Thể loại:
Mặt Trăng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mặt Trăng
 |
Đặc điểm quỹ đạo |
Bán trục lớn |
384.400 km (0,0026 AU) |
Chu vi quỹ đạo |
2.413.402 km (0,016 AU) |
Độ lệch tâm |
0,0554 |
Cận điểm |
363.104 km (0,0024 AU) |
Viễn điểm |
405.696 km (0,0027 AU) |
Chu kỳ |
27,32166155 ngày
(27 ngày 7 giờ 43,2 phút) |
Chu kỳ biểu kiến |
29,530588 ngày
(29 ngày 12 giờ 44,0 phút) |
Tốc độ quỹ đạo
trung bình |
1,022 km/s |
Tốc độ quỹ đạo
cực đại |
1,082 km/s |
Tốc độ quỹ đạo
cực tiểu |
0,968 km/s |
Độ nghiêng |
giữa 28,60° và 18,30°
so với mặt phẳng xích đạo,
trung bình 5,145 396°
so với mặt phẳng hoàng đạo
xem quỹ đạo |
Kinh độ điểm mọc |
125,08° |
Góc cận điểm |
318,15° |
Là vệ tinh của |
Trái Đất |
Đặc điểm vật lý |
Đường kính
tại xích đạo |
3.476,2 km
(0,273 Trái Đất) |
Đường kính tại cực |
3.472,0 km
(0,273 Trái Đất) |
Độ dẹt |
0,0012 |
Diện tích bề mặt |
3,793×107 km²
(0,074 Trái Đất) |
Thể tích |
2,197×1010 km³
(0,020 Trái Đất) |
Khối lượng |
7,347 673×1022 kg
(0,0123 Trái Đất) |
Tỉ trọng trung bình |
3,344 g/cm³ |
Gia tốc trọng trường
tại xích đạo |
1,622 m/s2,
(0,1654 g) |
Tốc độ thoát |
2,38 km/s |
Chu kỳ tự quay |
27,321 661 ngày |
Vận tốc tự quay |
16,655 km/h
(tại xích đạo) |
Độ nghiêng trục quay |
thay đổi giữa
3,60° và 6,69°
(1,5424° so với
mặt phẳng hoàng đạo)
xem quỹ đạo |
Xích kinh độ
của cực bắc |
266,8577°
(17 h 47 ‘ 26 “) |
Thiên độ |
65,6411° |
Độ phản xạ |
0,12 |
Độ sáng biểu kiến |
-12,74 |
Nhiệt độ bề mặt |
cực tiểu |
trung bình |
cực đại |
40 K |
250 K |
396 K |
|
Thành phần thạch quyển |
Ôxy |
43% |
Silíc |
21% |
Nhôm |
10% |
Canxi |
9% |
Sắt |
9% |
Magiê |
5% |
Titan |
2% |
Niken |
0,6% |
Natri |
0,3% |
Crôm |
0,2% |
Kali |
0,1% |
Mangan |
0,1% |
Lưu huỳnh |
0,1% |
Phốtpho |
500 ppm |
Cacbon |
100 ppm |
Nitơ |
100 ppm |
Hiđrô |
50 ppm |
Hêli |
20 ppm |
Đặc điểm khí quyển |
Áp suất khí quyển |
3 × 10-13kPa |
Hêli |
25% |
Neon |
25% |
Hiđrô |
23% |
Agon |
20% |
Mêtan
Amoniac
Điôxít cacbon |
rất ít |
Để biết về khái niệm “Mặt Trăng” theo nghĩa chung chỉ các vật thể vệ tinh quay quanh một hành tinh hoặc tiểu hành tinh, xem
vệ tinh tự nhiên.
Mặt Trăng (tiếng Latin: Luna, ký hiệu: ☾) là vệ tinh tự nhiên duy nhất của Trái Đất và là vệ tinh tự nhiên lớn thứ năm trong Hệ Mặt Trời.
Khoảng cách trung bình tính từ tâm Trái Đất đến Mặt Trăng là 384.403 km, lớn khoảng 30 lần đường kính Trái Đất. Đường kính Mặt Trăng là 3.474 km[1], tức hơn một phần tư đường kính Trái Đất. Khối lượng Mặt Trăng khoảng bằng 2% khối lượng Trái Đất và lực hấp dẫn tại bề mặt Mặt Trăng bằng 17% lực hấp dẫn trên bề mặt Trái Đất. Mặt Trăng quay một vòng quanh Trái Đất với chu kỳ quỹ đạo 27,32 ngày, và các biến đổi định kỳ trong hình học của hệ Trái Đất-Mặt Trăng–Mặt Trời là nguyên nhân gây ra các pha Mặt Trăng, lặp lại sau mỗi chu kỳ giao hội 29,53 ngày.
Mặt Trăng là thiên thể duy nhất ngoài Trái Đất mà con người đã đặt chân tới. Năm 1959 là năm mang tính lịch sử đối với công cuộc khám phá Mặt Trăng, mở đầu bằng chuyến bay của vệ tinh nhân tạo Luna 1 của Liên bang Xô viết đến phạm vi của Mặt Trăng, tiếp đó Luna 2 rơi xuống bề mặt của Mặt Trăng và Luna 3 lần đầu tiên cung cấp ảnh mặt sau của Mặt Trăng. Năm 1966[1], Luna 9 trở thành tàu vũ trụ đầu tiên hạ cánh thành công và Luna 10 là tàu vũ trụ không người lái đầu tiên bay quanh Mặt Trăng. Hiện nay, các miệng hố đen ở vùng cực Nam của Mặt Trăng là nơi lạnh nhất trong hệ Mặt Trời.[2]
Cho đến nay, Chương trình Apollo của Hoa Kỳ đã thực hiện được những cuộc đổ bộ duy nhất của con người xuống Mặt Trăng, tổng cộng gồm sáu lần hạ cánh trong giai đoạn từ 1969 tới 1972. Năm 1969, Neil Armstrong và Buzz Aldrin là những người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng trong chuyến bay Apollo 11. Việc thám hiểm Mặt Trăng của loài người đã ngừng lại với sự chấm dứt của chương trình Apollo[cần dẫn nguồn], dù nhiều quốc gia đã thông báo các kế hoạch đưa người hay tàu vũ trụ robot tới Mặt Trăng.
Tên gọi và từ nguyên
Trong tiếng Việt, Mặt Trăng còn được gọi bằng những tên khác như ông trăng, ông giăng, giăng, nguyệt, Hằng Nga, Thường Nga, Thái Âm v.v… Không giống như vệ tinh của những hành tinh khác, Mặt Trăng – vệ tinh của Trái Đất – không có tên riêng nào khác. Trong một số ngôn ngữ, Mặt Trăng của Trái Đất được viết hoa để phân biệt với danh từ chung “Mặt Trăng”, nói đến các vệ tinh tự nhiên của các hành tinh khác như “the Moon” trong tiếng Anh[3] và “the moon”.
Từ moon (“Mặt Trăng” trong tiếng Anh) là một từ thuộc nhóm ngôn ngữ German, liên quan tới từ mensis trong tiếng Latin; từ này lại xuất phát từ gốc me- trong ngôn ngữ Ấn-Âu nguyên thủy (Proto-Indo-European), cũng xuất hiện trong measure (đo lường)[4] (thời gian), với sự gợi nhớ tới tầm quan trọng của nó trong việc đo đạc thời gian trong những từ có nguồn gốc từ nó như Monday (“thứ Hai” trong tiếng Anh), month (“tháng” trong tiếng Anh) và menstrual (hàng tháng/kinh nguyệt). Trong tiếng Anh, từ moon chỉ có nghĩa “Mặt Trăng” cho tới tận năm 1665, khi nó được mở rộng nghĩa để chỉ những vệ tinh tự nhiên mới được khám phá của các hành tinh khác[4]. Mặt Trăng thỉnh thoảng cũng được gọi theo tên tiếng Latin của nó, Luna, để phân biệt với các vệ tinh tự nhiên khác; tính từ có liên quan là lunar và một tiền tố tính từ seleno – hay hậu tố – selene (theo vị thần Hy Lạp Selene.
Bề mặt trên Mặt Trăng
-
Hai phía Mặt Trăng
Mặt Trăng nằm trên quỹ đạo quay đồng bộ, có nghĩa là nó hầu như giữ nguyên một mặt hướng về Trái Đất ở tất cả mọi thời điểm. Buổi đầu mới hình thành, Mặt Trăng quay chậm dần và bị khoá ở vị trí hiện tại vì những hiệu ứng ma sát xuất hiện cùng hiện tượng biến dạng thuỷ triều do Trái Đất gây ra[5].
Từ đã rất lâu khi Mặt Trăng còn quay nhanh hơn hiện tại rất nhiều, bướu thuỷ triều (tidal bulge) của nó chạy trước đường nối Trái Đất-Mặt Trăng bởi nó không thể làm xẹp bướu đủ nhanh để giữ bướu này luôn ở trên đường thẳng đó[6]. Lực quay khiến bướu luôn vượt quá đường nối này. Hiện tượng này gây ra mô men xoắn, làm giảm tốc độ quay của Mặt Trăng, như một lực vặn siết chặt đai ốc. Khi tốc độ quay của Mặt Trăng giảm xuống đủ để cân bằng với tốc độ quỹ đạo của nó, khi ấy bướu luôn hướng về phía Trái Đất, bướu nằm trên đường thẳng nối Trái Đất-Mặt Trăng, và lực xoắn biến mất. Điều này giải thích tại sao Mặt Trăng quay với tốc độ bằng tốc độ quỹ đạo và chúng ta luôn chỉ nhìn thấy một phía của Mặt Trăng.
Các biến đổi nhỏ (đu đưa – libration) trong góc quan sát cho phép chúng ta có thể nhìn thấy được khoảng 59% bề mặt Mặt Trăng (nhưng luôn luôn chỉ là một nửa ở mọi thời điểm)[1].
|
|
|
Phần nhìn thấy được từ Trái Đất |
|
Phần không nhìn thấy được từ Trái Đất |
Mặt quay về phía Trái Đất được gọi là phần nhìn thấy, và phía đối diện được gọi là phần không nhìn thấy. Phần không nhìn thấy thỉnh thoảng còn được gọi là “phần tối,” nhưng trên thực tế nó cũng được chiếu sáng thường xuyên như phần nhìn thấy: một lần trong mỗi ngày Mặt Trăng, trong tuần trăng mới mà chúng ta quan sát thấy từ Trái Đất khi phần nhìn thấy đang bị che tối. Phần không nhìn thấy của Mặt Trăng lần đầu tiên được tàu thăm dò Xô Viết Luna 3 chụp ảnh năm 1959. Một đặc điểm phân biệt của phần không nhìn thấy được là nó hầu như không có “các vùng tối Mặt Trăng” (các “biển”).
Các vùng tối trên Mặt Trăng/Biển Mặt Trăng
-
Các đồng bằng tối và hầu như không có đặc điểm riêng trên Mặt Trăng có thể được nhìn thấy rõ bằng mắt thường được gọi là “các vùng tối” hay các biển Mặt Trăng, từ tiếng Latin (mare) có nghĩa là “biển”, bởi chúng được các nhà thiên văn học cổ đại cho là những nơi chứa đầy nước. Hiện chúng đã được biết chỉ là những bề mặt lớn chứa dung nham bazan cổ đã đông đặc. Đa số các dung nham này đã được phun ra hay chảy vào những chỗ lõm hình thành nên sau các vụ va chạm thiên thạch hay sao chổi vào bề mặt Mặt Trăng. (Oceanus Procellarum là trường hợp khác bởi nó không được hình thành do va chạm). Các biển xuất hiện dày đặc phía bề mặt nhìn thấy được của Mặt Trăng, phía không nhìn thấy có rất ít biển và chúng chỉ chiếm khoảng 2% bề mặt[7], so với khoảng 31% ở phía đối diện[1]. Cách giải thích có vẻ đúng đắn nhất cho sự khác biệt này liên quan tới sự tập trung cao của các yếu tố sinh nhiệt phía bề mặt nhìn thấy được, như đã được thể hiện bởi các bản đồ địa hóa học có được từ những máy quang phổ tia gama[8][9]. Nhiều vùng có chứa những núi lửa hình khiên và các vòm núi lửa được tìm thấy trong các biển ở phía có thể nhìn thấy[10].
Terrae/Đất liền
Các vùng có màu sáng trên Mặt Trăng được gọi là terrae, hay theo cách thông thường hơn là các “cao nguyên”, bởi chúng cao hơn hầu hết các biển. Nhiều rặng núi cao ở phía bề mặt nhìn thấy được chạy dọc theo bờ ngoài các vùng trũng do va chạm lớn, nhiều vùng trũng này đã được bazan lấp kín. Chúng được cho là các tàn tích còn lại của các gờ bên ngoài của vùng trũng va chạm[11]. Không giống Trái Đất, không một ngọn núi lớn nào trên Mặt Trăng được cho là được hình thành từ các sự kiện kiến tạo[12].
Các bức ảnh được chụp bởi phi vụ Clementine năm 1994 cho thấy bốn vùng núi trên vùng gờ hố va chạm Peary rộng 73 km tại cực bắc Mặt Trăng luôn được chiếu sáng trong cả ngày Mặt Trăng. Những đỉnh sáng vĩnh cửu này là có thể do độ nghiêng trục tự quay rất nhỏ trên mặt phẳng hoàng đạo của Mặt Trăng. Không vùng sáng vĩnh cửu nào được phát hiện ở phía cực nam, dù vùng gờ của hố va chạm Shackleton được chiếu sáng trong khoảng 80% ngày Mặt Trăng. Một hậu quả khác từ việc Mặt Trăng có độ nghiêng trục nhỏ là một số vùng đáy của các hố va chạm vùng cực luôn ở trong bóng tối[13].
Hố va chạm
Bề mặt Mặt Trăng cho thấy bằng chứng rõ ràng rằng nó đã bị ảnh hưởng nhiều bởi các sự kiện va chạm thiên thạch[14]. Các hố va chạm hình thành khi các thiên thạch và sao chổi va chạm vào bề mặt Mặt Trăng, và nói chung có khoảng nửa triệu hố va chạm với đường kính hơn 1 km. Do các hố va chạm hình thành với tỷ lệ gần như cố định, nên số lượng hố va chạm trên một đơn vị diện tích chồng lên trên một đơn vị địa chất có thể được sử dụng để ước tính tuổi của bề mặt (xem Đếm hố va chạm). Vì không có khí quyển, thời tiết và các hoạt động địa chất gần đây nên nhiều hố va chạm được bảo tồn trong trạng thái khá tốt so với những hố va chạm trên bề mặt Trái Đất.
Hố va chạm lớn nhất trên Mặt Trăng, cũng là một trong các hố va chạm lớn nhất đã được biết đến trong Hệ Mặt Trời, là Vùng trũng Nam cực-Aitken. Vùng này nằm ở phía mặt không nhìn thấy, giữa Nam cực và xích đạo, và có đường kính khoảng 2.240 km và sâu khoảng 13 km[15]. Các vùng trũng va chạm lớn ở phía bề mặt nhìn thấy được gồm Imbrium, Serenitatis, Crisium và Nectaris.
Hầu hết các hố va chạm trên Mặt Trăng được đặt theo tên người, bao gồm tên các học giả, nhà khoa học, nhà thám hiểm, nhà nghệ thuật nổi tiếng (xem thêm danh sách nhân vật được đặt tên cho hố va chạm trên Mặt Trăng – tiếng Anh). Thói quen này bắt đầu từ năm 1645.
Regolith
Bao trùm phía ngoài bề mặt Mặt Trăng là một lớp bụi rất mịn (vật chất vỡ thành các phần tử rất nhỏ) và lớp bề mặt vỡ vụn do va chạm này được gọi là regolith. Bởi được hình thành từ các quá trình va chạm, regolith của các bề mặt già thường dày hơn tại các nơi bề mặt trẻ khác. Đặc biệt, người ta đã ước tính rằng regolith có độ dày thay đổi từ khoảng 3–5 m tại các biển, và khoảng 10–20 m trên các cao nguyên[16]. Bên dưới lớp regolith mịn là cái thường được gọi là megaregolith. Lớp này dày hơn rất nhiều (khoảng hàng chục km) và bao gồm lớp nền đá đứt gãy[17].
Nước trên Mặt Trăng
-
Những vụ bắn phá liên tiếp của các sao chổi và các thiên thạch có lẽ đã mang tới một lượng nước nhỏ vào bề mặt Mặt Trăng. Nếu như vậy, ánh sáng Mặt Trời sẽ phân chia đa phần lượng nước này thành các nguyên tố cấu tạo là hiđrô và ôxy, cả hai chất này theo thời gian nói chung lại bay vào vũ trụ, vì lực hấp dẫn của Mặt Trăng yếu. Tuy nhiên, vì độ nghiêng của trục tự quay của Mặt Trăng so với mặt phẳng hoàng đạo nhỏ, chỉ chênh 1,5°, nên có một số hố va chạm sâu gần các cực không bao giờ bị ánh sáng Mặt Trời trực tiếp chiếu tới (xem Hố va chạm Shackleton). Các phân tử nước ở trong các hố va chạm này có thể ổn định trong một thời gian dài.
Clementine đã vẽ bản đồ các hố va chạm tại cực nam Mặt Trăng[18] nơi luôn ở trong bóng tối, và các cuộc thử nghiệm mô phỏng máy tính cho thấy có thể có tới 14.000 km² luôn ở trong bóng tối[13]. Các kết quả thám sát radar từ phi vụ Clementine cho rằng có một số túi nước nhỏ, đóng băng nằm gần bề mặt, và dữ liệu từ máy quang phổ nơtron của Lunar Prospector cho thấy sự tập trung lớn dị thường của hiđrô ở vài mét phía trên của regolith gần các vùng cực[19]. Các ước tính tổng số lượng băng gần một kilômét khối.
Băng có thể được khai thác và phân chia thành nguyên tử cấu tạo ra nó là hiđrô và ôxy bằng các lò phản ứng hạt nhân hay các trạm điện mặt trời. Sự hiện diện của lượng nước sử dụng được trên Mặt Trăng là yếu tố quan trọng để việc thực hiện tham vọng đưa con người lên sinh sống trên Mặt Trăng có thể trở thành hiện thực, bởi việc chuyên chở nước từ Trái Đất lên quá tốn kém. Tuy nhiên, những quan sát gần đây bằng radar hành tinh Arecibo cho thấy một số dữ liệu thám sát radar của chương trình Clementine gần vùng cực trước kia được cho là dấu hiệu của sự hiện diện của băng thì trên thực tế có thể chỉ là hậu quả từ những tảng đá bị bắn ra từ các hố va chạm gần đây[20]. Năm 2008, những phân tích mới đã tìm thấy một lượng nước nhỏ ở bên trong dung nham núi lửa mang về Trái Đất từ tàu Apollo 15.[21] Tháng 9 năm 2009, phổ kế trên tàu Chandrayaan-1‘ đã xác định được các vạch phổ hấp thụ của nước và hiđrôxyl nhờ sự phản xạ của tia sáng Mặt Trời, mang lại chứng cứ về sự có mặt của một lượng lớn nước trên bề mặt của Mặt Trăng, có thể cao tới 1.000;ppm.[22] Vài tuần sau, tàu LCROSS phóng một thiết bị va chạm nặng 2.300 kg vào một hố va chạm ở vùng cực tối vĩnh cửu, và xác định được ít nhất 100 kg nước trong đám vật chất bắn tung lên từ vụ va chạm.[23][24]
Các đặc điểm vật lý
Cấu trúc bên trong
-
Hình giản đồ cấu trúc bên trong Mặt Trăng
Mặt Trăng là một vật thể phân dị, về mặt địa hoá học gồm một lớp vỏ, một lớp phủ, và lõi. Cấu trúc này được cho là kết quả của sự kết tinh phân đoạn của một biển macma chỉ một thời gian ngắn sau khi nó hình thành khoảng 4,5 tỷ năm trước. Năng lượng cần thiết để làm tan chảy phần phía ngoài của Mặt Trăng thường được cho là xuất phát từ một sự kiện va chạm lớn được cho là đã hình thành nên hệ thống Trái Đất-Mặt Trăng, và sự bồi đắp sau đó của vật chất trong quỹ đạo Trái Đất. Sự kết tinh của biển macma khiến xuất hiện lớp phủ mafic và một lớp vỏ giàu plagiocla (xem Nguồn gốc và tiến hoá địa chất bên dưới).
Việc vẽ bản đồ địa hoá học từ quỹ đạo cho thấy lớp vỏ Mặt Trăng gồm phần lớn thành phần là anorthosit,[25] phù hợp với giả thuyết biển macma. Về các nguyên tố, lớp vỏ gồm chủ yếu là ôxy, silic, magiê, sắt, canxi và nhôm. Dựa trên các kỹ thuật địa vật lý, chiều dày của nó được ước tính trung bình khoảng 50 km[26].
Sự tan chảy một phần bên trong lớp phủ Mặt Trăng khiến phún xạ của biển bazan nổi lên trên bề mặt Mặt Trăng. Các phân tích bazan này cho thấy lớp phủ bao gồm chủ yếu là các khoáng chất olivin, orthopyroxen và clinopyroxen, và rằng lớp phủ Mặt Trăng có nhiều sắt hơn Trái Đất. Một số bazan Mặt Trăng chứa rất nhiều titan (hiện diện trong khoáng chất ilmenit), cho thấy lớp phủ có sự không đồng nhất lớn trong thành phần. Các trận động đất trên Mặt Trăng được phát hiện xảy ra sâu bên trong lớp phủ, khoảng 1.000 km dưới bề mặt. Chúng diễn ra theo chu kỳ hàng tháng và liên quan tới các ứng suất thuỷ triều gây ra bởi quỹ đạo lệch tâm của Mặt Trăng quanh Trái Đất[26].
Mặt Trăng có mật độ trung bình 3.346,4 kg/m³, khiến nó trở thành vệ tinh có mật độ lớn thứ hai trong Hệ Mặt Trời sau Io. Tuy nhiên, nhiều bằng chứng cho thấy có thể lõi Mặt Trăng nhỏ, với bán kính khoảng 350 km hay nhỏ hơn[26]. Nó chỉ bằng khoảng 20% kích thước Mặt Trăng, trái ngược so với 50% của đa số các thiên thể khác. Thành phần lõi Mặt Trăng không đặc chắc, nhưng phần lớn tin rằng nó gồm một lõi sắt kim loại với một lượng nhỏ lưu huỳnh và niken. Các phân tích về sự khác biệt trong thời gian tự quay của Mặt Trăng cho thấy ít nhất lõi Mặt Trăng cũng nóng chảy một phần[27].
Địa hình
-
Địa hình Mặt Trăng, theo thể địa cầu Mặt Trăng
Địa hình Mặt Trăng đã được đo đạc bằng các biện pháp đo độ cao laser và phân tích hình lập thể, đa số được thực hiện gần đây từ các dữ liệu thu thập được trong phi vụ Clementine. Đặc điểm địa hình dễ nhận thấy nhất là Vùng trũng Nam cực-Aitken phía bề mặt không nhìn thấy, nơi có những điểm thấp nhất của Mặt Trăng. Các điểm cao nhất ở ngay phía đông bắc vùng trũng này, và nó cho thấy vùng này có thể có những trầm tích vật phóng núi lửa dày đã xuất hiện trong sự kiện va chạm xiên vào vùng trũng Nam cực-Aitken. Các vùng trũng do va chạm lớn khác, như Imbrium, Serenitatis, Crisium, Smythii và Orientale, cũng có địa hình vùng khá thấp và các gờ tròn nổi. Một đặc điểm phân biệt khác của hình dáng Mặt Trăng là cao độ trung bình ở phía không nhìn thấy khoảng 1,9 km cao hơn so với phía nhìn thấy[26].
Trường hấp dẫn
-
Trường hấp dẫn của Mặt Trăng đã được xác định qua việc thám sát các tín hiệu radio do các tàu vũ trụ bay trên quỹ đạo phát ra. Nguyên tắc sử dụng dựa trên Hiệu ứng Doppler, theo đó việc tàu vũ trụ tăng tốc theo hướng đường quan sát có thể được xác định bằng những thay đổi tăng nhỏ trong tần số tín hiệu radio, và khoảng cách từ tàu vũ trụ tới một trạm trên Trái Đất. Tuy nhiên, vì sự quay đồng bộ của Mặt Trăng vẫn không thể thám sát tàu vũ trụ vượt quá các rìa của Mặt Trăng, và trường hấp dẫn phía bề mặt không nhìn thấy được vì thế vẫn còn chưa được biết rõ[28].
Sự dị thường hấp dẫn xuyên tâm trên bề mặt Mặt Trăng
Đặc điểm chính của trường hấp dẫn Mặt Trăng là sự hiện diện của các mascon (tập trung khối lượng), là những dị thường hấp dẫn dương gắn liền với một số vùng trũng va chạm lớn[29]. Những dị thường này ảnh hưởng lớn tới quỹ đạo của các tàu vũ trụ quay xung quanh Mặt Trăng, và một mô hình hấp dẫn chính xác là cần thiết để lập kế hoạch cho các phi vụ tàu vũ trụ có và không có người lái. Các mascon một phần xuất hiện bởi sự hiện diện của các dòng chảy dung nham bazan vào một số vùng trũng va chạm. Tuy nhiên, các dòng chảy dung nham chính chúng lại không thể giải thích toàn bộ trường hấp dẫn, và phay nghịch của mặt phân giới lớp vỏ-lớp phủ cũng là điều cần thiết. Dựa trên các mô hình hấp dẫn Lunar Prospector, người ta thấy rằng một số mascon tồn tại nhưng không cho thấy bằng chứng cho thuyết núi lửa biển bazan[30]. Sự mở rộng to lớn của núi lửa biển bazan gắn liền với Oceanus Procellarum không chỉ ra sự bất thường hấp dẫn dương.
Từ trường
-
Tổng cường độ từ trường tại bề mặt Mặt Trăng, kết quả từ cuộc thí nghiệm đo phản xạ electron của
Lunar Prospector
Mặt Trăng có một từ trường bên ngoài trong khoảng một tới một trăm nanotesla— chưa bằng 1% từ trường Trái Đất (khoảng 30-60 microtesla). Các khác biệt chính khác là Mặt Trăng hiện tại không có một từ trường lưỡng cực (lẽ ra phải được tạo ra bởi địa động lực trong lõi của nó), và sự từ hóa hiện diện hầu như đều có nguồn gốc từ lớp vỏ[31]. Một giả thuyết cho rằng sự từ hóa ở lớp vỏ đã xuất hiện ngay từ buổi đầu lịch sử Mặt Trăng khi địa động lực đang hoạt động. Tuy nhiên, kích thước nhỏ của lõi Mặt Trăng là một yếu tố cản trở tiềm tàng cho giả thuyết này. Một giả thuyết khác, có thể trên một vật thể không có không khí như Mặt Trăng, các từ trường tạm thời có thể xuất hiện trong những sự kiện va chạm lớn. Ủng hộ giả thuyết này, cần lưu ý rằng sự từ hóa lớp vỏ lớn nhất là ở gần các vùng đối chân của những vùng trũng do va chạm lớn. Người ta đề xuất rằng một hiện tượng như vậy có thể xảy ra từ sự mở rộng tự do của một đám mây plasma sinh ra từ va chạm bao quanh Mặt Trăng với sự hiện diện của một từ trường bao quanh[32].
Khí quyển
-
Mặt Trăng có khí quyển mỏng đến nỗi hầu như không đáng kể, với tổng khối lượng khí quyển chưa tới 104 kg[33]. Một nguồn gốc hình thành khí quyển Mặt Trăng chính là hiện tượng tự phun khí—sự phun các loại khí như radon hình thành bởi quá trình phân rã phóng xạ bên trong lớp vỏ và lớp phủ[34]. Một nguồn quan trọng khác hình thành trong quá trình tiên xạ, liên quan tới sự bắn phá của vi thiên thạch, các ion, electron của gió Mặt Trời và ánh sáng Mặt Trời[25]. Các loại khí phát sinh từ quá trình tiên xạ hoặc chui vào trong regolith vì lực hấp dẫn của Mặt Trăng, hoặc có thể lại rơi vào vũ trụ vì áp suất bức xạ của Mặt Trời hay bị quét sạch bởi từ trường gió Mặt Trời nếu chúng đã bị ion hoá. Các nguyên tố natri và kali đã được phát hiện bằng cách phương pháp quang phổ trên Trái Đất, trong khi nguyên tố radon–222 (222Rn) và poloni-210 (210Po) đã được suy ra từ máy quang phổ hạt alpha của Lunar Prospector[35]. Agon–40 (40Ar), heli-4 (4He), ôxy (O2) và/hay metan (CH4), nitơ (N2) và/hay mônôxít cacbon (CO), và điôxít cacbon (CO2) đã được phát hiện tại chỗ bởi các máy do các nhà du hành vũ trụ chương trình Apollo để lại[36].
Nhiệt độ bề mặt
Ban ngày trên Mặt Trăng, nhiệt độ trung bình là 107 °C, còn ban đêm nhiệt độ là -153 °C[37].
Nguồn gốc và sự tiến hoá địa chất
Hình thành
Ảnh Mặt Trăng quan sát từ Bỉ
Nhiều cơ cấu đã được đưa ra nhằm giải thích sự hình thành của Mặt Trăng. Mọi người tin rằng Mặt Trăng đã được hình thành từ 4,527 ± 0,010 tỷ năm trước, khoảng 30-50 triệu năm sau sự hình thành của Hệ Mặt Trời[38].
- Giả thuyết phân đôi
- Nghiên cứu ban đầu cho rằng Mặt Trăng đã vỡ ra từ vỏ Trái Đất bởi các lực ly tâm, để lại một vùng trũng – được cho là Thái Bình Dương – [39]. Tuy nhiên, ý tưởng này đòi hỏi Trái Đất phải có một tốc độ quay ban đầu rất lớn, thậm chí nếu điều này có thể xảy ra, quá trình đó sẽ khiến Mặt Trăng phải quay theo mặt phẳng xích đạo của Trái Đất, nhưng thực tế lại không phải như vậy.
- Giả thuyết bắt giữ
- Nghiên cứu khác lại cho rằng Mặt Trăng đã được hình thành ở đâu đó và cuối cùng bị lực hấp dẫn của Trái Đất bắt giữ[40]. Tuy nhiên, các điều kiện được cho là cần thiết để một cơ cấu như vậy hoạt động, như một khí quyển mở rộng của Trái Đất nhằm tiêu diệt năng lượng của Mặt Trăng đi ngang qua, là không thể xảy ra.
- Giả thuyết cùng hình thành
- Giả thuyết cùng hình thành cho rằng Trái Đất và Mặt Trăng cùng hình thành ở một thời điểm và vị trí từ đĩa bồi đắp nguyên thuỷ. Mặt Trăng đã được hình thành từ vật chất bao quanh Tiền Trái Đất, tương tự sự hình thành của các hành tinh xung quanh Mặt Trời. Một số người cho rằng giả thuyết này không giải thích thỏa đáng sự suy kiệt của sắt kim loại trên Mặt Trăng.
Một sự thiếu hụt lớn trong mọi giả thuyết trên là chúng không thể giải thích được động lượng góc cao của hệ Trái Đất-Mặt Trăng[41].
- Giả thuyết vụ va chạm lớn
- Giả thuyết ưu thế nhất hiện tại là hệ Trái Đất-Mặt Trăng đã được hình thành như kết quả của một vụ va chạm lớn. Một vật thể cỡ Sao Hỏa (được gọi là “Theia“) được cho là đã đâm vào Tiền Trái Đất, đẩy bắn ra lượng vật chất đủ vào trong quỹ đạo Tiền Trái Đất để hình thành nên Mặt Trăng qua quá trình bồi tụ[1]. Bởi bồi tụ là quá trình mà mọi hành tinh được cho là đều phải trải qua để hình thành, các vụ va chạm lớn được cho là đã ảnh hưởng tới hầu hết, nếu không phải toàn bộ quá trình hình thành hành tinh. Các mô hình giả lập máy tính về một vụ va chạm lớn phù hợp với các đo đạc về động lượng góc của hệ Trái Đất-Mặt Trăng, cũng như kích thước nhỏ của lõi Mặt Trăng[42]. Các câu hỏi vẫn chưa được giải đáp của giả thuyết này liên quan tới việc xác định tương quan kích thước của Tiền Trái Đất và Theia và bao nhiêu vật liệu từ hai thiên thể trên đã góp phần hình thành nên Mặt Trăng.
Biển macma Mặt Trăng
Vì kết quả của một lượng lớn năng lượng được giải phóng trong vụ va chạm lớn và sự bồi tụ vật liệu sau đó trên quỹ đạo Trái Đất, mọi người thường cho rằng một phần lớn Mặt Trăng trước kia từng tan chảy. Phần tan chảy bên ngoài của Mặt Trăng ở thời điểm đó được gọi là biển macma, và ước tính độ sâu của nó trong khoảng 500 km cho tới toàn bộ bán kính Mặt Trăng[8].
Khi biển macma nguội đi, sự kết tinh phân đoạn và phân dị của nó khiến tạo thành lớp phủ và lớp vỏ riêng biệt. Lớp phủ được cho là được hình thành chủ yếu bởi sự kết tủa và lắng đọng của các khoáng chất olivin, clinopyroxen và orthopyroxen. Sau khi khoảng 3/4 biển macma kết tinh, khoáng chất anorthit được cho là đã kết tủa và trôi nổi lên bề mặt bởi nó có mật độ thấp, hình thành nên lớp vỏ[8].
Các chất lỏng cuối cùng kết tinh từ biển macma có thể ban đầu đã len giữa lớp vỏ và áo, và có thể chứa nhiều nguyên tố không tương thích và tạo nhiệt. Thành phần địa hóa học này được gọi bằng tên viết tắt theo các chữ cái đầu KREEP, của kali (K), các nguyên tố đất hiếm (REE) và phốt pho (P), và có lẽ đã tập trung trong Procellarum KREEP Terrane, là một vùng địa chất nhỏ bao gồm hầu hết Oceanus Procellarum và Biển Imbrium ở phần bề mặt nhìn thấy được của Mặt Trăng[26].
Tiến hóa địa chất
-
Một phần lớn tiến hóa địa chất của Mặt Trăng hậu biển macma là do quá trình hình thành hố va chạm. Niên đại địa chất Mặt Trăng chủ yếu được phân chia dựa trên sự hình thành các vùng trũng lớn do va chạm, như Nectaris, Imbrium và Orientale. Các cấu trúc va chạm này có đặc điểm là những gờ tròn vật chất do va chạm hất lên, và thường có đường kính lên tới hàng trăm đến hàng ngàn kilômét. Mỗi vùng trũng nhiều gờ này đều gắn liền với một bề mặt trầm tích vật phóng lớn để hình thành các tầng của địa tầng khu vực. Tuy chỉ một số vùng trũng đa gờ được xác định niên đại chính xác, chúng rất hữu ích để xác định niên đại gần đúng dựa trên các vùng đất theo địa tầng. Các ảnh hưởng tiếp diễn của va chạm là nguyên nhân hình thành nên regolith.
Quá trình địa chất lớn khác ảnh hưởng tới bề mặt Mặt Trăng là biển núi lửa. Sự tăng các nguyên tố tạo nhiệt bên trong Procellarum KREEP Terrane được cho là đã khiến lớp phủ bên dưới nóng lên, và cuối cùng nóng chảy một phần. Một phần những macma đó tràn lên bề mặt và phun trào, gây ra sự tập trung cao của bazan biển ở phía bề mặt nhìn thấy được của Mặt Trăng[8]. Đa phần biển bazan trên Mặt Trăng đã phun trào trong kỷ Imbrium ở vùng địa chất này từ 3,0–3,5 tỷ năm trước. Tuy nhiên, một số mẫu có niên đại từ tới 4,2 tỷ năm trước[43] và những vụ phun trào gần đây nhất, dựa trên phương pháp đếm hố va chạm, được cho là đã xảy ra chỉ từ 1,2 tỷ năm trước[44].
Đã có tranh cãi về việc các đặc điểm trên bề mặt Mặt Trăng có thay đổi theo thời gian hay không. Một số nhà quan sát đã tuyên bố rằng các hố va chạm có xuất hiện hoặc mất đi, hay rằng các hình thức khác của các hiện tượng tạm thời có thể xảy ra. Ngày nay, nhiều tuyên bố như vậy được cho là không thực tế, vì việc quan sát được tiến hành dưới các điều kiện ánh sáng khác nhau, quan sát thiên văn học kém, hay sự thiếu chính xác của các tấm bản đồ trước đó, Tuy nhiên, người ta biết rằng hiện tượng phun trào khí đôi khi có thể xảy ra và chúng có thể là yếu tố chịu trách nhiệm cho một tỷ lệ phần trăm nhỏ các hiện tượng nhất thời trên Mặt Trăng đã được thông báo. Gần đây, đã có ý kiến cho rằng một vùng có đường kính khoảng 3 km trên bề mặt Mặt Trăng bị biến đổi bởi một sự kiện phun trào khí ga khoảng 1 triệu năm trước[45][46].
Đá Mặt Trăng
-
Đá Mặt Trăng được xếp thành hai loại, dựa trên địa điểm tồn tại của chúng tại các cao nguyên Mặt Trăng (terrae) hay tại các biển. Đá trên các cao nguyên gồm ba bộ: anorthosit sắt, magiê và kiềm (một số người coi bộ kiềm là một tập hợp con của bộ magiê). Đá thuộc bộ anorthosit sắt gồm hầu như chỉ là khoáng chất anorthit (một calic plagiocla fenspa) và được cho là đại diện cho sự tích tụ plagiocla trôi nổi của biển macma Mặt Trăng. Theo các biện pháp tính niên đại phóng xạ thì anorthosit sắt đã được hình thành từ 4,4 tỷ năm trước[43][44].
Đá bộ magiê và kiềm chủ yếu là đá sâu mafic. Các loại đá đặc trưng gồm dunit, troctolit, gabbro, anorthosit kiềm và hiếm hơn là granit. Trái với bộ anorthosit sắt, các loại đá này đều có tỷ lệ Mg/Fe cao trong các khoáng vật mafic của chúng. Nói chung, các loại đá này là sự xâm nhập vào lớp vỏ cao nguyên đã hình thành từ trước (dù một số ví dụ hiếm hơn có lẽ là sự phun trào dung nham), và chúng đã hình thành từ khoảng 4,4–3,9 tỷ năm trước. Nhiều loại đá trên có sự phổ biến cao của, hay về mặt phát sinh có liên quan tới, thành phần địa hóa học KREEP.
Các biển Mặt Trăng gồm toàn bộ các biển bazan. Tuy tương tự như bazan Trái Đất, chúng chứa nhiều sắt hơn, và hoàn toàn không có chứa các sản phẩm bị biến đổi bởi nước, và chứa nhiều titan[47][48].
Các nhà du hành vũ trụ đã thông báo rằng bụi từ bề mặt kết xuống giống như tuyết và có mùi thuốc súng cháy[49]. Bụi hầu hết được hình thành từ thủy tinh điôxít silic (SiO2), có lẽ được tạo ra từ các thiên thạch đã đâm xuống bề mặt Mặt Trăng. Chúng cũng có chứa canxi và magiê.
Chuyển động
-
Các tham số quỹ đạo
Quỹ đạo chuyển động của Mặt Trăng
Mặt Trăng chuyển động quanh Trái Đất trên quỹ đạo hình elíp gần tròn ở khoảng cách trung bình 384.403 km với cận điểm 363.104 km, viễn điểm 405.696 km và độ lệch tâm trung bình 0,0554. Giá trị độ lệch tâm này thay đổi từ 0,043 đến 0,072 trong chu kì 8,85 năm. Mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng quanh Trái Đất nằm nghiêng so với mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời trong khoảng 4°59′ đến 5°18′, với giá trị trung bình 5°9′. Chu kỳ quỹ đạo khoảng 27,321 ngày, kinh độ của điểm nút lên 125,08°, acgumen của cận điểm 318,15°.
Chuyển động biểu kiến
Chuyển động biểu kiến của Mặt Trăng là kết quả tổng hợp chuyển động tương đối của nhiều thiên thể và của người quan sát, trong đó các chuyển động thành phần còn chịu ảnh hưởng nhiễu từ các thiên thể khác trong hệ Mặt Trời và từ tính chất cấu trúc các thiên thể. Mặt Trăng chuyển động biểu kiến theo hướng Đông Nam do chuyển động xoay của Trái Đất. Trên nền trời sao, nó dịch chuyển theo hướng Tây trung bình mỗi ngày 13° do chuyển động quanh Trái Đất và hàng ngày Mặt Trăng tụt lùi sau Mặt Trời 12° do Mặt Trời tiến về hướng Đông khoảng 1° mỗi ngày. Hàng ngày, Mặt Trăng mọc muộn hơn ngày trước đó trung bình 50 phút. Tháng giao hội của nó khoảng 29,53 ngày, dài hơn một chút so với chu kỳ quỹ đạo của Mặt Trăng (27,32 ngày), vì Trái Đất thực hiện chuyển động riêng của mình trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời, nên Mặt Trăng phải mất thêm một khoảng thời gian để trở về vị trí cũ của nó so với Mặt Trời[1].
Các nguyên nhân gây bất ổn định trong quỹ đạo
- Nhiễu loạn kỳ sai
Nhiễu loạn kỳ sai là tác động nhiễu loạn nhỏ có chu kì của Mặt Trời đến chuyển động của Mặt Trăng trên quỹ đạo do các vị trí khác nhau của Mặt Trời so với đường củng điểm. Vận tốc góc không đều của Mặt Trăng trên quỹ đạo đã được biết đến từ thời cổ đại. Tác động này đã được nhà thiên văn Hy Lạp Ptolemaeus nhắc đến trong quyển Almagest. Ông cho rằng tác động này với chu kì 31,8 ngày có thể gây nhiễu tối đa 1°16,4′ đến nhiễu loạn lớn trong chuyển động của Mặt Trăng.
- Nhiễu loạn dao động
Nhiễu loạn dao động là hiện tượng gây nhiễu trong chuyển động của Mặt Trăng do tác động của lực hấp dẫn nhiễu loạn từ Mặt Trời. Hiện tượng này là những biến đổi nhỏ với biên độ 39′ 30″ [50] trong chuyển động của Mặt Trăng, lúc nhanh hơn, lúc chậm hơn so với chuyển động trung bình trên quỹ đạo của mình với chu kì bằng một phần hai chu kì giao hội. Nhiễu quỹ đạo của Mặt Trăng được Tycho Brahe phát hiện và sau đó Isaac Newton giải thích trên cơ sở lí thuyết nhiễu trong trường hấp dẫn.
Đa số các hiệu ứng thủy triều quan sát được trên Trái Đất đều do lực kéo hấp dẫn của Mặt Trăng, Mặt Trời chỉ gây một hiệu ứng nhỏ. Các hiệu ứng thủy triều dẫn khiến khoảng cách trung bình giữa Trái Đất và Mặt Trăng tăng khoảng 3,8 m mỗi thế kỷ, hay 3,8 cm mỗi năm.[51] Vì hiệu ứng bảo toàn động lượng góc, sự tăng bán trục lớn của Mặt Trăng gắn liền với sự chậm dần tốc độ tự quay của Trái Đất khoảng 0,002 giây mỗi ngày sau mỗi thế kỷ.[52]
Hệ Trái Đất-Mặt Trăng thỉnh thoảng được coi là một hành tinh đôi chứ không phải một hệ hành tinh-vệ tinh. Điều này bởi kích thước đặc biệt lớn của Mặt Trăng so với hành tinh của nó; Mặt Trăng có đường kính bằng một phần tư đường kính Trái Đất và có khối lượng bằng 1/81 khối lượng Trái Đất. Tuy nhiên, định nghĩa này đã bị một số người chỉ trích, bởi khối tâm chung của hệ nằm khoảng 1.700 km bên dưới bề mặt Trái Đất, hay khoảng một phần tư bán kính Trái Đất. Bề mặt Mặt Trăng chưa bằng 1/10 bề mặt Trái Đất, và chỉ bằng khoảng một phần tư diện tích phần đất liền của Trái Đất (hay cỡ diện tích Nga, Canada và Hoa Kỳ cộng lại).
Năm 1997, tiểu hành tinh 3753 Cruithne được khám phá có quỹ đạo hình móng ngựa liên kết với Trái Đất một cách bất thường. Tuy nhiên, các nhà thiên văn học không coi nó là một Mặt Trăng thứ hai của Trái Đất, và quỹ đạo của nó không ổn định trong thời gian dài.[53] Ba tiểu hành tinh gần Trái Đất khác, (54509) 2000 PH5, (85770) 1998 UP1 và 2002 AA29, nằm trên quỹ đạo tương tự quỹ đạo Cruithne, cũng đã được phát hiện ra.[54]
Hình minh họa khoảng thời gian thực của ánh sáng đi từ Trái Đất đến Mặt Trăng hết 1,225
giây, với tỉ lệ tương đối về kích thước. Khoảng cách giữa hệ Trái Đất – Mặt Trăng đến Mặt Trời là 8,28
phút ánh sáng.
Nó là Mặt Trăng lớn nhất trong Hệ Mặt Trời về kích thước tương đối so với hành tinh. (Charon lớn hơn về kích thước so sánh so với hành tinh lùn Diêm vương.) Các vệ tinh tự nhiên bay quanh các hành tinh khác được gọi là “các Mặt Trăng”, theo tên Mặt Trăng của Trái Đất.
Thủy triều
Thủy triều trên Trái Đất do lực thủy triều của trường hấp dẫn của Mặt Trăng gây ra và được khuếch đại bởi nhiều hiệu ứng trong các đại dương của Trái Đất. Lực hấp dẫn thủy triều xuất hiện bởi phía Trái Đất hướng về Mặt Trăng (gần nó hơn) bị hút mạnh hơn bởi lực hấp dẫn của Mặt Trăng so với tâm Trái Đất và phía bên kia thì càng thấp hơn nữa. Thủy triều hấp dẫn kéo các đại dương của Trái Đất thành một hình elip với Trái Đất ở trung tâm. Hiệu ứng này tạo nên hai “bướu” nước cao trên Trái Đất; một ở phía gần Mặt Trăng và một ở phía xa. Bởi hai bướu này quay quanh Trái Đất mỗi lần một ngày khi Trái Đất tự quay quanh trục của nó, nước trong đại dương liên tục chạy về hướng hai bướu đang chuyển động. Các hiệu ứng của hai bướu và các dòng hải lưu lớn trên biển đuổi theo chúng được khuếch đại bởi sự tham gia của các hiệu ứng khác; cụ thể là sự kết hợp ma sát của nước tới sự quay của Trái Đất qua các đáy biển, quán tính của chuyển động của nước, các lòng chảo đại dương nông dần lên về phía đất liền, và sự dao động giữa các lòng chảo đại dương khác nhau. Sự khuếch đại hiệu ứng hơi giống kiểu nước đập lên sườn nghiêng của một bồn tắm sau khi có sự nhiễu loạn do thân người gây ra ở phần đáy sâu của bồn.
Sự kết hợp hấp dẫn giữa Mặt Trăng và bướu đại dương gần với Mặt Trăng ảnh hưởng tới quỹ đạo của nó. Trái Đất tự quay trên trục trên cùng hướng, và ở tốc độ nhanh hơn khoảng 27 lần, so với Mặt Trăng quay quanh Trái Đất. Vì thế, sự kết hợp ma sát giữa đáy biển và nước đại dương, cũng như quán tính của nước, kéo đỉnh của bướu thủy triều gần Mặt Trăng hơi tiến hơn về phía trước của đường thẳng tưởng tượng nối trung tâm Trái Đất với Mặt Trăng. Từ góc nhìn Mặt Trăng, trung tâm khối lượng của bướu thủy triều gần Mặt Trăng liên tục chạy trước điểm mà nó đang quay. Tương tự như vậy hiệu ứng ngược lại cũng xảy ra với bướu phía xa; nó lùi lại phía sau đường nối tưởng tượng. Tuy nhiên, nó cách xa 12.756 km và có kết hợp hấp dẫn với Mặt Trăng thấp hơn. Vì thế, Mặt Trăng liên tục bị hút hấp dẫn tiến về phía trước trên quỹ đạo của nó với Trái Đất. Sự kết hợp hấp dẫn này làm giảm động năng và động lượng góc của sự tự quay của Trái Đất (xem thêm, Ngày và Giây nhuận). Trái lại, động lượng góc được tăng thêm cho quỹ đạo của Mặt Trăng, khiến Mặt Trăng bị đưa vào một quỹ đạo xa hơn và dài hơn. Hiệu ứng với bán kính quỹ đạo của Mặt Trăng khá nhỏ, chỉ 0,10 ppb/năm, nhưng dẫn tới sự tăng khoảng cách đo được hàng năm là 3,82 cm trong khoảng cách Trái Đất-Mặt Trăng.[51] Dần dần, hiệu ứng này trở nên dễ nhận thấy hơn, từ khi các nhà du hành vũ trụ lần đầu tiên đặt chân xuống Mặt Trăng 39 năm về trước, hiện Mặt Trăng đã cách xa chúng ta thêm 1,48 m.
Nhật thực và Nguyệt thực
-
Nhật/Nguyệt thực chỉ có thể xảy ra khi Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng cùng nằm trên một đường thẳng. Nhật thực xảy ra gần tuần trăng mới, khi Mặt Trăng nằm giữa Mặt Trời và Trái Đất. Trái lại, nguyệt thực xảy ra gần lúc trăng tròn, khi Trái Đất nằm giữa Mặt Trời và Mặt Trăng.
Vì Mặt Trăng quay quanh Trái Đất với góc nghiêng khoảng 5° so với quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời, các cuộc nhật/nguyệt thực không xảy ra tại mọi tuần trăng mới và trăng tròn. Để có thể xảy ra nhật/nguyệt thực, Mặt Trăng phải ở gần nơi giao cắt của hai mặt phẳng quỹ đạo.[55]
Tính định kỳ và sự tái diễn các lần thực của Mặt Trời bởi Mặt Trăng, và của Mặt Trăng bởi Trái Đất, được miêu tả bởi chu kỳ thiên thực, tái diễn sau xấp xỉ 6.585,3 ngày (18 năm 11 ngày 8 giờ).[56]
Các đường kính góc của Mặt Trăng và Mặt Trời khi quan sát từ Trái Đất chồng lên nhau trong sự biến đổi của chúng, vì thế cả Nhật thực toàn phần và Nhật thực một phần đều có thể xảy ra.[57] Khi xảy ra nhật thực toàn phần, Mặt Trăng hoàn toàn che lấp đĩa Mặt Trời và hào quang Mặt Trời có thể được nhìn thấy bằng mắt thường từ Trái Đất. Bởi khoảng cách giữa Mặt Trăng và Trái Đất hơi tăng thêm theo thời gian, đường kính góc của Mặt Trăng giảm xuống. Điều này có nghĩa từ hàng trăm triệu năm trước Mặt Trăng có thể luôn che khuất Mặt Trời ở mọi lần nhật thực, vì thế có thể trong quá khứ nhật thực một phần không thể xảy ra. Tương tự, khoảng 600 triệu năm nữa (giả thiết rằng đường kính góc của Mặt Trời không thay đổi), Mặt Trăng không thể che khuất hoàn toàn Mặt Trời nữa và khi ấy chỉ xảy ra nhật thực một phần.[55]
Một hiện tượng liên quan tới nhật/nguyệt thực là sự che khuất. Mặt Trăng liên tục ngăn tầm nhìn bầu trời của chúng ta với một diện tích hình tròn rộng khoảng 0,5 độ. Khi một ngôi sao sáng hay một hành tinh qua phía sau Mặt Trăng thì nó bị che khuất hay không thể quan sát được. Một cuộc nhật thực là một sự che khuất của Mặt Trời. Bởi Mặt Trăng gần với Trái Đất, các cuộc che khuất các ngôi sao riêng biệt không nhìn thấy được ở mọi nơi, cũng không ở cùng thời điểm. Bởi sự tiến động của quỹ đạo Mặt Trăng, mỗi năm các ngôi sao khác nhau sẽ bị che khuất.[58]
Lần nguyệt thực diễn ra ngày 20 tháng 2 năm 2008 là lần nguyệt thực toàn phần. Toàn bộ diễn biến có thể được quan sát từ Nam Mỹ và hầu hết Bắc Mỹ (ngày 20 tháng 2), cũng như từ Đông Âu, châu Phi, và Tây Á (ngày 21 tháng 2). Lần nhật thực diễn ra ngày 11 tháng 9 năm 2007, quan sát được từ Nam Mỹ và nhiều vùng thuộc Nam Cực. Lần nhật thực toàn phần diễn ra ngày 1 tháng 8 năm 2008 có đường che khuất hoàn toàn bắt đầu từ bắc Canada chạy qua Nga và Trung Quốc. Lần nguyệt thực sắp tới sẽ là ngày 21 tháng 12 năm 2010, là đợt nguyệt thực toàn phần. Dự kiến ở Việt Nam, nguyệt thực sẽ bắt đầu lúc 13 giờ 30 phút, che khuất hoàn toàn vào 15 giờ 20 phút và kết thúc lúc 17 giờ 10 phút.[59]
Thám hiểm
-
-
Bước tiến đầu tiên trong việc quan sát Mặt Trăng được thực hiện nhờ sự phát minh kính viễn vọng. Galileo Galilei đã sử dụng tốt công cụ này để quan sát các ngọn núi và hố va chạm trên Mặt Trăng.
Cuộc chạy đua vũ trụ thời Chiến tranh Lạnh giữa Liên Xô và Hoa Kỳ đã dẫn tới sự tập trung chú ý vào Mặt Trăng. Các phi vụ tàu vũ trụ không người lái, kể cả bay ngang qua và va chạm/hạ cánh, đã được thực hiện ngay khi các khả năng phóng tàu của con người cho phép. Chương trình Luna của Liên bang Xô viết đã lần đầu tiên đưa được tàu vũ trụ không người lái tới Mặt Trăng. Vật thể đầu tiên do con người chế tạo thoát được lực hấp dẫn Trái Đất đi tới gần Mặt Trăng là Luna 1, vật thể nhân tạo đầu tiên va chạm xuống bề mặt Mặt Trăng là Luna 2, và những bức ảnh đầu tiên về bề mặt không nhìn thấy được của Mặt Trăng đã được Luna 3 chụp, ba phi vụ này diễn ra năm 1959. Tàu vũ trụ đầu tiên thực hiện thành công hạ cánh nhẹ nhàng xuống Mặt Trăng là Luna 9 và phương tiện không người điều khiển đầu tiên bay quanh quỹ đạo Mặt Trăng là Luna 10, hai phi vụ này diễn ra năm 1966.[1] Các mẫu vật từ Mặt Trăng đã được các phi vụ Luna (Luna 16, 20, và 24) và các phi vụ Apollo 11 tới 17 đưa về Trái Đất (ngoại trừ Apollo 13, đã phải hủy bỏ kế hoạch hạ cánh).
Những bước chân đầu tiên của con người trên Mặt Trăng năm 1969 được coi là đỉnh cao của cuộc chạy đua vũ trụ.[60] Neil Armstrong trở thành người đầu tiên đi bộ trên bề mặt Mặt Trăng với tư cách chỉ huy phi vụ Apollo 11 của Hoa Kỳ lúc 02:56 UTC ngày 21 tháng 7 năm 1969. Các cuộc hạ cánh xuống Mặt Trăng và quay trở về Trái Đất đã được thực hiện nhờ các tiến bộ kỹ thuật to lớn, trong các lĩnh vực như tiêu mòn hóa học và kỹ thuật tái thâm nhập khí quyển hồi đầu thập niên 1960.
Các gói phương tiện kỹ thuật đã được đặt trên bề mặt Mặt Trăng trong mọi phi vụ Apollo. Các trạm ALSEP (Gói thí nghiệm bề mặt Mặt Trăng Apollo) có tuổi thọ sử dụng dài đã được đặt tại các địa điểm hạ cánh của Apollo 12, 14, 15, 16, và 17, trong khi đó các trạm tạm thời được gọi là EASEP (Gói kỹ thuật khoa học Apollo ban đầu) đã được đặt khi thực hiện phi vụ Apollo 11. Các trạm ALSEP có các thiết bị như máy thăm dò dòng, máy đo địa chấn, từ kế và các thiết bị phản hồi. Việc truyền dữ liệu về Trái Đất đã kết thúc ngày 30 tháng 9 năm 1977 vì các lí do tài chính.[61][62] Bởi các thiết bị phản hồi laser Mặt Trăng (LLR) là các thiết bị bị động nên chúng vẫn còn được sử dụng. Việc chiếu tia laser lên các trạm LLR vẫn được thực hiện hàng ngày từ các trạm ở Trái Đất với độ chính xác vài centimét, và dữ liệu thu được dùng để tính toán kích thước lõi Mặt Trăng.[63]
Cho tới nay, Eugene Cernan, thành viên của phi vụ Apollo 17, là người cuối cùng rời bề mặt Mặt Trăng, vào ngày 14 tháng 12 năm 1972 và từ đó chưa từng có ai đặt chân lên đây.
Từ giữa thập niên 1960 tới giữa thập niên 1970, 65 vật thể nhân tạo đã bay tới Mặt Trăng (cả có và không có người điều khiển, chỉ riêng trong năm 1971 đã có 10 vụ), lần cuối là của Luna 24 năm 1976. Chỉ 18 phi vụ trong số đó là những cuộc hạ cánh xuống Mặt Trăng có điều khiển, 9 phi vụ hoàn thành cuộc du hành vòng quanh từ Trái Đất và quay trở về với các mẫu đá Mặt Trăng. Liên Xô sau đó đã đặt trọng tâm chú ý vào Sao Kim và các trạm vũ trụ, còn Hoa Kỳ tập trung vào Sao Hỏa và các hành tinh phía ngoài. Năm 1990, tàu vũ trụ Hiten của Nhật Bản đã bay trên quỹ đạo quanh Mặt Trăng, khiến nước này trở thành quốc gia thứ ba đưa được tàu vũ trụ vào quỹ đạo Mặt Trăng. Tàu vũ trụ này thả một tàu thăm dò nhỏ, Hagormo, vào quỹ đạo Mặt Trăng, nhưng thiết bị truyền dữ liệu bị hỏng nên các sứ mệnh khoa học sau đó đã không thể thực hiện.
Năm 1994, cuối cùng Hoa Kỳ cũng quay lại với Mặt Trăng, tuy chỉ bằng robot, tàu vũ trụ Clementine. Phi vụ này đã thực hiện được việc lập bản đồ địa hình gần toàn bộ của Mặt Trăng lần đầu tiên, và các hình ảnh đa phổ đầu tiên về bề mặt Mặt Trăng. Tiếp sau đó là phi vụ Lunar Prospector năm 1998. Quang phổ kế nơtron trên Lunar Prospector cho thấy sự hiện diện với số lượng lớn của hiđrô tại các vùng cực của Mặt Trăng, dường như được gây ra do sự hiện diện của băng ở vài mét bên trên tầng regolith bên trong những hố va chạm không bao giờ được chiếu sáng. Tàu vũ trụ Smart 1 của châu Âu được phóng đi ngày 27 tháng 9 năm 2003 và ở trên quỹ đạo Mặt Trăng từ ngày 15 tháng 11 năm 2004 đến ngày 3 tháng 9 năm 2006.
Ngày 14 tháng 1 năm 2004, Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush đã kêu gọi một kế hoạch thực hiện các phi vụ có người điều khiển tới Mặt Trăng vào năm 2020 (xem Viễn cảnh Thám hiểm Mặt Trăng).[64] NASA hiện có kế hoạch xây dựng một tiền trạm thường trực tại một trong các cực Mặt Trăng.[65] Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đưa ra các kế hoạch đầy tham vọng nhằm thám hiểm Mặt Trăng và đã bắt đầu Chương trình Thường Nga để thực hiện mục tiêu này, họ đã phóng thành công tàu vũ trụ đầu tiên, Thường Nga-1, ngày 24 tháng 10 năm 2007.[66]
Phi vụ thám hiểm Mặt Trăng đầu tiên của Ấn Độ, Chandrayaan I, đã quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trăng vào ngày 8 tháng 11 năm 2008 cho đến khi mất liên lạc với con tàu vào ngày 27 tháng 8 năm 2009. Con tàu này đã gửi về bản đồ bề mặt Mặt Trăng độ phân giải cao về thành phần hóa học, ảnh chụp địa chất và khoáng vật, từ đó xác nhận sự có mặt của phân tử nước trong đất Mặt Trăng.[67] Cơ quan nghiên cứu không gian Ấn Độ có kế hoạch phóng tàu Chandrayaan II vào năm 2013, nó sẽ mang theo một rô bốt tự hành của Nga đổ bộ lên Mặt Trăng.[68][69] Hai tàu Lunar Reconnaissance Orbiter (LRO) và LCROSS chứa khối va chạm được phóng lên đồng thời và chúng đã đi vào quỹ đạo quanh Mặt Trăng ngày 18 tháng 6 năm 2009; LCROSS đã hoàn thành phi vụ của nó khi con tàu thả khối va chạm và thực hiện quan sát sự kiện va chạm xảy ra ở hố Cabeus vào ngày 9 tháng 10 năm 2009,[70] trong khi LRO hiện tại vẫn đang hoạt động, và gửi về trung tâm điều khiển các bức ảnh có độ phân giải cao.
Giải Lunar X của Google, được thông báo ngày 13 tháng 9 năm 2007, hy vọng khuyến khích việc thám hiểm Mặt Trăng do tư nhân tài trợ. Quỹ X Prize sẽ trao cho bất kỳ ai 20 triệu dollar Mỹ nếu họ cho hạ cánh thành công một thiết bị robot xuống Mặt Trăng và đạt được một số tiêu chí do họ quy định.
Ngày 14 tháng 9 năm 2007 Cơ quan Thám hiểm Không gian Nhật Bản đã phóng SELENE một tàu vũ trụ quỹ đạo Mặt Trăng được trang bị một camera có độ phân giải cao và hai vệ tinh nhỏ. Phi vụ này được chờ đợi kéo dài trong một năm.[71]
Tàu Kaguya của Nhật Bản phóng lên năm 2007 đã tìm thấy Uranium trên Mặt Trăng bằng máy phân tích quang phổ tia gamma. Mặt Trăng hứa hẹn sẽ là nguồn cung cấp Uranium dồi dào cho Trái Đất.
Sự hiểu biết của con người
-
Mặt Trăng đã là chủ đề của nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật và là nguồn cảm hứng của rất nhiều công trình khác. Nó là một trong những môn nghệ thuật thị giác, nghệ thuật biểu diễn, thơ, văn và nhiều môn nghệ thuật khác. Một bức tranh khắc đá có niên đại từ 5.000 năm trước tại Knowth, Ireland có thể thể hiện Mặt Trăng, đây cũng có thể là bức vẽ Mặt Trăng sớm nhất từng được phát hiện.[72] Trong nhiều nền văn hóa tiền sử và cổ đại, Mặt Trăng từng được cho là một nữ thần hay các hiện tượng siêu nhiên khác, và những quan điểm chiêm tinh học về Mặt Trăng vẫn còn được truyền đạt đến ngày nay.
Một trong số những giải thích khoa học đầu tiên của thế giới phương Tây về Mặt Trăng là của nhà triết học Hy Lạp Anaxagoras (năm 428 trước Công Nguyên), ông suy luận rằng cả Mặt Trời và Mặt Trăng đều là các thiên thể hình cầu lớn bằng đá, và rằng Mặt Trăng phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời. Quan điểm vô thần của ông về các bầu trời là một trong những nguyên nhân khiến ông bị bắt giam và cuối cùng bị trục xuất.[73]
Theo miêu tả vũ trụ của Aristotle (384–322 trước Công Nguyên), Mặt Trăng là biên giới giữa các bầu trời của các nguyên tố có thể biến đổi (đất, nước, không khí và lửa), và các ngôi sao bất diệt của ête. Sự phân chia này đã là một phần của vật lý học trong nhiều thế kỷ sau đó.[74]
Ở thời Chiến quốc tại Trung Quốc, nhà thiên văn học Thạch Thân (thế kỷ 4 trước Công Nguyên) đã đưa ra những lý luận để phán đoán nhật thực và nguyệt thực dựa trên các vị trí tương quan của Mặt Trời và Mặt Trăng.[75] Dù người Trung Quốc ở thời Hán (202 TCN–202) tin rằng Mặt Trăng là nguồn năng lượng tương đương khí, lý thuyết ‘ảnh hưởng bức xạ’ của họ công nhận rằng ánh sáng của Mặt Trăng chỉ đơn giản là sự phản chiếu của Mặt Trời (đã được Anaxagoras đề cập ở trên).[76] Điều này được các nhà tư tưởng chủ đạo như Kinh Phòng (78–37 trước Công Nguyên) và Trương Hành (78–139) ủng hộ, những cũng bị nhà triết học có tầm ảnh hưởng là Vương Sung (27–97) phản đối.[76] Kinh Phòng đã lưu ý tới hình cầu của Mặt Trăng trong khi Trương Hành đã miêu tả chính xác về nhật thực và nguyệt thực.[76][77] Những điều quả quyết đó được Thẩm Quát (1031–1095) thời nhà Tống (960–1279) ủng hộ, ông đã tạo ra một biểu tượng giải thích thời kỳ trăng khuyết và trăng tròn tương tự như một quả bóng tròn bạc tròn phản chiếu, mà khi được phủ bột trắng và nhìn từ phía bên, sẽ có hình lưỡi liềm.[78] Ông cũng lưu ý rằng lý do Mặt Trời và Mặt Trăng không che khuất nhau mỗi lần trùng vị trí bởi có một lượng xiên nhỏ trong đường quỹ đạo của chúng.[78]
Tới thời Trung cổ, trước khi kính viễn vọng được phát minh, ngày càng có nhiều người công nhận Mặt Trăng là hình cầu, dù rằng họ vẫn tin nó “hoàn toàn nhẵn”.[79] Năm 1609, Galileo Galilei vẽ một trong những hình vẽ qua kính thiên văn đầu tiên về Mặt Trăng trong cuốn sách Sidereus Nuncius của ông và ghi chú rằng nó không nhẵn mà có các ngọn núi và các hố va chạm. Sau này ở thế kỷ 17, Giovanni Battista Riccioli và Francesco Maria Grimaldi đã vẽ một bản đồ Mặt Trăng và đặt tên cho nhiều hố va chạm, những tên này vẫn được giữ đến ngày nay.
Trên các tấm bản đồ, những phần tối trên bề mặt Mặt Trăng được gọi là maria (các biển), và những phần sáng được gọi là terrae (lục địa). Khả năng Mặt Trăng có một số loại thực vật và có người Mặt Trăng sinh sống đã được xem xét một cách nghiêm túc bởi một số nhà thiên văn học nổi tiếng, thậm chí ở ngay những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 19. Sự tương phản giữa phần cao nguyên sáng và biển tối tạo nên những mô hình được các nền văn hóa khác nhau coi là những người trên Mặt Trăng, thỏ và trâu, cùng nhiều hình tượng khác.
Năm 1835, Trò lừa vĩ đại về Mặt Trăng khiến một số người nghĩ rằng có một số loại động vật kỳ lạ đang sống trên Mặt Trăng.[80] Tuy nhiên, hầu như cùng lúc đó (trong giai đoạn 1834–1836), Wilhelm Beer và Johann Heinrich Mädler đã xuất bản cuốn bản đồ bốn tập Mappa Selenographica và cuốn sách Der Mond năm 1837, đưa ra kết luận rõ ràng rằng Mặt Trăng không có nước cũng như không có khí quyển một cách đáng kể.
Phía không nhìn thấy được của Mặt Trăng hoàn toàn không được biết tới cho tới khi tàu vũ trụ Luna 3 được phóng đi năm 1959, và đã được Chương trình Lunar Orbiter vẽ bản đồ bao quát trong thập niên 1960.
Tình trạng pháp luật
-
Dù nhiều lá cờ của Liên Xô đã được Luna 2 thả xuống Mặt Trăng năm 1959 cũng như trong các phi vụ hạ cánh sau đó, và những lá cờ Hoa Kỳ cũng đã được cắm mang tính biểu tượng xuống Mặt Trăng, không quốc gia nào hiện tuyên bố quyền sở hữu với bất kỳ phần bề mặt nào của Mặt Trăng. Nga và Hoa Kỳ là các bên trong Hiệp ước Vũ trụ, đặt Mặt Trăng dưới cùng quyền tài phán như vùng biển quốc tế (tiếng Latin: res communis). Hiệp ước này cũng giới hạn việc sử dụng Mặt Trăng vào các mục đích hòa bình, cấm đặt các căn cứ quân sự và vũ khí hủy diệt hàng loạt (gồm cả vũ khí hạt nhân).[81]
Một hiệp ước thứ hai, Hiệp ước Mặt Trăng, đã được đề xuất nhằm hạn chế việc khai thác các nguồn tài nguyên trên Mặt Trăng bởi bất kỳ một quốc gia riêng biệt nào, nhưng nó vẫn chưa được bất kỳ quốc gia nào có khả năng lên Mặt Trăng ký kết. Nhiều cá nhân đã đưa ra những tuyên bố sở hữu một phần hay toàn bộ Mặt Trăng, dù không một tuyên bố nào trong số đó được coi là đáng tin cậy.[82]
Mặt Trăng trong văn hóa
-
Nhờ các pha đều đặn của Mặt Trăng khiến nó trở thành một đồng hồ tự nhiên rất thuận tiện, và chu kỳ nó tròn dần và khuyết dần đã trở thành cơ sở cho nhiều lịch cổ. Một mảnh xương đại bàng trên đó có khắc các ký tự tìm thấy gần làng Le Placard ở Pháp có niên đại khoảng 13.000 năm trước, được cho rằng là các dấu hiệu tượng trưng cho các pha Mặt Trăng.[83] Chu kỳ Mặt Trăng xấp xỉ 30 ngày (gần một tháng). Từ month trong tiếng Anh và các từ cùng gốc khác trong các ngôn ngữ Giéc-manh có chung gốc từ ngôn ngữ tiền-Giéc manh *mǣnṓth-, nó được liên hệ với từ *mǣnōn trong ngôn ngữ tiền-Giéc manh, ám chỉ cho lịch Mặt Trăng được sử dụng trong các dân tộc Giec-manh (lịch Giec-manh) hơn là cho lịch Mặt Trời.[84] Cùng nguồn gốc trong hệ ngôn ngữ Ấn-Âu là moon đã dẫn đến sự phát triển của các từ Latin measure and menstrual, những từ phản ánh tầm quan trọng của Mặt Trăng trong nhiều nền văn hóa cổ trong việc xác định thời gian (xem từ Latin mensis và ngôn ngữ Hy Lạp cổ đại μήνας (mēnas), có nghĩa là “month”).[85][86]
Mặt Trăng đã trở thành chủ đề chính trong nhiều tác phẩm văn học và nghệ thuật và cảm hứng cho vô số những thứ khác. Nó là mộtip trong nghệ thuật thị giác, nghệ thuật trình diễn, thơ, văn xuôi và âm nhạc. Một phiến đá khắc 5.000 năm tuổi ở Knowth, Ai Len, có thể tượng trưng cho Mặt Trăng và có lẽ là tác phẩm cổ xưa nhất từng được khám phá.[87] Trong nhiều nền văn hóa tiền sử và cổ đại, Mặt Trăng được nhân cách hóa thành thần Mặt Trăng hay những hiện tượng siêu nhiên khác, và quan điểm chiêm tinh học vẫn còn ảnh hưởng đến ngày nay. Sự tương phản giữa các cao nguyên sáng và biển tối trên bề mặt của Mặt Trăng tạo ra những hình tượng khác nhau trong các nền văn hóa như chú Cuội, thỏ Mặt Trăng và trâu, cùng với những hình tượng khác. Mặt Trăng từ lâu đã được một số người gắn với bệnh điên và sự phi lý; các từ lunacy (điên rồ) và loony (người điên) có nguồn gốc từ tiếng Latin cho tên gọi của Mặt Trăng, Luna. Những nhà triết học như Aristotle và Pliny the Elder lập luận là khi trăng tròn sẽ tác động đến thần kinh của những cá nhân nhạy cảm, dễ bị tổn thương, họ tin là não người, phần lớn chứa nước, phải bị ảnh hưởng bởi Mặt Trăng và sức mạnh của nó lên thủy triều, nhưng nó lại quá yếu để ảnh hưởng đến một cá nhân.[88] Thậm chí ngày nay, nhiều người cho rằng có nhiều người phải nhập viện tâm thần, tai nạn giao thông, giết người hoặc tự tử tăng lên trong thời gian trăng tròn, mặc dù không có bằng chứng nào ủng hộ cho điều này.[88]
Xem thêm
Tham khảo
Chú thích
- ^ a ă â b c d đ Spudis, P.D. (2004). “Moon”. World Book Online Reference Center, NASA. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ “Mặt Trăng là nơi lạnh nhất trong hệ Mặt Trời” (Thông cáo báo chí). Thu Trang (Theo SD), báo Khoa học & Phát triển. 10 tháng 4 năm 2009. Truy cập 11:21 18/1/2012.
- ^ “Spelling of Names of Astronomical Objects”. Hiệp hội Thiên văn Quốc tế. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2008.
- ^ a ă Harper, D. (tháng 11 năm 2001). “Moon”. Online Etymology Dictionary. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2008.
- ^ Alexander, M. E. (1973). “The Weak Friction Approximation and Tidal Evolution in Close Binary Systems”. Astrophysics and Space Science 23: 459–508. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Does the Moon rotate?
- ^ Gillis, J.J.; Spudis, P.D. (1996). “The Composition and Geologic Setting of Lunar Far Side Maria”. Lunar and Planetary Science 27: 413–404. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ a ă â b Shearer, C.; et al. (2006). “Thermal and magmatic evolution of the Moon”. Reviews in Mineralogy and Geochemistry 60: 365–518.
- ^ Taylor, G.J. (31 tháng 8 năm 2000). “A New Moon for the Twenty-First Century”. Viện địa vật lý và khoa học hành tinh Hawaii. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Head, L.W.J.W. (2003). “Lunar Gruithuisen and Mairan domes: Rheology and mode of emplacement”. Journal of Geophysical Research 108. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Kiefer, W. (3 tháng 10 năm 2000). “Lunar Orbiter: Impact Basin Geology”. Lunar and Planetary Institute. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Munsell, K. (4 tháng 12 năm 2006). “Majestic Mountains”. Solar System Exploration. NASA. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ a ă Martel, L. (4 tháng 6 năm 2003). “The Moon’s Dark, Icy Poles”. Viện địa vật lý và khoa học hành tinh Hawaii. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Melosh, H. J. (1989). Impact cratering: A geologic process. Nhà in Đại học Oxford.
- ^ Taylor, G.J. (17 tháng 7 năm 1998). “The biggest hole in the Solar System”. Viện địa vật lý và khoa học hành tinh Hawaii. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Heiken, G.; Vaniman, D.; French, B. (eds.) (1991). Lunar Sourcebook, a user’s guide to the Moon. New York: Nhà in Đại học Cambridge. tr. 736.
- ^ Rasmussen, K.L.; Warren, P.H. (1985). “Megaregolith thickness, heat flow, and the bulk composition of the moon”. Nature 313: 121–124. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ “Lunar Polar Composites”. Lunar and Planetary Institute. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ “Eureka! Ice found at lunar poles”. Lunar Prospector (NASA). 31 tháng 8 năm 2001. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Spudis, P. (6 tháng 11 năm 2006). “Ice on the Moon”. The Space Review. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Saal, Alberto E.; Hauri, Erik H.; Cascio, Mauro L.; van Orman, James A.; Rutherford, Malcolm C.; Cooper, Reid F. (2008). “Volatile content of lunar volcanic glasses and the presence of water in the Moon’s interior”. Nature 454 (7201): 192–195. doi:10.1038/nature07047. PMID 18615079.
- ^ Pieters, C. M.; Goswami, J. N.; Clark, R. N.; Annadurai, M.; Boardman, J.; Buratti, B.; Combe, J.-P.; Dyar, M. D.; Green, R.; Head, J. W.; Hibbitts, C.; Hicks, M.; Isaacson, P.; Klima, R.; Kramer, G.; Kumar, S.; Livo, E.; Lundeen, S.; Malaret, E.; McCord, T.; Mustard, J.; Nettles, J.; Petro, N.; Runyon, C.; Staid, M.; Sunshine, J.; Taylor, L. A.; Tompkins, S.; Varanasi, P. (2009). “Character and Spatial Distribution of OH/H2O on the Surface of the Moon Seen by M3 on Chandrayaan-1”. Science 326 (5952): 568. doi:10.1126/science.1178658. PMID 19779151.
- ^ Lakdawalla, Emily (ngày 13 tháng 11 năm 2009). “LCROSS Lunar Impactor Mission: “Yes, We Found Water!””. The Planetary Society. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010.
- ^ Colaprete, A.; Ennico, K.; Wooden, D.; Shirley, M.; Heldmann, J.; Marshall, W.; Sollitt, L.; Asphaug, E.; Korycansky, D.; Schultz, P.; Hermalyn, B.; Galal, K.; Bart, G. D.; Goldstein, D.; Summy, D. (March 1–5, 2010). “Water and More: An Overview of LCROSS Impact Results”. 41st Lunar and Planetary Science Conference (1533): 2335.
- ^ a ă Lucey, P.; et al. (2006). “Understanding the lunar surface and space-Moon interactions”. Reviews in Mineralogy and Geochemistry 60: 83–219.
- ^ a ă â b c Wieczorek, M.; et al. (2006). “The constitution and structure of the lunar interior”. Reviews in Mineralogy and Geochemistry 60: 221–364. doi:10.2138/rmg.2006.60.3.
- ^ Williams, J.G.; Turyshev, S.G.; Boggs, D.H.; Ratcliff, J.T. (2006). “Lunar laser ranging science: Gravitational physics and lunar interior and geodesy”. Advances in Space Research 37 (1): 6771. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ “Doppler Gravity Experiment Results”. Lunar Prospector (NASA). 31 tháng 8 năm 2001. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Muller, P.; Sjogren, W. (1968). “Masons: lunar mass concentrations”. Science 161: 680–684.
- ^ Konopliv, A.; Asmar S.; Carranza E.; Sjogren W.; Yuan D. (2001). “Recent gravity models as a result of the Lunar Prospector mission”. Icarus 50: 1–18.
- ^ “Magnetometer / Electron Reflectometer Results”. Lunar Prospector (NASA). 2001. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Hood, L.L.; Huang, Z. (1991). “Formation of magnetic anomalies antipodal to lunar impact basins: Two-dimensional model calculations”. J. Geophys. Res. 96: 9837–9846.
- ^ Globus, Ruth (2002). “Impact Upon Lunar Atmosphere”. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2007.
- ^ P. Lucey et al. (2006). “Understanding the lunar surface and space-Moon interactions”. Reviews in Mineralogy and Geochemistry 60 (1): 83–219. doi:10.2138/rmg.2006.60.2.
- ^ Lawson, S.; Feldman, W.; Lawrence, D.; Moore, K.; Elphic, R.; Belian, R. (2005). “Recent outgassing from the lunar surface: the Lunar Prospector alpha particle spectrometer”. J. Geophys. Res. 110: 1029.
- ^ Stern, S.A. (1999). “The Lunar atmosphere: History, status, current problems, and context”. Rev. Geophys. 37: 453–491.
- ^ Artemis Project: Lunar Surface Temperatures
- ^ Kleine, T.; Palme H.; Mezger K.; Halliday A.N. (2005). “Hf–W Chronometry of Lunar Metals and the Age and Early Differentiation of the Moon”. Science 310 (5754): 1671–1674. doi:10.1126/science.1118842.
- ^ Binder, A.B. (1974). “On the origin of the moon by rotational fission”. The Moon 11 (2): 53–76. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Mitler, H.E. (1975). “Formation of an iron-poor moon by partial capture, or: Yet another exotic theory of lunar origin”. Icarus 24: 256–268. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Stevenson, D.J. (1987). “Origin of the moon – The collision hypothesis”. Annual Review of Earth and Planetary Sciences 15: 271–315. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Canup, R.; Asphaug, E. (2001). “Origin of the Moon in a giant impact near the end of the Earth’s formation”. Nature 412: 708–712.
- ^ a ă Papike, J.; Ryder, G.; Shearer, C. (1998). “Lunar Samples”. Reviews in Mineralogy and Geochemistry 36: 5.1–5.234.
- ^ a ă Hiesinger, H.; Head, J.W.; Wolf, U.; Jaumanm, R.; Neukum, G. (2003). “Ages and stratigraphy of mare basalts in Oceanus Procellarum, Mare Numbium, Mare Cognitum, and Mare Insularum”. J. Geophys. Res. 108: 1029.
- ^ Taylor, G.J. (8 tháng 11 năm 2006). “Recent Gas Escape from the Moon”. Viện địa vật lý và khoa học hành tinh Hawaii. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Schultz, P.H.; Staid, M.I.; Pieters, C.M. (2006). “Lunar activity from recent gas release”. Nature 444: 184–186.
- ^ Norman, M. (21 tháng 4 năm 2004). “The Oldest Moon Rocks”. Viện địa vật lý và khoa học hành tinh Hawaii. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Varricchio, L. (2006). Inconstant Moon. Xlibris Books. ISBN 1-59926-393-9.
- ^ Mùi của bụi Mặt Trăng từ NASA
- ^ Encyklopédia astronómie (nghĩa tiếng Việt: Từ điển thiên văn học), nhiều tác giả, xuất bản năm 1987, trang 634.
- ^ a ă “Apollo Laser Ranging Experiments Yield Results”. NASA. 11 tháng 7 năm 2005. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2007.
- ^ Ray, R. (15 tháng 5 năm 2001). “Ocean Tides and the Earth’s Rotation”. IERS Special Bureau for Tides. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Vampew, A. “No, it’s not our “second” moon!!!”. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Morais, M.H.M.; Morbidelli, A. (2002). “The Population of Near-Earth Asteroids in Coorbital Motion with the Earth”. Icarus 160: 1–9. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ a ă Thieman, J.; Keating, S. (2 tháng 5 năm 2006). “Eclipse 99, Frequently Asked Questions”. NASA. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Espenak, F. “Saros Cycle”. NASA. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Espenak, F (2000). “Solar Eclipses for Beginners”. MrEclipse. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ “Total Lunar Occultations”. Hiệp hội Thiên văn Hoàng gia New Zealand. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Espenak, F. (2007). “NASA Eclipse Home Page”. NASA. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Coren, M (26 tháng 7 năm 2004). “’Giant leap’ opens world of possibility”. CNN.com. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ “NASA news release 77-47 page 242” (Thông cáo báo chí). 1 tháng 9 năm 1977. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2007.
- ^ Appleton, James; Charles Radley, John Deans, Simon Harvey, Paul Burt, Michael Haxell, Roy Adams, N Spooner và Wayne Brieske (1977). “OASI Newsletters Archive”. NASA Turns A Deaf Ear To The Moon. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2007.
- ^ Dickey, J.; và ctv. (1994). “Lunar laser ranging: a continuing legacy of the Apollo program”. Science 265: 482–490. doi:10.1126/science.265.5171.482.
- ^ “President Bush Offers New Vision For NASA” (Thông cáo báo chí). NASA. 14 tháng 12 năm 2004. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ “NASA Unveils Global Exploration Strategy and Lunar Architecture” (Thông cáo báo chí). NASA. 4 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ “”嫦娥一号”发射时间确定 但未到公布时机”. Tân Hoa Online. 7 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2007.
- ^ “Mission Sequence”. Indian Space Research Organisation. Ngày 17 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Indian Space Research Organisation: Future Program”. Indian Space Research Organisation. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010.
- ^ “India and Russia Sign an Agreement on Chandrayaan-2”. Indian Space Research Organisation. Ngày 14 tháng 11 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Lunar CRater Observation and Sensing Satellite (LCROSS): Strategy & Astronomer Observation Campaign”. NASA. Tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010.
- ^ Rita O’Connor (10 tháng 1 năm 2007). “Japan Embarks on the Largest Moon Mission Since Apollo” (bằng Tiếng Anh). The Epoch Times. Truy cập 19/3/2012. “The mission, which launched from the Tanegashima space centre on the 14th of September, utilised a lunar orbiter explorer named Selene, short for selenological and engineering explorer.”
- ^ “Carved and Drawn Prehistoric Maps of the Cosmos”. Space Today Online. 2006. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ O’Connor, J.J.; Robertson, E.F. (tháng 2 năm 1999). “Anaxagoras of Clazomenae”. Đại học St Andrews. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Lewis, C.S. (1964). The Discarded Image. Cambridge: Nhà in Đại học Cambridge. tr. 108. ISBN 978-0-521-47735-2.
- ^ Needham Joseph. (1986). Science and Civilization in China: Volume 3, Mathematics and the Sciences of the Heavens and Earth. Taipei: Caves Books, Ltd. Page 411.
- ^ a ă â Needham, Joseph. (1986). Science and Civilization in China: Volume 3, Mathematics and the Sciences of the Heavens and Earth. Đài Bắc: Caves Books Ltd. Trang 413–414.
- ^ Needham Joseph. (1986). Science and Civilization in China: Volume 3, Mathematics and the Sciences of the Heavens and Earth. Đài Bắc: Caves Books Ltd. Trang 227.
- ^ a ă Needham Joseph. (1986). Science and Civilization in China: Volume 3, Mathematics and the Sciences of the Heavens and Earth. Đài Bắc: Caves Books Ltd. Trang 415–416.
- ^ Van Helden, A. (1995). “The Moon”. Galileo Project. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ Boese, A. (2002). “The Great Moon Hoax of 1835”. Museum of Hoaxes. Bản gốc lưu trữ 27/2/2001. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ “International Space Law”. United Nations Office for Outer Space Affairs. 2006. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ theregister.co.uk “NASA crushes lunar real estate industry”
- ^ Duncan, David Ewing (1998). The Calendar. Fourth Estate Ltd. tr. 10–11. ISBN 9781857027211.
- ^ For etymology, see Barnhart, Robert K. (1995). The Barnhart Concise Dictionary of Etymology. Harper Collins. tr. 487. ISBN 0-06-270084-7. For the lunar calendar of the Germanic peoples, see Birley, A. R. (Trans.) (1999). Agricola and Germany. Oxford World’s Classics. USA: Oxford. tr. 108. ISBN 978-0-19-283300-6.
- ^ Smith, William George (1849). Dictionary of Greek and Roman Biography and Mythology: Oarses-Zygia 3. J. Walton. tr. 768. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2010.
- ^ Estienne, Henri (1846). Thesaurus graecae linguae 5. Didot. tr. 1001. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2010.
- ^ “Carved and Drawn Prehistoric Maps of the Cosmos”. Space Today Online. 2006. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- ^ a ă Lilienfeld, Scott O.; Arkowitz, Hal (2009). “Lunacy and the Full Moon”. Scientific American. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010.
Thư mục
- Bussey, B.; Spudis P.D. (2004). The Clementine Atlas of the Moon. Nhà in Đại học Cambridge. ISBN 0-521-81528-2.
- Jolliff, B.; Wieczorek M.; Shearer C.; Neal C. (chủ biên) (2006). “New views of the Moon”. Rev. Mineral. Geochem. (Chantilly, Virginia: Min. Soc. Amer.) 60: 721. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- Mackenzie, Dana (2003). The Big Splat, or How Our Moon Came to Be. Hoboken, New Jersey: John Wiley & Sons, Inc.
- Moore P. (2001). On the Moon. Tucson, Arizona: Sterling Publishing Co. ISBN 0-304-35469-4.
- Spudis, P.D. (1996). The Once and Future Moon. Nhà in Viện Smithsonian. ISBN 1-56098-634-4.
- Taylor, S.R. (1992). Solar system evolution. Nhà in Đại học Cambridge. tr. 307.
- Wilhelms, D.E. (1987). “Geologic History of the Moon”. U.S. Geological Survey Professional paper 1348. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007.
- Wilhelms, D.E. (1993). To a Rocky Moon: A Geologist’s History of Lunar Exploration. Tucson, Arizona: Nhà in Đại học Arizona.
Liên kết ngoài
- Hình ảnh và bản đồ
- Thám hiểm
- Các tuần trăng
- Khác
- Các nguồn bản đồ
Lê Thánh Tông
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lê Thánh Tông (chữ Hán: 黎聖宗; 20 tháng 7[1], 1442 – 30 tháng 1, 1497[1]), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1460 đến 1497, tổng cộng 37 năm.
Ông nổi tiếng là vị minh quân, đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông cũng được xem là một nhà văn hoá và một người coi trọng hiền tài. Trong lúc trị vì, Lê Thánh Tông đã cho cải cách toàn diện như hệ thống quân sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp, văn hóa.
Giai đoạn ông cầm quyền, Đại Việt đã tham gia hàng loạt các cuộc chiến làm thay đổi tình hình địa chính trị, kéo nhiều quốc gia lân cận vào tầm ảnh hưởng như cuộc Nam tiến đánh chiếm kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành(1471)[2], cuộc Tây tiến đánh chiếm Bồn Man, Lan Xang vào năm 1479, và cuộc phiêu lưu quân sự đến vương quốc Lan Na, vương quốc Ayutthaya, tận vương quốc Ava[3].
Thiếu thời
Thánh Tông hoàng đế tên thật là Lê Tư Thành (黎思誠), còn có tên khác là Lê Hạo (黎灝); biệt hiệu Thiên Nam động chủ (天南洞主), Đạo Am chủ nhân (道庵主人) hay Tao Đàn nguyên súy (騷壇元帥). Ông là con thứ 4 của Thái Tông Văn hoàng đế, mẹ là Quang Thục Văn hoàng hậu Ngô Ngọc Dao, con gái Thái bảo Ngô Từ.
Theo dã sử, từ khi Ngô hoàng hậu chỉ là Tiệp dư (婕妤) và đang mang thai Thánh Tông, thì bà Tuyên Từ Văn hoàng hậu Nguyễn Anh, lúc đó đang là Thần phi quản lý Hậu cung, lo sợ mình bị thất sủng nên đã mưu hại Ngô hoàng hậu. Nguyễn hoàng hậu vu cáo với Thái Tông, đề nghị xử phạt Ngô hoàng hậu với mức án voi giày. Hành khiển Nguyễn Trãi và người thứ thiếp là Nguyễn Thị Lộ đã cứu giúp Ngô hoàng hậu và đưa đi lánh nạn. Thánh Tông được sinh ra ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), ở chùa Huy Văn (ngày nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội). Từ nhỏ, ông được giáo dục ở Quốc Tử Giám, giống như người anh cùng cha khác mẹ là Lê Nhân Tông đang làm hoàng đế Đại Việt.
Năm 1445, khi được khoảng 4 tuổi, Thánh Tông được phong làm Bình Nguyên vương (平原王), mẹ ông được khôi phục tước vị Tiệp dư và vào cung sống cùng ông. Thánh Tông từ nhỏ tư chất thông minh và hiểu lễ nghĩa, nên rất được Nguyễn Thái hậu yêu quý. Vào năm 1459, Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân tiến hành đảo chính và sát hại Nhân Tông, hôm sau Nguyễn Thái hậu cũng bị giết. Nghi Dân lên ngôi, tự xưng làm Thiên Hưng (天興), Thánh Tông khi ấy không bị Nghi Dân sát hại trong vụ này mà được cải phong làm Gia vương (嘉王).
Khoảng chín tháng sau khi Nghi Dân tiếm ngôi, một cuộc đảo chính thứ hai do Nguyễn Xí và Đinh Liệt cầm đầu đã giết chết Nghi Dân. Hai vị đại thần chủ trương đảo chính là Nguyễn Xí và Đinh Liệt vốn là cận thần của Thái Tổ Cao hoàng đế, vẫn còn sống sót sau các biến cố chính trị. Ban đầu, đại thần Lê Lăng định mời anh thứ hai của Thánh Tông là Cung vương Lê Khắc Xương lên ngôi nhưng Khắc Xương từ chối không muốn nhận ngôi báu. Họ đề nghị Gia vương đăng ngôi kế vị. Về sau, Cung vương bị bức tử.[4]
Ngày 26 tháng 6 năm 1460, Thánh Tông chính thức lên ngôi, lấy niên hiệu là Quang Thuận (光順), tôn Ngô hoàng hậu làm Hoàng thái hậu. Năm đó, ông chỉ mới 18 tuổi, chỉ định Nguyễn Xí và Đinh Liệt vào các chức quan cao nhất của triều đình, nắm giữ binh quyền.
Trị vì
Luật pháp
-
Bộ Quốc triều hình luật của nhà Hậu Lê đã được hoàn thiện trong thời Lê Thánh Tông[5], nên còn được gọi là Luật Hồng Đức. Với bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khởi và thuộc loại sớm trên thế giới.
Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm của Nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc biên soạn, ban hành luật pháp, nhằm thể chế hoá một nhà nước phong kiến Đại Việt, với truyền thống nhân nghĩa, lấy dân làm gốc.
Bộ luật Hồng Đức được lưu lại đến ngày nay bao gồm 13 chương với 700 điều, nội dung cơ bản của bộ luật như sau:
- Giữ cho đất nước luôn ở thế chủ động đối phó với giặc ngoại xâm lược;
- Giữ nghiêm kỷ cương, phép nước;
- Chấn hưng nông nghiệp, coi nông nghiệp là nền tảng của sự ổn định kinh tế xã hội;
- Mở rộng giao lưu khuyến khích thủ công nghiệp, thương nghiệp lành mạnh;
- Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của muôn dân, chống tham nhũng triệt để, chống sự lạm quyền và ức hiếp dân chúng.
- Khuyến khích nuôi dưỡng thuần phong mỹ tục và phát triển kinh tế
- Bênh vực và bảo vệ quyền lợi phụ nữ[6];
- Bảo vệ quyền lợi của vua và quan lại, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị địa chủ phong kiến
Lê Thánh Tông là người thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã ban hành. Một lần, ông đã thu lại quyền chỉ huy của tổng quân đô đốc Lê Thiệt vì con trai Lê Thiệt giữa ban ngày phóng ngựa trên đường phố và dung túng gia nô đánh người. Lê Thánh Tông thường bảo với các quan rằng:
“ |
Pháp luật là phép tắc chung của Nhà nước, ta và các người phải cùng tuân theo. |
” |
—Lê Thánh Tông |
Quân sự
Hoàng đế Lê Thánh Tông ra sắc chỉ đầu tiên là chỉnh đốn lại quân đội, đôn đốc và thực hiện các bước để tăng cường các khả năng chiến đấu của các vệ quân năm đạo. Ông thường thân chinh đi tuần phòng ở các vùng biên ải xa xôi cùng với binh lính và là tấm gương tốt cho các quan phụ trách võ bị. Dấu tích trong một lần tuần tra tại khu vực cửa biển và vùng biển Hạ Long là một bài thơ đề trên vách núi đá mà sau này dân Đại Việt gọi tên là núi Bài Thơ ở thành phố Hạ Long ngày nay.
Việc canh phòng và khuyến khích các quan lại ở biên cương thường cảnh giác với các âm mưu xâm nhập và xử lý kịp thời các sự việc lãnh thổ với bên ngoài ở thời ông là rất chặt chẽ và cẩn thận nên triều đình nhà Minh rất tôn trọng và có phần e ngại. Trong sử Việt còn nhắc đến việc Lê Thánh Tông ra sắc chỉ phải cảnh giác với lực lượng nội gián là các gia nô người Ngô (số người nhà Minh tự nguyện xin được ở lại sau khi bị bắt làm tù binh trong cuộc chiến trước đây của Thái Tổ Lê Lợi).
Theo các sử gia, thì vũ khí quân sự dưới thời Lê Thánh Tông đã có những tiến bộ vượt bậc, do vốn có các kỹ thuật và sáng chế cùng kĩ năng chế tạo vũ khí cực kì tinh xảo của Đại Việt thời nhà Hồ về vũ khí tầm xa như hỏa thương, hỏa hổ, súng thần công,… hợp với số vũ khí khá tân tiến thu được trước đây trong cuộc kháng chiến với nhà Minh đã tạo nên cho Đại Việt một kho vũ khí đa dạng và hùng mạnh, có thể vượt xa so với vũ khí Châu Âu cùng thời về sát thương và chất lượng.[7]
Lê Thánh Tông rất chú ý đến việc tích trữ lương thảo ở các vùng biên cương để sử dụng cho quân lương khi cần thiết. Một nghệ thuật làm lương khô thời Lê Thánh Tông được sử sách ghi lại là một kỹ thuật đặc biệt của Đại Việt, đó là đồ (hấp) thóc chín và sấy khô. Loại lương khô này có thể cất giữ vài năm không bị mất phẩm chất và rất tiện cho việc vận chuyển và sử dụng trong chiến tranh, đặc biệt là dùng cho quân đội viễn chinh.
Nhà vua cải tổ quân đội mạnh mẽ về mặt tổ chức, trước đó quân đội chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ có vệ, sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhiều ti, vệ, tổng cộng khoảng 30 vạn quân. Ngoài tổ chức quân thường trực, Lê Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương. 43 điều quân chính là luật quân đội Lê Thánh Tông ban hành cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất nghiêm ngặt, có sức chiến đấu cao.
Hành chính
Lên nắm triều chính, Lê Thánh Tông nhanh chóng chấm dứt tình trạng chia rẽ của triều đình. Ông làm việc không biết mệt mỏi, làm gương cho các quan lại. Lê Thánh Tông khẩn trương tổ chức củng cố và xây dựng nền hành chính Đại Việt mạnh mẽ, táo bạo.
Nhà nước phong kiến tập quyền qua các đời từ nhà Trần chỉ có 4 bộ: Hình, Lại, Binh, Hộ. Đời vua Lê Thái Tổ chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Lê Thánh Tông tổ chức thành sáu bộ:
- Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước;
- Lễ Bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người coi giữ đình, chùa, miếu mạo;
- Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng.
- Binh Bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp;
- Hình Bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, đày, kiện cáo;
- Công bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền phát triển kinh tế.
Về cơ cấu chính quyền các cấp, ông đã tiến hành xóa bỏ hệ thống tổ chức hành chính cũ thời Lê Thái Tổ từ 5 đạo đổi thành 13 đạo (thừa tuyên).
Dưới thời Lê Thánh Tông, các quan chỉ được làm việc tối đa đến tuổi 65 và ông bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có công – công thần. Ông tôn trọng việc chọn quan phải là người có tài và đức.
Phân chia hành chính
Gồm 13 thừa tuyên (sau đó đổi làm xứ) như sau:
- Nam Sách gồm (Hải Dương, Hải Phòng ngày nay), quản lĩnh 4 phủ, 18 huyện;
- Thiên Trường (Sơn Nam) gồm (Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên ngày nay), quản lĩnh 11 phủ, 42 huyện;
- Quốc Oai (Sơn Tây) gồm Hà Tây, Sơn Tây, Vĩnh Phúc ngày nay), quản lĩnh 6 phủ, 24 huyện;
- Bắc Giang (Kinh Bắc) gồm (Bắc Giang, Bắc Ninh ngày nay), quản lĩnh 4 phủ, 19 huyện;
- An Bang là (Quảng Ninh ngày nay), quản lĩnh 1 phủ, 3 huyện, 4 châu;
- Tuyên Quang gồm (Tuyên Quang, Hà Giang ngày nay), quản lĩnh 1 phủ, 2 huyện, 5 châu;
- Hưng Hóa gồm (Phú Thọ, Yên Bái ngày nay), quản lĩnh 3 phủ, 4 huyện, 17 châu;
- Lạng Sơn gồm (Lạng Sơn ngày nay), quản lĩnh 1 phủ, 7 châu;
- Thái Nguyên (Ninh Sóc) gồm (Thái Nguyên, Bắc Kạn và Cao Bằng ngày nay), quản lĩnh 3 phủ, 8 huyện, 7 châu;
- Thanh Hóa gồm (Thanh Hóa, Ninh Bình ngày nay), quản lĩnh 4 phủ, 16 huyện, 4 châu;
- Nghệ An gồm (Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay), quản lĩnh 8 phủ, 18 huyện, 2 châu;
- Thuận Hóa gồm (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế ngày nay), quản lĩnh 2 phủ, 7 huyện, 4 châu;
- Quảng Nam gồm (Bình Định, Quảng Ngãi và Quảng Nam ngày nay)
Đạo thừa tuyên Quảng Nam được bổ sung sau cùng sau khi Đại Việt chiếm được miền bắc của Chiêm Thành (1471)
Lại đổi Trung đô phủ làm Phụng Thiên, quản lĩnh 2 huyện.
Địa chí và bản đồ
Bản đồ Hoàng thành
Thăng Long thời Hồng Đức (1490)
Tập bản đồ thời Hồng Đức còn lại có Hồng Đức bản đồ (洪 德 版 圖), An Nam quốc Trung đô tịnh tam thập thừa tuyên hình thế đồ thư (安南國中都並三十承宣形勢圖書), An Nam địa chí (安 南 地 輿 志), Thiên hạ bản đồ (天 下 本 圖), Toản tập Thiên Nam lộ đồ thư (纂集天南路圖書) vẽ năm Hồng Đức 21 (1490),…
Gồm bản đồ toàn quốc, bản đồ Trung Đô (Thăng Long) và 13 bản đồ thuộc 13 thừa tuyên (Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Lạng Sơn, An Bang, Thuận Hóa, Quảng Nam), trong đó có ghi rõ 49 châu, 181 huyện, 53 phủ, các núi, sông, thành trì, đường sông, đường bộ, đường biển. Trong số 49 bản đồ, có 14 bản đồ đời Lê[8], trong đó phần đa đều tiếp thu từ bản đồ được vẽ vào thời Hồng Đức.
Nhóm thứ nhất gồm các bản đồ hình thế, dùng cho việc quản lý hành chính hoặc học tập, như Bản quốc dư đồ, Bắc Kỳ các tỉnh toàn đồ… Ở loại bản đồ này, người vẽ thường quan tâm đến các chi tiết như cương vực, ranh giới các tỉnh, phủ, huyện, sông, biển, núi, thành trì, nơi đô hội…
Kinh tế
Hoàng đế Lê Thánh Tông còn đặc biệt quan tâm các chính sách nhằm phát triển kinh tế như: sửa đổi luật thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, mở đồn điền,kêu gọi người phiêu tán về quê,đặt ra luật quân điền chia đều ruộng đất cho mọi người
Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển Đại Việt của Lê Thánh Tông đã được kiểm chứng qua các bài chiếu, chỉ dụ do ông trực tiếp chấp bút và ban bố, như Chiếu khuyến nông, Chiếu lập đồn điền, Chiếu định quan chế, v.v…
Các ngành nghề thủ công nghiệp và xây dựng dưới thời trị vì của Lê Thánh Tông cũng phát triển rực rỡ. Nghề in và làm giấy ở Đại Việt đạt một trình độ cao của thế giới thời bấy giờ. Số lượng sách in thời này khá đồ sộ. Đặc biệt nhất thời kỳ này là thành tựu trong công nghệ chế tạo vũ khí và đồ sắt chiếm ưu thế. Đồ gốm, sứ thời Lê sơ phát triển đạt được độ tinh xảo và hoa văn đẹp. Việc giao thương buôn bán đã chắp cánh cho đồ gốm thời này đi xa và hiện nay bộ sư tập về đồ gốm Lê sơ cũng rất phong phú.
Thương mại và giao dịch buôn bán với các lân bang phát triển mạnh, cùng với bước chân viễn chinh xa xôi của đội quân đế chế Đại Việt. Để tạo thuận tiên cho việc mua bán Lê Thánh Tông đã từng khuyến dụ các quan rằng:
“ |
Trong dân gian hễ có dân là có chợ để lưu thông hàng hoá, mở đường giao dịch cho dân. Các xã chưa có chợ có thể lập thêm chợ mới. Những ngày họp chợ mới không được trùng hay trước ngày họp chợ cũ để tránh tình trạng tranh giành khách hàng của nhau. |
” |
—Lê Thánh Tông |
Có thể dưới thời Lê Thánh Tông, phiên chợ được mở mang nhiều.
Chính nhờ sự quan tâm đến việc phát triển thương nghiệp nên nền nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Các nghề thủ công như: Dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng cũng phát triển. Kinh đô Thăng Long 36 phố phường sầm uất, nhộn nhịp tồn tại phát triển đến tận ngày nay. Phường Yên Thái làm giấy, Phường Nghi Tàm dệt vải lụa, Phường Hà Tân nung vôi, Phường Hàng Đào nhuộm điều, Phường Ngũ Xá đúc đồng, Phường gạch và gốm sứ Bát Tràng và nhiều phường khác nữa, v.v…
Nhờ những cải cách tích cực này mà nền kinh tế nước ta nhanh chống dược phục hồi va phát triển
Giáo dục
Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn, Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Đàn bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông là Tao Đàn chủ soái.
Dưới thời ông, việc thi cử và học tập thường xuyên và rất nhiều tiến sĩ và trạng nguyên đỗ đạt và thành danh. Ông khởi xướng lập bia Tiến sĩ và tiến hành cho dựng để ghi danh, tôn vinh những người tài và đức của dân tộc Đại Việt ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám và các thế hệ, các triều đình sau này tiếp tục bổ sung các tấm bia vinh danh mới.
Đặc biệt ông rất tích cực trong cải tổ giáo dục, có những chính sách mới về thi cử và tránh gian lận trong thi cử. Nhiều lần ông đích thân chấm bài làm và khảo lại các bài thi có nghi ngờ.
Văn hóa
Biên soạn các tác phẩm giá trị
Lê Thánh Tông trị vì Đại Việt 38 năm và dưới thời ông nho học trở nên chiếm ưu thế, ông đã cho ra lệnh soạn nhiều tác phẩm có giá trị văn hóa xã hội.
Việc biên soạn Lịch sử được Lê Thánh Tông ý thức hơn hết, với tư cách là những công cụ để nối liền đạo thống; khôi phục xây dựng kho tư liệu sử liệu dân tộc sau giai đoạn bị triệt tiêu văn hóa, sách vở thời thuộc Minh. Năm 1479 vua Lê Thánh Tông đã ra chỉ dụ lệnh cho Ngô Sỹ Liên biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Nhà vua cũng đã nhiều lần ra chiếu sưu tầm tư liệu, sách vở và dã sử trong dân gian.
Vào năm 1483, Lê Thánh Tông chủ biên bộ sách Thiên Nam dư hạ tập (天南餘暇集) sai các văn thần như Đỗ Nhuận (杜 潤), Nguyễn Trực (阮 直) biên soạn. Sách được biên soạn theo loại sách hội yếu, thông điển, gồm 100 quyển ghi chép đầy đủ các chế độ, luật lệ, văn thư, điển lệ, các giấy tờ văn thư hành chính (như chiếu, dụ, cáo, sắc…). Hiện nay, bộ sách thất lạc gần hết, chỉ còn lại 10 tập chép tay viết về các mảng quan chế, điều luật, bản đồ, sớ văn; Thơ, văn, điển lệ, điều luật, chinh chiến, quan chức, thiên văn, địa lí, lịch sử… của nhà Lê, từ Lê Thánh Tông trở về trước. Cụ thể như sau:
- 1. Điều luật và Quan chế.
- 2. Bình thi văn.
- 3. Liệt truyện, Tạp thức.
- 4. Khảo sử.
- 5. Thi tập; Đối liên.
- 6. Phú tập.
- 7. Thi tiền tập; Chinh tây kỉ hành; Minh lương cẩm tú và Quỳnh uyển cửu ca.
- 8. Chinh Chiêm Thành sự vụ; Chinh Tây kỉ hành.
- 9. Điển lệ; Phú tập.
- 10. Thiên hạ bản đồ; Quan chế.
Sáng tác văn thơ
Lê Thánh Tông là một nhà thơ và phê bình văn học, vừa sáng tác văn thơ, vừa nghiên cứu, phê bình. Những trước tác của Hội Tao đàn được ghi chép bằng chữ Hán trong bộ sách:
- Thiên Nam dư hạp tập,
- Quỳnh uyển cửu ca (瓊 苑 九 歌)[9]
- Minh lương cẩm tú (明 良 錦 繡): Gồm 18 bài, phần đa vịnh các cửa biển từ cửa Thần Phù đến Hải Vân quan.
- Văn minh cổ xúy (文明鼓吹): Tập thơ Lê Thánh Tông cùng các hoàng tử và triều thần viết nhân dịp về bái yết sơn lăng, viếng thăm lăng mộ hoàng tộc để tỏ lòng hiếu kính tổ tiên, cầu cho quốc thái dân an.
- Chinh Tây kỷ hành (征西紀行): Tập thơ nhật ký theo lộ trình tiến đánh Chiêm Thành từ năm 1470 đến 1471, gồm 30 bài.
- Cổ Tâm bách vịnh (古心百詠): Tập thơ họa thơ vịnh sử của nhà Nho đời Minh là Tiên Tử Nghĩa. Các từ thần là Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận phụng bình. Thơ đều làm theo thể ngũ ngôn tuyệt cú[10].
- Châu cơ thắng thưởng (珠璣勝賞): Vần thơ châu ngọc được viết khi du ngoạn cảnh núi sông danh thắng của đất nước, như chùa Sài Sơn, núi Chiếu Bạch, động Long Quang,… gồm 20 bài.
- Anh hoa hiếu trị (英華孝治)
- Cổ kim cung từ thi tập (古今宮詞詩集)
- Xuân vân thi tập (春雲詩集): 1 tuyển tập các tác phẩm thơ của Lê Thánh Tông, không rõ thời điểm biên tập.
Số lượng tác phẩm thi văn của Lê Thánh Tông thực tế có thể còn nhiều hơn, nhưng còn lại đến nay chỉ có khoảng 350 bài[11].
Ngoài thơ chữ Hán, Lê Thánh Tông còn có khá nhiều thơ Nôm, tập trung chủ yếu trong Hồng Đức quốc âm thi tập (洪 德國音詩集). Hiện vẫn chưa có con số thống kê chính xác các bài thơ Nôm của ông. Nhưng bài văn Nôm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn (十戒孤魂國語文) có thể coi là bài văn biền ngẫu có giá trị bậc nhất của thế kỷ XV.
Trong đó, không chỉ ghi chép thơ văn, mà còn ghi chép về lý luận phê bình văn học, về lịch sử, kinh tế, quan chế, địa lý v.v…
Lê Thánh Tông là người dẫn đầu phong trào mới này, cả về nghệ thuật thể hiện, cả về tư tưởng triết học. Thánh Tông di thảo là dấu mốc quan trọng ghi nhận bước trưởng thành của truyện ký Đại Việt viết bằng chữ Hán, ra đời trước cả tập “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ (thế kỷ 16).
Lê Thánh Tông khuyến khích các quan lại và tự mình tích cực sử dụng chữ Nôm như một sự tự tôn và tự cường. Trong một bài thơ Nôm, Lê Thánh Tông tự trình bày mình:
- Trống dời canh còn đọc sách
- Chiêng xế bóng chửa thôi chầu.
Tôn giáo
Dưới thời Hậu Lê nói chung, và trong thời vua Lê Thánh Tông nói riêng, Phật giáo bị đẩy lui xuống sinh hoạt ở các làng xã, trong khi đó, Nho giáo lại được coi trọng và lên ngôi, đặc biệt là khu vực triều đình và giới Nho học. Đó là đặc điểm chính của thời kỳ này. Mặt khác do trước đó chịu sự tận diệt của nhà Minh nên nhiều chùa chiền, cung điện và các Phật tử phát triển rực rỡ ở các triều đại nhà Lý, nhà Trần đã bị xóa bỏ.
Nho giáo cũng đóng góp một cách đáng kể vào tín ngưỡng và cách xây dựng một nhà nước phong kiến tập quyền vững chắc và phát triển.
Cũng cần phải kể đến một số tôn giáo khác có điều kiện du nhập vào Đại Việt thời kỳ sau khi Lê Thánh Tông sáp nhập lãnh thổ Chiêm Thành vào Đại Việt cũng góp phần làm phong phú thêm các loại hình tôn giáo đa dạng sau này của Việt Nam. Với chính sách cai trị của Lê Thánh Tông, sự xung đột giữa các cư dân Chăm và Việt, như xung đột tôn giáo, rất ít xảy ra trầm trọng.
Coi trọng người hiền tài
Ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám, Trường đại học đầu tiên của xã hội phong kiến Việt Nam, trên một tấm bia đá, có ghi một danh sĩ nổi tiếng thời nhà Lê, đó là Thân Nhân Trung, người quê Việt Yên, Bắc Giang. Ông có sớ dâng vua “Chiêu nạp hiền tài” và cho rằng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Sự kiện này được khắc trên bia đá dựng thời Lê Thánh Tông. Điều này nói lên rằng, ông là người rất trọng dụng nhân tài và thực tế dưới thời trị vì của ông, những người tài thường được trọng dụng và đã cùng ông đoàn kết xây dựng một Đại Việt trong yên vui, ngoài yên ổn, dân chúng rất mến mộ vị Hoàng đế của mình.
Ông ngưỡng mộ và dễ tha thứ lỗi lầm cho các bậc tài đức, một đoạn ghi chép sau đây sẽ nói thêm về điều này. Một lần ông trách cứ cựu thần Ngô Sĩ Liên, Nghiêm Nhân Thọ:
- Ta mới coi chính sự, sửa mới đức tính, ngươi bảo nước ta là hàng phiên bang của Trung Quốc thời xưa, thế là người theo đường chết, mang lòng không vua.
Tuy nói vậy, Lê Thánh Tông vẫn trọng dụng Ngô Sỹ Liên và giao cho ông phụ trách soạn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Bên cạnh dưới thời ông cũng có các học giả khác như, nhà toán học Trạng nguyên Lương Thế Vinh, với tác phẩm Đại thành Toán pháp; Phan Phu Tiên, với tác phẩm Bản thảo thực vật toát yếu v.v…
Lê Thánh Tông bắt đầu cho phép tôn vinh việc học bằng các cuộc lễ xướng danh (lễ đọc tên người thi đậu), lễ vinh quy bái tổ (lễ đón rước người thi đậu về làng) và nhất là lệ khắc tên và lý lịch tiến sĩ vào bia đá Văn Miếu (Năm 1484 giao cho Lễ bộ thượng thư Quách Đình Bảo trọng trách chủ trì soạn khắc bia đá, cả thẩy 10 bia đá đầu tiên tương ứng với 10 khoa thi, bắt đầu từ khoa thi Nhâm Tuất 1442 đến khoa thi 1484). Vì thế khuyến khích mọi tầng lớp cư dân đua nhau học hành để tên tuổi được ghi vào bảng vàng, để gia môn được vinh dự và để làng quê được vinh hiển.
Như thế công việc giáo dục Nho học đã trở thành nếp. Ngoài trường Quốc Tử Giám và các viện lớn ra còn có các trường học ở các đạo, phủ, thừa với rất đông học trò. Các kỳ thi được các sĩ tử khắp nơi hưởng ứng[12].
Mở rộng Đại Việt
-
Nam tiến
Tiến trình Nam tiến của Đại Việt
-
-
Năm 1452, Ma Ha Quý Do được vua Minh Đại Tông phong làm quốc vương Chiêm Thành. Sau đó Quý Do bị Bàn La Trà Duyệt, người ở Thị Nại sát hại và cướp ngôi. Trà Duyệt chết, truyền ngôi cho em là Trà Toàn (Pau Kubah). Trà Toàn được sử sách Việt Nam mô tả là: “hung hãn, hoang dâm, bạo ngược“.
Trà Toàn bỏ tiến cống nhà Lê, thường xâm lấn biên giới phía nam Đại Việt. Năm 1470, Trà Toàn sai sứ thần sang cầu viện nhà Minh, thân hành đem 10 vạn quân thủy, bộ cùng voi ngựa đến đánh úp Hóa Châu. Viên tướng trấn giữ Hóa Châu Phạm Văn Hiển chống không nổi, phải đóng cửa thành chống giữ, cho người phi ngựa đem văn thư cáo cấp về kinh đô Thăng Long.
Tháng 10 năm 1470, vua Lê Thánh Tông sai Nguyễn Đình Mỹ và Quách Đình Bảo đem việc Chiêm Thành đánh úp biên giới sang báo cáo với nhà Minh.[13]
Lê Thánh Tông quyết định chinh phạt, sát nhập lãnh thổ Chiêm Thành vào Đại Việt. Ông bá cáo với dân chúng trong nước biết một cách công khai và rõ ràng về lý do xuất quân, bằng chiếu thư đánh Chiêm. Ông lệnh cho Đinh Liệt và Lê Niệm đem 10 vạn quân xuất phát đi trước (28/11/1470). 10 ngày sau nhà vua thân hành đốc xuất 15 vạn thủy quân xuôi vào đất Chiêm Thành.
Quân Đại Việt liên tiếp tiến quân, cuối cùng vây được kinh thành Đồ Bàn. Tháng 3 năm 1471, kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành thất thủ. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, hơn 30.000 người Chiêm bị bắt, trong đó có vua Trà Toàn. 40.000 lính Chiêm Thành đã tử trận.
Bấy giờ 1 tướng Chiêm là Bô Trì Trì chạy về đất Phan Lung, cử sứ sang cống và xin xưng thần với Đại Việt. Theo Việt Nam Sử Lược, vua Thánh Tông có ý muốn làm cho Chiêm Thành yếu đi, mới chia đất Chiêm ra làm 3 nước, phong 3 vua: 1 nước gọi Chiêm Thành, 1 nước nữa là Hóa Anh và 1 nước nữa là Nam Phan.[14]
Sau khi Trà Toàn bị bắt, em là Trà Toại trốn vào núi, sai người sang cầu cứu nhà Minh và xin phong vương. Được tin, Lê Thánh Tông sai Lê Niệm đem 3 vạn quân vào đánh, Trà Toại bị bắt giải về kinh. Về sau, vua nhà Minh sai sứ sang bảo Lê Thánh Tông phải trả đất cho Chiêm Thành, nhưng ông nhất quyết không chịu.[13]
Sau chiến thắng, Lê Thánh Tông thực hiện chính sách mới, bình định và Việt hóa dân chúng người Chiêm Thành và sát nhập lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành (từ đèo Hải Vân tới bắc Phú Yên ngày nay) vào Đại Việt. Tháng 6 năm 1471, lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành được lập thành thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa.
Tây tiến
-
Sau khi Đại Việt đánh hạ Chiêm Thành, nhiều vương quốc láng giềng phía Tây bắt đầu cử sứ thần đến ra mắt và đưa cống phẩm. Nhà Minh cũng dè dặt phản đối việc làm của Lê Thánh Tông.
Năm 1478, có tù trưởng xứ Bồn Man là Cầm Công làm phản[15], ngầm xin sự trợ giúp của vương quốc Lan Xang[16]. Lan Xang điều binh quấy nhiễu châu Quy Hợp của Đại Việt.[13][17]
Cùng năm 1478, vào tháng 7 vua Lê Thánh Tông quyết định xuống chiếu đánh dẹp mặt trận phía Tây, liền sai Thái uý Lê Thọ Vực cùng các tướng Trịnh Công Lộ, Lê Đình Ngạn, Lê Lộng và Lê Nhân Hiếu chia quân 18 vạn quân làm 5 đạo đi theo các đường:
Cuộc chiến diễn ra ác liệt tại các mặt trận, quân Đại Việt thế mạnh hơn đã tiến sâu đánh lui, tiêu diệt; bắt sống nhiều cánh quân tướng lĩnh của Lan Xang. Buộc triều đình, hoàng tộc của vua Xaiyna Chakhaphat phải bỏ chạy. Quân đội Đại Việt tiến vào kinh thành Luang Prabang, lấy đây làm bàn đạp để tiến sang phía Tây tiếp tục truy kích quân Lan Xang. Quân Đại Việt tiếp tục đuổi quân Lan Xang tới sông Kim Sa giáp với Miến Điện.[23] Quân Đại Việt toàn thắng.[24]
Khi tin thắng trận của cánh quân phía Bắc tới nhà vua đại giá trở về. Đầu năm 1479, nhà vua sau đó tiếp tục sai Lê Niệm thống suất 30 vạn quân tiêu diệt hoàn toàn lực lượng kháng cự của Cầm Công tại Bồn Man. Quân đội Đại Việt vượt qua được cửa ải, đốt phá các thành trì kháng cự, thiêu hủy kho tàng. Cầm Công bỏ chạy rồi chết. Dân Bồn Man khi đó đa phần bị chết đói, 9 vạn hộ chỉ còn 2.000 người bèn đầu hàng. Nhà vua bèn cho Cầm Đông (họ hàng của Cầm Công) làm Tuyên úy đại sứ để thu phục, đặt lại quan cai trị như trước nhưng sau Cầm Đông cũng lại làm phản.
Gây nên cuộc chiến Lan Xang là cũng vì họ Cầm ở Bồn Man[25] muốn làm phản Đại Việt.[24]
Quan hệ với Trung Quốc
-
Đại Việt bấy giờ có lệ xưng thần với nhà Minh, nhưng vua Lê Thánh Tông vẫn hết lòng phòng bị mặt bắc. Thỉnh thoảng có những thổ dân sang quấy nhiễu, thì lập tức vua cho quan quân lên dẹp yên và cho sứ sang Trung Quốc để phân giải mọi sự cho minh bạch. Có lần được tin có người nhà Minh đem quân qua địa giới, Thánh Tông liền cho người do thám thực hư.
Lời của vua Lê Thánh Tông từng nói với triều thần đã được ghi rõ trong Đại Việt sử ký toàn thư:
“Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước núi, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di!” (lời của vua Lê Thánh Tông nói với các quan phụ trách biên cương năm 1473, được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư.)
Ông thường bảo với triều thần:
“ |
Ta phải giữ gìn cho cẩn thận, đừng để ai lấy mất 1 phân núi, 1 tấc sông do vua Thái Tổ để lại. |
” |
—Lê Thánh Tông |
Nhà vua có lòng vì nước như thế, nên nhà Minh dẫu có muốn dòm ngó cũng chẳng dám làm gì. Vả lại quân Đại Việt bấy giờ đi đánh Lào, Chiêm nên thanh thế bao nhiêu, nhà Minh cũng phải lấy lễ nghĩa mà đãi Đại Việt, quan hệ giữa hai nước vẫn được hoà bình.[24].
Quan hệ với bề tôi
Nguyễn Trãi
-
Danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi và gia đình ông đã bị tru di tam tộc vào năm 1442 trong vụ án Lệ Chi Viên. Sau vụ án này, vua Lê Nhân Tông (1443-1459) đã khẳng định lại công lao sự nghiệp của Nguyễn Trãi: Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp yên giặc loạn, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng[26]. Nhưng Lê Nhân Tông vẫn chưa minh oan cho Nguyễn Trãi.
Năm 1464, Lê Thánh Tông đã chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi. Ông ca ngợi Nguyễn Trãi là Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo, truy tặng tước Tán Trù Bá, ban cho con là Anh Vũ chức huyện quan. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Việc làm này có thể đã góp phần bảo tồn một phần quan trọng các di sản văn hóa mà Nguyễn Trãi đã để lại.
Vua Lê Thánh Tông như đã tạc bia cho Nguyễn Trãi bằng câu thơ:
- Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo
Tạm dịch:
- Tâm hồn Ức Trai sáng tựa sao Khuê
- hay là: Văn chương Ức Trai lòng soi sáng
Nhiều người hiểu sai khi dịch nghĩa “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” là “Lòng Ức Trai sáng tựa sao khuê”, dịch chính xác phải là “văn chương Ức Trai lòng soi sáng”, với ý ca ngợi văn chương chứ không phải nhân cách Nguyễn Trãi[27].
Nguyên văn bài thơ:Cao Đế anh hùng cái thế danh
Văn Hoàng trí dũng phủ doanh thành
Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
Vũ Mục hung trung liệt giáp binh
Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển
Nhị Cha tử bội ân vinh
Hiếu tôn Hồng Đức thừa phi tự
Bát bách Cơ Chu lạc thái bình |
Dịch nghĩa:Đức Cao Đế là bậc anh hùng đệ nhất thiên hạ
Đức Văn Hoàng trí dũng kế thừa cơ nghiệp
Văn chương Ức Trai soi sáng lòng
Binh giáp Vũ Mục chứa đầy bụng
Mười anh em họ Trịnh (con thái uý Trịnh Khả) tất thảy đều vẻ vang phú quý
Hai cha con họ Thân (Thân Nhân Trung và Thân Nhân Tín) đều hưởng ân vinh lớn
Cháu hiếu là Hồng Đức [Lê Thánh Tông] nay kế thừa nghiệp lớn
Vui hưởng thái bình như nhà Chu tám trăm năm |
Các đại thần chống Lê Nghi Dân
Với những người thực hiện đảo chính Lê Nghi Dân thành công để đưa Lê Thánh Tông lên ngôi như Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Niệm,… ông đều phong thưởng. Nhưng với những người tham gia vụ đảo chính Nghi Dân trước đó bị thất bại và bị Nghi Dân giết như Lê Ê, Lê Thụ, Đỗ Bí, Lê Ngang, khi Nguyễn Xí đề nghị truy phong tiết liệt cho họ thì Lê Thánh Tông không chấp thuận, ngược ông lại còn ban ý chỉ coi việc họ binh biến thất bại như tội thần[28]:
- Đã xem hết tờ tâu, trong ấy có xin cho bọn Lê Ê, Lê Thụ, Đỗ Bí, Lê Ngang theo như lệ công thần đã mất, nhưng câu ấy còn có thể bẻ lại được, là vì khoảng năm Diên Ninh, Đỗ Bí, Lê Ê ở chức cao nhất vào hàng tể thần; Lê Ngang, Lê Thụ tay cầm cấm quân, giữ việc an nguy, đáng lẽ phải dẹp yên giặc loạn, chuyển nguy thành an mới phải, thế mà chỉ biết sắp gà vào trong nồi mà để cá kình lọt ra ngoài lưới. Đến sau mưu việc không kín, đến nỗi phải phơi thây ở bên đường. Đó lại thêm một tội khác trong các tội của bọn Bí, Ngang, có khác gì tội giết vua của Triệu Thuẫn ngày xưa, sau được để cùng với những công thần đã mất?
Với công thần Lê Lăng tham gia cùng Nguyễn Xí, sau khi biết Lăng từng có ý lập anh mình là Lê Khắc Xương, Lê Thánh Tông cũng kết án xử tử Lê Lăng vào năm 1462.
Qua đời
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, năm 1497, Thánh Tông hoàng đế lâm bệnh phù thũng. Quý phi Nguyễn Hằng, con gái của công thần Nguyễn Đức Trung, vốn bị thất sủng xa lánh lâu ngày, lấy cớ vào thăm bệnh rồi ngầm bôi thuốc vào tay, xoa lên những chỗ loét của ông.[29] Do đó, bệnh ông càng nặng thêm[29] và băng hà ở điện Bảo Quang.
Ông ở ngôi 38 năm, hưởng thọ 56 tuổi và được an táng ở Chiêu Lăng (昭陵). Tương truyền, ngày hôm ấy, ấn thần và gươm thần đều biến mất.[29] Ông được tôn miếu hiệu là Thánh Tông (聖宗), miếu hiệu chỉ suy tôn những vị hoàng đế kiệt xuất nhất của triều đại. Thụy hiệu là Sùng Thiên Quảng Vận Cao Minh Quang Chính Chí Đức Đại Công Thánh Văn Thần Vũ Đạt Hiếu Thuần Hoàng Đế (崇天廣運高明光正至德 大功聖文神武達孝淳皇帝), đời sau gọi là Thánh Tông Thuần hoàng đế (聖宗淳皇帝), hay Lê Thuần Hoàng (黎淳皇), Lê Thuần Hoàng Đế (黎淳皇帝), Lê Thuần Đế (黎淳帝), Thuần Hoàng (淳皇), Thuần Đế (淳帝).
Thánh Tông hoàng đế mất, Thái tử Lê Tranh lên thay, tức là hoàng đế Lê Hiến Tông. Triều đại nhà Hậu Lê tiếp tục sự thịnh trị.
Nhận định
Lê Thánh Tông được xem là minh quân nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam. Sau đây là một số lời nhận xét về ông:
“ |
“Thánh tông là một ông vua thông minh, thờ mẹ rất có hiếu, ở với bề tôi đãi lấy lòng thành. Ngài trị vì được 38 năm, sửa sang được nhiều việc chính trị, mở mang sự học hành, chỉnh đốn các việc vũ bị, đánh dẹp nước Chiêm, nước Lào, mở thêm bờ cõi, khiến cho nước Nam…bấy giờ được văn minh thêm ra và lại lừng lẫy một phương, kể từ xưa đến nay chưa bao giờ cường thịnh như vậy.” |
” |
—Trần Trọng Kim, trong cuốn Việt Nam sử lược[30] |
“ |
Vua sáng lập chế độ văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc vua anh hùng tài lược, dẫu Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không thể hơn được. Nhưng công trình thổ mộc vượt quá quy mô xưa, tình nghĩa anh em thiếu hẳn lòng nhân ái. Đó là chỗ kém vậy. |
” |
—Đại Việt Sử ký Toàn thư[4] |
“ |
Vua tư triều cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài, đại lược, võ giỏi văn hay mà cái học của Thánh hiền lại đặc biệt siêng năng, tay không lúc nào rời quyển sách. Các tập kinh, sử, các lịch, toán, những việc Thánh thần, không có gì không bao quát tinh thông. Văn thơ thì vượt trên cả những văn mẫu của các văn thần. Cùng với bọn Nguyễn Trực, Vũ Vĩnh Mô, Thân Nhân Trung, Quách Đình Bảo, Đỗ Nhuận, Đào Cừ, Đàm Văn Lễ biên soạn bộ Thiên Nam dư hạ, tự đặt hiệu là “Thiên Nam động chủ”, “Đạo Am chủ nhân”. Lại sùng nho thuật, nâng đỡ nhân tài. Khoa thi chọn kẻ sĩ không phải chỉ có khóa, lệ định 3 năm một lần thi lớn là bắt đầu từ xưa. Người hiền tài được chọn nhiều hơn cả đời vua. Văn võ đều dùng, tùy theo sở trường của từng người. Vì thế, có thể sửa dựng chính sự, chế tác lễ nhạc, hiệu lệnh văn chương rõ ràng, có thể cho người sau noi theo. |
” |
—Vũ Quỳnh[29] |
Gia quyến
- Huy Gia Thuần hoàng hậu Nguyễn thị (徽嘉淳皇后阮氏; 1441 – 1505), húy là Hằng (晅), nguyên sơ phong là Quý phi, mẹ ruột của Lê Hiến Tông. Bà chưởng quản hậu cung, đứng đầu chúng phi tần của Thánh Tông.
- Nhu Huy Thuần hoàng hậu Phùng thị (柔徽淳皇后馮氏; 1444 – 1489), húy là Diệm Quý (琰貴), nguyên là Chiêu nghi của Thánh Tông, sinh ra Kiến vương Lê Tân. Con cháu là Lê Tương Dực truy tôn làm Hoàng hậu.
- Minh phi Phạm thị (明妃范氏; 1448 – 1498), con gái của đô đốc Phạm Văn Liêu. Sinh ra Lôi Ý công chúa, Lan Minh công chúa và Tống vương Lê Tung.
- Kính phi Nguyễn thị (敬妃阮氏; 1454 – 1495), người thuộc huyện Lôi Dương, Thanh Hoá. Cha bà là Đô đốc thiêm sự Đề đốc 4 vệ Thần vũ Nguyễn Đức Nghị. Bà mồ côi cha từ nhỏ, được Thái bảo Giản cung hầu Lê Hươu nhận làm con. Bà sinh ra Minh Kính công chúa, nhận Quảng vương Lê Táo làm con thờ tự.
- Quý phi Nguyễn thị (貴妃阮氏), người xã Hòa Thược, huyện Kim Trà. Xuất thân bình dân, khi Thánh Tông hoàng đế đi đánh Chiêm Thành đã ghé qua vùng này, thấy bà có nhan sắc mà nạp về cung. Bà sinh ra Triệu vương Lê Thoan.
- Tu dung Nguyễn thị (修容阮氏), người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai, con gái Quan trung thư lệnh Nguyễn Trực. Năm 1472, tuyển vào cung, được đổi tên là Cẩn Kính. Tháng 8 năm 1491, thăng làm Dung hoa. Năm 1492, thăng làm Tiệp dư. Năm 1495, ban cho làm Tu dung.
- Tài nhân Nguyễn thị (才人阮氏; 1444 – 1479), người làng Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm. Cha là Thái trung đại phu thượng thư tự khanh Hộ bộ tả thị lang Nguyễn Đình Hy (阮廷禧), mẹ là Chu phu nhân. Bà sinh ra Phúc vương Lê Tranh.
- Lê Tranh [黎鏳], tức Hiến Tông Duệ hoàng đế (憲宗睿皇帝), mẹ là Huy Gia hoàng hậu.
- Lương vương Lê Tuyên [梁王黎銓].
- Tống vương Lê Tung [宋王黎鏦], sinh năm 1466, mẹ là Phạm Minh phi.
- Đường vương Lê Cảo [唐王黎鎬].
- Lê Tân [黎鑌], tức Đức Tông Kiến hoàng đế (德宗建皇帝), mẹ là Nhu Huy hoàng hậu.
- Phúc vương Lê Tranh [福王黎錚], mẹ là Nguyễn Tài nhân.
- Diễn vương Lê Thông [演王黎鏓].
- Nghĩa vương Lê Cảnh [義王黎耿].
- Ứng vương Lê Chiêu [應王黎昭].
- Quảng vương Lê Táo [廣王黎鐰], mẹ không rõ, được Nguyễn Kính phi nhận nuôi.
- Trấn vương Lê Hình [鎮王黎鋞].
- Triệu vương Lê Thoan [肇王黎鋑], mẹ là Nguyễn Quý phi.
- Kinh vương Lê Kiện [荆王黎鍵], được Thánh Tông rất yêu quý, sau này loạn Uy Mục Đế, không rõ kết cục.
Ngoài ra, ông còn có 20 công chúa. Chỉ biết đến Lôi Ý công chúa Lê Oánh Ngọc (雷懿公主黎莹玉) và Lan Minh công chúa Lê Lan Khuê (兰明公主黎兰圭) đều do Phạm Minh phi sinh ra. Một hoàng nữ nữa là Minh Kính công chúa Lê Thụy Hoa (明敬公主黎瑞华), con gái của Nguyễn Kính phi.
Chú thích
- ^ a ă â Âm lịch theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
- ^ Sát nhập miền bắc Chiêm Thành, từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông vào Đại Việt, chia Chiêm Thành làm 3 nước là Hoa Anh, Nam Bàn và Chiêm Thành. Đặt tên vùng đất mới là thừa tuyên Quảng Nam.
- ^ Thuộc Myanma ngày nay
- ^ a ă Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản kỷ thực lục, Quyển XII, Kỷ nhà Lê: Thánh Tông Thuần Hoàng Đế (phần thượng)
- ^ Giáo sư Oliver Oldman, chủ nhiệm khoa Luật Á Đông của Đại học Harvard đánh giá cao Luật Hồng Đức, coi nó là hệ thống luật tiến bộ với nhiều sự tương đương về chức năng so với những quan niệm luật pháp Tây phương cận hiện đại
- ^ Phụ nữ được ly hôn và có quyền thừa kế, một điểm khác biệt quan trọng so với luật pháp của Trung Hoa cùng thời.
- ^ Vũ khí Đại Việt
- ^ Trần Nghĩa. 1990. Bản đồ cổ Việt Nam. Tạp chí Hán Nôm, số 02/ 1990.
- ^ Tập thơ do vua tôi xướng họa nhân dịp hai năm liền được mùa theo chín chủ đề: 1. Phong niên (được mùa), 2. Quân đạo (đạo làm vua), 3. Thần tiết (tiết làm bề tôi), 4. Minh lương (vua sáng tôi hiền), 5. Anh hiền (các bậc anh tài hiền triết), 6. Kỳ khí (khí lạ), 7. Thảo tự (chữ Thảo), 8. Văn nhân, 9. Mai hoa.
- ^ Phan Huy Chú. 1961. Lịch triều hiến chương loại chí. Phần Văn tịch chí. (Đào Duy Anh hiệu đính). Nxb. Sử học. Hà Nội. tr.76.
- ^ Mai Xuân Hải. 2007. Lê Thánh Tông và thơ chữ Hán. trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo dục. H. tr.432
- ^ Như kỳ thi hội năm 1475 có đến 3.000 thí sinh Nho giáo đã áp đảo tuyệt đối Phật giáo lẫn Đạo giáo
- ^ a ă â Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, tr. 101
- ^ Việt Nam Sử Lược, sách đã dẫn, tr. 101
- ^ Nguyên một phần đất Bồn Man (vùng thuộc Khăm Muộn, Hà Tĩnh, Quảng Bình ngày nay), thời Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông đã xin nội thuộc, đổi thành châu Quy Hợp thuộc xứ Nghệ An (về sau đến thời nhà Nguyễn, thuộc đạo Hà Tĩnh), nhưng vẫn dưới quyền các tù trưởng họ Cầm. Sau đổi thành phủ Trấn Ninh xứ Nghệ, và đặt quan phủ huyện để trị vì.
- ^ Ở vùng Luang Prabang, vương quốc lớn mạnh của người Lào lúc đó
- ^ Lão Qua, tức Luang Prabang, là đất Thượng Lào ở về phía Tây Bắc Việt bấy giờ. Còn được gọi là nước Nam Chướng.
- ^ Cánh quân chính phía Bắc, theo đường thuộc Điện Biên ngày nay
- ^ Cánh quân yểm trợ cho cánh quân chính phía BắcThuận Châu, theo đường thuộc tỉnh Sơn La ngày nay
- ^ Cánh quân Bắc trung tâm, theo đường thuộc hướng các huyện Thường Xuân, Lang Chánh, Quan Sơn tỉnh Thanh Hóa
- ^ Cánh quân trung tâm, theo đường thuộc Kỳ Sơn, Nghệ An ngày nay
- ^ Cánh quân Nam trung tâm, đường thuộc Con Cuông, Hương Sơn ngày nay
- ^ Theo địa dư Trung Quốc, sông Kim Sa là khúc trên sông Trường Giang. Sông này chảy qua tỉnh Tây Khương và Tứ Xuyên. Đây có lẽ nhà chép sử lẫn với khúc sông Lan Thương trên sông Mê Kông
- ^ a ă â Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, tr. 102
- ^ Nay thuộc miền trung nước Lào, tỉnh Xiêng Khoảng, một phần các tỉnh Hủa Phăn, đến Khăm Muộn
- ^ Nguyễn Trãi toàn tập, đd, tr. 246
- ^ Bùi Duy Tân, sách đã dẫn, tr 96-97
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ quyển 12
- ^ a ă â b Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ Thực Lục, Quyển XIII: Thánh Tông Thuần Hoàng Đế (phần hạ)
- ^ Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim, tr. 99
Tham khảo
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (bản điện tử)
- Việt Nam Sử Lược (bản điện tử)
- Vietnam: Borderless Histories. Nhung Tuyết Trần & Anthony Reid. University of Wisconsin Press. 2004
- Kho báu Tiền cổ Đại Việt. Bảo tàng lịch sử Việt Nam Hà Nội, 2006
- Viện Sử học (2007) Lịch sử Việt Nam, tập 4, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
- Đại Việt mở rộng về phía Tây, Nam trên BBC Vietnamese
- Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận về một số tác gia-tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, tập 1, Hà Nội: NXB Khoa học giáo dục
Xem thêm
Liên kết ngoài
|
Nguyên soái |
Lê Thánh Tông
|
|
Phó Nguyên soái |
|
|
Thành viên |
|
|
Khác |
|
|
Thể loại:
Neil Armstrong
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Neil Armstrong (5 tháng 8 năm 1930 – 25 tháng 8 năm 2012) là một phi hành gia người Mỹ, người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng ngày 20 tháng 7 năm 1969, trong chuyến du hành trên tàu Apollo 11 cùng Buzz Aldrin & Michael Collins. Chuyến bay đầu tiên của ông là trên tàu Gemini 8 năm 1966, mà ông là phi công, trở thành công dân Mỹ đầu tiên bay vào không gian. Trong nhiệm vụ này, ông đã thực hiện chuyến bay đầu tiên vào vũ trụ có người lái cùng với phi công David Scott. Chuyến bay thứ hai và cuối cùng Armstrong đã làm nhiệm vụ chỉ huy của phi vụ Apollo 11 hạ cánh xuống Mặt Trăng ngày 20 tháng bảy năm 1969. Thời khắc lịch sử, Armstrong và Buzz Aldrin đặt chân lên bề mặt Mặt Trăng và dành 2,5 giờ khám phá trong khi Michael Collins ở lại trên quỹ đạo trong Module Command.
Khi đặt chân xuống Mặt Trăng, ông đã nói một câu bất hủ: “Đây là bước đi nhỏ bé của một người, nhưng là bước tiến khổng lồ của nhân loại“.
Thật khó tin rằng những nhà du hành vũ trụ đã chấp nhận những rủi ro. Trước khi tàu Apollo 11 cất cánh, nhiều người đã nghĩ tới tình huống xấu nhất trong chuyến đi của 3 nhà du hành. Một trong những chuyên gia viết bài phát biểu cho Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã chuẩn bị bài phát biểu với tựa đề: “Thảm họa Mặt Trăng”. Bài phát biểu bắt đầu bằng câu: “Số phận đã quyết định rằng những người thám hiểm Mặt Trăng yên nghỉ vĩnh viễn trên đó trong thanh bình”. Theo kế hoạch, nếu nỗ lực rời khỏi Mặt Trăng thất bại, trung tâm điều khiển dưới mặt đất sẽ cắt đứt mọi liên lạc với khoang đổ bộ và phó mặc mạng sống của hai phi hành gia.[cần dẫn nguồn] May mắn thay! Cả 3 phi hành gia đã trở về Trái Đất an toàn, mở ra kỷ nguyên mới cho nhân loại về con người chinh phục vũ trụ.
Cuộc đời và sự nghiệp
Armstrong sinh ngày 5/8/1930 tại tiểu bang Ohio, Mỹ.
Vào khoảng những năm 1956, ông là một phi công lái thử tại Trạm Bay Tốc độ cao NACA ở Căn cứ Không quân Edwards, tiểu bang California.
Sau quãng thời gian làm một phi công lái thử, Armstrong có bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp. Ông chuyển sang làm một nhà du hành vũ trụ.
Năm 1969, Armstrong nhận nhiệm vụ tham gia chuyến bay Apollo 11 và sứ mệnh đại diện cho cả ngành hàng không vũ trụ Mỹ trong việc đặt chân lên Mặt Trăng. Người Mỹ rất khao khát làm được điều này, sau khi người Nga đã đi trước một bước với việc đưa được con người vào vũ trụ 8 năm trước đó.
Sáng sớm ngày 21/7/1969, Armstrong trở thành người đầu tiên đặt chân xuống Mặt Trăng với câu nói nổi tiếng: “Đây là bước đi nhỏ của một con người, nhưng là bước tiến lớn của nhân loại”. Sau đó Armstrong và bạn đồng hành Aldrin cùng căng lá quốc kỳ Mỹ trên Mặt Trăng. Sự kiện này được truyền hình trực tiếp trên toàn thế giới và có đến vài trăm triệu người đã theo dõi qua màn hình tivi đen trắng.
Với việc trở thành người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng, Armstrong vụt sáng để trở thành một biểu tưởng đáng tự hào của rất nhiều thế hệ người Mỹ. Ngày nay, vẫn còn rất nhiều thanh niên Mỹ coi ông là một tấm gương sáng để noi theo.
Sau khi thực hiện “bước tiến dài của nhân loại” trên Mặt Trăng vào năm 1969, nhà du hành Neil Armstrong duy trì cuộc sống bình lặng và tránh xa ánh hào quang của quá khứ.
Ngay sau chuyến bay lên Mặt Trăng, Armstrong tuyên bố ông sẽ không bay lên vũ trụ nữa. Ông từ bỏ mọi chức vụ tại NASA vào năm 1971 và nhận công việc giảng dạy tại khoa Cơ khí Hàng không của Đại học Cincinnati ở tiểu bang Ohio. Mặc dù từng lái máy bay chiến đấu cho hải quân Mỹ, làm phi công thử nghiệm và phi hành gia cho Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA), Armstrong chưa bao giờ cho phép bản thân chìm đắm trong ánh hào quang sau chuyến bay lên Mặt Trăng vào năm 1969. Ông rất hiếm khi xuất hiện trước công chúng. Vô số công ty muốn ông trở thành người phát ngôn của họ, nhưng ông liên tục từ chối và chỉ chấp nhận lời mời của một số doanh nghiệp.
“Tôi, bây giờ và mãi mãi, chỉ là một kỹ sư bình thường”, ông từng tuyên bố như vậy vào năm 2000.
Khi xuất hiện tại thành phố Dayton vào năm 2003 để tham dự một sự kiện, Armstrong bước lên sân khấu nhưng chỉ phát biểu trước đám đông trong vài giây và không hề đề cập tới Mặt Trăng. Sau đó ông nhanh chóng rời sân khấu.
Luôn lẩn tránh ống kính của báo giới, nhưng vào năm 2010, Armstrong xuất hiện trước công chúng để bày tỏ sự lo ngại về chính sách của Tổng thống Obama đối với chương trình thám hiểm vũ trụ. Sau khi nắm quyền, ông Obama không ưu tiên tới việc trở lại Mặt Trăng mà chú trọng vào việc tư nhân hóa hoạt động vận tải vũ trụ.
Cùng với hơn 10 phi cựu phi hành gia của NASA, ông ký một thư kêu gọi chính phủ Mỹ hướng tới Mặt Trăng trong tương lai.
Ngày 25/8/2012, Armstrong qua đời tại chính quê hương Ohio, vì những di chứng sau một ca phẫu thuật tim.
Nhận định
John Logsdon, giáo sư danh dự của Đại học George Washington, bình luận: “Việc Armstrong đặt chân lên Mặt Trăng sẽ là một thành tựu mà nhân loại sẽ nhớ mãi. Đó thực sự là sự kiện truyền thông toàn cầu của loài người. Khoảng 600 triệu người, tương đương 20% dân số thế giới, đã xem những bước đi đầu tiên của con người trên Mặt Trăng”
Roger Launius, một nhà nghiên cứu của Viện Smithsonian tại Mỹ, cho rằng khi các thế hệ sau liệt kê hai sự kiện lịch sử đáng nhớ nhất của thế kỷ 20, họ sẽ nghĩ tới chuyến đổ bộ đầu tiên lên Mặt Trăng và quả bom nguyên tử đầu tiên:“Không ai có thể đánh giá thấp tầm quan trọng của chuyến đổ bộ đầu tiên lên Mặt Trăng trong lịch sử nhân loại và Armstrong sẽ gắn với sự kiện ấy mãi mãi”
Douglas Brinkley, một chuyên gia về lịch sử thế kỷ 20 của Đại học Rice tại Mỹ, bình luận: “Chuyến thám hiểm tới châu Mỹ từ 500 năm trước của Christopher Columbus tạo ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử. Tương tự, Neil Armstrong và phi thuyền Apollo 11 cũng tạo nên một thời đại mới”
Howard McCurdy, giáo sư bộ môn vũ trụ và chính sách công của Đại học America tại Mỹ, phát biểu: “20 năm trước khi tàu Apollo 11 bay lên Mặt Trăng, người ta vẫn chỉ nghĩ đó là một giấc mơ viển vông, nhưng Neil Armstrong đã biến nó thành hiện thực. Nếu chúng ta có thể thực hiện điều không tưởng trong lĩnh vực thám hiểm vũ trụ, chúng ta có thể tạo nên kỳ tích tương tự trong những lĩnh vực khác”, “Armstrong nhắc tới nhân loại, chứ không phải người Mỹ, trong câu nói bất hủ của ông. Với hành động đó, Armstrong muốn khẳng định chuyến đổ bộ của ông là thành tựu của cả thế giới”
Douglas Brinkley, nhà nghiên cứu lịch sử của Đại học Rice tại Mỹ và từng phỏng vấn Armstrong, nói rằng Armstrong có đầy đủ phẩm chất mà NASA đặt ra đối với người đầu tiên bước trên Mặt Trăng. Kiến thức về kỹ thuật của ông là ưu điểm nổi bật nhất. “Tôi nghĩ điểm đáng ngưỡng mộ nhất của Armstrong chính là thái độ lẩn tránh vinh quang. Ông ấy là vị anh hùng đích thực trong thời đại mà con người sẵn sàng làm những việc phi lý để trở nên nổi tiếng”.
Charles Bolden, giám đốc NASA: “Mọi cuốn sách lịch sử sẽ nhắc tới Neil Armstrong. Người ta sẽ nói rằng ông ấy là người đầu tiên đặt chân lên một thiên thể ngoài Trái Đất”
Gia đình Armstrong tuyên bố trong cáo phó trong đám tang ông: “Neil Armstrong là một vị anh hùng bất đắc dĩ, bởi ông ấy nghĩ rằng đặt chân lên Mặt Trăng chỉ là một phần của công việc”
Tham khảo
Phương tiện liên quan tới Neil Armstrong tại Wikimedia Commons
Thể loại:
Công an Nhân dân Việt Nam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Công an Nhân dân Việt Nam |

Công an hiệuSáu chữ vàng: BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐCĐối với tự mình, phải cần kiệm liêm chính;
Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ;
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành;
Đối với nhân dân, phải kính trọng lễ phép;
Đối với công việc, phải tận tụy;
Đối với địch, phải cương quyết khôn khéo. |
Hoạt động |
|
Khẩu hiệu |
Bảo vệ An ninh Tổ quốc |
Màu sắc |
Vàng, đỏ, xanh |
Hành khúc |
Chúng ta là chiến sĩ Công an
Tác giả: Giáo sư, Nghệ sĩ Nhân dân Trọng Bằng |
Lễ kỷ niệm |
Ngày Truyền thống: 19 tháng 8 |
Tham chiến |
Xô Viết Nghệ Tĩnh
Vụ án Ôn Như Hầu
Kế hoạch CM-12
Vụ án Năm Cam và đồng phạm
Vụ PMU 18 |
Các tư lệnh |
Đại tướng |
Trần Đại Quang |
Chỉ huy
nổi tiếng |
Lê Giản,
Phạm Hùng |
Công an Nhân dân Việt Nam là một lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, làm nòng cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Công an nhân dân có chức năng tham mưu cho Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; thực hiện thống nhất quản lý về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và các vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.[1] Công an Nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự thống nhất quản lý của Chính phủ và sự chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Công an.[2] Khẩu hiệu của lực lượng từ những ngày đầu thành lập là “Bảo vệ An ninh Tổ quốc”.[3]
Từ Công an
Từ “công an” là một từ gốc hán (公安) và được sử dụng tại các quốc gia Việt Nam (公安-công an), Nhật Bản(公安-こうあん)và Hàn Quốc 公安-공안). Nghĩa của nó được hình thành bởi hai chữ Hán “Công” nghĩa là “công cộng” và “an” nghĩa là “trật tự”, “hoà bình”. “Công an”, theo đó, có nghĩa là “lực lượng gìn giữ trật tự công cộng”.
Lịch sử
Quá trình hình thành
Nguồn gốc của lực lượng Công an Nhân dân Việt Nam được xem là bắt đầu từ các đội Tự vệ Đỏ trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930–1931), các Đội Danh dự trừ gian, Hộ lương diệt ác… do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập với mục đích bảo vệ tổ chức. Những năm 1930 – 45, để chống các hoạt động phá hoại và do thám của thực dân Pháp và chính quyền tay sai, bảo vệ cách mạng, Đảng Cộng sản Đông Dương đã thành lập các đội: Tự vệ đỏ, Tự vệ công nông, Danh dự trừ gian, Danh dự Việt Minh. Đó là những tổ chức tiền thân của công an nhân dân và quân đội nhân dân sau này.
Sau cuộc Cách mạng tháng Tám (nổ ra ngày 19 tháng 8 năm 1945), chính quyền lâm thời của Việt Minh đã có chỉ thị thành lập một lực lượng vũ trang có nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự. Tuy nhiên, lực lượng này chưa có tên gọi chung mà mang nhiều tên gọi khác nhau, như Sở Liêm phóng (ở Bắc Bộ), Sở trinh sát (ở Trung Bộ), Quốc gia tự vệ cuộc (ở Nam Bộ). Đến ngày 21 tháng 2 năm 1946, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 23/SL hợp nhất các lực lượng này thành một lực lượng công an nhân dân ở cả ba miền được thống nhất một tên gọi thống nhất là Công an có nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội; và thành lập Việt Nam Công an Vụ để quản lý lực lượng công an nhân dân[1] do một Giám đốc đứng đầu, mà người đầu tiên là Lê Giản.
Trong thời kỳ đầu, cơ quan quản lý ngành Công an là Nha Công an vụ, trực thuộc Bộ Nội vụ. Đến ngày 16 tháng 2 năm 1953, thành lập thành Thứ bộ Công an, trực thuộc Bộ Nội vụ, đứng đầu là một Thứ trưởng. Đến năm 1955, thì tách hẳn thành Bộ Công an. Năm 1959, sáp nhập các lực lượng biên phòng thành lực lượng Công an vũ trang (nay là lực lượng Biên phòng) trực thuộc quyền quản lý của Bộ Công an (về sau lại chuyển về trực thuộc Bộ Quốc phòng). Cũng từ năm này, lực lượng Công an được tổ chức vũ trang và bán vũ trang theo biên chế, có phù hiệu và cấp hàm tương tự như quân đội.
Cơ quan quản lý qua các thời kỳ
Trừ 2 bộ trưởng đầu tiên là dân sự, các đời bộ trưởng về sau đều là sĩ quan cấp tướng.
Ngày truyền thống
Ngày 19 tháng 8 hằng năm được lấy làm ngày truyền thống của Công an Nhân dân Việt Nam và được quy định là “Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”.[1]
Tổ chức
Cảnh sát giao thông Việt Nam.
-
Hệ thống tổ chức của Công an nhân dân gồm có:
- Bộ Công an;
- Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Công an xã, phường, thị trấn.
- Công an xã là lực lượng vũ trang bán chuyên trách làm nòng cốt trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở, chịu sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của cấp uỷ Đảng, sự quản lý, điều hành của Ủy ban nhân dân xã và sự chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của Công an cấp trên. Tổ chức, hoạt động, trang bị, trang phục, đào tạo, bồi dưỡng và chế độ, chính sách đối với Công an xã do pháp luật quy định.[2]
Trong lực lượng Công an Nhân dân chia thành hai lực lượng riêng biệt là Cảnh sát Nhân dân và An ninh Nhân dân, thực thi các nhiệm vụ chuyên biệt.
- Nhiệm vụ của An ninh nhân dân
– Phòng ngừa, phát hiện, làm thất bại các âm mưu, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.
– Hoạt động tình báo.
– Hướng dẫn và phối hợp với các tổ chức thực hiện công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, an ninh kinh tế, an ninh văn hoá – tư tưởng, an ninh thông tin; tham gia thẩm định quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế – xã hội liên quan đến bảo vệ an ninh quốc gia.
– Thực hiện quản lý công tác xuất cảnh, nhập cảnh; quản lý người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài cư trú tại Việt Nam; quản lý về bảo vệ bí mật nhà nước; thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia ở biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật.
– Làm nòng cốt xây dựng thế trận an ninh nhân dân trên các lĩnh vực, tại các địa bàn.
– Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
- Nhiệm vụ của Cảnh sát nhân dân
– Phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội, về bảo vệ môi trường; phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, vi phạm pháp luật khác và kiến nghị biện pháp khắc phục; tham gia giáo dục đối tượng vi phạm pháp luật tại cộng đồng theo quy định của pháp luật.
– Quản lý hộ khẩu, cấp giấy chứng minh nhân dân; quản lý con dấu; quản lý về an ninh, trật tự các nghề kinh doanh có điều kiện và dịch vụ bảo vệ; quản lý và bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, trật tự công cộng; quản lý vũ khí, vật liệu nổ; quản lý, thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy; tham gia cứu hộ, cứu nạn theo quy định của pháp luật.
– Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.[2]
Trang phục
Cơ bản trang phục của tất cả các lực lượng trong ngành công an nhân dân đều có chung một qui tắc là quân hàm đeo hai bên vai, huy hiệu ve áo được sử dụng tùy cấp bậc của người mặc, cấp hạ sĩ quan và chiến sĩ sử dụng ve áo hình bình hành nền đỏ ở giữa có hình công an hiệu, sĩ quan cấp úy là cành tùng màu bạc, cấp tá màu vàng và cấp tướng là màu vàng có ngôi sao.
An ninh nhân dân
– Trang phục của lực lượng an ninh nhân dân được chia làm hai mẫu là xuân-hạ và thu-đông. Trang phục xuân-hạ có áo màu cỏ úa tay ngắn, quần tây dài và nón kepi màu cà phê. Giày da cổ thấp, tất xanh mạ non. Mẫu trang phục thu-động thì quần áo, mũ kepi đồng màu cà phê giày da cổ thấp, tất xanh mạ non, áo tay dài, bên trong mặc áo sơ mi trắng caravat màu cà phê.
Cảnh phục phổ thông
– Thông thường đa số các lực lượng cảnh sát đều sử dụng loại trang phục này, cảnh phục phổ thông được chia thành 2 mẫu là trang phục xuân-hạ và thu-đông. Cả hai mẫu đều sử dụng áo vest cổ áo kiểu vest, quần dài màu xanh lá, giày da đen cổ thấp, vớ màu xanh ma non, riêng về áo thì mẫu thu-đông sử dụng áo tay dài và bên trong mặc áo sơ mi trắng với caravat màu xanh lá. Thắt lưng màu nâu đậm, mặt thắt lưng màu vàng.
Lễ phục
– Lễ phục ngành công an nhân dân được sử dụng chung cho cả lực lượng cảnh sát nhân dân và an ninh nhân dân. Áo vest tay dài và quần tây dài màu trắng, áo sơ mi trắng, caravat đen, mũ kepi trắng, bao tay trắng, giày da cổ thấp đen cùng với tất xanh mạ non. Có hoặc không có đai vắt chéo vũ trang.
Cảnh sát cơ động
– Trang phục của cảnh sát cơ động gồm quần dài bỏ ống quần vào trong ống giày bót cao, áo tay dài màu đen cổ bẻ, đối với cảnh sát đặc nhiệm thì có hàng chữ Police màu trắng trên nên đen dọc trước ngực và ngang trên lưng áo. Còn đối với cảnh sát cơ động bình thường thì có dòng chữ CSCĐ màu đỏ nền vàng phản quang dọc trước ngực và ngang trên lưng áo. Mũ bảo vệ trùm kín đầu. Khi tác chiến còn trang bị thêm áo chống đạn hoặc áo vũ trang nhiều túi màu đen.
Cảnh sát giao thông
– Trang phục như là cảnh phục phổ thông, nhưng quần, áo và nón kepi màu vàng da.
Trang phục khác
– Ngoài các trang phục trên còn một số trang phục khác tùy biến không theo quy tắc tùy trường hợp tác chiến được sự dụng trong ngành công an nhân dân.
Phương tiện di chuyển
-
Đa số phương tiện di chuyển của lực lượng công an nhân dân ở Việt Nam đều là xe ô tô có màu trắng hoặc đen, sọc xanh dương với các dòng chữ như “Cảnh sát”, “Cảnh sát giao thông”, “Cảnh sát 113″ được in lên chỗ dễ thấy. Do đặc tính về cơ sở hạ tầng, đường xá và mật độ lưu thông ở Việt Nam nên các phương tiện di chuyển này thường là xe mô tô có đặc điểm nhỏ gọn, tiện dụng, bền, hiệu quả cao và chi phí bảo trì rẻ. Vì vậy ít thấy những chiếc xe motor phân khối lớn cồng kềnh hay những chiếc xe tải, xe đặc dụng to lớn. Các phương tiện di chuyển này tất cả đều phải gắn còi ưu tiên, loa phát tín hiệu, đèn xoay khẩn cấp. Ngoài ra còn một số xe đặc chủng dành cho các nhiệm vụ đặc biệt khi cần thiết.
Thông thường, các loại xe hai bánh phân khối lớn được sử dụng bởi cảnh sát giao thông, cảnh sát phản ứng nhanh 113, cảnh sát cơ động hoặc cảnh sát trật tự cơ động.
Vũ khí
Cấp bậc, Chức vụ, Quân hàm
Cấp bậc của cán bộ, chiến sĩ Công an Việt Nam phân thành 5 cấp: cấp tướng (4 bậc); cấp tá (4 bậc); cấp úy (4 bậc); cấp hạ sĩ quan (3 bậc); và cấp chiến sĩ (2 bậc); với danh xưng tương tự hệ thống cấp bậc của quân đội. Ngoài ra còn được phân loại thành Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật. Cấp bậc thấp nhất của Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật là Hạ sĩ và cao nhất là Thượng tá.
Theo Nghị định 42/2007/NĐ-CP, hệ thống cấp bậc hàm của sĩ quan đảm nhiệm chức vụ cơ bản trong lực lượng Công an nhân dân thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 24 Luật Công an nhân dân, cụ thể như sau:
a) Tiểu đội trưởng: Thiếu uý, Trung úy, Thượng úy;
b) Trung đội trưởng: Trung úy, Thượng úy, Đại úy;
c) Đại đội trưởng: Thượng úy, Đại úy, Thiếu tá;
d) Tiểu đoàn trưởng, Trưởng Công an phường, thị trấn, Đội trưởng: Thiếu tá, Trung tá;
đ) Trung đoàn trưởng, Trưởng Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Trưởng phòng: Trung tá, Thượng tá;
e) Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Cục trưởng, Vụ trưởng: Đại tá; Thiếu tướng
g) Giám đốc Công an thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, Giám đốc Sở Cảnh sát Phòng cháy Chữa cháy Thành Phố Hồ Chí Minh: Thiếu tướng, Trung tướng
h) Tổng cục trưởng, Chánh văn phòng Bộ Công an, Chánh thanh tra Bộ Công an: Thiếu tướng, Trung tướng;
i) Thứ trưởng: Trung tướng, Thượng tướng
k) Bộ trưởng: Thượng tướng, Đại tướng.
Bộ trưởng Bộ Công an đương nhiệm là Đại tướng An ninh Nhân dân Trần Đại Quang.
Ở những đơn vị được giao nhiệm vụ quan trọng, đặc biệt hoặc địa bàn có vị trí trọng yếu về an ninh, trật tự thì cấp bậc hàm cao nhất có thể cao hơn một bậc so với cấp bậc hàm cao nhất của chức vụ tương ứng.
Hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan Công an nhân dân ở cấp úy là 50 đối với cả nam và nữ; Thiếu tá, Trung tá là 55 đối với nam, 53 đối với nữ; Thượng tá nam 58, nữ 55; Đại tá, cấp Tướng nam 60, nữ 55.
Sĩ quan Công an nhân dân được kéo dài tuổi phục vụ phải đủ các điều kiện như đơn vị trực tiếp sử dụng sĩ quan hoặc đơn vị khác trong Công an nhân dân thực sự có nhu cầu; sĩ quan Công an nhân dân có phẩm chất tốt, sức khoẻ tốt, tự nguyện và có một trong hai điều kiện: cán bộ nghiên cứu khoa học trong Công an nhân dân có học hàm, học vị Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ; danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú, Thầy thuốc nhân dân, Thầy thuốc ưu tú, Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú.
Cán bộ trong Công an nhân dân đang tham gia vào chương trình, đề tài khoa học cấp Nhà nước; chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực công tác của Công an nhân dân cũng có thể được kéo dài tuổi phục vụ. Trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định.[2]
Các Bộ trưởng
-
Phong tặng
- Công an Nhân dân Việt Nam đã vinh dự được Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam tặng thưởng ba Huân chương Sao Vàng (1980, 1985, 2000) và nhiều phần thưởng cao quý khác;
- 571 lượt đơn vị và 291 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Chú thích