bến Ngự” – NXB Thuận Hóa, 1987
- ^ PHAN BỘI CHÂU – NHÀ VĂN HÓA, Nguyễn Đình Chú, Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV – ĐHQG Tp. HCM
- ^ a ă â b “Lãnh tụ Xôviết Vladimir Ilich Lênin: Một người Nga chân chính”. CAND.com. 12 tháng 6, 2008.
- ^ Gorin, Vadim, Lenin: A Biography (1983) Progress Publishers, pp. 469–70
- ^ “Vladimir Ilich Lenin biography – prime minister of Union of Soviet Socialist Republics”. Encyclopedia Britannica. Truy cập 11 tháng 2 năm 2015.
- ^ V.I. Lênin nói về tư cách, đạo đức của người cán bộ, Đảng viên Cộng sản
Đọc thêm
- Leon Trotsky, Lenin
- Robert Service, Lenin: A Biography
- Revolution at the Gates: A Selection of Writings from February to October 1917 by V. I. Lenin, Slavoj Zizek (Editor), Verso Books, ISBN 1-85984-661-0
- Louis Fischer, The Life of Lenin, ISBN B00005W8VC (This is an Amazon.com number; many other options are available through ABE)
- Leszek Kolakowski, Main Currents of Marxism
- John Gooding, Socialism In Russia: Lenin and His Legacy, 1890–1991
- Anton Pannekoek, Lenin as Philosopher
- Dmitri Volkogonov, Lenin: A New Biography
- Robert Tucker, “The Lenin Anthology”
- Lenin Internet Archive Biography includes interviews with Lenin and essays on the leader
Liên kết ngoài
Tiếng Việt
Tiếng Anh
Những tác phẩm lựa chọn
Thể loại:
Lý Tông Nhân
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lý Tông Nhân (Bính âm: 李宗仁; sinh ngày 13 tháng 8, 1890 – mất ngày 30 tháng 1, 1969, tự Đức Lân (德鄰), là một lãnh chúa đầy quyền lực ở Quảng Tây và là chỉ huy quân sự có ảnh hưởng trong Quốc Dân Đảng trong suốt cuộc chiến tranh chống Nhật, Thế chiến hai. Ông làm Quyền Tổng thống của Trung Hoa Dân Quốc khi Tưởng Giới Thạch từ chức năm 1947.
Tiểu sử
Thời trẻ
Lý Tông Nhân sinh tại làng Tây Hương (西鄉村), gần Quế Lâm, Quảng Tây, là đứa con thứ hai trong một gia đình có 8 anh chị em. Cha của Lý, ông Lý Bồi Anh (李培英), là một hiệu trưởng trường làng. Sau khi học hành qua loa, Lý đăng ký vào một trường quân sự địa phương. Lý gia nhập Đồng minh hội của Tôn Dật Tiên năm 1910, nhưng lúc đó không hiểu gì mấy về mục tiêu cao cả hơn của Tôn là cải cách và thống nhất Trung Hoa.[1] Quê hương Quảng Tây của Lý cũng là quê nhà của viên tướng Thái Bình Thiên Quốc Lý Tú Thành, mà Lý tự nhận là có quan hệ họ hàng.
Khởi đầu binh nghiệp
Được sự dạy dỗ của Thái Ngạc, Lý tốt nghiệp trường thiếu sinh quân Quế Lâm và năm 1916 trở thành chỉ huy đại đội trong quân đội của quân phiệt Quảng Tây Lục Vinh Đình. Cấp trên trực tiếp của Lý là Lâm Hổ. Lục, Đốc quân Quảng Tây, vốn xuất thân thổ phỉ, vẫn ôm mộng mở rộng lãnh thổ sang các tỉnh láng giềng, nhất là Quảng Đông. Trong vài năm sau đó, Quảng Tây và Quảng Đông chìm trong hỗn chiến quân phiệt, nhiều vùng đất bị giành đi giật lại.[2] Lục và phe đảng được gọi là Cựu Quế hệ. Trong một trận đánh với một quân phiệt khác tại Hồ Nam vào năm 1918, Lý được thăng chức tư lệnh tiểu đoàn nhờ lòng dũng cảm.
Năm 1921, Lý Tông Nhân theo Lâm Hổ và Lục Vinh Đình tấn công Quảng Đông lần thứ 2, giao chiến với lực lượng Trần Quýnh Minh. Sau khi Lục thảm bại, Lý chỉ huy lực lượng đoạn hậu khi quân Cựu Quế rút lui. Hầu hết các sĩ quan của Lâm Hổ xuất thân là thổ phỉ và dân quân địa phương từ các vùng dân tộc Tráng tại Quảng Đông. Trong chiến dịch này, nhiều sĩ quan của Lâm đem quân chạy sang hàng ngũ quân Quảng Đông. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, tiểu đoàn của Lý Tông Nhân chỉ còn lại một nghìn người và phải chốn chui trốn lủi mới thoát được.
Lên nắm quyền
Sau thất bại của Lục, lực lượng của ông ta tan rã thành những đơn vị độc lập, có nhiều nhóm quay lại làm thổ phỉ để tồn tại. Các nhà truyền giáo và nhà hoạt động từ thiện nước ngoài tại Quảng Tây thời đó kể lại rằng thổ phỉ tại Quảng Tây hoành hành dữ dội, tự do cướp bóc lương thực và tài sản từ những ngôi làng không được bảo vệ, cũng như giết người và ăn thịt người công khai để đòi tiền chuộc từ những người bị họ bắt cóc.[1] Lý, ngược lại với lũ thổ phỉ kia, bắt đầu xây dựng một đội quân chuyên nghiệp để đối phó với đám thổ phỉ hay dân quân người Tráng mà Lục Vinh Đình sử dụng. Lý gia nhập Quốc dân đảng của Tôn Dật Tiên sau khi Tôn lập căn cứ tại Quảng Đông.
Khi Quảng Tây chìm trong hỗn loạn, Lý trở thành một quân phiệt độc lập kiểm soát một vài huyện trên biên giới Quảng Đông, và có thêm một đồng minh, cũng là bạn học cũ là Hoàng Thiệu Hồng. Liên minh Lý – Hoàng nổi tiếng vì dẹp trừ được thổ phỉ và những cuộc xung đột lẻ tẻ trong khu vực của họ, vốn tràn lan khắp Quảng Tây thời ấy. Năm 1924, trong khi Lục bị bao vây tại Quế Lâm, Lý và các đồng minh nhẹ nhàng chiếm được thủ phủ Nam Ninh. Lục phải trốn sang Đông Dương thuộc Pháp. Tháng sau, Tôn Dật Tiên chính thức công nhận chủ quyền của Lý Tông Nhân và các đồng minh, Hoàng Thiệu Hồng và Bạch Sùng Hy, tại Quảng Tây. Họ trở thành Tân Quế hệ.[3]
Tướng lĩnh Quốc dân đảng
-
Lý tái tổ chức lực lượng của mình thành “Quân bình định Quảng Tây”. Lý Tông Nhân giữ chức Tổng tư lệnh, Hoàng Thiệu Hồng là Phó tư lệnh, và Bạch Sùng Hy là Tham mưu trưởng. Tới tháng 8, họ đã đánh đuổi tất cả các thế lực khác khỏi tỉnh. Lý Tông Nhân giữ chức Đốc quân Quảng Tây từ 1924–25, và từ 1925-49 vẫn có ảnh hưởng lớn tại Quảng Tây.
Năm 1926, Lý gia nhập lực lượng Quốc dân đảng, nhưng vẫn nắm quyền chỉ huy quân của mình. Một cố vấn Xô viết được phái tới Quảng Tây, và lực lượng của Lý được đổi tên thành Tập đoàn quân 7.[3] Lý sau đó tham gia Chiến tranh Bắc phạt, giữ chức Tư lệnh Tập đoàn quân 4, bao gồm quân đội từ Quảng Tây và các tỉnh khác, với 16 quân đoàn và 6 sư đoàn độc lập.
Thắng lợi đầu tiên của Lý trên cương vị tướng lĩnh Quốc dân là ở Hồ Nam, tại đây ông đánh bại quân phiệt Ngô Bội Phu trong hai trận liền và chiếm được thủ phủ Vũ Hán vào năm 1926. Sau những chiến thắng này, Lý trở nên nổi tiếng trong Quốc dân đảng, đội quân của ông có biệt danh “Binh đoàn bay” và “Binh đoàn Thép”. Khi Uông Tinh Vệ thành lập chính phủ thiên tả tại Vũ Hán, Borodin tìm cách kêu gọi Lý gia nhập phe Cộng sản, nhưng Lý quyết định trung thành với Tưởng Giới Thạch, và từ chối.[4]
Bất chấp ý kiến của các cố vấn Liên Xô, Lý vượt sông Dương Tử tấn công quân phiệt Tôn Truyền Phương. Tôn là thủ lĩnh của “Đồng minh 5 tỉnh” (Chiết Giang, Phúc Kiến, Giang Tô, An Huy, và Giang Tây), ngăn chặn Tưởng tiến vào Giang Tây. Lý đánh bại được Tôn trong 3 trận đánh, chiếm được lãnh thổ của ông ta cho Quốc dân đảng.[4]
Đến thời điểm Lý Tông Nhân đánh bại Tôn Truyền Phương, Lý đã trở thành một tướng lĩnh nổi tiếng chống cộng và ngờ vực hành động của Comintern tại Trung Hoa, và đội quân của ông là một trong số ít những đơn vị Quốc dân đảng nằm ngoài ảnh hưởng của cộng sản. Sau khi giành được sự ủng hộ của Lý, Tưởng điều động quân đội của ông đến thủ đô mới Nam Kinh. Tưởng tiếp tục sử dụng quân Quảng Tây của Lý để thanh trừng chính Sư đoàn 1 thân cộng sản dưới tay mình. Trong cuộc khủng bố trắng sau đó, hàng nghìn người bị tình nghi là cộng sản đã bị xử tử. Đồng minh thân cận của ông là Bạch Sùng Hy cũng đóng vai trò rất quan trọng trong vụ này.[5]
Tháng 4 năm 1928, Lý Tông Nhân và Bạch Sùng Hy chỉ huy Tập đoàn quân 4 tiến về Bắc Kinh, và tới ngày 1 tháng 6 chiếm được Hàm Đan, Bảo Định và Thạch Gia Trang. Trương Tác Lâm rút khỏi Bắc Kinh vào ngày 3 tháng 6, và Lý chiếm dễ dàng chiếm được Bắc Kinh và Thiên Tân.
Sau khi chính quyền Vũ Hán của Uông Tinh Vệ sụp đổ và Liên Xô rút hết cố vấn, Lý trở thành một trong năm ủy viên Ủy ban Chính trị Quốc dân đảng được thành lập để cai trị các vùng lãnh thổ Quốc dân đảng, đặt tại Vũ Hán. Tháng 1 năm 1929, Lý bãi nhiệm một viên chức tại Hồ Nam do chính phủ Nam Kinh phái đến; lo sợ bị trả thù, ông trốn đến khu tô giới Thượng Hải. Tưởng sau đó dàn xếp để loại bỏ Lý, Bạch Sùng Hy và Hoàng Thiệu Hồng khỏi mọi vị trí trong đảng và chính quyền.[6]
Trở lại Quảng Tây
Sau khi cắt đứt với Tưởng Giới Thạch, Lý Tông Nhân trở về Quảng Tây, tập trung sức lực vào việc cai trị tỉnh này và giành được một số thành công. Năm 1929, Lý ủng hộ quân phiệt Sơn Tây Diêm Tích Sơn trong nỗ lực thành lập một chính phủ trung ương tại Bắc Kinh, dẫn đến Đại chiến Trung Nguyên.[7] Lý dẫn quân mưu tái chiếm Hồ Nam, nhưng chỉ đến được Nhạc Dương về phía bắc, trước khi Tưởng đánh bại Diêm và đồng minh Phùng Ngọc Tường, buộc Lý rút về Quảng Tây.
Sau thất bại của Diêm trong Đại chiến Trung Nguyên, Lý lại liên minh với Trần Tế Đường sau khi Trần trở thành Chủ tịch Chính phủ tỉnh Quảng Đông năm 1931, và chuẩn bị giao chiến với Tưởng Giới Thạch. Một cuộc nội chiến khác có thể đã nổ ra nếu Nhật không xâm lược Mãn Châu, thúc đẩy Lý và Tưởng chấm dứt thù địch và liên kết chống Nhật.
Chiến tranh Trung-Nhật
-
Lý Tông Nhân tại Đài Nhi Trang.
Năm 1937, chiến tranh toàn diện giữa Nhật Bản và Trung Hoa bùng nổ, mở màn Chiến tranh Trung-Nhật (1937–1945). Tưởng Giới Thạch bổ nhiệm Lý làm Chủ nhiệm Quân khu 5, hi vọng những kinh nghiệm quân sự của ông sẽ giúp ích cho chiến tranh.[8] Lý giao chiến với quân Nhật lần đầu tiên trong Trận Đài Nhi Trang năm 1938, sau khi lãnh tụ cộng sản Chu Ân Lai (lúc này đang hợp tác với phe Quốc dân trong Mặt trận thống nhất), tán dương Lý là một trong những chỉ huy Quốc dân đảng tài ba nhất và sử dụng ảnh hưởng của mình để ủng hộ bổ nhiệm Lý làm tư lệnh chung, dù Tưởng phản đối vì nghi ngờ lòng trung thành của Lý.[9]
Chiến dịch phòng thủ Đài Nhi Trang do Lý chỉ huy là một thắng lợi quan trọng cho quân Quốc dân đảng, giết chết 20,000-30,000 quân Nhật và thu giữ một lượng lớn quân nhu vật tư. Thắng lợi Đài Nhi Trang có công rất lớn của Lý, với chiến thuật và kế hoạch hợp lý, ông đã dụ được quân Nhật vào một cái bẫy và tiêu diệt chúng. Trận Đài Nhi Trang là một trong những chiến thắng lớn đầu tiên của quân Trung Hoa trước quân Nhật, cho thấy rằng với vũ khí và lãnh đạo tốt, họ hoàn toàn có thể kháng cự được.[10] Lý sau đó tiếp tục tham dự Trận Từ Châu, Trận Vũ Hán, Trận Tùy Huyện-Táo Dương, Chiến dịch mùa đông 1939-40, Trận Táo Dương-Nghi Xương, Chiến dịch Hán Trung, và Trận Dự Nam.
Từ năm 1943 – 1945, Lý giữ chức Chủ nhiệm Tổng hành dinh của Tưởng. Đây chỉ là chức vụ hữu danh vô thực. Lý rất bất mãn và thường xuyên phàn nàn về việc này.[11]
Nội chiến Trung Hoa
-
Lý Tông Nhân và Tưởng Giới Thạch.
Sau chiến tranh, Lý được giao chức Chủ nhiệm Hành dinh Bắc Bình từ năm 1945 – 1947. Đây cũng chỉ là chức vụ hữu danh vô thực, và Lý kể như bị bỏ qua trong suốt giai đoạn đầu Nội chiến Trung Hoa.
Ngày 28 tháng 4, 1948, Lý được Quốc dân Đại hội bầu làm Phó tổng thống, chỉ năm ngày sau khi đối thủ chính trị của ông Tưởng Giới Thạch trở thành Tổng thống. (Tưởng ủng hộ Tôn Khoa cho chức vụ Phó tổng thống.) Tưởng từ chức vào năm sau, vào ngày 21 tháng 1, 1949, sau một loạt những thất bại chiến lược trước quân Cộng sản Trung Hoa tại Hoa Bắc, và Lý nhậm chức Quyền Tổng thống vào hôm sau.
Sauk hi Tưởng từ chức, Mao Trạch Đông tạm thời ngừng tấn công vào lãnh thổ Quốc dân đảng, tiến hành đàm phán về sự đầu hàng của Quốc dân đảng. Yêu cầu 8 điểm của Mao để chấm dứt nội chiến bao gồm:
- Trừng phạt tội phạm chiến tranh (Tưởng Giới Thạch được xem là tội phạm số 1)[12]
- Hủy bỏ Hiến pháp 1947;
- Hủy bỏ pháp luật Quốc dân đảng;
- Tái tổ chức quân đội Quốc dân;
- Tịch thu tài sản của các quan chức;
- Cải cách ruộng đất;
- Hủy bỏ các hòa ước bán nước;
- Triệu tập Hội nghị Chính trị hiệp thương toàn quốc để bầu ra một chính phủ liên hiệp dân chủ.
Hiểu rằng chấp nhận những yêu sách này cũng có nghĩa là đem Trung Hoa hai tay dâng cho Đảng Cộng sản, Lý tìm cách giảm nhẹ những điều khoản này. Đến tháng 4 năm 1949, khi phe Cộng sản nhận ra rằng Lý sẽ không chấp nhận yêu sách của họ, họ ra tối hậu thư ép ông phải chấp nhận yêu sách trong 5 ngày. Khi Lý từ chối, quân Cộng sản tiếp tục tấn công.[13]
Nỗ lực đàm phán của Lý với Cộng sản bị một số đảng viên cao cấp Quốc dân đảng xem là “nhu nhược”, và tăng thêm căng thẳng giữa Lý và Tưởng. Lý nỗ lực đàm phán với phe Cộng sản để đạt được thỏa thuận dựa trên Chính sách hòa bình 7 điểm của ông, bao gồm:
- Các “bộ tư lệnh tiễu phỉ” (剿總) do các sĩ quan quân đội chỉ huy
- Các mệnh lệnh phải khoan dung hơn
- Giải tán các đơn vị đặc nhiệm chống cộng (戡亂建國總隊)
- Thả tù chính trị
- Cho phép tự do báo chí
- Loại bỏ nhục hình
- Chấm dứt việc bắt người phi pháp
Những nỗ lực thực hiện 7 điểm của Lý bị phe Tưởng chống đối, và chỉ nằm trên giấy tờ. Tưởng còn chiếm giữ và chuyển sang Đài Loan hơn 200 triệu dollar vàng và tiền mặt vốn thuộc về chính phủ trung ương mà Lý rất cần để trang trải kinh phí cho chính quyền. Khi quân Cộng sản chiếm được Nam Kinh vào tháng 4 năm 1949, Lý từ chối cùng chính phủ trung ương rút về Quảng Đông, mà lại trở về Quảng Tây để thể hiện thái sự bất mãn cực độ với Tưởng.[14]
Cựu quân phiệt Diêm Tích Sơn nhanh chóng nhúng tay vào mâu thuẫn Tưởng-Lý, nỗ lực hòa giải 2 người để cùng chống lại cộng sản. Theo lời mời của Tưởng, Diêm đến gặp Lý để thuyết phục ông không lui về ở ẩn. Diêm đã bật khóc khi nói về việc Sơn Tây quê hương Diêm rơi vào tay cộng sản, và cảnh báo Lý rằng lý tưởng Quốc dân sẽ thất bại nếu Lý không đi Quảng Đông. Lý đồng ý trở lại với điều kiện là Tưởng giao nộp số tài sản vốn thuộc về chính phủ trung ương, và rằng Tưởng phải chấm dứt những hành động vượt quyền ông. Sauk hi Diêm chuyển những yêu cầu này cho Tưởng và ông ta đồng ý, Lý lên đường đi Quảng Đông.[14]
Tại Quảng Đông, Lý nỗ lực thành lập một chính phủ mới gồm cả hai phe thân Tưởng và chống Tưởng. Lựa chọn đầu tiên cho chức vụ Thủ tướng là Chu Cheng, một đảng viên kỳ cựu đang lưu vong do chống đối Tưởng mạnh mẽ. Do bị Lập pháp viện bác bỏ, Lý buộc phải lựa chọn Diêm Tích Sơn. Diêm vốn là người uyển chuyển, làm vừa lòng mọi người, nên được Tưởng ủng hộ dễ dàng.[14]
Xung đột Tưởng-Lý vẫn tiếp diễn. Dù đã hứa sẽ giao trả số tài sản đã chuyển ra Đài Loan, Tưởng dù một phần nhỏ cũng không chịu giao nộp. Không có vàng hay ngoại tệ, tiền do Lý và Diêm ban hành chỉ là giấy vụn.[15]
Dù không còn giữ chức vụ chính thức nào trong chính quyền, Tưởng vẫn ra lệnh cho quân đội, và rất nhiều sĩ quan tiếp tục trung thành với Tưởng. Không phối hợp được các lực lượng Quốc dân đảng, Lý buộc phải quay sang một kế hoạch phòng thủ mà ông đã soạn thảo từ năm 1948. Thay vì cố gắng phòng thủ toàn Hoa Nam, Lý ra lệnh rút toàn bộ lực lượng về Quảng Tây và Quảng Đông, hi vọng dựa vào quân số và địa hình để phòng thủ tại đây. Mục tiêu của chiến lược này là để giữ được một chỗ đứng trên đại lục, với hi vọng rằng Hoa Kỳ sẽ buộc phải can thiệp vào nội chiến tại Trung Hoa.[15]
Tưởng phản đối kế hoạch này vì nó sẽ đặt hầu hết những lực lượng trung thành với Tưởng dưới quyền Lý và những kẻ thù của Tưởng trong chính phủ trung ương. Để dập tắt sự chống đối của Tưởng, Lý bắt đầu loại bỏ các thân tín của Tưởng trong chính phủ trung ương. Diêm Tích Sơn vẫn trung dung giữa hai phe, khiến cả hai phe đều nghi ngờ ông ta. Do mâu thuẫn giữa Tưởng và Lý, Tưởng từ chối cho quân của ông ta hỗ trợ phòng thủ Quảng Tây và Quảng Đông, và Quảng Đông rơi vào tay quân Cộng sản vào tháng 10 năm 1949.[16]
Lưu vong
Sau khi mất Quảng Đông, Tưởng dời chính phủ về Trùng Khánh, còn Lý từ bỏ quyền lực và sang New York chữa bệnh tại Bệnh viện Đại học Columbia. Lý cũng viếng thăm Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman, và lên án Tưởng là một kẻ “độc tài” và “tiếm quyền.” Lý thề rằng ông sẽ “đập tan” thế lực của Tưởng một khi ông trở về Trung Hoa.[17]
Các tuyến phòng thủ của Quốc dân đảng tiếp tục tan vỡ. Tướng Hồ Tông Nam phớt lờ các mệnh lệnh của Lý, khiến viên tướng Hồi giáo Mã Hồng Quỳ tức giận. Mã Hồng Quỳ đánh điện cho Lý xin từ chức, rồi bay sang Đài Loan, giao mọi chức vụ cho người em họ Mã Hồng Tân.[18]
Tháng 12 năm 1949, Trùng Khánh thất thủ, Tưởng dời chính phủ về Đài Bắc, nhưng ông ta không chính thức tái nhiệm cho tới ngày 1 tháng 3, 1950. Tháng 1 năm 1952, Tưởng ra lệnh cho Giám sát viện, đã dời về Đài Loan, buộc tội Lý trong vụ “Lý Tông Nhân không hoàn thành nhiệm vụ do có hành động sai trái” (李宗仁違法失職案), và chính thức cách chức Phó tổng thống của Lý vào tháng 3 năm 1954.
Trở về Trung Hoa
Lý trở về đại lục vào ngày 20 tháng 7, 1965 với sự ủng hộ của Chu Ân Lai. Sự trở về của Lý được chính phủ cộng sản sử dụng để kêu gọi các đảng viên Quốc dân khác trở về. Lý mất vì ung thư tá tràng tại Bắc Kinh ở tuổi 78, trong thời kỳ đen tối nhất của Cách mạng Văn hóa do Mao Trạch Đông phát động.[11]
Sự trở về của Lý được những người cộng sản xem là “trở về với Tổ quốc trong nụ cười”, tương tự như sự “thay đổi” của cựu hoàng Phổ Nghi nhà Thanh. Tới ngày nay, một số đảng viên Quốc dân vẫn xem ông là một kẻ phản bội lý tưởng dân chủ.
Đời tư
Trong suốt sự nghiệp, Lý nổi tiếng là một nhà quân sự hăng hái và rất thù ghét giới trí thức, nhưng cũng là người rất liêm chính. Ông cũng không ưa gì âm nhạc. Giống như nhiều lãnh tụ Trung Hoa trong thập niên 1930, Lý từng rất hâm mộ chủ nghĩa phát xít châu Âu, coi đó là giải pháp cho những vấn đề của một Trung Hoa một thời kiêu hãnh nhưng nay suy yếu vì những vấn đề trong và ngoài nước. Những chuẩn mực đạo đức do bản thân ông đúc kết từ Nho giáo. Sau khi cắt đứt với Tưởng Giới Thạch năm 1929, Lý thường bộc lộ sự khủng hoảng lòng yêu nước. Lý cũng thần tượng sử gia Anh Edward Gibbon (1737–94) và công trình nổi tiếng Sự suy sụp và tan vỡ của Đế quốc Roma.[6]
Lý và đồng minh thân cận, viên tướng Hồi giáo Bạch Sùng Hy, rất gắn bó trong những vấn đề chính trị và quân sự. Họ còn có biệt danh Lý Bạch (李白), đặt theo tên một nhà thơ nổi tiếng.
Lý kết hôn với bà Lý Tú Văn (李秀文) năm 20 tuổi trong một cuộc hôn nhân được xếp đặt sẵn, nhưng họ nhanh chóng li hôn. Hai người có một con trai, Lý Ấu Lâm (李幼鄰). Năm 1924, Lý kết hôn với bà Quách Đức Khiết (郭德潔), bà mất vì ung thư vú không lâu sau khi họ trở về Bắc Kinh. Lý và Quách có một con trai: Lý Chí Thánh (李志聖). Lý sau đó tái hôn lần nữa với bà Hồ Hữu Tùng (胡友松), trẻ hơn ông đến 48 tuổi. Hồ đổi tên thành Vương Hỷ (王曦) sau khi Lý chết và tái hôn.
Lý cũng cùng viết quyển Hồi ký Lý Tông Nhân với sử gia Đường Đức Cương (唐德剛). Hồi ức của Lý rất có giá trị vì những chỉ trích mạnh mẽ đối với Tưởng Giới Thạch và những phân tích về thất bại chiến lược của Nhật tại Trung Hoa. Một tài liệu khác về cuộc đời Lý nhưng ít phổ biến hơn là quyển tiểu sử My Trusted Aide (Wode Gugong), do người họ hàng xa Namgo Chai của Lý chấp bút.
Xem thêm
Xem thêm
 |
Wikimedia Commons có thêm thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Lý Tông Nhân |
- Gillin, Donald G. “Portrait of a Warlord: Yen Hsi-shan in Shansi Province, 1911-1930.” The Journal of Asian Studies. Vol. 19, No. 3, May, 1960. Truy cập at: <http://www.jstor.org/stable/2943488> on ngày 23 tháng 2 năm 2011
- Gillin, Donald G. Warlord: Yen Hsi-shan in Shansi Province 1911-1949. Princeton, New Jersey: Princeton University Press. 1967.
- Li Zongren, Li Tsung-jen, Tong Te-kong. The memoirs of Li Tsung-jen. Boulder, Colo.: Westview Press. 1979. ISBN 0-89158-343-2.
- Spence, Jonathan D. The Search for Modern China, W.W. Norton and Company. 1999. ISBN 0-393-97351-4.
- “CHINA: Return of the Gimo”. TIME Magazine. Monday, Mar. 13, 1950. Truy cập at <http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,812143,00.html> on ngày 16 tháng 5 năm 2011.
- Jeffrey G. Barlow, THE ZHUANG: ETHNOGENESIS, ngày 12 tháng 12 năm 2005 COPYRIGHT, JEFFREY G. BARLOW, Department of History, Pacific University, 2043 College Way, Forest Grove, Oregon, 97116, EMAIL barlowj@pacificu.edu
Tham khảo
- ^ a ă Bonavia 119-120
- ^ Bonavia 119
- ^ a ă Bonavia 120
- ^ a ă Bonavia 121
- ^ Bonavia 121-122
- ^ a ă Bonavia 124
- ^ Gillin The Journal of Asian Studies 293
- ^ Bonavia 125
- ^ Barnouin and Yu 71
- ^ Spence 424
- ^ a ă Bonavia 126
- ^ Barnouin and Yu 171
- ^ Spence 486
- ^ a ă â Gillin Warlord 289
- ^ a ă Gillin Warlord 290
- ^ Gillin Warlord 291
- ^ TIME Magazine
- ^ Li, Li, and Tong 547
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày
Video yêu thích
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học Cây Lương thực Dạy và Học Tình yêu cuộc sống Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter