Chào ngày mới 19 tháng 3


SẮN VIỆT NAM NGÀY NAY
#cnm365. Giống sắn Việt Nam phát triển qua 50 năm. Vietnamese cassava today Vietnamese cassava varieties progression across 50 years ; see more https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186 & https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186/441

Vietnamese cassava varieties progression across 50 years
see more https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186 & https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186/441

  • Long Hoang*
  • Mai T.T. Nguyen
  • Doan. N.Q. Nguyen
  • Kim Hoang
  • Clair Hershey
  • Reinhardt Howeler

Abstract

Vietnamese cassava varieties constitute the fundamental and pivotal element in the sustainable development programme for cassava. This article aims to encapsulate the advancements made over nearly five decades in breeding and enhancing Vietnamese cassava varieties. It delineates the suitable cassava variety structures for each period and ecological region. The selection of cassava varieties exhibiting high starch yield and disease resistance, coupled with the establishment of a suitable and efficient cassava cultivation model, exemplified by 10T for Vietnamese cassava varieties KM568, KM539, KM537, KM569, and KM94, stands as a cornerstone for sustaining cassava development over the years. Presently, we advocate for farmers to cultivate promising cassava varieties such as KM568 or KM539 (an enhanced version of the International Center for Tropical Agriculture (CIAT) cassava variety C39, refined through multiple breeding cycles from 2004 onwards), KM537, KM569, or HN1 (originally known as TMEB419), alongside popular cassava varieties: KM440, KM419, KM94, KM7, STB1, KM414, KM98-7, KM140, KM98-5, KM98-1. We have conducted Distinctness, Uniformity, and Stability (DUS) and Value for Cultivation and Use (VCU) tests, showcasing outstanding cassava varieties in large-scale farming, thereby providing compelling evidence for the prudent conservation and sustainable development of cassava. Vietnamese cassava progression (1975 to date) has traversed six stages, with five waves of restructuring cassava varieties, aligning with target orientations, farming conditions, and market demands, culminating in 16 popular cassava varieties and four promising cassava varieties KM568, KM539, KM537, and KM569.

Keywords:

Cassava varieties, Distinctness, Uniformity, and Stability (DUS) and Value for Cultivation and Use (VCU), progression, Vietnam

DOI:

https://doi.org/10.31276/VJSTE.66(1).59-76

Classification number

3.1

Author Biographies

Long Hoang

Faculty of Agronomy, Nong Lam University – Ho Chi Minh City, Quarter 6, Linh Trung Ward, Thu Duc City, Ho Chi Minh City, Vietnam

Mai T.T. Nguyen

Department of Agriculture and Rural Development of Phu Yen Province, 64 Le Duan Street, Tuy Hoa City, Phu Yen Province, Vietnam

Doan. N.Q. Nguyen

Faculty of Economics, Phu Yen University, 18 Tran Phu Street, Ward 7, Tuy Hoa City, Phu Yen Province, Vietnam

Kim Hoang

Faculty of Agronomy, Nong Lam University – Ho Chi Minh City, Quarter 6, Linh Trung Ward, Thu Duc City, Ho Chi Minh City, Vietnam

Vietnam National Cassava Program (VNCP), 121 Nguyen Binh Khiem Street, Dakao Ward, District 1, Ho Chi Minh City, Vietnam

Clair Hershey

International Center for Tropical Agriculture (CIAT), Kilometro 17, Straight Cali – Palmira, Apartado Aéreo 6713, Cali, Colombia

Reinhardt Howeler

International Center for Tropical Agriculture (CIAT), Kilometro 17, Straight Cali – Palmira, Apartado Aéreo 6713, Cali, Colombia

Downloads

Published

2024-03-15

Received 22 October 2023; revised 20 November 2023; accepted 15 February 2024

How to Cite

Long Hoang, Mai T.T. Nguyen, Doan. N.Q. Nguyen, Kim Hoang, Clair Hershey, & Reinhardt Howeler. (2024). Vietnamese cassava varieties progression across 50 years. Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering, 66(1), 59-76. https://doi.org/10.31276/VJSTE.66(1).59-76

Issue

Vol. 66 No. 1 (2024)

Section

Life Sciences

License

This work is licensed under a Attribution-NonCommercial-NoDerivatives 4.0 International

ONLINE JOURNAL SYSTEM

All submissions screened by

We are member of

Indexing and Abstracting

VJSTE is the official scientific outlet of the Ministry of Science and Technology, Vietnam,  founded in 1959 and has been one of the prestigious scientific journals in Vietnam. VJSTE aims to become an international journal which meets the standards of the world leading databases of science journals such as Scopus, Web of Science, etc. There are no less than 13 articles and no more than 17 articles in each issue.

The journal is published quarterly, 04 issues per year.

Information

Most read

Vietnamese cassava varieties progression across 50 years
Giống sắn Việt Nam phát triển qua 50 năm
SẮN VIỆT NAM BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Vietnamese cassava varieties progression across 50 years
. Greeting from Hoang Kim Vietnam to Reinhardt Howeler and my teachers and friends. Best wish to you and your family on New Days; Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget, see moresee more https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186 & https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186/441 and https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today — with Hoang Long, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Nu Quynh Doan, Clair Hershey, and Reinhardt Howeler.

Welcome to read ….

Article Sidebar

Ngày xuất bản: 26-02-2024

DOI: 10.52997/jad.1.01.2024

Trích dẫn

Nguyễn, M. T. T., Hoàng, L., Nguyễn, Đoan N. Q., & Hoàng, K. (2024). Kết quả chọn tạo và khảo nghiệm các giống sắn triển vọng KM568, KM539, KM537 tại tỉnh Phú Yên. Tạp Chí Nông nghiệp Và Phát triển 23 (1), 1-13.

Số tạp chí

Tập 23 – Số 1 (2024)

Chuyên mục

Nông học, Lâm Nghiệp

Main Article Content

Tóm tắt

Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh chính, phù hợp với điều kiện sản xuất của tỉnh Phú Yên là quan trọng và cấp bách. Mục tiêu nhằm chọn tạo được giống sắn có năng suất tinh bột cao (vượt hơn đối chứng KM419 và KM94 tối thiểu 10%), kháng được sâu bệnh chính, điểm bệnh cấp 1 – 2 đối với bệnh khảm lá (CMD) và bệnh chồi rồng (CWBD). Phương pháp nghiên cứu thực hiện theo chuẩn của Chương trình sắn Việt Nam và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới quốc tế (CIAT) về quy trình công nghệ chọn tạo và nhân giống sắn lai. Kết quả đã tuyển chọn được ba giống sắn triển vọng KM568, KM539 và KM537. Giống sắn KM568 con lai của KM440 x (KM419 x KM539), có năng suất củ tươi 54 tấn/ha với hàm lượng tinh bột 28,4% lúc 10 tháng sau trồng. Giống sắn KM539 là C39* chọn lọc của C39 nhập nội từ CIAT và có năng suất củ tươi 45,9 tấn/ha với hàm lượng tinh bột 27,9%. Giống sắn KM537 là con lai của (KM419 x KM539) x KM440, có năng suất củ tươi 51,3 tấn/ha với hàm lượng tinh bột 28,5%. Cả 3 giống này đều kháng bệnh CMD cấp 1,5 và kháng bệnh CWBD cấp 1. KM568, KM539 và KM537 lần lượt có 8 – 14 củ/bụi, 7 – 12 củ/bụi và 7 – 12 củ/bụi. Tất cả các giống này đều đạt kiểu hình cây lý tưởng, thịt củ trắng, cây thẳng, tán gọn, lóng ngắn và ít phân cành. Ngoài ra, chiều cao cây của KM568, KM539 và KM537 lần lượt là 2,3 – 2,7 m, 2,7 – 3,0 m và 2,5 – 2,9 m.

Từ khóa: DUS và VCU, Giống sắn, KM568, KM539, KM537

Article Details

Tài liệu tham khảo

FAO (Food and Agriculture Organization of the United Nations). (2022). FAOSTAT. Rome, Italy: FAO.

Hoang, K. (2003). Technology of cassava breeding. In Ngo, D. T., & Le, Q. H. (Eds.). Varietal technology of plant, animal and forestry (Vol. 2, 95-108). Ha Noi, Vietnam: Agricultural Publishing House.

Hoang, K., Nguyen, B. V., Hoang, L., Nguyen, H. T., Ceballos, H., & Howeler, R. H. (2010). Current situation of cassava in Vietnam. In Howeler, R. H. (Ed.), Proceedings of The 8th Regional Workshop on A New Future for Cassava in Asia: Its Use as Food, Feed, and Fuel to Benefit The Poor (100-112). Vientiane, Lao PDR: International Center for Tropical Agriculture (CIAT) and the National Agriculture and Forestry Research Institute (NAFRI). Retrieved February 15, 2022, from http://ciat-library.ciat.cgiar.org/Articulos_Ciat/biblioteca/A_new_future_for_Cassava_in_Asia_Its_use_a_food_freed_and_fuel_to_benefit_the_poor-compressed.pdf.

Hoang, K., Nguyen, M. T. T., Nguyen, M. B., & Howeler, R. H. (2011). Cassava conservation and sustainable development in Vietnam. In Howeler, R. H. (Ed.), Proceedings of The 9th Regional Workshop on Sustainable Cassava Production in Asia for Multiple Uses and for Multiple Markets (35-56). Guangxi, China: International Center for Tropical Agriculture (CIAT) and the Chinese Cassava Agrotechnology Research System (CCARS). Retrieved April 20, 2022, from http://ciatlibrary.ciat.cgiar.org/Articulos_Ciat/biblioteca/Sustainable_cassava_production_in_Asia_for_multiple_uses_and_for_multiple_markets.pdf

Hoang, L., Nguyen, M. T. T., Nguyen, M. B., Hoang, K., Ishitani, M., & Howeler, R. H. (2014). Cassava in Vietnam: production and research; an overview. In Howeler, R. H. (Ed.), Proceedings of Asia Cassava Research Workshop (15). Ha Noi, Vietnam: ILCMB- CIAT-VAAS/AGI.

Howeler, R. H. (2011). Proceedings of the 9th regional workshop on sustainable cassava production in Asia for multiple uses and for multiple markets. Retrieved April 20, 2022, from http://ciatlibrary.ciat.cgiar.org/Articulos_Ciat/biblioteca/Sustainable_cassava_production_in_Asia_for_multiple_uses_and_for_multiple_markets.pdf

Howeler, R. H., & Aye, T. M. (2014). Sustainable management of cassava in Asia – From research to practice. Ha Noi, Vietnam: News Publishing House.

MARD (Ministry of Agriculture and Rural Development). (2022). Report on production situation and directing the prevention of harmful organisms on cassava. Gia Lai, Vietnam: MARD and People’s Committee of Gia Lai Province.

Nguyen, M. B. (2018). Research on cultural techniques to scatter harvest season for cassava in Dak Lak province (Unpublished doctoral dissertation). Tay Nguyen University, Dak Lak, Vietnam.

Nguyen, M. T. T. (2017). Study on the selection of high yielding cassava varieties and intensive cultivation techniques in Phu Yen province (Unpublished doctoral dissertation). University of Agriculture and Forestry, Hue University, Hue, Vietnam.

Nguyen, M. T. T., Hoang, L., Nguyen, D. N. Q., & Hoang, K. (2021). Phu Yen cassava solutions for sustainable development. Phu Yen, Vietnam: Phu Yen Provincial People’s Committee.

Nguyen, V. A., Le, T. N., Nguyen, H., Do, T. T., Nguyen, H. T., Pham, H. T. T., Nguyen, H. T., Seki, M., & Le, H. H. (2021). Characterization of some popular cassava varieties in Vietnam. Journal of Vietnam Agricultural Science and Technology 3(124), 1-17.

Tran, Q. N., Hoang, K., Vo, T. V., & Kawano, K. (1995). Selection results of the new cassava varieties KM60, KM94, KM95 and SM937-26. In Proceedings of Vietnam Agricultural Research Workshop. Lam Dong, Vietnam: Ministry of Agriculture and Rural Development.

VNA (Vietnam National Assembly). (2018). Law No. 31/2018/QH14 dated on November 19, 2018. Law on crop production. Retrieved May 24, 2022, from https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Luat-Trong-trot-2018-336355.aspx.

VNFU (Central Vietnam Farmer’s Union). (2021). New rural magazine – Farmer’s scientist links take off together. Ho Chi Minh City, Vietnam: Youth Publishing House.

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
#cltvn #Vietcassava tích hợp thông tin Phú Yên Online I Kết quả bước đầu trong chọn tạo giống sắn kháng bệnh xem tiếp tin và ảnh tại https://baophuyen.vn/79/310545/ket-qua-buoc-dau-trong-chon-tao-giong-san-moi-khang-benh.html

Đề tài khoa hc, công ngh cp tnh Nghiên cu chn to ging sn năng sut tinh bt cao, kháng được sâu bnh hi chính, phù hp vi điu kin sn xut ti tnh Phú Yên đang nhn được s quan tâm ca ngành Nông nghip, h dân trng sn và m ra nhiu trin vng cho cây sn Phú Yên.

Đài Truyền Hình Phú Yên Khoa học và Cuộc sống tháng 11/2023 “Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên” https://youtu.be/gZZk9OL_4fg

#Vietcassava Phu Yen 18 11 2023

KM568 năng suất tinh bột cao kháng cao CMD CWBD cây và củ kiểu hình lý tưởng

KM569 ăn ngon ruột vàng kháng khá CMD CWBD với KM568 năng suất tinh bột cao kháng cao CMD CWBD củ và cây chuẩn được lão Nông chấp nhận tuyển chọn

KM539 năng suất bột cao kháng cao CMD CWBD tuyển chọn dạng cây thấp ít phân nhánh

Cụ Bình với KM539-10 Đồng Xuân

Giống sắn HN1 năng suất tinh bột cao, kháng cao CMD CWBD nhưng nhược điểm cao cây dễ đổ ngã

Older information

Tay Ninh Cassava Workshop 04-06 October 2023 Establishing Sustainable Solution to Cassava Disease in Mainland Southeast Asia. Project Review and Research Symposium, see more Vietnamese cassava today https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/

Dự án thiết lập các giải pháp bền vững xử lý sâu bệnh hại khoai mì khu vực Đông Nam Á:

Chọn tạo được 6 giống mì kháng bệnh khảm lá  Cập nhật ngày: 05/10/2023 – 08:38

BTNO – Sáng 4.10, UBND tỉnh Tây Ninh tổ chức hội nghị tổng kết Dự án thiết lập các giải pháp bền vững xử lý sâu bệnh hại khoai mì (sắn) khu vực Đông Nam Á.
(Nguồn: Báo Tây Ninh: https://baotayninh.vn/chon-tao-duoc-6-giong-mi-khang-benh-kham-la-a164224.html) tích hợp thông tin tại Vietnamese cassava today https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/

Ông Trần Văn Chiến – Phó Chủ tịch UBND tỉnh phát biểu tại hội nghị.

Dự hội nghị có ông Lê Văn Thiệt- Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật; ông Trịnh Xuân Hoạt- Phó Viện trưởng Viện Di truyền thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT); đại diện Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp quốc tế Úc (ACIAR), đơn vị tài trợ dự án; Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT), chuyên gia nông nghiệp các nước Campuchia, Lào, Indonesia, Philippines, và một quốc gia châu Phi.

Về phía Tây Ninh có ông Trần Văn Chiến- Phó Chủ tịch UBND tỉnh; ông Nguyễn Đình Xuân – Giám đốc Sở NN&PTNT và nông dân trồng mì trên địa bàn tỉnh.

Phát biểu tại hội nghị, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Văn Chiến cho biết, dự án Thiết lập các giải pháp xử lý bệnh hại trên cây mì tại các nước khu vực Đông Nam Á do ACIAR tài trợ, thực hiện trong giai đoạn 2019 – 2023, có sự tham gia của Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm nông nghiệp Hưng Lộc, Viện Di truyền nông nghiệp, Viện Bảo vệ thực vật và Sở NN&PTNT Tây Ninh. Dự án nghiên cứu, khảo nghiệm và đánh giá một số giống mì tiềm năng có khả năng kháng bệnh phù hợp với điều kiện tự nhiên của khu vực Đông Nam bộ. Kết quả bước đầu của dự án chọn tạo được 6 giống mì kháng bệnh khảm lá, gồm: HN1, HN3, HN5, HN36, HN80, HN97.

Ông Trần Văn Chiến hy vọng trong thời gian tới, Trung tâm ACIAR và CIAT sẽ tiếp tục hỗ trợ nghiên cứu và phát triển lĩnh vực nông nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh; đồng thời, phối hợp triển khai có hiệu quả trong lĩnh vực nghiên cứu, lai tạo, trồng khảo nghiệm và sản xuất các giống mì mới sạch bệnh cho năng suất, hàm lượng tinh bột cao, có khả năng thích ứng tốt với điều kiện canh tác tại Tây Ninh.

Ông Jonathan Newby – Giám đốc Chương trình sắn Quốc tế, Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) trao đổi với ông Bùi Công Ngọc-(người được chuyển giao thí điểm nhân giống mì kháng khảm).

Ông Nguyễn Đình Xuân – Giám đốc Sở NN&PTNT Tây Ninh cho biết, diện tích trồng mì hàng năm của tỉnh khoảng 60.000 ha, tập trung tại các huyện Tân Châu, Tân Biên, Châu Thành và Dương Minh Châu. Năng suất trung bình từ 33 – 35 tấn/ha (cao gấp 1,7 lần năng suất trung bình của cả nước), chiếm 10% diện tích và 20% tổng sản lượng, đóng góp 50% vào tổng thu nhập quốc gia.

Theo ông Xuân, bệnh khảm lá đã ảnh hưởng đáng kể đến năng suất tinh bột mì, từ 30% -70%. Do đó, việc triển khai dự án thiết lập các giải pháp bền vững xử lý sâu bệnh hại mì khu vực Đông Nam Á giúp tìm ra được nhiều giống mới, kháng được bệnh, năng suất cao hơn đáng kể so với các giống được trồng phổ biến trước đây.

Ông Jonathan Newby- Giám đốc Chương trình sắn quốc tế, Trung tâm CIAT cho biết, kết quả dự án cho thấy việc trồng trọt bằng nguồn giống sạch sẽ cho năng suất củ tươi và hàm lượng tinh bột cao hơn đáng kể đối với tất cả các giống được thử nghiệm. “Chúng tôi đang trong giai đoạn đàm phán cuối cùng để thành lập Trung tâm Nghiên cứu sắn ở tỉnh Tây Ninh, có sự tham gia của nhà nước, doanh nghiệp và các nhà đầu tư nghiên cứu”- ông Jonathan Newby nói thêm.

Nông dân tham gia khảo sát bất ngờ về bộ củ của cây mì HN1.

Tại hội nghị, UBND tỉnh ký kết biên bản thoả thuận hợp tác với Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) giai đoạn 2024 – 2028. Theo đó, hai bên thống nhất thành lập một ban điều hành bao gồm các thành viên của CIAT, UBND tỉnh Tây Ninh, đại diện của các doanh nghiệp nhằm hỗ trợ và điều phối các hoạt động nghiên cứu tại địa phương trong giai đoạn 2024-2028.

Minh Dương

Báo DÂN VIỆT 4.10 2023 . Tính đến tháng 12/2022, diện tích trồng sắn sử dụng các giống kháng bệnh khảm lá còn trên đồng là 117,5 ha; gồm các giống HN3, HN5, HN1, HN 80, HN 97. Trong đó, giống HN5 có diện tích nhiều nhất, 70ha. Trong năm 2023, giống sắn kháng khảm HN36 được phép lưu hành, nâng tổng số lượng giống kháng khảm được phép lưu hành tại vùng Đông Nam Bộ lên 6 giống: HN1, HN3, HN5, HN36, HN80, HN97.

Thành lập Trung tâm Nghiên cứu sắn ở Tây Ninh

Ngành nông nghiệp khuyến khích, hỗ trợ kỹ thuật cho người dân tham gia cùng sản xuất, tăng khả năng cung cấp giống kháng khảm cho khoảng 2.000ha trên địa bàn tỉnh “Tính theo cấp số nhân gấp 10 lần (1 cây sắn giống có thể cho ra 10 hom giống – PV), diện tích giống sắn kháng bệnh khảm có thể tăng lên 10.000ha, thậm chí cao hơn vào niên vụ 2023 – 2024”, ông Xuân cho biết.

xem tiếp https://danviet.vn/da-co-175-giong-san-khang-duoc-benh-kham-la-nong-dan-het-noi-lo-voi-loai-dich-benh-nguy-hiem-nay-20231004130310515.htm?fbclid=IwAR2yWSzwIFyveo6Q78ftQuRp9C0B_ZVAqmJ0Z6rlCj_JEhsNDq6vqFcXL7Q

Skip to content

Sustainable cassava disease solutions in Southeast Asia

Enhancing smallholder livelihoods and economic development

Meeting Program (Draft)

Sunrise Hotel

81 Hoang Le Kha Street, Ward 3, Tay Ninh City, Tay Ninh Province, Vietnam

Day 1 – Wednesday 4th October

8:00amRegistrationSunrise HotelPresentationVideo
8:30 AMWelcome to Tay Ninh and Vietnam Importance of cassava in Vietnam and Tay NinhMr Tran Van Chien, Vice Chaiman of Provincial People’s Committee

Mr Nguyen Dinh Xuan, Director of DARD Tay Ninh

Le Van Thiet, Deputy Director of Plant Protection Division
9:00:9:20Introduction to ACIAR and the review teamDr Eric Huttner (ACIAR)
Session 1: Assess the opportunities, challenges, and risks for the development of sustainable regional solutions for cassava disease management in mainland SEA
9:20-10:00“Establishing sustainable solutions to cassava disease in Mainland Southeast Asia” : market context, evolution, & achievementsDr Jonathan Newby (CIAT)Overview

Market context
10:00-10:30Coffee
10:30-11:00Experimental field-level impacts of CMD and CWBD: Developing short-term recommendations for farmers based on best-bet informationDr Imran Malik (CIAT)


Mr Sok Sophearith (CIAT)
Presentation

Presentation
Youtube

Youtube
11:00-11:30Panel: Impact of cassava disease – across scales (farmers, traders, industry, national government)Panel 1
Jonathan Newby (facilitator)
El Chhinh – Farmer leader

Mr Attapol Lerdvanichdilok (TTSA)

Nguyen Huu Hung (Vince Chairman VICAAS)

Dr Phetmanyseng (NAFRI)
Discussion Padlet
11:30-12:00Addressing sustainability: Lessons learnt in coordination and communication between stakeholders and projectsMr Xuan (DARD Tay Ninh)  

Mr Run Sophannara (PDAFF Banteay Meanchey)  

Dr Chanthakhone Boualaphanh (NAFRI)  

Boonmee Wattanaruangrong (TTDI)
Discussion Padlet
12:00-1:00Lunch
Session 2: Enhanced regional diagnostic protocols, tools and information platforms fit for purpose

Discussion Padlet
1:00-1:20Overview of activities, outputs & outcomes (20mins)Dr Wilmer Cuellar (CIAT)Presentation
1:20-1:35Laos report (15mins)Ms Pinkham Vongphachanh (PPC)PresentationYoutube
1:35-1:50Cambodia report (15mins)Mr Oeurn Samoul (GDA)PresentationYoutube
1:50-2:05Vietnam report (15mins)Ms Le Thi Hang (PPRI)Presentation
2:05-2:20Thailand report (15mins)Dr Wanwisa Siriwan (KU)Presentation
2:20-2:35Whitefly surveillance and bio-typing: implications for spread of CMV and other WF transmitted diseases  (15mins)Dr Warren Arinaitwe (CIAT)Presentation
2:35-2:50Questions and Answers (15mins) 
2:50 – 3:10Coffee
3:10-3:40Advances in developing low-cost diagnostics for the cassava sector. (20mins + 10min Q&A)Jimmy Botella (UQ)Presentation
3:40 – 4:00Overview of the developments in Cassava Witches Broom Research (20mins)Dr Warren Arinaitwe   (CIAT)  Presentation
4:00-4:15Characterisatisation of CWBD in Lao PDR (15mins)Ms Pinkham Vongphachanh (PPC)PresentationYoutube
4:15-4:40Panel – what will happen from here?  (30mins)  

Sustainability of surveillance and early warning systems; maintaining communication between NPPO
Dr Nguyen Van Liem (PPRI)

Dr Bounsu Soudmaly (PPC)

Dr Ny Vuthy (GDA)  
Discussion Padlet
4:40-5:00Have we learnt the lessons from CMD? Developing pre-emptive measures for future transboundary pest and diseaseStephan Winter (DSMZ)
5:00Close of Day 1 

Day 2 – Thursday 5th October

8:00Registration
Session 3: Enhance the capacity and collaboration between breeding programs in mainland Southeast Asia to develop new product profiles for commercially viable cassava varieties

Discussion Padlet
8:30-9:00Overview of breeding activities, outputs & outcomes (30mins)Dr Xiaofei Zhang  (CIAT)Presentation – extended

Presentation
short
Youtube – extended
9:00-9:30Breeding and evaluation of CMD resistant varieties in Vietnam (30mins)Ms Pham Thi Nhan (HLARC)  

Dr Anh Nguyen Hai (AGI)
Presentation

Presentation
Youtube

Youtube
9:30-9:45Evaluation of CMD resistant varieties in Laos (15mins)Mr Laothao Youabee (CIAT)PresentationYoutube
9:45-10:00Evaluation of CMD resistant varieties in Cambodia (15mins)Ms Kan Sopha (GDA)PresentationYoutube
10:00-10:20Breeding and evaluation of CMD resistant varieties in Thailand (20mins)Dr Chalermpol Phumichai (KU)Presentation
10:20-10:40Q&A (20mins) 
10:40- 11:00Coffee
11:00-11:15CATAS germplasm exchange and evaluation within the Asia Pacific RegionDr Chen Songbi (CATAS)Presentation
11:15-11:30Cassava breeding for multiple pathogens and market segments in AfricaDr Elizabeth Parkes (IITA)Presentation
11:30 – 12:00Discussion: Safe germplasm exchange and future priorities.   Is more CMD resistant genetic material required for Mainland SE Asia?  

What are the main market segments missing from current resistant breeding?  

Where is the best advanced material for food market segments and where should it be sent?  

What is on the horizon that we should be working on now and where?  

What are the tools and processes that need to be strengthened in the region?
Panel  
Xiaofei Zhang (CIAT)  

Suwaluk Sansanee (DOA)

Kartika Noerwijati- (BRIN)  

Speedy Crisostomo (UPLB)  

Thiyagu Devarajan (MARDI)

TBC (IITA and partners)
Discussion Padlet
12:00-1:00Lunch
Session 4: Develop and evaluate economically sustainable cassava seed system models for the rapid dissemination of new varieties and clean planting material to farmers in different value chains and production contexts

Discussion Padlet
1:00-1:30Overview of seed system and agronomic activities, outputs & outcomesDr Imran MalikPresentation
1:30-2:00Developing the cassava seed system in Vietnam (30mins)Dr Anh Nguyen Hai (AGI)


HLARC
Presentation

1. Irrigation
2. Density
3. Variety
4. Tunnel
5. Harvest date
Youtube

Youtube
Youtube
Youtube
Youtube
Youtube
2:00-2:30Laos (30mins)Ms Soukphathay Simeuang (NAFRI)  

Mr Saythong Oudthachit (NAFRI)

Dr Phanthansin Khanthavong (NAFRI)
Tissue culture


NAFRI Tunnels


Agronomy
Youtube


Youtube


Youtube
2:30-3:00Cambodia (30mins) Tunnel and AgronomyDr Orn Chhourn (CARDI)  

Meng Rithea (GDA)
Presentation


1. Agronomy

2. Tunnel System
Youtube


Youtube

Youtube
3:00-3:20Seed system developments in Thailand (20mins)Wannasiri Wannarat (KU-TTDI)Presentation
3:20 – 3:40Farmer demand, networks, and business models (20mins)Erik Delaquis (CIAT)Presentation
3:40-4:00Coffee
4:00-4:30Pannel (20mins) Q&A (10mins)Ngoc  

Nguyen Van Minh (TNU)  

Farmer   PDAFF    

Bountheung Thepsouvanh (LCA)  
4:30- 5:00Reflections on achievements and future prioritiesSharon Van Brunschot (CSIRO)  

Dr Prapit Wongtiem (DOA)  

Dr Yorn Try (Institute of Science, Technology, and Innovation)  

Dr Eric Huttner (ACIAR)  
Discussion Padlet
5:00 – 5:15Next steps  Dr Jonathan Newby (CIAT)

Share this:

Follow Us On Facebook

Follow us on Twitter

My Tweets

Supported by ACIAR and the CGIAR-RTB

Coodinated by the International Center for Tropical Agriculture (CIAT) j.newby@cgiar.org

GIỐNG SÁN TỐT PHÚ YÊN
Các giống sắn mới triển vọng KM568, KM539, KM537, KM569 kết quả chọn tạo khảo nghiệm tại tỉnh Phú Yên https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san

Phú Yên bảo tồn và phát triển sắn bền vững, câu chuyện hôi thảo sắn 2021 và một số thông tin mới cập nhật

PHÚ YÊN BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN SẮN BỀN VỮNG
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long, Nguyễn Nữ Quỳnh Đoan, Hoàng Kim

Tham luận trình bày tại Hội nghị Phú Yên 28 12 2021 “Giới thiệu về các công nghệ trong sản xuất Nông Lâm Thủy sản” và tại Hội nghị Phú Yên 31 12 2021 UBND tỉnh Phú Yên “Tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2016-2020, định hướng phát triển ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025

Tỉnh Phú Yên xác định lúa mía sắn là ba cây trồng chủ lực, lợi thế đầu tư tái cơ cấu theo hướng gia tăng giá trị, sản xuất tập trung, quy mô lớn và bền vững, tầm nhìn đến năm 2030, là trọng điểm chuỗi giá trị về nông sản và nền tảng của an sinh, kinh tế, xã hội địa phương . Nhân dân Phú Yên và hệ thống chính trị xã hội đều năng động, hiệu quả, giỏi nghiên cứu ứng dụng phát triển. Thành tựu hoạt động khoa học và công nghệ 2016-2020 Phú Yên đã đạt được là khảo nghiệm, tuyển chọn và phát triển được giống sắn chủ lực KM419, giống sắn phổ biến KM440, mô hình canh tác sắn thích hợp bền vững, đồng hành với việc chọn tạo và phát triển giống lúa siêu xanh GSR65, giống lúa siêu xanh GSR90 phẩm chất ngon, năng suất cao, thích ứng biến đổi khí hậu. Định hướng phát triển ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025, tỉnh Phú Yên đã lựa chọn giải pháp bảo tồn và phát triển sắn thích hợp bền vững. Đề tài “Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/catrgory/bao-ton-va-phat-trien-san

Sắn Việt Nam là câu chuyện nhiều năm còn kể. Gia đình sắn Việt Nam là một kinh nghiệm quý về sự liên kết chặt chẽ giữa các ‘bạn nhà nông’ chuyên gia nông học, thầy giáo cán bộ nghiên cứu sinh viên, các chuyên gia quốc tế cùng làm việc chặt chẽ với nông dân xây dựng mô hình điểm trình diễn, đó là chìa khóa cho sự bảo tồn và phát triển. “Chuyện ngậm ngãi tìm trầm” “Sắn Việt đất ông Hoàng” là hai ghi chú nhỏ trong số đó.

Chọn tạo khảo nghiệm và nhân giống là một chuỗi công việc cẩn trọng công phu và nhiều vấn nạn ngày nay. Khảo nghiệm DUS và VCU là một nội dung rất quan trọng, trước khi nhân giống, khảo nghiệm sản xuất, xây dựng mô hình và quy trình canh tác thích hợp cho giống sắn mới. Nội dung khảo nghiêm DUS và VCU giống sắn được thực hiện theo đúng Thông tư Quy định về khảo nghiệm, công nhận giống cây trồng nông nghiệp mới của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, thi hành Luật Trồng trọt (Quốc Hội 31/2018, hiệu lực thi hành 1.1.2020), để tránh nhân giống sớm những giống sắn chưa được kiểm định nghiêm ngặt và chưa đủ thông tin tự công bố giống, tránh gây thiệt hại cho sự đầu tư của nông dân, doanh nghiệp và chuỗi giá trị sản xuất chế biến kinh doanh sắn.

Fwd: FOOD CROPS: Current situation of cassava in Vietnam and the breeding of improved cultivars

Từ: hoangkim vietnam <hoangkim.vietnam@gmail.com>
Ngày: 20 thg 9, 2023 lúc 04:19
Chủ đề: Re: FOOD CROPS: Current situation of cassava in Vietnam and the breeding of improved cultivars
Tới: CLAIR HERSHEY <clair.hershey@gmail.com>
CC: <hoangkim@hcmuaf.edu.vn>, <hoangkim_vietnam@yahoo.com>Inbox

Dear Clair Hershey .This is interesting. Thank you very much for your information. We will sending to you soon. Best wish regard. Your sincerely. Hoang Kim 

Vào Thứ 4, 20 thg 9, 2023 lúc 00:33 CLAIR HERSHEY <clair.hershey@gmail.com> đã viết:

Dear Hoang Kim,

It has been quite a long time since we have been in contact. I hope you are doing very well. I see your occasional posts on Facebook and elsewhere, and continued work on cassava.

I retired from CIAT in 2016, but continue to collaborate with them on some projects. Currently I am writing a history of the CIAT cassava genebank since its first establishment in 1969. 

One of the topics included in the report is the cassava core collection. I am trying to gather information about all the evaluations done on the core collection.

In my searches, I came across the paper you and colleagues wrote, and re-published as a blog spot in 2010, which I have attached here. 

I note that in the paragraph just before Table 8, you refer to evaluating cassava varieties for ethanol production from the CIAT core collection that is held in Vietnam. It seems that the current CIAT staff in Asia does not have information about this. Can you please possibly provide me with a few details? Did you introduce the core collection from CIAT Colombia or from Thailand? Is the evaluation data available in any publication? 

Thank you very much in advance for any information about this. I will appreciate it very much.

With very best wishes,

http://foodcrops.blogspot.com/2010/05/current-situation-of-cassava-in-vietnam.html

see more: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

Sách sắn “Quản lý bền vững sắn châu Á từ nghiên cứu đến thực hành” (Nguyên tác tiếng Anh: Sustainable management of cassava in Asia – From research to practice; tác giả tiến sĩ Reinhardt Howeler và tiến sĩ Tin Maung Aye, CIAT, 2015, 148 trang, CIAT Publication No. 396, chỉ số xuất bản ISBN 978-958-694-136-5), Người chuyển ngữ tiếng Việt  Hoàng Kim, Hoang Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai; CIAT, VAAS, The Nippon Foundation, Nhà xuất bản thông tấn, 2015. Chỉ số xuất bản 9786049450471. PGS TS Trịnh Khắc Quang, Giám đốc VAAS và Tiến sĩ Clair Hershey, Trưởng Chương trình sắn CIAT đã viết lời giới thiệu và lời nói đầu sách này: (trích) ”Công việc tóm tắt trong tài liệu này thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt.”.

Sách này có 13 chương. Chúng tôi trích giới thiệu chương 10 và chương 11 trong bài Sắn Việt Nam và Howeler, được sự đồng ý của tiến sĩ Reinhardt Howeler và tiến sĩ Tin Maung Aye, Nội dung Chương 10:”Kết hợp phân bón thương mại, phân chuồng, phân xanh để cải thiện độ phì nhiêu và tăng năng suất sắn” (trang 89-98).Nội dung Chương 11 Cách thức sinh học để tăng năng suất và cải thiện đất (trang 99 -110).

Chọn giống sắn kháng CMD; Chọn giống sắn Việt Nam; Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Cách mạng sắn Việt Nam; Sắn Việt Nam và Kawano, Cassava and Vietnam: Now and Then; Sắn Việt Nam và Howeler; Quản lý bền vững sắn châu Á; Sắn Việt Nam sách chọn; CIAT Colombia thật ấn tượng; Sắn Việt Nam bài học quý, Sắn Việt và Sắn Thái; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Lúa sắn Việt Châu Phi; Martin Fregene xa mà gần; Người lính cây sắn tuổi thơ , Sắn Việt Lúa Siêu Xanh

QUẢN LÝ BỀN VỮNG SẮN CHÂU Á
Từ Nghiên cứu đến Thực hành

Tác giả: Reinhardt Howeler và Tin Maung Aye
Người dịch: Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai

LỜI GIỚI THIỆU

Sắn Việt Nam trong vùng sắn châu Á đã tạo được sự đột phá có ý nghĩa toàn cầu. Sắn Việt Nam hiện được FAO (2013) ca ngợi là điển hình của sắn thế giới khi so sánh năm 2000 năng suất sắn Việt Nam đạt 8,35 tấn/ha, gần tương đương với năng suất sắn châu Phi (8,65 tấn/ha) nhưng đến năm 2011 sắn Việt Nam đã đạt năng suất  17,73 tấn/ha, vượt xa năng suất sắn bình quân châu Phi đạt 10,77 tấn/ha và cao hơn hẳn năng suất sắn bình quân châu Mỹ là 12,92 tấn/ha.  Tại Tây Ninh, nhiều hộ nông dân đã tăng năng suất sắn lên 400%, từ 8,35 tấn/ ha lên trên 36,0 tấn / ha. Sắn lát và tinh bột sắn Việt Nam đã trở thành một trong mười mặt hàng xuất khẩu chính. Sắn Việt Nam hiện đã thành nguồn sinh kế, cơ hội xóa đói giảm nghèo và làm giàu của nhiều hộ nông dân và hấp dẫn sự đầu tư của nhiều doanh nghiệp chế biến kinh doanh. Dẫu vậy, sắn Việt Nam cũng bộc lộ nhiều rủi ro, bất cập trong sản xuất, chế biến, kinh doanh và bảo vệ môi trường.

Thay mặt cho Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, tôi vinh dự được viết lời giới thiệu cho cuốn sách “Quản lý bền vững sắn châu Á: Từ nghiên cứu đến thực hành” của tác giả Reinhardt Howeler và Tin Maung Aye, chủ biên dịch Hoàng Kim với sự cộng tác của Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai. Cuốn sách này đúng như lời tác giả “thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có về kỹ thuật canh tác sắn sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để thấu hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt”. Mặt khác, cuốn sách cũng là cẩm nang nghề nghiệp cho những người làm công tác nghiên cứu, chỉ đạo sản xuất và hoạch định chính sách về cây sắn, là cầu nối để trao đổi, thảo luận về các vấn đề cùng quan tâm trong quản lý đất và canh tác sắn bền vững ở châu Á.

Kính chúc bà con nông dân những mùa thu hoạch sắn bội thu.

Trịnh Khắc Quang
Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS)

LỜI NÓI ĐẦU

Sắn là một trong những loại cây trồng thích nghi vùng cao phổ biến nhất ở châu Á vì tính linh hoạt của nó trong hệ thống cây trồng, khả năng sản xuất thuận lợi trong điều kiện khó khăn và tính đa dụng cung cấp thực phẩm, thức ăn gia súc, nguồn thu nhập cho hộ nông dân. Mặc dù sắn có tiếng là cây dễ trồng, nó vẫn đòi hỏi phải quản lý tốt để có được năng suất cao qua các năm, đi đôi việc bảo vệ nguồn đất và nước.Thế giới nông nghiệp đang chuyển đổi một cách nhanh chóng và cây sắn cũng không tránh khỏi sự thay đổi này. Một mặt, thị trường sắn và sản phẩm sắn đang tăng trưởng ở một số nước châu Á với khả năng thu lợi nhiều hơn từ cây này. Nhiều giống sắn mới năng suất cao là có giá trị đối với hệ thống sản xuất và sự hiểu biết về quản lý đất và cây trồng tối ưu đã được tăng đều đặn. Đồng thời, vấn đề sâu bệnh cũng trở nên quan trọng và thường ảnh hưởng đến sản lượng cây trồng. Kiểm soát chúng đòi hỏi kiến thức tốt và quản lý cẩn thận. Có nhiều lựa chọn trong hoạt động quản lý cây trồng như chuẩn bị đất, mật độ trồng, quản lý cỏ dại và các công cụ thu hoạch. Việc sản xuất cây giống chất lượng cao (homhạt giống) có lợi thế tiềm năng mà thường không được đánh giá đầy đủ bởi người trồng sắn. Quản lý độ phì đất là thực hành cốt lõi mang lại thành công lâu dài cho nhiều nông dân trồng sắn. Hiểu biết thấu đáo các yếu tố đầu vào và thực hiện những điều đó góp phần tối ưu hóa năng suất, về lâu dài là nền tảng thành công của một người nông dân trồng sắn.

Nhưng kết hợp đúng thực tiễn cần được cụ thể cho mỗi trang trại. Những người nông dân trồng sắn thường không dễ tiếp cận thông tin chuẩn mực về thực hành quản lý tốt nhất. Ở hầu hết các nước, hệ thống khuyến nông cung cấp tư vấn kỹ thuật cho người nông dân trồng sắn không phát triển như đối với cây lúa hoặc cây ngô và thỉnh thoảng còn không có. Các chuyên gia tư vấn thường là cán bộ khuyến nông, các đại diện bán hàng của công ty cung cấp nguyên liệu đầu vào như phân bón hay thuốc trừ sâu, hay các chuyên viên kỹ thuật của các công ty chế biến. Họ thường làm việc với nhiều loại cây trồng và nhiều nông dân, hoặc có thể có các lợi ích thương mại với động cơ mua bán sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể. Hầu hết các công nghệ được phát triển cho sắn được thiết kế thân thiện môi trường, nghĩa là không phụ thuộc vào đầu vào cao của hóa chất hoặc các thực hành bất lợi. Điều quan trọng là công nghệ được phổ biến và phát huy tận dụng mối quan tâm đối với môi trường.

Cuốn sách này nhằm mục đích cung cấp thông tin có cơ sở tốt về quản lý cây sắn để nông hộ thu lợi tối đa và phát triển tốt hơn trong khi vẫn bảo tồn độ phì nhiêu của đất và phát triển bền vững lâu dài. Nó được dựa trên những kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu từ nhiều thập kỷ qua, đặc biệt không chỉ ở châu Á mà còn ở châu Phi và châu Mỹ Latinh. Rất nhiều thông tin được phát triển bởi sự tham gia làm việc giữa Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới (CIAT) – có trụ sở ở Cali, Colombia, và một văn phòng khu vực châu Á, trước đây đặt ở Bangkok, Thái Lan và hiện nay đang đặt ở Hà Nội, Việt Nam – với các tổ chức đối tác trong khu vực. Các đối tác này được đề cập trong tài liệu thông qua hướng dẫn thảo luận các thí nghiệm hoặc công nghệ liên quan. Nhiều nông dân tham gia phát triển ý tưởng và giải pháp trong chương trình nghiên cứu có sự tham gia của nông dân (FPR). Đây là một phần quan trọng trong việc đảm bảo sự phù hợp thực tế của các kết quả.

Cuốn sách được thiết kế cho những người cung cấp tư vấn trực tiếp đến nông dân, cũng như các giáo viên, nhà nông học, sinh viên, cán bộ khuyến nông, đại lý nông sản và công nghiệp chế biến cùng những ai quan tâm đến quản lý đất và cây trồng bền vững đối với sắn ở châu Á. Sách cũng được dùng để cung cấp thông tin tư vấn trực tiếp đến nông dân, những người hiểu biết kỹ thuật canh tác sắn để vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của mình. Tuy sách chưa có hướng dẩn chi tiết tại trang trại cá nhân nhưng nó là cẩm nang hướng dẫn cho cán bộ khuyến nông và những người làm việc với cộng đồng nông dân để điều chỉnh thích hợp với nhu cầu cụ thể. Chúng tôi mời các đối tác quốc gia sử dụng hướng dẫn này một cách tự do để phát triển các tài liệu bổ sung cho mục đích đào tạo và khuyến nông địa phương.

Các tác giả cuốn sách này là tiến sĩ Reinhardt Howeler và Tin Maung Aye đã làm việc rộng khắp với một loạt các đối tác, các trạm thí nghiệm và trên đồng ruộng của nông dân. Công việc tóm tắt trong tài liệu này thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt.

Sách hướng dẫn này sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự hỗ trợ của quỹ Nippon. Những gắn bó hơn hai thập kỷ hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu, đào tạo và phát triển mạng lưới trên khắp Đông Nam Á. CIAT trân trọng cảm ơn vai trò quan trọng của Quỹ Nippon trong các sáng kiến nghiên cứu phát triển thông tin bao gồm hướng dẫn này, cũng như hỗ trợ biên dịch và sản xuất tài liệu hướng dẫn.

Chương trình sắn CIAT hân hạnh giới thiệu hướng dẫn này để sử dụng trong việc quản lý hệ thống sản xuất trồng sắn nhằm tối ưu hóa lợi ích ngắn và dài hạn cho nông dân cũng như để bảo vệ môi trường.

Clair Hershey

Trưởng Chương trình sắn CIAT

PHÚ YÊN BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN SẮN BỀN VỮNG
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long, Nguyễn Nữ Quỳnh Đoan, Hoàng Kim

Tham luận trình bày tại Hội nghị Phú Yên 28 12 2021 “Giới thiệu về các công nghệ trong sản xuất Nông Lâm Thủy sản” và tại Hội nghị Phú Yên 31 12 2021 UBND tỉnh Phú Yên “Tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2016-2020, định hướng phát triển ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025

Tỉnh Phú Yên xác định lúa mía sắn là ba cây trồng chủ lực, lợi thế đầu tư tái cơ cấu theo hướng gia tăng giá trị, sản xuất tập trung, quy mô lớn và bền vững, tầm nhìn đến năm 2030, là trọng điểm chuỗi giá trị về nông sản và nền tảng của an sinh, kinh tế, xã hội địa phương . Nhân dân Phú Yên và hệ thống chính trị xã hội đều năng động, hiệu quả, giỏi nghiên cứu ứng dụng phát triển. Thành tựu hoạt động khoa học và công nghệ 2016-2020 Phú Yên đã đạt được là khảo nghiệm, tuyển chọn và phát triển được giống sắn chủ lực KM419, giống sắn phổ biến KM440, mô hình canh tác sắn thích hợp bền vững, đồng hành với việc chọn tạo và phát triển giống lúa siêu xanh GSR65, giống lúa siêu xanh GSR90 phẩm chất ngon, năng suất cao, thích ứng biến đổi khí hậu. Định hướng phát triển ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025, tỉnh Phú Yên đã lựa chọn giải pháp bảo tồn và phát triển sắn thích hợp bền vững. Đề tài “Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/catrgory/bao-ton-va-phat-trien-san


Đề tài Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên” là cấp bách và quan trọng. Mục tiêu: Chọn tạo được giống sắn có năng suất tinh bột vượt hơn đối chứng KM419 và KM94 tối thiểu 10%, kháng được sâu bệnh hại chính, đạt điểm bệnh cấp 1-2 đối bvo71i bệnh khảm lá virus CMD và bệnh chồi rồng, thích hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên; Nội dung : 1) Những vấn đề cần chú ý trong sản xuất sắn hiện nay để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cây sắn; 2) Thành tựu và bài học sắn Việt Nam (2016-2021) trước và trong dịch bệnh sắn CMD và CWBD ; 3) Phú Yên bảo tồn và phát triển sắn bền vững; Tiến bộ giống sắn Việt Nam 1975-2021 là nền tảng khoa học và thực tiễn để lựa chọn, xác định các tổ hợp lai, bảo tồn và phát triển giống sắn tốt kháng bệnh; Giống sắn KM568 và KM569 là thành quả bước đầu của nâng cấp cải tiến giống sắn chủ lực sản xuất KM419 và KM440 năng suất tinh bột cao nhất hiện nay bằng cách lai hữu tính với giống sắn KM539 kháng bệnh CMD, tích hợp gen quý này vào giống sắn tốt Việt Nam theo chuẩn kỹ thuật và công nghệ tạo dòng sắn lai;

CÁC GIỐNG SẮN TỐT PHỔ BIẾN Ở VIỆT NAM

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là su-that-tot-hon-ngan-loi-noi.jpg

GIỐNG SẮN PHỔ BIẾN KM 419

Giống sắn KM419 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2016 chiếm 38 % so với giống sắn KM94 chiếm 31,7% (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree), và từ năm 2019 giống sắn KM419 chiếm trên 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam. Sau năm 2021, giống sắn KM419 dần được chuyển đổi bởi các giống sắn mới KM568, KM539, KM537, KM569, KM94* , HN1 kháng cao với bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD, có năng suất tinh bột cao và thích nghi sinh thái

Giống sắn KM 419 được chọn tạo từ tổ hợp lai BKA900 x KM 98-5. Giống do Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên, Trường Đại học Nông Lâm Huế tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Thị Trúc Mai, Võ Văn Quang, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Lệ Dung, Nguyễn Phương, Hoàng Long, Nguyễn Minh Cường, Đào Trọng Tuấn, Trần Công Khanh, Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thị Cách, Nguyễn Trọng Hiển, Lê Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2016), Giống sắn KM419 đượcBộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận sản xuất thử tại Quyết định số 85 / QĐ-BNN-TT Hà Nội ngày 13 tháng 1 năm 2016 cho vùng sinh thái Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ).

Giống KM419 có đặc điểm:

+ Thân xanh xám thẳng, ngọn xanh cọng đỏ, lá xanh đậm, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 34,9-54,9 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
+ Hàm lượng tinh bột: 27,8 – 30,7%.
+ Năng suất tinh bột: 10,1-15,8 tấn/ ha
+ Chỉ số thu hoạch: 62 %.
+ Thời gian thu hoạch: 7-10 tháng.
+ Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng và bệnh khảm lá virus CMD
+ Cây cao vừa, nhặt mắt, tán gọn, thích hợp trồng mật độ dày 12,500- 14.000 gốc/ ha .

Giống sắn KM419 đã phát triển rộng rãi tại Tây Ninh, Đồng Nai, Đắk Lắk, Phú Yên,…được nông dân các địa phương ưa chuộng với tên gọi sắn giống cao sản siêu bột Nông Lâm. Đặc biệt tại tỉnh Phú Yên giống sắn KM419 được trồng trên 85% tổng diện tích sắn của toàn tỉnh mang lại bội thu năng suất và hiệu quả cao về kinh tế xã hội. Tại Tây Ninh, năm 2019 diện tích sắn bị nhiễm bệnh CMD tuy vẫn còn cao nhưng mức độ hại giảm mạnh, lý do vì KM419 và KM94 là giống chủ lực chiếm trên 76% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh (KM419 chiếm 45% ở vụ Đông Xuân và 54,2% ở vụ Hè Thu; KM94 chiếm 31% ở vụ Đông Xuân và 21,6% ở vụ Hè Thu). Tại Đăk Lắk, từ năm 2019 diện tích sắn KM419 chiếm trên 70% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh.

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là 72c6f-km4402b01.jpg

GIỐNG SẮN PHỔ BIẾN KM 440

Đặc điểm giống: KM440 thân xanh, thẳng, nhặt mắt, không phân cành, lá già xanh đậm, đọt non màu xanh tím, củ đồng đều, dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng, ít nhiễm sâu bệnh, năng suất củ tươi 40,5 đến 53,1 tấn/ha. Hàm lượng bột đạt từ 27,0 -28,9%,. giống ngắn ngày, thời gian giữ bột sớm hơn KM94. 

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là km440-04.jpg

GIỐNG SẮN PHỔ BIẾN KM 440

SanVietnam

GIỐNG SẮN PHỔ BIẾN KM 94

Nguồn gốc Giống sắn KM94 hoặc KU50 (hoặc Kasetsart 50) được nhập nội từ CIAT/Thái Lan trong bộ giống khảo nghiệm Liên Á năm 1990. Giống do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nhập nội, tuyển chọn và giới thiệu (Trần Ngọc Quyền, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Kazuo Kawano 1995, Trịnh Phương Loan, Trần Ngọc Ngoạn và ctv. 1995). Giống được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống quốc gia năm 1995 trên toàn quốc tại Quyết định số 97/NN-QLCN/QĐ ngày 25/11/1995. Giống sắn KM94 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2008 chiếm 75, 54% (Hoang Kim Nguyen Van Bo et al. 2010), năm 2016 chiếm 31,7 % và năm 2019 chiếm khoảng 37% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam

Đặc điểm giống: Giống KM94 có đặc điểm

+ Thân xanh xám, ngọn tím, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 33,0 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
+ Hàm lượng tinh bột: 28,7%.
+ Năng suất tinh bột: 7,6-9,5 tấn/ ha
+ Chỉ số thu hoạch: 58 %.
+ Thời gian thu hoạch: 9-11 tháng.
+ Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng, bệnh khảm lá sắn CMD và bệnh cháy lá
+ Cây cao, cong ở phần gốc, thích hợp trồng mật độ 10.000-11 000 gốc/ ha .

GIỐNG SẮN PHỔ BIẾN KM 140

Nguồn gốc::Giống sắn KM140 là con lai của tổ hợp KM 98-1 x KM 36 do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Công Khanh, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Hữu Hỷ, Phạm Văn Biên, Đào Huy Chiên, Reinhardt Howeler và Hernan Ceballos 2007, 2009). Giống KM140 được Bộ Nông nghiệp & PTNT, cho phép sản xuất thử trên toàn quốc (Quyết định số 3468/ QĐ- BNN- TT, ngày 05/ 11/ 2007) và công nhận chính thức tại Quyết định số 358 ngày 20 tháng 09 năm 2010 và cho phép sản xuất hàng hoá trên toàn Quốc theo Thông tư số 65. 65/2010/TT-BNNPTNT, ngày 05 tháng 11 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 0714-10-10-00.và đoạt giải Nhất Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc VIFOTECH năm 2010. Giống KM140 được trồng nhiều tại các tỉnh phía Nam với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 30.000 ha, năm 2010 trồng trên 150.000 ha; hiện là giống phổ biến.

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là km140-02.jpg

Đặc điểm giống:
+ Thân xanh, thẳng, ngọn xanh, cây cao vừa phải, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 33,4 – 35,0 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 34,8 – 40,2%.
+ Hàm lượng tinh bột: 26,1- 28,7%.
+ Năng suất bột : 9,5 -10,0 tấn/ha
+ Chỉ số thu hoạch: 58 -65 %.
+ Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.
+ Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.
+ Thời gian giữ bột ngắn hơn KM94

Chọn giống sắn Việt Nam; Giống sắn KM140 giải VIFOTEC http://news.gov.vn/Home/VIFOTEC-2009-boasts-for-high-applicability/20101/6051.vgp

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là km985.jpg

GIỐNG SẮN PHỔ BIẾN KM 98-5
Nguồn gốc: Giống sắn KM98-5 là con lai của tổ hợp KM 98-1 x Rayong 90 do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Công Khanh, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Hữu Hỷ, Phạm Văn Biên, Đào Huy Chiên, Reinhardt Howeler và Hernan Ceballos 2006, 2009). Giống được UBND tỉnh Tây Ninh và UBND tỉnh Đồng Nai công nhận kết quả đề tài ứng dụng KHKT cấp Tỉnh năm 2006. Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 2009 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên tại Quyết định số 358 ngày 20 tháng 09 năm 2010 Giống KM98-5 được trồng tại các tỉnh phía Nam với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 25.000 ha, năm 2010 trồng trên 100.000 ha; hiện là giống phổ biến..

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là km98-5-02.jpg

Đặc điểm giống:
+ Thân xanh, hơi cong ở gốc, ngọn xanh, ít phân nhánh.
+ Giống sắn KM98-5 có cây cao hơn và dạng lá dài hơn so với KM419
+ Năng suất củ tươi: 34,5 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 39,2%.
+ Hàm lượng tinh bột: 28,5%.
+ Năng suất bột : 9,8 tấn/ha
+ Chỉ số thu hoạch: 63 %.
+ Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.
+ Thời gian giữ bột tương đương KM94
+ Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.

GIỐNG SẮN PHỔ BIẾN KM98-1

Nguồn gốc: KM98-1 là con lai Rayong 1x Rayong 5 (= giống sắn KU 72 của Thái Lan hình trên, nhưng việc lựa chọn giống bố mẹ, lai tạo và chọn dòng thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam) do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Kazuo Kawano, Trần Hồng Uy, Trần Ngọc Quyền, Võ Văn Tuấn, Trần Công Khanh, 1999). Giống KM98-1 được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 1999 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên (MARD Certificate No. 3493/QD-BNN–KHKT, Sep 9, 1999). Giống KM98-1 được trồng phổ biến tại các tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai, Nghệ An, Thừa Thiên Huế…. với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 18.000 ha, năm 2010 trồng trên 20.000 ha, hiện là giống phổ biến..

Đặc điểm giống:
+ Thân xanh, tai lá rõ, lá xanh, cọng tím
+ Năng suất củ tươi: 32,5 – 40,0 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,8%.
+ Hàm lượng tinh bột: 27,2- 28,3 %.
+ Năng suất bột : 8,9 tấn/ha
+ Chỉ số thu hoạch: 66 %.
+ Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.
+ Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.
+ Bảo quản giống ngắn hơn KM94

GIỐNG SẮN PHỔ BIẾN SM 937-26

Nguồn gốc:: Tên gốc SM937 của CIAT/Clombia được nhập nội bằng hạt từ CIAT/Thái Lan năm 1990. Giống do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Ngọc Quyền, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Kazuo Kawano 1995). Giống SM937-26 được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận tạm thời năm 1995 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên tại Quyết định số 98/NN-QLCN/QĐ ngày 25/11/1995.. Giống SM937-26 được trồng nhiều tại các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 15.000 ha, năm 2010 trồng trên 20.000 ha, hiện là giống phổ biến.

Đặc điểm giống:
+ Thân nâu đỏ, thẳng, không phân nhánh
+ Năng suất củ tươi: 32,5 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 37,9%.
+ Hàm lượng tinh bột: 28,9%.
+ Năng suất bột : 9,4 tấn/ha
+ Chỉ số thu hoạch: 61 %.
+ Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.
+ Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.
+ Vỏ củ dày và cứng hơn KM940; Hoang & ctv., 2014).

Giống sắn KM419 bìa trái thấp cây, tán gọn, cọng đỏ, chống chịu trung bình với bệnh CMD và CWBD , và các dòng sắn lai ít bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 giữa, cao cây, cọng xanh, nhiễm nặng bệnh CMD

Giải pháp chọn giống sắn Việt Nam tiếp nối hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có. Bài viết CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM đúc kết tóm tắt thông tin đã có và định hướng cho sự nổ lực Trúc Mai, Hoang Long, BM Nguyễn, Nguyen Van Nam, Nhan Pham, Hung Nguyenviet, Hoàng Kim, Jonathan Newby … đang lai hữu tính và bồi dục nâng cao tính kháng cho các giống sắn KM419, KM440, KM397, tốt nhất hiện nay

Chọn giống sắn kháng CMD
Chọn giống sắn kháng CWBD

SanVietnam

Chọn giống sắn Việt Nam
Sắn Việt Nam và Howeler
Sắn Việt Nam và Kawano

VƯỜN GIỐNG SẮN ĐỒNG XUÂN
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long, Nguyễn Nữ Quỳnh Đoan, Hoàng Kim

Vườn giống sắn Đồng Xuân là nơi bảo tồn nguồn gen giống sắn gốc và lai tạo các tinh dòng sắn lai ưu tú (elite clones), nơi khảo sát đánh giá tập đoàn các giống sắn tuyển chọn. Mục đích nhằm thu thập bảo tồn và phát triển thành tựu tốt nhất về giống sắn có năng suất tinh bột cao, kháng được một số sâu bệnh hại chính (CBD, CWBD, …) phù với điều kiện sản xuất sắn tại tỉnh Phú Yên. Dưới đây là một số hình ảnh và thông tin chọn lọc

Cassava and Vietnam Now and Then

(キャッサバとベトナム-今昔物語)

Kazuo Kawano

I visited Vietnam for a week this last December,  where a team of NHK video-taped for a documentary of the changes caused by the new cassava varieties I introduced 20 years ago in the lives of small framers, the enhanced activities of industrial and business communities and the development of research organizations. It was a most interesting, amusing and rewarding visit where I reunited with a multitude of former small farmers who are more than willing to show me how their living had been improved because of KM-60 and KM-94 (both CIAT-induced varieties) , many “entrepreneurs” who started from a village starch factory, and several former colleagues who became Professor, Vice Rector of Universities, Directors of research centers and so on. Vietnam can be regarded as a country whoaccomplished the most visible and visual progress most rapidly and efficiently utilizing CIAT-induced technology.

For my own record as well as for responding to the requests from my Vietnamese colleagues, I decided to record the changes and progress that had taken place in Vietnam in general and in cassava varietal development in particular in a series of picture stories. This is the first of long stories that would follow.  

 昨年の12月に、NHKの国際ドキュメンタリー番組の収録でベトナムを10年ぶりに再訪する機会があった。それは私が中心となって開発したキャッサバの多収性・高澱粉性の新品種群を20年 前に導入した事が引き起こした人々の生活向上の様子を、南から北へと訪ね歩く旅であった。今回の旅では、小農から出発して家を建て中農、富農となった多数 の人々、村の澱粉加工所の親父だったのが大工場のオーナーや実業家となっている幾人もの成功者、そして殆んど名前だけの研究員であったのが今や試験場長、 大学教授、副学長になっている昔の仲間達を訪ね歩いたが、その殆んどの人が私との再会を喜んでくれて、口々に新しいキャッサバ品種のおかげで自分達の生活 と境遇が革命的に良くなったと話してくれた。

  私自身の記録のため、それにベトナムの昔の仲間からのリクエストに答える目的もあって、この20年間のベトナムの発展とキャッサバ生産の進展を絵物語風に書き留めることにした。これはその長い物語の始まりの章である。



The basis of Vietnamese agriculture is rice. Cassava is planted on the upper parts.

                                  In flat, dry area, they plant cassava predominantly

Meeting old friends at Hung Loc Agricultural Research Center:Now, Hoang Kim is Senior Lecturer at Nong Lam University in Ho Chi Minh city and Nguyen Huu Hy is Director of Hung Loc Agricultural Research Center

Reunion with advanced farmer Mr. Ho Sau with Hoang Kim and students in Trang Bom, Dong Nai


Reunion with advanced farmer Mr. Tong Quoc Thanh with Hoang Kim in Tay Ninh

Meeting Former Director Truong Van Ho, old colleague Trinh Thi Phuong Loan (Retired as Deputy Director) and other friends at Root Crop Research Center, Vietnam Agricultural Science Institute in Hanoi

Meeting Tran Ngoc Ngoan (Now, Vice-Rector of Thai Nguyen University), Mrs. Loan and Mr. Ngo Trung Kien (an advanced farmer) in Mr. Kien’s house, Pho Yen, Bac Thai 

Meeting Mrs. Sau and Mrs. Quyen, successful former cassava farmers, in Hatay, near Hanoi

Giving concluding remarks in the end of Vietnam Journey in Lake Hoan Kiem, Hanoi,
5 Dec 2009

A BRIEF HISTORY OF A SUCCESSFUL BREEDING PROGRAM

As is widely known, Vietnam has accomplished a rapid economic development in  recent 20 years. During the same period, , cassava, starting from a low status crop grown by small farmers and consumed as human food by poor people, has grown into a major crop providing raw materials for animal feeding, industrial starch processing and most recently bio-ethanol production (though I have some reservations for using cassava for this purpose), thus bringing precious cash income to millions of small farm families. When I first visited Vietnam in 1988, cassava’s acreage all over the country was 0.28 million ha with mean yield of 8.4 t/ha. It now occupies 0.56 million ha (official figure: the actual figure is said to be around 0.65 million ha; the emphasis of research is gradually shifting from varietal improvement to soil conservation) with 15.9t/ha mean yield. Vietnam has now advanced to World No. 2 exporter of cassava products next only to Thailand.

It is extremely gratifying to witness this progress toward the end of my career; then, what made this experience possible? The breeding work that has brought this result started when I joined CIAT as cassava breeder in 1973, where CIAT was inaugurating an integrated cassava research program with global mandate by recruiting a half dozen of young PhD from world reputable universities. As such, I initiated a comprehensive cassava breeding program using a population which contained a vast genetic variation coming from more than 2000 native varieties collected from the centers of origin and diversification of cassava all over Latin America.

Especially noteworthy in this process is the fact that those countries such as Colombia, Brazil and Mexico where abundant cassava germplasm existed donated  to or allowed CIAT to collect native cassava varieties on the condition that the newly established international research center CIAT uses all these germplasm for the welfare of people in the world without pursuing any monetary profit. It goes without saying that those rural small farmers who grew native cassava varieties inherited from their ancestors were very cooperative with the CIAT collection. The researchers as well the early CIAT administration clearly shared the immeasurable importance of basic germplasm in pursuing large scale breeding.

I accomplished much of the basic breeding during the first 10 years at CIAT/Colombia and moved to Thailand in 1983 by opening a CIAT/Asia office on the understanding that the effect of cassava varietal improvement would be more eminent in Asia. Thus, I started a more practical breeding in close collaboration with Thai workers. Here again, we were very thankful that the Colombian government allowed us to transfer cassava breeding materials to Asia without condition. As a result, I had transferred more than 1 million genotypes of cassava, mainly in the form of F1 hybrid seeds, from Latin America to Asia during the 15 years that followed.

This breeding work, based on the hybridizations between Latin American and Thai materials, resulted in a great success and produced many superior varieties. Now, some 97% of the total 1.15million ha of cassava in Thailand is planted with these new varieties we developed. I transferred many advanced breeding materials from Thailand to other Asian countries such as Indonesia, Philippines, China and Vietnam. In this process as well, the Thai government authorization of transferring our breeding materials to other Asian countries, which could well be potential (in fact, actual) competitors to Thailand, was to be highly appreciated.

In 1989, I brought planting stakes of Rayong 60 and Kasetsart 50 among others as a check-in baggage of the Bangkok-Ho Chi Minh flight (The import and plant quarantine permit had been very willingly arranged by the Vietnamese institution). Upon harvesting the first cycle evaluation /multiplication at Hung Loc Center in 1990, I carried the planting stakes of these varieties from HCM to Hanoi to be evaluated and multiplied by the research institutions in the North. In retrospect, my action was rather unorthodox power play. Nevertheless, considering that this was the beginning of a long story which would develop to generating an annual additional economic effect in the order of 200 million US dollars to be shared by the millions of small farmers, power play may be justified on certain critical occasions.

                                           F1 selection at CIAT/Colombia in1976

One of the early selections, CIAT/Colombia circa 1980

                                      F1 selection at Rayong Center, Thailand, circa 1987

Rayong 60 in Feb 1988 at Rayong Center, one of the major early successes at CIAT/Thai collaborative breeding program

                                           A typical cassava field in North Vietnam in 1989

Cassava harvest being carried to market in Ho Chi Minh city in 1988


Processing cassava for noodle near Bien Hoa in 1988

Cassava starch processing as a cottage industry in Tay Ninh early 1990s

By 1996, farmers can harvest more cassava for feeding pigs by planting new varieties (Here is KM-60 or Rayong 60  in Hung Loc Agricultural Research Center, Dong Nai Province (1990) and Ha Tay Province (1996)

Large scale cassava starch factories began to appear in Tay Ninh circa 1996


Cassava starch production became a big business following the step of Thailand (Tay Ninh 2009)


Now, the Bio-ethanol processing using cassava (A new Bio-Ethanol Plant is being built in Phu Tho)

Ho Chi Minh city (Saigon)
I began my first trip report to Vietnam 22 years ago with the following phrase “As the Air France flight 174 landed eventlessly at the airport of Ho Chi Minh City, only the vastness of the airport reminded me of its once familiar name of Tan Son Nhut, which was now more a symbol; of disrepair and abandonment.” Now, two decades later, Ho Chi Minh city is an entirely different place. See the town before and now.

The tallest building I could see in 1988. It had an eerie feeling of a ghost house.

Street filled with bicycles in 1988.

Now in 2009, many new buildings were constructed and being constructed.

Traffic is now like Bangkok 20 years ago.

Now, serious efforts are being paid to keep the town presentable.

As a result, the city looks very charming these days.

Hanoi

A similar transmutation took place in Hanoi, but the extent of metamorphosis is actually greater in Hanoi because Hanoi in the 1980s was somewhat dismal place.

A typical Hanoi building in 1989

A Hanoi street in 1989

Hanoi outlook in 2009, it is quite an attractive town


Hanoi street is less noisy and probably more cultured than HCM (2009)

Relaxing at Hoan Kiem Lake in Hanoi (2009)

People (South)

Children and housing in Bien Hoa near Ho Chi Minh city in 1988


Moon cake factory in Ho Chi Minh city in 1988


Busy street in Ho Chi Minh city in 2009

Barbecue shop in Ho Chi Minh city in 2009

Children and mothers attending an art class in Ho Chi Minh city in 2009

People (North)
“Curiosos”; When we visited Hanoi in 1989, just the presence of Reinhardt Howeler caused quite a sensation.

Farm people near Hanoi in 1989

Children in cassava field near Hanoi in 1989


People in front of Mrs. Sau’s house in Hatay, near Hanoi in 2009; Successful lives change many things.

People relaxing on the bridge at Hoang Kiem Lake in Hanoi in 2009


Hanoi street shop in 2009; Westerners are no longer a curiosity

Shops in Ho Chi Minh city (more pictures including)

  • Ben Thanh Market in the center of Ho Chi Minh city in 1988
  • Inside the Market
  • Cassava sold in open market in Ho Chi Minh city in 1988
  • Market in 2009
  • Bread shop in HCM street in 2009; the cheapest one is \15 and the most expensive one is \50 (US$0.55)
  • A super market
  • Yet, outside HCM, this type of a small, traditional operation is still common; A movable shop near Bien Hoa in 2009
  • Shops in Hanoi
  • Hanoi market with children in 1989
  • Money changers in Hanoi street in 1989
  • Hanoi street shops in 2009
  • A toy shop in Hanoi in 2009
  • A department store in Hanoi in 2009

Book store in Ho Chi Minh city

  • As was expected, there was hardly any book store worthy of mention in my first visit in 1988. What I observed in this visit in 2009 follows:
  • The main section of a big book store
  • Children book section
  • Stationary section
  • I was most impressed with the good quality maps printed in Vietnam being sold at very reasonable prices

Noodle shops
When I first visited Vietnam in 1988, there was hardly any restaurant, in many places not even an eating place for pay, outside Saigon. All our itinerary was managed by the “Liaison officer” of the Government office in charge of foreign visitors and all the eating outside the big cities was officially arranged. The choice and the quality was predictably unimpressive at that time.

  • I was to witness a tremendous change in eating in this visit in 2009.
  • For shop in Hanoi
  • The renowned “Fo”
  • Market noodle shop in Ben Thanh Market in Ho Chi Minh city
  • A super deluxe version of cassava noodle “ラーメン” at \250(US$2.75)
  • Vietnam has caught up with Thailand in this type of ordinary eating; “Fo” is quite comparable with “Bamie Nam” of Thailand
  • Vietnam is the No.2 exporter of coffee next only to Brazil overtaking Colombia. As such, the Vietnamese coffee is good as ever, together with the Vietnamese bread,

Hotel
I described about the state of a government-run “hotel”  where we stayed in May 1989 as follows; “Yet, we had worst experiences when we traveled outside big cities. When we decided to stay in the city of Phan Rang about 350km to the northeast of Ho Chi Minh city, the new privately run hotel was all full so that we had to stay at the government run hotel. The government hotel occupied a large lot in which the sleeping quarters were 100m away from the eating place. Not a single soul was staying at this vast place on that night. I suspected no one had stayed for the past three months at least. The room was full of spider webs and dung of wall lizards and inevitably very dirty. There was no air conditioning or private toilet. A naked bulb was the only illumination and the door knob must have given out some 15 years ago and a huge pad lock had replaced it. The towel was provided but its original color was indiscernible. Many cockroaches were running in the communal bath room in which the toilet was full of rubbish and never flushed. An about 5cm rubber hose connected to the water faucet was the only shower facility (actually it worked very well; the only thing I liked of this ghost house. I was rather refreshed after suffering from all these pandemonium). The whole atmosphere suggested how a prison cell would look like. The whole setting was in good contrast with the private run hotel which was smaller but filled with guests and maintained a cheerful atmosphere. This was in the South. Things were worse in the North.

Yet, the most appalling part was the payment. The attendants, all elderly women, charged each of the Vietnamese colleagues an equivalent of US$1.75 in local currency, which was not particularly high for our understanding but paying an equivalent of 1.5 day wage for this accommodation was disputable. By regulation, they charged each of us US$27.50 in hard currency. In China, foreigners usually have to pay twice as much as native Chinese for air tickets, train tickets or hotel accommodation. For the domestic air tickets of Air Vietnam, foreigners have to pay four times as much in hard currency. Yet, this time it was 15 times as much. The attendants were showing the faces of incredulity. Anyone paying money for staying in this place was surprising enough. It must take foreign idiots to pay two month salary of local people for staying in this miserable place. Something is grossly wrong with the economic system. It is a tragedy that more than ten years was necessary to realize that.”Everything changed during the past 20 years, of course. Yet, it is in the hotel situation where the change can be seen most dramatically.

  • Hotel buildings in Ho Chi Minh city in 2009
  • Breakfast at Saigon Oscar Hotel where I stayed for three days in Dec 2009

Yet, the most impressive is the change in people’s attitude toward service and responsibility. I carelessly left a bag containing some memory cards and a recharger in my room at this Saigon Oscar Hotel. I realized this when I arrived in Hanoi but it was too late. Only half expectedly, I called the hotel from Yamatedai, Japan informing about what had happened. The hotel attendant answered that they were keeping the item in their Lost-and Found section. I immediately sent a Fax asking them to send the bag to my address in Japan. To my delight, the bag arrived in Yamatedai in good order a week later. I found it fair to inform this rather pleasant experience in some travelers’ Blog (口コミ旅行情報) as follows;

HUNG LOC AGRICULTURAL RESEARCH CENTER

In addition to the recognition, promotion and social success of my former colleagues such as Hoang Kim, Nguyen Huu Hy, Trinh Thi Phuong Loan and Tran Ngoc Ngoan, the upgrading of the institutions where we used to conduct the varietal improvement work together is another very pleasant side product of our collaboration.

We (Reinhardt Howeler and myself) started with this type of formal, if not stressful, negotiation on how we would conduct our collaboration at Hung Loc Center in 1988.

Even as late as in 1992, the meeting was not without some tenseness.

Hung Loc Center was a rather sleepy, smallish place typical of underdeveloped countries (1990)

Harvested cassava roots from the experimental plots were carried by this type of “Truck” to the nearby processing place, circa 1992.

To my delightful surprise, Hung Loc Center in 2009 is a quite different place.

New building at Hung Loc Center in 2009

Meeting old friends in front of the meeting hall at Hung Loc Center in Dec 2009.

AGRICULTURAL COLLEGE No. 3 TO THAI NGUYEN UNIVERSITY

When we first visited North Vietnam in 1989, Thai Nguyen was a rather uninspiring rural town where the only higher education institution was a small college called Agricultural College No.3. Several students hanging their laundry at their dormitory was about the only memory I got in my first visit to AC3.

AC3 campus in 1994

Children beside the cassava experiment field inside the AC3 campus in 1994

Thai Nguyen University campus in Dec 2009 (The former AC3 was upgraded to a university housing more than 10,000 students)

My dear friend Ngoan is now Vice Rector of Thai Nguyen University

Receiving a gift from the University in Dec 2009

VARIETAL IMPROVEMENT

Varietal Improvement in the South

This is, of course, the core of the story. Since much has been reported in formal papers, I am herein just showing some photos for remembrance.

The first bulk harvest of KM-60 (right) compared with the local variety, probably HL-23 (left) at Hung Loc Center in 1991.

KM-60 and the local variety with KK and Kim at Hung Loc Center circa 1993.

Director Hoang Kim standing contentedly with KM-94 (right) and the local variety (left) at Hung Loc Center circa 1993.

KK with colleagues at KM-60 field in Dong Nai in 1996

Harvest of new varieties from Thailand at Hung Loc Center in 1997.

Multiplication of a new variety from Thailand at Hung Loc Center in 1997.

Good planting of KM 98-5 in Tay Ninh in 2009.

KK and Kim in Tay Ninh at KM 419 and KM325 field in Dec 2009.

Varietal Improvement in the North

Ngoan and KK in a varietal trial field in Bac Thai circa 1995.

KK and farmers near Pho Yen in 1997.

Local variety Vinh Phu (left) and KM-94 (right) with Ngoan and KK at AC3 experiment field in 1997.

Local variety (left) and KM-60 (right) in Hatay in 1996 with Loan at the center with a TV crew.

A new selection KM-95-3 (left) and the local variety Vinh Phu (right) in Hatay in 1997 with Director Ho on the left.

A group photo taken at the experiment field in Hatay in 1997. Faces of Ho, Loan, Mr. Tat, Mrs. Sau, Mrs Guyen among others.

Cassava field near Pho Yen in Dec 2009.

Ngoan (Professor and Vice Chancellor), Mr. Kien (a dedicated farmer), KK, and Loan (Retired Deputy director) at Mr. Kien’s cassava field near Pho Yen in Dec 2009.

READINESS FOR WORKING WITH FARMERS 

One thing outstanding in our collaboration with the Vietnamese colleagues is their acute readiness for working closely with farmers. This is in good contrast to my Latin American experience.

Cassava field near Hanoi, circa 1995. Loan, a farm wife, KK and Ho.

Hearing from farmers in Hatay in 1996. KK and Mr. Chien, Deputy Director of Root Crop Research Center, VASI.

Loan leading a town meeting in Hatay in 1996.

Ngoan presiding a village meeting in Pho Yen in 1996.

Harvest of a field trial in Bac Thai in 1996; a curious mixture of Ngoan (Professor to be), students, farmers, an old woman and a baby.

Reunion at Mr. Kien’s house in Pho Yen 13 years later.

Strangely absent from my photo collection is Hoang Kim. Kim is the undisputed champion of associating with fellow researchers from other institutions, farmers from many provinces. Kim initiated the invitation of advanced farmers to the selection field at Hung Loc Center so as to evaluate and select their own favorites; a harbinger to the later much celebrated “farmer participatory research.

Here in 2009 in Dong Nai and Tay Ninh cassava field, Kim is mixing with advanced farmers, students, extension staff and officials.

SUCCESSFUL FARMER 

I: Mrs. Tran Thi Quyen, Hatay

Here are the portraits of some successful farmers who had improved their lots remarkably utilizing the new cassava varieties.

Typical cassava farmers’ houses seen in our 1989 visit in North Vietnam.

Mrs. Tran Thi Quyen was one of those cassava/pig farmers in Hatay Province who had first adopted KM-60, With the better harvest of the new variety, she could increase the number of pigs she could sell to the market. This was the new house she was building using the money she earned and saved, which she was proudly showing me in my 1997 visit. The house was complete with a kitchen, toilet and bathroom under the single roof and cost some \80,000 (US$700) at that time.

Mrs. Quyen (left) with her grandchild in our reunion in Dec 2009.

Mrs. Quyen is still growing cassava and pigs. She is now building a new much bigger house.

II: Mr. Ngo Trung Kien, Pho Yen

Cassava was a small farmers’ crop used for family pig feeding or sold to small noodle factories.

Cassava chips drying on the road circa 1994.

Cassava and pig in North Vietnam before the introduction of new varieties.

Cassava noodle drying near Hanoi in 1989.

Mr. Ngo Trung Kien of Pho Yen, Bac Tay Province a dedicated farmer and one of the earliest adopters of KM-60. He has been successful in expanding his cassava/pig farming. Here in his plot in 2009, he was planting KM-98.

Mr. Kien is a innovative farmer as well. He introduced feeding chickens with cassava.

Pig feeding continues as ever. Mr. Kien told us he could now sell more than

50 mature pigs to the market annually.

Meeting village people at Mr. Kien’s house, Dec 2009. He has taught all his techniques to other farmers in the same village. Many farmers have built new houses and virtually all families own a motorcycle these days.

III: Mr. Tong Quoc Thanh, Tay Ninh

Mr. Tong Quoc Thanh of Tay Ninh Province was one of the earliest adopters of KM-60 promoted by the erstwhile Director Hoang Kim of Hung Loc Center. He was reputed to have made a lot of money by the multiplication and the sales of planting stakes of KM-60 and later KM-94. Either because he is a shay man by character or he is afraid of the Tax Office, Mr. Thanh does not elaborate too much about his success especially on the money making. Nevertheless, by any standard Mr. Thanh is a vastly successful man and the extensive cassava planting of his own cannot defy the reputation.

Mr. Thanh uses KM98-5 (tai xanh) and KM419 (tai do, cut lun) and KM440 (tai trang, sieu bot) for intercropping with rubber tree, Tay Ninh in 2009.

KM-94 is still the best for mono-culture cassava in Tay Ninh, Mr. Thanh agrees. But he is planting KM98-5 (tai xanh) and KM419 (tai do) and KM440 (tai trang) extensively in his field, probably because being a new variety, KM98-5 and KM419 and KM440 still offers good opportunities for planting stake sale.

V: Mrs. Nguyen Thi Sau, Hatay

… When we visited Mrs. Sau in 1996, she showed us her new pig pen; KK, Mrs. Sau, Mrs. Quyen, children and Mr. Tat (Extension office at Root Crop Research Center, VASI).  

In 1997, Mrs. Sau was very proud of posing in front of her new house and motor cycles. I heard the house cost some equivalent of \250,000 (US$2,000) at that time.

Loan, Chien, Mrs. Sau’s husband (working in the Municipal office), Mrs. Sau and Tat.

Mrs. Sau’s new mansion in 2009.

Front view of Mrs. Sau’s mansion.

Sala of Mrs. Sau’s mansion.

With the expansion of Hanoi city area, Mrs. Sau’s place is now much urbanized. Being a small but smart “entrepreneur”, Mrs. Sau is now President of a mineral water production and distribution company.

V: Mr. Ho Sau, Trang Bom


At the time of our first visit in 1988, Trang Bom, one of the fiercest battle fields of Vietnam War, was not much more than a sleepy little town.

Mr. Ho Sau, who lived next door to Hung Loc Center near Trang Bom and Bien Hoa, was the first farmer to be invited to Hung Loc Center to observe the harvest of a cassava varietal trial which included KM-60. He quickly decided to multiply the small sample stakes of KM-60 for his own planting and later for sales to other farmers. Mr. Sau, 2nd from left, was a celebrated participant to the Workshop held at Hung Loc Center in 1997.

Mr. Sau’s cassava Palace in 2009. Mr. Sau is now an enormously successful business man owning large cassava plantings, a couple of cassava processing plants and a trading company.

His garden is decorated with many wonderful objects. A sculpture carved from the root of a single tree.

Yet, the most imposing is the crocodile pool with a dozen or so crocodiles for display.

Mr. Sau is not a type to hide his success to the extent of being flamboyant. Yet, he is intent in giving opportunities to many kinds of people. He is building houses for less fortunate families in the same village. Here in this photo below, he provides land and facility for Prof. Kim and his students to conduct field experiments. As such, I was reminded of the Colombian Pablo Escobar. While Escobar was a bad guy drug king, Mr. Sau may be a good guy cassava king.

From left to right; Students of Nong Lam University, Prof. Kim. KK and Mr. Sau.

GRAHAM GEEENE [ THE QUIET AMERICAN ]

It was a delight to travel through Vietnam with 「The Quiet American」in hand. It was my third time to read this book. By the end of the journey, my paper back was nearly disintegrated. While I could not find this novel being sold in book stores in Ho Chi Minh and Hanoi, the street hawkers had a pirated version of the book. Honoring the hawkers’ smartness of finding the value of 「The Quiet American」as souvenir, I paid 80,000Don (some \400) to a hawker in Ho Chi Minh. In Hanoi, a hawker ran after me for some 50m offering the book for 50,000Dong.

Joy of reading 「The Quiet American」at The Continental Hotel.

Excerpts from 「The Quiet American」Graham Greene

P. 60, “I never knew a man who had better motives for all the trouble he caused.”

P. 74, “I was to see many times that look of pain and disappointment touch his eyes and mouth when reality didn’t match the romantic ideas he cherished, or when someone he loved or admired dropped below the impossible standard he had set.”

P. 94, “I laugh at anyone who spends so much time writing about what doesn’t exist – mental concepts.”

P. 103, “If somebody asked you what your deepest sexual experience had been, What would you say?” I knew the answer to that. “Lying in bed early one morning and watching a woman in a red dressing-gown brush her hair.” “Joe said it was being in bed with a Chink and a negress at the same time.”

P. 167, “He gets hold of an idea and then alters every situation to fit the idea.”

Plain as it is, this novel describes about the dark side of innocence. It is now profoundly touching that Greene had clearly manifested the impossibility of America winning a war against Vietnam as far back as in 1955.

In this vein, it is unsettling to find that this novel is regarded as a simple love story, if not a melodrama, in Japan, as can be seen in the following cut out from the major newspaper Asahi. It is somehow a part of our Japanese culture to reduce things to a minimum context, resigning to not seeing the whole.


DAVID HALBERSTAM [THE MAKING OF A QUAGMIRE]


David Halberstam is best known for his 「The Best and the Brightest」which was published in 1972 and became a world best-seller. His earlier book「The Making of a Quagmire], published in 1965, is less known but highly appreciated by some critics for much of the Halberstam’s perspectives on the Vietnam War originated from his experiences described in this book. I have been wanting to read this book ever after I read 「The Best and the Brightest」but the book was out of print for a long time. In one of many Internet notices from “Amazon” , of which I seldom pay serious attention, I found 「The Making of a Quagmire」was republished in 2008.

While 「The Best and the Brightest」is an in-depth analysis of Washington politics during the Johnson/Nixon era, 「The Making of a Quagmire」is a ground level description of the local battles and politics in Vietnam during the Kennedy time. If 「The Quiet American」is a romantic narrative of innocence and complacency, 「The Making of a Quagmire」is a poignant account of ignorance and arrogance.

While「The Making of a Quagmire」contains all the reasons why America could not win the War in Vietnam, Chapter Six “Disaster: The Battle of Ap Bac” of this book describes, factor by factor, why the South Vietnamese/American forces could not win local battles in Vietnam. It is not that the Battle of Ap Bac was the turning point of the Vietnam War. It is remarkable because the Battle of Ap Bac contained all the elements why the Viet Cong/National Liberation Front could not be defeated.

If one reads 「The Making of a Quagmire」seriously, it should be transparent under the bright sun that this war could not be won by outside forces. Yet, Kennedy/Johnson Administration did not learn from the Pulitzer Prize (1964) of Halberstam in general and from the Battle of Ap Bac (Jan 1963) in particular. The North bombing by the US Air Force started in Feb 1965 and US Marines Corps were massively stationed at Da Nang in Mar 1965. History continues. As if nothing had not been learnt from Vietnam, and from 「The Best and the Brightest」in particular, the father/son Bush Administration went ahead with the Iraq and Afghan War on the same ignorance and arrogance. To human history, what is not learnt often outweighs what is learnt.

EPILOGUE

Throughout my many years of association with Vietnam, I have gotten to know many people, whom I seem to be able to categorize in retrospect. I got my first impression of the Vietnamese from the several Vietnamese trainees staying at the International Rice Research Institute, Los Baños, Philippines in 1963 and it was not particularly a favorable one. They appeared rather uncaring, cynical and apathetic, if not selfish, contemptuous, and corrupt. I may be too harsh and judgmental on them; nevertheless, Halberstam wrote about this type of people belonging to the upper strata of the South Vietnamese society during the same period so vividly and critically in 「The Making of a Quagmire」that my judgment might not have been too far away from the reality.

My ten years of close collaboration with my cassava breeding colleagues in the 1990s and the reunion with them in this trip completely changed my assessment of the Vietnamese. As evidenced by the series of my reporting here, they are industrious, insightful, considerate and indefatigable, as if to emulate General Vo Nguyen Giap. I might be a little too positively partial to those friends of mine. Nevertheless, I have a similar feeling toward some of my colleagues in Rayong, Thailand and Nanning, China to count a few. During the two decades of post-war Japan, we seem to have many Japanese of this category as well.

Then comes the mass of the population who just want tomorrow to be better than today. In this trip, I was deeply impressed and touched in meeting many people who seemed never to doubt tomorrow is better than today. This reminds me of the Japanese during the next two decades of post-war where the majority of the population was seeing a rosy future. Now in Japan, more than 30,000 people commit suicide annually and the main reason for this act is believed to be hopelessness to the present and future. Needless to say, Vietnam is not without problems such as the incompleteness of juridical system or rampant corruption to name some. Yet, the proportion of people feeling happy seems to be far higher in Vietnam than in Japan now. It is fascinating to imagine where these former colleagues of mine would further lead this society to.

People at a cassava open market near Hanoi in 1989.

People on a boat in Saigon river in 1988.

People on a ferry near Hanoi in 1989.

Boys on a Hanoi street in 1991.

Girls on a Hanoi street in 1991.

Two daughters at a village starch plant in Tay Ninh in1992.

People harvesting rice in Tay Ninh in 2009.

Hyper-energetic people in Ho Chi Minh city in 2009.

People relaxing at Hoan Kiem Lake, Hanoi in 2009.

See more: Cassava in Vietnam: a successful story

Văn chương ngọc cho đời

BÁN THAN
Trần Khánh Dư

Một gánh kiền khôn quẩy tếch ngàn
Hỏi chi bán đó, dạ rằng than
Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt,
Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn
Ở với lửa hương cho vẹn kiếp
Thử xem sắt đá có bền gan
Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác
Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn
.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-khanh-du-ban-than/
(Cây gỗ TẾCH rất tốt cho bán than, chính trung phía sau dinh Thống Nhất)

Giống sắn Phú Yên KM568, KM539, KM537, KM440, KM419, KM94* ngày mới

VNCP CIAT befor 2016

thayduongthanhlienvabotlasan

Vietnamese cassava today
Good friends are hard to find, hard to leave behind and impossible to forget.
Miss you Christmas season
Hoang Kim


Vietnamese cassava today, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/  the urgency to preserve and develop cassava sustainably. The cassava revolution in Vietnam https://youtu.be/81aJ5-cGp28  is a success story. Greetings from HoangKim Vietnam VNCP to Howeler, Martin and friends CIAT, ACIAR “Establishing sustainable solutions to cassava diseases in mainland Southeast Asia”. Merry Christmas and Happy New Year.

Dear Dr. Reinhardt Howeler,

Hello teacher and great friend of Asian cassava farmers. Photo 1 The Global Cassava Workshop in Vietnam in 2000, with the beloved wife of Reinhardt Howeler, and Professor Pham Van Bien, Director of the Southern Institute of Agricultural Science and Technology, seated in the front row on the left. Now she is gone. Please give us belated condolences to you. I and VNCP lost your email. The photo is a silent gratitude in our hearts. Photo 2 Dr. Reinhardt Howeler and Dr. Kazuo Kawano receives the State Prize of Vietnam, presented by Mr. Nguyen Gioi, Deputy Minister of MARD, and Professor Pham Van Bien, Director of IAS, on 4/3/1997. Photo 3 is seven books on CIAT Vietnam, late 20th century and early 21st century, recognizing your outstanding contributions. Photo 4 is Luis Eduardo Barona and Hoang Kim with cassava variety C39 at CIAT in 2003 in collaboration with Hernan Ceballos and Martin Fregene. Photo 5 is the main cassava variety KM419, KM440, HN1, KM568, KM537, KM534, KM94* of Vietnam’s cassava today.

You are always in our hearts. We will always remember and thank you.

My warm greetings to you.
Best regards, Hoang Kim

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-19-thang-3/ & https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-19-thang-3/

CNM365 Tình yêu cuộc sống: Vietnamese Cassava Today; Thầy Quyền thâm canh lúa; Trần Công Khanh ngày mới; Đi bộ trong đêm thiêng;

Ngày 19 tháng 3 năm 1873, Quân Pháp đánh chiếm Hưng Trung doanh, kết thúc Khởi nghĩa Bảy Thưa diễn ra trên địa bàn An Giang, Nam Kỳ. Ngày 19 tháng 3 năm 1873, ngày mất của Trần Văn Thành, chủ soái và là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa trong lịch sử Việt Nam. Ngày 19 tháng 3 năm  1279, Ngày kết thúc triều Minh, mở đầu triều Nguyên ở Trung Quốc. Quân Nguyên thắng Nam Tống ở trận Nhai Môn, Thừa tướng Lục Tú Phu ôm Tống đế Bính nhảy xuống biển tự vẫn; triều Nguyên thống nhất Trung Quốc.

Bài chọn lọc ngày 19 tháng 3: Vietnamese Cassava Today; Về miền Tây yêu thương; Trần Công Khanh ngày mới; Mark Zuckerberg và FB ; Chuyện đồng dao cho em; Trịnh Công Sơn lắng đọng; Nam tiến của người Việt; Câu chuyện ảnh tháng Ba; Đến với Tây Nguyên mới; Thương Kim Thiếp Vũ Môn. Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-19-thang-3/ và https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-19-thang-3/

VỀ MIỀN TÂY YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Sao anh chưa về miền Tây.
Nơi một góc đời anh ở đó.
Cần Thơ, Sóc Trăng, sông Tiền, Sông Hậu,…
Tên đất tên người chín nhớ mười thương.

Anh hãy về Bảy Núi, Cửu Long,
Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ.
Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ….
Anh có về nơi ấy với em không?.

*

Mình về với đất phương Nam.
Ninh Kiều thắm nước, Sóc Trăng xanh đồng.
Về nơi ấy với em không ?
Bình minh Yên Tử mênh mông đất trời.

Ta đi cuối đất cùng đời
Ngộ ra hạnh phúc thảnh thơi làm Người.

*Cảm ơn Duy Thịnh VIỆT NAM HỌC 🇻🇳🌍 #VietNamhoc đã cùng đồng hành, liên kết, chia sẻ Video đẹp “Buổi sáng trên chợ nổi Cái Răng nét đặc trưng của miền Cửu Long sông nước”, để tôi tích hợp vào bài viết này. Về miền Tây bát ngát đồng xanh và mênh mông sông nước.Từ cậu bé chân đất làng Minh Lệ, của thị xã Chợ Đồn, tỉnh Quảng Bình, tôi đã sống nhiều nơi và thật thao thức khi viết một tản văn yêu thích về đất và người phương Nam là mạch sống đầy đặn.của một vùng ký ức Về miền Tây yêu thương https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ve-mien-tay-yeu-thuong/, .

Nhớ miền Tây, tôi tẩn mẩn xếp lại những tản văn hay, bài thơ hay, trang thư, bức họa, những bản nhạc của những người thầy, người bạn mến thương và lắng nghe nôn nao ký ức dội về Bạn về Vĩnh Thạnh, Lấp Vò viếng mộ người hiền Nguyễn Hiến Lê sao sáng. Bạn tham quan và viếng mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh Bác Hồ. Về miền Tây, thầy bạn tôi ở nơi đó. Dường như mỗi tỉnh huyện miền Nam, mỗi nơi đi qua, nhiều nơi tôi đều có bạn. Họ là sinh viên, người quen, bạn học, bạn nhà nông. Bao tên đất tên người thân thương vẫy gọi .

Về miền Tây tôi thích đọc lại tản văn “Về miền Tâycủa ô giáo dạy văn giỏi Nguyễn Quỳnh Trâm giáo viên trường Lê Quý Đôn ở thành phố Hải Dương. Bài ký của cô giáo Nguyễn Quỳnh Trâm cho chúng ta một góc nhìn Cần Thơ, Cà Mau trong đôi mắt của người lữ khách xứ Bắc lần đầu đến Hậu Giang, Bạc Liêu. Bài thu hoạch “đi một ngày đàng học một sàng khôn” của cô giáo Quỳnh Trâm chứa đựng một phác thảo tinh khôi thật đáng học hỏi.

Tôi cũng thích đọc lại”Về miền Tây,  thương …” của tiến sĩ khảo cổ học và nhà Sài Gòn học Nguyễn Thị Hậu có quê miền Tây nhưng đã ở phố Thị Hà Nội và Sài Gòn nhiều năm. Về miền Tây … thương là góc nhìn của người trong cuộc. “Chữ thương bao dung và nhân hậu, nhẹ như hơi thở mà người miền Tây chỉ buông ra khi dằn lòng không được …” Chữ thương càng đằm thắm hơn khi bạn đã trãi nghiệm giấc mơ hạnh phúc, đã hiểu được sức nặng của yêu thương, nhớ nhung đầy đặn nghĩa tình để thấm thía sâu xa ý nghĩa đời người.

Bạn đã ăn lẩu hoa điên điển nấu với cá linh chưa? Đó là một món lạ miền Nam đấy. Đọc  thơ “Hoa điên điển và em” của cô giáo Cao Nguyên ở Đồng Tháp.câu thơ hay lạ lùng: “Điên điển tàn lại nở. Chuyện lở bồi do sông. Anh có về nơi ấy. Hoa vẫn vàng mênh mông …” Tôi đã từng viết lời cảm nhận trong bài viết Hoa điên điển và em Cao Nguyên : Nếu mỗi nhà thơ chỉ được chọn bốn câu thôi thì bốn câu thơ này của Cao Nguyên sẽ có thể sánh cùng các bài thơ hay chọn lọc đấy. Giản dị. Sâu sắc Ám ảnh.Bạn đến Đồng Tháp, thăm vùng lúa trời Đồng Tháp Mười, thăm Tràm Chim, Xẻo Quýt hình ảnh của vùng Đồng Tháp Mười thu nhỏ, ăn lẩu cá linh và hoa điên điển nếu đúng mùa.

Nắng và gió phương Nam đẹp lạ, ảnh nắng mai thơ hay, trường liên tưởng thật thanh bình. Gió phương Nam có bài thơ Dạ thưa thật ngọt, thật …Nam Bộ

DẠ THƯA
Gió phương Nam


Em là gió của phương nam
Là con sóng dội những vàm sông quê
Là cơn mưa xỏa tóc thề
Là cơn nắng thuở nghiêng che bóng dừa

Vẫn là em đó ngày xưa
Áo bà ba dịu mấy mùa nhớ anh
Lời thương chiu chắt để dành
Như phù sa biết ngọt lành cho nhau

NẮNG VÀ GIÓ PHƯƠNG NAM
Hoàng Kim

Tắm mình trong ban mai
Nắng và gió phương Nam
Tuyệt vời thơ và ảnh
Về miền Tây yêu thương

Mình về với đất phương Nam. Ninh Kiều thắm nước, Sóc Trăng xanh đồng. Về nơi ấy với em không ? Bình minh Yên Tử mênh mông đất trời. Ta đi cuối đất cùng đời  Ngộ ra hạnh phúc thảnh thơi làm Người. Đến với hạt gạo, củ khoai, củ sắn, trái bắp, đậu đỗ, rau hoa quả, sống với những người dân hiền lành chất phác, chân tình trượng nghĩa, ta như tắm mình trong nắng sớm ban mai của mặt trời vừa mọc. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ve-mien-tay-yeu-thuong/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chao-ngay-moi-16-thang-11.jpg

Về miền Tây có gì lạ? Về miền Tây yêu thương, với tôi ấn tượng nhất là đất, người và lúa. Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa. Giáo sư tiến sỹ, anh hùng lao động Nguyễn Văn Luật, nguyên Viện trưởng Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long,  tác giả chính của cụm công trình ‘Nghiên cứu và phát triển lúa gạo’ đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh, đã có hai bài viết quan trọng giới thiệu về “Lịch sử cây lúa Việt Nam” và “Cải tiến giống lúa cho sản xuất lúa gạo tại Việt Nam”. Giáo sư đã đưa ra các bằng chứng và dẫn liệu ‘Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa’ và ‘các tiến bộ của giống lúa Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21’. Hai bộ sách: Nguyễn Văn Luật (chủ biên), xuất bản lần đầu năm 2001, 2002, 2003 Cây lúa Việt Nam thế kỷ 20, ba tập Nhà Xuất Bản Nông nghiệp, Hà Nội, 1.347 trang, và Nguyễn Thị Lang, Bùi Chí Bửu 2011. Khoa học về cây lúa, di truyền và chọn giống. Nhà Xuất bản Nông Nghiệp, 623 trang đã đúc kết về những tiến bộ này..Với tôi, đó là mchỉ dấu yêu thích.

Con đường lúa gạo Việt” là chùm bài ghi chép lược thuật về các dâng hiến lặng lẽ của các nhà nông học, nhà giáo và nông dân giỏi nghề nông. Họ gắn bó cuộc đời với nông dân, nông nghiệp, nông thôn, và những sinh viên, học viên nghề nông để làm ra những hạt gạo ngon hơn, tốt hơn cho bát cơm của người dân. Tập tài liệu nhỏ này mục đích nhằm kể lại những mẫu chuyện đời thường nghề nông cho các em sinh viên đọc thêm ngoài giờ học chính.

Thầy Norman Borlaug nhà khoa học xanh, cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và thế giới tôn vinh là nhà bác học số một nhân loại trong cuộc chiến chống nghèo đói, đã có lời dặn thật thấm thía: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.

Dạy học không chỉ trao truyền tri thức, kỹ năng nghề nghiệp mà còn trao truyền ngọn lửa. Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI.

Nam Bộ Việt Nam là quê hương nhà bác học nông dân Lương Định Của, nơi con đường lúa gạo Việt Nam khởi phát và tỏa rộng, mở đầu cho chùm bài viết này. Về miền TâySao anh chưa về lại miền Tây. Nơi một góc đời anh ở đó. Sóc Trăng Cần Thơ sông Tiền Sông Hậu. Tên đất tên người chín nhớ mười thương. Anh có về Bảy Núi Cửu Long. Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ. Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ. Anh có về nơi ấy với em không? (thơ Hoàng Kim)”. Chùm bài viết Việt Nam con đường xanh, Lúa siêu xanh Việt Nam; Con đường lúa gạo Việt; Cách mạng sắn Việt Nam; Chọn giống sắn Việt Nam; Giống khoai lang Việt Nam tôn vinh Cây Lương thực Việt Nam, gồm nhiều mẫu ghi chú ngắn (Notes) . .

TRỊNH CÔNG SƠN LẮNG ĐỌNG
Hoàng Kim

Trang viết Trịnh Công Sơn lắng đóng là chắt lọc thông tin ít biết. Sự thật lịch sử chỉ có một nhưng viết về sự thật lịch sử và nghiên cứu lịch sử cần suy nghiệm nhiều nguồn thông tin với các góc nhìn khác nhau để tìm về đúng sự thật.Bài viết này góp phần tìm hiểu năm nội dung chính 1) Đình Lạc Giao, chùa Khải Đoan, Hồ Lắk và quê Trịnh; 2) Cuộc đời và nhân cách Trịnh Công Sơn; 3) Tác phẩm và di sản Trịnh Công Sơn; 4) Kỷ niệm về anh Trịnh Công Sơn; 5) Cõi riêng Trịnh Công Sơn Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sinh ngày 28 tháng 12 năm 1939, mất ngày 1 tháng 4 năm 2001 Di sản của người nghệ sĩ tài hoa này là Nhạc Trịnh với trên 600 ca khúc tình yêu cuộc sống, hòa bình nhân đạo và nỗi đau thân phận con người. “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về”. https://youtu.be/ncHCI-QLV0A

Đình Lạc Giao

Đình Lạc Giao, chùa Khải Đoan, Hồ Lắk và quê Trịnh

Trịnh Công Sơn sinh ra và lớn lên tại cao nguyên Lạc Giao, xã Lạc Giao, nay là phường Thống Nhất, Ban Mê Thuột, tỉnh Đắk Lắk.Quê nội của ông ở làng Minh Hương, tổng Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Trịnh Công Sơn lớn lên tại Huế. Lúc nhỏ ông học theo học các trường Lyceè Francais và Provindence ở Huế, sau vào Sài Gòn theo học triết học trường Tây Lyceé J.J Rousseau Sài Gòn và tốt nghiệp tú tài tại đây. Trịnh Công Sơn có quê ngoại ở Quảng Sơn, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, Chúng tôi về thăm đình Lạc Giao, chùa Khải Đoan. hồ Lắk và quê Trịnh trong chuyến công tác ở Trường Đại học Tây Nguyên, qua sự liên hệ với anh Trịnh Xuân Ấn, quê ở Ban Mê Thuột, là con chú ruột của anh Trịnh Công Sơn.

DaoDuyTu6

Đình Lạc Giao là một ngôi đình thờ thành hoàng theo tập quán người Việt và là một di tích lịch sử đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đình Lạc Giao là nơi thờ cụ Đào Duy Từ, vị thần Thành Hoàng bản thổ, nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh, tế lễ xuân thu nhị kỳ, đó cũng là nơi thờ cụ Phan Hộ vị tiên hiền đã có công khởi xướng thành lập làng Lạc Giao. Đình nằm tại ngã tư giữa đường Phan Bội Châu và đường Điện Biên Phủ, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk. Đình Lạc Giao chính điện có hai câu đối. Phía bên nhà tiếp khách có bày chứng tích nhưng thần phả thì vị trụ trì chỉ cho chúng tôi sang tìm ở Chùa Khải Đoan, và hình như vẫn đang lưu ẩn trong một câu chuyện dài.

Chùa Khải Đoan là ngôi chùa được xây dựng lần đầu tiên và lớn nhất không chỉ ở thành phố Buôn Ma Thuột mà còn của cả tỉnh Đắk Lắk. Chùa Khải Đoan nằm tại phường Thống Nhất, trên đường Phan Bội Châu, thành phố Buôn Ma Thuột, được vua Bảo Đại cho xây dựng là làm lễ khánh thành năm 1951. Chùa được bà đức Từ Cung Đoan Huy hoàng thái hậu mẹ vua Bảo Đại làm chủ,  bà Nam Phương Hoàng Hậu quản lý, nhưng việc trực trông nom thi công là bà Bùi Mộng Điệp, một phi tần của vua Bảo Đại. Khi vua Bảo Đại lập Hoàng triều Cương thổ trên phần đất Tây Nguyên của Việt Nam, ông đã cử bà Bùi Mộng Điệp lên Buôn Mê Thuột để giúp vua giữ đất Hoàng triều Cương thổ. Bà Bùi Mộng Điệp tuy làm vợ thứ, tuy không được tổ chức cưới xin nhưng nhờ chăm lo việc thờ cúng tổ tiên của hoàng tộc rất chu đáo nên được Đức Từ Cung ban áo mũ để thay mặt Hoàng hậu Nam Phương trong các cuộc tế lễ tại chùa này, vì bà Nam Phương là người theo Thiên Chúa giáo Chùa Khải Đoan là ngôi chùa cuối cùng tại Việt Nam được phong sắc tứ của chế độ phong kiến và cũng là ngôi chùa lần đầu có ở Cao Nguyên gần Đình Lạc Giao và cũng là vùng đất nôi sinh thành của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tên gọi Khải Đoan là ghép từ tên vua Khải Định và vợ ông là Đoan Huy hoàng thái hậu, cũng còn một nghĩa khác là thờ “vọng” thủy tổ Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng, tổ nghiệp Nhà Nguyễn. Chùa Khải Đoan ngày 5 tháng 4 năm 2012 bắt đầu đặt viên đá trùng tu lại và xây dựng thêm và hiện được bổ sung rất nhiều công trình mới nhưng vẫn giữ nguyên chính điện cũ. Đó là nơi thờ phụng lớn nhất của Phật giáo tại Đắk Lắk, và là điểm du lịch không thể bỏ qua ở Buôn Ma Thuột.

Đến với Tây Nguyên mới, chúng ta hãy đến với nơi sinh thành của người nhạc sĩ tài danh Trịnh Công Sơn gần chùa Khải Đoan và Đình Lạc Giao là chốn cõi thiêng Trịnh Công Sơn . Tài liệu chọn và hành hương mới này giúp bạn đọc thăm Người và ngưỡng mộ một tâm hồn trong như ngọc. Một tâm hồn biết bao dung, độ lượng với đời nên đã viết được những bản nhạc, lời thơ và tản văn rung động lòng người đến vậy. Câu chuyện kể dưới đây mời bạn đọc kỹ hơn Trịnh Công Sơn lắng đọng bằng vách những điều sâu xa ẩn giữa hai dòng chữ khi mà Trịnh Công Sơn và gia đình anh đi giữa hai lằn đạn nhiều điều sự thật ẩn khuất chưa thể nói hết.

Thăm Đình Lạc Giao và chùa Khải Đoan, từ phải sang trái có giáo sư nhà giáo nhân dân Trần Văn Minh cựu hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế với giáo sư Trần Ngọc Ngoạn cựu Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Thái Nguyên, tiến sĩ Hoàng Kim nghiên cứu viên chính và giảng viên chính về cây lương thực với tiến sĩ sắn Nguyễn Thị Trúc Mai.

HoLak01
HoLak

Hồ Lắk là một hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất tỉnh Đăk Lăk và lớn thứ hai Việt Nam sau Hồ Ba Bể. Hồ Lắk xung quanh có những dãy núi lớn được bao quanh bởi các cánh rừng nguyên sinh. Buôn Jun, một buôn làng nổi tiếng của người M’Nông, nằm cạnh hồ này.  Người dân địa phương dùng thuyền độc mộc đi lại trên hồ. Voi đưa du khách đi tham quan hồ. Dinh Bảo Đại ở thành phố và tại hồ Lắk là khá đẹp, trữ tình, và có tầm nhìn.
Ông cố vấn Ngô Đình Nhu (1010-1063) một nhà chiến lược, nói về vua Bảo Đại, một lời đánh giá ngắn và sắc sảo: “Ai trong hoàn cảnh Bảo Đại cũng khó làm được tốt hơn“. Nhà cũ của anh Trịnh ra sao và những câu chuyện riêng tư tôi sẽ dành kể bạn nghe trong một dịp khác. Anh Trịnh Xuân Ấn nói những lời tâm đắc và tôi muốn dừng lại ở những thông tin đã được hiệu đính này. Chuyến hành hương về nơi sinh thành của Trịnh, gặp người thân của Trịnh, tôi đắm mình trong nhạc Trịnh tại nơi thủ phủ cà phê Tây Nguyên, ngắm hồ Lăk chiều tà, thuyền độc mộc, voi hồ Lăk, nghĩ về ngọn nến Hoàng Cung, nhạc Trịnh và thân phận con người. Các nhà khảo cổ Slovenia, nghe nói, đã tìm thấy một nửa còn lại của chiếc thuyền độc mộc 2.000 năm tuổi lớn nhất thế giới trên sông Ljubljanica ở thủ đô Ljubljana. Đăk Lắk là chốn sinh thành của Trịnh, quê hương thứ ba của ông sau quê mẹ Quảng Bình và quê cha ở Huế. Thuyền độc mộc và voi là phương tiện đi hồ Lắk và trưng bày tại bảo tàng cà phê Trung Nguyên. Sông Srepok với Tây Nguyên là vỉa sâu văn hóa,

Thuyền độc mộc am Ngọa Vân, tôi nối vần thơ anh Trịnh Tuyên ở chính nơi này.

THUYỀN ĐỘC MỘC
Trịnh Tuyên

Quên tên cây
làm thuyền
Tận cùng nỗi cô đơn
– độc mộc!

Khoét hết ruột
Chỉ để một lần ngược thác
bất chấp đời
lênh đênh…

NGỌC PHƯƠNG NAM
Hoàng Kim

Hứng mật đời
thành thơ
Việc nghìn năm hữu lý
Trạng Trình

Đến trúc lâm
Đạt năm việc lớn hoàng thành
Đất trời xanh
Yên Tử …

Hồ Lắk Đình Lạc Giao, Chùa Khải Đoan, nhạc Trịnh là cầu nối lịch sử, địa chính trị và văn hóa Tây Nguyên. (Anbum ảnh tư liệu Hoàng Kim ở đây)

Trịnh Công Sơn, Bữu Ý, Nguyễn Trọng Tạo và Hoàng Phủ Ngọc Tường (ảnh Internet)

Trịnh Công Sơn, Bửu Ý, Nguyễn Trọng Tạo và Hoàng Phủ Ngọc Tường (ảnh Internet)

Cuộc đời và nhân cách Trịnh Công Sơn

Sách viết về Trịnh Công Sơn hiện có trên 10 quyển và một khối lượng lớn các bài báo viết về tác phẩm và di sản. Thông tin về cuộc đời, gia đình và tuổi thơ của Trịnh Công Sơn, tiếc rằng hiện vẫn còn nhiều khoảng trống cần tìm hiểu. Tiểu sử Trịnh Công Sơn trên Liên Thành, vnexpress, người nổi tiếng, facebook, … đều quá vắn tắt: Nơi sinh: tại cao nguyên Lạc Giao (xã Lạc Giao, hiện nay là phường Thống Nhất, Ban Mê Thuột, tỉnh Đắk Lắk) Quê quán: làng Minh Hương, tổng Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông lớn lên tại Huế. Lúc nhỏ ông học theo học các trường Lyceè Francais và Provindence ở Huế, sau vào Sài Gòn theo học triết học trường Tây Lyceé J.J Rousseau Sài Gòn và tốt nghiệp tú tài tại đây; anh em gồm … mà còn thiếu rất nhiều thông tin được kiểm chứng.

Thấu hiểu cuộc đời và nhân cách của Trịnh Công Sơn, chúng ta mới có thể cảm thông và hiểu sâu Nhạc Trịnh. Một cõi đi về, Cát bụi, Để gió cuốn đi, Huyền thoại Mẹ,… đều là những tiếng nấc, tiếng lòng thẳm thẳm của một kiếp người mà Trịnh thấu hiểu về đời mẹ, đời cha, đời của các anh em, người thân chung máu mủ gia đình nhưng li tán ở các chiến tuyến khác nhau, những khống chế, rình rập, vây bủa, tranh chấp của các thế lực trên thân phận con người mà gia đình của chính Trịnh Công Sơn là người trong cuộc. Tôi thầm lặng thu thập tư liệu và chỉ mới tuyển chọn và tổng hợp về Trịnh Công Sơn ở những thông tin chừng mực và đợi bổ sung kiểm chứng thêm tư liệu.

Trong các tư liệu chắt lọc có bài viết đặc sắc và sâu lắng “Trường hợp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn” của cựu đại tá Nguyễn Mâu,  trưởng ngành Cảnh sát đặc biệt của Tổng Nha Cảnh sát Sài Gòn: “Chúng tôi xin phép anh linh Trịnh Công Sơn được gọi anh bằng anh như thuở nào. Chúng tôi nói thẳng ở đây rằng giữa chúng tôi không có tình thâm giao nhưng rất hiểu nhau và kính trọng nhau. Thật dễ hiểu: làm sao là bạn thân được khi một người là nhân viên công an rình rập dòm ngó anh và anh lại là một nghệ sĩ có tâm hồn đang đau nhức với cái đau nhức của dân tộc và sáng tác vì cái đau nhức ấy…”. “Anh ấy đã ra đi nhưng bao vấn nạn còn để lại. Chúng tôi đã thực lòng viết ra đây về anh ấy, nhân danh một cựu nhân viên tình báo đã từng bới xới tìm hết tì vết của anh để truy tố. Anh ấy đã nằm xuống và đã trở thành vô hiệu hóa tòa án, công tố, bị can, biện hộ. Tất cả nay trong quyền xét đoán vì văn học sử của mỗi độc giả. Chúng tôi giang tay và cúi đầu thật thấp cầu nguyện chỉ mong linh hồn anh tìm được sự an nghỉ chốn vĩnh hằng”.

Vượt lên trên những chứng cớ “bên ni”, “bên tê”  “Trịnh Công Sơn và những hoạt động cộng sản nằm vùng” “Biến động miền Trung” :”Trò chuyện với nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan về những “hũ mắm thúi” của cựu thiếu tá cảnh sát Liên Thành ở Mỹ“. Bài viết của ông Nguyễn Mâu in trong quyển sách của ông nhan đề NDB – Ngành Đặc Biệt (The Special Branch) xuất bản vào năm 2007. Người giới thiệu bài viết của ông Nguyễn Mâu tên là Lê Xuân Nhuận – đại tá Trưởng ngành Cảnh sát đặc biệt Vùng II chiến thuật. Trong lời giới thiệu, ông Nhuận cho biết đã đọc cả hai bài viết về Trịnh Công Sơn của Liên Thành và của Hoàng Phủ Ngọc Phan và nói rõ: “Nhận định và quyết định của ông Nguyễn Mâu đối với Trịnh Công Sơn chính là thái độ và biện pháp của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đối với nhạc sĩ ấy, ở cấp cao nhất trong toàn quốc (VNCH) và trong thời gian ông Nguyễn Mâu cầm đầu ngành tình báo này.”

Tác phẩm và di sản Trịnh Công Sơn

Nhà văn Ngô Minh đã viết trong “Quà tặng xứ mưa”  “Nhớ Trịnh Công Sơn” : “Trịnh Công Sơn là thiên tài âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX . Di sản âm nhạc Trịnh Công Sơn là vô giá , mãi mãi là niềm tự hào của người Việt Nam. Bảy năm Trịnh Công Sơn về “với cát bụi”, đã có hơn 10 cuốn sách viết về ông, cuốn mới nhất là tập bút ký “ Cây đàn lia của Hoàng tử be” của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường được  Nhà xuất bản Trẻ ấn hành đầu năm 2005. Âm nhạc Trịnh ngày càng lay động chiều sâu tâm thức hàng chục triệu người. Đã là người Việt, từ già đến trẻ không ai không hát Trịnh ,  không gia đình nào không có trong nhà một băng hay đĩa nhạc Trịnh ….Sống trong đời sống .Cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không ? Để gió cuốn đi. Để gió cuốn đi… Không chỉ ở Việt Nam, âm nhạc Trịnh Công Sơn cũng ngày càng chinh phục thế giới . Ngay từ năm 1972, Trịnh Công Sơn đã được Đĩa Vàng ở Nhật Bản với bài Ngủ đi con, trong Ca khúc Da vàng, qua giọng hát Khánh Ly, phát hành trên 2 triệu đĩa . Trịnh Công Sơn có tên trong từ điển Bách khoa Pháp “ Encyclopédie de tous les pays du momde”. Nhạc Trịnh đã có mặt tại nhiều nước Châu Á, châu Âu, Châu Mỹ… Có một chàng trai người Đức mang họ Trịnh luôn cùng mới bạn bè hát Trịnh Công Sơn; Có một cô gái Nhật Bản năm nào cũng sang Việt Nam để viếng mộ Trịnh …Đặc biệt , ngày 3-2-2004, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York đã công bố “Giải thưởng Âm nhạc hòa bình thế giới” (WPMA). Sáu tên tuổi âm nhạc nổi tiếng thế giới được giải thưởng lần này là Bob Dylan , Conuntry Joe & the Fish, Hary Belafonte, Joan Baez, Peter, Paul & Mary và Trịnh Công Sơn. WPMA tôn vinh những người đã đem âm nhạc của mình cống hiến cho cuộc đấu tranh vì hòa bình và nhân đạo trên thế giới. Đây là sự kiện âm nhạc quốc tế lớn nhất Việt Nam từ trước tới nay! Kể từ ca khúc đầu tiên Ướt mi công bố năm 1959 ,trải  40 năm sáng tác, Trịnh Công Sơn đã để lại gia sản trên 600 ca khúc lay động lòng người .” “Người ta chia ca khúc Trịnh thành “ ba dòng” : Dòng trữ tình, dòng phản chiến và dòng giải thoát bản ngã!. Lý thuyết là thế , nhưng tôi nghĩ dưới góc nhìn “hòa bình và nhân đạo” thì hầu như ca khúc nào của Trịnh cũng là vút lên từ tận cùng sâu thẳm của tình yêu cuộc sống và nỗi đau  phận người . Đó chính là tầm cao , sự vĩnh cửu của âm nhạc Trịnh”.Lần ra Huế dự “ Đêm nhạc Trịnh Công Sơn quyên góp tiền giúp trẻ em nghèo học giỏi”, anh Sơn nâng cùng anh em chén rươụ Chuồn, tâm sự :” Trong lời bài hát của mình không có một từ nào về các địa danh của Huế, nhưng toàn bộ âm nhạc của mình chính là Huế đấy, Huế của kiếp người…”. Vâng, trên 600 ca khúc của Trịnh Công Sơn để lại là một phần của Di sản văn hóa Huế , tồn tại mãi với thời gian…Âm nhạc Trịnh Công Sơn là âm nhạc vì con người nên ở lại mãi với hồn người, không biên giới, “cao hơn mọi thành kiến trên đời “ ( chữ Anh Ngọc) . Giải thưởng Âm nhạc hòa bình thế giới của Liên Hiệp Quốc là sự tôn vinh ở tầm cỡ thế giới về Di sản âm nhạc của Trịnh . Đây cũng là sự tôn vinh một nhân cách sống và bản lĩnh sáng tạo của một thiên tài âm nhạc.

TringCongSon_anhDuongMinhLong

Ca từ nhạc Trịnh có đặc trưng tinh tế, hồn nhiên, gần gũi, thiết thân và hoàn chỉnh. Nhạc sĩ Văn Cao nhận xét: “Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra” Phạm Duy  bình luận “…toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại”, và Trịnh Công Sơn tự nhận xét: “Ca khúc đối với tôi là một mô hình gần gũi, thiết thân và hoàn chỉnh. Nó là một cuộc hôn phối kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc” (Trích dẫn bởi Trần Hữu Thục: Một cái nhìn về ca từ Trịnh Công Sơn). “Cảm nhận ca từ Trịnh Công Sơn” ảnh Dương Minh Long, tác giả Trần Thị Trường đánh giá: …âm nhạc của Trịnh Công Sơn có sức “công phá” rất lớn, công phá mềm, nó khiến cho tâm hồn rung động, vùng mờ của trí não được mở ra…  âm nhạc của Trịnh nghe mãi cũng khó chán, càng nghe càng có thể phát hiện thêm vẻ đẹp sâu sắc của ca từ, càng nghe càng nhận ra sự tinh túy của xúc cảm trong từng lớp ngữ nghĩa…”Gọi nắng trên vai em gầy / Đường xa áo bay… Áo xưa dù nhàu vẫn xin bạc đầu gọi mãi tên nhau” (Hạ Trắng); … Hay: “trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, gọi suốt trăm năm một cõi đi về”…  Những từ được dùng trong một cấu trúc câu mà không dùng lý để suy luận. Vẫn là những từ ngữ của  đời nhưng Trịnh Công Sơn đã dùng như người họa sĩ dùng chất liệu để đưa chúng đi xa hơn, làm nên một bức tranh siêu thực, ẩn dụtượng trưng, lãng mạn, ấn tượng… khiến cho người nghe có thể cảm thụ được nhiều hơn “ chiều kích” cụ thể của ngôn từ  khi cho chúng đứng chung thành một tổ hợp câu. … Âm nhạc của Trịnh Công Sơn đã tác động, ngay cả khi trình tấu không lời, nhưng ca từ cũng để lại ấn tượng sâu đậm không kém trong tâm khảm, sẻ chia và an ủi được nhiều thế hệ, tầng lớp công chúng. Không tưng bừng, cũng không ảo não, nặng ưu tư mà không riết róng. Tôi nghĩ, Trịnh Công Sơn đã làm tiếng Việt phong phú lên rất nhiều khi ông kết hợp từ làm nên một từ mới đa nghĩa hơn, tinh túy hơn có trường liên tưởng rộng hơn.”

Kỷ niệm về anh Trịnh Công Sơn

Trước hôm anh Trịnh Công Sơn mất, có anh Trịnh Xuân Ấn ở Đắk Lắk đi xe đò rủ tôi về gấp thăm anh Sơn đang nằm viện. Tôi bận việc không đi được nên nhờ anh Ấn mang về biếu anh Sơn chai rượu quý  lấy từ bàn thờ cha mẹ tôi để anh mời bạn. Không ngờ, đó là những ly rượu cuối  cùng mà anh chia với người thân trước khi anh đi vào cõi vĩnh hằng.

Đêm thiêng Trịnh Công Sơn 1 tháng 4 năm 2012, năm 2012, đêm mà tôi đã thức gần trọn để đánh máy lại và đưa lên mạng Bài ca Trường Quảng Trạch của thầy Trần Đình Côn, Hiệu trưởng đầu tiên của Trường. Trịnh Công Sơn là anh đầu trong một gia đình đông con. Mẹ anh là bà Lê Thị Quỳnh người Quảng Trạch. (Cha anh là ông Trịnh Xuân Thanh đi lính Pháp ngành tình báo, bị tử nạn xe hơi do chính xe của quân đội Pháp gây ra. Cái chết của cha và sự vất vả nuôi bảy người con của mẹ là nỗi ám ảnh thường trực của Trịnh Công Sơn. Em trai và chồng em gái anh Sơn ở trong quân lực Việt Nam cộng hòa nhưng người anh ruột của chồng em gái lại là chính ủy sư đoàn Điện Biên, thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Huyền thoại Mẹ, gốc gác đầu đời của anh Sơn và những nốt nhạc nấc lên, yêu thương và cảm thông thân phận con người là từ chính đất này). Đó là kỷ niệm làm tôi nhớ mãi, nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Trường.

Thầy Nguyễn Lân Dũng, vị giáo sư già đáng kính của chúng tôi, đã trân trọng chép bài viết “Để bắt đầu một hồi ức” của Trịnh Công Sơn và cẩn thận chọn hình của Người đưa vào một trang riêng. Đó là Cõi thiêng Trịnh Công Sơn trong lòng Thầy và bạn hữu.Tôi xin phép Thầy chép chung về trang này để mọi người cùng đọc. Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo, nhà văn Nguyễn Thụy Kha, nhà văn Đoàn Tử Huyến đã làm tuyển tập “Trịnh Công Sơn, một người thơ ca, một cõi đi về” và cũng làm trang giao lưu trực tuyến cùng bạn đọc trên FaceBook. Trang www.trinhcongson.com là nơi tích trữ những tài liệu sáng tác của và về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để những người yêu thích ông có cơ hội thưởng thức những tác phẩm của ông và biết hơn về con người của ông. Biết bao nhiêu người tưởng nhớ về Trịnh, mỗi người nhớ theo cách riêng của mình.

Cõi riêng Trịnh Công Sơn
ĐỂ BẮT ĐẦU MỘT HỒI ỨC
Trịnh Công Sơn

TrinhCongSon1

Viết hồi ký về đời mình là quyền của mỗi con người. Ai cũng muốn ghi lại những kỷ niệm buồn, vui trong đời. Tuy nhiên cũng có những hồi ký tự thuật và những tường trình về đời mình có tính cách thiếu khiêm tốn và đôi khi không gần gũi với sự thật lắm. Ðiều đó dễ dẫn ta đi vào một thứ trận đồ bát quái tâm linh, không có thật. Tôi rất ngại nói về mình mặc dù đã có nhiều cơ sở xuất bản trong và ngoài nước đề nghị viết về một quá trình khá dài trong cuộc đời làm nghệ thuật của tôi. Cái tôi đáng ghét (Le moi est haissable) nhưng cái tôi cũng có lúc đáng yêu vì cái tôi đó biết mình và cuộc đời là một. Tôi yêu cuộc đời và cuộc đời cũng đã yêu tôi. Ðó là niềm an ủi lớn trong cuộc sống này. Vì thế trong lòng tôi không có một giây phút nào nuôi một lòng oán hận với cuộc đời.

Dù có đôi khi nhân gian bạc đãi mình, và con người phụ rẫy mình nhưng cuộc đời rộng lớn quá và mỗi chúng ta chỉ là những hạt bụi nhỏ nhoi trong trần gian mà thôi. Giận hờn, trách móc mà làm gì bởi vì cuộc đời sẽ xoá hết những vết bầm trong tâm hồn chúng ta nếu lòng ta biết độ lượng. Ta biết tha thứ những điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn.

Ai cũng biết cuộc đời này là quý vì vậy ai cũng muốn ôm lấy mãi cuộc đời. Như đôi tình nhân. Nhưng mà nợ trần không dễ, không dài. Rồi sẽ có phút chia lìa. Phút ấy không biết còn ai nhớ ai nữa không trên mặt đất trần gian này.

Tôi đến với âm nhạc có lẽ cũng vì tình yêu cuộc sống. Một phần cũng do một khúc quanh nào đó của số phận. Thời trẻ tôi học võ và chơi những môn điền kinh. Sau một cơn bệnh nặng kéo dài hơn hai năm do tập dợt judo với người em trai và bỗng nhiên muốn bày tỏ một điều gì đó với cuộc đời. Tôi vốn thích triết học và vì thế tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình. Một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được như ca dao hoặc những lời ru con của mẹ. Triết học Việt Nam có đó nhưng không được hệ thống hóa vì nó bàng bạc trong đời sống nhân gian.

Tôi không bao giờ có tham vọng trở thành một người viết ca khúc nổi tiếng nhưng đời đã tặng cho tôi món quà ấy thì tôi không thể không nhận. Và khi đã nhận rồi thì mình phải có trách nhiệm đối với mọi người. Vì thế tôi đã cố gắng làm thế nào để có thể trong những bài hát của mình chuyên chở được một thông điệp của lòng nhân ái đến với mọi người.

Vì có tình yêu nên có âm nhạc. Vì có khổ đau nên có âm nhạc. Có hạnh phúc nên cũng có âm nhạc. Do đó khi tôi viết lên một bài hát ca tụng tình yêu, hạnh phúc hoặc than thở về một nỗi tuyệt vọng nào đó thì hình như tôi đã không mắc phải một lỗi lầm nào cả.

TrinhCongSon2
TrinhCongSon3
TrinhCongSon4
TrinhCongSon5
TrinhCongSon6
TrinhCongSon7
TrinhCongSon8
TrinhCongSon9

Ảnh nguồn: Blog Giáo sư NGND Nguyễn Lân Dũng

Tôi đúc kết ở chốn này Cõi thiêng Trịnh Công Sơn lắng đọng cho riêng mình cũng là chỗ để bạn đọc đến thăm Người và ngưỡng mộ một tâm hồn trong như ngọc. Một tâm hồn biết bao dung, độ lượng với đời nên đã viết được những bản nhạc, lời thơ và tản văn rung động lòng người đến vậy.

Hoàng Kim

NAM TIẾN CỦA NGƯỜI VIỆT
Hoàng Kim, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long

Nam tiến là xu thế tự nhiên, tất yếu của lịch sử người Việt. Bản đồ đất nước Việt Nam qua các đời đã cho chúng ta dẫn liệu toàn cảnh lịch sử Nam tiến của người Việt từ thời Lý cho đến nay. Hành trình Nam tiến kéo dài trên 700 năm từ thế kỷ 11 đến giữa thế kỷ 18, nâng diện tích lãnh thổ từ ban đầu độc lập (năm 938) cho đến nay (năm 2016) lãnh thổ Việt Nam hình thành và tồn tại với tổng diện tích gấp 3 lần.

Tác phẩm”Nỗi niềm Biển Đông”của nhà văn Nguyên Ngọc dẫn lời của giáo sư Đào Duy Anh là một khái quát gọn nhất và rõ nhất về hai phân kỳ Lịch sử Việt Nam; nguồn gốc và động lực Nam Tiến:

Mở đầu cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, cụ Đào Duy Anh viết: “Khắp một vùng trung châu Bắc Việt, không mẩu đất nào là không có dấu vết thảm đảm kinh dinh của tổ tiên ta để giành quyền sống với vạn vật; suốt một dải Trung Việt vào đến trung châu Nam Việt, không một khúc đường nào là không nhắc lại sự nghiệp gian nan tiến thủ của tổ tiên ta để mở rộng hy vọng cho tương lai.” Thật ngắn gọn, thật súc tich, vị học giả cao kiến đã đúc kết chặt chẽ và cực kỳ chính xác hai chặng đường lớn mấy thiên niên kỷ của dân tộc; và chỉ bằng mấy chữ cô đọng, chỉ ra không thể rõ hơn nữa đặc điểm cơ bản của mỗi chặng, có ý nghĩa không chỉ để nhìn nhận quá khứ, mà còn để suy nghĩ về hôm nay và ngày mai – những suy nghĩ, lạ thay, dường như đang càng ngày càng trở nên nóng bỏng, cấp thiết hơn.

Chặng thứ nhất, tổ tiên ta, từ những rừng núi chật hẹp phía bắc và tây bắc, quyết chí lao xuống chiếm lĩnh hai vùng châu thổ lớn sông Hồng và sông Mã, mênh mông và vô cùng hoang vu, toàn bùn lầy chưa kịp sánh đặc, “thảm đảm kinh dinh để giành quyền sống với vạn vật” – mấy chữ mới thống thiết làm sao – hơn một nghìn năm vật lộn dai dẳng giành giật với sóng nước, với bùn lầy, với bão tố, với thuồng luồng, cá sấu … để từng ngày, từng đêm, từng giờ, vắt khô từng tấc đất, cắm xuống đấy một cây vẹt, một cây mắm, rồi một cây đước, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm  này qua năm khác, trăm năm này qua trăm năm khác, khi đất đã được vắt khô, được rửa mặn và ứng đặc, cắm xuống đấy một cây tạo bóng mát, rồi một cây ăn quả, một cây lúa, một mảnh lúa, rồi một đồng lúa …, tạo nên chỗ đứng chân cho từng con người, từng đôi lứa, từng gia đình, rồi từng cộng đồng, từng xóm mạc, từng làng, từng tổng, từng huyện, …cho đến toàn dân tộc, toàn xã hội, lập nên nửa phần là gốc cội của giang sơn ta ngày nay. Và hẳn còn phải nói thêm điều này nữa, cuộc thảm đạm kinh dinh vật lộn với thiên nhiên ấy lại còn phải cọng thêm cuộc vật lộn cũng dai dẳng, quyết liệt, không hề kém can trường và thông minh, để sáng tạo, định hình và gìn giữ một bản sắc Việt riêng giữa trăm Việt, là một Việt độc đáo và đặc sắc, không bị hòa tan bởi một thế lực hung hản, khổng lồ, luôn muốn xóa bỏ và hòa tan tất cả …   Hơn một thiên niên kỷ thiết lập và trụ vững, tạo nên nền tảng vững bền, để bước sang chặng thứ hai.

Chặng thứ hai, như cụ Đào Duy Anh đã đúc kết cũng thật ngắn gọn và chính xác, “gian nan tiến thủ để mở rộng hy vọng cho tương lai”.  Trên gốc cội ấy rồi, đi về đâu? Chỉ còn một con đường duy nhất: Về Nam. Có lẽ cũng phải nói rõ điều này: trước hết, khi đã đứng chân được trên châu thổ sông Hồng sông Mã rồi, kháng cự vô cùng dũng cảm và thông minh suốt một nghìn năm để vẫn là một Việt đặc sắc không gì đồng hóa được rồi, thì mối uy hiếp bị thôn tính đến từ phương bắc vẫn thường xuyên và mãi mãi thường trực. Không nối dài được giang sơn cho đến tận Cà Mau và Hà Tiên thì không thể nào bắc cự. Ở bước đường chiến lược này của dân tộc có cả hai khía cạnh đều hết sức trọng yếu. Khía cạnh thứ nhất: phải tạo được một hậu phương thật sâu thì mới đủ sức và đủ thế linh hoạt để kháng cự với mưu đồ thôn tính thường trực kia. Lịch sử suốt từ Đinh Lê Lý Trần Lê, và cả cuộc chiến tuyệt vời của Nguyễn Huệ đã chứng minh càng về sau càng rõ điều đó. Chỉ xin nhắc lại một sự kiện nghe có thể lạ: chỉ vừa chấm dứt được 1000 năm bắc thuộc bằng trận đại thắng của Ngô Quyền, thì Lê Hoàn đã có trận đánh sâu về phương nam đến tận Indrapura tức Đồng Dương, nam sông Thu Bồn của Quảng Nam. Đủ biết cha ông ta đã tính toán sớm và sâu về vai trò của phương Nam trong thế trận tất yếu phải đứng vững lâu dài của dân tộc trước phương bắc như thế nào.

 Khía cạnh thứ hai, vừa gắn chặt với khía cạnh thứ nhất, vừa là một “bước tiến thủ” mới “mở rộng hy vọng cho tương lai”, như cách nói sâu sắc của cụ Đào Duy Anh. Bởi có một triết lý thấu suốt: chỉ có thể giữ bằng cách mở, giữ để mà mở, mở để mà giữ. Phải mở rộng hy vọng cho tương lai thì mới có thể tồn tại. Tồn tại bao giờ cũng có nghĩa là phát triển. Đi về Nam là phát triển. Là mở. Không chỉ mở đất đai. Càng quan trọng hơn nhiều là mở tầm nhìn. Có thể nói, suốt một thiên niên kỷ trước, do cuộc thảm đảm kinh dinh để giành dật sự sống với vạn vật  còn quá vật vã gian nan, mà người Việt chủ yếu mới cắm cúi nhìn xuống đất, giành thêm được một một mẩu đất là thêm được một mẩu sống còn. Bây giờ đã khác. Đã có 1000 năm lịch sử để chuẩn bị, đã có thời gian và vô số thử thách để tạo được một bản lĩnh, đã có trước mặt một không gian thoáng đảng để không chỉ nhìn xa mãi về nam, mà là nhìn ra bốn hướng. Nhìn ra biển. Phát hiện ra biển, biển một bên và ta một bên, mà lâu nay ta chưa có thể toàn tâm chú ý đến. Hay thay và cũng tuyệt thay, đi về Nam, người Việt lại cũng đồng thời nhìn ra biển, nhận ra biển, nhận ra không gian sống mới, không gian sinh tồn và phát triển mới mệnh mông của mình. Hôm nay tôi được ban tổ chức tọa đàm giao cho đề tài có tên là “nổi niềm Biển Đông”. Tôi xin nói rằng chính bằng việc đi về nam, trên con đường đi ngày càng xa về nam mà trong tâm tình Việt đã có được nổi niềm biển, nổi niềm Biển Đông. Cũng không phải ngẫu nhiên mà từ đó, nghĩa là từ đầu thiên niên kỷ thứ hai, với nổi niềm biển ngày càng thấm sâu trong máu Việt, cha ông ta, người dân Việt, và các Nhà nước Việt liên tục, đã rất sớm khẳng định chủ quyền Việt Nam trên các hải đảo và thểm lục địa “.

Nam Tien cua nguoi Viet 2


Nam Tiến của người Việt từ thời tự chủ đến nay được chia làm ba giai đoạn chính:

Giai đoạn 1 từ năm 1009 khởi đầu nhà Lý  cho đến năm 1525 khởi đầu nhà Mạc, trãi Đinh, Tiền Lê, Nhà Lý, Nhà Trần (1226-1400), Nhà Hồ (1400- 1407),  Nhà Lê sơ (1428-1527). Cương vực nước Đại Việt là bản đồ màu xanh đến ranh giới đèo Ngang hoặc sông Gianh ranh giới Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay. Giải đất các đồng bằng nhỏ ven biển Nam Trung Bộ suốt thời kỳ này là sự giành đi chiếm lại của Đại Việt và Chiêm Thành.Đây là giai đoạn đầu mới giành được độc lập tự chủ, lãnh thổ Đại Việt bao gồm khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, các đồng bằng nhỏ ven biển Bắc Trung Bộ. Sông Gianh là cực nam của đất nước.

Giai đoạn 2 từ năm 1526 khởi đầu nhà Mạc của nước Đại Việt đến năm 1693 kết thúc việc sáp nhập Chiêm Thành vào Đại Việt và đến năm 1816 sáp nhập hoàn toàn Chân Lạp, Tây Nguyên với các hải đảo vào lãnh thổ của nước Đại Nam thời Minh Mệnh nhà Nguyễn để có ranh giới cương vực như hiện nay. Thời kỳ này trãi từ Nhà Mạc (1527- 1592), Nhà Lê trung hưng (1533-1789), Trịnh-Nguyễn phân tranh,  nhà Tây Sơn (1778- 1802) Chiến tranh Tây Sơn–Chúa Nguyễn (1789-1802) Việt Nam thời Nhà Nguyễn (1804-1839). Bản đồ cương vực màu  xanh gồm khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, các đồng bằng nhỏ ven biển Bắc Trung Bộ thuộc Đằng Ngoài, cương vực màu vàng từ địa đầu Quảng Bình đến đèo Cù Mông tỉnh Phú Yên, bao gồm các đồng bằng nhỏ ven biển Nam Trung Bộ, Tây Nguyên  thuộc Đàng Trong, Từ năm 1693 cho đến năm 1839 lãnh thổ Việt Nam lần lượt bao gồm  Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long với các hải đảo .

Giai đoạn 3 từ năm 1839 cho đến nay, bao gồm:  Đại Nam thời Nhà Nguyễn (1839- 1945); Thời Pháp thuộc Liên bang Đông Dương (nhập chung với Lào, Campuchia, Quảng Châu Loan 1887 -1945); Giai đoạn từ năm 1945 đến nay (Đế quốc Việt Nam: tháng 4 năm 1945 – tháng 8 năm 1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim; Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: từ 2 tháng 9 năm 1945 đến 2 tháng 7 năm 1976; Quốc gia Việt Nam: dựng lên từ 1949 đến 1955 với quốc trưởng Bảo Đại bởi chính quyền Pháp; Việt Nam Cộng hòa: tồn tại với danh nghĩa kế tục Quốc gia Việt Nam từ 1955 đến 30 tháng 4 năm 1975 tại miền Nam; Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam sau là Cộng hoà Miền Nam Việt Nam: từ 8 tháng 6 năm 1960 đến 2 tháng 7 năm 1976; Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: từ ngày 2 tháng 7 năm 1976 đến nay).

Đặc trưng cương vực giai đoạn 1 là Sông Giang làm cực Nam của Đằng Ngoài khi chân chúa Nguyễn Hoàng sáng nghiệp đất Đằng Trong. Năm 1558, chúa Nguyễn Hoàng đã cùng với con em vùng đất Thanh Nghệ vào trấn nhậm ở đất Thuận Hóa Quảng Nam, lấy Hoành Sơn, Linh Giang và Luỹ Thầy sau này làm trường thành chắn Bắc. Nguyễn Hoàng đã có những chính sách hiệu quả để phát triển vùng đất Đằng Trong mở rộng lãnh thổ về phương Nam. Các hậu duệ của Nguyễn Hoàng tiếp tục chính sách  bắc cự nhà Trịnh, nam mở mang đất, đến năm 1693 thì sáp nhập toàn bộ đất đai Chiêm Thành vào Đại Việt.

Đặc trưng cương vực giai đoạn 2 là Núi  Đại Lãnh và núi đá Bia tỉnh Phú Yên là chỉ dấu quan trọng Nam tiến của người Việt từ thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ 17. Lê Hoàn năm 982 đem quân đánh Chiêm Thành mở đất phương Nam là lần xuất chinh sớm nhất của Đại Việt, và năm 1693 là năm cuối cùng toàn bộ phần đất Chiêm Thành ở Phú Yên sáp nhập hoàn toàn vào Đại Việt.

Vua Lê Thánh Tông năm 1471 khi vua thân chinh cầm quân tấn công Chiêm Thành  tương truyền đã dừng tại chân núi đá Bia và cho quân lính trèo lên khắc ghi rõ cương vực Đại Việt. Thời Nhà Nguyễn, đến năm 1816 thì sáp nhập toàn bộ đất đai Chân Lạp, Tây Nguyên và các hải đảo vào lãnh thổ Đại Nam. Kể từ lần xuất chinh đầu tiên của Lê Hoàn từ năm 982 đến năm 1693 trãi 711 năm qua nhiều triều đại, hai vùng đất Đại Việt Chiêm Thành mới quy về một mối. Người Việt đã đi như một dòng sông lớn xuôi về biển, có khi hiền hòa có khi hung dữ, với ba lần hôn phối một lần thời Trần (Huyền Trân Công Chúa) và hai lần thời Nguyễn (Ngọc Khoa Công Chúa và Ngọc Vạn Công Chúa), với chín lần chiến tranh lớn  nhỏ đã hòa máu huyết người Việt với người Chiêm để bước qua lời nguyền núi đá Bia ở núi Phú Yên thực hiện công cuộc “gian nan tiến thủ để mở rộng hy vọng cho tương lai”, cho đến năm 1834 thành nước Đại Nam và sau trở thành nước Việt Nam như ngày nay.

Đặc trưng cương vực giai đoạn 3 là vị thế nước Việt Nam độc lập toàn vẹn ngày nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh người đặt nền móng cho một nước Việt Nam mới đã kiên quyết khôn khéo nhanh tay giành được chính quyền và lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, bởi Pháp bại Nhật hàng vua Bảo Đại thoái vị. Bác nói và làm những điều rất hợp lòng dân: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một; sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. “Nay, tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu (tôi) cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài.

CHỐN TỔ CỦA NGƯỜI VIỆT

Việt Nam nôi người Việt là vùng đất Rồng Tiên Văn Lang và Việt Thường xưa. Đất Rồng là Tam giác châu Bắc Bộ, chốn tổ nghề lúa Việt Nam và Thế giới; non Tiên là đất Việt Thường.

Vùng tam giác châu Bắc Bộ với ba đỉnh Việt Trì, Ninh Bình, Quảng Ninh, có trọng tâm là Hoàng Thành Thăng Long, thủ đô Hà Nội ngày nay. Hoàng Thành Thăng Long Hà Nội với Hưng Yên, Cổ Loa là địa danh nghiên cứu lịch sử văn hóa dân tộc Việt đặc biệt quan trọng . Giáo sư Trần Quốc Vượng tại lời tựa sách “Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình” do Trương Đình Tuyển chủ biên (Nhà Xuất bản Thế Giới, Hà Nội, xuất bản năm 2004, 678 trang) đã trích dẫn Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi nói về địa thế hiểm yếu của non sông Việt:

Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác

Đỉnh thứ nhất của tam giác châu Bắc Bộ ở đỉnh Tản Viên của dãy núi Ba Vì ở Việt Trì thuộc tỉnh Phú Thọ, nằm ở tả ngạn sông Hồng, bên kia là huyện Ba Vì, Hà Nội. Việt Trì là thành phố địa chính trị văn hóa lịch sử Việt Nam, nơi có kinh đô Văn Lang, kinh đô đầu tiên của người Việt, quê hương đất tổ vua Hùng, cửa ngõ vùng Tây Bắc, đầu mối giao thông nối giữa các tỉnh trung du và miền núi phía bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, nằm trên hành lang kinh tế Hải Phòng – Hà Nội – Côn Minh (Trung Quốc). Việt Trì cũng là thành phố ngã ba sông nơi hợp lưu của sông Thao, sông Lô, sông Đà thành sông Hồng.

Đỉnh thứ hai của tam giác châu Bắc Bộ ở núi Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh nơi có Quần thể di tích danh thắng Yên Tử ở Bắc Giang và Quảng Ninh. Đây là quần thể danh thắng đặc biệt nổi tiếng liên tỉnh đầu tiên ở Việt Nam được đệ trình Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO xem xét, công nhận là Di sản thế giới. Việt Trì nối với Quảng Ninh là dải Tam Đảo nối 99 ngọn Nham Biền với dãy núi vòng cung Đông Triều tạo nên thế hiểm “trường thành chắn Bắc”, bề dày núi non hiểm trở khoảng 400 km núi đá che chắn mặt Bắc của thủ đô Hà Nội non sông Việt.

Đỉnh thứ ba của tam giác châu huyền thoại Bắc Bộ ở núi Mây Bạc của Dãy núi Tam Điệp thuộc khu vực Tam Điệp–Tràng An của ba tỉnh  Hòa Bình, Ninh Bình và Thanh Hóa. Dãy núi Tam Điệp là dải núi cuối cùng của dãy núi Ba Vì từ đỉnh tam giác châu Tản Viên, Việt Trì rồi 99 ngọn chạy dọc sông Đáy, sông Hoàng Long mà tới vùng Thần Phù Nga Sơn đâm ra gần sát biển theo hướng Tây Bắc Đông Nam. Đây cũng là vùng quần thể di sản thế giới Tràng An nơi có chùa Bái Đính là quần thể chùa có nhiều kỷ lục châu Á và Việt Nam được xác lập như chùa có tượng Phật bằng đồng dát vàng lớn nhất châu Á, chùa có hành lang La Hán dài nhất châu Á, chùa có tượng Di lặc bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á

Sông Hoàng Long chảy hoài
Hoàng Kim

Sông Hoàng Long sông Hoàng Long
Nguồn nước yêu thương chảy giữa lòng
Bái Đính Tràng An nôi người Việt
Cao Sơn thăm thẳm đức Minh Không.

Dãy núi Tam Điệp, sông Hoàng Long và khu vực Tam Điệp Tràng An là nôi loài người Việt cổ thuộc nền văn hóa Tràng An thời kỳ đồ đá cũ và một số hang động ở Tam Điệp có di chỉ cư trú của con người thời văn hóa Hòa Bình. Vùng đất này là chốn tổ của nghề lúa châu Á và Thế Giới. Dãy núi Tam Điệp , sông Hoàng Long cắt ngang vùng đồng bằng duyên hải thành hai phần châu thổ sông Hồng và sông Mã nên nó được xem là ranh giới giữa miền Bắc và miền Trung. Dãy núi Tam Điệp là bức tường thành thiên nhiên lợi hại ngăn cách hai vùng Ninh Bình Thanh Hoá và án ngữ các đường thuỷ bộ từ Bắc vào Nam, đường bộ qua đèo Tam Điệp, đường thuỷ qua cửa Thần Phù. Dãy núi Tam Điệp chứa đựng nhiều giá trị địa chính trị, lịch sử, văn hóa với vai trò là nôi người Việt tiền sử, với những danh thắng và phòng tuyến quân sự rất nổi tiếng như cửa Thần Phù, phòng tuyến Tam Điệp, rừng Cúc Phương, hồ Yên Quang, hồ Đồng Chương, hồ Yên Thắng, núi Cao Sơn, động Người Xưa, hang Con Moong,…

Dãy núi Tam Điệp nối liền với Dãy núi Trường Sơn (trong tiếng Lào là Phu Luông) là dãy núi dài nhất Việt Nam và Lào, dài khoảng 1.100 km. Dãy núi Trường Sơn tiếp nối với dãy núi Ba Vì và Dãy núi Tam Điệp , bắt đầu từ thượng nguồn sông Cả trên đất Lào giáp Nghệ An tới tận cực nam Trung Bộ. Nó bao gồm toàn bộ các dãy núi nhỏ hơn ở Bắc Trung Bộ và các khối núi, cao nguyên Nam Trung Bộ, xếp thành hình cánh cung lớn mà mặt lồi quay ra Biển Đông. Trường Sơn được chia thành Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam, ngăn cách bởi đèo Hải Vân và núi Bạch Mã. Dãy núi Trường Sơn là xương sống để nối liến hình thế Bắc Nam liền một giải.

DẠO CHƠI NON NƯỚC VIỆT
Hoàng Kim

Anh và em,
chúng mình cùng nhau
dạo chơi non nước Việt.

Anh đưa em vào miền cổ tích
nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ
sinh ra đồng bào mình trong bọc trứng,
thăm đền Hùng Phú Thọ
ở Nghĩa Lĩnh, Việt Trì,
về Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội,
thủ đô Việt Nam,
hồn thiêng sông núi tụ về.

“Khắp vùng đồng bằng sông Hồng,
vùng núi và trung du phía Bắc,
không mẩu đất nào không lưu dấu tổ tiên
để giành quyền sống với vạn vật.

Suốt dọc các vùng
từ duyên hải Bắc Trung Bộ,
đến duyên hải Nam Trung Bộ,
Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ,
Đồng Bằng Sông Cửu Long,
là sự nghiệp gian nan tiến thủ của tổ tiên
để mở rộng hy vọng tương lai dân tộc” (1)

Tổ Quốc bốn nghìn năm
giang sơn gấm vóc
biết bao nơi lòng ta thầm ước
một lần đến thăm.

Anh đưa em lên Phù Vân
giữa bạt ngàn Yên Tử
nơi “vũ trụ mắt soi ngoài biển cả” (2)
đến Hạ Long,
Hương Sơn,
Phong Nha,
Huế,
Hải Vân,
Non nước,
Hội An,
Thiên Ấn,
Hoài Nhơn,
Nha Trang,
Đà Lạt.

Về tổ ấm chúng mình
Ngọc phương Nam.
Tình yêu muôn đời:
Non nước Việt Nam.

1) Đào Duy Anh
2) Nguyễn Trãi  

Ảnh

Câu chuyện ảnh tháng Ba
THĂM VĂN MIẾU TRẤN BIÊN
Hoàng Kim

Bạn cũ Lớp Trồng Trọt 2C, Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh cùng nhau về  dâng hương ở Văn miếu Trấn Biên Đồng Nai. Chúng tôi lưu lại một số hình ảnh và địa chỉ liên lạc với vài ghi chép bước đầu về nơi này…

Văn miếu Trấn Biên huyền thoại

Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh

Lớp Trồng Trọt 2C thương quý

Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh
Ảnh

Sông Đồng Nai thao thiết chảy

Sông Đồng Nai là con sông dài nhất chảy trên lãnh thổ Việt Nam, lớn thứ nhì Nam Bộ về lưu vực, chỉ sau sông Cửu Long. Sông Đồng Nai chảy qua các tỉnh Lâm Đồng, Đăk Nông, Bình Phước, Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh với chiều dài 586 km (364 dặm) và lưu vực 38.600 km². Dòng sông này đi qua cù lao Phố nơi Văn miếu Trấn Biên huyền thoại mà ngày xuân lớp chúng tôi đã tìm về để ghi nhớ ân đức tổ tiên … Dòng sông độ lượng đỏ nặng phù sa của mùa mưa lũ . Chảy đi sông ơi ! bài hát ngân vang trong lòng ta dòng sông quê hương thao thiết chảy.

Hình ảnh gia đình nông nghiệp ảnh mới  http://giadinhnongnghiep.wordpress.com

Câu chuyện ảnh tháng Ba
VỀ THĂM THẦY BẠN CŨ
Hoàng Kim

Dạy và học ĐHNLHCM
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC, CÂY LƯƠNG THỰC

Câu chuyện ảnh tháng Ba
NĂM GIỐNG SẮN MỚI TẠI PHÚ YÊN
Hoàng Kim

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-chuyen-anh-thang ba/
Video và hình ảnh thu hoạch sắn mới ở Sông Hinh 19 tháng 3, 2015
https://youtu.be/XDM6i8vLHcI

xem tiếp Năm giống sắn mới tại Phú Yên https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nam-giong-san-moi-tai-phu-yen/

Câu chuyện ảnh tháng Ba
CHUYỆN ĐỜI TÔI
Hoàng Kim

Suốt đời chuyên một việc
Cây Lương Thực Việt Nam
Thung dung Dạy và Học
Hoa Đất Ngọc Phương Nam
..
Nhớ Thầy Tôn Thất Trình
Chiếc bàn Thầy lưu lại
Góc phải nhà chữ U
“Dĩ nông vi bản ” đấy.

Tới thầy Lê Minh Triết
Giảng dạy ba mươi năm
Cây Lương thực Việt Nam
Hoàng Kim vui về đấy

Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ
Đầy trời hoa tuyết bay

Bố hưu con về dạy (*)
Nguyên, Long nối nghiệp nhà
Cùng thầy hiền bạn quý
Chăm đất lành nở hoa

Bao năm Trường Viện là nhà
Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương
Một đời người một rừng cây
Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng

(*) Hoàng Kim đã cập nhật ảnh đại diện của anh ấy. 19 tháng 3, 2011 lúc 23:44 ,Cám ơn Face Book đã lưu ảnh ngày này năm xưa, Hoang Long nay vui về đấy, tiếp nối dạy và học Cây Lương thực — tại Trường Đại Học Nông Lâm TP.HCM https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-chuyen-anh-thang-ba/.

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365 bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Nhạc Trịnh Công Sơn
Giúp bà con cải thiện mùa vụ (Video Long Phu ở Lào)
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter