#cnm365 #cltvn 1 tháng 11


TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
#htn, #vietnamxahoihoc, #htn365, #ana, #dayvahoc, #vietnamhoc, #cnm365#cltvn

#BanMai Ngọc Biển Vàng, Đi dưới trời minh triết; Bình sinh Hồ Chí Minh; Điểm hẹn chốn đồng tâm; Quảng Bình Đất Mẹ Ơn Người; Việt Nam con đường xanh ; Bài học lớn muôn đời; Kim Notes lắng ghi chú, Quê Mẹ vùng di sản ; Đồng xuân lưu dấu hiền; Đào Duy Từ còn mãi; Thế giới trong mắt ai ; Trung Quốc một suy ngẫm ; Ngày vui nhớ Chứa Chan; Vạn An lời yêu thương; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Một gia đình yêu thương, Sân trước một nhành mai; Ân tình đất phương Nam; Đường hoa ở Hà Nội , Vietnamese cassava today; Cánh cò bay trong mơ; Trò chuyện với Yến Thanh; Ban mai chợt tỉnh thức; Ngày mới Ngọc cho đời; Ban mai đứng trước biển; Vị tướng của lòng dân; Nếp nhà đẹp văn hóa; Có ba dòng văn chương; Chợt gặp mai đầu suối; Bên suối một nhành mai; Thơ vui những ngày nhàn; Trời nhân loại mênh mông; Cánh cò bay trong mơ; Chỉ tình yêu ở lại; Nắng mới và mưa lành; An vui cụ Trạng Trình; Ngọt bùi nhớ trái ớt cay; Quả táo Apple Steve Jobs; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Đối thoại nền văn hóa; Bài ca yêu thương; Cầu Trời nối Mẹ Cha xưa; Bài thơ Viên đá Thời gian; Bài đồng dao huyền thoại; Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Long cây lương thực; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Giấc nhàn trời chuyển đông; Nông lịch tiết sương giáng; Truyện Tam Cố Thảo Lư; Hi vọng của hạnh phúc; Lào hoa trắng nắng Mekong; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Trận Vũ Hán lịch sử; Đi thuyền trên Trường Giang; Đập Tam Hiệp Tam Tuyến; Trung Nga với Trung Á; Lúa cao cây Trung Quốc; Thời biến nhớ người xưa; Chuyện thầy Ngô Kế Sương; Nợ duyên; Hưng Đạo Trần Quốc Tuấn; Chuyển đổi số Quốc gia; Thiền Sư Lão Nông Tăng; Ban mai trên sông Son; Chớm Đông; Đi để hiểu quê hương; Nguyễn Du tư liệu quý; Tháp Bút viết trời xanh; Hoàng Thành ngọc cho đời; Bảo tồn và phát triển sắn; Thầy bạn trong đời tôi; Việt Nam dư địa chí; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Cây Lương Thực Food Crops; Gia Cát Mã Tiền Khóa; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Hà Nội mãi trong tim; Chuyện cổ tích người lớn; Đêm trắng và bình minh; Kim Dung trong ngày mới; Trần Tử Ngang thơ Người; Trần Khánh Dư “Bán than”; Vạn Kiếp binh thư truyền; Ngẫm thơ ngoài ngàn năm; Ca dao Việt “Cày đồng”; Mãn Giác thơ “Hoa Mai”; Tiếng Việt lung linh sáng; Thơ Việt ngoài ngàn năm; Đậu Quốc Anh khiêm  nhường; Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Đồng xuân lưu dấu hiền; Bảy bài học cuộc sống; Bill Gates học để làm; Thăng Long Lý Thái Tổ; Hoàng Thành nền Đại La; Trường tôi nôi yêu thương; Tháp Bút viết trời xanh; Champasak ngã ba biên giới; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc

Những góc khuất lịch sử sáng tỏ trước bình minh: Ngày 1 tháng 11 năm 2023. Thế giới trong mắt ai. Biến đổi lớn toàn cầu với vận mệnh Việt Nam. Ngày 1 tháng 11 năm 1459 (ngày 7 tháng 10 năm Đinh Sửu) Lê Nghi Dân đã tự lập làm hoàng đế triều Lê sơ, sau khi binh biến sát hại vua Lê Nhân Tông. Lê Nghi Dân là con trưởng, trước kia từng được lập Hoàng thái tử, sau đó bị phế truất làm phiên vương do mẹ là Dương phi bị thất sủng và bị giáng làm thứ nhân. Em trai của ông là Lê Nhân Tông (Lê Bang Cơ) lên ngôi vua lúc mới 1 tuổi, nên trong 10 năm đầu thời ông, mẹ ông là thái hậu Nguyễn Thị Anh nắm quyền trị nước. Vụ trọng án này là mắt xích trọng yếu soi thấu vụ án oan khuất Lệ Chi Viên mà Nguyễn Thái hậu đã chủ động ra tay ám hại vua Lê Thái Tông và đổ tội cho Nguyễn Trãi, tru di ba họ nhà ông, để Lê Nhân Tông đang là Thái tử được lên thay. Ngày 1 tháng 11 năm 1604, Vở kịch Othello của William Shakespeare, nhà thơ văn và nhà viết kịch vĩ đại nhất nước Anh, được công diễn lần đầu tiên tại cung Whitehall ở Luân Đôn, vương quốc Anh. Ngày 1 tháng 11 năm 1894 Sa hoàng Nga Nikolai bắt đầu trị vì, sau khi vua cha Aleksandr qua đời, ông là vị Sa hoàng cuối cùng trong lịch sử Nga;

Bài chọn lọc ngày 1 tháng 11: #BanMai Ngọc Biển Vàng; Điểm hẹn chốn đồng tâm; Thế giới trong mắt ai ; Việt Nam con đường xanh ; Bài học lớn muôn đời; Đi dưới trời minh triết; Bình sinh Hồ Chí Minh ; Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc; Ban mai chợt tỉnh thức; Ngày mới Ngọc cho đời; Việt Nam con đường xanh; Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Long cây lương thực; Cây Lương Thực Food Crops; Gia Cát Mã Tiền Khóa; Ngọt bùi nhớ trái ớt cay; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Hà Nội mãi trong tim; Chuyện cổ tích người lớn; Đêm trắng và bình minh; Kim Dung trong ngày mới; Trần Tử Ngang thơ Người; Trần Khánh Dư “Bán than”; Vạn Kiếp binh thư truyền; Ngẫm thơ ngoài ngàn năm; Ca dao Việt “Cày đồng”; Mãn Giác thơ “Hoa Mai”; Tiếng Việt lung linh sáng; Thơ Việt ngoài ngàn năm; Đậu Quốc Anh khiêm  nhường; Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Đồng xuân lưu dấu hiền; Bảy bài học cuộc sống; Bill Gates học để làm; Thăng Long Lý Thái Tổ; Hoàng Thành nền Đại La; Trường tôi nôi yêu thương; Tháp Bút viết trời xanh; Champasak ngã ba biên giới; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-1-thang-11/https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-1-thang-11

VIỆT NAM TÂM THẾ MỚI
Hoàng Kim

Hội đàm cấp cao Việt Nam – Trung Quốc, https://youtu.be/zODHUqANmOk Thông tin Truyền Hình Nhân Dân. Bộ trưởng bộ ngoại giao Bùi Thanh Sơn tiết lộ “bí mật động trời” chuyến thăm Trung Quốc https://www.facebook.com/watch/?v=3220546298193960; Toàn văn tuyên bố chung Việt Nam Trung Quốc https://youtu.be/BidU9XfbjKM

Việt Nam tâm thế mới
Việt Nam con đường xanh
CNM365 Tinh yêu cuộc sống
#vietnamhoc #cltvn #Thungdung

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-tam-the-moi

Những trích dẫn nổi bật
Chuyển đổi số Quốc gia
Chuyển đổi số nông nghiệp

banmai

Ban Mai Chào Ngày Mới

#BanMai Ngọc Biển Vàng
#Annhiên
#BìnhMinhAn

#Thungdung #Khátkhaoxanh
#HoàngThành
#Trúc Lâm #Sáng


#BanMai Ngọc Biển Vàng là thời điểm chuyển đổi. Duy nhất một khoảnh khắc quý hiếm có được hình này : ‘Ký Tế xong rồi, Vị Tế chưa xong’. “Ở vào thời Ký Tế, việc lớn đã xong, còn những việc nhỏ cũng làm cho xong nữa, thì mới thật là hoàn thành. Hoàn thành rồi lại phải cố giữ được sự nghiệp, nếu không thì chỉ tốt lúc đầu thôi, rốt cuộc sẽ nát bét. Nghĩa là lúc trị phải lo trước tới lúc loạn. Kinh Dịch bắt đầu bằng hai quẻ Càn, Khôn, gốc của vạn vật; ở giữa là hai quẻ Hàm và Hằng, đạo vợ chồng, gốc của xã hội, tận cùng bằng hai quẻ Ký Tế và Vị Tế đã xong rồi lại chưa xong; như vậy là hàm cái nghĩa việc trời đất cũng như việc của loài người, không bao giờ xong, cái gì tới chung rồi lại tiếp ngay tới thủy. Mà đạo dịch cũng vậy không bao giờ hết. Dịch cho ta niềm hi vọng ở tương lai. Thật là một triết lý lạc quan“. (Nguyễn Hiến Lê, Kinh Dịch đạo của người quân tử, NXB Văn Học 1992, trang 433 & 439).

Hoàng Kim ngày 31 tháng 10 năm 2020 có bài viết ‘Chào ngày mới 31 tháng 10’ ngày 31 tháng 10 năm 2023 lại có bài viết mới  #cnm365 #cltvn 31 tháng 10 (sau ba năm có thêm nhiều chuyện mới) https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-31-thang-10/ & https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/ban-mai-ngoc-bien-vang

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
#htn, #vietnamxahoihoc, #htn365, #ana, #dayvahoc, #vietnamhoc, #cnm365#cltvn

Đi dưới trời minh triết; Bình sinh Hồ Chí Minh; Điểm hẹn chốn đồng tâm; Quảng Bình Đất Mẹ Ơn Người; Việt Nam con đường xanh ; Bài học lớn muôn đời; Kim Notes lắng ghi chú, Quê Mẹ vùng di sản ; Đồng xuân lưu dấu hiền; Đào Duy Từ còn mãi; Thế giới trong mắt ai ; Trung Quốc một suy ngẫm ; Ngày vui nhớ Chứa Chan; Vạn An lời yêu thương; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Một gia đình yêu thương, Sân trước một nhành mai; Ân tình đất phương Nam; Đường hoa ở Hà Nội , Vietnamese cassava today; Cánh cò bay trong mơ; Trò chuyện với Yến Thanh; Ban mai chợt tỉnh thức; Ngày mới Ngọc cho đời; Ban mai đứng trước biển; Vị tướng của lòng dân; Nếp nhà đẹp văn hóa; Có ba dòng văn chương; Chợt gặp mai đầu suối; Bên suối một nhành mai; Thơ vui những ngày nhàn; Trời nhân loại mênh mông; Cánh cò bay trong mơ; Chỉ tình yêu ở lại; Nắng mới và mưa lành; An vui cụ Trạng Trình; Ngọt bùi nhớ trái ớt cay; Quả táo Apple Steve Jobs; Hoàng Gia Cương thơ hiền; Đối thoại nền văn hóa; Bài ca yêu thương; Cầu Trời nối Mẹ Cha xưa; Bài thơ Viên đá Thời gian; Bài đồng dao huyền thoại; Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Long cây lương thực; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Giấc nhàn trời chuyển đông; Nông lịch tiết sương giáng; Truyện Tam Cố Thảo Lư; Hi vọng của hạnh phúc; Lào hoa trắng nắng Mekong; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Trận Vũ Hán lịch sử; Đi thuyền trên Trường Giang; Đập Tam Hiệp Tam Tuyến; Trung Nga với Trung Á; Lúa cao cây Trung Quốc; Thời biến nhớ người xưa; Chuyện thầy Ngô Kế Sương; Nợ duyên; Hưng Đạo Trần Quốc Tuấn; Chuyển đổi số Quốc gia; Thiền Sư Lão Nông Tăng; Ban mai trên sông Son; Chớm Đông; Đi để hiểu quê hương; Nguyễn Du tư liệu quý; Tháp Bút viết trời xanh; Hoàng Thành ngọc cho đời; Bảo tồn và phát triển sắn; Thầy bạn trong đời tôi; Việt Nam dư địa chí; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Cây Lương Thực Food Crops; Gia Cát Mã Tiền Khóa; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Hà Nội mãi trong tim; Chuyện cổ tích người lớn; Đêm trắng và bình minh; Kim Dung trong ngày mới; Trần Tử Ngang thơ Người; Trần Khánh Dư “Bán than”; Vạn Kiếp binh thư truyền; Ngẫm thơ ngoài ngàn năm; Ca dao Việt “Cày đồng”; Mãn Giác thơ “Hoa Mai”; Tiếng Việt lung linh sáng; Thơ Việt ngoài ngàn năm; Đậu Quốc Anh khiêm  nhường; Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Đồng xuân lưu dấu hiền; Bảy bài học cuộc sống; Bill Gates học để làm; Thăng Long Lý Thái Tổ; Hoàng Thành nền Đại La; Trường tôi nôi yêu thương; Tháp Bút viết trời xanh; Champasak ngã ba biên giới; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc

Ngày 31 tháng 10 là ngày lễ hội Halloween, viết rút gọn từ “All Hallows’ Evening”, được tổ chức vào buổi tối hàng năm, ở trước ngày lễ các Thánh ở Ki tô giáo Tây phương, để tưởng nhớ những người đã chết, xoay quanh chủ đề “sử dụng sự hài hước và chế giễu để đối đầu với quyền lực của cái chết”. Ngày 31 tháng 10 năm 1941, tượng bốn tổng thống Hoa Kỳ tại Núi Rushmore, Nam Dakota được hoàn thành.sau 14 năm xây dựng; Ngày 31 tháng 10 năm 1887 là ngày sinh của Tưởng Giới Thạch, nhà lãnh đạo Trung Hoa Quốc Dân, cựu Chủ tịch nước Trung Hoa Dân quốc (mất năm 1975);

Bài chọn lọc ngày 31 tháng 10: Thế giới trong mắt ai ; Việt Nam con đường xanh ; Bài học lớn muôn đời; Đi dưới trời minh triết; Bình sinh Hồ Chí Minh ; Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc; Ban mai chợt tỉnh thức; Ngày mới Ngọc cho đời; Việt Nam con đường xanh; Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Long cây lương thực; Cây Lương Thực Food Crops; Gia Cát Mã Tiền Khóa; Ngọt bùi nhớ trái ớt cay; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Hà Nội mãi trong tim; Chuyện cổ tích người lớn; Đêm trắng và bình minh; Kim Dung trong ngày mới; Trần Tử Ngang thơ Người; Trần Khánh Dư “Bán than”; Vạn Kiếp binh thư truyền; Ngẫm thơ ngoài ngàn năm; Ca dao Việt “Cày đồng”; Mãn Giác thơ “Hoa Mai”; Tiếng Việt lung linh sáng; Thơ Việt ngoài ngàn năm; Đậu Quốc Anh khiêm  nhường; Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Đồng xuân lưu dấu hiền; Bảy bài học cuộc sống; Bill Gates học để làm; Thăng Long Lý Thái Tổ; Hoàng Thành nền Đại La; Trường tôi nôi yêu thương; Tháp Bút viết trời xanh; Champasak ngã ba biên giới; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Nguyễn Du tư liệu quý; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-31-thang-10/https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-31-thang-10/

ĐI DƯỚI TRỜI MINH TRIẾT

Lên non xem trận địa
Thế giới trong mắt ai
Ngồi tựa đỉnh non Xanh
Thăm thẳm một tầm nhìn


Đi dưới trời minh triết
Chuyện hiền vui trăm năm
Đường xuân đời quên tuổi
Vui sống giữa thiên nhiên

Biển, Núi,  Em và Anh

Ban Mai Ngọc Biển Vàng

#Ban Mai Ngọc Biển Vàng
#Annhiên
#BìnhMinhAn

#Thungdung #Khátkhaoxanh
#HoàngThành
#Trúc Lâm #Sáng

Thung Dung Đời Thoải Mái
Ban Mai Ngọc Riêng Mình
Giọt Thời Gian Biển Ngọc
Thanh Nhàn Khát Khao Xanh.

Bình Sinh Hồ Chí Minh

Bình Sinh Đầu Ngẩng Tới Trời Xanh
Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành
Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy
Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH

Cuối tháng ba năm 2008, anh Phan Chí Thắng có gửi cho tôi lá thư nguyên văn: “Gửi Hoàng Kim. Cách đây mấy ngày, trong một cuộc tiếp xúc nhiều người, tôi vô tình được nói chuyện với anh H. – cháu nội người đỗ đầu khoa Hội cùng năm với cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Dì ruột của anh H. lấy anh cả của ông LĐT. Anh H. kể là được nghe trực tiếp từ ông LĐT về bài tứ tuyệt được thêu trên trướng do 5 nhà cách mạng lão thành Nga gửi đến tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ nghe một lần mà anh H. thuộc lòng cho đến bây giờ, thật xứng danh cháu nội cụ Hội Nguyên. Tôi xin chép lại vào đây để Hoàng Kim tham khảo “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh / Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành / Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy / Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH ” Có vài điểm thắc mắc: 1. Làm sao mà các nhà cách mạng Nga lại làm được thơ tứ tuyệt? Hay là họ nhờ ai đó làm giúp theo ý họ?  2. Các chữ viết hoa trong bài tứ tuyệt được thêu chữ hoa, nghĩa là có dụng ý. Ba chữ là lấy từ trong “Hồ Chí Minh”. Còn chữ “Thơm” có phải đó cũng là tên hoạt động của Bác Hồ trong thời gian công tác cùng với 5 nhà cách mạng Nga kia? Hay là một tên gọi khác của Bác mà rất ít người biết? Sơ bộ như thế đã, các nhà nghiên cứu sẽ tìm câu trả lời.

Bình Sinh Hồ Chí Minh

Bác nghỉ chân sau mấy dặm ra đi
Rừng Việt Bắc chở che giây phút nghỉ’
Biết ơn Thầy1 lưu lại thời trân quý
Bình Sinh Hồ Chí Minh Việt Nam
.

Bác đã hóa thân vào đất nước, quê hương
Tự chủ tự tôn làm máu thịt của chính mình


Đi dưới trời minh triết
Chuyện hiền vui trăm năm
Đường xuân đời quên tuổi
Vui sống giữa thiên nhiên

#binhsinhhochiminh #vietnamhoc #Vietcassava

“Ngôi nhà sàn đơn sơ
Giữa thủ đô Hà Nội
Ngày lại ngày tiếp nối
Bác thênh thản xuống lên
Làm việc và chăm vườn
Cho cá ăn từng buổi
Di chúc 4 năm cuối
Bác đã viết tại đây
(*)

#vietnamhoc #vietnamxahoihoc #Vietcassava #binhsinhhochiminh xem tiếp Đi dưới trời minh triết https://hoangkimlong.wordpress.com/category/di-duoi-troi-minh-triet Người về thăm quê https://youtu.be/4X97_7uNRPg tích hợp tại TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM #htn, #dayvahoc, #tinhyeucuocsong #htn365, #ana, #cnm365#cltvn https://hoangkimvn.wordpress.com

ĐI DƯỚI TRỜI MINH TRIẾT

Biển nhớ nơi nao Người lắng sóng
Bờ thương chốn cũ Bác trông thuyền
Bảo như trường kiếm xô sông dạt
Ninh Hải Thung Nham níu núi thiền *

HoNuiCoc06

* Yên Lãng Hồ Chí Minh

Ghi chú: Thầy văn Hồ Ngọc Diệp1 & Bạch Ngọc Hoàng Kim 2
Tài liệu trích dẫn chính

Tôi (Hoàng Kim) đã trả lời trong bài Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH: 1. Cám ơn bức thư của Anh. Em trao đổi sớm (2008) vì biết rằng đây là một vấn đề không dễ “giải mã” trong ít ngày nên cần chép ngay để lưu lại một điểm nhấn nghiên cứu. Nhiều sự thật lịch sử sẽ còn phải chờ đợi thêm một thời gian nữa mới có đủ thông tin. Cần đúng người, đúng việc, đúng liều lượng và đúng thời điểm. Với ước mong đi sâu tìm hiểu về một số nhân vật và địa danh lịch sử của dãi đất miền Trung, em đã tập hợp tư liệu tại chuyên trang “Chợt gặp mai đầu suối.

2. Chữ “Thơm” và chữ “Hồ” trong câu thơ trên hình như có quan hệ đến Nguyễn Huệ (Hồ Thơm) và Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh). Cụ Hồ Sĩ Tạo (như là ông nội ruột của Hồ Chí Minh) với cụ Hồ Phi Phúc (cha của Nguyễn Huệ) hình như có quan hệ thân tộc. Có giả thuyết cho rằng tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Họ theo chân chúa Nguyễn vào lập nghiệp miền Nam khi chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra đất Lê – Trịnh tới Nghệ An (năm 1655). Ông cố của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long (vào giúp việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng Chân, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn) cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ. Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt. Nguyễn Phi Phúc có 8 người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm 1753 còn có tên là Hồ Thơm hay Quang Bình, Văn Huệ. Cụ Hồ rất trọng lịch sử nên giả thuyết cho rằng chữ “Thơm” có thể cũng là tên hoạt động của Bác Hồ trong thời gian công tác cùng với 5 nhà cách mạng Nga kia? Hay là một tên gọi khác của Bác mà rất ít người biết đều là có thể.

3. Câu thơ “Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH” em nhớ đến Bác và nhớ đến một người Thầy khác, đó là Norman Borlaug. (Mời đọc Borlaug và Hemingway Lời Thầy dặn thung dung). Cuộc đời Thầy cũng trong như ánh sáng. Thời gian và sự khen chê không làm xoá nhoà được dấu ấn nổi bật của Người. Norman Ernest Borlaug , sinh ngày 25 tháng 3 năm 1914, từ trần ngày 12 tháng 9 năm 2009 tại Texas,  là nhà nông học Mỹ, nhà nhân đạo, người đoạt giải Nobel và ông được gọi là cha đẻ của Cuộc cách mạng Xanh. Ông là người đã nhận được đồng thời ba giải thưởng lớn Nobel Peace Prize, Presidential Medal of Freedom, Congressional Gold Medal vì những cống hiến đặc biệt cao quý cho nhân loại.

Ba năm trôi qua (2008-2011), nhiều tư liệu mới đã làm phong phú thêm nguồn nhận thức của chúng ta và đã có thêm tìm tòi mới về Bác. Hồ Chí  Minh có thơ viết ở đền Trần và Bác đã dùng cụm từ  “kẻ phi thường” để nói về Nguyễn Huệ và Công Uẩn trong hai câu “Nguyễn Huệ là kẻ phi thường” và “Công Uẩn là kẻ phi thường”. Điều chắc chắc là Bác biết rất rõ cụm từ  “bậc phi thường” vì Bác là bậc Thầy về chữ nghĩa và rất cẩn trọng ngôn ngữ. Tại sao vậy? Đánh giá về Hồ  Chí Minh hiếm  câu nào hay hơn “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh” và “Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH” nhưng kiến giải rõ hơn thì hình như vẫn cần thêm một thời gian nữa.

*

Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh! Báo cáo của Việt Nam gửi Quốc tế Cộng sản ngày 12 tháng 7 năm 1940 do Hồ Chí Minh soạn thảo là cẩm nang đón trước thời cơ “nghìn năm có một” của Tổng khởi nghĩa tháng 8 và Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tài liệu tổng hợp, phân tích, đánh giá đầy đủ, toàn diện tình hình, sâu sắc hiếm thấy nhưng cực kỳ súc tích chỉ vắn tắt 12 trang. Đó là một trong số những thí dụ rõ nhất về thiên tài kiệt xuất của Hồ Chí Minh dám chớp thời cơ giành chính quyền và biết thắng. Hãy nghe Hồ Chí Minh phân tích tình thế: “Tóm lại, những điều kiện khách quan cho phép chúng tôi có hi vọng thành công. Song, lực lượng chủ quan- lực lượng của Đảng còn quá yếu. Như trên đã nói, một đảng mới mười tuổi lại trãi qua hai lần khủng bố lớn, số cán bộ có kinh nghiệm đấu tranh hiện còn đang rên xiết trong tù ngục, khiến đảng viên và quần chúng như “rắn mất đầu” không thể tận dụng cơ hội tốt “nghìn năm có một”. Chúng tôi liệu có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh đó, khắc phục khó khăn đó, giúp Đảng hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó hay không? Có. Chúng tôi nhất định không thể từ trong đánh ra. Chúng tôi chỉ có cách từ ngoài đánh vào. Nếu chúng tôi có được: 1) Tự do hành động ở biên giới; 2) Một ít súng đạn; 3) Một chút kinh phí; 4) Vài vị cố vấn thì chúng tôi nhất định có thể lập ra và phát triển một căn cứ địa chống Pháp, chống Nhật – đó là hi vọng thấp nhất. Nếu chúng tôi có thể mở rộng Mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức, có thể lợi dụng mâu thuận giữa các nước đế quốc thì tiền đồ tươi sáng là có thể nhìn thấy được. Tôi rất hi vọng các đồng chí giúp tôi nhanh chóng giải quyết vấn đề này. 12.7.40.” (Hồ Chí Minh Toàn tập t. 3 tr. 162-174). Qua bảy mươi chín năm sau, đọc lại và suy ngẫm, càng đọc càng thấm thía thêm nhiều điều sâu sắc. https://hoangkimvn.wordpress.com/category/vietnamxahoihoc & https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietcassava &

Hoàng Kim NGỌC PHƯƠNG NAM
https://hoangkimvietnam.wordpress.com/2011/09/02/binh-sinh-đầu-ngẩng-tới-trời-xanh/

MINH TRIẾT HỒ CHÍ MINH

Ngủ thì ai cũng như lương thiện, Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền; Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên” (Nửa đêm, bản dịch của Nam Trân) ảnh Bác Hồ với học sinh trường trung học Trưng Vương (Hà Nội) nǎm 1956 Ngành nghề ở Việt Nam lao động và việc làm, tác động rất sâu sắc đến đời sống văn hóa và xã hội. Minh triết Hồ Chí Minh trích dẫn lời dạy thấm thía của Bác trên Báo Thái Bình Từ triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh nghĩ về công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-triet-ho-chi-minh

Tôi viết Bình sinh Hồ Chí Minh theo chính kiến và nhận thức của riêng mình. Ngày 2 tháng 9 là ngày Quốc Khánh Việt Nam, ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng là ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, ngày khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi năm sự kiện lớn này của nước Việt Nam mới, như ngôi sao vàng năm cánh, như năm ngón tay trên một bàn tay, đóng mốc son ngày 2 tháng 9 và ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và Thế Giới đối với nền độc lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự thống nhất Tổ quốc Việt Nam. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết. Việt Nam Hồ Chí Minh là biểu tượng Việt; Hồ Chí Minh nói đi đôi với làm mẫu mực đạo đức có lý có tình; Hồ Chí Minh thực tiễn, quyền biến, năng động, rất ít trích dẫn; Hồ Chí Minh kiên quyết, khôn khéo trong tổ chức tuyên truyền cách mạng, giỏi thu phục tập hợp hiền tài. Nước Việt Nam mới khi hình thành vì sao không có được giải pháp hợp tác giữa Hồ Chí Minh với Bảo Đại, Ngô Đình Diêm, Nguyễn Trường Tam, Phạm Quỳnh, Phan Văn Giáo … Vì sao chưa thuyết phục được Nguyễn Hải Thần, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn,… ? Họ đều là các nhân vật lịch sử lớn chi phối sâu sắc thời cuộc. Bài học lịch sử Việt Nam là khối vàng ròng giá trị to lớn cần thấu hiểu và cắt nghĩa cho đúng. Sự thật lịch sử đang sáng tỏ dần. Thế giới trong mắt ai ; Việt Nam con đường xanh ; Bài học lớn muôn đời; Đi dưới trời minh triết; Bình sinh Hồ Chí Minh 595 https://hoangkimlong.wordpress.com/category/binhsinhhochiminh/

HoangKim2017a

HÃY ĐỂ TÔI ĐỌC LẠI
Hoàng Kim


Vui bước tới thảnh thơi
Chín điều lành hạnh phúc
Vui sống giữa thiên nhiên
Bảy bài học cuộc sống

Hãy để tôi đọc lại
Xuân sớm Ngọc Phương Nam .
Chuyện cụ Lê Huy Ngọ
Nhớ Người Nhớ quê hương

Bài đồng dao huyền thoại
Thiền Sư Lão Nông Tăng
Sóc Trăng Lương Định Của
Thầy Quyền thâm canh lúa

Trung Quốc một suy ngẫm
Vành đai và con đường
Trung Nga với Trung Á
Thế sự bàn cờ vây

Việt Nam con đường xanh
Giấc mơ lành yêu thương
Sự chậm rãi minh triết
Vui đi dưới mặt trời

xem tiếp 20 đường dẫn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hay-de-toi-doc-lai/

NGUYỄN NGỌC TƯ SẦU RIÊNG
Hoàng Kim

Hãy để tôi đọc lại. Sự chậm rãi minh triết. Tôi đọc lại Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng và bổ sung thêm ít ghi chú mới. Nguyễn Ngọc Tư có trang “Sầu riêng” riêng tư vừa đủ. Ở đó có thơ; Một vài phiên bản; Hành lý hư vô; Những trang viết mới.

Tôi dừng lại đọc chậm rãi nhiều lần “Khoảng cách trong khoảng cách”. Dường như ở đó có thấp thoáng Bóng hạc chốn xa xôi tiếng dội của chính mình; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-ngoc-tu-sau-rieng/

HUỲNH KIM VỚI SƠN NAM
cảm nhận bởi Hoàng Kim

💝Huỳnh Kim với Sơn Nam #cnm365#cltvn 1 tháng 11 https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-1-thang-11/ Xin bổ sung sự kiện “Huỳnh Kim với thiên nhiên” để cảm ơn và quý trọng. Huỳnh Kim là cây bút vàng nghề nông một thời trong lòng dân Nam Bộ. Anh làm sáng lên Viện Lúa Sao Thần NôngSơn Nam ông già Nam Bộ: Bài thơ “Thay lời tựa” của Cụ Sơn Nam trong “Hương rừng Cà Mau” hay ám ảnh: “Trong khói sóng mênh mông/ Có bóng người vô danh/ Từ bên này sông Tiền/ Qua bên kia sông Hậu/ Mang theo chiếc độc huyền/ Điệu thơ Lục Vân Tiên/ Với câu chữ:/ Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả/ Tới Cà Mau – Rạch Giá/ Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng/ Muỗi vắt nhiều hơn cỏ/ Chướng khí mù như sương/ Thân không là lính thú/ Sao chưa về cố hương?…” Bài thơ lưu trong lòng người trên vỏ bao thuốc lá của Huỳnh Kim lưu trữ sao mà ám ảnh cái chân mộc tận tụy của người hiền. Sơn Nam qua ghi chép của Huỳnh Kim lắng đọng lời yêu thương gửi lại: “Cố gắng viết ngắn, câu nào cũng có thông tin”. Khuyến nông tức là cách giữ đạo làm nông, thì dân mới giàu mạnh được”.“Cái cốt cách người Việt Nam mình là nhân nghĩa” “Với tôi, Tổ quốc là một nơi kiếm sống được bằng một việc lương thiện nào đó, không bị ai làm khó dễ, có vài người bạn chơi được, không ba trợn” “Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê”. “Người tứ xứ về tứ giác sinh cơ lập nghiệp, thì cần giữ cái đạo làm người, thì kinh tế thị trường ở đây mới nên bộ mặt nông thôn mới”. “Đến với văn chương để mong nổi danh thì đừng có hòng. Nền văn học của ta hơn nửa thế kỷ qua, nhìn lại ở một góc độ nào đó, coi như lấy rổ múc nước”. “vì vậy mà phải viết cho đàng hoàng, phải có lương tâm nghề nghiệp thì các báo, các nhà xuất bản họ mới mua của mình, độc giả họ mới đọc của mình”. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/son-nam-ong-gia-nam-bo/. Chúc mừng Huỳnh Kim với nghiệp văn chương ngọc cho đời. Kim Hoàng tin hôm nay là ban mai chào ngày mới, trang viết mới của bạn. Mình xin được chia sẻ.

Sri Lanka dấu chân Phật (hòn đá khiêm nhường) Cô dâu Việt Hoàng Thảo
Sri Lanka Buddha’s footprint (humble stone) Hoang Thao Vietnamese bride
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/kuma-dcj-va-hoang-thao/

Kuma DCj & Hoàng Thảo
Congratulations to Kuma DCj & Hoang Thao Sri Lanka and Vietnam

“Núi không cần cao, có tiên phật người lành là linh điạ. Nước không cần sâu,có suối nguồn thắng tích hẳn an nhiên”. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/kuma-dcj-va-hoang-thao/

KUMA DCJ VÀ HOÀNG THẢO
Hoàng Gia
mừng Hạnh Phúc

Nhớ tháng bảy mưa ngâu; Nhớ vầng trăng ngọn lửa; Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Kuma D Cj và Hoàng Thảo; Bài ca nhịp thời gian: Hạnh phúc https://youtu.be/_Bs4XcVufqY Remembering ‘mưa ngâu’ rainy July/ Miss the moon, the fire / Hoang Ngoc Do aspiration / Kuma D Cj and Hoang Thao/ Song of Time: Happiness

Kuma D Cj and Hoang Thao Kuma DCj là người Sri Lanka (đất nước Tích Lan),cha mẹ là giáo viên, nhà gần dấu chân Phật (hòn đá khiêm nhường), Kuma có hai chị gái, Kuma D Cj and Hoang Thao thương nhau và kết hôn ở Nhật khi Kuma học IT và Hoàng Thảo xuất khẩu lao động Việt Nam làm điều dưỡng viên tại Nhật từ nhiều năm trước.Chuyện đời là cảm động, xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/kuma-dcj-va-hoang-thao/

NHỚ THÁNG BẢY MƯA NGÂU
Hoàng Kim

Tháng Bảy mưa Ngâu
Trời thương chúng mình
Mưa giăng
Ướt đầm vạt áo
Bảy sắc cầu vồng
Lung linh huyền ảo
Mẹ thương con
Đưa em về cùng anh.

Chuyến xe tốc hành
Chạy giữa trăm năm
Chở đầy kỷ niệm
Chở đầy ắp tình em
Từ nơi chân trời
Góc biển

Chàng Ngưu hóa mình vào dân ca
Con ngựa, con trâu
Suốt đời siêng năng làm lụng.
Thương con gà luôn dậy sớm
Biết ơn con chó thức đêm trường.

Em ơi !
Những câu thơ ông bà gửi lại
Đã theo chúng mình đi suốt thời gian.

Tháng Bảy mưa Ngâu
Đầy trời mưa giăng giăng
Thương nàng Chức Nữ
Em là tiên đời thường
Đầy đặn yêu thương.

DSC02002

Remembering ‘mưa ngâu’ rainy July
Hoang Kim

Rainy July
God loves us
Rain falls
Wet dress shirt
Seven colors of the rainbow
Shimmering
Mother loves her child
Take me home with you.

Express ride
Running for a hundred years
Filled with memories
Filled with love
From the horizon
Sea corner

The Taurus man transforms himself into folk songs
Horse, buffalo
Hard work all his life.
Love the chicken that always gets up early
Grateful for the dog that stayed up all night.


Hey ’em ơi’ ‘anh ơi’ !
Poems sent by grandparents
Followed us the whole time.

“Mưa Ngâu” Rainy July
It’s full of rain “Ban Mai”

#cnm365 #cltvn July 7
I love you, Chuc Nu
I’m a normal fairy
Full of love.


see more …
Nhớ tháng bảy mưa ngâu;
Nhớ vầng trăng ngọn lửa;
Hoàng Ngọc Dộ khát vọng;
Kuma D Cj và Hoàng Thảo;
Bài ca nhịp thời gian: Hạnh phúc
https://youtu.be/_Bs4XcVufqY

Remembering ‘mưa ngâu’ rainy July/
Miss the moon, the fire /
Hoang Ngoc Do aspiration /
Kuma D Cj and Hoang Thao/
Song of Time: Happiness

DSC02003

Tháng Bảy mưa Ngâu
Nhớ thương ai góc biển chân trời
Những cuộc chia ly
Đong đầy nỗi nhớ …

Chiêm bao mơ về chuyện cũ
Khói sương mờ ký ức thời gian
Chốn nào chúng mình hò hẹn
Nơi em cùng anh xao xuyến yêu thương

Ngắm mưa Ngâu tháng Bảy
Mưa, mưa hoài, mưa mãi
Mưa trong lòng người
Nên mưa rất lâu…

Mưa rơi như dòng lệ trắng
Đất trời thương nối một nhịp cầu.

Em ơi
Lời tình tự của nghìn năm dân tộc.
Như sắc cầu vồng
Nối hai miền xa cách
Để xa nên gần
Vời vợi nhớ thương.

“Nhớ tháng Bảy mưa Ngâu” là bài thơ tình của Hoàng Kim viết tặng cho những đôi lứa yêu thương cách xa nhau và khát khao ngày gặp mặt. Bài thơ là chuyện tình cảm động Ngưu Lang Chức Nữ có trong dân gian Việt Nam. Truyện về nàng tiên Chức Nữ xinh đẹp, phúc hậu, nết na yêu thương chàng trai Ngưu Lang khôi ngô, hiền lành, chăm chỉ. Họ yêu nhau say đắm, bất chấp sự xa xôi nghìn trùng của cõi Trời và cõi Người. Cảm động trước tình yêu son sắt thủy chung của hai người, mỗi năm Trời Phật đã nối duyên cho họ găp nhau một lần vào tiết tháng Bảy mưa ngâu trước rằm Trung Thu tháng Tám. Đó là dịp Trời gom góp của nhà Trời và sự cần mẫn suốt năm của Ngưu Lang Chức Nữ để làm thành chiếc cầu vồng bảy màu nối liền đôi bờ thăm thẳm cho họ được gặp nhau. Muôn vạn con quạ, con cò, con vạc, bồ nông, ngỗng trời đã hợp lực ken kín cầu Ô Thước để giúp Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Những giọt nước mắt mừng tủi của hai người và sự cảm động của trời đất, chim muông đã hóa thành mưa ngâu.

THẤT TỊCH CHUYỆN HOÀNG GIA
Hoàng Kim

Nhớ tháng bảy mưa ngâu
Chuyện hiền vui trăm năm
Một gia đình yêu thương
Chim Phượng về làm tổ

(*) Kuma DCj và Hoàng Thảo tại ngày Lễ Thất tịch năm 2022 hợp ngày 4/8 Dương lịch. Kuma DCj là người Sri Lanka (đất nước Tích Lan), cha mẹ là giáo viên, nhà gần dấu chân Phật (hòn đá khiêm nhường), Kuma có hai chị gái, Kuma D Cj and Hoang Thao thương nhau và kết hôn ở Nhật khi Kuma học IT và Hoàng Thảo xuất khẩu lao động Việt Nam làm điều dưỡng viên tại Nhật từ nhiều năm trước. Chuyện đời là cảm động. Sri Lanka dấu chân Phật, hòn đá khiêm nhường (ảnh), một trong tám dấu tích di sản thế giới ở đất nước Tích Lan Sri Lanka, nơi một hậu duệ Hoàng Gia Mạc tộc chọn về làm dâu ngày nay. “Núi không cần cao, có tiên phật người lành là linh điạ. Nước không cần sâu,có suối nguồn thắng tích hẳn an nhiên”. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/kuma-dcj-va-hoang-thao/

NGUYỄN DU TƯ LIỆU QUÝ
Hoàng Kim

Linh Nhạc thương lời hiền
Trung Liệt đền thờ cổ
“Bang giao tập” Việt Trung
Nguyễn Du niên biểu luận

Hoàng Kim đã tích hợp song song hai nguồn thông tin chọn lọc từ Mộc bản triều Nguyễn (1) của Di sản thế giới tại Việt Nam, cùng với tích hợp so sánh đối chiếu với sách Sông Côn mùa lũ và các tài liệu tham khảo từ sách này (2) .xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-tu-lieu-quy/

Nguyễn Du tư liệu quýbài 2 trong chùm chuyện khảo Nguyễn Du trăng huyền thoại của Hoàng Kim. Tác phẩm Nguyễn Du trăng huyền thoại bao gồm chín bài, mục lục như sau: 1 Nguyễn Du thơ chữ Hán Kiếm bút thấu tim Người, Đấng danh sĩ tinh hoa, Nguyễn Du khinh Thành Tổ, Bậc thánh viếng đức Hòa 2 Nguyễn Du tư liệu quý Linh Nhạc thương người hiền, Trung Liệt đền thờ cổ, “Bang giao tập” Việt Trung, Nguyễn Du niên biểu luận 3 Nguyễn Du Hồ Xuân Hương “Đối tửu” thơ bi tráng, “Tỏ ý” lệ vương đầy, Ba trăm năm thoáng chốc, Mại hạc vầng trăng soi. 4 Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều”, Tố Như “Đọc Tiểu Thanh”, Bến Giang Đình ẩn ngữ, Thời biến nhớ người xưa. 5 Nguyễn Du thời Tây Sơn Mười lăm năm tuổi thơ, Mười lăm năm lưu lạc, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ, Tình hiếu thật phân minh 6 Nguyễn Du làm Ngư Tiều Câu cá và đi săn, Ẩn ngữ giữa đời thường, Nguyễn Du ức gia huynh, Hành Lạc Từ bi tráng 7 Nguyễn Du thời nhà Nguyễn Mười tám năm làm quan, Chính sử và Bài tựa, Gia phả với luận bàn. Bắc hành và Truyện Kiều 8 Nguyễn Du tiếng tri âm Hồ Xuân Hương là ai, Kiều Nguyễn luận anh hùng, Thời Nam Hải Điếu Đồ, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ 9 Nguyễn Du trăng huyền thoại Đi thuyền trên Trường Giang,Tâm tình và Hồn Việt, Tấm gương soi thời đại. Mai Hạc vầng trăng soi,

Vị thiền sư Linh Nhạc Phật Ý tại Tổ Đình ngôi chùa cổ Thủ Đức trong giấc mơ lạ Nguyễn Du nửa đêm đọc lại đã khuyên tôi lập “Nguyễn Du niên biểu luận” cuộc đời và thời thế Nguyễn Du để tìm hiểu về Người. Theo vị Thiền sư này thì dấu vết chứng cứ sự thật hàng năm của Nguyễn Du là chỉ dấu đáng tin cậy nhất về những sự kiện trọng yếu cuộc đời và thời thế của ông. Điều này chi phối, gợi ý thế xuất xử của bình sinh hành trạng Nguyễn Du, để chúng ta có thể hiểu đúng sự thật huyền thoại về ông. Những sự kiện chính yếu của thời thế đàng Trong và đàng Ngoài với các nước liên quan hệ quy chiếu lấy chính cuộc đời Nguyễn Du và gia tộc của ông làm trung tâm, là dẫn liệu thông tin thực sự có ích để thấu hiểu chính xác ẩn ngữ Truyện Kiều, lịch sử, văn hóa, con người, bối cảnh hình thành kiệt tác”Thúy Kiều” “300 năm nữa chốc mòng, biết ai thiên ha khóc cùng Tố Như”. Sách Đại Nam liệt truyện chính biên sơ tập do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, người dịch Đỗ Mộng Khương, người hiệu đính Hoa Bằng, Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế, năm 2006, trang 400 /716 Tập 2 đã viết: “Nguyễn Du rất giỏi về thơ, làm thơ quốc âm rất hay, khi sang sứ nước Thanh về, có tập thơ “Bắc hành” và truyện “Thúy Kiều” lưu hành ở đời”.

Nguyễn Du niên biểu luận được thiết lập dựa trên các tài liệu chính: 1) Chính sử Nguyễn Du tiểu sử trong sách Đại Nam liệt truyện chính biên sơ tập Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, người dịch Đỗ Mộng Khương, người hiệu đính Hoa Bằng, Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế 2006, Tập 2, trang 400 /716; 2) Bài tựa của Bùi Kỷ trong sách Nguyễn Du Truyện Thúy Kiều, Bùi Kỷ Trần Trọng Kim hiệu khảo Nhà xuất bản Tân Việt năm 1968; Sách này có đủ các bài tựa rất quan trọng mà các sách khác không có. Ghi chú điển cố Truyện Kiều trong sách này được Cụ Bùi Kỷ và Cụ Trần Trọng Kim hiệu khảo kỹ và chuẩn mực với mức tin cậy cao ví như “ngọc bích họ Hòa” với Lạn Tương Như; 3) Gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền trang 73-81, có ba trang tiếng Việt và 6 trang tiếng Hán Nôm. Trong sách Lê Xuân Lít 2005. “200 năm nghiên cứu bàn luận truyện Kiều” Nhà Xuất Bản Giáo Dục ,1995 trang, (mời đọc và kiểm chứng tại Nguyễn Du trăng huyền thoại bài !). 4) Nguyễn Du Truyện Thúy Kiều, do Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim hiệu khảo Nhà xuất bản Tân Việt 1968, sách này được coi là bản Phường gần sự thật nguyên tác hơn hết; 5) Bắc hành tạp lục 132 bài, Thanh Hiên thi tập 78 bài và Nam trung tạp ngâm 40 bài của Nguyễn Du tại Thi Viện Đào Trung Kiên, dẫn liệu đường link ở Nguyễn Du thơ chữ Hán, 6) Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn; thông tin tuyển chọn từ Bang giao hảo thoại, của Ngô Thì Nhậm, Viện Hán Nôm, Thư viện Khoa học xã hội (sách chép tay chữ Hán), Bang giao tập, Ngô gia văn phái, hiện lưu ở Thư viện khoa học xã hội, bản mang ký hiệu A117a (sách chép tay chữ Hán) thông tin này có đối chiếu với sách Cương mục chính sử Triều Nguyễn với tóm tắt sự kiện trích dẫn tại Kho báu đỉnh Tuyết Sơn 7) Ngô Gia Văn Phái 1984. Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 8) Lê Quý Đôn toàn tập, Đại Việt thông sử (Lê triều thông sử) ; 9) Trần Trọng Kim, 1999, Việt Nam sử lược, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin 617 trang, 10) Lê Xuân Lít, 2005 “200 năm nghiên cứu bàn luận truyện Kiều” Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 1995 trang; 11) Nguyễn Thế Quang 2010, Nguyễn Du, tiểu thuyết lịch sử, Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn, 416 trang, 12) Thích Nhất Hạnh 2000, Thả một bè lau, Truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền quán,Lá Bối in lần thứ nhất, San Jose , 471 trang 13) Ngô Giáp Đậu, người dịch Ngô Đức Thọ, Mai Xuân Hải, Nguyễn Văn Nguyên, 2013. Hoàng Việt long hưng chí Nhà Xuất bản Hồng Bàng, 469 trang; 14) Dương Quảng Hàm 2005. Việt Nam văn học sử yếu Nhà Xuất bản Trẻ, 688 trang; 15) Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, 2015. Đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa Nguyễn Du kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du (Kỷ yếu hội thảo khoa học) NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 997 trang; 16) Lê Nghị 2020 Thử giải mã lại Truyện Kiều; và bài viết “Truyện Kiều có trước hay sau Kim Vân Kiều truyện?” của PGS.TS Đoàn Lê Giang (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) và tác giả Nguyễn Cẩm Xuyên bài viết “Cần làm sáng tỏ một nghi án văn học “Thanh Tâm tài nhân ” là ai? 17) Phạm Trọng Chánh đọc sách Nguyễn Du trên đường gió bụi của Hoàng Khôi, cùng với các bài nghiên cứu dịch thuật của Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh về Nguyễn Du cuộc đời và tác phẩm. 18) Sách Sông Côn mùa lũ của tác giả Thiện Ngộ Nguyễn Mộng Giác https://nguyenmonggiac.com/song-con-mua-lu.html, sử thi Việt huyền thoại trên 2000 trang mà tôi thật sự tâm đắc có Lời giới thiệu của giáo sư tiến sĩ Mai Quốc Liên, giám đốc Trung tâm nghiên cứu Quốc học với với 45 Tài Liệu Tham Khảo Sông Côn Mùa Lũ. Hoàng Kim đã tích hợp song song hai nguồn thông tin chọn lọc từ Mộc bản triều Nguyễn (1) của Di sản thế giới tại Việt Nam, cùng với tích hợp so sánh đối chiếu với sách Sông Côn mùa lũ và các tài liệu tham khảo từ sách này. Đúc kết thông tin mới đọc tại Nhớ thầy Nguyễn Mộng Giác; Nguyễn Huệ thời Tây Sơn; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Ngưa không nản chân bon
.
LINH NHẠC THƯƠNG LỜI HIỀN

Nguyễn Du nửa đêm đọc lại.Tôi có một chuyện lạ xẩy ra lúc 12 giờ 40 phút ngày 4 tháng 7 năm 2012 mà chuyện vẫn chưa kết thúc mãi cho tới hôm nay (2023) của mười một năm sau. Đêm ấy, tôi tỉnh dậy lúc nửa đêm. Mai coi thi. Buổi tối mưa lớn. Sấm chớp ầm ầm, Điện tắt. Trời nóng ngột ngạt, Tôi tự ép mình phải ngủ để ngày mai dậy sớm. Bài viết “Một khám phá độc đáo về Truyện Kiều” của Giáo sư Nguyễn Lân Dũng về cuốn sách “Thử tìm hiểu tâm sự Nguyễn Du qua Truyện Kiều” của GS.NGND Ngô Quốc Quýnh (Đại học Quốc gia Hà Nội) làm tôi mộng mị. Trong cuốn sách này, tác giả đã cho rằng Nguyễn Du gửi gắm tâm sự của mình qua Truyện Kiều mà Từ Hải chính là Nguyễn Huệ, Kim Trọng là Lê Chiêu Thống và nàng Kiều là Nguyễn Du. Thầy Nguyễn Lân Dũng gọi điện cho tôi và nhắn tin giục tôi sớm giúp nhận xét phản biện cuốn sách. Tôi vừa thương quý kính trọng Thầy vừa nhận thấy luận điểm của thầy Ngô Quốc Quýnh cũng có lý có tình nên tôi định sớm viết bài đồng tình. Không ngờ vì điện tắt nên chợt thiếp đi . Và, trong giấc mơ lạ lúc nửa đêm, tôi được đối thoại với một cụ già râu tóc bạc phơ tự xưng là Thiền sư Linh Nhạc Phật Ý. Cụ già hỏi lại tôi và đã ngăn tôi khoan vội đồng tình mà hãy nên tìm hiểu kỹ sự thật của 12 uẩn khúc chưa rõ. Đó là: Nguyễn Du là người thế nào? Nguyễn Du Bắc hành tạp lục; Nguyễn Du với Hồ Xuân Hương; Nguyễn Du và Kinh Kim Cương; Nguyễn Du so tài Nguyễn Huệ; Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ; Nguyễn Du tri kỷ, tri âm; Tố Như sau ba trăm năm; Nguyễn Du viếng Kỳ Lân mộ; Hoành Sơn những bài thơ cổ; Hồng Lam vằng vặc sao Khuê. Tôi thức dậy ghi vội những lời Cụ dặn và đã không dám đồng tình ngay với lời kết luận của thầy Ngô Quốc Quýnh. Tôiđồng tình với khám phá độc đáo của GS.NGND Ngô Quốc Quýnh là Nguyễn Du mượn Kiều để chuyển tải tâm sự của Người. Tuy nhiên, sự khác biệt trong nhận định là ở chỗ Từ Hải và nàng Kiều chính là Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương.. Khuya không ngủ được, tôi thao thức đọc lại Nguyễn Du. Chiều tối hôm sau, tôi ngẫu nhiên theo chỉ dẫu của cụ già trong giấc mơ, đã tìm thấy được ngôi chùa cổ Tổ Đình Phước Tường tại địa chỉ 13/32 đường Lã Xuân Oai phường Tăng Nhơn Phú, Quận 9. Ngôi chùa này lưu dấu tích của thiền sư Linh Nhạc Phật Ý.và vị thiền sư này quan hệ tới sự đã che giấu vua nhà Nguyễn thoát chết gang tấc bởi sự truy vết của nhà Tây Sơn. Hiện nay, Tổ Đình Phước Tường sư trụ trì là Thượng tọa Thích Nhật An. Tổ Đình đã được Bộ Thông tin Việt Nam xếp hạng Di tich Văn hóa Quốc gia tại Quyết định số 43/VH QĐ ngày 7 /1/ 1993 .Ngày tiếp sau, khi coi thi đã hoàn thành trở về nhà tôi duyên may lại tình cờ gặp được Bố tát Nhựt Tông trên chuyến xe từ Suối Tiên đi ngã tư Bà Rịa- Vũng Tài. Tôi đã đổi ý không đi về nhà ở Hưng Thịnh Đồng Nai mà theo gót chân Bố tát vân du chùa Long Phước 98 Trần Xuân Độ, Phường 6 tại Núi Lớn, phía sau Thích Ca Phật Đài, thành phố Vũng Tàu, thăm thiền sư Thiện Lý, với Lão Quán Lục Vân Tiên giữa đời thường Nguyễn Quốc Toàn, để cùng luận bàn đạo Phật ngày nay và mang sách của thầy Nhựt Tông và mang sách Nguyễn Du của anh Toàn về nhà cặm cụi tra cứu tìm tòi. Chuyện cũ ấy và chứng cứ ở đây http://dayvahoc.blogtiengviet.net/2012/07/04/http_dayvahoc_blogtiengviet_net_nguyendu

Tôi dùng Google để tìm kiếm tài liêu nghiên cứu thì đêm hôm ấy là đêm thiêng tang lễ của Thiện Ngộ Nguyễn Mộng Giác tác giả Sông Côn mùa lũ https://nguyenmonggiac.com/song-con-mua-lu.html, sử thi Việt huyền thoại, mà tôi thật sự tâm đắc. Nhớ thầy Nguyễn Mộng Giác https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nho-thay-nguyen-mong-giac/ là sự trân trọng của tôi gửi gia đình thầy Thiền Ngộ Nguyễn Mộng Giác

NHỚ THẦY NGUYỄN MỘNG GIÁC
Hoàng Kim

Nhớ thương cánh chim trời
Những trang đời lắng đọng
Hoa Đất thương lời hiền
Ngựa không nản chân bon.

Ngày xuân đọc Trạng Trình
Đào Duy Từ còn mãi
Nguyễn Du trăng huyền thoại
Văn chương ngọc cho đời.

Vĩ Dạ thương Miên Thẩm
Mai Hạc vầng trăng soi

Nguyễn Du, Nguyễn Huệ, Châu Văn Tiếp đã được khảo cứu song song trong 9 năm qua.

Nhà nghiên cứu Phạm Trọng Chánh nói những lời thật cảm khái : “Trong tình hình đọc sách hiện tại trong nước và hải ngoại, mỗi người Việt Nam đọc không đến một quyển sách một năm, các nhà xuất bản tại hải ngoại chỉ sống nhờ sự hy sinh của tác giả, tự viết tự bỏ tiền in, không kể gì lời lỗ. Sách gửi đi các nơi không hy vọng gì thu tiền lại. Trong nước sách in được 1500 quyển như  Nguyễn Du trên đường gió bụi anh Hoàng Khôi là thuộc loại khá. Đáng cho chúng ta khuyến khích. Phải chăng vì thiếu sách hay, các nhà văn ngày nay không đủ sức hấp dẫn lôi kéo người đọc chăng. Nghĩ lại ngày xưa thời Tự Lực Văn Đoàn, Thơ Mới, những năm 1930-1940 mỗi năm người đậu Tú Tài chỉ vài chục người, người biết chữ quốc ngữ có là bao nhiêu trên 25 triệu dân thế mà sách  đã tạo ra những trào lưu văn học lớn mạnh. Ngày nay chúng ta có 90 triệu dân trong nước và 4 triệu người Việt hải ngoại, mà tình hình sách vở còn thua các nước nhược tiểu, nghĩ thật đáng buồn. Chúng ta không nâng cao được dân trí, mà dân trí lại thụt lùi.  Được một nhà văn như anh Hoàng Khôi, hy sinh thức đêm thức hôm để viết sách, để mua vui một vài trống canh, tôi mừng và mong có nhiều người như anh Hoàng Khôi. Đừng để các thế hệ mai sau không còn biết viết văn, biết đọc mà chỉ còn biết bấm mấy câu vớ vẫn trên điện thoại di động.

Tôi từng tâm đắc với Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ  nơi “bia tàn chữ mất vùi gai góc/ nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe” càng cho thấy nhân cách kẻ sĩ và sự cảm thông của ông đối với Liễu Hạ Huê sâu sắc đến dường nào. Người hiền thực ra đời nào cũng có, thời thế nhiễu loạn, chẳng qua vàng lầm trong cát đấy thôi. Nguyễn Du là con quan tướng quốc Nguyễn Nhiễm cựu thần nhà Lê và mẹ ông là người phụ nữ tài sắc, vợ lẽ nhà quan, gặp lúc thế nước động loạn, chúa Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều có ý riêng. Ông lớn lên trong cảnh lận đận không nhà, có tài mà không thể cậy. Ông là một đại sĩ phu tài năng trác tuyệt nhưng chỉ làm một viên quan thường triều Nguyễn mà vua vừa dùng, vừa tìm cách kiềm chế như đối với Nguyễn Công Trứ, Phan Huy Chú. Ông vì giỏi nên được vua Nguyễn cử đi sứ Tàu mà thôi. Thơ Nguyễn Du vì vậy kín đáo và sâu sắc hiếm thấy Để thấu hiểu những giá trị nhân văn đích thực, rất cần những khoảng lặng để đối diện với chính mình.  Hôm trước tôi đã có dịp cùng với những người bạn quý thảo luận về hành vi ứng xử của Liễu Hạ Huệ gần gũi với một người nữ mà ông không mang tiếng dâm tà. Nhờ việc tra cứu, đọc đi đọc lại nhiều lần bài thơ ‘Liễu Hạ Huệ mộ’ của cụ Nguyễn Du, tôi chợt sững người, nhận thức thêm được những nỗi niềm, của cụ Nguyễn lấp lánh sau những con chữ …

Tôi đọc cuốn sách “Nguyễn Du” của nhà giáo Nguyễn Thế Quang “Của tin còn một chút này làm ghi” không dưới hai mươi lần (Trang sách Nguyễn Du với lời đề tặng của tác giả Nguyễn Thế Quang, ảnh Hoàng Kim), và sực thấm hiểu vì sao Nguyễn Du đọc Kinh Kim Cương chú giải của Lê Quý Đôn trên nghìn lần cũng như chợt hiểu vì sao Hồ Chí Minh “sao vàng năm cánh mộng hồn quanh“. Tôi đã đọc mười hai tư liệu quý về Nguyễn Du (kể cả ba tư liệu mới bổ sung gần đây) Dẫu vậy tôi vẫn hồ nghi nhiều điều, chưa đủ tư liệu trao đổi với các giáo sư Nguyễn Lân Dũng, Ngô Quốc Quýnh nhà giáo Nguyễn Thế Quang, nhà nghiên cứu Bulukhin Nguyễn Quốc Toàn và  còn nợ  Ví Dặm Ân Tình, Quỳnh Trâm, Huy Việt … những lời bàn luận.

Tôi nhờ lập “Nguyễn Du một niên biểu” chi tiết hóa thời thế và cuộc đời Nguyễn Du đúng hành trạng từng năm, từ lúc ông sinh ra cho đến khi ông mất, theo gợi ý của cụ già tự xưng là thiền sư Linh Nhạc Phật Ý trong giấc mơ lạ. Cụ già đã khuyến khích tôi làm điều này và cũng nhờ phản biện sâu sắc với các dẫn liệu của tiến sĩ Phạm Trọng Chánh. Ông là người bôn ba hải ngoại đã hiểu tác phẩm Nguyễn Du trên đường gió bụi của Hoàng Khôi một cách sâu sắc hiếm thấy, chân thành, đức độ và khích lệ tác giả Hoàng Khôi với một triết lý dạy và học mẫu mực. “Nghiên cứu không phải là chuyện độc quyền của riêng ai, không phải chuyện người sau đánh đổ người trước để được nổi danh hơn mà người đi sau nối tiếp người trước, làm giải quyết những nghi vấn còn tồn đọng, làm cho việc nghiên cứu ngày càng phát triển, sáng tỏ“.

Tôi mừng không ngủ được trước tư liệu quý này và xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

TRUNG LIỆT ĐỀN THỜ CỔ

Việt Nam thế Tam Quốc trong thời Nguyễn Du vua Lê Chiêu Thống bị bán đứng, vua Quang Trung cái chết bí ẩn, Nhà Đại Thanh có bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn. Ba tồn nghi lớn của lịch sử: Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị? Lý Tự Thành và kho báu đời Minh đến nay ở đâu? và, Hệ lụy ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn? là ba nghi vấn và chỉ dấu lịch sử có thật. Nguyễn Du cuộc đời và thời thế, là một trong những tấm gương lớn soi thấu những bí ẩn lịch sử ấy. Đó là một chuỗi lịch sử lớn cần nghiên cứu, giải mã thấu đáo. Các thông tin mới hé lộ gần đây của kho sử liệu Nhà Nguyễn mới được khai thác công bố một phần trong ‘Khát vọng Non sông”, và một phần được tập hợp đúc kết tại “Nguyễn Du niên biểu luận” của Hoàng Kim với các hồ sơ điền dã về Linh Nhạc Phật Ýở Tổ Đình Phước Tường TP Hồ Chí Minh với đền cổ Trung Liệt Hà Nội và tư liệu Bang giao tập (bí mật ngoại giao nhà Tây Sơn) góp phần vén bức màn bí mật ấy.

Vua Càn Long sau thất bại nặng nề của nhà Thanh trong chiến tranh với Tây Sơn đã sai danh tướng Phúc Khang An thay thế Tôn Sĩ Nghị làm Tổng đốc Lưỡng Quảng, được giao quyền tùy cơ hành xử và điều động thêm 50 vạn quân ứng chiến vùng biên giới nhằm hư trương thanh thế. Phúc Khang An là người mà vua Càn Long đặc biệt yêu quý và tin cẩn, dân gian cho rằng đó là con ngoài giá thú của vua với em gái của Hoàng Hậu. Phúc Khang An.nguyên là đặc sứ phụ trách hậu cần cho đội quân của Tôn Sĩ Nghị

Năm 1789, kho vàng tại tu viện Mật Tông ở Tây Tạng đang bị quân Khuếch Nhĩ Khách Mông Cổ dòm ngó chuẩn bị tấn công. Vua Càn Long coi đây là điểm quan tâm lớn nhất. Vua Càn Long đã 78 tuổi có tính toán riêng về người kế vị là Hoàng tử Gia Khánh và phúc tướng Phúc Khang An nên việc cơ mật này không thể giao cho ai khác ngoài Phúc Kháng An đảm nhiệm. Lưỡng Quảng và Đại Việt cũng cần sớm an định vì điểm nóng Cam Túc đang làm vua Thanh rất lo nghĩ, trong khi Nguyễn Huệ anh dũng thiện chiến không thể xem thường nên vua Càn Long lựa ý vỗ về hơn là đem binh thảo phạt.

Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp sớm biết tình thế nên đã đón ý hoặc phân vai mật trao đổi với Tây Sơn. Nguyễn Huệ thấy rõ chỗ yếu của quân Thanh và biết họ đang tìm cách để giảng hòa, trong khi ông cũng đang bận tâm xử lý phía Nam. Do vậy Nguyễn Huệ sau khi thắng trận đã sai mang nhiều vàng bạc hối lộ Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp để nghị hòa và cho cháu là Nguyễn Quang Hiển lên cửa ải Nam Quan cầu phong và xin cho Nguyễn Huệ được về Bắc Kinh triều kiến Càn Long. Mưu mẹo này thông đồng giữa hai bên với sự thách giá trả giá bên trong, cách qua mặt vua Lê Chiêu Thống cùng số cựu thần nhà Lê và cách hợp lý hóa chính sử, xin xem kỹ Bang giao tập “Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn” là tư liệu quý.

Lê Chiêu Thống lại tiếp tục xin nhà Thanh cho quân cứu viện. Nhà Thanh, phần sợ Quang Trung, phần đã ngán ngẩm việc chinh chiến, chỉ hứa hão với Chiêu Thống mà không chịu phát quân. Phúc Khang An thân vương vua Thanh, đã được hưởng lợi từ Tây Sơn và nhận rõ tình thế, nên ngoài mặt hứa giúp quân cho Lê Chiêu Thống, nhưng mặt khác lại tâu với vua Thanh Càn Long rằng Chiêu Thống không còn muốn trở về và đã dâng biểu xin hoàng đế Càn Long bãi binh, đồng thời ông cũng chỉ thị cho Thang Hùng Nghiệp gửi mật thư cho Quang Trung gợi ý nên hoà hiếu, tránh binh đao và lập các mẹo mực bang giao để giữ thể diện cho vua Càn Long mà tránh được chiến tranh.

Thư ngoại giao “Trần tình biểu” của vua Quang Trung lúc đầu khá cứng rắn nhưng với sự mưu kế của Thang Hùng Nghiệp nên đã nhẹ đi rất nhiều Tây Sơn theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, đã nhanh chóng bình thường hóa bang giao với phương Bắc. Nhà Thanh đồng ý hủy bỏ việc động binh để trả thù, và tiếp nhận sứ thần của Tây Sơn. Vua Quang Trung phải dâng biểu “Nộp lòng thành”, nộp cống phẩm. Nhà Thanh đã chịu chấm dứt chiến tranh, nhưng vẫn chưa chịu thừa nhận Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương. Phúc Khang An viết cho vua Quang Trung một bức thư dài báo cho vua Quang Trung biết là vua Càn Long đã ban cho Quang Trung một chuỗi hạt trai, “Ơn trời cao đất dày đến thế là tốt lắm” lại báo cho vua Quang Trung biết rằng: bọn Lê Duy Kỳ đã bị róc tóc, mặc quần áo kiểu người Thanh, đã bị đưa đi an trí ở “ngoại biên” “quyết không cho về nước nữa”. Rồi sau đó Phúc Khang An đòi Tây Sơn phải làm miếu thờ Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống. Lại cho biết là khoảng tháng bảy, tháng tám năm Canh Tuất (1790) nhà Thanh sẽ làm lễ bát tuần vạn thọ vua Càn Long “Có hàng vạn nước vượt biển trèo non đem ngọc xe lễ vật đến chầu“. Phúc Khang An yêu cầu vua Quang Trung đến ngày đó cũng phải “chỉnh trang” sang chầu, và như thế phải khởi hành vào tháng tư năm Canh Tuất (1790) Đáng chú ý là sau đó, vua Càn Long xuống chỉ cho vua Quang Trung đại ý nói: do quân Thanh vượt biên giới đến Thăng Long, Nguyễn Huệ phải đem quân ra để hỏi Lê Duy Kỳ vì cớ gì cầu cứu thiên binh; vì bị quân Thanh đánh, quân Tây Sơn bất đắc dĩ phải đánh lại; gặp lúc cầu phao đứt, nên quân Thanh bị chết hại nhiều. Trong tờ chỉ Càn Long còn nhận rằng Nguyễn Huệ đã bắt và giết hết những người đã giết Hứa Thế Hanh và Sầm Nghi Đống. Ông còn cho rằng khi quân Thanh vào Thăng Long, ông đã ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị rút quân về nước, vì Sĩ Nghị không tuân lệnh, cho nên có trận đại bại vào đầu năm Kỷ Dậu. Ông lại đòi lập đền thờ Hứa Thế Hanh và Sầm Nghi Đống, và đòi vua Quang Trung phải đích thân sang Yên Kinh triều cận vào dịp Càn Long làm lễ bát tuần vạn thọ năm Canh Tuất. Ông lại nhắc rằng “Lê Duy Kỳ hèn lười, không tài, bỏ ấn trốn đi, chiểu theo pháp luật của Thiên triều phải tội nặng; rằng ông quyết an trí bọn chúng ở Quế Lâm, không bao giờ cho về nước nữa; rằng ông đã ra lệnh cho Phúc Khang An đưa phái đoàn Nguyễn Quang Hiển đến xem chỗ bọn Lê Duy Kỳ ở”. Nhưng vua Quang Trung viện cớ là mình chưa được phong vương, sợ có điều bất tiện khi gặp các vị quốc vương các nước ở Yên Kinh. Thế là Càn Long đành phải phong cho Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương để có điều kiện đến Yên Kinh triều cận một cách đàng hoàng.  Vua Càn Long qua Phúc Khang An lại ra điều kiện đòi triều Tây Sơn phải đúc người vàng đem cống như các triều đại trước. Ngô Thì Nhậm đã viết cho Phúc Khang An bức thư, trong đó có đoạn: “Quốc trưởng nước tôi vùng lên từ thủa áo vải, nhân thời biết việc, đối với vua Lê vốn không có danh phận vua tôi. Mất hay còn là do số trời; theo hay bỏ là do lòng người. Quốc trưởng tôi có ý cướp ngôi của nhà Lê đâu mà lại coi như kẻ thoán đoạt. Trước đây Tôn bộ đường đem quân đến, quốc trưởng nước tôi bất đắc dĩ phải đem quân ra ứng chiến, không hề có ý xâm phạm biên cảnh để mang tội. Nay đại nhân theo lệ cũ của Trần, Lê, Mạc bắt cống người vàng, như vậy chẳng hóa ra quốc trưởng nước tôi được nước một cách quang minh chính đại mà lại bị coi như hạng ngụy Mạc hay sao? Như thế thì tấm lòng kính thuận sợ trời thờ nước lớn cũng bị coi như việc nhà Trần bắt Ô Mã Nhi, nhà Lê giết Liễu Thăng hay sao? Mong đại nhân noi theo mệnh lớn, miễn cho nước tôi lệ đúc người vàng để tiến cống” Nguyễn Huệ trong thư này đã nói rõ rằng các vua Việt Nam thời trước sở dĩ phải cống người vàng là để chuộc một tội lỗi nào đó đối với Thiên triều còn Nguyễn Huệ tự coi không có tội gì với nhà Lê và cũng không có tội gì với nhà Thanh nên Tây Sơn không thể đúc người vàng để tiến cống.Tháng 7 năm 1789, Càn Long ra chỉ dụ phong Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương.

Năm Canh Tuất (1790). Nguyễn Du 25 tuổi. Tháng 1 năm 1790, Hoàng đế Quang Trung giả (do Phạm Công Trị, cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu đóng) đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của vua Càn Long. Đoàn sứ bộ Tây Sơn gồm 159 người có giả vương Nguyễn Huệ và Nguyễn Quang Thùy (mà vua Càn Long tưởng là hoàng thái tử của Nguyễn Huệ). Mục đích khác của đoàn sứ là thăm dò thái độ của nhà Thanh đối với vị vua lưu vong Chiêu Thống của nhà Lê. Đại quan nhà Thanh là Phúc Khang An, từng sang chiến trường Đại Việt, đứng sau lưng đoàn sứ bộ, nên nhiều tướng lĩnh nhà Thanh biết người cầm đầu sứ bộ không phải Nguyễn Huệ, nhưng ngại gây hấn nên không nói ra. Sứ thần Tây Sơn đi đợt đó có Ngô Văn Sở,  Phan Huy Ích (thượng thư, nhà ngoại giao, quê Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh,  tiền bối của nhà sử học Phan Huy Lê, giáo sư nhà giáo nhân dân, là một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử Việt Nam hiện đại, người có ảnh hưởng lớn đến chính sử hiện tại trong sự đánh giá nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn), Vũ Huy Tấn ( Thị lang bộ Công, tước , sau khi đi sứ về ông được phong làm Thượng thư bộ Công, tước Hạo Trạch hầu. Dưới triều Cảnh Thịnh, ông được đặc cách lên hàng Thượng trụ quốc, Thị trung đãi chiếu Thượng thư). Sứ đoàn Tây Sơn lần đó cũng có Nguyễn Nể là anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du và  Đoàn Nguyễn Tuấn là anh vợ Nguyễn Du. Dọc đường đi, đoàn sứ giả có gặp hành tung của một số người họ Nguyễn ở Quảng Tây và sau đó cùng đi lên Yên Kinh. Người đời sau ngờ rằng đó chính là Nguyễn Du và Hà Mỗ. Đoàn sứ thần Tây Sơn có giả vương Nguyễn Huệ làm thế nào để che mắt sứ đoàn vua Lê Chiêu Thống hiển nhiên có mặt ?. Phúc Khang An đã ngầm thông đồng mưu kế với Tây Sơn: “Tìm một người diện mạo giống quốc vương đi thay. Việc này chỉ có Công gia, Thang đại nhân, Vương đại nhân và ta là bốn người biết mà thôi. Nếu sợ Lê Duy Kỳ biết, ta bẩm ngay với Công gia đem 1000 người bọn ấy giữ kỹ không cho ra ngoài, còn ai biết được nữa”. (theo Bang giao tập, ngoại giao nhà Tây Sơn).

Mưu lược ngoại giao của nhà Tây Sơn mua chuộc Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp qua các chứng cứ của Phan Huy Ích và Bang giao tập, với tình thế nhà Thanh đang rất chú tâm đến Tây Tạng, Cam Túc và chuyển giao ngai vàng. Phúc Khang An đã nhanh chóng lập được đại công quản lý Lưỡng Quảng, vỗ yên Đại Việt, tránh được thế đối đầu Đó là có lý do ẩn ý riêng.(*) Bài viết Kho báu đỉnh Tuyết Sơn của Hoàng Kim đã viết rõ điều này.

BANG GIAO TẬP VIỆT TRUNG

Sách Bang giao tập viết: “Đại Hoàng đế sợ Duy Kỳ ở Quảng Tây còn có nhiều bầy tôi cũ gây ra việc, cho nên ngày 16 tháng giêng năm Canh Tuất đã cho đem gia quyến Lê Duy Kỳ lên Yên Kinh, đem 116 người tùy tùng đi an trí ở các tỉnh Triết Giang, Giang Nam, Tứ Xuyên, Hồ Quảng. Lê Quýnh bị đưa đi Ỷ Lệ cách Yên Kinh 4000 dặm”. Nhà Thanh sai phân tán các quan lại cũ của nhà Lê đi các nơi để tách biệt không liên lạc được với nhau và cô lập Lê Duy Kỳ.Bản thân Lê Duy Kỳ bị giam lỏng ở “Tây An Nam dinh” tại Yên Kinh . Nhà Tây Sơn chính thức nhận được sự công nhận của nhà Thanh.

Sách Cương mục viết: “Nhà vua (Lê Duy Kỳ) căm giận vì bị người Thanh lừa gạt, bèn cùng các bầy tôi là bọn Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng và Lê Thức mười người uống máu ăn thề, làm bài biểu định đưa lên vua Thanh để xin quân cứu viện, nếu không được thì xin được đất hai châu Tuyên Quang và Thái Nguyên để quay về giữ việc thờ cúng tổ tiên hay là cùng nhau lén về Gia Định, nương nhờ triều ta (triều Nguyễn) để dần dà toan tính việc khôi phục, chứ quyết không chịu sống thừa ở đất Bắc.”

NGUYỄN DU NIÊN BIỂU LUẬN

Nguyễn Du niên biểu luận đã đúc kết và đang bổ sung dữ liệu giải mã thông tin giai thoại chưa kiểm chứng rõ sự thật. Phạm Quý Thích (giai thoại là Lê Quý Thích của sách Cương mục và sách Lê Quý kỷ sự, người từng cắt máu ăn thề với vua Lê) bạn thân của Nguyễn Du, người được chính Nguyễn Du tiểu dẫn trong những trang đầu của Truyện Thúy Kiều, bài tựa số 1 của Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân, “Ta lấy một thiên mực nhạt, xa viếng nàng Kiều, …” được sao lục tại Bài tựa Truyện Kiều trang 392-396 trong sách “200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều”, Lê Xuân Lít sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Giấy phép xuất bản số 698/CXB ngày 12/5/2005. 1998 trang, năm 2005. Tổng vịnh Truyện Kiều của Phạm Quý Thích.. Cụ Phạm là một danh sĩ thời Lê mạt, giao du rất thân với cụ Nguyễn Du. Chẳng những hay thơ chữ, cụ cũng hay cả thơ Nôm, xem bản dịch của cụ đã nêu liền dưới bài thơ chữ, quả tài tình rất mực.

Tổng vịnh Truyện Kiều của Phạm Quý Thích, trang 397 (hình) trong sách “200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều”, Lê Xuân Lít sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Sđd.

Sách Nguyễn Du Truyện Thúy Kiều do Bùi Kỷ Trần Trọng Kim hiệu khảo có in đầu sách hai bài tựa này là ẩn ngữ cần được soi tỏ sự thật mà các sách Truyện Kiều sau này ít thấy. Đó là bản in sát hơn hết với bản phường (gốc)Truyện Kiều. Y sao Toàn văn Tổng vịnh Truyện Kiều của Phạm Quý Thích (Bài Tựa số 2 đầu sách Truyện Kiều, Sđd trên tại trọn trang 397), chính cụ Phạm Quý Thích (2) lại tự dịch luôn ra Quốc âm:

Giọt nước Tiền Đường chẳng rửa oan
Phong ba chưa trắng nợ hồng nhan
Lòng tơ còn vướng chàng Kim Trọng
Gót ngọc khôn đành giấc thủy quan
Nửa gối đoạn trường tan giấc điệp,
Một dây bạc mệnh dứt cầm loan
Cho hay những kẻ tài tình lắm,
Trời bắt làm gương để thế gian,

(Truyện Thúy Kiều, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim hiệu khảo, NXB Tân Việt, 1968; tr.52)

(1) Nghĩa tám câu này là: Nàng Kiều nếu không đến sông Tiền Đường (thì) cái nợ yên hoa nửa đời trả chưa xong? Cái tài sắc của nàng không đáng vùi xuống nước; tấm lòng trong sạch của nàng lúc nào cũng không thẹn với Kim Lang.(Nhưng ngẫm) trong giấc mộng đoạn trường thì đã hiểu rõ cái căn nguyên cả đời nàng, nghe tiếng đàn bạc mệnh tuy đã gảy hết khúc, mà nỗi oán hận vẫn còn dài. (Thế mới hay) Một mảnh tài tình là cái lụy chung muôn đời. (Vậy thì) quyển Tân thanh này cốt để thương xót ai?

(2) Cụ Phạm là một danh sĩ thời Lê mạt, giao du rất thân với cụ Nguyễn Du. Chẳng những hay thơ chữ, cụ cũng hay cả thơ Nôm, xem bản dịch của cụ đã nêu liền dưới bài thơ chữ, quả tài tình rất mực.

Sách Nguyễn Du Truyên Thúy Kiều do Bùi Kỷ Trần Trọng Kim hiệu khảo là chỉ dẫn văn bản trong sách “200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều”, Lê Xuân Lít sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Giấy phép xuất bản số 698/CXB ngày 12/5/2005. 1998 trang, năm 2005, trang 392-397.và tài liệu “Trung Liệt đền thờ cổ” là chỉ dẫn địa lý nơimà Nguyễn Du và em trai đã lập đền thờ cho những người Trung Liệt Nhà Hậu Lê ở 124 Thụy Khuê, Hà Nội khi Nguyễn Nể đi sứ cho nhà Tây Sơn được thành công trở về và dinh thự họ Nguyễn Tiên Điền ở Hà Nội được tu sửa khôi phục lại. Xin chép lại nguyên văn và trân trọng giới thiệu hồ sơ chuyên đề Nguyễn Du tư kiệu quý, mục tư liệu số 13 này có “Phát hiện mới nguồn gốc Truyện Kiều” “Thử giải mã lại Truyện Kiều” của Lê Nghị (Li Li Nghê) và bài viết Truyện Kiều có trước hay sau Kim Vân Kiều truyện? của PGS.TS Đoàn Lê Giang (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh),” Hồ sơ tham khảo chi tiết chúng tôi lưu về chung trang “Nguyễn Du tư liệu quý” |

Hoàng Kim
(Đọc lại và hiệu đính, bổ sung)

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
Hoàng Kim

Việt Nam con đường xanh những trích dẫn nổi bật của kỳ này gồm: Tin nổi bật quan tâm; Đọc lại và suy ngẫm: “Toàn văn Bản Tuyên ngôn độc lập“; “Bài viết của Tổng Bí thư về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” “Tầm nhìn mới, bản lĩnh mới, sức sáng tạo mới“; Người giương ngọn cờ đúng thời điểm lịch sử; Muốn CNXH, nền chính trị phải thật sự dân chủ; Không thể có CNXH từ lý luận sáo mòn; “Để Việt Nam mơ giấc mơ ‘hóa rồng, hóa hổ’; Khi nào hoàn thành giấc mơ công nghiệp hóa

Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành“. Việt Nam con đường xanh cốt lõi là an dân với năm yếu tố: An sinh xã hội; An tâm; An lạc; An toàn; An ninh.

Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 (* Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Dự thảo các văn kiện trình đại hội Đảng XIII của Đảng) xác định 10 giải pháp cơ bản:

1) Tập trung hoàn thiện nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.

2) Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế;

3) Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế;

4) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô;

5) Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển, lấy các đô thi làm động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới;

6) Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân;

7) Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai;

8) Củng cố, tăng cường quốc phóng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia;

9) Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế;

10) Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính.

Việt Nam con đường xanh lĩnh vực nông lâm thủy hải sản trọng tâm là 13 sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia đã được xác định bởi Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tại Thông tư số 37 /2018/TT /BNNPTNT ngày 25/12/2018 gồm Gạo, Cà phê, Cao su, Điều, Hồ tiêu, Chè, Rau Quả, Sắn và sản phẩm từ sắn, Thịt lợn, Thịt và trứng gia cầm, Cá tra, Tôm, Gỗ và sản phẩm từ gỗ.

Phương hướng nhiệm vụ và giải pháp chính của giai đoạn 2021- 2030 để đảm bảo khối sản phẩm chủ lực này phát huy hiệu quả giá trị nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam là cần tổ chức điều hành thật tốt 5 nhóm hệ thống giải pháp chính đã được xác định:

1) Nông sản Việt 13 ngành hàng chủ lực kết nối mạnh mẽ với thị trường thế giới, xác định lợi thế so sánh và hệ thống giải pháp bảo tồn phát triển bền vững, hiệu quả khoa học công nghệ, kinh tế an sinh xã hội môi trường và vị thế quan trọng của từng ngành hàng. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực hợp tác đầu tư nước ngoài có trọng tâm, trọng điểm, có chọn lọc, ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, quản trị hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối Nông sản Việt đạt lợi thế cạnh tranh cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan tỏa, kết nối chặt chẽ hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả, đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Phát triển mạnh doanh nghiệp nông nghiệp, hổ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp tác. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp.

2) Phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sạch, nông nghiệp hữu cơ, đạt tiêu chuẩn phổ biến về an toàn thực phẩm. Đổi mới chính sách quản lý và sử dụng đất trồng lúa, hàng năm sản xuất khoảng 35 triệu tấn lúa làm nòng cốt bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường, tăng khả năng chống chịu, thích ứng của nông dân với biến đổi khí hậu từng vùng, miền, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, ổn định. Tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường xuất khẩu, chuỗi giá trị toàn cầu.

3) Phát triển chăn nuôi công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại hiệu quả cao, thân thiện với môi trường. Phát triển nuôi trồng thủy sản cá trên biển và mặt nước nội địa theo hướng công nghiệp, quảng canh cải tiến , sinh thái, nâng cao hiệu quả khai thác xa bờ , phát triển đánh bắt hải dương. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi hải sản;

4) Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng rừng trồng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu, rừng phòng hộ ven biển. Chú trọng phát triển trồng rừng gỗ lớn, nâng cao hiệu quả rừng trồng, lâm đặc sản, đáp ứng cơ bản nhu cầu lâm sản trong nước làm nguyên liệu chế biến xuất khẩu. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào các chuỗi giá trị lâm nghiệp.

5) Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới và quản lý sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng. Nâng cao tính chống chịu và thích ứng biến đổi khí hậu của hệ thống kết cấu hạ tầng và của nền kinh tế Việt Nam, thực hiện các giải pháp thông minh để thích ứng trong nông nghiệp, thủy sản và phát triển rừng. Giảm thiểu những rũi ro do biến đổi khí hậu gây ra, đặc biệt là xâm nhập mặn, sạt lở tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, an toàn lụt và môi sinh tại Hà Nội và vùng Đồng Bằng Sông Hồng khô hạn tại Tây Nguyên, Nam Trung Bộ,Bắc Trung Bộ Bảo vệ an ninh nguồn nước, tăng cường quản lý và khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nguồn nước theo lưu vực sông, ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước, tích nước điều tiết nguồn nước hợp lý phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu lực quản lý, hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài nguyên, nhất là đất, nước khoáng sản, theo nguyên tắc thị trường. Phát triển thị trường, đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất, tăng cường đăng ký quyền sử dụng đất và áp dụng định giá đất theo thị trường, bảo đảm công khai, minh bạch. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, mạng lướí các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia kết nối đồng bộ với các khu vực nông phẩm hàng hóa chính và khu đô thị, khu công nghiệp, cảng biển; Kết nối xây dựng nông thôn mới với kinh tế vùng, kinh tế biển, đào tạo nguồn lực nông nghiệp, cải tiến nâng cấp hệ thống hóa dữ liệu thông tin nông nghiệp nông dân nông thôn đáp ứng phù hợp với thời đại mới. Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với đô thị hóa, thực chất và đi vào chiều sâu hiệu quả bền vững, lấy cư dân nông thôn làm chủ thể, tạo sự chuyển biến tích cực rõ rệt về nếp sống mới ở nông thôn; xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới cấp thôn bản. Thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn để tổ chức và nâng cao chuỗi gía trị “mỗi xã một sản phẩm” gắn với thương hiệu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Chú trọng xây dựng cảnh quan sinh thái môi trường làng xã Việt xanh sạch đẹp tiến bộ an lành

Ba trụ cột cốt lõi của một quốc gia là cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.theo kết luận của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững tại Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002.

Bảo vệ an toàn môi trường sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam là một trong ba trụ cột cốt lõi của chính sách quốc gia. Bảo vệ an toàn thức ăn, đất, nước, không khí và môi sinh là luật sống. Nguyên tắc cơ bản là: Ai gây ô nhiễm môi trường phải trả chi phí để xử lý khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi. Thực thi chế tài và xử phạt nghiêm về vi phạm môi trường là quốc sách.

Tăng cường giám sát, công khai đầy đủ, kịp thời thông tin và nâng cao chất lượng môi trường, sự an toàn về thức ăn, đất nước, không khí và môi sinh ở các đô thị và vùng dân cư. Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Cải thiện rõ rệt tình trạng ô nhiễm môi trường, ở các cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, khu vực nông thôn. Kiểm soát chặt chẽ các dự án khai thác tài nguyên, chủ động phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn suy thoái môi trường. Tối ưu hóa các mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng.

Việt Nam con đường xanh, thông tin đúc kết này là chọn lọc trích dẫn phù hợp với tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Định hướng và tầm nhìn này nhấn mạnh

1) Phải phát triển hài hòa ba trụ cột “Không đánh đổi môi trường với tăng trưởng kinh tế”; “Không thể vì nghèo mà hy sinh môi trường và sức khỏe người dân”

2) Vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định;

3) Vai trò của người dân lao động và cộng đồng xã hội là không thể thiếu.

Việt Nam ngày nay nhấn mạnh sự diệt trừ tham nhũng và đề cao vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: VGP

Báo Nhân Dân đăng bài viết của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamDư luận quốc tế Bài viết của Tổng Bí thư là tác phẩm có ý nghĩa quan trọng“.Chủ tịch Quốc Hội Việt Nam công du Châu Âu “Nâng tầm hợp tác Việt Nam – EU ngày càng thực chất và hiệu quả”. Thứ trưởng Ngoại giao Tô Anh Dũng:Chuyến công tác của Chủ tịch Quốc hội thành công vượt dự kiến”. Chuyện bên lề chính sử “Tin hay không nên tin” “Việt Nam là dân tộc nhỏ yếu, nghèo nàn và lạc hậu?”; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-vi-the-moi

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Theo Việt Nam Net ngày 16/05/2021, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.  CNM365 Tình yêu cuộc sống trích dẫn toàn văn bài viết quan trọng này

(VNN) Tổng Bí thư viết bài này nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh  (19/5/1890 – 19/5/2021) và bầu cử ĐBQH khoá XV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026 vào ngày 23/5 tới đây. VietNamNet trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết quan trọng này của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học.

Trong phạm vi bài này, tôi chỉ xin đề cập một số khía cạnh từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam. Và cũng chỉ tập trung vào trả lời mấy câu hỏi: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?.

Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tuỳ theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác – Lênin trong thời đại ngày nay. Vậy thì chúng ta phải định hình chủ nghĩa xã hội thế nào, và định hướngđi lên chủ nghĩa xã hội thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể ở Việt Nam?

Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá.

Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác.

Có người còn phụ hoạ với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác – Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa! Thực tế có phải như vậy không? Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn con đường đi sai không?

Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học – công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước.

Từ giữa thập kỷ 70 và nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách “tự do mới” trên quy mô toàn cầu; và nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó.

Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt là, năm 2008 – 2009 chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Các nhà nước, các chính phủ tư sản ở Phương Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, nhưng không mấy thành công.

Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu – nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc.

Những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế – tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội, và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế. Sự thật cho thấy, bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu.

Sự thật đó cũng làm phá sản những lý thuyết kinh tế hay mô hình phát triển vốn xưa nay được coi là thời thượng, được không ít các chính khách tư sản ca ngợi, được các chuyên gia của họ coi là tối ưu, hợp lý.
Cùng với khủng hoảng kinh tế – tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái,… đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại.

Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế – xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Theo nhiều nhà khoa học phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa.

Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân – yếu tố bản chất nhất của dân chủ.

Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản.

Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản.

Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm.

Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hoà với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và huỷ hoại môi trường.

Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.
Như chúng ta đều biết, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân với tinh thần “Không có gì quý hơn Độc lập Tự do”.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.

Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương: “Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”.

Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào?Đó là điều mà chúng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản…

Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới.

Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển.

Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.

Theo nhận thức của chúng ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đó là một kiểu kinh tế thị trường mớitrong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội.

Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.

Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xoá đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hoá đồng bộ, hài hoà với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hoá nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.

Chúng ta xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hoá, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh.

Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hoà với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội.

Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.

Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội. Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân.

Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, chúng ta xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo.

Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả dân tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình và do đó Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.

Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, mà là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, vì giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.

Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái hoá v.v…, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hoá v.v… trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị.

Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua.

Trước Đổi mới (năm 1986), Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về của và môi trường sinh thái. Tôi chỉ nêu thí dụ, cho đến nay vẫn có hàng triệu người chịu các bệnh hiểm nghèo và hàng trăm ngàn trẻ em bị dị tật bẩm sinh bởi tác động của chất độc da cam/dioxin do quân đội Mỹ sử dụng trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam.

Theo các chuyên gia, phải mất đến hơn 100 năm nữa Việt Nam mới có thể dọn sạch hết bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Sau chiến tranh, Mỹ và phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Tình hình khu vực và quốc tế cũng diễn biến phức tạp, gây nhiều bất lợi cho chúng ta. Lương thực, hàng hoá nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ.

Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008.

Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020.

Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỉ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

Hiện dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó hơn 60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Tỉ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước).

Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết.

Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí.

Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc.

Đời sống văn hoá cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hoá phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hoá các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.

Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) đã nhận định, sự nghiệp đổi mới đã giành được “những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử”. Trên thực tế, xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay đang có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây.

Đó là một trong những lý do giải thích vì sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được toàn dân Việt Nam đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực hiện. Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế.

Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa lại khẳng định và nhấn mạnh: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá.

Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 25 – 26).

Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước.

Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.

Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hoá, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế.

Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững với các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội (Văn kiện Đại hội XIII, tập 2, trang 337 – 338).

Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống văn hoá cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội.

Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.

Mặt khác, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại.

Trong thế giới toàn cầu hoá như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia – dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.

Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin – học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện.

Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là vietnamtoquoctoi.jpg

THẾ GIỚI TRONG MẮT AI
Hoàng Kim và Hoàng Long

“Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình”. Đêm trắng và bình minh Hoàng Kim lời tâm đắc. Thế giới trong mắt ai, chúng ta trầm tĩnh theo dõi thế giới chuyển biến. Thông tin nhanh về Việt Nam quan hệ quốc tế và một số bài học thêm có liên quan .https://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-gioi-trong-mat-ai/ .

“Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đường lối cách mạng của nước Việt Nam ngày nay thích hợp bền vững trong tình hình mới, thời đại mới, đã được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết tinh hoa tại bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” xác định rõ đường lối, quan điểm, tầm nhìn chiến lược, cương lĩnh và kế hoạch hành động:“Đoàn kết ‘xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh’ như di nguyện của Bác Hồ kính yêu”; “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Ph át triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (in đậm để nhấn mạnh HK); Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện“. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-gioi-trong-mat-ai/

ĐỀN NGỌC SƠN HỒ GƯƠM
Minh Sơn Hoàng Bá Chuân

Tô điểm Hà Thành một hạt châu
Ấy hồ Lục Thủy tiếng từ lâu
Trăng vờn cổ thụ mây lồng nước
Tháp hướng trời xanh gió lộng cầu
Kiếm bạc hưng bang rùa vẫn ngậm
Bút son kiến quốc hạc đương chầu
Trùng trùng lá biếc hoa phơi gấm
Kìa tượng Vua Lê chót vót cao (*)

1966
(Đã in trong tuyển tập Ngàn năm thương nhớ
NXB Hội Nhà Văn xuất bản năm 2004 nhân kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội)

(*) Video nhạc Việt yêu thích https://youtu.be/04WaTLNxg2A

HÀ NỘI MÃI TRONG TIM
Hoàng Kim

Đền Ngọc Sơn Hồ Gươm
Hoàng Thành ngọc cho đời
Tháp Bút viết trời xanh
Trăng rằm sen Tây Hồ

Việt Nam học tinh hoa
Việt Nam ngời di sản
Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Tứ Trấn Đất Thăng Long

Hà Nội mãi trong tim

VIỆT NAM HỌC TINH HOA
Hoàng Kim


Việt Nam ngời di sản
Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Hà Nội mãi trong tim
Tứ Trấn Đất Thăng Long

Đền Kim Liên Hà Nội Theo truyền hình An Viên https://www.facebook.com/anvientvbchannel/videos/357366486357824/ Chủ tịch UBND TP Hà Nội Chu Ngọc Anh: Đích thân trao Bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt đền Kim Liên ngày 20 tháng 4 năm 2022. “Thăng Long tứ trấn” hay “Tứ trấn Thăng Long” là cụm từ để chỉ 4 di tích tiêu biểu, trấn giữ bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc của kinh thành Thăng Long, là các đền: Bạch Mã, Voi Phục, Kim Liên và Trấn Vũ. Việt Nam Học Tinh Hoa https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-hoc-tinh-hoa tích hợp thông tin này tại chuyên mục Hà Nội mãi trong tim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ha-noi-mai-trong-tim#vietnamhoc; #cnm365 #cltvn #Thungdung

gaovietchatluongvathuonghieu

CÂY LƯƠNG THỰC FOOD CROPS
Hoàng Kim


Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh
Sắn Việt Nam ngày nay
Lúa siêu xanh Việt Nam

Ngô Đậu Hệ Canh Tác
Giống khoai lang Việt Nam

CÂY LƯƠNG THỰC FOOD CROPS https://hoangkimlong.wordpress.com/category/food-crops kết nối Cây Lương thực Việt Nam https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cay-luong-thuc-viet-nam/ với Hoàng Long cây lương thực Dạy và học trực tuyến tỏa sáng giá trị Việt https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-long-cay-luong-thuc/https://cayluongthuc.blogspot.com/ và https://foodcrops.blogspot.com

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM

Cây Lương thực Việt Nam #CLTVN chủ yếu có lúa ngô, sắn, khoai. Ẩm thực Việt, nguồn thức ăn đồ uống Việt (Food & Drink) bao gồm gạo ngô, sắn, khoai, cây đậu đỗ thực phẩm, rau hoa quả, thịt, cá, … Dạy và học cây lương thực ngày nay ngày càng đòi hỏi sự hiểu biết chuyên sâu và có sự kết nối liên ngành, nâng cao sự liên kết hiệu quả sản xuất chế biến cung ứng tiêu thụ sản phẩm thành chuỗi giá trị ngành hàng. Mục tiêu nhằm.nâng cao giá trị chất lượng cuộc sống của người dân, tỏa sáng Việt Nam đất nước con người ra Thế giới về giống cây lương thực Việt, thương hiệu Việt, hiệu sách Việt, sinh thái nông nghiệp, ẩm thực, ngôn ngữ, lịch sử văn hóa Việt Nam.

Một số sản phẩm Cây Lương thực Việt Nam thương hiệu Nông Lâm được nghiên cứu phát triển, trồng phổ biến trong sản xuất những năm qua, là lời biết ơn chân thành của các tác giả với Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 65 năm ngày thành lập (19/11/1955-19/11/2020), Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam đường tới IAS 100 năm (1925-2025) với thầy bạn và đông đảo nông dân. Bài viết này giới thiệu một số đúc kết tư liệu liên quan.dạy và học Cây Lương thực Việt Nam giúp bạn đọc tiện theo dõi. Cây Lương thực Việt Nam #CLTVN

HOÀNG LONG CÂY LƯƠNG THỰC
#CLTVN https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-long-cay-luong-thuc Dạy và học trực tuyến Cây Lương thực Việt Nam https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cay-luong-thuc-viet-nam/; Tin Hội thảo khoa học; DẠY VÀ HỌC Việt Nam học; CNM365 Tình yêu cuộc sống; Chuyển đổi số nông nghiệp; Bảo tồn và phát triển sắn; Lúa siêu xanh Việt Nam

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
Hoàng Long, Hoàng Kim và đồng sự
Dạy và học trực tuyến
https://www2.hcmuaf.edu.vn/contents.php?ids=12928&ur=hoangkim
Bài học Cây Lương Thực (đọc thêm ngoài bài giảng)
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-long-cay-luong-thuc/

#CLTVN
Bảo tồn và phát triển sắn
Cách mạng sắn Việt Nam
Chọn giống sắn Việt Nam
Chọn giống sắn kháng CMD
Bạch Mai sắn Tây Nguyên
Giống sắn KM419 và KM440
Mười kỹ thuật thâm canh sắn
Sắn Việt bảo tồn phát triển
Sắn Việt Nam ngày nay
Vietnamese cassava today
Sắn Việt Lúa Siêu Xanh
Sắn Việt Nam bài học quý
Sắn Việt Nam sách chọn
Sắn Việt Nam và Howeler
Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt và Sắn Thái
Quản lý bền vững sắn châu Á
Cassava and Vietnam: Now and Then

Lúa siêu xanh Việt Nam
Giống lúa siêu xanh GSR65
Giống lúa siêu xanh GSR90
Gạo Việt và thương hiệu
Hồ Quang Cua gạo ST
Cơm Niêu Vàng Gạo Đông A
Con đường lúa gạo Việt
Chuyện cô Trâm lúa lai
Chuyện thầy Hoan lúa lai
Lúa C4 và lúa cao cây
Lúa sắn Cămpuchia và Lào
Lúa sắn Việt Châu Phi
Lúa Việt tới Châu Mỹ

Giống ngô lai VN 25-99
Giống lạc HL25 Việt Ấn


Giống khoai lang Việt Nam
Giống khoai lang HL518
Giống khoai lang HL491
Giống khoai Hoàng Long
Giống khoai lang HL4
Giống khoai Bí Đà Lạt

Việt Nam con đường xanh
Việt Nam tổ quốc tôi
Vườn Quốc gia Việt Nam
Nông nghiệp công nghệ cao
Nông nghiệp sinh thái Việt
Nông nghiệp Việt trăm năm
IAS đường tới trăm năm
Viện Lúa Sao Thần Nông
Hoàng Thành đến Trúc Lâm
Ngày Hạnh Phúc của em
Có một ngày như thế

Thầy bạn là lộc xuân
Thầy bạn trong đời tôi
Sóc Trăng Lương Định Của
Thầy Quyền thâm canh lúa
Borlaug và Hemingway
Thầy Luật lúa OMCS OM
Thầy Tuấn kinh tế hộ
Thầy Tuấn trong lòng tôi
Thầy Vũ trong lòng tôi
Thầy lúa xuân Việt Nam
Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc
Thầy bạn Vĩ Dạ xưa
Thầy Dương Thanh Liêm
Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh
Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa
Phạm Quang Khánh Hoa Đất
Phạm Văn Bên Cỏ May

24 tiết khí nông lịch
Nông lịch tiết Lập Xuân
Nông lịch tiết Vũ Thủy
Nông lịch tiết Kinh Trập
Nông lịch tiết Xuân Phân
Nông lịch tiết Thanh Minh
Nông lịch tiết Cốc vũ
Nông lịch tiết Lập Hạ
Nông lịch tiết Tiểu Mãn
Nông lịch tiết Mang Chủng
Nông lịch tiết Hạ Chí
Nông lịch tiết Tiểu Thử
Nông lịch tiết Đại Thử
Nông lịch tiết Lập Thu
Nông lịch Tiết Xử Thử
Nông lịch tiết Bạch Lộ
Nông lịch tiết Thu Phân
Nông lịch tiết Hàn Lộ
Nông lịch tiết Sương Giáng
Nông lịch tiết Lập Đông
Nông lịch tiết Tiểu tuyết
Nông lịch tiết Đại tuyết
Nông lịch tiết giữa Đông
Nông lịch Tiết Tiểu Hàn
Nông lịch tiết Đại Hàn

PHÚ YÊN GIẢI PHÁP SÁNG TẠO VÀ CÔNG NGHÊ GIỐNG SẮN.
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Đình Phú, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Văn Minh và đồng sự.


Giống sắn KM568, KM539, KM440 đang thể hiện sự vượt trội trên ruộng sắn La Hai, Đồng Xuân Phú Yên ngày 29 tháng 9 năm 2022. Đây là kết quả bước đầu của nội dung 1 Nâng cấp cải tiến giống sắn chủ lực thương mại KM419, KM440 bằng cách hồi giao với KM539, KM537, KM534, KM94 thuộc nhiệm vụ khoa học thực tiễn cấp bách:”Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên; xem tiếp Bảo tồn và phát triển sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/ và Giống sắn KM419 và KM440 https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-san-km419-va-km440

SỰ THẬT TỐT HƠN NGÀN LỜI NÓI
Hoàng Kim

Việt Nam con đường xanh
Chung sức trên đường xuân
Vui đi dưới mặt trời
Sự thật tốt hơn ngàn lời nói
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/su-that-tot-hon-ngan-loi-noi/

Giống sắn KM568 trên ruông nông dân Phú Yên (giữa) rất sạch bệnh khảm lá virus (CMD) và bệnh chồi rồng CWBD, bên trái phía sau là giống sắn chủ lực sản xuất KM419 cũ nhiều và đồng đều nhưng nhiễm bệnh CMD mức 3,5; bên phải phía sau là giống chủ lực thương mại KM440 kháng bệnh CMD cấp 2 và CWBD cấp 1,5. Giống sắn KM568 là kết quả đề tài nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất của tỉnh Phú Yên.

xem tiếp video link https://youtube.com/shorts/ChgoNIhCOEk?feature=share Giống sắn KM537 chọn dòng 2; video link https://youtube.com/shorts/l44NyN6vaR4?feature=share Giống sắn KM534 chọn dòng 2; https://youtu.be/KZJWDPCWs_I Giống sắn KM539- 2 Thông tin tích hợp tại Bảo tồn và phát triển sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san

Báo cáo tại Hội thảo Sắn Quốc tế Toàn cầu (CGP2) Nam Ninh TQ 18-22/1/2016 5 giống sắn tốt nhất năm 2016 là KM419, KM440, KM397, KM414, KM444 có nhiều trang trong bài này https://www.researchgate.net/…/322160935_CASSAVA… xem kỹ bảng 6 sắn Tây Ninh, Trần Viễn Thông Vũ Đức Trong Phạm Thị Là Nguyễn Minh Cường Tống Quốc Thanh … Tây Ninh của năm 2000 – 2016 và tài liệu tham khảo Giống sắn Việt Nam 1975-2016 trong bài tổng kết ấy.

GIỐNG SẮN KM440 (rất giống mì KM419 khác biệt ở cọng đỏ cọng xanh xem thêm https://youtu.be/kjWwyW0hkbU (2020) và https://youtu.be/XDM6i8vLHcI (2015) và https://youtu.be/oXEF0RpZIo8 (2022) và https://youtu.be/81aJ5-cGp28 (2016) và https://youtu.be/XVhXnAxSFnc (2012)

Nguồn gốc: KM440 là giống sắn KM94 chiếu xạ hạt giống KM94 bằng tia Gamma nguồn Co 60, thực hiện trên 24.000 hạt sắn KM94 đã qua tuyển chọn đơn bội kép do nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hố Chí Minh (NLU) chủ trì chọn tạo giống (Hoàng Kim, Lương Thu Trà, Bùi Trang Việt, và ctv 2004. Ứng dụng đột biến lý học và nuôi cấy mô để tạo giống khoai mì có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất củ tươi và hàm lượng tinh bột cao, phù hợp với việc né lũ của tỉnh An Giang. Uỷ ban Nhân dân Tỉnh An Giang, Sở Khoa học Công nghệ An Giang, Long Xuyên, An Giang, tháng 5/2004) sau đó tiếp tục cải tiến giống bằng phương pháp tạo dòng đơn bội kép (Hoàng Kim và ctv 2009)đánh giá tuyển chọn giống KM440 tạị các công trình khoa học Nguyễn Thị Lệ Dung 2011, Luận văn thạc sĩ nông học NLU;; Đào Trọng Tuấn 2013 Luận văn thạc sĩ nông học NLU; Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Trọng Hiển, Nguyễn Thị Cách, Hoàng Kim 2013 Kết quả nghiên cứu tuyển chọn giống sắn tại bốn vùng sinh thái Việt Nam ; Nguyễn Minh Cường 2014, Luận văn thạc sĩ NLU; Nguyễn Thị Trúc Mai 2017. Luận án tiến sĩ Đại học Huế; Nguyễn Bạch Mai 2018 Luận án tiến sĩ Đại học Tây Nguyên. Nguyễn Anh Vũ, Lê Ngọc Tuấn; Nguyễn Hùng, Đỗ Thị Trang; Nguyễn Thị Hạnh, Phạm Thị Thu Hà; Nguyễn Trọng Hiển; Motoeki Saki, Lê Huy Hàm 2021. Mô tả nhận dạng một số giống sắn phổ biến tại Việt Nam (giống sắn KM440, KM419, KM140, KM414, KM325, KM227; BK, DT4, HLS 12, KM141). Chu Đức Hà, Lê Thị Ngọc Quỳnh, Nguyễn Trọng Hiển, Phạm Thị Lý Thu, Lê Huy Hàm , Lê Tiến Dũng; 2015 Mô tả nhận dạng một số giống sắn phổ biến tại Việt Nam [KM94, KM140, KM98-7, KM98-5, SM937-26, Xanh Vĩnh Phú (XVP).

(*) Bảo tồn và phát triển sắn Cassava in Vietnam save and grow https://youtu.be/y5PKJuZYrGE; Video nhạc Việt yêu thích https://youtu.be/04WaTLNxg2A

Việt Nam ngày nay là thời điểm đột phá chuyển đổi. Việt Nam con đường xanh những trích dẫn nổi bật: 1) Hơn 103.000 tỷ đồng cho chương trình giống giai đoạn 2021 – 2030 và 2) Nông nghiệp hữu cơ hiện trang và giải pháp nghiên cứu phát triển (chi tiết kèm theo); 3) Nông nghiệp công nghệ cao xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/

LuaSieuXanhVietNam

GIẤC MƠ LÚA SIÊU XANH
Hoàng Kim

Lúa siêu xanh Việt Nam (Green Super Rice in Vietnam) kết nối Lúa siêu xanh Hòa Bình (dự án lúa gạo toàn cầu IRRI Green Super Rice GSR Project) đang hướng tới những sản phẩm lúa gạo thích ứng với biến đổi khí hậu đạt năng suất cao, chất lượng gạo tốt, ngon cơm, thời gian sinh trưởng từ 95-115 ngày, kháng sâu bệnh, chống chịu mặn, hạn, thích nghi cho vùng lúa thâm canh, vùng lúa nhiễm mặn và vùng lúa khô hạn nhờ nước trời. Chọn tạo giống lúa siêu xanh (GSR) thích ứng biến đổi khí hậu ở Việt Nam là sự đột phá tiếp nối theo cách mà cây sắn Việt Nam đã đạt thành công cao. Sản xuất lúa ở Việt Nam, đặc biệt là vùng ĐBSCL đang phải đối mặt với ảnh hưởng to lớn của biến đổi khí hậu, nhiễm mặn lan rộng, kéo dài và khô hạn cục bộ. Việc chọn tạo giống lúa siêu xanh năng suất cao, hướng tăng trần năng suất đạt 7-10 tấn/ha trong điều kiện sản xuất tại Việt Nam, chất lượng gạo tốt, ngon cơm, thời gian sinh trưởng từ 95-115 ngày, kháng sâu bệnh, chống chịu mặn, hạn, thích nghi cho vùng lúa thâm canh, vùng lúa nhiễm mặn và vùng lúa khô hạn nhờ nước trời là một đòi hỏi thực tiễn cấp bách. Cách đột phá được tập trung thực hiện là chọn tạo giống lúa siêu xanh (Green Super Rice – GSR) thích ứng biến đổi khí hậu tại Việt Nam. 754 giống lúa  siêu xanh (GSR) được nhập nội trực tiếp về Việt Nam từ IRRI – CAAS (Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế IRRI và Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc CAAS). Mạng lưới nghiên cứu phát triển lúa siêu xanh Việt Nam gồm: Trường Đại học Nông Lâm Huế (HUF), Sở Nông nghiệp & PTNT Phú Yên, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam, Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long (CLRRI), Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh (NLU), Trung tâm Giống Cây trồng Sóc Trăng, Viện Di truyền Nông nghiệp (AGI), Trung tâm Khuyến Nông Quốc Gia và Hệ thống Khuyến nông, các doanh nghiệp sản xuất cung ứng giống lúa của các tỉnh. Những mẫu giống GSR này được phối kết, khai thác, tuyển chọn cùng với nguồn vật liệu lúa đặc sản Sóc Trăng, Viện Lúa, Viện Di truyền Nông nghiệp, … Mục tiêu: chọn tạo giống lúa siêu xanh năng suất cao, hướng tăng trần năng suất đạt 7-10 tấn/ha , chất lượng gạo tốt, thời gian sinh trưởng từ 95-115 ngày, ít sâu bệnh, đáp ứng cho vùng lúa thâm canh, vùng lúa nhiễm mặn (chịu được độ mặn 4-6‰) và vùng lúa khô hạn nhờ nước trời.

Lúa Siêu Xanh Việt Nam giống tốt và kỹ thuật thâm canh là khâu trọng yếu, đầu tiên để cải tiến chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo Việt Nam, bảo tồn và phát triển bền vững ngành lúa gạo, thích ứng với biến đổi khí hậu, thích hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam khẳng định tầm nhìn, cơ chế, chính sách mới nhằm khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn tại Nghị định 57/2018 / ND-CP. Theo đó, trục sản phẩm chính nhắm đến các sản phẩm chính quốc gia, trong khi lúa gạo vẫn tiếp tục là ngành chính của nông nghiệp Việt Nam, giá đỡ của an sinh xã hội và phát triển kinh tế, là sinh kế chính của vùng nông thôn rộng lớn, lao động và việc làm. Chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo ở cấp tỉnh cần đủ lớn, liên kết các khu vực nguyên liệu thô với các thương hiệu, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao và đào tạo nguồn nhân lực.

Lúa siêu xanh Việt Nam Quá trình chọn tạo và phát triển giống lúa siêu xanh GSR65, GSR90 công việc thế tục mười năm chỉ mới là bước đầu.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-13.jpg

LÚA SIÊU XANH VIỆT NAM
Hoang Long, Hoàng Kim và đồng sự

Giống lúa siêu xanh GSR65
Nguồn gốc giống: Giống lúa GSR65 có nguồn gốc từ giống lúa Huang Hua Zhang (HHZ) cải tiến HHZ5-DT11-SAL2-7, được lai tạo và nhập nội nguồn gen từ chương trình chọn tạo giống lúa siêu xanh (GSR) của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) với Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS). Giống lúa GSR65 được Mạng lưới Nghiên cứu Lúa Siêu Xanh Việt Nam tuyển chọn và phát triển thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu tại Việt Nam (Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018a, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018b; Hoang Long et al. 2015). Giống lúa siêu xanh GSR 65 đã được tuyển chọn qua bảy vụ tại Phú Yên với sáu khảo nghiệm cơ bản (12 giống lúa trong ba vụ tại hai điểm); bốn khảo nghiệm sản xuất (5 giống lúa tuyển chọn trong hai vụ tại hai điểm), bốn trình diễn xây dựng mô hình sản xuất thử (trong hai vụ tại hai điểm). Giống lúa GSR65 đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên chủ trì phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại Học Nông Lâm Huế, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Trăng, Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc lập hồ sơ công nhận giống lúa mới.

Đặc điểm giống: Giống lúa siêu xanh GSR65 năng suất cao chất lượng tốt thích hợp vùng thâm canh và vùng mặn, vùng hạn. Giống có thời gian sinh trưởng 95 – 100 ngày đối với lúa sạ và 100 – 105 ngày khi cấy. Giống có chiều cao cây 98 – 100 cm. Giống có 336 – 354 bông/m2, trọng lượng 1000 hạt khoảng 24 – 25g. Tỷ lệ gạo lật, tỷ lệ gạo xát và tỷ lệ gạo nguyên đều đạt tốt, chất lượng gạo loại 1. Giống GSR65 đạt mức protein cao trên 7%, có hàm lượng amylose trung bình, có mùi thơm và cơm ngon. Giống có đặc điểm nông sinh học tốt dạng hình lúa siêu xanh, bộ lá xanh lâu bền (điểm 1), thấp cây (điểm 1), cứng cây không đổ ngã (điểm 1), độ thoát cổ bông cao (điểm 1), dạng hạt gạo thon dài. Giống GSR65 kháng vừa rầy nâu, có phản ứng nhiễm vừa với bệnh đạo ôn hại lúa. Giống lúa GSR65 tại Phú Yên trong khảo nghiệm cơ bản đạt năng suất thực thu bình quân là 8,70 tấn/ ha vượt 30,12% so với đối chứng ML48 đạt 6,69 tấn/ha, trong mô hình trình diễn khảo nghiệm sản xuất thử đạt năng suất thực thu bình quân là 7,98 tấn/ ha vượt 11,92% so với đối chứng ML48 đạt 71,3 tạ/ha

Giống lúa siêu xanh GSR90
Nguồn gốc giống: Giống lúa GSR90 được lai tạo từ tổ hợp OM9921x GSR38 thực hiện tại Việt Nam (GSR38 có nguồn gốc là giống lúa Huang Hua Zhang (HHZ) cải tiến HHZ5-Y7-Y3 nhập nội từ chương trình chọn tạo giống lúa siêu xanh (GSR) của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) với Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS). Giống lúa GSR90 được Mạng lưới Nghiên cứu Lúa Siêu Xanh Việt Nam lai tạo, tuyển chọn và phát triển thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu tại Việt Nam (Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018a, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018b; Hoang Long et al. 2015). Giống lúa siêu xanh GSR 90 đã được tuyển chọn qua bảy vụ tại Phú Yên với sáu khảo nghiệm cơ bản (12 giống lúa trong ba vụ tại hai điểm); bốn khảo nghiệm sản xuất (5 giống lúa tuyển chọn trong hai vụ tại hai điểm), bốn trình diễn xây dựng mô hình sản xuất thử (trong hai vụ tại hai điểm). Giống lúa GSR90 đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên chủ trì phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửa Long, Trường Đại Học Nông Lâm Huế, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Trăng, Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc lập hồ sơ công nhận giống lúa mới tại Việt Nam.

Đặc điểm giống: Giống lúa siêu xanh GSR90 năng suất cao chất lượng tốt thích hợp vùng thâm canh và vùng mặn, vùng hạn. Giống có thời gian sinh trưởng khoảng 99 – 102 ngày đối với lúa sạ và 101 – 105 ngày khi cấy. Giống có chiều cao cây 103 – 105 cm. Giống có 309 – 351 bông/m2 trọng lượng 1000 hạt khoảng 28 – 29 g. Tỷ lệ gạo lật, tỷ lệ gạo xát và tỷ lệ gạo nguyên đều đạt tốt, chất lượng gạo loại 1. Giống GSR90 đạt mức protein cao trên 7%, có hàm lượng amylose trung bình, có mùi thơm và cơm ngon. Giống có đặc điểm nông sinh học tốt dạng hình lúa siêu xanh, bộ lá xanh lâu bền (điểm 1), thấp cây (điểm 1), cứng cây không đổ ngã (điểm 1), độ thoát cổ bông cao (điểm 1), dạng hạt gạo thon dài. Giống GSR90 ít sâu bệnh hại ngoài đồng ruộng, kháng vừa rầy nâu, có phản ứng nhiễm bệnh đạo ôn hại lúa. Giống lúa GSR90 tại Phú Yên trong khảo nghiệm cơ bản đạt năng suất thực thu bình quân là 8,36 tấn/ha vượt 25,01% so với đối chứng ML48 đạt 6,69 tấn/ha; trong mô hình trình diễn khảo nghiệm sản xuất thử đạt năng suất thực thu bình quân là 8,17 tấn/ ha vượt 14,58% so với đối chứng ML48 đạt 7,13 tấn/ha.

Thông tin tại: 1) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Văn Minh, Đặng Văn Mạnh, Ngô Thị Bích Diễm, Lê Thanh Tùng, Hoàng Kim, Tian Qing Zheng, Zhikang Li. 2018. Nghiên cứu hai giống lúa siêu xanh GSR65, GSR90 năng suất cao, chất lượng tốt và quy trình kỹ thuật thâm canh lúa thích hợp tại cánh đồng Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên (Two Green Super Rice varieties GSR65, GSR90 with high productivity and quality and appropriate technical process of cultivation in the Tuy Hoa fields, Phu Yen province) Trong sách: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tạp chí Khoa học và Công nghệ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, số 10, trang 47- 55; Science and Technology Journal of Agriculture & Rural Development , MARD, No 10, p. 47-55, ISSN0866-7020 ; 2) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Phạm Thị Thỏa, Đàm Thanh Tồn, Hoàng Kim 2018. Tuyển chọn giống lúa siêu xanh năng suất cao chất lượng tốt thích ứng điều kiện biến đổi khí hậu ở tỉnh Phú Yên (Phần 2). Selection of Green Super Rice (GSR) with high yield, good qualities, and adaptation to climate condition in Phu Yen province (Part Two). Trong sách:Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển, JAD Tập 17 Số 4, 15-24 (2018) Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh pISSN 2615-9503 ∗ eISSN 2615949X ; 3) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Phạm Thị Thỏa, Đàm Thanh Tồn, Hoàng Kim 2018. Tuyển chọn giống lúa siêu xanh năng suất cao chất lượng tốt thích ứng điều kiện biến đổi khí hậu ở tỉnh Phú Yên (Phần 1) Selection of Green Super Rice (GSR) with high yield, good qualities, and adaptation to climate condition in Phu Yen province (Part one). Trong sách: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển, JAD Tập 17 Số 4, 15-24 (2018) Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh pISSN 2615-9503 ∗ eISSN 2615949X

LuaSieuXanhVietNam1

Tiến sĩ Hoàng Kim nói thêm: Chúng ta rất cần thấu hiểu vòng tròn nhân quả: ‘hột lúa – cây lúa – hạt gạo – bát cơm’, nắm vững hai khâu then chốt ‘hoa lúa – bùn ngấu’ của chuỗi thức ăn quan trọng nhất đời người, học và hành kỹ từng khâu và khâu nào cũng phải chắc tay. Đường sống là con đường xanh hòa bình, con đường văn minh nhân loại. Việt Nam đưa công nghệ văn minh lúa nước vào môi trường xanh hòa bình góp sức cùng tri tuệ nhân loại lan tỏa con đường lúa gạo Việt Nam (lúa và cây trồng vật nuôi, công nghệ lúa cá thực phẩm khác đi theo cây lúa), khơi dậy sức dân, động lực cách mạng đông đảo của người dân nông thôn. Chừng nào người dân nông thôn chưa thay đổi được số phận của mình thì chừng đó bài toán kinh tế chưa khai mở được tiềm lực nông nghiêp nông dân nông thôn.

Chien luoc chon tao lua sieu xanh Vietnam
LuaSieuXanhVietNam3
LuaSieuXanh VietNam4

Bài và ảnh: Hoàng Kim Hoàng Long

Đến Long Phú, Sóc Trăng bạn sẽ gặp con đường Trường Khánh - Đại Ngãi nối vựa lúa chất lượng ngon và năng suất cao nhất nước.

CON ĐƯỜNG LÚA GẠO VIỆT NAM
Hoàng Kim

Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa. Giáo sư tiến sỹ, anh hùng lao động Nguyễn Văn Luật, nguyên Viện trưởng Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long,  tác giả chính của cụm công trình ‘Nghiên cứu và phát triển lúa gạo’ đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh, đã có hai bài viết quan trọng giới thiệu về “Lịch sử cây lúa Việt Nam” và “Cải tiến giống lúa cho sản xuất lúa gạo tại Việt Nam”. Giáo sư đã đưa ra các bằng chứng và dẫn liệu ‘Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa’ và ‘các tiến bộ của giống lúa Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21’. Hai bộ sách: Nguyễn Văn Luật (chủ biên), xuất bản lần đầu năm 2001, 2002, 2003 Cây lúa Việt Nam thế kỷ 20, ba tập Nhà Xuất Bản Nông nghiệp, Hà Nội, 1.347 trang, và Nguyễn Thị Lang, Bùi Chí Bửu 2011. Khoa học về cây lúa, di truyền và chọn giống. Nhà Xuất bản Nông Nghiệp, 623 trang đã đúc kết về những tiến bộ này.

Con đường lúa gạo Việt Nam” là chùm bài ghi chép lược thuật về các dâng hiến lặng lẽ của các nhà nông học,  nhà giáo và nông dân giỏi nghề nông. Họ gắn bó cuộc đời với nông dân, nông nghiệp, nông thôn, và những sinh viên, học viên nghề nông để làm ra những hạt gạo ngon hơn, tốt hơn cho bát cơm của người dân. Tập tài liệu nhỏ này mục đích nhằm kể lại những mẫu chuyện đời thường nghề nông cho các em sinh viên đọc thêm ngoài giờ học chính.

Thầy Norman Borlaug nhà khoa học xanh, cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong  cuộc chiến chống nghèo đói, đã có dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.

Dạy học không chỉ trao truyền tri thức, kỹ năng nghề nghiệp mà còn trao truyền ngọn lửa. Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI.

Nam Bộ Việt Nam, quê hương của nhà bác học nông dân Lương Định Của, là nơi con đường lúa gạo Việt Nam khởi phát và tỏa rộng, là nơi mở đầu cho chùm bài viết này. Về miền TâySao anh chưa về lại miền Tây. Nơi một góc đời anh ở đó. Cần Thơ Sóc Trăng sông Tiền Sông Hậu. Tên đất tên người chín nhớ mười thương. Anh có về Bảy Núi Cửu Long. Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ. Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ. Anh có về nơi ấy với em không?” (thơ Hoàng Kim). Nhớ lại Kim Notes ghi chú năm 2011 về “Giấc mơ lúa siêu xanh” , “Hồ Quang Cua gạo ST“, những ký ức chưa bao giờ cũ, giấc mơ và hình ảnh lắng đọng của trên mười năm trước, trong chùm bài viết trên; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/lua-sieu-xanh-viet-nam/

TIN HAY KHÔNG NÊN TIN
“Việt Nam là dân tộc nhỏ yếu, nghèo nàn và lạc hậu?”


Trong một cuộc hội thảo quốc tế do Liên minh Châu Âu phối hợp với Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức, một Giáo sư Đan Mạch phát biểu rằng: “Tôi rất hân hạnh được đến tham dự hội thảo tại một nước lớn như Việt Nam”. Chưa dứt câu, khán phòng ồ lên và xôn xao bàn tán. Vị Giáo sư ngơ ngác và hỏi phiên dịch tại sao mọi người lại phản ứng như vậy. Sau khi nghe giải thích đại ý rằng người Việt Nam vẫn luôn nghĩ Việt Nam là một dân tộc nhỏ yếu, nghèo nàn lạc hậu và rằng họ rất muốn được học hỏi từ nền văn minh phương Tây. Vị Giáo sư biến sắc, lấy tài liệu ra và nói…

Trước khi sang Việt Nam tôi đã tìm hiểu về Việt Nam và tôi được biết như sau:

– Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có bề dày lịch sử 4000 năm và đạt được trình độ rất cao từ khi châu Âu vẫn đắm chìm trong thời Trung cổ lạc hậu và mông muội. Người Việt Nam đã giữ được nền độc lập dù liên tiếp bị Trung Quốc xâm lược trong hàng ngàn năm. Việt Nam đã chiến thắng đế chế hùng mạnh nhất thế giới đã chinh phục hầu hết Châu Âu là đế chế Mông Cổ. Thời hiện đại, các vị đã chiến thắng Pháp, Mỹ và Trung Quốc. Vậy các vị muốn thắng ai nữa để không YẾU?

– Dân số Việt Nam đông hơn tất cả các quốc gia châu Âu, vậy các vị còn muốn bao nhiêu dân để không bị coi là NHỎ?

– Kinh tế Việt Nam có quy mô vượt qua Bỉ, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ và gấp 2 lần của chúng tôi (Đan Mạch – vị Giáo sư trích dẫn sức mua tương đương PPP). Vậy các vị muốn thế nào để không bị coi là NGHÈO?

– Tôi cũng biết các vị đã xuất khẩu được rất nhiều sản phẩm lọt vào top 3, top 5, top 10 thế giới. Trong đó rất nhiều sản phẩm công nghệ cao của quý vị mà chúng tôi không làm được, không có để mà xuất khẩu. Vậy quý vị muốn thế nào để không bị coi là LẠC HẬU?

– Riêng lĩnh vực luật pháp, tôi đã nghiên cứu hệ thống luật pháp Việt Nam và rất háo hức học hỏi những kinh nghiệm của quý vị về việc kết hợp giữa các hệ thống pháp luật hàng đầu thế giới gồm: common law, civil law và cả hệ thống pháp luật Xô Viết. Tôi rất ngạc nhiên khi các vị KHÔNG TỰ HÀO vì việc này, vì trên thế giới chưa nước nào làm được như các vị!

Chính những lý do đó, tôi đề nghị chúng ta thảo luận trong 30 phút về việc xác định lại vị thế của Việt Nam trước khi đi vào phần tham luận của tôi. Nếu không làm rõ vấn đề này, tôi buộc phải nghi ngờ vai trò của Việt Nam với tư cách Điều phối viên của ASEAN tại Liên minh Châu Âu.

Sau gần một giờ giải thích, phân trần và “làm công tác tư tưởng” thì không khí hội nghị mới trở lại như trước, và vị Giáo sư Đan Mạch mới lại vui vẻ trình bày tham luận của mình. Các chuyên gia Việt Nam, trong đó có nhiều Giáo sư đầu ngành được một bài học nhớ đời về tính tự ti và thói “tự dìm hàng” dân tộc của mình.

Nhiều người Việt Nam hiện nay dường như có một trào lưu tự ti, tự nhục, tự dìm hàng và làm hèn mọn dân tộc mình. Không biết khi làm vậy họ có đáng được tôn trọng hơn, hiểu biết hơn, giàu có hơn không?!

– Việt Nam được đánh giá là quốc gia an toàn nhất thế giới đã 5 năm liên tiếp, vì được bảo vệ an toàn tuyệt đối trước mọi tác động khủng bố.

– Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình nhanh nhất thế giới và là nền kinh tế lớn thứ 30 toàn cầu.

– Tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực và xếp thứ 2 trong danh sách những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới, chỉ sau Ấn Độ – Quốc gia duy nhất đạt được tốc độ tăng trưởng 7%.

– Xếp thứ 5 danh sách các quốc gia hạnh phúc nhất thế giới.

– Là địa điểm du lịch thu hút nhất thế giới.

– Tự hào có 2 trong 10 nơi đẹp nhất hành tinh là Vịnh Hạ Long và hang Sơn Đoòng.

– Xếp thứ 6 danh sách điểm du lịch có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới và đứng đầu châu Á.

– Xếp thứ 16 toàn cầu về Sức mạnh quân sự.

– Xếp thứ 47 trên bản đồ trí tuệ về Đổi mới sáng tạo toàn cầu 2017.

– Xếp thứ 68 tại Báo cáo Môi trường kinh doanh.

– Xếp thứ 77 về Chỉ số thịnh vượng toàn cầu.

– Xếp thứ 55 về Năng lực cạnh tranh toàn cầu.

– Xếp thứ 12 Chất lượng giáo dục toàn cầu về môn Toán và Khoa học, trên cả các nước như Anh và Mỹ.



Khoai sắn lúa siêu xanh
GIẤC MƠ HẠT NGỌC VIỆT
Hoàng Kim


Gạo Việt Ngọc Phương Nam, nơi nào và bao giờ, hạt ngọc Việt thành “Châu về Hợp Phố?

Nông nghiệp có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Sản xuất lương thực là ngành quan trọng nhất của nông nghiệp Việt Nam. Lúa là cây lương thực hàng đầu chiếm diện tích gieo trồng lớn nhất, kế đến là ngô, sắn và khoai lang. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng diện tích canh tác hàng năm của cây lương thực Việt Nam (lúa, ngô, sắn và khoai lang) khoảng 9,257 triệu ha, so với diện tích cây công nghiệp lâu năm khoảng 1,885 triệu ha, cây công nghiệp hàng năm khoảng 806 nghìn ha và cây ăn quả khoảng 775 nghìn ha .

Vận mệnh và may mắn luôn có trong mỗi quốc gia và chính mỗi người. May mắn thay nông nghiệp Việt Nam năm năm gần đây đã chuyển đổi mạnh mẽ. Đọc lại những trang thông tin cũ mà thấy nhức nhối, đắng lòng cho những ai tâm huyết với gạo Việt và thương hiệu. Báo VietNamNet.vn ngày 8 tháng 10 năm 2016 đưa tin:nước ngoài từ chối, người dân mất tin: Thế mạnh Việt hết thời?  Các công ty xuất khẩu gạo liên tục bị trả hàng về, còn trong nước, dân Việt cũng không tin vào gạo Việt. Thời kỳ đỉnh cao của gạo Việt đã hết, và nếu không đổi mới trong tư duy sản xuất, gạo Việt sẽ mất toàn bộ thị trường cả nội lẫn ngoại. Buôn gạo lỗ ngàn tỷ: Ông lớn Vinafood 2 thành ‘cục nợ’; Nghịch lý: Bán gạo giá rẻ, bỏ tỷ USD mua ngô Dân Việt từ chối, Campuchia xuất khẩu gạo từ giống Việt Nam Gạo Việt rồi chỉ bán được cho người nghèo; … Đọc những trang báo xót đắng sự thật mà bùi ngùi. Không phải bây giờ và chỉ một vài người nói tư duy lối mòn hủy hoại gạo Việt, cần đột phá đổi mới cách sản xuất. Thực trạng nghề lúa Việt không chỉ “tư duy sản xuất vẫn theo lối mòn, sản xuất nhỏ lẻ manh mún, thiếu cánh đồng mẫu lớn dẫn đến chất lượng hạt gạo Việt làm ra không đồng đều, rất khó để làm thương hiệu” mà còn nhiều vấn đề khác để có được gạo Việt chất lượng và thương hiệu (mời đọc thêm bài Trò chuyện với anh Đoàn Nam Sinh).

Tầm nhìn và đầu tư chẳng thể dễ dàng “Nếu quyết tâm làm thì chỉ cần 3-4 vụ là có thể xây dựng được thương hiệu gạo Việt chất lượng cao” vì sự thật không dễ như vậy đâu! (mời xem hình ảnh Hoa Lúa Bùn Hạt Gạo đầu trang, với bài viết và hình ảnh đọc Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh, Dẻo thơm hạt ngọc Việt để thấu hiểu cần biết bao mồ hôi, công sức, nhọc nhằn, trí tuệ, tầm nhìn, tâm huyết, đầu tư, khoa học công nghệ mới có bát cơm ngon như video cuối bài).

Cách mạng sắn Việt Nam (The cassava revolution in Vietnam) https://youtu.be/81aJ5-cGp28 Chọn giống sắn Việt Nam là thành tựu và bài học là kinh nghiệm quý giá cho Chọn giống sắn kháng CMD cấp bách hiện nay. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững đã là điểm sáng toàn cầu được vinh danh tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới được tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 1 năm 2016. Sắn là cây trồng triển vọng của thế kỷ 21.

SanVietnam

Sắn Việt Nam thành tựu và bài học khái quát thành tựu và bài học sắn Việt Nam nửa thế kỷ. Chọn tạo giống sắn tốt; xây dựng quy trình kỹ thuật canh tác sắn thích hợp bền vững; bảo tồn và phát triển sắn đã là các kinh nghiệm quý. Sắn Việt Nam được ca ngợi và vinh danh là điển hình của sắn thế giới khi nhiều hộ nông dân tại nhiều vùng rộng lớn ở Tây Ninh đã tăng năng suất sắn trên 400%, từ 8,35 tấn/ ha lên trên 36,0 tấn/ ha. (FAO,  2013b). Năng suất sắn Việt Nam bình quân cả nước từ năm 2009 đã đạt trên gấp đôi so với năng suất sắn năm 2000 đạt 8,35 tấn/ha. Điển hình tại Tây Ninh, từ năm 2011 năng suất sắn đã đạt bình quân 29,0 tấn/ ha trên diện tích thu hoạch 45,7 nghìn ha với sản lượng là 1,32 triệu tấn, so với năm  2000 năng suất sắn đạt bình quân 12,0 tấn/ ha trên diện tích thu hoạch 8,6 nghìn ha, sản lượng 9,6 nghìn tấn. Sắn lát và tinh bột sắn Việt Nam đã trở thành một trong mười mặt hàng xuất khẩu chính. Sắn Việt Nam đã trở thành nguồn sinh kế, cơ hội xóa đói giảm nghèo và làm giàu của nhiều hộ nông dân cũng hấp dẫn sự đầu tư của nhiều doanh nghiệp chế biến kinh doanh. Sắn Việt Nam bên cạnh cơ hội và thành tựu giống sắn mới và giải pháp kỹ thuật quy trình thâm canh sắn tổng hợp bảo tồn và phát triển sắn bền vững cũng bộc lộ nhiều rủi ro, bất cập, đặc biệt là trong lĩnh vực chế biến, kinh doanh, bảo vệ môi trường và chuỗi cung ứng sản xuất tiêu thụ, nhiều bất cập trong quản lý vĩ mô .Các nhà máy ethanol Việt Nam đầu tư lớn và lỗ; Nhà máy ethanol hoạt động khó khăn. Trong khi sắn Nigeria sản lượng 52,4 triệu tấn năng suất sắn chỉ đạt 14,02 tấn/ha (thấp hơn sắn Việt Nam) nhưng từ năm 2011 đã đạt thành tựu chế biến nhiên liệu sinh học đơn giản và hiệu quả bằng “bếp cồn sắn” cho toàn quốc, dành được lượng lớn xăng dầu cho xuất khẩu. Sắn miền Đông, Tây Nguyên, miền Trung và sắn vùng núi trung du phía Bắc thực sự thân thiết trong đời sống, văn hóa, xã hội của người dân các vùng này; Những tinh hoa khoa học kỹ thuật cây sắn thế giới và Việt Nam đã được đúc kết, chọn lọc và vận dụng phù hợp sáng tạo vào điều kiện thực tiễn cụ thể của từng vùng.  Cách mạng sắn ở Việt Nam có sự tham gia đông đảo của hàng triệu nông dân nghề sắn đã đạt được sự chuyển đổi to lớn về năng suất, sản lượng, giá trị sử dụng, hiệu quả kinh tế, thu nhập đời sống, sinh kế và việc làm cho người dân rộng khắp toàn quốc.

Ngành hàng Sắn Việt Nam chuỗi giá trị ấy trong hoàn cảnh dịch Covid 19 với dịch bệnh sắn CMD virus khảm lá, CWBD chổi rồng ngày nay, thì nơi nào, bao giờ, đột phá mới nào là điểm sáng bảo tồn và phát triển? Chọn giống sắn kháng CMD Sắn Việt Nam bảo tồn phát triển bền vững.tổng kết thực tiễn, đúc kết tinh hoa, sáng tạo, công nghệ và thực tiễn để ứng dụng thành tựu mới hiệu quả thích hợp. Cách mạng sắn Việt Nam; Chọn giống sắn Việt Nam; Chọn giống sắn kháng CMD; Giống sắn KM419 và KM440; Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Sắn Việt bảo tồn phát triển; Sắn Việt Lúa Siêu Xanh; Sắn Việt Nam bài học quý; Sắn Việt Nam sách chọn; Sắn Việt Nam và Howeler; Sắn Việt Nam và Kawano; Sắn Việt và Sắn Thái là những thông tin tham khảo phục vụ Dạy và Học để Làm (Learning by Doing).

NGUYỄN TRÃI KIỆT TÁC THƠ VĂN
Hoàng Kim

Nguyễn Trãi đã có nhiều tôn vinh nhưng như giáo sư Phan Huy Lê nhận xét trong bài “Nguyễn Trãi – 560 năm sau vụ án Lệ chi viên“: ”Cho đến nay, sử học còn mang một món nợ đối với lịch sử, đối với Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ là chưa khám phá và đưa ra ánh sáng những con người cùng với những âm mưu và hành động lợi dụng việc từ trần đột ngột của vua Lê Thái Tông ở Lệ Chi Viên để vu oan giá hoạ dựng nên vụ án kết liễu thảm khốc cuộc đời của một anh hùng vĩ đại, một nữ sĩ tài hoa, liên luỵ đến gia đình ba họ. Với tình trạng tư liệu quá ít ỏi lại bị chính sử che đậy một cách có dụng ý, thì quả thật khó hi vọng tìm ra đủ chứng cứ để phá vụ án bí hiểm này. Nhưng lịch sử cũng rất công bằng. Với thời gian và những công trình nghiên cứu của nhiều thế hệ các nhà sử học, nhà văn học, nhà tư tưởng, nhà văn hoá…, lịch sử càng ngày càng làm sáng rõ và nâng cao nhận thức về con người và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, về những công lao, cống hiến, những giá trị đích thực của ông trong lịch sử cứu nước và dựng nước, lịch sử văn hoá của dân tộc”. Dẫu vậy, trong tất cả những tư liệu lịch sử để lại thì tư liệu sáng giá nhất, rõ rệt nhất, sâu sắc nhất để minh oan cho Người lại chính là Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi, “Họa phúc có nguồn đâu bổng chốc, Anh hùng để hận mãi nghìn năm” “Số khó lọt vành âu bởi mệnh.Văn chưa tàn lụi cũng do trời “. Bài thơ thần “Yên Tử “của Nguyễn Trãi “Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong. Trời mới ban mai đã rạng hồng. Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả. Nói cười lồng lộng giữa không trung…” (thơ Nguyễn Trãi trên Yên Tử, hình ảnh và cẩn dịch Hoàng Kim). Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi lưu bài “Yên Tử” “Ngôn chí,” “Quan hải”, “Oan than” của Người kèm cảm nhận “Trời ban tối biết về đâu?” của Vũ Bình Lục.

Nguyễn Trãi là bậc anh hùng dân tộc, nhà chính trị kiệt xuất và danh nhân văn hóa lỗi lạc của dân tộc Việt, Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, người làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc nay là huyện Thường Tín, Hà Nội, sinh năm 1380 , mất năm 1442,. cha là Nguyễn Phi Khanh, nguyên quán làng Chi Ngại , huyện Phương So8n (Chí Linh, Hải Dương) mẹ là Trần Thị Thái, con gái của Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm 1400, cha con đều từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Ông trở thành mưu sĩ bày tính mưu kế về mọi mặt chính trị, quân sự, ngoại giao của nghĩa quân Lam Sơn. Ông là khai quốc công thần của nhà Hậu Lê, được ban quốc tính, năm 1428 viết Bình Ngô đại cáo thiên cổ hùng văn, năm 1433 ông đã viết văn bia Vĩnh Lăng nổi tiếng khi Lê Lợi mất,.Tuy nhiên, năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông. Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (Lòng Ức Trai sáng như sao Khuê).

Dưới đây là năm bài thơ trong Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi và cảm nhận “Trời ban tối biết về đâu?” của Vũ Bình Lục

YÊN TỬ

Nguyên văn chữ Hán

題 安子山花煙寺

安山山上最高峰,
纔五更初日正紅。
宇宙眼窮滄海外,
笑談人在碧雲中。
擁門玉槊森千畝,
掛石珠流落半空。
仁廟當年遺跡在,
白毫光裏睹重瞳。

Ðề Yên Tử sơn Hoa Yên tự

Yên Sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải thạch châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng.

YÊN TỬ

Đề chùa Hoa Yên, núi Yên Tử
Nguyễn Trãi

Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng

(Bản dịch của Hoàng Kim)

Trên dải Yên Sơn đỉnh tuyệt vời
Đầu canh năm đã sáng trưng rồi
Mắt ngoài biển cả ôm trời đất
Người giữa mây xanh vẳng nói cười
Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh
D4i châu treo đá rũ lưng trời
Nhân Tông còn miếu thời nao đó
Thấy rõ đôi ngươi giữa ánh ngời (1)

(1) Tương truyền vua Trần Nhân Tông mắt có hai con ngươi
(Bản dịch của Khương Hữu Dụng)

Trên núi Yên Tử chòm cao nhất
Vừa mới canh năm đã sáng trời
Tầm mắt bao trùm nơi biển tận
Từng mây nghe thoảng tiếng ai cười
Rừng vươn giáo dựng tre nghìn mẫu
Đá rũ rèm buông nhũ nửa vời
Miếu cổ Nhân Tông hằng để dấu
Mắt còn trắng tỏa ánh đôi ngươi.

(Bản dịch của Lê Cao Phan)

Trên non Yên Tử chòm cao nhất,
Trời mới canh năm đã sáng tinh.
Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả,
Nói cười người ở giữa mây xanh.
Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa,
Bao dãi tua châu đá rủ mành.
Dấu cũ Nhân tôn còn vẫn đấy,
Trùng đồng thấy giữa áng quang minh.

(Bản dịch của nhóm Đào Duy Anh)
Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh,
NXB Khoa học xã hội, 1976

Trên non Yên Tử ngọn cao nhất
Chỉ mới canh năm sáng đỏ trời!
Ngoài vũ trụ xanh màu biển thẳm
Giữa mây biếc rộn tiếng người cười.
Cửa cài ngọc dựng, ken nghìn mẫu
Đá rũ châu rơi, rớt nửa vời!
Miếu cổ Nhân Tông di tích đó
Đôi mày sáng trắng rực hai ngươi!

(Bản dịch của Lâm Trung Phú)

NGÔN CHÍ

Am trúc, hiên mai ngày tháng qua
Thị phi nào đến chốn yên hà
Cơm ăn dù có dưa muối
Áo mặc nài chi gấm là
Nước dưỡng cho thanh, trì thưởng nguyệt
Đất cày ngõ ải luống ương hoa
Trong khi hứng động bề đêm tuyết
Ngâm được câu thần dững dưng ca

Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
Thế giới đông nên ngọc một bầu
Tuyết sóc treo cây điểm phấn
Cõi đông giãi nguyệt in câu.
Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
Nhạn triện hư không gió thâu
Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
Trời ban tối biết về đâu?

QUAN HẢI

Nguyên văn chữ Hán

樁木重重海浪前
沉江鐵鎖亦徒然
覆舟始信民猶水
恃險難憑命在天
禍福有媒非一日
英雄遺恨幾千年
乾坤今古無窮意
卻在滄浪遠樹烟

Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền
Trầm giang thiết tỏa diệt đồ nhiên
Phúc chu thủy tín dân do thủy
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
Họa phúc hữu môi phi nhất nhật
Anh hùng [3] di hận kỷ thiên niên.
Càn khôn kim cổ vô cùng ý,
Khước tại thương lang viễn thụ yên.

Dịch nghĩa : NGẮM BIỂN

Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển
Xích sắt ngầm dưới sông cũng vậy thôi.
Thuyền bị lật mới tin rằng dân là như nước
Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời.
Họa phúc có manh mối không phải một ngày
Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau.
Lẽ của trời đất và xưa nay, thực là vô cùng
Vẫn là ở chỗ sắc nước bát ngát, cây khói xa vời

CỬA BIỂN

Lớp lớp cọc ngăn giữa sóng nhồi
Thêm ngầm dây sắt – uổng công thôi !
Lật thuyền, thấm thía dân như nước
Cậy hiểm, mong manh : mệnh ở trời
Hoạ phúc có nguồn, đâu bỗng chốc?
Anh hùng để hận, dễ gì nguôi?
Xưa nay trời đất vô cùng ý
Nơi sóng xanh cây khói tuyệt vời

(Bản dịch của HƯỞNG TRIỀU)

OAN THÁN

Nguyên văn chữ Hán

浮俗升沉五十年
故山泉石負情緣
虛名實禍殊堪笑
眾謗孤忠絕可憐
數有難逃知有命
大如未喪也關天
獄中牘背空遭辱
金闕何由達寸箋

Phù tục thăng trầm ngũ thập niên ;
Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên.
Hư danh thực họa thù kham tiếu ;
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.
Số hữu nan đào tri thị mệnh ;
Văn như vị táng dã quan thiên.
Ngục trung độc bối [1] không tao nhục ;
Kim khuyết hà do đạt thốn tiên ?

Dịch nghĩa THAN NỔI OAN

Nổi chìm trong phù tục đã năm chục năm,
Đành phụ tình duyên với khe và đá của núi cũ.
Danh hư mà họa thực, rất đáng buồn cười ;
Lắm kẻ ghét một mình trung, rất đáng thương hại.
Khó trốn được số mình, biết là vì mệnh ;
Tư văn như chưa bỏ, cũng bởi ở trời.
Trong ngục viết ở lưng tờ, khi không bị nhục ;
Cửa khuyết vàng làm thế nào mà đạt được tờ giấy lên ?

Dịch Thơ: THAN NỔI OAN:

Biển tục thăng trầm nữa cuộc đời
Non xưa suối đá phụ duyên rồi
Trung côi , ghét lắm, bao đau xót
Họa thực, danh hư , khéo tức cười
Số khó lọt vành âu bởi mệnh
Văn chưa tàn lụi cũng do trời
Trong lao độc bối cam mang nhục
Cửa khuyết làm sao tỏ khúc nhôi?

Bản dịch của Thạch Cam

Năm mươi năm thế tục bình bồng
Khe núi lòng cam bội ước chung
Cười nạn hư danh, trò thực họa
Thương phường báng bổ kẻ cô trung
Mạng đà định số, làm sao thoát
Trời chửa mất văn, vẫn được dùng
Lao ngục đau nhìn lưng mảnh giấy
Oan tình khó đạt tới hoàng cung.

Bản dịch của Lê Cao Phan

TRỜI BAN TỐI, BIẾT VỀ ĐÂU?

Vũ Bình Lục

(Về bài thơ NGÔN CHÍ – SỐ13 của Nguyễn Trãi)

Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
Thế giới đông nên ngọc một bầu
Tuyết sóc treo cây điểm phấn
Cõi đông giãi nguyệt in câu.
Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
Nhạn triện hư không gió thâu
Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
Trời ban tối biết về đâu?

Nguyễn Trãi sống cách chúng ta khoảng sáu trăm năm. Riêng nói về thơ Nôm, dẫu thất lạc sau thảm hoạ tru di năm 1442, cũng còn được hơn 250 bài. Có thể nói, Nguyễn Trãi đã dựng lên một tượng đài sừng sững bằng thơ, mà trước hết là thơ viết bằng ngôn ngữ dân tộc-Thơ Nôm. Chùm thơ “Ngôn chí” có rất nhiều bài hay, đọc kỹ, nghiền ngẫm kỹ mới thấy cái hay, bởi chữ Nôm cách nay sáu trăm năm, rất nhiều từ nay không còn dùng nữa, hoặc rất ít dùng. Phải tra cứu một số từ, một số điển tích, mới dần sáng tỏ một hồn thơ lớn, lớn nhất, trong lịch sử thơ ca Việt Nam!

Đây là bài Ngôn chí số 13, do những người biên soạn sách Tuyển tập thơ văn Nguyễn Trãi sắp xếp.

Hai câu đầu: Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
Thế giới đông nên ngọc một bầu

Hai câu thơ đơn thuần chỉ là tả cảnh, đặc tả một buổi chiều, mà gam màu chủ đạo là màu vàng thẫm rất quen mà huyễn hoặc. Bóng chiều tà đã ngả, đang quấn lấy một ngôi lầu ở bên sông, hay đang trùm lên ngôi lầu bên sông một màu vàng thẫm. Nhưng có điều cần lưu ý, đây là ngôi lầu giành cho đàn bà con gái thuộc tầng lớp quý tộc giàu sang, trong một không gian rộng lớn và yên tĩnh, rất yên tĩnh. Câu tiếp theo mới thật diễm lệ: Thế giới đông nên ngọc một bầu. Vậy thế giới đông là gì? Theo điển dẫn, đông chính là khí tốt, khí thiêng của thế giới, của vũ trụ đông đặc lại mà thành phong cảnh đẹp như ngọc. Thế đấy! Còn như Bầu, cũng theo điển sách Đạo gia, kể rằng Trương Thân thường treo một quả bầu rất lớn, hoá làm trời đất, ở trong cũng có mặt trời mặt trăng, đêm chui vào đó mà ngủ, gọi là trời bầu, hay bầu trời cũng vậy…Quả là một bức tranh được vẽ bằng ngôn ngữ, rất xưa, tinh khiết và tráng lệ, dường như đã đạt đến mức cổ điển!

Đấy là hai câu thất ngôn. Hai câu tiếp theo, lại là lục ngôn, vẫn tiếp tục tả cảnh:
Tuyết sóc treo cây điểm phấn
Cõi đông giải nguyệt in câu.

Tuyết sóc, nghĩa là tuyết ở phương bắc (sóc) chả biết gieo xuống từ bao giờ, mà còn giăng mắc trên những cành cây như những bông hoa trắng muốt, như điểm phấn cho cây, trang trí làm đẹp cho cây. Có người bảo nước ta làm gì có tuyết, chỉ là ước lệ cho đẹp văn chương mà thôi. Nhưng họ nhầm đấy! Các tỉnh phía Bắc nước ta như Lào Cai, Hà Giang và chắc là còn một số nơi khác nữa ngày nay vẫn có tuyết, nhiều nữa kia. Vậy thì sao thơ văn ngày xưa các cụ ta nói đến tuyết, con cháu lại hàm hồ bác bỏ? Cách đây mấy trăm năm, sao lại không thể không có tuyết mà các cụ phải đi mượn của người? Phía bắc là tuyết, là hoa tuyết điểm phấn cho cây, thì Cõi đông giải nguyệt in câu. Phương đông in một giải lụa trăng vàng óng. Thế là cả một không gian rực rỡ sắc màu. Màu trắng của tuyết hoa tương ánh cùng màu vàng của ánh nguyệt in bóng nước, của chiều tà vàng thẫm, tạo một bức tranh vừa rộng vừa sâu, gợi một khoảnh khắc giao thoa hỗn mang rất nhiều tâm trạng.

Hai câu tiếp theo, vẫn cấu trúc bằng lục ngôn:
Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
Nhạn triện hư không gió thâu

Bây giờ là sương khói trong chiều muộn. Cúi xuống nhìn dòng nước, thấy khói chiều in xuống mặt nước trong veo phẳng lặng. Quyên, từ cổ là mặt nước trong, do đó quyên phẳng nghĩa là mặt nước trong phẳng lặng, như thể nhìn rõ khói chiều đang chìm dưới đáy nước. Rõ là nước lộn trời, vàng gieo đáy nước, “Long lanh đáy nước in trời / Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”. Có lẽ Nguyễn Du mấy trăm năm sau đã tiếp thu tinh thần của câu thơ Nguyễn Trãi mà sáng tạo lại trong Truyện Kiều câu thơ trên, khi mà tiếng Việt đã đạt đến độ nhuần nhuyễn và trang nhã chăng? Còn trên trời thì đàn chim nhạn đang xếp hình chữ triện mà mỏi mệt bay về rừng tìm chốn ngủ. Và gió nhẹ, thổi rỗng cả trời…

Cảnh chỉ là điểm xuyết, mà gợi nên bức tranh đủ sắc màu, rất sống động, và tiếp đó, nó như thể đang chuyển động dần về phía đêm tối, về phía lụi tàn.

Hai câu cuối, tác giả viết:
Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
Trời ban tối ước về đâu?

Con thuyền nhỏ nhoi (Thuyền mọn) của Tiên sinh, hay con thuyền của một vị khách nào đó, vẫn còn đang mải miết chèo trên sông, như chẳng muốn dừng lại. Trong nhập nhoạng bóng tà, con thuyền mọn như càng nhỏ bé hơn, chưa muốn, hay chưa tìm được nơi đỗ lại mà nghỉ ngơi, hay bởi vì Trời ban tối, ước về đâu, biết về đâu? Câu bảy thất ngôn, dàn trải thêm, biểu hiện sự buông thả, lửng lơ, phân vân… Câu tám bỗng đột ngột thu lại lục ngôn, như một sự dồn nén tâm sự.

Có bao nhiêu phần trăm sự thực trong bức tranh chiều tà bên sông lộng lẫy mà buồn? Có lẽ cũng chẳng nên đặt vấn đề cân đong cụ thể, bởi thơ nhìn chung là sản phẩm sáng tạo của trí tưởng tượng, thực và ảo hoà trộn đan xen. Hai câu kết của bài thơ xem ra mới thật sự là tâm điểm của bài thơ. Phải chăng, con thuyền mọn kia, chính là hình ảnh Ức Trai Tiên sinh, như con thuyền nhỏ bé ấy, đang một mình đi tìm bến đỗ, mà chưa tìm thấy nơi đâu là bến là bờ? Từ cái ngôn chí này, có thể ước đoán Ức Trai viết bài thơ này vào thời điểm quân Minh đang đô hộ nước ta, Ức Trai đang bị giam lỏng ở thành Đông Quan, chưa tìm được minh chủ mà đem tài giúp nước? Cũng có thể đây là thời điểm Nguyễn Trãi bị thất sủng, về ở ẩn tại Côn Sơn, trong hoàn cảnh chính sự trong nước đang rất đen tối, nhất là ở nơi triều chính. Nguyễn Trãi từ tin tưởng, đến nghi ngờ và thất vọng trước thực tại đau lòng: Biết bao trung thần bị hãm hại, còn lũ gian thần hiểm ác nổi lên như ong, nhũng lọan cả triều đình. Làm sao mà không bi quan cho được khi mà Trời ban tối, biết về đâu?

*

Lên non thiêng Yên Tử, tôi thành tâm đi bộ từ chùa Hoa Yên lúc nửa đêm để lên thấu đỉnh chùa Đồng lúc ban mai.Nguyễn Trãi bài thơ thần trên trang sách mở, lồng lộng giữa nền trời bình minh trên đỉnh cao phong Yên Tử. Tôi chợt tỉnh thức, thấm thía, thấu hiểu sự nhọc nhằn của đức Nhân Tông hội tụ minh triết Việt. Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn.”xưa nay trời đất vô cùng ý. Nơi sóng xanh cây khói tuyệt vời”.

NGUYỄN TRÃI DỤC THÚY SƠN
Hoàng Kim

Qua Non Nước Ninh Bình
Nhớ thơ hay Nguyễn Trãi
Người hiền in bóng núi
Hoàng Long sông giữa lòng:

“Cửa biển có non tiên
Năm xưa thường lại qua
Hoa sen nổi trên nước
Cảnh tiên rơi cõi trần


Bóng tháp xanh trâm ngọc
Tóc mây biếc nước lồng
Nhớ hoài Trương Thiếu Bảo
Bia cổ hoa rêu phong”


Dục Thuý sơn
Nguyễn Trãi

Hải khẩu hữu tiên san,
Niên tiền lũ vãng hoàn.
Liên hoa phù thuỷ thượng,
Tiên cảnh truỵ nhân gian.


Tháp ảnh, trâm thanh ngọc,
Ba quang kính thuý hoàn.
Hữu hoài Trương Thiếu Bảo (*),
Bi khắc tiển hoa ban.

(*) Trương Hán Siêu “Phú sông Bạch Đằng” đã thuật lại cuộc chiến sông Bạch Đằng nơi voi chiến sa lầy rơi nước mắt và lời thề trên sông Hóa 1288 của Hưng Đạo Vương. Lời thơ hào hùng bi tráng: “Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới/ Hùng dũng sáu quân, giáo gươm sáng chói/ Trận đánh được thua chửa phân/ Chiến lũy bắc nam đối chọi/ Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối/ Những tưởng gieo roi một lần/ Quét sạch Nam bang bốn cõi/ Trời cũng chiều người/ Hung đồ hết lối!”

Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải viết: ‘Thái bình tu nổ lực/ Vạn cổ thử giang san”.

(**) Dục Thuý sơn 浴翠山 • Núi Dục Thuý nguyên văn chữ Hán (Nguồn: Thi Viện) Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Nguyễn Trãi » Ức Trai thi tập » Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều

浴翠山

海口有仙山,
年前屢往還。
蓮花浮水上,
仙景墜塵間。
塔影針青玉,
波光鏡翠鬟。
有懷張少保,
碑刻蘚花斑。


(***) Lương Hữu Khánh danh nhân Việt làm bài thơ (Nho Tăng đồng chu) “Cùng qua một chuyến đò”, nghe nói tại bến đò nơi này http://thovanhoangkim.blogspot.com/2014/10/luong-huu-khanh-danh-nhan-viet.html .

CÙNG QUA MỘT CHUYẾN ĐÒ
Lương Hữu Khánh


Một hòm kinh sử, níp kim cương.
Người, tớ cùng qua một chuyến dương.
Đám hội đàn chay người đủng đỉnh.
Sân Trình cửa Khổng tớ nghênh ngang.
Sao người chẳng nhớ lời Hàn Dũ.
Đây tớ còn căm chuyện Thủy Hoàng.
Một chốc lên bờ đà tiễn biệt.
Người thì lên Phật, tớ nên sang.

Đây là bài thơ “Nho Tăng đồng chu” rất nổi tiếng của Lương Hữu Khánh, hiện đã có nhiều bản dịch về bài thơ này nhưng dịch lý và ý tứ bản gốc thật sâu sắc, cần đọc lại và suy ngẫm (Linh Giang, ảnh HK chỉ dùng để minh họa). Lương Hữu Khánh Thượng thư Bộ Lễ thời Lê Trung hưng, con của Tả Thị lang Bộ Lại Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, nhà dịch lý thông tuệ thầy học của Nguyễn Bỉnh Khiêm , người làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Lương Hữu Khánh là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm, được vợ chồng thầy học biệt đãi như con đẻ cho ở trong nhà. Ông đã yêu con gái lớn của Trạng Trình. Do cha của ông có những uẩn khúc với triều đình và đã qua đời, mẹ là thiếp làm nghề buôn bán sinh ông ở Thăng Long, đường khoa cử và lập gia đình của ông trắc trở. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tùy duyên mà gả con gái cho Phó Vệ uý Hầu tước Phạm Dao. Lương Hữu Khánh đã buồn rầu bỏ thi Đình của nhà Mạc để về Thanh Hóa khởi nghiệp trung hưng nhà Lê. Lương Hữu Khánh tính tình cương trực, thanh liêm, giản dị, an nhiên, nếp sống thanh cao, hào sảng, nối được chí hướng của cha, luôn gìn giữ truyền thống gia phong, tôn trọng đạo đức. Lương Hữu Khánh là nhân vật trọng yếu của triều đình nhà Lê. Ông đã cùng với chúa Trịnh Tùng, vị tiết chế tài năng, có tầm nhìn xa rộng và Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, nhà quân sư tài danh và ngoại giao lỗi lạc, đã nối được chí hướng của thầy học Nguyễn Bỉnh Khiêm, lấy yêu dân và vận nước làm trọng, để nỗ lực tôn phù vua sáng, thay đổi được cục diện chiến tranh Lê-Mạc kéo dài. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-trai-duc-thuy-son/

ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
Hoàng Kim

Đến với Tây Nguyên mới
Thăm lại chiến trường xưa
Đất khoai sắn nuôi người
Sử thi vùng huyền thoại.

Vầng đá chốn đại ngàn
Rượu cần nơi bản vắng
Câu cá bên dòng Sêrêpôk
Tắm tiên Chư Jang Sin

Thương Kim Thiết Vũ Môn
Nhớ người hiền một thuở
Hồ Lắk Đình Lạc Giao
Biển Hồ Chùa Bửu Minh

Nước rừng và sự sống
Chuyện đời không thể quên
Cây Lương thực bạn hiền
Lớp học vui ngày mới

Ai ẩn nơi phố núi
Ai tỏ Ngọc Quan Âm
Ai hiện chốn non xanh
Mây trắng trời thăm thẳm
Nước biếc đất an lành

Soi bóng mình đáy nước
Sáng bình minh giữa đời
Thung dung làm việc thiện
Vui bước tới thảnh thơi

Đến với Tây Nguyên mới
Bao chuyện đời không quên
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi-2/

LÝ BẠCH THƠ TRĂNG SÁNG
Hoàng Kim

Thi Tiên Lý Bạch “Tĩnh dạ tứ” thật tuyệt vời !

TĨNH DẠ TỨ 靜夜思
Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh

Lý Bạch
Đầu giường ánh trăng rọi,
Mặt đất như phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.”

(Bản dịch của Nam Trân)

*

Ngắm vầng trăng cổ tích
Ngắm dấu chân thời gian
Lý Bạch thơ trăng sáng
Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn,

Trần Tử Ngang thơ Người
Trần Khánh Dư “Bán than”
Phạm Ngũ Lão Thuật Hoài,
Mạnh Hạo Nhiên xuân hiểu

Đặng Dung thơ Cảm hoài
Đỗ Phủ thơ mưa lành
Ca dao Việt “Cày đồng”
Mãn Giác thơ “Hoa Mai”

Tứ quý hoa bốn mùa
Tự do ngời tâm đức
Chỉ tình yêu ở lại
Văn chương ngọc cho đời

xem tiếp 16 đường dẫn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ly-bach-tho-trang-sang/

Nguyên tác Tĩnh dạ tứ Lý Bạch, dịch nghĩa và một số bản dịch chọn lọc

ĐỖ PHỦ THƠ MƯA LÀNH
Hoàng Kim

Thi Thánh Đỗ Phủ hay nhất là thơ mưa lành, sánh với thi Tiên Lý Bạch thơ trăng tuyệt vời !

Xuân dạ hỉ vũ 春夜喜雨 •
Đêm xuân mừng mưa
Đỗ Phủ

Trời tốt, mưa lành tới
Đang xuân chợt nhẹ rơi
Vào đêm theo với gió
Êm tiếng mát cho đời
Đường nội làn mây ám
Thuyền sông ánh lửa ngời
Sớm trông miền đỏ thắm
Hoa nở Cẩm Thành tươi

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu
Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997″

ĐỖ PHỦ THƯƠNG ĐỌC LẠI
Hoàng Kim

Văn chương lưu muôn đời
Bậc thầy gương vạn thuở
Thi thánh và thi sử
Đỗ Phủ Đặng Dung ơi

Dụng kiếm dưới trăng soi
Hùng tâm thiên cổ lụy
Bậc danh sĩ tinh hoa
Bút thần hơn kiếm ý

‘Lều tranh nát gió thu’
‘Bát trận đồ’ ‘Xuân vọng’
Đỗ Phủ thương đọc lại
Sao Mai soi tỏ lòng.

xem tiếp Đỗ Phủ thương đọc lại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/do-phu-thuong-doc-lai/ và Đỗ Phủ thơ mưa lành https://hoangkimlong.wordpress.com/category/do-phu-tho-mua-lanh/

BÀI THƠ VIÊN ĐÁ THỜI GIAN
Hoàng Kim


Tôi chép hình ảnh vợ chồng anh Li Li Nghệ cùng với một số người bạn để nhận diện và lưu lại ký ức không nỡ quên. Những bậc cao nhân lưu lạc trong dân gian, may cho ai có duyên gặp gỡ và biết lắng đọng cho chính mình ngọc cho đời. Nhìn mái tóc trắng xóa của cu già đứng bìa tấm ảnh, tôi không hiểu sao lại chợt liên tưởng đến cụ già Cao Hạ thuở nhỏ và bài thơ ông Quán Lục Vân Tiên, trong sách thơ Nguyễn Đình Chiểu (*). “Thương ông Gia Cát tài lành,/ Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha./Thương thầy Đồng tử cao xa, /Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi./ Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,/ Lỡ bề giúp nước lại lui về cày./ Thương ông Hàn Dũ chẳng may,/Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa. /Thương thầy Liêm Lạc đã ra,/ Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân. /Xem qua kinh sử mấy lần,/ Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.”

Tôi thật thích lời bình của thầy Đặng Chương Ngạn đã viết thật chí lý: Thưa anh Đoàn Lê Giang, thưa anh Lê Nghị Li Li Nghệ.Tôi nghĩ trên cao xanh kia, cụ Nguyễn Du sẽ mỉm cười mãn nguyện, nếu biết sau 200 năm sau ngày cụ mất, ở hạ giới, có một cuộc thách đấu liên quan đến “ lời quê chắp nhặt” của cụ.Hai anh dù ai thắng thua, thì tất cả bạn yêu Kiều theo dõi cuộc thách đấu trong 2 ngày qua đều không thể không thán phục về kiến thức uyên thâm của hai đối thủ.Có thể có những người cao thủ ẩn danh nên chúng ta không được biết, nhưng qua tranh luận, có thể khẳng định :- Không ai sưu tầm được nhiều tài liệu về Kiều như Ts DLG và NNC Lê Nghị- Không ai tìm hiểu Kiều thấu đáo như hai vị…tại thời điểm này.

Hai ngày qua, những người theo dõi cuộc thách đấu đã đi từ ngạc nhiên này, đến ngạc nhiên khác …Những người yêu Kiều có một cơ hội hiếm để sưu tầm thêm tài liệu, để học hỏi thêm kiến thức, và tôi tin rất nhiều người yêu Kiều đã phải lục tìm trong thư viện những cuốn sách cũ đã bị bỏ quên để kiểm tra lại những gì mình đã học, đã đọc về Kiều Cuộc tranh luận của hai anh không phí thời gian, rất có ích cho Kiều và cho tất cả mọi người. Thắng hay thua, các anh cũng đã làm mới lại, làm sáng tỏ …rất nhiều vấn đề mà người yêu Kiều từng nghĩ tới nhưng không có cơ hội để thực hiện !

Cuộc tranh luận của các anh đã làm sáng tỏ về từ “ Lôi Châu” – một trong những vấn đề tranh cãi khởi phát sự thách đấu.Đến bây giờ, cuộc tranh luận vẫn chưa minh định được rõ ràng việc vịnh Kiều của Chu Mạnh Trinh, nhưng anh Đoàn Lê Giang đã mang ra một bằng chứng thuyết phục ở status mới nhất :Tạp chí Tri Tân trong số chuyên đề kỷ niệm Nguyễn Du (63, 9/1942)…Và ở tut này, anh DLG cũng đã tuyên bố ngưng việc tranh luận và tôi chưa thấy anh LN lên tiếng tiếp.

Các anh còn tranh luận hay không…là việc riêng của mỗi người, nhưng tôi thấy các anh đều xứng đáng để tôn trọng lẫn nhau và để cùng nói chuyện tiếp về Kiều trong tương lai…Tôi viết com cuối cùng này do hai anh đã tag vào chúng tôi chứng kiến. Tôi mong hai anh TS Kim Hoàng, TS. Nguyễn Hưu Sơn sẽ có ý kiên riêng cho cuộc tranh luận này…” (Tuyệt vời ! tôi đồng tình kết luận).

Tôi (HK) đồng tình với quan điểm hệ thống kiến thức mở, đi đến cùng sự thật, của giáo sư Phạm Trọng Chánh (mặc dù không phải ý nào của giáo sư cũng đúng): ” Nghiên cứu không phải là chuyện độc quyền của riêng ai, không phải chuyện người sau đánh đổ người trước để được nổi danh hơn mà người đi sau nối tiếp người trước , làm giải quyết những nghi vấn còn tồn đọng, làm cho việc nghiên cứu ngày càng phát triển, sáng tỏ”. Một lần nữa cảm ơn quý Thầy về cuộc tranh luận bổ ích này để người đọc rõ hơn ai là ai, Nguyễn Du và Truyện Kiều

Mấy năm trước, tôi được anh Phan Chí Thắng lặn lội từ Hà Nội tìm đến thăm ở góc khuất Trảng Bom Đồng Nai, sau đó hai anh em đi xe đò tìm về thăm những người bạn ở góc khuất Đức Linh.. Tôi thật thích những câu thơ của anh: Ta tìm gặp bạn đường xa/ Tưởng là thăm bạn hoá ra thăm mình. Đêm dài xoè một bình minh …’. Tôi đã nối vần và chép lại.

BÀI THƠ VIÊN ĐÁ THỜI GIAN
Phan Chí Thắng Hoàng Kim

Hình như gặp lại mới hương
Ngựa già máng cỏ nhớ đường cỏ hoa
‘Ta tìm gặp bạn đường xa
Tưởng là thăm bạn hoá ra thăm mình
Đêm dài xoè một bình minh…’
Hoa Người Hoa Đất ân tình sớm đông.

(*) Đọc thêm: Những câu chuyện cũ

ĐÁ ĐỨNG CHỐN SÔNG THIÊNG
Hoàng
Kim

Đá Đứng chốn sông thiêng tại Làng Minh Lệ quê tôi ở Nam Sông Gianh cùng với Thiên Thụ Sơn ở Huế và Núi Đá Bia Phú Yên và Văn Miếu Trấn Biên Đồng Nai với Thiên Cấm Sơn An Giang là năm dấu ấn Nam Tiến của người Việt để thống nhất giang sơn về một mối. Đá Đứng chốn sông thiêng có câu chuyện ông già mù Cao Hạ đã khuyên tôi đổi tên từ Hoàng Minh Kim sang Hoàng Kim. Ông đến nhà tôi để đền ơn cha mẹ tôi đã cứu vớt con ông. Sau này cha mẹ tôi mất sớm “không được hưởng lộc con” (mà chỉ theo con che chở cho con lập nghiệp phương xa) và gia đình tôi đang êm ấm trở nên lưu tán không nhà, đúng như “Hoành Linh vô gia huynh đệ tán”. Tôi đã lần lượt chép lại, để tiện theo dõi mời lần lượt đọc năm mục từ: 1) Làng Minh Lệ quê tôi; 2) Linh Giang Đình Minh Lệ; 3) Đứng chốn sông  thiêng; Đợi nắng; Ta về với Linh Giang; Hoa Đất, Đất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha; 4) Đất Mẹ vùng di sản; 5) Đá Đứng chốn sông thiêng; (tiếp theo kỳ trước).

Bạn Hoàng Minh Thuần ở TU Bình Thuận trao đổi tổng quát: Dạ anh. Em cũng nghĩ khai thác được tour du lịch sông nước kết hơp thắng cảnh từ Cầu sông Gianh lên Ba Đồn, Chợ Mới, bến Lội đền Bốn Miếu, bến chợ Troóc, Phong Nha – Kẽ Bàng, động Thiên Đường, động Sơn Đoòng chẳng khác gì thắng cảnh TRÀNG AN… là điều kiện thuận lợi để quê mình phát triển.

(Tôi xin kể tiếp)
– Không phải ngẫu nhiên mà Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam đâu. Có lý cả đấy ! Vì Kinh đô Huế nằm ở Bắc Hải Vân mà thế và lực với sự thông thuộc của Nhà Nguyễn chính là đất phương Nam trong khi Hoành Sơn Linh Giang Lũy Thầy lại là tuyến ba tầng thủ hiểm che chắn Kinh đô Huế ở mặt Bắc nên Pháp không chọn đánh Thanh Khê đó thôi – Nhưng Linh Giang chính là hiểm địa, bẻ đôi Việt Nam. Ông già mù nói

. Cụ nói đúng, Bố tôi lập tức nhỏm dậy. Vì tôi đã bị bắt đi đi lính Pháp để đưa sang đánh nhau bên Tây, đóng quân ở Đà Nẵng bên sông Hàn, sau đó tôi trốn theo Vệ Quốc Đoàn nên rất thông thuộc địa hình đó. Pháp nếu đứng chân được ở Đà Nẵng thì chẹn được mặt Nam, cô lập kinh thành Huế, mẹo ‘đánh rắn giập đầu’ rất mau thắng được dân Nam..

– Trận Đà Nẵng năm 1857 tụi Pháp thua. Cha tôi nói. – Vì tướng Nguyễn Tri Phương giỏi cầm quân, Ông ấy tránh đánh trực diện mà dùng phục binh, lập kế ‘đóng cửa đánh chó’ làm “vườn không, nhà trống” triệt hết đường tiếp tế của địch, cách ly và xử nghiêm tụi gián điệp đội lốt giáo sĩ, giáo dân. Ông lại cho đắp lũy kiểu như Lũy Thầy, bao vây chẹn họng địch ra biển, vây đánh trường kỳ không cần thắng nhanh, nên trận Đà Nẵng bên mình thắng Pháp phải chuyển vào đánh thành Gia Định, chiếm dần đất đai của mình từ phương Nam theo kiểu tằm ăn lá dâu.

– Ông giỏi sử thiệt. Cụ già khen.

– Tôi ít học nhưng rất thích đọc sách Tam Quốc. Cha tôi nói : – Tôi thông gia với ông mẹt Rịnh thường kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc cho tôi và ông Rịnh nghe. Hôm nào ông Rịnh hoặc ông Thìn đến chơi, tôi không khi nào không kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc và sách Kiều, đến mức nó thuộc và kể được đấy. Mẹ nó thì mê nhất Lục Vân Tiên kế đến Kiều và Phạm Công Cúc Hoa.

– Cháu đọc cho ông nghe một đoạn nào? Cụ già nói.

Tôi ngước mắt nhìn Mẹ, Mẹ tôi cười khuyến khích: – Con đọc đi

Tôi đọc đoạn ông quán trong thơ Lục Vân Tiên mà mẹ thích:

– Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
Thương thầy Đồng tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.

Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.

Thương thầy Liêm Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.

– Địch đánh vô Thanh Khê cửa Hác không dễ. Bố tôi miên man kể. Ông nhớ thời lính tráng của ông: – Tôi dự nhiều trân đánh Pháp cùng thời và cùng đơn vị với Lâm Úy. Tôi ở đại đội 2 tiểu đoàn 274 của ông Lê Văn Tri làm tiểu đoàn trưởng thuộc Trung đoàn 18. Tôi vô sinh ra tử nhiều trận cùng anh em. Chỉ tiếc là đến năm 1951 bị đau bệnh sốt rét phù thủng ngã nước quá yếu trong khi đơn vị thiếu thốn thuốc men chữa trị và điều kiện chăm sóc nên trên mới phải cho giải ngũ về quê. Nếu không thì tôi đến nay đã nhất xanh cỏ nhì đỏ ngực rồi.

– Ông Lê Văn Tri là người Cao Hạ cùng làng với tôi. Sau này ông làm tướng rất to Cụ gìa nói

– Trân Phú Trịch Là Hà, địa thế và cách dàn quân hai bên cũng lựa thế hiểm yếu như là trận Bạch Đằng. Voi trận của Đức Thánh Trần sa lầy ở Sông Hóa. Các trận địa phục kích cũng là các cồn tại các ngả ba sông hiểm yếu như Chợ Mới, La Hà Phú Trịch vậy. Lời thề trên sông Hóa “Chuyến đi này không thắng, ta thề không về lại nơi này!” của đức Thánh Trần cũng như lời thề quyết tử chiến của đội cảm tử 15 trận Phú Trịch La Hà đã chết như voi trận của đức Thánh Tràn chết vậy. Cha tôi nói

– Đá Đứng chốn sông thiêng Cầu Minh Lệ Rào Nan Bến Lội Đền Bốn Miếu là nơi rất rất hiểm. Ông già lại xuống giọng thầm thì. Ngã ba sông Chợ Mới là hiểm địa. Đá Đứng chốn sông thiêng là rất rất hiểm địa. Ông có biết vì sao đối diện Bến Lội Đền Bốn Miếu là động Ma Ca không? Thiêng lắm đấy, vì có quá nhiều người chết. Đây là nơi chính phân tranh từ nhiều đời. Thời Cao Vương lập đá Đứng bỏ bút thần. Thời Núi Đá Bia ngón tay minh sư thệ trời xanh bước qua lời nguyền chia cắt đấy. Giá máu xương cao lắm ! Chỗ cao giá hiểm nguy. Cụ già lặp lại.

Cụ già quay sang tôi, bắt tôi nhắc lại mấy lời khẩu quyết. Cao cát Mạc sơn / Sơn Hà Cảnh Thổ / Văn Võ Cổ Kim / Linh Giang thông đại hải / Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn / Đình Bảng Cao Lao Hạ / Miếu cổ thủy sơn thần./ …. Mắt ông rất thành khẩn. Hốc mắt ông dường như có nước mắt. Người ông khoan thai thần bí và trầm tĩnh lạ lùng. Tôi cẩn thận lặp lại. Cha mẹ tôi im nghe và tỏ vẻ khuyến khích con. Cụ già nói chậm rãi: Ông bà thay tên cho ’em’ đi: Hoàng Kim tốt hơn Hoàng Minh Kim. Ông tánh trung trực nghĩa khí, bà tánh đức độ, hiền từ, nhà có phước đức, sẽ thành dòng họ lớn ở phương xa, con cháu có quý tử, nhưng ông bà không được hưởng lộc con, mà theo con hưởng phúc và bảo bọc che chở cho con cháu.

Cụ già dặn tôi “làm vàng ròng, ngọc cho đời, nên bớt sáng”. Đây là chuyện lạ của lời dặn thứ ba. Chuyện lạ đến mức anh hai Hoàng Ngọc Dộ đã quyết chọn Hoàng Kim làm tên gọi cho em từ lớp 10 sau khi cha mẹ mất và toàn gia lưu tán.

Tôi mồ cha mẹ từ nhỏ mất sớm. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng Thầy tăng tôi cuốn sách Trần Hưng Đạo Binh Thư Yếu Lược với lời đề tặng từ tuổi thơ để tôi lưu lại Lời dặn của Thánh Trần và thầy viết bài thơ Em ơi em can đảm bước chân lên lưu những bài thơ tuổi thơ của chính tôi cho tôi. Tôi được anh trai Hoàng Ngọc Dộ và chị gái Hoàng Thị Huyền bảo bọc cưu mang từ nhỏ khi cha mẹ mất sớm, chị gái Hoàng Thị Huyên đã lấy chồng và anh trai Hoàng Trung Trực dấu chân người lính, bom đạn giữa chiến trường, Tôi gạt nước mắt ra đi, thề trước mộ cha mẹ theo Lời dặn của Thánh Trần với Lời thề trên sông Hóa. Thật xúc động ngày về quê tảo mộ tổ tiên Quảng Bình đất Mẹ ơn Người, trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ,

BÀI THƠ VIÊN ĐÁ THỜI GIAN
Hoàng Kim

Cụ là Người cẩn trọng sâu sắc minh thận cần (*)

Thủy vốn mạch sông nước có nguồn.
Chính Trung tiền hậu đổi nhau luôn.
Nụ cười Nghê Việt luôn đầy đặn.
Mai với Bồ Đề ẩn sau lưng.
Tóc nhuốm bạch kim phơi nắng hửng
Da pha hồng ngọc trãi mưa nhuần.
Hoa Người Hoa Đất vui thầy bạn.
Phước Đức mừng ai thắng tuổi trăm.

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-tho-vien-da-thoi-gian/

(*) Phan Chi 4 8 2020· TÔN NỮ MẸ TÔI Nếu họ tên người nam có hai chữ Tôn Thất, người nữ có Tôn Nữ thì những người này có quan hệ huyết thống với các chúa Nguyễn, họ gốc là Nguyễn Phúc mà người ta kỵ huý nên gọi chệch đi là Nguyễn Phước tộc. Quan hệ như thế nào, gần xa cấp độ mấy thì còn phải xét nhưng chắc chắn trong huyết quản họ có dòng máu chúa Nguyễn.Tôn Thất (chữ Hán: 尊室) (chữ 尊 vốn đọc là Tông, nhưng do kỵ tên huý vua Thiệu Trị nên đổi là Tôn) là họ được vua Minh Mạng đặt cho con cháu của các chúa Nguyễn từ ngài Nguyễn Hoàng đến ngài Nguyễn Phúc Thuần, mỗi chúa là hệ tổ của một hệ. Hệ bao gồm chúa và các anh em trai của chúa, hậu duệ của các hệ là hậu duệ của các anh em trai của chúa. Có tất cả 9 hệ nhưng có hai hệ là hệ 4 và hệ 6 không con nên không lưu truyền được. Họ Tôn Thất bà con xa với dòng Đế hệ, dòng làm Hoàng đế của Đại Nam, tính ra kể từ vua Gia Long. Không phải tất cả Tôn Thất, Tôn Nữ đều nổi tiếng hoặc làm to, đời trước nổi tiếng có các cụ Tôn Thất Thuyết, Tôn Thất Thiệp, đời nay có Nguyễn Minh Vĩ (Tôn Thất Vĩ), phó Chủ tịch Quốc hội, Tôn Thất Tùng giáo sư bác sĩ, Tôn Nữ Thị Ninh nhà ngoại giao, Phó giáo sư Tương Lai (Nguyễn Phước Tương hay Tôn Thất Tương) nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Tôn Thất Lập nhạc sĩ. Chế độ VNCH có một số trí thức, tướng lãnh là Tôn Thất.Tôi biết nhiều tôn thất tôn nữ sống và lao động như mọi người dân bình thường. Nét đặc biệt ngoại hình của họ là khuôn mặt dài, thông minh và nghiêm cẩn. Một cái gì đó quý tộc cho dù có rơi vào hoàn cảnh chân lấm tay bùn.Tôi biết hai người phụ nữ tên là Tôn Nữ Lệ Minh. Người thứ nhất là vợ nhà thơ Lưu Trọng Lư tôi chỉ biết sơ. Người thứ hai tôi biết rất kỹ vì người đó là mẹ tôi.Ông ngoại tôi Tôn Thất nên mẹ tôi Tôn Nữ. Mẹ sớm mồ côi cha, lớn lên trong vòng tay của đại gia đình bên ngoại (cụ ngoại tôi làm quan nhà Nguyễn), được hưởng sự giáo dục nề nếp gia giáo.Lớn lên lấy chồng, theo chồng ra Bắc, chịu mọi gian khổ thiếu thốn, Mẹ đã vượt qua tất cả cho chúng tôi có ngày hôm nay. Chúng tôi thừa hưởng ở Mẹ cái nhìn thẳng và tinh thần quý tộc theo nghĩa đẹp nhất của nó là luôn cố gắng làm người tử tế.Viết thêm:Họ “Công Tằng Tôn Nữ” được dùng cho các cháu gái bên nhà họ nội của các đời vua Nguyễn xuất phát từ thời Minh Mạng. Vua Minh Mạng (Tên húy: Nguyễn Phúc Đảm) đã định ra một chính hệ từ đời vua Gia Long trở về sau theo nguyên tắc sau: con cháu các chúa Nguyễn thì được xếp vào hệ Tôn Thất cho nam và Tôn Nữ dành cho nữ.Còn sự khác nhau giữa Tôn Nữ và Công Tằng Tôn Nữ là ở chỗ cách đặt tên theo thế hệ các con gái, cháu gái :Công Chúa : chị em vua Minh Mạng.Công Nữ : con của vua.Công Tôn Nữ : cháu của vua.Công Tằng Tôn Nữ : chắt của vua.Công Huyền Tôn Nữ : chít của vua.Huyền Tôn Nữ : dùng chung cho thế hệ này trở về sau .Nhưng cũng theo một số tài liệu thì Tôn Nữ được sử dụng chung cho thế hệ thứ 2 trở đi với ý nghĩa là chỉ cháu gái.Tôn Nữ Mẹ Tôi và tôi, Huế năm 1948:

Họ “Công Tằng Tôn Nữ” được dùng cho các cháu gái bên nhà họ nội của các đời vua Nguyễn xuất phát từ thời Minh Mạng. Vua Minh Mạng (Tên húy: Nguyễn Phúc Đảm) đã định ra một chính hệ từ đời vua Gia Long trở về sau theo nguyên tắc sau: con cháu các chúa Nguyễn thì được xếp vào hệ Tôn Thất cho nam và Tôn Nữ dành cho nữ.Còn sự khác nhau giữa Tôn Nữ và Công Tằng Tôn Nữ là ở chỗ cách đặt tên theo thế hệ các con gái, cháu gái :Công Chúa : chị em vua Minh Mạng.Công Nữ : con của vua.Công Tôn Nữ : cháu của vua.Công Tằng Tôn Nữ : chắt của vua.Công Huyền Tôn Nữ : chít của vua.Huyền Tôn Nữ : dùng chung cho thế hệ này trở về sau .Nhưng cũng theo một số tài liệu thì Tôn Nữ được sử dụng chung cho thế hệ thứ 2 trở đi với ý nghĩa là chỉ cháu gái.

CHUYỆN ĐỜI PHAN CHÍ THẮNG
Hoàng Kim
tôi tìm lại những ký ức riêng trong ‘chuyện dài chưa đặt tên’ của anh Phan Chi Thắng để ứa nước mắt thấu hiểu giá của tình yêu thương ngày thống nhất. Xin anh được chia sẻ:

” Cô mất bốn năm rồi, yên nghỉ trong phần mộ anh em Tuân đã chuẩn bị từ trước, xây lăng trên đồi, cạnh lăng ông bà nội và lăng cha Tuân.

Con cháu, họ hàng đều ở xa, không ai tiếp quản căn nhà cổ và khu vườn rộng, Tuân bàn với những người có quyền thừa kế theo pháp luật hiến căn nhà và khu vườn đó cho chùa.

Không phải Tuân không tiếc ngôi nhà tuổi thơ của mình, tính ra cũng là một tài sản lớn. Nhưng hãy để nơi ấy thành một ngôi chùa bởi chắc chắn giờ này cô đã ở bên Phật”. (1)

HOA NGƯỜI
Hoàng Kim

Đầu xuân gặp bạn thật mừng vui
Rượu ngọt trà thơm sóng sánh mời
NƯỚC suối ban mai trong tựa ngọc
OANH vàng CÚC tím nắng xuân tươi.

MÂY TRẮNG quyện lưng trời lãng đãng
Thiên NGA từng cặp nhởn nhơ bay
Nhớ xưa CHIẾN SỰ vùng đất lửa
HÒA bình về lại Chứa Chan nay.

Sóng nhạc yêu thương lời cảm mến
KIM Kiều tái ngộ rộn ràng vui
Anh HÙNG thanh thản mừng “Xuân cảm”
“Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi”.

Tui chỉ mới là thuộc sách (TS) thôi.
Giảng sách (GS) xem ra chửa tới nơi.
Vui việc cứ LÀM chưa vội DẠY
Nói nhiều làm ít sợ chê cười.

Cổ điển honda không biết chạy
Canh tân blog viết đôi bài
Quanh quẩn chỉ là ngô khoai sắn
Vô bờ biển HỌC dám đơn sai.

Ước noi cụ Trạng ưa duyên thắm
Nịnh vợ không quên việc trả bài
An nhàn vô sự là tiên đấy
Thung dung đèn sách, thảnh thơi chơi.

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-tho-vien-da-thoi-gian/

BÀI THƠ VIÊN ĐÁ THỜI GIAN
Hoàng Kim


Gần mực thì đen
Gần đèn thì rạng
Chọn nơi mà ở
Chọn hay mà học
Chọn bạn mà chơi.
“Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”
“Người trồng cây hạnh người chơi,
Ta trồng cây đức để đời về sau” (*)
(*) Ca dao cổ người Việt

CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
Hoàng Kim

Đồng dao là chuyện tháng năm
Lời ru của mẹ Trăng rằm thảnh thơi
Biết tìm bạn quý mà chơi
Học ăn học nói làm người siêng năng

Hiểu nhàn biết đủ thời an
Thung dung minh triết thanh nhàn thảnh thơi
Người sung sướng biết sống vui
Những người hiếu hạnh được đời yêu thương.

Việc chính là học làm người
Khắc sâu nhân nghĩa nhớ đời đừng quên
Hiếu trung phải học đầu tiên
Đừng tham tưởng bở mà quên ân tình.

Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
Cứ trên là sáng cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm
Không nghe tưởng điếc, không trông tưởng mù

Đừng tưởng cứ trọc là sư
Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
Đừng tưởng có của là sang
Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây.

Đừng tưởng cứ uống là say
Tai trâu đàn gẩy, lời hay ham bàn
Đừng tưởng giàu hết gian tham
Không thời chẳng vận, lạm bàn chuyện dân.

Đừng tưởng cứ mới là tân
Cứ hứa là chắc, cứ ân là tình
Đừng tưởng cứ thấp là khinh
Cứ chùa là tĩnh, cứ đình là to.

Đừng tưởng già hết hồ đồ
Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
Đừng tưởng cứ quyết là nên
Cứ mạnh là thắng, cứ mềm là thua.

Đừng tưởng đã dấm là chua
Sấm rền là sẽ có mưa ngập trời
Đừng tưởng vui chỉ có cười
Buồn thì ủ rũ chỉ ngồi khóc than.

Đừng tưởng cứ lớn là khôn
Cứ bé là dại cứ hôn là chồng
Đừng tưởng bịa có thành không
Nhìn gà hóa cuốc lẫn ông với thằng.

Lúc vui tham bát bỏ mâm
Đến khi hoạn nạn tần mần bỏ đi
Đừng tưởng không nhất thì nhì
Phò thịnh sung sướng, giúp suy nghèo hèn.

Gặp trăng thì vội quên đèn
Hám tiền quên nghĩa đỏ đen lạc đường
Đừng tưởng giàu hết cô đơn
Cao sang hết ốm, gian tham hết nghèo.

Đừng tưởng cứ núi là cao
Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
Đừng tưởng cứ dưới là ngu
Tham giành là được, thấy tu tưởng hiền.

Đừng tưởng cứ thấp là hèn
Cứ sang là trọng cứ tiền là xong
Đừng tưởng quan chức là rồng
Dân thường thấp cổ thì không biết gì.

Đời người lúc thịnh lúc suy
Lúc khỏe lúc yếu lúc đi lúc dừng
Đắng cay chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước tình sâu nghĩa bền
Học làm người việc đầu tiên
Hiếu trung phúc hậu đừng quên nối vần:

“Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”
“Người trồng cây hạnh người chơi,
Ta trồng cây đức để đời về sau” (*)
(*) Ca dao cổ người Việt

(1) xem thêm:

CHỌN PHỐ MÀ Ở!
Phan Chí Thắng


Chọn Trung Kính,
chớ dính Trung Liệt
Ở Hàng Bông thì ấm,
ở Hàng Mắm thì… thơm
Muốn lên quan ở Hàng Lọng,
muốn ấm họng ở Hàng Chai
Muốn sống dai ở Sinh Từ,
đừng bao giờ sống Tô Tịch
Muốn giàu sống Tràng Tiền,
muốn khỏe sống Đại Yên
Trẻ khỏe lên Thanh Niên,
lên tiên về Thọ Lão
Nhiều vàng mua Hàng Hòm,
thích áo quan sang Lò Sũ (Sũ là quan tài)
Phố Trần Phú lắm đại gia,
chợ Bắc Qua không thể ở
Thích ăn phở thì ra Hàng Hành,
thích đá banh ra Hàng Đẫy
Muốn làm quan to thì ở Hùng Vương,
thèm khói hương xin mời Quán Sứ
Muốn hay chữ hãy ở Tràng Thi,
giàu nhất nhì cứ chơi Hàng Bạc
Không thích mát xin mời Hoả Lò,
thích no mua nhà Hàng Gạo
Sống cầm hơi là đường Hàng Cháo,
không thích láo nháo cứ Đào Duy Từ
Thích làm thơ ra chợ Mơ sống tạm,
không thì tàm tạm là ngõ Tạm Thương
Háo ngọt cứ ở Hàng Đường,
khoái rượu ngon xin mời Hoàng Diệu
Ai ở Bà Triệu thì vú rất dài,
người ở Hàng Bài suốt ngày đánh bạc
Ở phố Thuốc Bắc không cần thuốc Tây,
dân phố Hàng Giầy không phải đi guốc
Những ai lo lụt về phố Hàng Bè,
Ai thích chắn che thì mua Hàng Cót
Gần chùa Trấn Quốc gọi bụt bằng anh,
ra phố Đường Thành mà buôn chè Thái
Thích đánh nhau mãi đã có Trường Chinh,
còn muốn thùng thình có ngay Hàng Trống
Khôn hồn muốn sống đừng leo Mỹ Đình (Mình Đĩ),
nếu sợ hổ rình chớ về Yên Thế

Chọn phố tưởng dễ, mà khó ra trò!


TRÍCH CHUYỆN DÀI CHƯA ĐẶT TÊN
Phan Chí Thắng

Trong số hơn mười đứa cháu, đứa gọi bằng o (cô), đứa gọi bằng dì, có lẽ cô thương Tuân nhất. Không hẳn vì Tuân là đích tôn, không hẳn vì mấy đứa gọi cô bằng dì ở thành phố khác, ít gặp cô.

Cô thương Tuân vì cô thương cha anh nhất, thương người anh trai bỏ nhà đi kháng chiến chống Pháp rồi mang đứa con mới 5-6 tuổi ra Bắc, nơi ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, “bảy tên Việt Cộng đu không gãy một cành đu đủ”.

Hôm Tuân cùng mẹ lên chiến khu rồi theo đường dây vượt rừng ra Bắc, cô ngồi nắm cơm cho vào mo nang. Không biết cô lỡ tay cho nhiều muối mè (muối vừng) hay nước mắt cô thầm nhỏ vào cơm mà Tuân ăn thấy mặn.

Cô tiễn cháu đi để rồi đêm đêm bí mật áp cái đài transito vào tai nghe đài Hà Nội với hy vọng may ra có chút tin tức gì về anh chị và cháu.

Năm 66 Tuân được đi Liên xô học đại học. Không biết đường dây nào đã báo tin cho cô, cô làm thịt con gà thắp hương cúng các cụ rồi mời hai ông bà dùng bữa. Ông hỏi có chuyện gì, cô nói thằng Tuân vừa đi Liên xô học 6 năm rồi.

Ông nhắm mắt, chắp tay niệm A Di Đà Phật, bà nội và cô ôm nhau khóc. Mâm cơm vẫn còn nguyên.

Hai mươi hai năm sau kể từ lúc lon ton chạy theo mẹ trốn lên chiến khu, đầu tháng 5 năm 75, Tuân tìm về làng thăm bà nội và cô. Ông nội mất đã lâu, hai bà con dựa vào nhau mà sống.

Các bà cô Tuân ai cũng đẹp và lấy chồng xa. Riêng cô không lấy chồng, ở lại phụng dưỡng cha mẹ.

Năm 75 cô còn khỏe, còn hái trái cây trong vườn mang ra chợ bán lấy tiền mua gạo, mắm muối.

Năm 85 là đỉnh điểm của nghèo khổ khó khăn. Cô mua ớt về đăm (giã) làm ớt bột gửi ra Hà Nội cho cháu. Ớt đựng trong lọ nhựa đen nguyên dùng đựng xà phòng kem. Cô già mắt kém súc lọ không kỹ, ớt toàn mùi xà phòng. Tuân đành đổ nguyên cân ớt bột xuống cống, xót xa công sức người cô già.

Một năm đôi ba lần Tuân về quê thăm bà và cô, từ khi bà nội mất cô sống một mình trong căn nhà cổ. Một mình trong khuôn vườn khá rộng kể cả tính theo tiêu chuẩn ở Huế.

Trẻ con hái trộm trái cây, bắt trộm chó. Cô không còn sức chăm bón mấy cây thanh trà (bưởi), khế, ổi, mãn cầu từng nuôi sống bà và cô. Vườn xác xơ như chính cô vậy.

Mỗi lần về quê Tuân đều dành dụm ít nhiều tiền đưa cô mua gạo.

Vậy mà cô chẳng tiêu đồng nào. Lần sửa mái ngói bị dột, thợ phát hiện có gói nilon bọc mấy chục triệu giấu dưới mái, Tuân vừa giận vừa thương cô. Không chịu ăn uống tẩm bổ, tiền để lại cho ai?

Người đàn bà không chồng không con về già khổ đủ đường. Không ai chăm sóc, không có ai để nhờ cậy đã đành, cơ thể chưa một lần “thay máu” nhiều bệnh hơn người thường.

Có lần Tuân về thấy tóc cô bù xù, móng tay dài cong queo, anh gọi thợ làm đầu vào gội đầu cắt móng tay cho cô.

Chấy nhiều quá, đen kịt cả mặt nước chậu thau đồng. Tuân cố không khóc.

Vậy mà cô cũng sống tới 95 tuổi. Cô sống được lâu thế chắc là nhờ muốn sống để trông coi ngôi nhà các cụ để lại và thay mặt tất cả con cháu ở xa và rất xa chăm lo việc hương khói các ngày giỗ chạp. Đã nhiều lần Tuân muốn đón cô ra Hà nội sống với gia đình Tuân để tiện chăm sóc cô nhưng cô không chịu. Cô không thể rời nơi cô đã gắn bó cả cuộc đời.

Khi cảm thấy mình quá yếu, không còn sống được bao lâu, cô dắt Tuân vào buồng, tay run run mở mấy lần khoá cái tủ gỗ xộc xệch có khi còn nhiều tuổi hơn cô:

– Đây là số tiền cô dành dụm cả đời, bây giờ cho cháu.

Nhìn đám giấy bạc cũ kỹ buộc chun làm thành nhiều gói bọc kỹ trong tờ giấy bao xi măng, Tuân không thể cầm lòng. Những tờ tiền Bảo Đại, tiền Việt Nam Cộng hoà, rồi tiền Giải phóng và các đợt tiền cụ Hồ, anh không biết nói sao. Tất cả đã không còn bao nhiêu giá trị.

Đặc biệt là xâu tiền đồng có lỗ vuông ở giữa. Chẳng để làm gì.

Người đàn bà không có công ăn việc làm, không có lương hưu, bao nhiêu năm tằn tiện để cho cháu số tiền khá lớn nay chỉ có thể coi là kỷ niệm.

Cô mất bốn năm rồi, yên nghỉ trong phần mộ anh em Tuân đã chuẩn bị từ trước, xây lăng trên đồi, cạnh lăng ông bà nội và lăng cha Tuân.

Con cháu, họ hàng đều ở xa, không ai tiếp quản căn nhà cổ và khu vườn rộng, Tuân bàn với những người có quyền thừa kế theo pháp luật hiến căn nhà và khu vườn đó cho chùa.

Không phải Tuân không tiếc ngôi nhà tuổi thơ của mình, tính ra cũng là một tài sản lớn. Nhưng hãy để nơi ấy thành một ngôi chùa bởi chắc chắn giờ này cô đã ở bên Phật.

(Viết trong ngày giỗ cô)

NGƯỜI EM CON CÔ RUỘT
Phan Chí Thắng
(Viết 30/4/2018)

Xét quan hệ bà con, An với Tuân rất gần. Mẹ hắn là em ruột cha anh. Nhưng khi anh sinh ra ở Huế thì hắn, con đầu của cô, đã năm sáu tuổi và sống bên nội của hắn ở thành phố khác, lớn lên anh em không biết mặt nhau, chỉ nghe cha mẹ nói rằng cô có mấy đứa con, trong đó có hắn.

Rồi anh theo cha mẹ ra Bắc. Đất nước chia làm hai miền, anh em hoàn toàn không biết gì về nhau.

Tháng 5 năm 1975, là một cán bộ nghiên cứu sau nhiều năm đằng đẵng học ở Liên xô, Tuân vào Nam công tác, ghé Nha Trang Thành thăm bà cô và mấy người em con cô – tất cả anh chưa hề gặp mặt. Cô nhận ra anh ngay, “cháu giống cha quá!”.

Mấy ngày đó anh không gặp An, vì hắn ở Sài gòn, có thể còn trốn hoặc đã ra trình diện. Cô và mấy em không nhắc đến hắn, mà anh cũng không hỏi.

Mãi sau này mới biết, hắn với cặp lon thiếu tá nhảy dù mũ đỏ phải đi cải tạo 7 năm, sau đó định cư ở Mỹ diện HO.
Hai anh em càng không có điều kiện gặp nhau. Thư từ cũng không.

Năm 2009 Tuân sang Mỹ chơi. Cô anh cùng các con, dâu rể và cháu đều đã định cư ở Cali. Tuân hẹn trước ngày đến thăm. Cô nói sẽ gọi các em tập trung đông đủ chào anh.

Với những người em khác Tuân đều đã gặp ở Việt Nam nên nói chuyện khá thoải mái. Riêng với An anh hơi rụt rè một chút. Hắn nhiều tuổi hơn nhưng lại là vai em. Thoạt nhìn thấy hắn anh đoán đây là người con đầu của cô. Anh tiến lại, chủ động bắt tay và nói bằng tiếng Anh “Rất vui gặp You!”

Tiếng Anh chỉ có You và Me, rất tiện trong trường hợp này.

Nghĩ cũng lạ, anh em cô cậu ruột mà già rồi mới gặp nhau. Hai anh em hai chiến tuyến, nay ngồi với nhau trên đất Mỹ.

Hắn tỏ ra kính cẩn với ông anh, một phần do lễ giáo, phần khác là kiểu dân võ biền thường tự ti trước những người có mác trí thức.

Hai anh em nói chuyện như cần phải nói. Nghĩa là không nói một cái gì cụ thể. Vì thế câu chuyện tự nhiên, không gò bó, tuy An có vẻ hơi kiệm lời.

Ăn cơm xong, cả nhà chụp hình kỷ niệm. Hắn tiến đến gần Tuân xin phép ra sân bay. Hắn phải bay 7 tiếng về bờ Đông để mai sớm có mặt ở sở làm việc.
Vậy là hắn đã mất từng ấy tiếng bay sang Cali chỉ để gặp ông anh.

Tuân nhìn thẳng vào hắn. Anh nhận ra cặp mắt và vầng trán hắn giống anh. Một nốt ruồi phía dưới đuôi mắt cũng giống như của anh. Hình như hắn cũng nhận ra những nét giống nhau giữa hai người.

Tuân nắm chặt tay hắn:
– Mừng nhất là chúng ta đã không gặp nhau trên chiến trường. Chúc chú khoẻ và hy vọng lần sau gặp lại sẽ có nhiều thời gian trò chuyện hơn.
– Cảm ơn anh. Chúc anh đi chơi vui!

Hắn rời đi, dáng người đàn ông an phận sau nhiều giông tố cuộc đời, không ai có thể đoán đó từng là viên thiếu tá chỉ huy nhảy dù.

Đêm đã khuya, chỉ còn hai cô cháu ngồi với nhau. Tuân ngắm cô. Vẫn cái trán ấy, đôi mắt ấy. Cô đã tám mấy rồi, linh cảm mách bảo đây là lần cuối cùng anh gặp cô. Xa xôi quá, khi cô nằm xuống anh không thể bay sang kịp.

Hình như cô cũng có cảm nghĩ như thế.

– Thằng An giống cháu hơn mấy đứa kia.
– Cháu cũng thấy vậy.
– Cả nhà mỗi mình nó giống bên ngoại.

Cô muốn kể cháu nghe một chuyện. Chuyện này thằng An chỉ kể cho cô nghe, từ năm 1971, tụi em nó cũng không được biết.

Năm đó nó chỉ huy đơn vị nhảy dù vào căn cứ nơi cơ quan lãnh đạo Việt Cộng tỉnh đóng. Nhiệm vụ của nó là bắt các cán bộ chủ chốt rồi phá hủy căn cứ. Nó đứng một chỗ, luôn miệng hò hét xua cấp dưới toả ra xăm tìm hầm bí mật.

– Chiến tranh mà cô, chuyện đó cũng bình thường. Tuân bình luận.
– Không bình thường đâu cháu, hãy nghe cô kể nốt.

Đơn vị nó hoàn thành nhiệm vụ. Đêm hôm đó nó về qua nhà và kể với cô là cả ngày con đứng trên miệng hầm của cậu để lính không đụng đến chỗ đó.

Là hầm của ba cháu đó. Tài liệu thám báo chỉ đích xác căn hầm của ba cháu. Thằng An biết và đã bảo vệ cậu.

Tuân lặng người, ngồi một lúc lâu mới hỏi:
– Thế ba cháu có biết em An cứu ổng không?
– Không, làm sao ông biết được?
– Thời gian đi học tập cải tạo nó có khai chi tiết này không?
– Không. Khai ra ai tin?

Tuân lại ngồi yên lặng. Phía xa, ngoài xa lộ, những chiếc xe hơi lao vút trong đêm.

Giờ này An bay đến đâu rồi, trên bầu trời nước Mỹ?

Số phận không cho hai anh em được gần nhau, được hiểu nhau hơn. Nhưng giờ Tuân đã hiểu. Số phận mỗi gia đình, mỗi dòng tộc nằm chung trong số phận éo le của đất nước. Anh em trong một nhà thành kẻ thù của nhau.

Song mối liên hệ thiêng liêng máu mủ không bao giờ gián đoạn. Chúng ta còn đến ngày nay, sau hơn ngàn năm chinh chiến, là nhờ chúng ta biết thương nhau hơn là giỏi chém giết?

Cha anh mất đã lâu rồi, An ạ. Ông không thể cảm ơn đứa cháu đã cứu mạng mình. Anh cũng sẽ không nói lời cảm ơn. Hiểu là một cách cảm ơn chân thành nhất!

CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC http://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Ban Mai; Chỉ tình yêu ở lại
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter