Thể loại:
Hồ Chí Minh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hồ Chí Minh |
Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946
|
Chức vụ
|
|
Nhiệm kỳ |
2 tháng 9, 1945 –
2 tháng 9, 1969
24 năm, 0 ngày |
Tiền nhiệm |
đầu tiên |
Kế nhiệm |
Tôn Đức Thắng (Quyền) |
Khu vực |
Việt Nam |
Phó chủ tịch nước |
Nguyễn Hải Thần |
|
Nhiệm kỳ |
17 tháng 8, 1945 –
20 tháng 9, 1955
10 năm, 34 ngày |
Tiền nhiệm |
đầu tiên |
Kế nhiệm |
Phạm Văn Đồng |
Khu vực |
Chính phủ Việt Nam |
|
Nhiệm kỳ |
19 tháng 2, 1951 –
2 tháng 9, 1969
18 năm, 195 ngày |
Khu vực |
Đảng Cộng sản Việt Nam |
|
Nhiệm kỳ |
28 tháng 8, 1945 –
2 tháng 3, 1946
0 năm, 186 ngày |
Tiền nhiệm |
đầu tiên |
Kế nhiệm |
Nguyễn Tường Tam |
Khu vực |
Bộ Ngoại giao Việt Nam |
|
Nhiệm kỳ |
28 tháng 8, 1946 – 1947 |
Tiền nhiệm |
Nguyễn Tường Tam |
Kế nhiệm |
Hoàng Minh Giám |
Khu vực |
Bộ Ngoại giao Việt Nam |
|
Nhiệm kỳ |
31 tháng 3, 1935 –
2 tháng 9, 1969
34 năm, 155 ngày |
Khu vực |
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam |
Thông tin chung
|
Đảng phái |
Đảng Cộng sản Việt Nam |
Sinh |
19 tháng 5, 1890
Nam Đàn, Nghệ An |
Mất |
2 tháng 9, 1969 (79 tuổi)
Hà Nội, Việt Nam |
Nơi ở |
Hà Nội |
Dân tộc |
Kinh |
Tôn giáo |
Không |
Họ hàng |
Hà Thị Hi (bà nội)
Nguyễn Thị Thanh (chị)
Nguyễn Sinh Khiêm (anh)
Nguyễn Sinh Nhuận (em) |
Cha hoặc mẹ |
Nguyễn Sinh Sắc (cha)
Hoàng Thị Loan (mẹ) |
Chữ ký |
 |
Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) là một nhà cách mạng, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20. Ông là người viết và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian 1945 – 1969, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trong thời gian 1951 – 1969.
Là nhà lãnh đạo được nhiều người ngưỡng mộ và tôn sùng, lăng của ông được xây ở Hà Nội, nhiều tượng đài của ông được đặt ở khắp mọi miền Việt Nam, hình ảnh của ông được nhiều người dân treo trong nhà, đặt trên bàn thờ,[1][2][3][4][5] và được in ở hầu hết mệnh giá đồng tiền Việt Nam. Ông được thờ cúng ở một số đền thờ và chùa Việt Nam.[6][7][8] Ông đồng thời cũng là một nhà văn, nhà thơ và nhà báo với nhiều tác phẩm viết bằng cả tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng Pháp. Ông đã được tạp chí Times bình chọn là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20.[9][10][11]
Tiểu sử và sự nghiệp
Xuất thân và quê quán
-
Theo gia phả của dòng họ Nguyễn ở làng Sen xã Kim Liên tại huyện Nam Đàn, Nghệ An thì:
- “Hoàng sơ tổ khảo là Nguyễn Bá Phụ, tổ đời thứ hai là Nguyễn Bá Bạc, tổ đời thứ ba là Nguyễn Bá Ban, tổ đời thứ tư là Nguyễn Văn Dân,… tổ đời thứ năm, Nguyễn Sinh Vật là giám sinh đời Lê Thánh Đức (tức Lê Thần Tông) năm thứ ba…, tổ đời thứ sáu là Nguyễn Sinh Tài đỗ hiếu sinh khi 17 tuổi, năm 34 tuổi đỗ tam trường khoa thi Hội…, tổ đời thứ 10 là Nguyễn Sinh Nhậm[12]).” Cả bốn đời đầu tiên của dòng họ đều chưa lấy đệm là “Sinh” và không rõ năm sinh, năm mất.[13]
Theo nhiều tài liệu chính thống cũng như tiểu sử tại Việt Nam, tên lúc nhỏ của ông Nguyễn Sinh Cung[14][15] (giọng địa phương phát âm là Côông), tự là Tất Thành.[16] Tuy nhiên, một số tài liệu ghi nhận tên lúc nhỏ của ông là Nguyễn Sinh Côn,.[17][18][19][20][21] Điều này cũng được chính ông xác nhận bằng chính bút tích của mình trong một bài viết năm 1954.[22] Quê nội là làng Kim Liên (tên Nôm là làng Sen). Ông được sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trù (tên Nôm là làng Chùa, nằm cách làng Sen khoảng 2 km) và sống ở đây cho đến năm 1895. Hai làng này vốn cùng nằm trong xã Chung Cự, thuộc tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn. Quê nội của ông, làng Kim Liên[23] là một làng quê nghèo khó. Phần lớn dân chúng không có ruộng, phải làm thuê cấy rẽ, mặc quần ít, đóng khố nhiều, bởi thế nên làng này còn có tên là làng Đai Khố.[24] Vào đời ông, phần lớn dòng họ của ông đều cơ hàn, kiếm sống bằng nghề làm thuê, và cũng có người tham gia các hoạt động chống Pháp.[25]
Cha ông là một nhà nho tên là Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ phó bảng.[26] Mẹ là bà Hoàng Thị Loan. Ông có một người chị là Nguyễn Thị Thanh, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (tự Tất Đạt, còn gọi là Cả Khiêm) và một người em trai mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận (1900–1901, tên khi mới lọt lòng là Xin).
Tuổi trẻ
Năm 1895, Nguyễn Sinh Côn cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu tiên. Sau khi mẹ mất (1901), ông về Nghệ An ở với bà ngoại một thời gian ngắn rồi theo cha về quê nội, từ đây ông bắt đầu dùng tên Nguyễn Tất Thành. Tất Thành theo học cử nhân Hoàng Phạm Quỳnh và một số ông giáo khác.[27]
Năm 1906, Nguyễn Sinh Côn theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba. Tại đây, ông trải qua các niên khoá 1906-1907 lớp nhì và 1907-1908 lớp nhất. Trong kỳ thi primaire (tương đương tốt nghiệp tiểu học) năm 1908 – ông là một trong 10 học trò giỏi nhất của trường Pháp – Việt Đông Ba được thi vượt cấp vào hệ Thành chung trường Quốc Học.[28]
Theo nghiên cứu của học giả William J. Duiker, vào tháng 9 năm 1907, ông vào học lớp trung học đệ nhị niên tại trường Quốc học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ.[29] Cha ông bị triều đình khiển trách vì “hành vi của hai con trai”. Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. Ông quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều đình.[30] Tuy nhiên, theo tài liệu hiện lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại (Centre des archives d’Outre-mer hay CAOM) ở Pháp, Nguyễn Sinh Côn và được nhận vào Quốc Học Huế vào ngày 7 tháng 8 năm 1908.[17][18][20] Theo nhà nghiên cứu lịch sử Vũ Ngự Chiêu thì như vậy “không có việc Nguyễn Sinh Côn bị trục xuất khỏi trường Quốc Học vì tham gia vào cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế—cuộc biểu tình chống sưu dịch xảy ra ngày 9 tới 12 tháng 4 năm 1908; tức gần bốn tháng trước ngày trò Côn được nhận vào trường Quốc Học.”[17]
Đầu năm 1910, Nguyễn Tất Thành đến Phan Thiết. Ông dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của Hội Liên Thành.[31][32]
Trong thời gian này, Nguyễn Tất Thành thường gặp gỡ một số nhà nho yêu nước đương thời, tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Nguyễn Tất Thành đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Ông tuy khâm phục Đề Thám, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào cả. Theo quan điểm của ông, Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải cách, điều đó chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”, còn Phan Bội Châu thì hy vọng Đế quốc Nhật Bản giúp đỡ để chống Pháp, điều đó nguy hiểm chẳng khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước báo cửa sau”. Nguyễn Tất Thành thấy rõ là cần quyết định con đường đi của riêng mình.[33]
Khoảng trước tháng 2 năm 1911, ông nghỉ dạy và vào Sài Gòn cũng với sự giúp đỡ của Hội Liên Thành. Tại đây, ông theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son (bây giờ là trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng), vừa đi bán báo ở khu vực thương cảng để kiếm sống và đồng thời tìm hiểu đời sống công nhân.[34][35][36] Ở đây, ông học được 3 tháng. Sau đó ông quyết định sẽ tìm một công việc trên một con tàu viễn dương để được ra nước ngoài học hỏi tinh hoa của phương Tây[37] để trở về giúp nhân dân Việt Nam.[38]
Hoạt động ở nước ngoài
-
Mô hình chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville được trưng bày tại
bến Nhà Rồng
Thư Nguyễn Tất Thành gửi tổng thống Pháp năm 1911 xin được nhập học vào Trường Thuộc địa (École Coloniale)
Thời kỳ 1911-1919
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Ngày 6 tháng 7 năm 1911, sau hơn 1 tháng đi biển, tàu cập cảng Marseilles, Pháp. Tại Marseilles, ông đã viết thư đến Tổng thống Pháp, xin được nhập học vào Trường Thuộc địa (École Coloniale), trường chuyên đào tạo các nhân viên hành chánh cho chính quyền thực dân, với hy vọng “giúp ích cho Pháp”. Thư yêu cầu của ông bị từ chối và được chuyển đến Khâm sứ Trung Kỳ ở Huế.[39] Ở Pháp một thời gian rồi ông qua Hoa Kỳ. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912-cuối 1913), ông đến nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn, học tiếng Anh, và ở London cho đến cuối năm 1916.[40] Một số tài liệu trong kho lưu trữ của Pháp và Nga cho biết trong thời gian sống tại Hoa Kỳ, ông đã nghe Marcus Garvey diễn thuyết ở khu Harlem và tham khảo ý kiến của các nhà hoạt động vì nền độc lập của Triều Tiên.[40] Cuối năm 1917, ông trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.[41]
Thời kỳ ở Pháp
Tấm biển đồng gắn tại nhà số 9 ngõ Compoint, quận 17 Paris: “Tại đây, từ năm 1921-1923, Nguyễn Ái Quốc đã sống và chiến đấu vì quyền độc lập và tự do cho nhân dân Việt Nam và các dân tộc bị áp bức”
Nguyễn Ái Quốc, đại biểu Đông Dương, chụp tại Đại hội Đảng cộng sản Pháp họp tại Marseille năm 1921
Tháng 2 năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp.[42] Ngày 18 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước, Nguyễn Tất Thành đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý tưởng của Tổng thống Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á, trao tận tay tổng thống Pháp và các đoàn đại biểu đến dự hội nghị.[43] Bản yêu sách không yêu cầu độc lập cho Việt Nam, nhưng bao gồm quyền tự do và bình đẳng.[44] Bản yêu sách này do một nhóm các nhà ái quốc Việt Nam sống ở Pháp, trong đó có Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành, cùng viết, và được ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc.[45] Từ đây, Nguyễn Tất Thành công khai nhận mình là Nguyễn Ái Quốc[46] và sử dụng tên này trong suốt 30 năm sau đó.[47] Thất bại của Hội nghị Versailles trong giải quyết các vấn đề thuộc địa đã đẩy niềm tin của Nguyễn Tất Thành sang chủ nghĩa cộng sản.[44]
Nguyễn Ái Quốc nói với các đại biểu của Đảng Cộng sản Pháp: “Tôi không hiểu bất cứ điều gì về chiến lược, thủ thuật hành động và tất cả những từ ngữ đao to búa lớn mà các ông dùng, nhưng tôi hiểu một điều rất đơn giản: Quốc tế Thứ 3 quan tâm rất nhiều tới vấn đề thuộc địa. Các đại biểu của Quốc tế Thứ 3 hứa sẽ giúp các dân tộc thuộc địa đang bị áp bức giành lại tự do và độc lập. Các thành viên của Quốc tế thứ 2 không nói một từ về số phận của các vùng thuộc địa”.[44]
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin, từ đó ông hoàn toàn tin tưởng[48] vào chủ nghĩa cộng sản. Ông tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, ông trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã hội. Năm 1921, ông cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale – Association des indigènes de toutes les colonies) nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc. Năm 1922, ông cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (Người cùng khổ), làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” bằng tiếng Pháp (Procès de la colonisation française) do Nguyễn Ái Quốc viết được xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
Thời kỳ ở Liên Xô lần thứ nhất
Nguyễn Ái Quốc, chụp tại Liên Xô năm 1923.
Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô lần đầu tiên vào năm 1922 tham gia Đại hội lần tư của Quốc tế Cộng sản, ở đó ông gặp Lenin và trở thành thành viên của Ban Đông Nam Á của Quốc tế Cộng sản.[44]
Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông được đào tạo chính quy về Chủ nghĩa Marx, tuyên truyền và khởi nghĩa vũ trang.[44] Tại đây ông đã dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 1923), ông được bầu vào Ban chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Tại Đại hội lần thứ 5 Đệ Tam Quốc tế (họp từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924), ông được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
Năm 1924, tại thành phố Moskva, ông viết và nộp cho tổ chức Đệ Tam Quốc tế một bản Báo cáo về tình hình Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Nhận thấy phong trào đấu tranh giai cấp tại Việt Nam có sự khác biệt với phong trào đấu tranh giai cấp bên Tây phương đương thời, ông có nhận xét về các tầng lớp địa chủ, tăng lữ,… của Việt Nam như sau:
“ |
Những địa chủ ở đây chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ (…). Không có vốn liếng gì lớn…, đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa”,”An Nam chưa bao giờ có tăng lữ…”. |
” |
—Nguyễn Ái Quốc[49] |
Ông cho rằng:[49]
“ |
Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917. |
” |
—Nguyễn Ái Quốc |
Tư tưởng này của ông không có gì mâu thuẫn với Luận cương về các vấn đề dân tộc thuộc địa của Lênin, khi lấy chủ nghĩa dân tộc để đi đến chủ nghĩa cộng sản (đại đồng)
Thời kỳ ở Trung Quốc (1924-1927)
Tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ
Le Paria, đời sống người dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp
Sau khi học tại Liên Xô, cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu theo phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn đến giúp chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch, làm phiên dịch lấy tên là Lý Thụy.
Trong thời gian ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc có nhiệm vụ tuyên truyền phổ biến tư tưởng cách mạng ra vùng Đông Phương. Theo đó, năm 1925, ông tập hợp Việt Kiều và thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) để truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin (thường được phiên âm là Mác–Lê-nin) vào Việt Nam. Cuốn Đường Kách mệnh, mà ông là tác giả, tập hợp các bài giảng tại các lớp huấn luyện chính trị của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được xuất bản năm 1927.[50]
Cùng năm 1925, ông tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng và ông làm bí thư. Tổ chức này sau đó trở thành Đảng Cộng sản Nam Hải (the South Seas Communist party),[44] tiền thân của một loạt các tổ chức cộng sản sau này, bao gồm có cả Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc cũng gửi một loạt người Việt đi học trường quân sự của Tưởng Giới Thạch tại Quảng Châu, đồng thời tiến hành một khóa đào tạo về khởi nghĩa vũ trang. Do Tưởng Giới Thạch khủng bố các nhà cách mạng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam, ông rời Quảng Châu đi Hương Cảng, rồi thoát sang Liên Xô theo đường sa mạc Gobi. Tháng 11 năm 1927, ông được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn chống đế quốc từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927 tại Brussel, Bỉ.
Thời kỳ ở Thái Lan (1928 – 1929)
Mùa thu 1928, ông từ châu Âu đến Xiêm La (Thái Lan), cải trang là một nhà sư đầu trọc, với bí danh Thầu Chín để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt kiều tại Xiêm, đồng thời xuất bản báo gửi về nước. Cuối năm 1929, ông rời khỏi Vương quốc Xiêm La và sang Trung Quốc.[51]
Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long (九龍, Kowloon) thuộc Hương Cảng, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, nhằm giải quyết những mâu thuẫn đang có giữa những người cộng sản ở Đông Dương, ông thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đó đổi tên là “Đảng Cộng sản Đông Dương”, rồi đổi thành “Đảng Lao Động Việt Nam” và nay là “Đảng Cộng sản Việt Nam”). Cũng vào năm này, khởi nghĩa Xô Viết Nghệ Tĩnh nổ ra, do Đảng Cộng sản chỉ đạo, nhưng thất bại. Pháp cấm Đảng Cộng sản Đông Dương, và Nguyễn Ái Quốc bị xử tử hình vắng mặt.
Tháng 3 năm 1930, ông trở lại Xiêm La trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại Trung Hoa.
Những năm 1931 – 1933
Năm 1931, dưới tên giả là Tống Văn Sơ (Sung Man Ch’o), Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam với ý định trao cho chính quyền Pháp ở Đông Dương. Tờ L’Humanité số ra ngày 9 tháng 8 năm 1932 đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi trong trạm xá nhà tù tại Hồng Kông đồng thời tố cáo đây là âm mưu của thực dân Pháp câu kết với thực dân Anh nhằm ám sát người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.[52]
Sau đó nhờ sự biện hộ và giúp đỡ tận tình của luật sư Frank Loseby,[53] Tống Văn Sơ được thả ngày 28 tháng 12 năm 1932. Ông đi Thượng Hải rồi bí mật quay trở lại Liên Xô.
Thời kỳ ở Liên Xô lần thứ hai
Ông đến Moskva vào mùa xuân năm 1934. Với bí danh Lin, Nguyễn Ái Quốc học ở Trường Quốc tế Lenin (1934–1935). Ông dự Đại hội lần thứ 7 Đệ Tam Quốc tế (từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1935) với vai trò quan sát viên của ban thư ký Dalburo với tên Linov.[54] Ông bị Ban Lãnh đạo Hải ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương viết thư gửi Quốc tế Cộng sản kết tội phải chịu trách nhiệm chính về việc hơn 100 đảng viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên bị bắt do việc ông biết Lâm Đức Thụ trước đây là kẻ phản bội mà vẫn tiếp tục sử dụng.[55] Ông bị buộc ở Liên Xô cho đến năm 1938 và bị giam lỏng ở đó do bị nghi ngờ về lý do ông được nhà cầm quyền Hương Cảng trả tự do.[56] Quốc tế Cộng sản thành lập Ban Thẩm tra vì nghi ngờ về sự trung thành chính trị của Nguyễn Ái Quốc nhưng không tìm ra chứng cứ nào cho thấy điều này, tiếp đó hồ sơ vụ việc Nguyễn Ái Quốc đã được Ban Thẩm Tra quyết định hủy bỏ.[57] Sau đó Nguyễn Ái Quốc tham gia lớp nghiên cứu sinh Viện Nghiên cứu các Vấn đề Dân tộc và Thuộc địa của Quốc tế Cộng sản.[58]
Trong những năm 1931-1935, ông đã bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải lương “liên minh với tư sản và địa chủ vừa và nhỏ”, không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Đệ Tam Quốc tế.[59][60] Trong một bức thư kể cho tổ chức Đệ Tam Quốc tế hay về phong trào cách mạng vô sản tại Đông Dương được viết vào tháng 3 năm 1935, Nguyễn Ái Quốc bị phê phán nặng nề. Bức thư này có ghi nhận về “tàn dư của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa duy tâm của đảng của các đồng chí Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và của đồng chí Nguyễn Ái Quốc”. Trong thư này cũng có đoạn: “Những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản. Cuộc tranh đấu không nhân nhượng chống những học thuyết cơ hội này của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và của Đảng Thanh niên là rất cần thiết (…). Chúng tôi đề nghị đồng chí Lin viết một cuốn sách để tự phê bình những khuyết điểm đã qua”.[49]
Sở dĩ có việc phê phán này là do vào thời điểm đó, Quốc tế Cộng sản, dưới sự lãnh đạo của Stalin, đặt đấu tranh giải phóng dân tộc đi kèm với đấu tranh giai cấp, tuy nhiên khác biệt giữa Hồ Chí Minh và một số đồng chí của mình là tuy đề cập đến đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, nhưng khác biệt về lực lượng tham gia, cần tranh thủ.
Trong giai đoạn này, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập lần lượt làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương còn Hồ Chí Minh chỉ đảm nhiệm công tác liên lạc giữa Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản tại Đông Nam Á.[61]
Từ năm 1938 đến đầu năm 1941
Năm 1938, ông trở lại Trung Quốc. Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang, Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Quốc mùa đông 1938 đến đầu 1939.[62]
Trở về Việt Nam
Đầu tháng 1-1941, Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng từ Việt Nam sang Tĩnh Tây (Quảng Tây, Trung Quốc) gặp Hồ Chí Minh để báo cáo kết quả xây dựng và củng cố an toàn khu Cao Bằng. Hoàng Văn Thụ đề nghị ông về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua lối Cao Bằng. Hồ Chí Minh cũng nhận định Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng, và ông quyết định trở về nước sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài[63]
Ông trở về Việt Nam vào ngày 28 tháng 1 năm 1941,[64] với hành lý là một chiếc vali nhỏ đan bằng mây tre để đựng quần áo và một chiếc máy chữ xách tay. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về sự kiện này qua bốn câu thơ: “Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!/Nhớ thương hòn đất ấm hơi Người/Ba mươi năm ấy, chân không nghỉ/Mà đến bây giờ mới tới nơi”.[63]
Sau khi hỏi thăm dân địa phương, ngày 8 tháng 2 năm 1941, ông tới ở tại hang Cốc Bó, bản Pác Bó, tỉnh Cao Bằng với bí danh Già Thu. Dòng suối lớn chảy qua đây được ông gọi là suối Lê-nin, ngọn núi đá cao được gọi là núi Các-Mác. Ông đã làm một bài thơ (nay đã được tạc vào vách núi) thể hiện chí hướng:[65]
- Non xa xa nước xa xa
- Nào phải thênh thang mới gọi là
- Đây suối Lê-nin, kia núi Mác
- Hai tay gây dựng một sơn hà.
Tại đây, ông mở các lớp huấn luyện cán bộ,[66] cho in báo, tham gia các hoạt động thường ngày… Tài liệu huấn luyện và tuyên truyền chủ yếu là sách do ông dịch và viết về nhiều chủ đề. Tại cuối một cuốn sách như vậy ông ghi “Việt Nam độc lập năm 1945“.[67] Ông cho lập nhiều hội đoàn nhân dân như hội phụ nữ cứu quốc, hội phụ lão cứu quốc, hội nông dân cứu quốc,…
Từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941, ông chủ trì Hội nghị lần thứ 8 (mở rộng) của Trung ương Đảng họp tại Pác Bó, Cao Bằng. Một trong những kết quả của hội nghị này là nghị quyết về việc thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh).[68][69]
Từ bị giam ở Trung Quốc cho tới thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Ngày 13 tháng 8 năm 1942, ông lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của cả Việt Minh và Hội quốc tế phản xâm lược Việt Nam (một hội đoàn được ông tổ chức ra trước đó) để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc. Đây là lần đầu tiên trong các giấy tờ cá nhân ông sử dụng tên Hồ Chí Minh. Ông khai nhân thân là “Việt Nam-Hoa kiều”.[70]
Ông bị chính quyền địa phương của Trung Hoa Dân quốc bắt ngày 29 tháng 8 khi đang đi cùng một người Trung Quốc dẫn đường và giam hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù. Ông viết Nhật ký trong tù trong thời gian này (từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943). “Nhật ký trong tù” là một tác phẩm được những tác giả người Việt Nam, người phương Tây và cả người Trung Quốc, như Quách Mạt Nhược, Viên Ưng hay Hoàng Tranh đề cao.[71] Các đồng chí của ông (Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh…) ở Việt Nam tưởng lầm là ông đã chết (sau này nguyên nhân được làm rõ là do một cán bộ Cộng sản tên Cáp nghe và hiểu sai ngữ nghĩa).[72] Họ thậm chí đã tổ chức đám tang và đọc điếu văn cho ông (Phạm Văn Đồng làm văn điếu) cũng như “mở chiếc va-li mây của Bác ra tìm xem còn những gì có thể giữ lại làm kỉ niệm” (lời của Võ Nguyên Giáp). Vài tháng sau họ mới biết được tình hình thực của ông sau khi nhận được thư do ông viết và bí mật nhờ chuyển về.[73]
Ngày 25 tháng 10 năm 1943, Hội Quốc tế chống xâm lược ở Đông Dương gửi 2 bức thư, một cho Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc, bức còn lại cho thống chế Tưởng Giới Thạch đề nghị can thiệp trả tự do cho Hồ Chí Minh, đồng thời đại diện của Đảng cộng sản Trung Quốc ở Trùng Khánh đã tiếp xúc bí mật với các sỹ quan OSS và SACO để gợi ý rằng có thể khiến Hồ Chí Minh hợp tác với phe Đồng Minh.[74] Sau khi thảo luận với Đại sứ quán Mỹ tại Trung Quốc, OSS và cơ quan ngoại giao Mỹ thương lượng với chính phủ Trung Hoa Dân quốc để giải thoát Hồ Chí Minh khỏi nhà tù và thuyết phục ông cộng tác với OSS.[75] Cùng lúc đó Trương Phát Khuê, tướng cai quản vùng Quảng Đông và Quảng Tây của Quốc Dân Đảng cũng gây áp lực để buộc ông Hồ hoạt động cho Quốc dân Đảng.[75] Hồ Chí Minh được trả tự do ngày 10 tháng 9 năm 1943, theo yêu cầu của Hoa Kỳ.[44] Có nguồn khác nói rằng tướng Trương Phát Khuê quyết định trả tự do cho Hồ Chí Minh nhằm lợi dụng ông và một số chính trị gia Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc ở miền Nam Trung Quốc chống phát xít Nhật.[76] Trương Phát Khuê hy vọng Hồ Chí Minh có thể thống nhất và tổ chức lại các nhóm người Việt lưu vong ở miền Nam Trung Quốc thành một khối thuần nhất thân Trung Quốc mà sự chia rẽ, chống đối về phương pháp tiến hành đấu tranh và sự tranh giành quyền lực giữa lãnh tụ của các nhóm này đã che lấp mất mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc của họ đồng thời để chấn chỉnh Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Việt Cách) do Trung Quốc đỡ đầu.[77]
Ngay sau đó, Hồ Chí Minh tham gia Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Trước đó, Việt Minh đã ra tuyên bố ủng hộ tổ chức này. Ông cũng cố gắng tranh thủ sự ủng hộ từ Trương Phát Khuê, nhưng kết quả hạn chế.
Cuối tháng 9 năm 1944, ông trở về Việt Nam. Khi này các đồng chí của ông ở Liên tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng… đã quyết định tiến hành phát động chiến tranh du kích trong phạm vi liên tỉnh. Ông ngăn chặn thành công quyết định này.[78] Thay vào đó, ông ra lệnh tổ chức lập lực lượng vũ trang và căn cứ địa cho chặt chẽ và hiệu quả hơn. Ông trực tiếp ra chỉ thị thành lập một đội quân mang tính chính quy là đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, với 34 đội viên là các tiểu đội trưởng, trung đội trưởng hoặc thành viên của các đội quân nhỏ bé và rải rác trước đó của Việt Minh. Cuối năm 1944, ông lại trở lại Côn Minh hoạt động cho tới đầu năm 1945.
Ngày 29 tháng 3 năm 1945, Hồ Chí Minh gặp Trung tướng Mỹ Chennault tại Côn Minh (Trung Quốc). Trung tướng cảm ơn Việt Minh và sẵn sàng giúp đỡ những gì có thể theo yêu cầu. Còn Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm của Việt Minh là ủng hộ và đứng về phía Đồng Minh chống phát xít Nhật.[76] Theo Hồ Chí Minh, việc được tướng Chennault tiếp kiến được xem là một sự công nhận chính thức của Mỹ, là bằng chứng cho các đảng phái Quốc gia thấy Mỹ ủng hộ Việt Minh. Người Mỹ xem đây chỉ là một mưu mẹo của Hồ Chí Minh nhưng ông cũng đã đạt được kết quả.[79]
Hồ Chí Minh và
OSS năm 1945.
Hồ Chí Minh nhận thấy Hoa Kỳ đang muốn sử dụng các tổ chức cách mạng người Việt vào các hoạt động quân sự chống Nhật tại Việt Nam, ông đã thiết lập mối quan hệ với các cơ quan tình báo Hoa Kỳ đồng thời chỉ thị cho Việt Minh làm tất cả để giải cứu các phi công gặp nạn trong chiến tranh với Nhật Bản, cung cấp các tin tức tình báo cho OSS, tiến hành một số hoạt động tuyên truyền cho Trung Hoa Dân Quốc và OWI. Đổi lại, cơ quan tình báo Hoa Kỳ OSS (U.S Office of Strategic Services) cung cấp vũ khí, phương tiện liên lạc, giúp đỡ y tế, cố vấn và huấn luyện quân đội quy mô nhỏ cho Việt Minh.[80][81]
Tháng 7 năm 1945, trước khi Hội nghị Tân Trào họp vào tháng 8 năm 1945, ông ốm nặng, tưởng không qua khỏi.[82] Một đơn vị nhỏ OSS nhảy dù phía sau đường ranh giới Nhật Bản ở Việt Nam để tham gia tác chiến cùng Việt Minh. OSS tìm thấy Hồ Chí Minh trong tình trạng sốt rét nặng và gửi thông điệp đến trụ sở quân Mỹ ở Trung Quốc để yêu cầu cung cấp thuốc men sớm nhất có thể. Hai tuần sau đó, bác sĩ quân y tên là Paul Hogland[83] đã đến. Những người Mỹ đã ở lại đó trong vòng hai tháng và có thể họ đã cứu sống ông.[80][84][85][86][87]
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc dân tại Tân Trào (Tuyên Quang), cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Giai đoạn lãnh đạo
Từ Độc lập tới Toàn quốc kháng chiến
Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập trên quảng trường Ba Đình.
Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 trên quảng trường Ba Đình tại Hà Nội, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và bản Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp để mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam.[88] Hồ Chí Minh nói với chỉ huy tình báo quân sự Mỹ OSS tại miền Bắc, Archimedes L.A Patti, rằng ông theo chủ nghĩa Lenin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và xin gia nhập Đệ Tam Quốc tế vì đây là những cá nhân và tổ chức duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Ông không thấy có sự lựa chọn nào khác. Nhưng trong nhiều năm sau đó những tổ chức này cũng không có hành động gì vì nền độc lập của các dân tộc thuộc địa. Trước mắt, ông đặt nhiều tin tưởng vào sự giúp đỡ của Mỹ trước khi có thể hy vọng vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Người Mỹ xem ông là một người quốc tế cộng sản, bù nhìn của Moscow vì ông đã ở Moscow nhiều năm nhưng ông không phải là người cộng sản theo nghĩa Mỹ hiểu mà là nhà cách mạng hoạt động độc lập.[89] Nhưng đến cuối tháng 9 năm 1946, Mỹ rút tất cả các nhân viên tình báo tại Việt Nam về nước, chấm dứt liên hệ với chính phủ Hồ Chí Minh.[90]
Bức điện Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Mỹ
Harry Truman kêu gọi sự ủng hộ của Mỹ nhưng không được đáp lại
Ngoài ra, ông còn gửi thư cho nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới kêu gọi công nhận nhà nước Việt Nam mới được thành lập cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không nhận được hồi âm (Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman,[91] lãnh tụ Liên Xô Stalin,[92] Tổng thống Pháp Léon Blum, bộ trưởng Thuộc địa Pháp Marius Moutet và Nghị viện Pháp,…).
Ngay sau khi thành lập, Võ Nguyên Giáp thay mặt Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời, ban hành các sắc lệnh giải tán một số đảng phái,[93][94] với lý do các đảng này “tư thông với ngoại quốc”, làm “phương hại đến nền độc lập Việt Nam” (như Việt Nam Quốc xã, Đại Việt Quốc dân đảng…) nhằm kịp thời trừng trị “bọn phản cách mạng”, “bảo vệ” chính quyền non trẻ đồng thời “giáo dục ý thức về tinh thần cảnh giác” cho nhân dân,[95] đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phép Ty Liêm phóng có thể bắt những hạng người bị quy là nguy hiểm cho nền Dân chủ cộng hoà Việt Nam.[96] Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh giải tán các nghiệp đoàn[97] để kiểm soát nền kinh tế,[98] thống nhất các tổ chức thanh niên (vào Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam). Đồng thời Chính phủ cũng ban hành sắc lệnh thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính địa phương các cấp.
Ngay sau khi được tin Tađêô Lê Hữu Từ trở thành Giám mục, tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh đã gửi thư chúc mừng vị Giám mục này. Trong thư có đoạn: “Có một nhà lãnh đạo mới của người Công giáo đi theo chân Đức Giê-su, chịu đóng đinh hầu giúp giáo dân biết hy sinh và chiến đấu bảo vệ tự do và độc lập của đất nước”.[99] Về những lá thư của ông viết cho Tađêô Lê Hữu Từ, Viện sĩ Viện hàn lâm Hoàng gia Canada đồng thời giáo sư Đại học Lavát (Québec) – linh mục Trần Tam Tĩnh có nhận định: “Cụ Hồ Chí Minh rất thành thật tôn trọng tín ngưỡng và tin tưởng người Công giáo. Không có một dấu hiệu nào cho phép trách được rằng, Người nói dối”. [100]
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp tấn công Sài Gòn. Quân dân Sài Gòn chống cự quyết liệt. Ủy ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập với Trần Văn Giàu là chủ tịch. Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ điện ra Trung ương xin cho được đánh. Chính phủ ra huấn lệnh, bản thân ông gửi thư khen ngợi “lòng kiên cường ái quốc của đồng bào Nam Bộ”.[101]
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, tổng tuyển cử tự do trong cả nước được tổ chức, bầu ra Quốc hội và Quốc hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Hai đảng đối lập trong Chính phủ là Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội (Việt Cách) không tham gia bầu cử. Trên thực tế, các đảng này còn phát động tẩy chay bầu cử. Ngay cả khi đã tuyên bố nhất trí về kế hoạch tổng tuyển cử, các đảng phái Việt Quốc, Việt Cách vẫn dừng báo chỉ đả kích Việt Minh: trúng cử chỉ là Việt Minh cộng sản… chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được,[102] tổ chức các cuộc tuần hành, bắc loa hô hào kêu gọi tẩy chay bầu cử. Theo báo Sự thật, Việt Quốc, Việt Cách thậm chí bắt cóc, giết những ứng cử viên, đảng viên cộng sản, cán bộ Việt Minh (tiêu biểu là Trần Đình Long[103]) hay thủ tiêu những người cùng tổ chức có cảm tình với Chính phủ.[104]
Quốc hội khóa I của Việt Nam đã cử ra Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Đại biểu quốc hội chủ yếu là nhân sĩ trí thức, người ngoài Đảng. Hồ Chí Minh trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và với chức danh Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông cũng đảm nhiệm luôn công việc của thủ tướng. Chính phủ này, cho tới cuối năm 1946, đã trải qua 3 lần thay đổi cơ cấu và nhân sự vào các thời điểm: ngày 1 tháng 1; tháng 3; và ngày 3 tháng 11.
Nhà nước và chính phủ của ông đối mặt với hàng loạt khó khăn cả về đối nội và đối ngoại. Về đối ngoại, khi này Việt Nam chưa được bất cứ quốc qia nào công nhận,[105] không phải thành viên Liên hiệp quốc,[106] cũng như không nhận được sự ủng hộ nào về vật chất của các nước khác. Ngoài 20 vạn quân của Trung Hoa Dân Quốc ở miền Bắc, còn có quân Anh và quân Pháp (vào thời điểm toàn quốc kháng chiến, tháng 12 năm 1946, Pháp có khoảng 6 vạn quân), và khoảng 6 vạn quân Nhật. Về đối nội, “giặc đói, giặc dốt” – như chính cách ông gọi – và ngân quỹ trống rỗng là những vấn đề hệ trọng nhất.[107][108]
Bởi thế, ông chú trọng đến việc phát triển giáo dục, mà trước hết là xóa nạn mù chữ bằng cách mở các lớp học Bình dân học vụ. Tháng 9 năm 1945, nhân ngày khai trường, Hồ Chí Minh đã viết thư gửi cho học trò Việt Nam. Thư có đoạn:[109]
“ |
Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em. |
” |
—Hồ Chí Minh |
Để diệt “giặc đói”, ngoài việc kêu gọi tăng gia sản xuất, ông đề nghị đồng bào “cứ 10 ngày nhịn ăn 1 bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa” để đem số gạo tiết kiệm được cứu dân nghèo. Bản thân ông gương mẫu thực hiện việc nhịn ăn để cứu đói này.
Để đối phó với giặc ngoại xâm, ông thi hành một chính sách đối ngoại mềm dẻo và nhẫn nhịn. Ông nói:
“ |
Chính sách của ta hiện nay là chính sách Câu Tiễn, nhưng nhẫn nhục không phải là khuất phục |
” |
—Hồ Chí Minh.[110] |
Tháng 10 năm 1945, khi Hà Ứng Khâm, tổng tham mưu trưởng của quân đội Trung Hoa Dân Quốc tới Hà Nội, 300.000 người được huy động xuống đường, hô vang các khẩu hiệu “Ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh”, “Ủng hộ chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” để “đón tiếp”.[111] Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, Trung Hoa Quốc Dân Đảng muốn làm thất bại ý đồ của Pháp định khôi phục lại địa vị tại Đông Dương và muốn ngăn chặn sự liên minh của người Việt Nam với các lực lượng cộng sản Trung Quốc trong phạm vi quyền lợi của Trung Quốc.[112] Ông chấp nhận cung cấp gạo (ban đầu kiên quyết từ chối[113]) cho quân Trung Hoa Dân Quốc đang làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật tại Việt Nam. Quân Trung Hoa Dân Quốc cũng được tiêu giấy bạc “kim quan” và “quốc tệ” tại miền Bắc.
Điều làm Hồ Chí Minh lo ngại là trong một số giới, đặc biệt là tầng lớp trung lưu Việt Nam, người ta vẫn gán mác cho ông và Việt Minh là “Cộng sản”. Những người thuộc đảng phái quốc gia thân Trung Quốc thì lại không bị như vậy, nên ông phải làm mọi cách để gạt bỏ cái nhãn hiệu nói trên.[114] Tháng 11 năm 1945, ông quyết định cho Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải tán. Về mặt công khai, đảng của ông không còn hiện diện mà chỉ có một bộ phận hoạt động dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương.[115] Ông kêu gọi các đảng viên nếu tự xét thấy mình không đủ phù hợp thì nên tự rút lui khỏi hàng ngũ lãnh đạo chính quyền.[116]
Với tư tưởng đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, ông kêu gọi và thực hiện triệt để chính sách đại đoàn kết dân tộc bằng cách mời nhiều nhân sĩ, trí thức tham gia các Chính phủ và Quốc hội. Trước Quốc hội, ông tuyên bố: “Tôi chỉ có một Đảng – đảng Việt Nam“.[117] Trong số những nhân sĩ, trí thức do ông mời được lựa chọn vào các vị trí trong Chính phủ, có khá nhiều người vốn không tham gia Việt Minh. Đó là các bộ trưởng: Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đăng Khoa, Hoàng Tích Trí, Vũ Đình Hòe, Chu Bá Phương, Nguyễn Văn Tố và Bồ Xuân Luật. Năm 1947, Chính phủ được cải tổ với sự tham gia thêm của một số trí thức khác, như Phan Anh, Hoàng Minh Giám.[118] Về sau này ông cho biết:
- “Khi tổ chức Chính phủ lâm thời, có những đồng chí trong Ủy ban Trung ương do Quốc dân đại hội bầu ra, đáng lẽ tham gia Chính phủ, song các đồng chí ấy đã tự động xin lui, để nhường chỗ cho những nhân sĩ yêu nước nhưng ở ngoài Việt Minh. Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Đó là một cử chỉ đáng khen, đáng kính mà chúng ta phải học”.[119]
Hồ Chí Minh xem những đảng phái quốc gia thân Trung Hoa Dân Quốc như Việt Cách, Việt Quốc là bọn quốc gia giả hiệu, đầy tớ Quốc dân Đảng, không có liên hệ gì với nhân dân Việt Nam. Ông miêu tả họ là những người không có tổ chức, một nhóm cơ hội tranh giành nhau, tàn dư của các đảng phái quốc gia cũ không có chương trình hành động cơ bản nhưng lại có quá nhiều lãnh tụ.[112] Nhưng ông chấp nhận sự hiện diện của Việt Cách, Việt Quốc trong các chính phủ liên tục được thay đổi, chấp nhận 70 ghế cho Việt Quốc, Việt Cách trong quốc hội không cần qua bầu cử. Tuy nhiên chức trách các Bộ cũng thay đổi. Bộ trưởng Quốc phòng trở thành người lo về tài chính mà không được xem xét danh sách nhân sự, quân số, súng đạn còn các Bộ trưởng khác của các đảng phái Quốc gia chẳng có chức trách cụ thể gì, không bao giờ được tham dự bất cứ buổi họp nào của nội các. Hồ Chí Minh cũng giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn, sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng.[120]
Khi Ngô Đình Diệm bị Việt Minh bắt tại Tuy Hoà, Phú Yên[121] giải ra Hà Nội, Hồ Chí Minh đã đến gặp Ngô Đình Diệm để thuyết phục ông này tham gia chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa do Việt Minh lãnh đạo. Ngô Đình Diệm hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh lý do giết anh của ông thì được Hồ Chí Minh giải thích rằng đó một sai lầm do đất nước đang rơi vào tình trạng hỗn loạn.[122] Sau đó Hồ Chí Minh mời Ngô Đình Diệm giữ chức thủ tướng vì biết rằng ông là một người có tài lãnh đạo. Ngô Đình Diệm trả lời rằng ông chỉ đồng ý lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh với điều kiện ông được Việt Minh thông báo về tất cả mọi hành động và biết riêng mọi quyết định của họ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chối yêu cầu này do đó Ngô Đình Diệm không chấp nhận hợp tác với Hồ Chí Minh.[123][124][125]
Theo Hiệp ước Pháp-Hoa, ký ngày 28 tháng 2 năm 1946, quân Pháp sẽ thay thế quân của Tưởng Giới Thạch. Một tuần sau, ngày 6 tháng 3 năm 1946, ông cùng Vũ Hồng Khanh ký với Jean Sainteny – Ủy viên Pháp ở miền bắc Ðông Dương – bản Hiệp định sơ bộ với Pháp, với 3 nội dung chủ chốt:
- Pháp công nhận Việt Nam “là một nước tự do, là một phần tử trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp“. Trước đó, đàm phán căng thẳng khi ông muốn Việt Nam được công nhận là quốc gia độc lập và phản đối kịch liệt khi Pháp muốn dùng chữ “Quốc gia Tự trị” để mô tả tổ quốc của ông.
- Pháp được đưa 1,5 vạn quân ra Bắc thế cho quân Tưởng, nhưng phải rút trong 5 năm, mỗi năm rút 1/5 quân số.
- Ngừng xung đột, giữ nguyên quân đội tại vị trí cũ.
Ngày 31 tháng 5 năm 1946, ông lên đường sang Pháp theo lời mời của chính phủ nước này; cùng ngày, phái đoàn chính phủ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu cũng khởi hành sang Pháp tham dự Hội nghị Fontainebleau 1946. Trước khi đi, ông bàn giao quyền lãnh đạo đất nước cho Huỳnh Thúc Kháng[126] với lời dặn “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.[127] Tại Việt Nam, ông dự đoán thời gian ở Pháp là “…có khi một tháng, có khi hơn”[128] nhưng cuối cùng ông ở Pháp 4 tháng (Hội nghị Fontainebleau diễn ra từ 6 tháng 7 tới 10 tháng 9 năm 1946) mà không tránh khỏi thất bại chung cuộc.
Trong khi Hồ Chí Minh đang ở Pháp, các lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội lần lượt rời bỏ Chính phủ vì bất đồng với Việt Minh về việc ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt (1946) cho phép quân Pháp quay trở lại Việt Nam[cần dẫn nguồn]. Ngày 19/6/1946, Báo Cứu Quốc của Tổng bộ Việt Minh đăng xã luận kịch liệt chỉ trích “bọn phản động phá hoại Hiệp định sơ bộ Pháp Việt mùng 6 tháng 3“. Ngay sau đó, Võ Nguyên Giáp bắt đầu chiến dịch tiêu diệt tất cả các đảng phái đối lập như Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt, những người Trotskist, lực lượng chính trị Công giáo… bằng lực lượng công an và quân đội do Việt Minh kiểm soát với sự giúp đỡ của nhà cầm quyền Pháp. Ông cũng sử dụng các sỹ quan Nhật Bản trốn tại Việt Nam và một số vũ khí do Pháp cung cấp cho chiến dịch này.[129] Một trong những sự kiện nổi tiếng nhất trong chiến dịch tiêu diệt các đảng phái đối lập là vụ án phố Ôn Như Hầu. Trong vụ án này, Công an khám xét trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng với lý do hai đảng này âm mưu đảo chính nhằm lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng có mặt tại trụ sở cũng bị bắt trong đó có đại biểu của Việt Nam Quốc dân Đảng trong Quốc hội Việt Nam khóa I là Phan Kích Nam. Sau sự kiện này các lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội từng tham gia Chính phủ đã lưu vong sang Trung Quốc.
Hồ Chí Minh và Marius Moutet bắt tay sau khi ký Tạm ước Việt – Pháp
Hội nghị Fontainebleau 1946 thất bại vì phía Pháp chần chừ không ấn định chắc chắn thời điểm và cách thức thực hiện cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ về việc sáp nhập Nam Kỳ vào Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo yêu cầu của phái đoàn Việt Nam.[130] Phái đoàn Việt Nam do Phạm Văn Đồng dẫn đầu về nước nhưng Hồ Chí Minh vẫn nán lại Pháp ký Tạm ước với Pháp. Ngày 14 tháng 9 năm 1946, Hồ Chí Minh ký với đại diện chính phủ Pháp, bộ trưởng Thuộc địa Marius Moutet, bản Tạm ước Việt – Pháp (Modus vivendi). Trong bản Tạm ước này, hai bên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp cùng bảo đảm với nhau về quyền tự do của kiều dân, chế độ tài sản của hai bên; thống nhất về các vấn đề như: hoạt động của các trường học Pháp, sử dụng đồng bạc Đông Dương làm tiền tệ, thống nhất thuế quan và tái lập cải thiện giao thông liên lạc của Liên bang Đông Dương, cũng như việc thành lập ủy ban tạm thời giải quyết vấn đề ngoại giao của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cam kết ưu tiên dùng người Pháp làm cố vấn hoặc chuyên môn, và hai bên đã đồng ý chấm dứt mọi hành động xung đột, vũ lực cũng như tuyên truyền chống đối nhau, phóng thích tù nhân chính trị, bảo đảm không truy bức người của bên kia, và hợp tác để những kiều dân hai bên không làm hại nhau. Tạm ước cam kết sẽ có một nhân vật do Việt Nam chỉ định và Chính phủ Pháp công nhận được uỷ nhiệm cạnh thượng sứ để xếp đặt cộng tác thi hành những điều thoả thuận này. Cuối cùng, Chính phủ hai bên sẽ sớm tiếp tục đàm phán (chậm nhất là vào tháng 1 năm 1947) để tìm cách ký kết những bản thoả thuận riêng nhằm dọn đường cho một hiệp ước chung dứt khoát.[131][132]
Thế nhưng những nhân nhượng đó cũng không tránh nổi chiến tranh. Sau khi nhận được liên tiếp 3 tối hậu thư của Pháp trong vòng chưa đầy một ngày đòi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị chiến tranh, tước vũ khí của Tự vệ tại Hà Nội, và trao cho quân đội Pháp việc duy trì an ninh trong thành phố, ông kí lệnh kháng chiến. Tối ngày 19 tháng 12 năm 1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến do ông chấp bút được phát trên đài phát thanh. 20h tối cùng ngày, kháng chiến bùng nổ.
Giai đoạn kháng chiến chống Pháp
Tháng 3 năm 1947, ông và Trung ương Đảng chuyển lên Việt Bắc. Ông kêu gọi nhân dân tiêu thổ kháng chiến, tản cư cũng là kháng chiến, phá hoại (cho quân Pháp không sử dụng được cơ sở hạ tầng) cũng là kháng chiến.
Chuyến đi sang Trung Quốc và Liên Xô gặp Stalin và Mao Trạch Đông năm 1950 có ý nghĩa đặc biệt, nhất là trong vấn đề Trung Quốc và Liên Xô hỗ trợ chính phủ Bắc Việt Nam phát triển chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam và chống Pháp.[40] Đúng dịp Tết Nguyên đán Canh Dần năm 1950, ông thực hiện một chuyến đi bí mật sang Trung Quốc, Liên Xô. Ngày 2-1-1950, ông cùng Trần Đăng Ninh, từ Tuyên Quang đi bộ tới Trùng Khánh – Cao Bằng, rồi đi tiếp đến Long Châu, Quảng Tây. Đến đây, Hồ Chí Minh bắt được liên lạc với Đảng cộng sản Trung Quốc. Văn phòng Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc đã bố trí xe đón đoàn đi Nam Ninh, từ đó đoàn đi xe lửa đến Bắc Kinh. Ông làm việc ở Bắc Kinh một tuần, sau đó cùng Trần Đăng Ninh đi xe lửa liên vận đến Liên Xô. Chuyến đi bí mật này, ông đã thành công ở cả hai phương diện chính trị và ngoại giao, đó là chuyến đi lịch sử làm tiền đề cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam – Liên Xô, giữa Việt Nam – Trung Quốc và các nước Xã hội Chủ nghĩa khác. Ngày 11-3-1950, Hồ Chí Minh và ông Trần Đăng Ninh về đến Bắc Kinh, giữa tháng 4 -1950, ông mới về đến Tuyên Quang.[133]
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2 được tổ chức vào trung tuần tháng 2 năm 1951 tại Tuyên Quang, ông quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai trở lại. Tuy nhiên, khi này tên gọi không còn là Đảng Cộng sản nữa mà có tên mới là Đảng Lao động Việt Nam. Ông tuyên bố:
“ |
Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam. |
” |
—Hồ Chí Minh[134] |
Tại Đại hội này Đảng Lao động đã khởi xướng Cải cách ruộng đất nhằm xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần bị xem là “bóc lột”, “phản quốc” (những người theo Pháp, chống lại đất nước), “phản động” (chống lại chính quyền) như địa chủ, Việt gian, cường hào, các đảng đối lập… để lập lại công bằng xã hội, đồng thời thiết lập nền chuyên chính vô sản nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng.
Cuộc Chiến tranh Đông Dương kết thúc vào năm 1954, khi thực dân Pháp bị đánh bại tại Điện Biên Phủ – sự kiện báo hiệu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn thế giới[135] – và dẫn đến Hiệp định Genève. Kết quả mà đoàn Việt Nam thu nhận được kém hơn nhiều so với mục tiêu đề ra ban đầu. Tuy vậy, trên các phương tiện truyền thông chính thức, Hồ Chí Minh tuyên bố “Ngoại giao đã thắng to![136]
Cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được phát động vào cuối năm 1953 và kéo dài cho tới cuối năm 1957. Dù theo tuyên bố của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là đã “đánh đổ được giai cấp địa chủ cùng bọn Việt gian phản động“,[137] cuộc cải cách này đã phạm nhiều sai lầm[138] nghiêm trọng, nhất là trong việc lạm dụng đấu tố và xử tử những người bị liệt vào thành phần địa chủ, phú nông thậm chí vu oan và giết nhầm cả những đảng viên trung kiên. Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt cho rằng, những vụ sát hại này đã “gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế”.[139] Trước tình cảnh đó, từ tháng 2 năm 1956, công cuộc sửa sai được khởi sự, phục hồi được khoảng 70-80% số người bị kết án, trả lại tài sản ruộng đất. Những nhân vật cốt cán của cải cách bị cách chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm, ông khóc và nhận lỗi trước hội nghị toàn quốc.
Tháng 8 năm 1957, một năm sau cuộc nổi dậy năm 1956 tại Hungary,[140] Hồ Chí Minh dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam bỏ ra năm ngày thực hiện cuộc viếng thăm hữu nghị Cộng hoà Nhân dân Hungary. Một kỹ sư người Hungary đã ghi nhận:[140]
Bỏ qua mọi thứ lễ nghĩa nhưng vẫn khiến người khác phải kính trọng, con người ít lời, thông tuệ ấy có một tính cách rất lôi cuốn… Và ngày hôm đó đã đi vào tâm trí của tôi như một trong những kỷ niệm thật đẹp của đời tôi.
Hai năm sau (1959), ông tới thăm thủ đô Bắc Kinh nhân dịp kỷ niệm 10 năm cách mạng Trung Quốc. Trong những cuộc đàm phán riêng, ông nhận được sự hứa hẹn của cả Bắc Kinh lẫn Moskva để viện trợ thêm vũ khí và dân sự, nhưng đã khôn khéo từ chối những đề nghị gửi quân tình nguyện hay cố vấn quân sự đến Việt Nam.[141]
Hồ Chí Minh có quan hệ bạn bè thân thiết với Chu Ân Lai,[142] Diệp Kiếm Anh.
Giai đoạn cuối đời
-
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm một đồi cây ở
Phú Thọ, 1964
Từ khoảng nửa cuối thập niên 1960, Hồ Chí Minh giảm dần các hoạt động chính trị (nhất là trong 3 năm cuối đời khi ông liên tục ốm nặng, phải đi sang Trung Quốc chữa bệnh nhiều lần). Trong một số lần tiếp xúc ngoại giao từ năm 1963, ông nói rằng mình sẽ dần bàn giao công việc cho Bí thư thứ nhất Lê Duẩn. Ông dần lui về nắm giữ vai trò biểu tượng của cách mạng, dành nhiều thời gian để đi thăm hỏi, động viên cán bộ và đồng bào, và viết báo. Quyền lực dần dần tập trung về tay bí thư thứ nhất Lê Duẩn và một số nhân vật gần gũi trong Đảng Lao động Việt Nam,[143][144] những người chủ trương tích cực thúc đẩy quá trình thống nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh cuộc chiến tranh ở miền Nam. Tuy nhiên với vai trò và uy tín to lớn, các quyết sách lớn (như tổng tiến công Tết Mậu Thân hay việc đàm phán ở Paris) vẫn cần sự tham gia chỉ đạo và phê duyệt của Hồ Chí Minh.
Đầu tháng 9 năm 1963 Hồ Chí Minh lần đầu đi điều dưỡng trị liệu ở suối nước nóng Tòng Hoá (從化), tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Châu Ân Lai (周恩來) và Trần Nghị (陳毅) từ Bắc Kinh đến thăm Hồ Chí Minh, sắp xếp việc sinh hoạt hàng ngày và chăm sóc sức khoẻ cho Hồ Chí Minh. Ảnh chân dung thường thấy hiện nay của Hồ Chí Minh được treo ở các nơi quan trọng của Việt Nam là do nhiếp ảnh gia Lục Văn Tuấn (陸文駿) của “Quảng Đông hoạ báo” (廣東畫報) chụp trong thời gian Hồ Chí Minh điều dưỡng trị liệu ở suối nước nóng Tòng Hoá.[145]
Ít lâu sau khi Hoa Kỳ bắt đầu cuộc chiến tranh không kích, ném bom vào miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận được điện từ nhà triết học nổi tiếng người Anh Bertrand Russell – một người yêu hòa bình. Trong điện này, Russell nêu ra quan điểm chống đối của mình đối với sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Đáp lại, ông gửi Russel điện cảm ơn vào ngày 10 tháng 8 năm 1964. Điện này có đoạn:[146]
“ |
Chúng tôi luôn thiết tha với hoà bình và chủ trương giải quyết vấn đề Việt Nam bằng phương pháp hoà bình. Tôi cảm ơn cụ đã quan tâm đến tình hình nghiêm trọng do Mỹ gây ra trên đất nước chúng tôi và xin gửi cụ lời chào kính trọng. |
” |
—Hồ Chí Minh |
Ngày 8/2/1967 tổng thống Mỹ Johnson gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nội dung thư có đại ý là người Mỹ nhiều lần chuyển đến chính phủ Hồ Chí Minh mong muốn hoà bình bằng những kênh khác nhau nhưng không đạt kết quả nào và đề nghị chấm dứt cuộc xung đột tại Việt Nam để không tiếp tục gây đau khổ cho nhân dân hai miền Việt Nam cũng như nhân dân Mỹ. Tổng thống Mỹ cam kết sẽ ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam và ngừng tăng thêm quân tại miền Nam Việt Nam ngay khi miền Bắc chấm dứt đưa quân vào miền Nam. Hai bên cùng kiềm chế leo thang chiến tranh để đối thoại song phương một cách nghiêm túc hướng đến hoà bình. Việc tiếp xúc có thể diễn ra ở Moskva, Miến Điện hay bất cứ nơi nào Bắc Việt Nam muốn.
Ngày 15/2/1967 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư trả lời tổng thống Johnson tố cáo Mỹ đã xâm lược Việt Nam, vi phạm những cam kết của đại diện Mỹ tại Hội nghị Geneva, phạm nhiều tội ác chiến tranh tại cả hai miền Nam Bắc Việt Nam. Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhân dân Việt Nam quyết tâm đánh thắng Mỹ bằng mọi giá. Nếu Mỹ muốn trực tiếp đối thoại với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì trước tiên phải ngừng ném bom vô điều kiện miền Bắc Việt Nam. Chỉ có thể đạt được hoà bình nếu Mỹ chấm dứt những hoạt động quân sự, rút quân Mỹ và đồng minh khỏi miền Nam để người Việt Nam tự giải quyết vấn đề của mình, đồng thời công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam.[147]
Hồ Chí Minh liên tục ốm nặng trong khoảng hơn 3 năm cuối đời. Hầu như cả năm 1967, ông ở Trung Quốc chữa bệnh.[40] Trong thời gian chuẩn bị diễn ra sự kiện Tết Mậu Thân 1968, ông đang trong đợt dưỡng bệnh dài ngày tại Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Tuy vậy ông vẫn quay về Việt Nam ít ngày vào tháng 12 năm 1967 để phê duyệt quyết định tiến hành cuộc tổng tấn công.[148][149] Hiệu lệnh mở màn cuộc tổng tấn công chính là bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh phát trên Đài tiếng nói Việt Nam: “Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua/Thắng trận tin vui khắp nước nhà/Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ/Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta.”
Hồ Chí Minh bắt đầu viết di chúc vào dịp sinh nhật lần thứ 75 của ông năm vào ngày 10 tháng 5 năm 1965,[150] và sửa lại trong những dịp sinh nhật tiếp theo. Ông mang di chúc ra viết và dặn lại Vũ Kỳ: “Chú cất giữ cẩn thận, sang năm, mồng 10 tháng 5 nhớ đưa lại cho Bác”. Mở đầu bản di chúc năm 1965 có đoạn: “Nhân dịp mừng 75 tuổi… Năm nay tôi 75 tuổi, tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn mạnh khỏe. Tuy vậy, tôi cũng là lớp người ‘xưa nay hiếm’…”.[151]
Trong di chúc, ông có viết:
“ |
Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. |
” |
—Hồ Chí Minh |
“ |
Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. |
” |
—Hồ Chí Minh[138] |
Qua đời
Các thiếu nhi khóc trong lễ tang Hồ Chí Minh năm 1969
Hồ Chí Minh qua đời vào hồi 9 giờ 47 phút sáng ngày 2 tháng 9 năm 1969 (tức ngày 21 tháng 7 âm lịch) tại thủ đô Hà Nội,[152] hưởng thọ 79 tuổi. Do hoàn cảnh thời chiến, để tránh trùng với ngày Quốc khánh, ngày mất của ông ban đầu được Ban Lãnh đạo Đảng công bố là ngày 3 tháng 9, đến năm 1989 mới công bố lại là ngày 2 tháng 9.[153]
Hà Nội đã nhận được hơn 22.000 bức điện chia buồn từ 121 nước trên khắp thế giới.[154] Nhiều nước trong khối xã hội chủ nghĩa đã tự tổ chức truy điệu và đưa ra những lời ca ngợi ông. Một tuyên bố chính thức từ Moskva đã gọi Hồ Chí Minh là một “người con vĩ đại của dân tộc Việt Nam anh hùng, nhà lãnh đạo xuất chúng của Cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc, và một người bạn lớn của Liên bang Xô Viết”. Từ các nước Thế giới thứ ba, người ta ca ngợi ông trong vai trò của người bảo vệ những con người bị áp bức. Một bài báo xuất bản ở Ấn Độ miêu tả ông là sự kết tinh của “nhân dân và hiện thân của khát vọng đấu tranh cho tự do và cho sự đấu tranh bền bỉ của nhân dân”.[154] Những bài báo khác đề cao phong cách giản dị và đạo đức cao của ông. Một bài xã luận trên một tờ báo của Uruguay viết:
“
Ông có một trái tim bao la như vũ trụ và tình yêu trẻ thơ vô bờ bến. Ông là hình mẫu của sự giản dị trong mọi mặt.[154]
”
Phản ứng từ các nước phương Tây dè dặt hơn. Nhà Trắng và các quan chức cấp cao của Hoa Kỳ từ chối bình luận. Báo chí phương Tây đặt sự chú ý cao đối với cái chết của Hồ Chí Minh. Các tờ báo ủng hộ phong trào phản chiến có xu hướng miêu tả ông như là một đối thủ xứng đáng và là người bảo vệ cho những con người bị áp bức. Ngay cả những tờ báo đã từng phản đối mạnh mẽ chính quyền Hà Nội cũng ghi nhận ông là người đã cống hiến cả cuộc đời cho công cuộc kiếm tìm độc lập và thống nhất đất nước Việt Nam của ông, đồng thời là tiếng nói nổi bật trong việc bảo vệ những dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.[154] Tại Vương quốc Anh, hay tin Hồ Chí Minh qua đời, vào ngày 12 tháng 9 năm 1969 Pet-ghi Đap-phơ – nhà báo tờ “Báo Diễn đàn”, đã ghi nên một bài báo có độ dài không ít, trong đó ông được xem như: “Hồ Chí Minh, một người vừa là G. Oasinhtơn, vừa là A. Linhcôn của đất nước mình”.[155]
Bia tưởng niệm tại khách sạn Carlton, nơi Nguyễn Tất Thành làm việc năm 1913
Tang lễ được tổ chức vào ngày 9 tháng 9 tại quảng trường Ba Đình với hơn 100.000 người đến dự, trong đó có các đoàn đại biểu từ các nước xã hội chủ nghĩa. Hàng triệu người trên khắp đất nước Việt Nam đã khóc. Điếu văn truy điệu ông do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc, có đoạn viết:
“ |
Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa. Tổn thất này vô cùng lớn lao. Đau thương này thật là vô hạn ! Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch – Người anh hùng dân tộc vĩ đại. Và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta… |
” |
—Lê Duẩn.[156] |
Trong di chúc, ông muốn được hỏa táng và đặt tro tại ba miền đất nước.[157][158] Tuy nhiên, theo nguyện vọng của Đảng Cộng sản, Nhà nước và nhân dân Việt Nam,[159] Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III quyết định giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chí Minh để sau này nhân dân cả nước, nhất là nhân dân miền Nam, khách quốc tế có thể tới viếng ông. Theo lời kể của con trai cả của bí thư Lê Duẩn, Lê Duẩn đã nói với Hồ Chí Minh về việc thi hài ông nên được bảo quản lâu dài để đồng bào trong Nam và cả nước được đến thăm, nghe vậy ông không nói gì.[160][161][162] Từ đó đến nay, thi hài ông được bảo quản trong lăng tại Hà Nội, tương tự như đối với thi hài Lenin ở Moskva.[163]
Hôn nhân và cuộc sống cá nhân
-
Hôn nhân
Cho tới nay chưa có một tài liệu chính thức từ phía nhà nước Việt Nam nhắc đến việc Hồ Chí Minh đã từng kết hôn. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của một số sử gia ngoại quốc, Hồ Chí Minh đã kết hôn với Tăng Tuyết Minh ở Quảng Châu năm 1926 cho đến khi ông rời Quảng Châu, vào khoảng tháng 4 hoặc 5 năm 1927, từ đó không bao giờ còn gặp lại nhau.[164][165] Sau khi trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh đã thử tìm nhau thông qua tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc và cơ quan ngoại giao Việt Nam tại Trung Quốc nhưng không thành công[166][167] Một số Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, đặc biệt là Lê Duẩn phản đối việc này vì Hồ Chí Minh được nhân dân xem là cha già dân tộc, việc đoàn tụ với Tăng Tuyết Minh sẽ làm ảnh hưởng đến hình ảnh của Hồ Chí Minh và sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước.[168]
Về vấn đề này, nhà nghiên cứu Sophie Quinn-Judge có ý kiến dè dặt hơn vì vào thời kỳ đó, đôi khi một cuộc hôn nhân diễn ra đơn thuần là vì lý do chính trị. Hai người sống chung với nhau như là một cách ngụy trang để duy trì các hoạt động chính trị của họ.[169]
Cũng theo Sophie Quinn-Judge, nếu căn cứ theo các tài liệu từ văn khố của của Đệ Tam Quốc tế từ năm 1934 đến 1935 Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Hồ Chí Minh vào thời điểm năm 1931. Khi Nguyễn Thị Minh Khai đến Moskva cuối năm 1934, bà đã viết rằng bà đã có gia đình với “Lin”, bí danh của Hồ Chí Minh vào thời điểm này.[170] Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn của đài Ban Tiếng Việt BBC, Sophie Quinn-Judge cũng nói thêm rằng mình “không biết chắc liệu đây có thuộc về dạng hôn nhân thật sự hay không” vì trong các thư từ của họ thường sử dụng nhiều loại mật mã, và nói chung những người hoạt động cách mạng có thể xem là “thuộc về một thế giới khác, vượt khỏi các khuôn khổ đạo đức bình thường” nên khó mà biết rõ cách thức hoạt động của họ.[169]
Theo Halberstam, năm 1945, Hồ Chí Minh từng khẳng định với nhà báo Harold Isaacs ông cô đơn, không có gia đình, không có gì cả nhưng đã từng có một người vợ.[171] Nhưng sau đó Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định ông không có vợ và sẽ không lấy vợ cho đến lúc toàn thắng, thống nhất đất nước.[168][172][173][174][175] Trong một buổi tiệc ở Bắc Kinh vào tháng 8 năm 1959, Hồ Chí Minh cũng đã tuyên bố với quan khách: chừng nào miền Nam chưa được giải phóng, ông sẽ không bao giờ kết hôn.[168]
Bản thân ông cũng nhiều lần khẳng định rõ ông là người không có gia đình riêng và không có con cái. Chẳng hạn như trong thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng khi nghe tin con trai ông này hi sinh:
“ Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột.[176] ”
Cuộc sống cá nhân
Hồ Chí Minh là người nghiện thuốc lá nặng. Trong buổi tiếp William C. Baggs, biên tập viên của Tin tức Miami tại Hà Nội đầu năm 1967, ông liên tục hút thuốc, loại thuốc lá Mỹ nhãn hiệu Salem. Ông ăn mặc đúng mực, lịch thiệp, nhạy cảm và không tạo áp lực lên người khác. Kiểu ăn mặc thường là áo pijama trắng cao cổ, đi dép cao su.[44] Ông Harry Ashmore, người của Trung tâm nghiên cứu của các tổ chức dân chủ và cựu biên tập viên của Công báo Arkansas nhớ lại:
“ |
Ông Hồ là một người có phong thái tao nhã, rất tinh tế với một cách xử sự nhẹ nhàng và không có tâm địa cá nhân |
” |
—Harry Ashmore[44] |
Ngày 19 tháng 5 năm 1946, sinh nhật Hồ Chí Minh lần đầu tiên được tổ chức nhằm mục đích nâng cao tinh thần đoàn kết dân tộc. Dù là người đứng đầu một nước nhưng sinh nhật của ông được tổ chức rất đơn sơ, giản dị và mộc mạc. Những năm sau đó, sinh nhật của ông thường chỉ được tổ chức vào năm chẵn, còn các năm khác thì ông thường lặng lẽ tổ chức một bữa “ăn tươi” nho nhỏ với vài cán bộ thân cận. Trong hai lần sinh nhật cuối đời, Hồ Chí Minh đều lấy dự thảo di chúc ra sửa lại.[177] Tuy ông là chủ tịch của một nước nhưng đời sống sinh hoạt hằng ngày cũng chẳng khác mấy so với người thường, ông sống trong một căn nhà tranh hay còn gọi là túp lều. Bữa ăn đạm bạc của ông đã được nhận xét là rất giản dị và đơn sơ và theo thủ tướng Phạm Văn Đồng, người đã nhiều lần ăn chung với ông, nhận xét ông ăn vừa đủ không bỏ món thừa và ăn không sót một hột cơm vì ông tôn trọng thành quả lao động của nông dân.[178][179]
Hồ Chí Minh là người rất chăm tập thể dục, là người có cuộc sống khá điều độ, tuy có tật hút thuốc là đến cuối đời mới bỏ được. Ông giỏi một số thứ tiếng: Nga, Pháp, Trung.
Tư tưởng Hồ Chí Minh
-
-
Ngôi nhà của Hồ Chí Minh tại thủ đô Hà Nội.
Là một nhà lãnh đạo nổi tiếng ở Đông Nam Á, ông đã kết hợp chủ nghĩa Marx-Lenin với chủ nghĩa dân tộc Việt Nam.[180] Tư tưởng chủ đạo trong các cuộc đấu tranh của Hồ Chí Minh là kết hợp cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản. Ông đi theo trào lưu chủ nghĩa cộng sản do Karl Marx và Friedrich Engels đề xuất vốn đang nổi lên vào thời của ông. Ông tiếp nhận tư tưởng của Lenin về vấn đề thuộc địa, và xem đó làm kim chỉ nam cho các hoạt động của mình sau này.[181] Ông viết trên tạp chí Các vấn đề phương Đông (Liên Xô), dẫn lại trên báo Nhân dân ngày 22 tháng 4 năm 1960: “Chủ nghĩa Lenin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.”[181]
Nhiều lần ông bảo: “bệnh quan liêu, mệnh lệnh chỉ đưa đến kết quả là hỏng việc và thực hành dân chủ rộng rãi cũng là cách chống quan liêu tích cực”. Chính vì thế, ông đề nghị tất cả mọi người đều tuân theo 6 điều: “Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ. Có khuyết điểm thì phải thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình. Sẵn sàng học hỏi nhân dân. Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính để nhân dân noi theo”.[182]
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng:[182]
“ |
Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra. |
” |
—Hồ Chí Minh |
Về giáo dục, ông là người rất quan tâm đến cách dạy học cụ thể và thiết thế. Ông cho rằng:[109]
“ |
Chúng ta phải tẩy rửa những thành kiến giữa các dân tộc, phải đoàn kết thương yêu nhau như anh em một nhà. Nhiệm vụ của các cháu là thi đua học tập để sau này góp phần mở mang quê hương của mình và xây dựng nước Việt Nam yêu quý của chúng ta. |
” |
—Hồ Chí Minh |
Năm 1955, trong Lễ khai mạc Trường Đại học Nhân dân Việt Nam vào ngày 19 tháng 1, ông có bài nói chuyện với những sinh viên cũng như thanh niên. Trong bài nói chuyện này có đoạn:(Tổng thống Mỹ John F. Kennedy sau này cũng có ý tưởng tương tự trong diễn văn nhậm chức năm 1961)[183]
Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?
Di sản
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tại Việt Nam, ông được xem là nhân vật chính trong công cuộc giải phóng dân tộc. Đối với nhiều người, ông là một nhà yêu nước đã vận dụng chủ nghĩa Marx-Lenin vào công cuộc giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thực dân và đế quốc. Tính giản dị và kiên cường của ông được nhiều người kính mến. Giáo sư David Thomas cho rằng “Chính viễn kiến của ông, sự hy sinh, tính bền bỉ và sự lãnh đạo của ông trong một nước nghèo nàn, lạc hậu đã thúc đẩy người Việt Nam đứng dậy, đánh thắng thực dân Pháp và quân đội Mỹ.” Cũng chính giáo sư này xem ông là một nhân vật trong thời kỳ Phục Hưng, là người nói giỏi không ít ngoại ngữ, lại còn viết được thơ bằng chữ Hán. Trong đời, Hồ Chí Minh đã tham khảo những danh nhân về văn học và triết học như Victor Hugo, Charles Dickens, Lev Nikolayevich Tolstoy hay Fyodor Mikhailovich Dostoevsky thông qua các tài liệu bằng ngôn ngữ bản xứ của họ. Tuy nhiên, ông cũng nói rằng “Họ (Chính phủ Việt Nam) đã thánh hóa hình ảnh của ông, biến ông thành một vị thánh và điều đó khiến việc có được bức tranh thực và đầy đủ về cuộc đời ông trở thành bất khả.” [184]
Nhiều người dân Việt Nam yêu quý ông, gọi ông bằng cái tên thân mật Bác Hồ. Trong văn thơ, ông còn được gọi là “Người Cha già dân tộc”. Một số dân tộc thiểu số Việt Nam, như Vân Kiều, Pa Cô, Kor, đã lấy họ Hồ vì yêu quý ông.[185] Ông được thờ tại nhiều gia đình Việt Nam,[2][5][186][187] cũng như tại nhiều gia đình Việt kiều ở Thái Lan,[188] Lào[189],… và một số gia đình ở các nước khác như Na Uy.[190]
Tuy nhiên, tại một số cộng đồng người Việt hải ngoại, đặc biệt là Hoa Kỳ mà đa phần là những người rời khỏi Việt Nam sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, hình ảnh của ông bị phản đối mãnh liệt. Năm 1999, khi một người cho thuê băng đĩa treo chân dung Hồ Chí Minh trước cửa tiệm mình tại Little Saigon, hàng vạn người Mỹ gốc Việt và cựu binh Hoa Kỳ tại Việt Nam đã tham gia biểu tình phản đối, gây ra nhiều tranh cãi về vấn đề tự do ngôn luận tại Hoa Kỳ.[191][192][193] Một cuộc triển lãm nghệ thuật về ông tại Oakland, California năm 2000 cũng bị hàng trăm người biểu tình phản đối.[194][195] Trong một hành động phản đối chuyến thăm của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tới Hoa Kỳ, hình nộm của ông bị đem ra treo cổ và hình ảnh ông bị giẫm đạp, một số cuộc biểu tình phản đối chính quyền Việt Nam tại Hoa Kỳ cũng có những hành động tương tự[194] .[196][197][198][199]
Với chiến thắng quyết định ở trận Điện Biên Phủ, những nước thuộc địa trước đây của Pháp, chủ yếu ở Bắc Phi và Tây Phi cũng theo gương Việt Nam nổi dậy. Hồ Chí Minh được người dân ở những nước này rất kính trọng, và được coi như tấm gương cho cuộc giải phóng tại đất nước họ. Tên ông đã được đặt cho các đại lộ tại Luanda (Angola), tại Ouagadougou (Burkina Faso) và tại Maputo (Mozambique). Tại Berkeley, California, nơi có nhiều cuộc biểu tình chống chiến tranh Việt Nam, nhiều nhà hoạt động cộng đồng đã từng gọi Công viên Frances Willard là Công viên Hồ Chí Minh một cách không chính thức.[200] Nhiều nước trên thế giới đã phát hành tem bưu chính kỷ niệm ông: Liên bang Xô viết, Ấn Độ, Lào, Madagascar, Algérie, Cuba, Đông Đức, Triều Tiên, Quần đảo Marshall, Dominica,… Tượng đài ông được đặt tại nhiều thành phố trên thế giới, trong đó có La Havana (Cuba), Moskva (Nga), Zalaegerszeg (Hungary), Montreuil (Pháp), Calcutta (Ấn Độ), Antananarivo (Madagascar),[201] và Caracas (Venezuela)[202][203]
Tưởng niệm
Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, phủ toàn quyền Đông Dương bên cạnh Quảng trường Ba Đình, nơi ông đã đọc Tuyên ngôn độc lập được chọn là nơi làm việc của Đảng, Nhà nước và đồng thời là nơi ở, nơi làm việc của Chủ tịch nước. Từ đó trở đi, nơi đây trở thành Khu di tích Phủ Chủ tịch. Khu này là nơi sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của ông – từ 19 tháng 12 năm 1954 đến 2 tháng 9 năm 1969 (đây cũng là khoảng thời gian ông có những đóng góp quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam). Khu di tích Phủ Chủ tịch hàng năm đón nhiều khách tham quan trong và ngoài nước. Một công trình khác là Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi tuần có hơn 15.000 người đến đây viếng thăm,[204][205] trong đó có nhiều nguyên thủ các nước.
Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Hà Nội là khu tưởng niệm về Hồ Chí Minh lớn nhất Việt Nam. Tại các tỉnh thành phố khác cũng có các bảo tàng, nhà lưu niệm về ông, đặt tại những địa điểm ông đã từng sống và làm việc. Nổi bật nhất là bến Nhà Rồng tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi ông đã xuống tàu “Đô đốc Latouche Tréville” ra đi tìm đường cứu nước, và Nhà tưởng niệm xây dựng năm 1970 ở quê nội của ông. Tại các quốc gia khác cũng có các nhà lưu niệm về Hồ Chí Minh,[206] chẳng hạn như ở Pháp.[207][208] Ngoài ra còn có rất nhiều đài kỷ niệm và bia tưởng niệm. Tại Việt Nam, Hồ Chí Minh còn được thờ trong một số đền, chùa và gia đình. Ngoài phạm vi Việt Nam, Hồ Chí Minh được tưởng niệm tại nhiều công trình trên thế giới.[209]
Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh tại thành phố
Sa Đéc
Nhằm tôn vinh ông, năm 1976, kỳ họp Quốc hội đầu tiên sau ngày Việt Nam được thống nhất đã thống nhất quyết định đổi tên thành phố Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh. Chiến dịch quân sự lịch sử xảy ra trên thành phố này, kết thúc Chiến tranh Việt Nam và mở đầu thời kỳ thống nhất của Việt Nam cũng mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Tên ông còn được đặt cho các giải thưởng và huân chương cao quý nhất của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: Huân chương Hồ Chí Minh là huân chương bậc cao thứ nhì của Nhà nước; Giải thưởng Hồ Chí Minh là giải thưởng cao quý nhất dành cho những cống hiến trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ. “Cháu ngoan Bác Hồ” là danh hiệu dành cho các thiếu nhi có thành tích cao trong học tập và hoạt động xã hội. Tên ông còn được đặt cho hai tổ chức chính của thanh thiếu niên Việt Nam: Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Mọi tờ
tiền giấy tại Việt Nam hiện nay đều in hình chủ tịch Hồ Chí Minh
Các tên Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc hay Nguyễn Tất Thành còn được đặt cho nhiều công trình công cộng, như đường quốc lộ, quảng trường, đường phố, trường học.
Hình ảnh và tượng ông hiện diện tại nhiều nơi công cộng, cũng như trên tất cả các đồng tiền giấy đang lưu hành tại Việt Nam. Cùng với quốc kỳ, tượng bán thân hoặc hình ông được đặt tại nơi trang trọng nhất của mỗi cơ quan nhà nước và trường học tại Việt Nam.
Danh hiệu
Ông được xem là một danh nhân không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của thế giới. Trong Khóa họp Đại hội đồng lần thứ 24 tại Paris (20/10 – 20/11/1987), UNESCO đã tôn vinh ông là “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa“ (nguyên văn: Hero of national liberation and Great man of culture)[210][211] và khuyến nghị các nước thành viên tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông do “các đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật”, và ông “đã dành cả cuộc đời mình cho sự giải phóng nhân dân Việt Nam, đóng góp cho cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của các dân tộc [trên thế giới]”.[210][212] Tuy nhiên, trước sự phản đối của một số người Việt và người Pháp tại thủ đô Paris nước Pháp, UNESCO không đứng ra tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ Chí Minh mà để chính phủ Việt Nam tự tổ chức nhưng không được lấy danh nghĩa UNESCO.[213] Dù vậy, nghị quyết gốc vẫn được UNESCO công nhận và bảo lưu giá trị. Phát biểu tại hội thảo quốc tế ở Hà Nội tháng 3/1990, Giám đốc UNESCO khu vực châu Á – Thái Bình Dương Modagat Ahmet, khẳng định: “Hội nghị UNESCO phiên thứ 24 đã quyết định kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông vào năm 1990. Đây là một cử chỉ tôn kính đối với một nhân vật vĩ đại đã cống hiến trọn đời mình cho sứ mệnh tự do và độc lập. UNESCO rất vui sướng được tham gia vào sự kiện đáng ghi nhớ này. Điều đó biểu hiện sự cam kết sâu sắc của tổ chức này trong việc duy trì các giá trị và công lao của các nhân vật vĩ đại được nhân loại công nhận và kính trọng”.[211] Năm 2010, văn bản gốc bằng tiếng Pháp của Nghị quyết đã được Tổng Giám đốc UNESCO trao tặng cho Bảo tàng Hồ Chí Minh để trưng bày.[214]
Tuần báo TIME của Hoa Kỳ bình chọn Hồ Chí Minh là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ 20.[215] Tờ Time 2000 đã nhận định ông là người đã góp phần “làm thay đổi diện mạo hành tinh chúng ta trong thế kỷ XX”.[216] Ngày 15 tháng 10 năm 2010, báo Time cũng đã bầu chọn Hồ Chí Minh là một trong 10 tù nhân chính trị nổi bật chiến đấu cho tự do nổi tiếng nhất mọi thời đại cùng với Aung San Suu Kyi, Nelson Mandela, Martin Luther King Jr., Mohandas Gandhi…[217]
-
Bộ tem đầu tiên của Việt Nam phát hành ngày 2 tháng 9 năm 1946
-
Một trong những con tem đầu tiên của Việt Nam (Tem giấy dó)
-
Tem Liên Xô tưởng niệm Hồ Chí Minh, 1990
-
Tem của Cộng hòa dân chủ Đức tưởng niệm Hồ Chí Minh 1970
Ảnh hưởng của Hồ Chí Minh ở Việt Nam ngày nay
Tại Việt Nam, hình ảnh Hồ Chí Minh phổ biến khắp nơi như là một “tấm gương sáng ngời về đạo đức”,[218] một “nhân cách cao thượng” và được coi là một “thần tượng”.[219] Những tác phẩm nói về Hồ Chí Minh thường ca ngợi những đức tính tốt đẹp của ông. Các cấp ủy Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân học tập và làm theo tấm gương đạo đức, lối sống của Hồ Chí Minh.[220] Mỗi năm, chính quyền và Đảng bộ đều tổ chức các cuộc thi Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho nội bộ lẫn quần chúng.
Ngoài những phát biểu của chính Hồ Chí Minh và hình vẽ, hình chụp của ông, những câu nói và khẩu hiệu tuyên truyền có thể đọc thấy ở mọi nơi đó là:
- Đời đời nhớ ơn Bác Hồ vĩ đại
- Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp chúng ta
Các câu nói được ghi lại
Các câu nói nổi tiếng
- Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập, tự do! [221]
- “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, lấy ý từ câu “thập niên chi kế, mạc như thụ mộc; chung thân chi kế, mạc như thụ nhân” (Hán văn: 十年之計,莫如樹木;終身之計,莫如樹人) trong sách “Quản tử“, chương thứ ba Quyền tu.
- Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một; sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.
- Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập[222]
- Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?[223]
- Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.[224]
- Quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh.[225]
- Tôi chỉ có một Đảng: Đảng Việt Nam.[226]
- Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.
- Hình ảnh miền Nam luôn ở trong trái tim tôi.
- Nhiệm vụ của thanh niên không phải là đòi hỏi Nước nhà đã cho mình những gì, mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho Nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi Nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích Nước nhà mà hy sinh phấn đấu đến chừng nào?[227]
“ |
Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. |
” |
—Trích phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lễ kỉ niệm 20 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, năm 1964) |
“ |
Hỡi đồng bào cả nước! Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. |
” |
—trích Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946) |
“ |
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[228] |
” |
—trích Báo Cáo Chính trị tại Đại Hội Đảng lần thứ II, tháng 2 năm 1951 |
“ |
Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu |
” |
—Hồ Chí Minh – trích thư gửi các em học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 9/1945.[229] |
“ |
Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính. |
” |
—Hồ Chí Minh – Sửa đổi lối làm việc [230] |
Các câu nói khác
Trước 1945
- Theo tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của tác giả Trần Dân Tiên, trước khi Nguyễn Tất Thành rời Bến Nhà Rồng đến Pháp năm 1911, cậu rủ một người bạn đi cùng để có gì giúp đỡ lẫn nhau. Người bạn hỏi cậu lấy tiền đâu mà ra đi, cậu giơ tay ra mà nói: Đây tiền đây! Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. [231]
- Về mục đích đi ra nước ngoài của mình, năm 1923 Nguyễn Ái Quốc đã trả lời rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”.[232] Một lần khác anh nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”[233]
- Khi lần đầu đến thăm tượng Nữ thần Tự do năm 1913, Nguyễn Tất Thành là nhìn xuống chân tượng và ghi vào sổ: “Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp, số phận người phụ nữ bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?”.[234]
- Vào mùa xuân 1919, một người bạn Pháp đưa cho Nguyễn Tất Thành một bản sao báo cáo của Lênin in trong báo Nhân đạo (L’Humanité): “Luận cương về những vấn đề dân tộc và thuộc địa“. Anh vui mừng đến phát khóc lên, nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”[235]
- Trong bài báo nhan đề “Cách mạng Nga và các dân tộc thuộc địa”, Nguyễn Ái Quốc viết: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”[236]
- Trong tác phẩm “Nên Học Sử Ta”, Hồ Chí Minh đã viết: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào nhân dân ta đoàn kết muôn người như một thì đất nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào nhân dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi…”[237]
1945 – 1946
- Sau 80 năm bị thực dân Pháp giày vò, nước Việt Nam ta cái gì cũng kém cỏi, chỉ có lòng sốt sắng của dân là rất cao. [238]
- Bọn ấy sang thì chả tử tế gì đâu. Chúng sẽ ăn hại, báo hại, đưa phản động về phá ta, làm những điều chướng tai gai mắt.[239]
- Theo tinh thần “bốn bể đều là anh em”, tôi yêu mến thanh niên Pháp cũng như yêu mến thanh niên Việt Nam. Đối với tôi, sinh mệnh của một người Pháp hay sinh mệnh của một người Việt Nam đều đáng quý như nhau. Hỡi các bà mẹ Pháp! Tôi kêu gọi tinh thần yêu nước cao quý và tình mẫu tử của các bà. Các bà hãy giúp chúng tôi ngăn chặn những hiểu lầm và mau chóng gây dựng mối tình hữu nghị và tinh thần hoà hợp giữa con em chúng ta.[240]
- Các ông có thể giết 10 người của chúng tôi, trong khi chúng tôi chỉ giết được 1 người của các ông, nhưng cuối cùng các ông sẽ là người kiệt sức[241]
- “Tôi tin và đồng bào cả nước đều tin vào lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ. Chúng ta nên nhớ lời oanh liệt của một nhà đại cách mạng Pháp: Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ… Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có lực lượng đoàn kết của toàn dân. Chúng ta nhất định thắng lợi vì cuộc đấu tranh của chúng ta là chính nghĩa”[242]
- Không, không vô vọng. Đó sẽ là một cuộc chiến gay go và quyết liệt nhưng chúng tôi sẽ thắng. Chúng tôi có một vũ khí mạnh chẳng kém những cỗ đại bác: đó là tinh thần dân tộc! Đừng có đánh giá thấp điều đó. Người Mỹ chắc hẳn phải nhớ là một đám nông dân chân đất Mỹ đã đánh thắng quân đội hoàng gia Anh như thế nào[243]
- Nó (chiến tranh Đông Dương) sẽ là một cuộc chiến giữa voi và hổ. Nếu hổ đứng yên thì sẽ bị voi dẫm chết. Nhưng hổ không đứng yên. Ban ngày nó ẩn nấp trong rừng và ra ngoài vào ban đêm. Nó sẽ nhảy lên lưng voi, xé những mảnh da lớn, và rồi nó sẽ chạy trở lại vào rừng tối. Và dần dần, con voi sẽ chảy máu đến chết. Cuộc chiến tranh ở Đông Dương sẽ như vậy.[244]
Thập niên 1950-1960
- “Không có việc gì khó / Chỉ sợ lòng không bền / Đào núi và lấp biển / Quyết chí ắt làm nên”, đọc trong lần đến thăm liên phân đội thanh niên xung phong 312 ở Nà Tu thuộc tỉnh Bắc Cạn đêm ngày 30 tháng 3 năm 1951,[245][246] lấy ý từ bốn câu trong bài thơ ngũ ngôn “Huấn mông ấu học thi” (Hán văn: 訓蒙幼學詩) của Uông Thù (汪洙), người thời Bắc Tống ở Trung Quốc: “Tạc sơn thông đại hải / Luyện thạch bổ thanh thiên / Thế thượng vô nan sự / Nhân tâm tự bất kiên” (鑿山通大海 / 煉石補青天 / 世上無難事 / 人心自不堅) Bốn câu thơ trên là nguồn cảm hưng để năm 1953 Hoàng Hà sáng tác bài hát “Thanh niên làm theo lời Bác“, sau này trở thành đoàn ca của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.[247]
- “Đất có bốn phương Đông Tây Nam Bắc.
- Trời có bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông.
- Người có bốn đức Cần Kiệm Liêm Chính.
- Thiếu một phương thì không thành đất.
- Thiếu một mùa thì không thành trời.
- Thiếu một đức thì không thành người.“[248]
- “Hoàn cảnh thế nào không quan trọng, quan trọng là đối phó thế nào.” [249]
- Chủ nghĩa Mác-Lênin Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lênin có lý có tình![250]
- Chúc mừng chú mới thắng trận. Nhưng đừng chủ quan, còn phải đánh với Mỹ nữa. (nói với Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngay sau trận Điện Biên Phủ)
- Tôi xin mời Johnson tới Hà Nội như là khách của chúng tôi. Ông hãy đến với vợ và con gái, người thư ký, người bác sĩ và người đầu bếp của mình. Nhưng đừng mang theo tướng lĩnh và đô đốc![251]
- Mỹ phải cút đi! Chúng tôi trải thảm đỏ cũng được, nhưng Mỹ phải cút đi! Mỹ phải chấm dứt xâm lược. Johnson miệng nói hòa bình tay lại ký những lệnh điều động quân. Chúng tôi không bác bỏ gì hết, nhưng nhân dân chúng tôi phải được yên ổn. Chúng tôi không muốn trở thành người chiến thắng. Chúng tôi chỉ muốn Mỹ cút đi! Gút-bai![252]
- Chúng ta căm thù Đế quốc Mỹ xâm lược nhưng không được căm thù nhân dân Mỹ.
- Tôi nói với nhân dân Việt Nam rằng họ là con cháu tôi, vì vậy tôi sống rất bình yên và giản dị, tôi ngủ rất ngon, ngay cả khi có việc ném bom của các ông.[253]
- Tôi là người đa nghi và tôi có lý do để ngờ vực. Người Mỹ các ông ít nhiều đều là nhà kinh doanh. Tôi cũng là nhà kinh doanh… Khi việc ném bom chấm dứt, câu chuyện bắt đầu. Chúng ta sẽ xem các mặt hàng.[254]
- Chúng tôi và nhân dân chúng tôi sẵn sàng nói chuyện với nhà cầm quyền Mỹ và nhân dân Mỹ. Nhưng với Johnson và McNamara thì hoặc là trải thảm đỏ hoặc đá đít ra ngoài cửa.[255]
- Chúng tôi ở trên đất nước chúng tôi. Chúng tôi không làm điều gì tổn hại cho nước Mỹ. Đế quốc Mỹ hãy chấm dứt sự xâm lược của chúng và cuốn gói thì lập tức hòa bình sẽ được lập lại ở Việt Nam. Đế quốc Mỹ dù điên cuồng đẩy mạnh chiến tranh đến mức nào, chúng tôi cũng quyết đánh bại chúng. Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào thắng lợi của mình vì sự nghiệp của chúng tôi là chính nghĩa!”.[256]
- Chúng tôi sẵn sàng đem hoa và nhạc tiễn họ và mọi thứ khác họ thích, nhưng ông biết đấy, tôi thích tiếng lóng của các ông: qu’ils foutent le camp! (“qu’ils foutent le camp” có nghĩa là “hãy cút đi”)[257]
- Đế quốc Mỹ chán rồi, nhưng rút ra như thế nào. Thua mà danh dự. Đó là điều Mỹ muốn![258]
- Đế quốc Mỹ đang thua ở Việt Nam và chúng nhất định sẽ thua. Song chúng chỉ chịu thua sau khi đã thua trên bầu trời Hà Nội![259]
- Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước.[260]
- Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; học tập tốt, lao động tốt; đoàn kết tốt, kỷ luật tốt; giữ gìn vệ sinh thật tốt; khiêm tốn, thật thà, dũng cảm. (Lời dạy các cháu thiếu niên, nhi đồng).[261]
Tác phẩm
-
Trong các tác phẩm của ông có thể nói bản tuyên ngôn độc lập do ông biên soạn là có tiếng vang nhất và được sánh vai cùng các bản tuyên ngôn độc lập trong lịch sử Việt Nam như bài thơ thần Nam Quốc Sơn Hà tương truyền của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi.
- Bản án chế độ thực dân Pháp (1925)
- Đường kách mệnh (1927)
- Con rồng tre (1922, kịch, nhằm đả kích vua Khải Định)[262]
- Các truyện ngắn: Pari (1922, Nhân đạo), Lời than vãn của bà Trưng trắc (1922, Nhân đạo), Con người biết mùi hun khói (1922, Nhân đạo), Vi hành (1923, Nhân đạo), Đoàn kết giai cấp (1924, Người cùng khổ), Con rùa (1925, Người cùng khổ), Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925, Người cùng khổ)[263]
- Nhật ký trong tù (1942, thơ)
- Sửa đổi lối làm việc (1947)
- Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (bút danh Trần Dân Tiên[264][265][266][267])
- Vừa đi đường vừa kể chuyện (bút danh T. Lan[268][269])
Trong cuốn sách này, Hồ Chí Minh hóa thân thành một cán bộ trong đoàn tùy tùng (T. Lan), đi công tác cùng với Hồ Chí Minh trong rừng núi Việt Bắc và được Hồ Chí Minh vui miệng kể chuyện cho nghe nhiều chuyện.[270]
- Hồ Chí Minh toàn tập, ấn bản I: NXB Sự thật (1980-1989), ấn bản II: NXB Chính trị Quốc gia (1995-1996), bản số hóa trên CD-ROM: NXB Chính trị quốc gia (2001-đến nay)
Tên gọi, bí danh, bút danh
-
Sau nhiều năm hoạt động trong nước và ngoài nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng rất nhiều bí danh và tên gọi khác nhau để đánh lạc hướng kẻ thù. Tuy nhiên, danh xưng Hồ Chí Minh được chọn là tên gọi chính thức của ông và được nhiều người chấp nhận nhất. Theo một số tài liệu thì ông bắt đầu sử dụng danh xưng Hồ Chí Minh từ năm 1940 nhưng không ai biết cho đến khi bị chính quyền Trung Quốc bắt do nghi ngờ là gián điệp vào năm 1942. Từ đó ông bắt đầu công khai và dùng tên gọi Hồ Chí Minh với mọi người. Và từ đó trở đi danh xưng Hồ Chí Minh đã trở thành tên gọi chính thức của ông.[271][272]
Ngoài tên gọi Hồ Chí Minh (dùng từ 1942), và tên tự Nguyễn Tất Thành (阮必成), trong cuộc đời mình, ông còn có nhiều tên gọi và bí danh khác như Paul Tất Thành (1912); Nguyễn Ái Quốc (阮愛國, từ 1919); Văn Ba (khi làm phụ bếp trên tàu biển, 1911); Lý Thụy (李瑞, khi ở Quảng Châu, 1924-), Hồ Quang (1938-40), Vương (Wang) (1925–27, 1940), Tống Văn Sơ (1931–33), Trần (1940) (khi ở Trung Quốc); Chín (khi ở Xiêm La, 1928–30) và được gọi là Thầu (ông cụ) Chín; Lin (khi ở Liên Xô, 1934–38); Chen Vang (trong giấy tờ đi đường từ Pháp sang Liên Xô năm 1923); ông cũng còn được gọi là Bác Hồ, Bok Hồ, Cụ Hồ. Khi ở Việt Bắc ông thường dùng bí danh Thu, Thu Sơn và được người dân địa phương gọi là Ông Ké, Già Thu,. Tổng thống Indonesia Sukarno gọi ông là “Bung Hồ” (Anh Cả Hồ).
Ông dùng 173 bút danh khi viết sách, báo:[273] Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn, Nguyễn A.Q, Ng A.Q, Ng. Ái Quốc, N.A.Q, N., Wang, N.K., A.N; P.C. Lin, P.C. Line (1938, Trung Quốc), Line (1938, Trung Quốc), Q.T, Q.TH, Lê Quyết Thắng (1948–50), A.G, X.Y.Z (1947–50), G., Lê Nhân, Lê, Lê Ba, Lê Nông, Lê Thanh Long, L.T., T.L. (1955–69), Trần Dân Tiên, T.Lan (1955–69), Tuyết Lan, Thanh Lan, Đin (1950–53), Tân Trào, Đ.X (trong chuyên mục “Thường thức chính trị” trên báo Cứu quốc năm 1953), C.B (trên báo Nhân Dân 1951-57), V.K., K.C., C.K., Trần Lực (1948–61), C.S, Chiến Sĩ, Chiến Đấu, La Lập, Nói Thật, Thu Giang, K.V., Trầm Lam, Luật sư TH. Lam, Nguyễn Kim, K.O, Việt Hồng..v.v.
Hồ Chí Minh trong văn học, nghệ thuật
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn cảm hứng cho nhiều nhạc sĩ, nhà thơ sáng tác nhiều tác phẩm.
Âm nhạc
-
- Người về đem tới ngày vui Mùa thu nắng toả Ba Đình Với tiếng Người còn dịu dàng như tiếng đất trời. Người về đem tới xuân đời từ đất nước cằn, Từ bùn lầy cả cuộc đời vùng lên.
- Hồ Chí Minh sáng ngời gương đấu tranh. Vững bền đưa chúng ta vượt khó khăn. Hồ Chí Minh muôn năm chỉ lối cho nhân dân. Đến ngày chiến thắng vẻ vang.
- Bài hát “Người là niềm tin tất thắng” của nhạc sĩ Chu Minh:
- Đất nước nghiêng mình đời đời nhớ ơn. Tên người sống mãi với non sông Việt Nam. Lời thề sắt son theo tiếng bác gọi, bốn ngàn năm dồn lại hôm nay, người sống trong muôn triệu trái tim… Thế giới nghiêng mình, loài người tiếc thương. Đây người chiến sĩ đấu tranh cho tự do. Người là ước mơ của các dân tộc. Tiếng người vang vọng đến mai sau. Nguyện ước theo con đường Bác đi…
- …Bác thương các cụ già xuân về gửi biếu lụa, Bác yêu đàn cháu nhỏ trung thu gửi cho quà. Bác thương đoàn dân công đêm nay ngủ ngoài rừng, Bác thương người chiến sĩ đứng gác ngoài biên cương…”
- …Trên cánh đồng miền Nam, đau thương mây phủ chân trời. Khi ca lên Hồ Chí Minh, nghe lòng phơi phới niềm tin…
- …From VietBac to the SaiGon Delta. Marched the armies of Viet Minh. And the wind stirs the banners of the Indo-Chinese people. Peace and freedom and Ho Chi Minh…
- …I’ll have to say in my own way. The only way I know, that we learned power to the people and the power to know. From Teacher Uncle Ho!
- Tenía la figura pequeña y la barbita blanca el camarada Ho Chi Minh querido tío Ho Chi Minh inolvidable Ho Chi Minh indoblegable Ho Chi Minh inolvidable Ho Chi Minh indoblegable Ho Chi Minh…
- Nhiều sáng tác khác: “Bác đang cùng chúng cháu hành quân” (Huy Thục), “Thanh niên làm theo lời Bác” (Hoàng Hà), “Tuổi trẻ thế hệ Bác Hồ” (Triều Dâng), “Tấm áo Bác Hồ”, “Gửi tới Bác Hồ” (Kapapúi – Tường Vi), “Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác” (An Thuyên), “Vầng trăng Ba Đình”, “Miền Trung nhớ Bác”, “Người về thăm quê” (Thuận Yến), “Bên lăng Bác Hồ”, “Bên tượng đài Bác Hồ” (Lê Giang), “Đêm Trường Sơn nhớ Bác” (Trần Trung), “Bác Hồ sống mãi với Tây Nguyên“, “Cô gái Pakô con cháu Bác Hồ” (Huy Thục), “Đôi dép Bác Hồ” (Văn An – thơ Tạ Hữu Yên), “Bài ca dâng Bác” (Trọng Loan), “Như có Bác trong ngày đại thắng” (Phạm Tuyên), “Lời Bác dặn trước lúc đi xa” (Trần Hoàn), “Tình Bác sáng đời ta” (Lưu Hữu Phước), “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên người” (Trần Kiết Tường)…
Thơ, văn
Tác phẩm
“Bác Hồ và ba em thiếu nhi Trung -Nam -Bắc” (Tranh lụa vẽ bằng máu 1947) của họa sĩ
Diệp Minh Châu.
-
- …Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba-lê
- Một viên gạch hồng Bác chống lại cả một mùa băng giá
- Và sương mù thành Luân Đôn, người có nhớ
- Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya…
-
- …Nhớ ông cụ mắt sáng ngời
- Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường…
- Bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu, sáng tác ngày 6 tháng 9 năm 1969 ngay sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, có đoạn:
-
- Bác để tình thương cho chúng con
- Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
- Mong manh áo vải hồn muôn trượng
- Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.[275]
-
- Bác nằm trong giấc ngủ bình yên::
- Giữa một vầng trǎng sáng dịu hiền
- Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
- Mà sao nghe nhói ở trong tim!
- Bài thơ “Một con người chủ nghĩa Mác sinh ra” của Hải Như:
-
- Bác đã cho ta, Bác đã cho đời
- Lẽ sống của ngày mai trên Trái Đất
- Lẽ sống đẹp, không coi mình cao nhất
- Mong kiếp người, ai cũng cất đầu cao
-
- Vị thánh sống của nghìn thánh sống
- Và ân nhân của cả muôn đời
- Hồ Chí Minh! – Chưa dễ thấy người
- Chúng tôi đây bọn mù mắt sáng!
Tác phẩm Búp sen xanh của Sơn Tùng kể về thời tuổi trẻ của Hồ Chí Minh.
Trong tiểu thuyết Đỉnh cao chói lọi của Dương Thu Hương, Hồ Chí Minh được hư cấu thành nhân vật chính Chủ tịch.[277][278]
Hội họa
Đã có ít nhất bốn bức vẽ bằng máu về Hồ Chí Minh (huyết họa)[279]
Điện ảnh
- Hình tượng Hồ Chí Minh trong phim truyện video “Hà nội – Mùa đông 1946″ do NSƯT Tiến Hợi thể hiện.
- Hình tượng Nguyễn Tất Thành (Văn Ba) trong phim truyện nhựa “Hẹn gặp lại Sài Gòn” do NSƯT Tiến Hợi thể hiện.
- Hình tượng Tống Văn Sơ trong phim truyện Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông do NSƯT Trần Lực thể hiện.
Sân khấu
- Hình tượng Hồ Chí Minh trong vở kịch “Đêm trắng” NSƯT Tiến Hợi thể hiện.
- Hình tượng Hồ Chí Minh trong vở chèo “Những vần thơ thép” do NSƯT Mạnh Kiên thể hiện.
- Hình tượng Hồ Chí Minh trong nhiều vở kịch nói do nghệ sĩ Văn Tân thể hiện từ năm 1974 – nay.
Đánh giá
Giáo sư David Thomas cho biết ông đã từng đọc một tạp chí tin tức và thời sự có tiếng tăm tại Hoa Kỳ có ghi nhận về một cuộc thăm dò ý kiến người dân Mỹ. Người ta tham khảo ý kiến về các lãnh tụ trên toàn cầu, xem ai là người Thiện (good), ai là người Ác (evil). Kết quả cho thấy Hồ Chí Minh, cùng với các lãnh đạo Adolf Hitler và Iosif Vissarionovich Stalin bị xem là những nhân vật ác, trong khi Nelson Mandela, Franklin D. Roosevelt và Mahatma Gandhi thì được xem là những nhân vật thiện. Giáo sư không tán thành với quan điểm này vì theo ông “ai từng nghiên cứu một cách khách quan cuộc đời và những thành tựu của Hồ Chí Minh thì không thể nào đi đến kết luận như vậy được“.[184]
Là một người lãnh đạo cuộc đấu tranh của Việt Nam giành độc lập khỏi chế độ thực dân Pháp, ông lại không phải là một nhà dân tộc chủ nghĩa cực đoan. Điều này thể hiện qua nhận định tích cực về ông của nhiều người ngoại quốc.[49] Trong một hội thảo “Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay” – một hội thảo mang tầm cỡ quốc tế, Ahn Kyong Hwan – một giáo sư của Trường Đại học Chosun (Đại Hàn Dân quốc) nói: “Hồ Chí Minh có thể khác về mặt tư tưởng hay tôn giáo so với các vĩ nhân khác trên thế giới nhưng nhân cách của Người thì đáng để mọi người trên thế giới tôn kính…. Những nhà lãnh đạo chính trị trên thế giới phải noi gương tinh thần yêu nước, yêu dân tộc, yêu đồng bào vĩ đại của Người”. Nhà báo Úc Wilfred Burchett, người từng có nhiều cuộc phỏng vấn Hồ Chí Minh, cho biết: “Cảm giác đầu tiên của tôi là sự thân mật, ấm áp và giản dị. Hồ Chủ tịch có khả năng khiến người ta thấy nhẹ nhõm ngay từ khoảnh khắc đầu tiên và trình bày những vấn đề phức tạp nhất chỉ trong vài từ và cử chỉ rõ ràng. Trong những cuộc gặp gỡ tiếp theo với nhân cách vĩ đại này, sự ấm áp, giản dị, cách thể hiện rõ ràng xuất phát từ trí tuệ mẫn tiệp và sự thấu hiểu trọn vẹn chủ đề khiến tôi có ấn tượng vô cùng sâu sắc”.[280]
Xem thêm
Chú thích
- ^ Bản di chúc có chữ “Tuyệt đối bí mật” của Bác Hồ
- ^ a ă Nhà nhà cúng giỗ Bác Hồ.
- ^ Một gia đình 40 năm cúng giỗ Bác Hồ
- ^ Gác thờ Bác Hồ trên sông Tiền
- ^ a ă “Xóm không chồng” ở Việt Nam lên báo Mỹ
- ^ Ðền thờ Bác Hồ trên đỉnh Ba Vì
- ^ Các công trình tưởng niệm Hồ Chí Minh trong nước và trên thế giới
- ^ Kỷ niệm ngày sinh nhật Bác (19-5): Những đền thờ Bác ở sông nước miền Tây
- ^ Tạp chí Time số 14|Vol. 151 ngày 13 tháng 4 năm 1998. 100 người nổi bật của thế kỷ
- ^ “People of the Century – TIME”. Time. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2012.
- ^ “TIME 100 Persons Of The Century”. Time. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2013.
- ^ William Duiker, Ho Chi Minh – A Life, Hyperion, 2000, tr.15. Nguyễn Sinh Nhậm còn có tên khác là Nguyễn Sinh Vương. Năm Nguyễn Sinh Sắc lên 4 tuổi thì cả cha và mẹ là Hà Thị Hy đều đã mất
- ^ Búp sen xanh, Sơn Tùng
- ^ Tiểu sử Hồ Chí Minh
- ^ Chính phủ Việt Nam 1945-1998, phần “Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 – 1969)”, NXB. Chính trị Quốc gia, 1999
- ^ Tên này do ông ngoại là thầy đồ Hoàng Xuân Đường đặt.
Sơn Tùng, Búp sen xanh, Chương I. Thời thơ ấu
- ^ a ă â Vũ Ngự Chiêu. “Vài vấn nạn lịch sử thế kỷ XX: Hồ Chí Minh—Nhà ngoại giao, 1945-1946”. Hợp Lưu Magazine. Ghi chú: Xem tài liệu bằng tiếng Pháp, từ Centre des archives d’Outre-mer [CAOM] (Aix)/Gouvernement General de l’Indochine [GGI]/Fonds Residence Superieure d’Annam [RSA]/carton R1, và ghi chú bằng tiếng Anh ở cuối bài báo. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2013.
- ^ a ă Nguyễn Vĩnh Châu. “Phỏng vấn sử gia Vũ Ngự Chiêu về những nghiên cứu lịch sử liên quan đến Hồ Chí Minh”. Hợp Lưu Magazine. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2013.
- ^ Trần Quốc Vượng. “Lời truyền miệng dân gian về Hồ Chí Minh”. BBC Vietnamese. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2013.
- ^ a ă “Sự kiện: Nguyễn Tất Thành với tên gọi Nguyễn Sinh Côn có thể được nhận vào Trường Quốc học Huế”. Bảo tàng Hồ Chí Minh. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2014.
- ^ “Về bộ sách “Quốc học Huế xưa và nay””. Đài tiếng nói Việt Nam. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2014. “Trường Quốc học Huế mãi mãi còn ghi dấu ấn sâu sắc của nhiều thầy và trò của trường: Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh)…”
- ^ Hồ Chí Minh – Tiểu sử, chương I: Thời niên thiếu (1890-1911), NXB. Chính trị Quốc gia, 2008
- ^ Bác Hồ – hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 6 cho biết làng Kim Liên cũng như làng Hoàng Trù nằm gần (trong khoảng bán kính 20-30 km) với quê hương của nhiều nhân vật trong lịch sử Việt Nam như:
- Rú Đụn – quê của Mai Hắc Đế,
- Vùng Đông Thái – quê của Phan Đình Phùng,
- Quê của Nguyễn Biểu và Đặng Dung, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du,
- Cách làng Kim Liên một cánh đồng là quê Đan Nhiệm của Phan Bội Châu,
- Rú Mượu – quê của tổ tiên Nguyễn Huệ (Quang Trung),
- Ngoài ra, Kim Liên gần với quê quán của một số nhân vật như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Phạm Hồng Thái và nơi sinh trưởng của Nguyễn Thị Minh Khai.
- ^ Bác Hồ – hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 10.
- ^ Bác Hồ – hồi kí, NXB Văn học, trang 12, 13 cho biết ông Hoàng Xuân Hành (còn được gọi là cố Cháu) là chú ruột của bà Hoàng Thị Loan, đã từng theo Đề Thám đánh Pháp, sau bị bắt khi tham gia vũ trang ở Nghệ An và bị đày đi Côn Đảo.
- ^ Bác Hồ – hồi kí, NXB Văn học, 2004 cho biết ông Nguyễn Sinh Sắc là một trong 24 người đỗ đại khoa của khoa thi năm 1901 (khoa này chỉ lấy tiến sĩ và phó bảng). Sau khi Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu (năm 1924), Nguyễn Sinh Sắc có nhận được tin, biết Nguyễn Ái Quốc là con mình và có lần nhắm thăm.
- ^ Học trò của Hoàng Phạm Quỳnh có khoa thi đỗ sáu cử nhân, mười hai tú tài. Tất Thành “ham đọc sách […] nhưng ham nhất là các loại sách như Tam Quốc Chí hay Tây Du […] văn bài thì Thành không thích làm nhưng rất hay hỏi nghĩa […] một ông đồ […] sau khi dạy chú mấy tháng đã không dạy nữa”
Nguồn: Bác Hồ – hồi kí, NXB Văn học, 2004, tr.25
- ^ Một biểu tượng văn hóa Huế
- ^ Duiker, tr.37
- ^ Thân thế và sự nghiệp của Bác Hồ
- ^ Hội Liên Thành là một tổ chức do các sĩ phu yêu nước Bình Thuận thành lập, bao gồm Liên Thành Thư Xã để truyền bá tư tưởng yêu nước, Liên Thành Thương Quán để gây quỹ hoạt động và Dục Thanh Học Hiệu để giáo dục tinh thần yêu nước theo mô hình Đông Kinh nghĩa thục. Thời kỳ dạy ở trường, ông vẫn ăn vận theo lối dân tộc “[…] bận một bộ bà ba kiểu Sài Gòn […] và đi guốc”
- ^ Bác Hồ – hồi kí, NXB Văn học, 2004, tr.38. Các chi tiết là của bác sĩ Nguyễn Kinh Chi, người từng trực tiếp học Hồ Chí Minh.
- ^ Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb.Chính trị Quốc gia, năm 1994, tr.12
- ^ Phạm Bá Nhiễu. Từ thành phố này Người đã ra đi tìm đường cứu nước. Tạp chí Xây dựng Đảng ngày 5-6-2011
- ^ Thùy Ân. Nơi Bác Hồ ở trước khi ra đi tìm đường cứu nước. Báo Lao động online ngày 19-05-2011
- ^ “Từ thành phố này Người đã ra đi…”, Báo Văn Hóa – Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch
- ^ Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, năm 1995, tập1, trang 477, trích bài phỏng vấn Hồ Chí Minh của nhà báo Liên Xô Ôxip Manđenxtam: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế… Trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người ta như con vẹt.Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải chỉ sách của các nhà văn mới, mà cả Rútô và Môngtexkiơ cũng bị cấm. Vậy thì làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài.“
- ^ Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb.Chính trị Quốc gia, năm 1994, tr.12, trích: “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta.”
- ^ Sophie Quinn-Judge (2002). “Ho Chi Minh: The Missing Years”. University of California Press. tr. 24.
- ^ a ă â b Ho Chi Minh, SOPHIE QUINN JUDGE, Princeton University Press
- ^ “100 năm ngày Bác Hồ tới Pháp”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2011.
- ^ Nguyễn Ái Quốc vào Đảng Xã hội Pháp, Website của Bảo tàng Hồ Chí Minh
- ^ Duiker, tr. 58
- ^ a ă â b c d đ e ê Ho Chi Minh Was Noted for Success in Blending Nationalism and Communism, ALDEN WHITMAN, The New York Times,ngày 4 tháng 9 năm 1969
- ^ Dương Trung Quốc, Nhân sự phá sản của Đề án 112[liên kết hỏng], Báo Lao Động cuối tuần số 37 ngày 23/09/2007 (Xem được đến ngày 15/1/2008)
- ^ Duiker, tr. 60
- ^ Duiker, tr. 59
- ^ Con đường Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Mác- Lênin
- ^ a ă â b Tinh thần dân tộc ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, có dẫn nguồn Hồ Chí Minh – Con người của Sự sống, GS-TS Mạch Quang Thắng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009
- ^ Gabriel Kolko. Giải phẫu một cuộc chiến tranh. (dịch giả: Nguyễn Tấn Cưu). NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2003. trang 30-31.
- ^ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Báo Điện Tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngày 27 tháng 05 năm 2011.
- ^ Nguyen Ai Quoc, le vaillant fondateur du P.C. indochinois est mort emprisonné, ngày 9 tháng 8 năm 1932, L’Humanité
- ^ Người đã vượt qua hoạn nạn nhờ khả năng nhập vai Lady Borton (Thanh Hảo dịch từ bản tiếng Anh) vietnamnet 19/05/2005 09:32 GMT+7
- ^ Duiker, tr. 224
- ^ Ban thẩm tra vụ việc Nguyễn Ái Quốc ở Quốc tế Cộng sản, Bá Ngọc, Tạp chí Xưa và Nay số 438 tháng 10/2013, ISSN 868-331X, Hội Sử Học Việt Nam, trang 4, trích “Một loạt dấu hỏi về vụ án Hương Cảng: Vì sao chịu án phạt nhẹ, bằng con đường nào để đến được Liên Xô…Đặc biệt bức thư của Ban Lãnh Đạo Hải Ngoại Đảng Cộng Sản Đông Dương viết ngày 20 tháng 04 năm 1935 gửi Quốc Tế Cộng Sản cung cấp những thông tin cực kỳ nguy hiểm về Nguyễn Ái Quốc. Nội dung thư kết tội Nguyễn Ái Quốc phải chịu trách nhiệm chính về việc hơn một trăm đảng viên của Đảng Cách Mạng Thanh Niên bị bắt do việc Nguyễn Ái Quốc biết Lâm Đức Thụ trước đây là kẻ phản bội mà vẫn tiếp tục sử dụng, Nguyễn Ái Quốc rất sai lầm khi yêu cầu mỗi học viên cung cấp hai ảnh, họ tên, địa chỉ, họ tên cha mẹ, ông bà nói chung những người sinh thành và địa chỉ chính xác của hai đến mười bạn thân. Những bức ảnh của các học viên do Nguyễn Ái Quốc và Lâm Đức Thụ yêu cầu đều vào tay mật thám. Ở trong nước, ở Xiêm, ở khắp các nhà tù người ta nói nhiều về trách nhiệm của Nguyễn Ái Quốc. Đường lối chính trị của Đảng Cộng Sản do Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo trước đây bị phê bình gay gắt trong các đảng viên và quần chúng cách mạng. Đồng chí Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Xiêm – người học trò trung thành của Nguyễn Ái Quốc, một trong nhiều người nói rằng, trước năm 1930 Nguyễn Ái Quốc chưa phải là đảng viên Đảng Cộng Sản. Trong thư còn nói về sai lầm của Nguyễn Ái Quốc khi hợp nhất các tổ chức cộng sản vào năm 1930, yêu cầu Nguyễn Ái Quốc trong thời gian gần nhất cần viết cuốn sách tự chỉ trích những sai lầm về chính trị của mình.“
- ^ Duiker, tr. 213
- ^ Ban thẩm tra vụ việc Nguyễn Ái Quốc ở Quốc tế Cộng sản, Bá Ngọc, Tạp chí Xưa và Nay số 438 tháng 10/2013, ISSN 868-331X, Hội Sử Học Việt Nam, trang 6, trích “Tháng 02-1936 Ban Thẩm Tra được thành lập, lúc đầu, có hai ý kiến bút phê của lãnh đạo Quốc Tế Cộng Sản: Ý kiến 1, đề nghị Ban Thẩm Tra có các đồng chí: 1. Manuinxki, 2. Krapxki, 3. Hải An, 4. Vương Minh, 5. Barixta, 6. Raimốp. Ý kiến 2, đề nghị gồm các đồng chí: 1. Cônxinna, 2. Hải An, 3. Krapxki, 4. Barixta, 5. Xtipannốp. Đến ngày 19-02-1936, do có nhiều lý do khác nhau, thành phần Ban Thẩm Tra chỉ có các đồng chí: Cônxinna, Hải An và Krapxki. Ban Thẩm Tra nhóm họp và đi đến những kết luận chính như sau: 1. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã mắc một số sai lầm nghiêm trọng trong hoạt động bí mật. Ban Thẩm Tra yêu cầu đồng chí từ nay không để xảy ra những trường hợp tương tự. Đề nghị đồng chí rút kinh nghiệm bài học này trong hoạt động bí mật sau này. 2. Ban Thẩm Tra không tìm ra chứng cứ nghi ngờ nào về sự trung thành chính trị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.3. Hồ sơ vụ việc về Nguyễn Ái Quốc được hủy bỏ. Bản kết luận đã được Krapxki và Hải An ký.“
- ^ Ban thẩm tra vụ việc Nguyễn Ái Quốc ở Quốc tế Cộng sản, Bá Ngọc, Tạp chí Xưa và Nay số 438 tháng 10/2013, ISSN 868-331X, Hội Sử Học Việt Nam, trang 6, trích “Sau kết luận của Ban Thẩm Tra, tưởng chừng vụ việc Nguyễn Ái Quốc đã được giải quyết xong. Nào ngờ, đến tháng 01-1938, khi Nguyễn Ái Quốc tham gia lớp nghiên cứu sinh Viện Nghiên Cứu Các Vấn Đề Dân Tộc Và Thuộc Địa, ban lãnh đạo Viện đề nghị Vụ Tổ Chức Cán Bộ Quốc Tế Cộng Sản xác minh việc Nguyễn Ái Quốc ra khỏi tù và vào Liên Xô như thế nào. Trong thư trả lời Viện Nghiên Cứu, Vụ Tổ Chức Cán Bộ khẳng định: Để giải quyết vụ việc Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Ban Thẩm Tra và đi đến kết luận về sự trung thành chính trị của Nguyễn Ái Quốc; đồng thời đồng chí Radumopva đã trực tiếp gặp Vaillant Couturier và được khẳng định chuyến trở về Liên Xô là do Vaillant tổ chức; hồ sơ vụ việc Nguyễn Ái Quốc đã được Ban Thẩm Tra quyết định hủy bỏ. Sau đó, Nguyễn Ái Quốc mới được tiếp nhận làm nghiên cứu sinh Viện Nghiên Cứu Các Vấn Đề Dân Tộc Và Thuộc Địa.“
- ^ Sophie Quinn-Judge, Ho Chi Minh, the missing years, 1919-1941, 2002, C. Hurst & Co, tr.253
- ^ Duiker, tr. 218
- ^ ‘Tác phẩm giả tưởng’ về Hồ Chí Minh, Vũ Thư Hiên, BBC tiếng Việt, thứ tư, 25 tháng 9, 2013
- ^ Hồ Chí Minh, 1938, Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- ^ a ă Bài 1: Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!
- ^ Bài Khu di tích Pác Bó[liên kết hỏng] trên http://www.caobang.gov.vn cho biết ông qua biên giới tại địa phận xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, tại cột mốc số 108.
- ^ Bài 2: Đây suối Lê-nin, kia núi Mác
- ^ Theo Bác Hồ – hồi kí, NXB Văn học, 2004 có những lớp chỉ huấn luyện trong vài ngày với vài ba học viên.
- ^ Bác Hồ – hồi kí, NXB Văn học, phần kể của Vũ Anh.
- ^ Nguyễn Văn Phùng (trưởng ban biên soạn). Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (giáo trình). NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội. 2004. trang 96.
- ^ Ngày Thành lập Mặt trận Việt Minh ở Pác Bó (15/05/2013)
- ^ Theo Bác Hồ – hồi kí, NXB Văn học, 2004 tấm danh thiếp mà ông sử dụng có dòng giữa được ghi tên “Hồ Chí Minh”, một bên ghi “Tân văn kí giả” (tức là Nhà báo), một bên ghi “Việt Nam-Hoa kiều”.
- ^ Tìm hiểu cuốn Ngục Trung Nhật Ký – BBC Tiếng Việt
- ^ Theo Bác Hồ – hồi kí, phần của Võ Nguyên Giáp và phần của Vũ Anh, trang 268, 218 thì Võ Nguyên Giáp cho rằng: “có lẽ anh Cáp đã nghe lầm ‘sư tờ, sư tờ’ (nghĩa là ‘phải, phải’) thành ‘xử la, xử la’ (nghĩa là ‘chết rồi’)”. Vũ Anh cho rằng: “đồng chí Cáp nghe nhầm câu ‘người đi cùng ông ấy chết rồi’ (Hồ Chí Minh khi bị bắt có đi cùng một người Trung Quốc làm nhiệm vụ dẫn đường) thành ‘ông ấy chết rồi’”.
- ^ Từ Ngục trung nhật ký đến Nhật ký trong tù – Phạm Duy Trưởng
- ^ Why Vietnam ?, Archimedes L.A.Patti, Nxb Đà Nẵng, năm 2008, trang 108, 112
- ^ a ă Why Vietnam ?, Archimedes L.A.Patti, Nxb Đà Nẵng, năm 2008, trang 113
- ^ a ă Quan hệ Việt – Mỹ (1944-1945)
- ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb Đà Nẵng, 2008, trang 113, 114
- ^ Bác Hồ – hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 273, phần do Vũ Anh kể lại.
- ^ Why Vietnam ?, Archimedes L.A.Patti, Nxb Đà Nẵng, năm 2008, trang 130
- ^ a ă Henry A. Prunier, 91, U.S. Soldier Who Trained Vietnamese Troops, Dies, Thời báo New York, ngày 17 tháng 04 năm 2013.
- ^ Maurice Isserman, John Stewart Bowman (2003, 1992), Vietnam War, trang 4-5, ISBN 0-8160-4937-8.
- ^ Bác Hồ – hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 284. Theo lời kể của Võ Nguyên Giáp thì vào một đêm khi có Võ Nguyên Giáp ở bên cạnh, ông có nói những lời như trăng trối rằng “…dù có phải đốt cả Trường Sơn, cũng kiên quyết dành cho được độc lập”.
- ^ John C. Fredriksen, Fighting Elites: A History of U.S. Special Forces: A History of U.S. Special Forces, trang 110, ISBN 1598848119, Nhà xuất bản: ABC-CLIO, 2011
- ^ Maurice Isserman, John Stewart Bowman (2003, 1992), Vietnam War, trang 5, ISBN 0-8160-4937-8.
- ^ David G. Marr, Vietnam 1945: The Quest for Power, trang 287, ISBN 0520212282, University of California Press (ngày 3 tháng 11 năm 1997).
- ^ Maurice Isserman, World War II, Updated Edition, trang 112, ISBN 1438100183, Infobase Publishing, 2009.
- ^ Carol Sheriff, David W. Blight, David M. Katzman, Howard P. Chudacoff, Fredrik Logevall, A People and a Nation: A History of the United States, Volume 2, Brief: A History of the United States. Since 1865, trang 765, Chương 2, ISBN 0547175604, Nhà xuất bản: Cengage Learning
- ^ Theo Duiker, tr. 209 thì trước khi viết ông đã hỏi Dan Phelan, một trung úy Mỹ về đoạn mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ, bởi ông định sẽ đưa vào bản tuyên ngôn của Việt Nam. Còn chính Phelan thì kể lại: “Nhưng thực ra thì có lẽ ông ấy biết về bản Tuyên ngôn còn rõ hơn tôi”. Theo Thiếu tá OSS Archimedes Patti (“Why Vietnam?”, Chương 23) thì Hồ Chí Minh đã hỏi ông về đoạn mở đầu này.
- ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb Đà Nẵng, 2008, trang 608 – 609
- ^ Why Vietnam, Archimedes L.A.Patti, trang 595, Nxb Đà Nẵng, 2008
- ^ Có thể xem nội dung bức thư (bằng tiếng Anh) tại [1]. Bức thư này không được trả lời cũng như không được công bố trước công chúng tới tận năm 1972
- ^ Бухаркин И.В, “Кремль и Хо Ши Мин 1945-1969″, Новая и новейшая история, № 3, 1998, стр. 28.
- ^ SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 8 NGÀY 5 THÁNG 9 NĂM 1945
- ^ SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 30 NGÀY 12 THÁNG 9 NĂM 1945
- ^ Nhớ mãi về bác Bùi Lâm, Tạp chí Kiểm sát
- ^ SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 33A NGÀY 13 THÁNG 9 NĂM 1945
- ^ SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 36 NGÀY 22 THÁNG 9 NĂM 1945
- ^ Bộ Giáo dục và Đào tạo, Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), Lịch sử 12 nâng cao, NXB Giáo dục, Thanh Hóa, 2008. Trang 169.
- ^ Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh chúc mừng Tân Giám mục Lê Hữu Từ.
- ^ Đọc lại những bức thư Bác Hồ gửi giới chức sắc và đồng bào Công giáo Việt Nam
- ^ Tỉnh Bến Tre – Thực dân Pháp gây hấn (23-9-1945), đồng bào Nam bộ đứng lên kháng chiến truy cập 28/12/2012
- ^ Mãi mãi ghi nhớ Quốc hội khoá I (17/05/2011)
- ^ Theo báo Sự thật, số 14 (20-23/1/1946), thì những người bắt cóc Trần Đình Long mặc quần áo Tầu, nói tiếng Việt. Một ủy viên tuyên truyền UBND tỉnh Yên Bái tên Nguyễn Văn Phúc cũng đã bị bắt cóc, về sau người vợ của ông Phúc đến gặp Nguyễn Hải Thần, và được ông đưa đến gặp Vũ Hồng Khanh để xin thả chồng mình. Ông Vũ Hồng Khanh từ chối và nói buột miệng “Ngay đến ông Long gần đây tôi còn chưa cho thả nữa là”.
- ^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên“, NXB Trẻ, lưu chiểu tháng 5 năm 2009, trang 103.
- ^ Trung Quốc và Liên Xô công nhận Việt Nam lần lượt vào các ngày 18 và 20 tháng 1 năm 1950. Nguồn: “Tai bay vạ gió” trong ngoại giao? Những nỗi truân chuyên của Việt Nam trên con đường hội nhập Phong trào Quốc tế Cộng sản (1945–1950), Christopher Goscha của Đại học Québec tại Montréal, đăng tại tạp chí Journal of Vietnamese Studies[liên kết hỏng]
- ^ Cho tới tháng 9 năm 1977, Việt Nam mới được gia nhập Liên hiệp quốc
- ^ Trong các tác phẩm của mình, Trường Chinh phê phán rằng khi chiếm chính quyền tại Hà Nội, việc không chiếm được Kho bạc Đông Dương là một sai lầm nghiêm trọng.
- ^ Theo Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 3, NXB Giáo dục, 2006, trang 62 thì vào thời điểm đó, khoảng 95% dân số Việt Nam “mù chữ”. Cả sản lượng lẫn năng suất lúa của Việt Nam đều rất thấp: tới tận năm 1948, tính trên toàn Bắc Bộ và Liên khu IV, diện tích lúa mùa là 1.030.611 ha và cho sản lượng 1.346.569 tấn; diện tích lúa vụ chiêm chỉ đạt 63.511 ha với sản lượng 78.971 tấn.
- ^ a ă Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – Theo “Tạp chí Cộng sản”
- ^ Bác Hồ – hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 105.
- ^ Lịch sử Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chương IV, Tạp chí điện tử Thanh Niên Việt
- ^ a ă Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb Đà Nẵng, 2008, trang 378
- ^ Bác Hồ – hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 106, phần kể của Nguyễn Lương Bằng.
- ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb Đà Nẵng, 2008, trang 543
- ^ Theo bài “Tai bay vạ gió” trong ngoại giao? Những nỗi truân chuyên của Việt Nam trên con đường hội nhập Phong trào Quốc tế Cộng sản (1945–1950), Christopher Goscha của Đại học Québec tại Montréal, đăng tại tạp chí Journal of Vietnamese Studies[liên kết hỏng] thì khi gặp nhau ở Trung Quốc năm 1950, Lưu Thiếu Kì đã nói với ông rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhận xét hành động này của Việt Nam như sự “xa rời lý tưởng cộng sản”.
- ^ Chu Ân Lai, những năm tháng cuối cùng (1966-1976), NXB Công an Nhân dân, 1996, trang 377 cho biết trong số các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam khi đó, nhiều người như Nguyễn Chánh, Vũ Anh, Nguyễn Lương Bằng, Phùng Thế Tài, Chu Văn Tấn… không có nhiều thời gian được đào tạo tại trường lớp. Ở Trung Hoa có những lãnh đạo cộng sản không những ít được học hành mà trình độ văn hóa cũng rất thấp; một trường hợp tiêu biểu là Nham Kim Sinh – thứ trưởng Bộ Văn hóa thời kì ngay trước Cách mạng Văn hóa. Ông này, theo như nhận xét của Chu Đức thì “Không đọc được mấy chữ to”.
- ^ Hồ Chí Minh: Toàn tập. NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 4, tr. 427-428 [2][liên kết hỏng]
- ^ GS.TS. Nguyễn Lân Dũng (2010). Hồ Chí Minh với trí thức ngoài Đảng. Tạp chí Kiến thức ngày nay số 712. tr. 5–6.
- ^ Hồ Chí Minh: Toàn tập. NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, T.6, tr. 160
- ^ Cecil B. Currey. Chiến thắng bằng mọi giá. NXB Thế giới. Trang 177 -178
- ^ Những uẩn khúc trong cuộc đời ông chủ báo Nam Phong
- ^ Time Magazine, ngày 4 tháng 8 năm 1961
- ^ Ellen Joy Hammer, The Struggle for Indochina, 1940-1955, page 150, Stanford University Press, 1966
- ^ Gullion, memcon, ngày 7 tháng 5 năm 1953, FRUS, 1952–1954, vol. 13, page 553–554
- ^ Dennis J. Duncanson, Government and Revolution in Vietnam, page 212, Oxford University Press, 1968
- ^ Tuy chính quyền của Hồ Chí Minh có sự tham gia của nhiều nhân sĩ Nho học, Huỳnh Thúc Kháng là người duy nhất trong số đó đã từng đỗ đại khoa (tiến sĩ năm 1904).
- ^ Trong Đêm giữa ban ngày, tác giả Vũ Thư Hiên dẫn lại lời bố của mình rằng khi sắp về Hà Nội (tháng 9 năm 1945), Hồ Chí Minh không biết được hết tình hình chính trị mới diễn ra và có hỏi ông Vũ Đình Huỳnh (bố của Vũ Thư Hiên) rằng: “nghe nói cụ Huỳnh (Huỳnh Thúc Kháng) đầu Tây rồi phải không?”.
- ^ Bác Hồ – hồi kí, NXB Văn học, trang 112, phần kể của Nguyễn Lương Bằng.
- ^ Chiến thắng bằng mọi giá, trang 196-197, Cecil B. Currey, Nxb Thế Giới, 2013
- ^ Hồi ký 1925-1964, tập 2: 1945 – 1954, trang 353, Nguyễn Kỳ Nam, Nhật báo Dân Chủ Mới, 1964
- ^ Ban nghiên cứu lịch sử Đảng. Văn kiện Đảng (1945-1954). NXB Sự thật. Hà Nội. 1978, trang 256-260
- ^ Hồ Chí Minh. Toàn tập – Tập 4. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội. 2000. trang 328-330
- ^ Bác Hồ với Trần Canh – vị tướng của ba chiến trường
- ^ Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 3, NXB Giáo dục, 2006, trang 92.
- ^ General Vo Nguyen Giap, Kay Johnson
- ^ Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 3, NXB Giáo dục, 2006, trang 127.
- ^ Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá II Tháng 11-1958
- ^ a ă Tìm hiểu đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh
- ^ Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt: Ðại đoàn kết dân tộc – cội nguồn sức mạnh của chúng ta, có dẫn nguồn từ “Báo Việt Nam Độc lập” ngày 1-2-1942, Hồ Chí Minh toàn tập, tập III, trang 198 và Hồ Chí Minh toàn tập, tập IV, trang 45.
- ^ a ă Kể chuyện Bác Hồ ở Hungary – Website Sở Ngoại Vụ Quảng Nam
- ^ Jules Archer, Ho Chi Minh: Legend of Hanoi, Chapter 9: Between Russian Bear and Chinese Dragon, Bailey Bros.& Swinfen Ltd 1973, ISBN 978-0-561-00153-1, trang 109, trích: …In private negotiations, he managed to win pledges of additional arms and aid from both Peking and Moscou, but adroitly declined their offers to send “volunteer” troops or military advisers…
- ^ Tình bạn giữa Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh – Quân đội nhân dân – Sự kiện và nhân chứng
- ^ BBC, Loạt bài về Lê Duẩn: Kỳ 2: Bắt đầu cuộc thâu tóm quyền lực, Kỳ 3:Cuộc đấu tranh trong nội bộ
- ^ Trong một số lần tiếp xúc ngoại giao, chẳng hạn như khi nói chuyện với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Alexey Nikolayevich Kosygin từ năm 1963, ông nói rằng mình sẽ bàn giao mọi công việc cho Bí thư thứ nhất Lê Duẩn
- ^ 吴光祥。中国医疗组全力救治胡志明主席秘闻。2009年2月12日〔2013年8月27日〕。
- ^ Ngày 7/4: Bác Hồ và nhà triết học Anh Bertrand Russel
- ^ Modern History Sourcebook: President Lyndon Johnson and Ho Chi Minh – Letter Exchange, 1967
- ^ Giữa đợt dưỡng bệnh dài ngày tại Bắc Kinh, ông có quay lại Việt Nam vào tháng 12 năm 1967 chỉ để phê duyệt quyết định về Tổng Tấn công rồi quay lại Bắc Kinh ngay. Nguồn: Duiker., tr 557 (chương 15).
- ^ Bác Hồ với Tết Mậu Thân 1968
- ^ Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đoàn kết vì con người
- ^ Sức tỏa sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh
- ^ TIỂU SỬ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH (1890 – 1969)
- ^ Ho Chi Minh
- ^ a ă â b Ho Chi Minh – A Life, William Duiker, tr. 562
- ^ Thế giới trìu mến gọi tên Người…[liên kết hỏng], dẫn nguồn từ “Một giờ với đồng chí Hồ Chí Minh” (NXB Thanh Niên-1975); Tạp chí Tuyên truyền của Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương, 1990, số Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Bác.
- ^ Theo Chuyện khởi thảo điếu văn lễ truy điệu Bác 35 năm trước Nguyên khởi, điếu văn này đã được soạn thảo hai lần nhưng không được Bộ Chính trị thông qua, sau đó bản thảo được viết bởi Đống Ngạc và Đậu Ngọc Xuân – hai thư kí riêng của Lê Duẩn. Văn bản cuối cùng được thông qua sau 4 lần sửa chữa với sự bàn soạn và góp ý của các thành viên trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng.
- ^ Di chúc Hồ Chí Minh trên trang web Đảng Cộng sản Việt Nam[liên kết hỏng]
- ^ Di chúc Hồ Chí Minh,bản viết tay
- ^ Vài nét về gìn giữ thi hài và xây dựng lăng Bác
- ^ Thông báo số 151-TB/TW ngày 19/8/1989 của Bộ Chính trị BCH, dẫn tại Lê Kiên (17 tháng 5 năm 2009). “Bác dặn trồng cây thay vì dựng bia đá, tượng đồng”. Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh (trang TTĐT). Truy cập 14 tháng 4 năm 2013.
- ^ Việc chuẩn bị giữ gìn thi hài Hồ Chí Minh đã được Bộ chính trị họp bàn và ra kế hoạch từ tháng 5 năm 1967.
Nguồn: 40 năm ngày Bác đi xa
- ^ Theo lời kể của con trai cả của Lê Duẩn, Lê Duẩn đã nói với Hồ Chí Minh về việc thi hài ông nên được bảo quản lâu dài để đồng bào trong Nam và cả nước được đến thăm, và Hồ Chí Minh không nói gì.
Nguồn: Những mẩu chuyện nhỏ về Bác Hồ và Ba tôi, SGGP, 20/4/2008
- ^ Việc xây lăng chỉ được khởi sự từ năm 1973, tức là 4 năm sau khi ông qua đời. Nhớ anh Lê Đức Thọ.
- ^ Hoàng Tranh (Phó Giáo sư, nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Quảng Tây, Trung Quốc), “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, tạp chí Đông Nam Á Tung hoành, số tháng 12 năm 2001, xuất bản tại Nam Ninh, Trung Quốc
- ^ Pierre Brocheux (2007). Ho Chi Minh: A Biography. Claire Duiker. Cambridge University Press. tr. 39–40.
- ^ Pierre Brocheux, Ho Chi Minh: A Biography, page 39-40, translate by Claire Duiker, 2007, Cambridge University Press
- ^ Hoàng Tranh (Phó Giáo sư, nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Quảng Tây, Trung Quốc), “Hồ Chí Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, tạp chí Đông Nam Á Tung hoành, số tháng 12 năm 2001, xuất bản tại Nam Ninh, Trung Quốc
- ^ a ă â 胡志明和他的中国夫人曾雪明, Foreign Affairs Office of Shandong Provincial People’s Government
- ^ a ă Hồ Chí Minh – Những năm chưa biết đến,BBC online, 02 Tháng 9 2003
- ^ Sophie Quinn-Judge (2002). Ho Chi Minh: The Missing Years, 1919-1941. University of California Press. tr. 183.
- ^ Ho, page 16, David Halberstam, Rowman & Littlefield, 2007
- ^ Bá Ngọc, Trần Minh Siêu: Chuyện kể bên mộ bà Hoàng Thị Loan, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2007, tr. 74, Ông Nguyễn Sinh Khiêm hỏi em mình ngày 3/11/1946: “Tôi muốn hỏi riêng chú, việc gia đình riêng của chú ra sao ?”. Hồ Chí Minh trả lời: “Cảm ơn anh, em chưa bao giờ dám nghĩ đến việc này, đến nay đã tu, tu trót, qua thì thì thôi. Em không phải là người tu hành nhưng vì việc nước quên việc nhà.“
- ^ Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 40, Trích thư Hồ Chí Minh chia buồn với bác sĩ Vũ Đình Tụng: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái…“
- ^ Hồ Chí Minh, Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 171-172, trích: “Ngài đã hỏi, tôi xin dẹp sự khiêm tốn lại một bên mà đáp một cách thực thà: tôi không nhà cửa, không vợ, không con, nước Việt Nam là đại gia đình của tôi.“
- ^ Vũ Đình Hoè, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hoá Thông tin, Trung tâm Văn hoá Đông Tây, Hà Nội, 2001, tr. 151, Trích: “Trong những buổi vui vẻ như vậy, nhiều người đề nghị Hồ Chí Minh lấy vợ. Có lần Bác nói: “Các chú hỏi bao giờ Bác lấy vợ, phải không? Có hỏi thì có trả lời nhé: Không lâu nữa đâu! Bao giờ dân ta toàn thắng, Bắc – Nam sum họp một nhà!“” và đoạn luật sư Phan Anh đề nghị HCM lập gia đình để có người săn sóc: “Ông bảo thế tôi không phải là con người à? Tôi sống như mọi người mà. Có phải thần, thánh gì đâu Nhưng ông thấy đấy: việc nước bề bộn như vậy!“
- ^ Một bức thư riêng của Hồ Chủ tịch, Tạp chí Hướng nghiệp & Hoà nhập
- ^ “Những sinh nhật giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Truy cập 25/06/2011.
- ^ “Chuyện về những bữa cơm của Bác Hồ.”. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2010.
- ^ “Sinh hoạt đời thường của Bác Hồ: Đậm đà dấu ấn quê hương”. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2010.
- ^ Clark D. Neher, Southeast Asia: crossroads of the world, trang 166
- ^ a ă Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, tập 10, trang 128
- ^ a ă Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh trong công tác lãnh đạo
- ^ Hồ Chí Minh ‘đi trước’ UNESCO?, theo bài viết của Giáo sư Trần Văn Nhung[liên kết hỏng]
- ^ a ă BBC Quan điểm của David Thomas về Hồ Chí Minh
- ^ Nguyễn Đăng Lâm (19 tháng 5 năm 2011). “42 năm người Kor ở Trà Bồng mang họ Bác Hồ”. baotintuc.vn. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2011.
- ^ Bok Hồ trong trái tim người Cơ Tu, Báo Biên phòng, 29.02.2008, truy nhập ngày 18/11/2008.
- ^ Tấm lòng Cà Mau với Bác Hồ, Đất Mũi Online, 19/05/2007, truy nhập ngày 18/11/2008
- ^ Tổ quốc và Bác Hồ trong lòng bà con Việt kiều[liên kết hỏng], Hà nội mới, 06/09/2007, truy nhập ngày 18/11/2008.
- ^ Ngôi đền thiêng ở Pakse[liên kết hỏng], Tuổi Trẻ, 28/03/2007, truy nhập ngày 18/11/2008
- ^ Nguyễn Quang Thiều, Về những người đặc biệt trong một gia đình họ Mai (Phần I), Viettimes, 20/12/2007, VietNamNet, truy nhập 18/11/2008
- ^ “Thousands of Vietnamese protest in California at Ho Chi Minh portrait”. BBC. 23 tháng 2, 1999. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2008.
- ^ Don Terry (21 tháng 2, 1999). “Display of Ho Chi Minh Poster Spurs Protest and Arrests”. The New York Times. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Vietnamese shopkeeper with Ho Chi Minh display vows to fight eviction”. CNN. Ngày 19 tháng 2 năm 1999. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2008.
- ^ a ă Associated Press (20 tháng 3 năm 2000). “Hundreds protest Ho Chi Minh exhibit in Oakland”. CNN. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2008.
- ^ Chip Johnson (16 tháng 3, 2000). “Ho Chi Minh Art Exhibit Draws Fire”. San Francisco Chronicle. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Phóng sự ảnh mới tại Nam California: Cộng đồng Việt Nam chống Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Minh Triết”. Báo Người Việt. 23 tháng 6 năm 2007.
- ^ NTT (1 tháng 5 năm 2005). “Washington DC: Ngày bận rộn của 22 cộng đồng Việt”. Báo Người Việt.
- ^ Associated Press (23 tháng 6 năm 2005). “Vietnam Vet interrupts PM’s speech”. Taipei Times. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2008.
- ^ My-Thuan Tran (12 tháng 2 năm 2008). “Vietnamese Americans protest published photo”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2008.
- ^ City of Berkeley. “Parks: Willard Park – City of Berkeley, CA”. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2009.
- ^ “Lễ thượng cờ Việt Nam tại San Francisco nhân 2/9”. VietnamPlus, TTXVN.
- ^ Thanh Hương (19 tháng 5 năm 2013). “Tượng Bác trang nghiêm trên khắp thế giới”. Infonet. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2013.
- ^ Văn Ngọc Hoa (15 tháng 5 năm 2013). “Những di tích vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh trên thế giới”. qdnd.vn. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2013.
- ^ William J. Duiker, Ho Chi Minh, A Life, 2000: More than 15000 visit the mausoleum each week
- ^ Tạm ngừng viếng lăng Bác từ 7/9
- ^ “Tượng đài và các công trình tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên thế giới”. Truy cập 25/06/2011.
- ^ “”Không gian Hồ Chí Minh” ở Paris”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2013. Truy cập 25/06/2011.
- ^ “”Không gian Hồ Chí Minh” trên đất Pháp”. Truy cập 25/06/2011.
- ^ [3] Tượng đài và các công trình tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên thế giới]
- ^ a ă UNESCO, Records of the General Conference, 20 October to 20 tháng 11 năm 1987, tr. 135
- ^ a ă UNESCO đã vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh như thế nào? Phạm Công Khái (Bảo tàng Hồ Chí Minh), VietNamNet, Cập nhật lúc 17:11, Thứ Hai, 17/05/2010 (GMT+7)
- ^ bản tin RFA 19-5-2008
- ^ UNESCO có vinh danh ông Hồ Chí Minh hay không ?, RFA
- ^ Trao tặng bản Nghị quyết UNESCO tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh Hoàng Hoa, 6:21 PM, 02/10/2010
- ^ Stanley Karnow (13 tháng 4 năm 1998). “TIME 100: Ho Chi Minh”. Tuần báo Time. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2007.
- ^ Dương Trung Quốc (30 tháng 6 năm 2005). “Chủ tịch Hồ Chí Minh và nước Mỹ”. Báo điện tử TUANVIETNAM.NET. Truy cập 26 tháng 3 năm 2013.
- ^ Ho Chi Minh – Top 10 Political Prisoners – TIME
- ^ Chỉ thị Số: 06-CT/TW VỀ TỔ CHỨC CUỘC VẬN ĐỘNG “HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH”, BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN Việt Nam
- ^ Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 4(335) năm 2004, trang 68, Lâm Xuân Đinh
- ^ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh – Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
- ^ Trích thư trả lời Tổng thống Mỹ Johnson
- ^ Lời kêu gọi trước thời cơ Cách mạng tháng 8-1945
- ^ Khi đọc tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh ngừng lại để hỏi người dân có nghe rõ lời ông đọc hay không.
- ^ Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, tr. 161, khi trả lời các nhà báo nước ngoài vào tháng 1 năm 1946.
- ^ Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh – biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam
- ^ Hồ Chí Minh: Toàn tập. NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 4, tr. 427-428. [4][liên kết hỏng]
- ^ Trích trong bài nói chuyện tại buổi Lễ khai mạc trường Đại học Nhân dân Việt Nam vào ngày 19 tháng 1 năm 1955. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, trang 454-455.
Sau này câu nói của Tổng thống Hoa Kỳ John Kennedy trong diễn văn nhậm chức ngày 20 tháng 1 năm 1961 có ý tứ giống câu này. Nguyên văn câu nói của Kennedy: Ask not what your country can do for you – Ask what you can do for your country. (Đừng hỏi Tổ quốc có thể làm gì cho bạn, mà hãy hỏi bạn có thể làm gì cho Tổ quốc)
- ^ Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.171
- ^ Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, 2010-07-05, Tạp chí Cộng Sản
- ^ Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, trang 216, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2000
- ^ Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, trang 15, Trần Dân Tiên, Nxb Trẻ, 2011
- ^ Báo Ogoniok, số 39, ngày 23-12-1923.
- ^ Báo Nhân dân, ngày 18-5-1965.
- ^ Sự vĩ đại chỉ trường tồn khi lòng dạ trong sáng, Tạp chí xây dựng Đảng, Trần Đình Huỳnh
- ^ Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin – Tuổi Trẻ Online
- ^ Báo La Vie oùvrière, số ra ngày 16-5-1924
- ^ Báo Việt Nam Độc lập ngày 1/2/1942
- ^ “So Khoa Hoc va Cong Nghe Tien Giang”. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
- ^ Bác Hồ – hồi kí, NXB Văn học, 2004, phần kể của Nguyễn Lương Bằng, trang 98, nói với các cộng sự trước khi quân của Tưởng Giới Thạch nhập Việt Nam.
- ^ Hồ Chí Minh toàn tập,Tập 4, NXBCTQG. Hà Nội.1995. tr.303
- ^ Nói với Jean Sainteny – Ủy viên Pháp ở miền bắc Ðông Dương – trong quá trình đàm phán trước ngày Toàn quốc kháng chiến.
- ^ gửi đồng bào Nam Bộ ngày 26-9-1945
- ^ Trả lời phóng viên David Schoenbrun của báo New York Times trong cuộc phỏng vấn ngày 11 tháng 9 năm 1946 tại Paris.
- ^ Trả lời phóng viên David Schoenbrun của báo New York Times trong cuộc phỏng vấn ngày 11 tháng 9 năm 1946 tại Paris.
Duiker, William, Ho Chi Minh: A Life, Hyperion, 2000, tr. 379
- ^ “Bác Hồ khuyên thanh niên, Lê Xuân Đức, Báo Thanh Hóa”. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2013.
- ^ “Thanh niên xung phong và bài thơ của Bác tặng trở thành “Đoàn ca”, Báo Đại Đoàn Kết”. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2013.
- ^ “Lịch sử ra đời bài Đoàn ca”. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2013.
- ^ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thực hành cần, kiệm, liêm, chính
- ^ Kiến giải của một người Nhật về ông Hồ, BBC Vietnamese Online
- ^ Văn hóa Việt Nam – tìm tòi và suy ngẫm, Trần Quốc Vượng, NXB Văn học, trang 925. Trần Quốc Vượng ghi chép đoạn này dựa vào hồi ký của Phan Hiền. Cuốn hồi ký của Phan Hiền được viết ngay sau khi Hồ Chí Minh qua đời nhưng cho tới nay vẫn chưa được xuất bản. Lời nói này của Hồ Chí Minh có hàm ý rất rõ ràng về ý định, hay ít nhất là mong muốn của ông trong việc xây dựng một học thuyết tư tưởng riêng cho cách mạng Việt Nam- Chủ nghĩa Mác-Lênin Việt Nam và nội hàm của học thuyết này sẽ nhấn mạnh vào tính nhân bản, nhân văn.
- ^ Các cuộc đàm phán Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris, Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ biên soạn, NXB Công an Nhân dân, 2002, trang 197.
- ^ Các cuộc đàm phán Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris, Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ biên soạn, NXB Công an Nhân dân, 2002, trang 127; nói trong khi tiếp thứ trưởng ngoại giao Ba Lan Mikhailowski vào ngày 6 tháng 1 năm 1966.
- ^ Các cuộc đàm phán Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris, Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ biên soạn, NXB Công an Nhân dân, 2002, trang 187.
- ^ Các cuộc đàm phán Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris, Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ biên soạn, NXB Công an Nhân dân, 2002, trang 191.
- ^ Các cuộc đàm phán Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris, Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ biên soạn, NXB Công an Nhân dân, 2002, trang 101.
- ^ Thư gửi tới nhân dân Thụy Điển và Italia, những nơi đang diễn ra nhiều cuộc biểu tình chống cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam
- ^ Các cuộc đàm phán Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris, Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ biên soạn, NXB Công an Nhân dân, 2002, trang 150.
- ^ Theo tư liệu của ông Trịnh Ngọc Thái, thư ký của Xuân Thủy – trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris; dẫn lại trong [5][liên kết hỏng]
- ^ Trích cuộc nói chuyện với tướng Phùng Thế Tài vào mùa xuân năm 1968
- ^ ghi ở tựa sách Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước
- ^ Sổ tay đội viên Đội Thiếu niên tiền phong Việt Nam. NXB Kim Đồng. Hà Nội. 1968. trang 1.
- ^ Bách khoa toàn thư Việt Nam Con rồng tre. Truy cập 2008-08-21
- ^ Có thể xem được những truyện ngắn này trên trang của Bộ Văn hóa Thông tin.
- ^ “Nhận thức và ứng xử đối với vấn đề tôn giáo”. Còn nhớ những quan điểm rất rộng mở của Trần Dân Tiên/Hồ Chí Minh: “Khổng Tử, Giê-su, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải có cùng một điểm chung đó sao.”. Tạp chí Cộng sản Điện tử. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2007.
- ^ Kim Nhật. “Sách báo – tài sản vô giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của Trần Dân Tiên (một bút danh của Bác) cho biết: “Thường thường, ông chỉ làm việc nửa ngày; làm buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều đi đến thư viện“. Báo Nghệ An điện tử. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2007.
- ^ Hà Minh Đức, Tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học Xã hội (Hà Nội, 1985), trang 132: “…Đáp lại tình cảm mong muốn của đồng bào, và của bạn bè trên thế giới, Hồ Chủ tịch với bút danh Trần Dân Tiên đã viết tác phẩm ‘Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch’…“
- ^ Cựu đại tá Bùi Tín nói về ông Hồ Chí Minh: “Nhân dân, tờ báo của Đảng Cộng sản, nói rõ là ông Hồ trong cuộc đời đã dùng đến hơn 30 bí danh khác nhau, trong đó có bí danh Trần Dân Tiên, và khẳng định rõ rằng cuốn ‘Những mẩu chuyện về đời sống của chủ tịch HCM’ là do chính ông Hồ viết ra.“
- ^ Theo Lady Borton, Piece of Uncle Ho history surfaces in London[liên kết hỏng] (bài đăng trên thông tấn xã Việt Nam),
Ho Chi Minh had used the pseudonym T. Lan and the voice of a cadre accompanying President Ho in tháng 9 năm 1950 to the Border Campaign for Stories Told on the Trail
Hồ Chí Minh đã dùng bút danh T. Lan và giọng của một cán bộ đi cùng Hồ Chủ Tịch vào tháng 9 năm 1950 trong Chiến dịch Biên giới để viết Vừa đi đường vừa kể chuyện.
- ^ Sổ tay tra cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Ngọc Liên chủ biên, NXB Hải Phòng, 1998, trang 142: “T. Lan, bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các bài viết của Người, đăng rải rác trong các báo Nhân Dân từ những năm 1955 cho đến năm 1969 và quyển sách “Vừa đi đường vừa kể chuyện“.
- ^ Lady Borton (Thanh Hảo dịch từ bản tiếng Anh) Người đã vượt qua hoạn nạn nhờ khả năng nhập vai
- ^ “Tìm hiểu về Chủ tịch Hồ Chí Minh: NHỮNG TÊN GỌI, BÍ DANH, BÚT DANH CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2011.
- ^ “Tên gọi Hồ Chí Minh có từ bao giờ?”. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2011.
- ^ Bản thảo của Bác Hồ được đề cử là Di sản tư liệu thế giới, Phí Thị Mùi (Bảo tàng Hồ Chí Minh), Báo Thể thao và Văn hóa,11/4/2009.
- ^ The Ballad of Ho Chi Minh
- ^ Bác ơi tại Tuổi trẻ Online.
- ^ Chúc tụng Bác Hồ
- ^ Xung quanh cuốn ‘Đỉnh cao chói lọi, Giải thích lý do vì sao lựa chọn tên cuối tiểu thuyết là ‘Đỉnh cao chói lọi’.
- ^ Phỏng vấn nhà văn Dương Thu Hương
- ^ “Những bức huyết hoạ về Bác Hồ kính yêu” (Thông cáo báo chí). Thái Hanh, báo Lao Động. Số 135 08:50:03 – 17.05.2005. Bản gốc lưu trữ 17/05/2005 18:44 GMT+7. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2013.
- ^ SGGP Online, HỒ CHÍ MINH – NGÀY NÀY NĂM ẤY – Ngày 22 tháng 3: Điện Biên Phủ – “Stalingrad ở Đông Dương” 22/03/2009, 01:22 (GMT+7), D.T.Q và nhóm cộng sự
Liên kết ngoài
Diễn văn của Hồ Chí Minh
Tác phẩm của Hồ Chí Minh
Viết về Hồ Chí Minh
- Ngô Tự Lập (2004), “Về thực tiển luận nhân đạo Hồ Chí Minh và nhiệm vụ đổi mới Đảng hiện nay” truy cập 7/4/2015
- Sophie Quinn-Judge, Ho Chi Minh: The Missing Years 1919-1941 , University of California Press, 2002. ISBN 0520235339
- Bản dịch sang tiếng Việt có thể lấy xuống tại đây: Hồ Chí Minh, những năm chưa biết đến , Dân Luận
- Clark D. Neher, Southeast Asia: crossroads of the world, Southeast Asia Publications, Center for Southeast Asian Studies, Northern Illinois University, 2000. ISBN 1-891134-06-X.
- Bác Hồ kính yêu
- Tiểu sử Hồ Chí Minh trên website của Bộ Ngoại giao Việt Nam
- Trang đặc biệt của đài BBC: Hồ Chí Minh – Huyền thoại và Di sản, 19.05.1890 – 2005
- Lời truyền miệng dân gian về thân thế của Hồ Chí Minh, Trần Quốc Vượng kể lại.
- Cuộc gặp gỡ với người suốt đời chờ đợi thần tượng Nguyễn Tất Thành
- Chuyên đề kỷ niệm 110 năm sinh nhật Bác – báo VDC[liên kết hỏng]
- David Thomas và Charles Fenn Ho Chi Minh – A potrait – (Sách nghệ thuật với số bản in giới hạn).
- Ngô Tự Lập (14 tháng 5 năm 2005). “Nguyễn Ái Quốc và văn học Pháp ngữ”. Báo Tiền Phong online. Truy cập 26 tháng 3 năm 2013.
- Tìm hiểu về Chủ tịch Hồ Chí Minh: NHỮNG TÊN GỌI, BÍ DANH, BÚT DANH CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Những người từng gặp Hồ Chí Minh kể về ông
|
Sự kiện |
|
|
|
Tổ chức |
|
|
Các lãnh đạo khởi nghĩa |
|
|
Các nhà văn yêu nước |
|
|
Các nhà cách mạng Việt Nam |
|
|
Vua nhà Nguyễn |
|
|
Bộ máy cai trị Pháp |
|
|
Người cộng tác |
|
|
Thể loại:
Việt Minh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Việt Nam độc lập đồng minh (tên chính thức trong nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương[2][3][4]), còn gọi là Việt Nam độc lập đồng minh hội[5], gọi tắt là Việt Minh, là liên minh chính trị do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập vào ngày 19 tháng 5 năm 1941 với mục đích công khai là “Liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật – Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.[6]
Do Việt Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam xem là một hình thức mặt trận dân tộc thống nhất ở Việt Nam nên còn được gọi là Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, Mặt trận Việt Minh.[7][8][9] Mặt trận dân tộc thống nhất (Hán văn: 民族統一戰線; phiên âm Hán Việt: dân tộc thống nhất chiến tuyến), còn gọi là mặt trận dân tộc (民族陣線 dân tộc trận tuyến), là mặt trận thống nhất do các dân tộc, các giai cấp, các đảng phái quốc nội kết thành nhằm tiến hành cách mạng dân tộc, chống lại sự xâm lược và áp bức của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân.[10].
Trước đó, đã có một tổ chức chính trị chống đế quốc của người Việt Nam ở nước ngoài có tên gọi tương tự.[11][cần số trang] được thành lập năm 1936 ở Nam Kinh (Trung Quốc) là Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội do Hồ Học Lãm đăng ký.[12]
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố “giải tán”, nó là một tổ chức chính trị tham gia bầu cử và nắm chính quyền, là thành viên của Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, sau lại tách ra, tồn tại đến năm 1951.
Trong cuộc chiến với người Pháp, Việt Minh là một vũ khí chính trị hiệu quả do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập nhằm thu hút mọi tầng lớp người dân, kể cả những người không Cộng sản tham gia chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.[13]
Thành lập
Tháng 10/1940, tại Quế Lâm, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc lấy danh nghĩa Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội gọi tắt là Việt Minh do Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần và một số chính trị gia khác thành lập năm 1936, đồng thời mời ông Hồ Học Lãm đứng ra chủ trì để các đảng viên cộng sản Việt Nam tại Trung Quốc có danh nghĩa hợp pháp để hoạt động. Chủ trương này xuất phát từ chỗ Việt Minh là một tổ chức không phải là cộng sản và người sáng lập của tổ chức này là Hồ Học Lãm có quan hệ tốt với Nguyễn Ái Quốc[12]. Những đảng viên cộng sản Việt Nam giới thiệu với Lý Tề Thâm, chủ nhiệm hành dinh khu Tây Nam Trung Hoa Quốc dân Đảng, rằng Việt Minh là tổ chức chính trị lớn bên cạnh Đảng Cộng sản Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông Dương có ảnh hưởng trong giai cấp công nhân thành thị còn Việt Minh hoạt động chủ yếu trong các tầng lớp trên ở nông thôn[12]. Người đồng sáng lập Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội là Nguyễn Hải Thần tuy không đồng ý với việc người cộng sản lợi dụng danh nghĩa Việt Minh để hoạt động nhưng vẫn hoạt động trên danh nghĩa Việt Minh.[12].
Trước tình hình Thế chiến thứ hai ngày càng lan rộng và ác liệt, đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định về nước. Hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng của Đảng Cộng sản Đông Dương, họp vào cuối tháng 4 năm 1941, dưới sự chủ tọa của Hoàng Văn Thụ và Vũ Anh, đã khẳng định công tác xây dựng thí điểm các đoàn thể cứu quốc đạt kết quả tốt, chứng tỏ chủ trương hoạt động trên danh nghĩa Việt Minh của Nguyễn Ái Quốc là hoàn toàn đúng đắn.
Sau một thời gian nắm tình hình và chuẩn bị, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941 trong rừng Khuổi Nậm, thuộc Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Hội nghị đã xác định cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng[14] và chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia.[15] Ngoài ra, hội nghị cũng hoàn chỉnh hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được đề ra từ hội nghị VI vào tháng 11 năm 1939 là nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.[16] Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, vào ngày 19 tháng 5 năm 1941, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, thay cho Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản Đế Đông Dương (thành lập theo Quyết nghị của Hội nghị trung ương 6 – khóa 1, tháng 11 năm 1939).[1]
Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8 bế mạc, một đại hội (ngày 19-5-1941) gồm đại diện đảng Cộng sản và các tổ chức quần chúng thành lập chính thức Việt Minh.
Ngoài Đảng Cộng sản, các tổ chức tham gia lần lượt có (thời gian đầu): Đảng Cách mệnh An Nam, Việt Nam Quốc dân Cách mệnh Đảng, Đảng Quốc gia Cách mệnh An Nam, Phục quốc Hội, Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội, Đảng Đại Việt Quốc xã, Đảng Hưng Việt, Đảng Đại Việt, Việt Cách…[17]
Theo báo Cứu quốc “nhà đại ái quốc Hồ Chí Minh, ròng rã ba mươi năm nay bị mật thám thuộc địa truy nã, từ trong bóng tối nhảy ra, có một nhãn quan chính trị hết sức minh mẫn, ông đề nghị với người Pháp ở Đông Dương lập một mặt trận chung chống phát xít. Việt Minh, hay là mặt trận chung chống phát xít dành độc lập, ra đời” nhưng chính quyền thuộc địa về phe phát xít[18].
Cương lĩnh
Tháng 9 năm 1941, văn kiện Chương trình Việt Minh kèm theo điều lệ của một số hội cứu quốc đã được soạn thảo, coi như phụ lục của Nghị quyết hội nghị tháng 5 năm 1941. Ngày 25 tháng 10, Tổng bộ Việt Minh chính thức Chương trình Việt Minh để phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Văn kiện này nhấn mạnh tới những mục tiêu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc:[19]
- Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập
- Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do
Chương trình của Việt Minh được Nguyễn Ái Quốc soạn thành một bài thơ dài theo thể song thất lục bát gồm 212 câu và được Bộ tuyên truyền Việt Minh xuất bản. Tháng 8 năm 1942, Tòa soạn báo Việt Nam độc lập phát hành cuốn Ngũ tự kinh (kinh 5 chữ) dùng văn vần để phổ biến chương trình của Việt Minh.[19] Ngày 15 tháng 3 năm 1944, Bộ Tuyên truyền Cổ động Việt Minh cho in một tập sách bao gồm: Tuyên ngôn, Chương trình (đã được bổ sung) và Điều lệ của Mặt trận Việt Minh.[20]
Chủ trương cụ thể: – Chủ trương liên hiệp hết thảy các từng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp – Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam Độc lập Đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao Độc lập Đồng minh và Cao Miên Độc lập Đồng minh để cùng thành lập Đông Dương Độc lập Đồng minh hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. – Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng nǎm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra sẽ thi hành những nhiệm vụ như sau:
- Chính trị
- Phổ thông đầu phiếu vô luận nam nữ hễ ai từ 18 tuổi trở lên được quyền bầu cử, ứng cử.
- Ban hành các quyền tự do dân chủ như: tự do xuất bản, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại trong xứ và xuất dương.
- Tổ chức Việt Nam nhân dân cách mạng quân và võ trang dân chúng để thẳng tay trừng trị bọn Việt gian phản quốc, giữ vững chính quyền cách mạng.
- Tịch thu tài sản của đế quốc Pháp, Nhật và bọn Việt gian phản quốc.
- Toàn xá chính trị phạm và thường phạm.
- Nam nữ bình quyền.
- Tuyên bố các dân tộc được quyền tự quyết.
- Liên lạc mật thiết với các dân tộc thiểu số và nhất là Tàu, Ấn Độ, Cao Ly.
- Kinh tế
- Bỏ thuế thân và các thuế do Pháp, Nhật đặt ra, lập một thứ thuế rất nhẹ và công bằng.
- Quốc hữu hoá ngân hàng của đế quốc Pháp, Nhật, lập nên quốc gia ngân hàng thống nhất.
- Mở mang kỹ nghệ, giúp đỡ thủ công nghiệp làm cho nền kinh tế quốc gia được phát triển.
- Dẫn thuỷ nhập điền, bồi đắp đê điều làm cho nền nông nghiệp được phồn thịnh.
- Cho dân chúng tự do khai khẩn đất hoang có chính phủ giúp đỡ.
- Quan thuế độc lập.
- Mở các đường giao thông như đường sá, cầu cống, v.v..
- Vǎn hoá
- Huỷ bỏ giáo dục nô lệ, lập nền quốc dân giáo dục, cưỡng bức giáo dục đến bực sơ đẳng, cho các dân tộc được quyền dùng tiếng mẹ đẻ mình, phổ thông trong việc giáo dục mình.
- Lập các trường chuyên môn quân sự, chính trị, kỹ thuật dể đào tạo các lớp nhân tài.
- Giúp đỡ và khuyến khích các hạng trí thức để họ được phát triển tài nǎng của họ.
- Xã hội
- Thi hành ngày làm tám giờ.
- Giúp đỡ cho gia đình đông con.
- Lập ấu trĩ viện để chǎm nom trẻ con.
- Lập nhà diễn kịch, chớp bóng, câu lạc bộ để nâng cao trình độ tri thức của nhân dân.
- Lập nhà thương, nhà đẻ cho nhân dân.
- Ngoại giao
- Huỷ bỏ tất cả các hiệp ước mà Pháp đã ký bất kỳ với nước nào.
- Tuyên bố các dân tộc bình đẳng và hết sức giữ hoà bình.
- Kiên quyết chống tất cả các lực lượng xâm phạm đến quyền lợi của nước Việt Nam.
- Mật thiết liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới.
- Đối với các lớp nhân dân
- Công nhân: Ngày làm tám giờ, định lương tối thiểu, công việc như nhau thì tiền lương ngang nhau. Cứu tế thất nghiệp xã hội, bảo hiểm, cấm đánh dập, chửi mắng thợ, thủ tiêu giấy giao kèo giữa chủ và thợ, công nhân già có lương hưu trí.
- Nông dân ai cũng có ruộng đất để cày cấy, giảm địa tô, cứu tế nông dân trong những nǎm mất mùa.
- Binh nhân: Hậu đãi những người có công giữ gìn Tổ quốc phụ cấp cho gia đình họ được đầy đủ.
- Học sinh: Bỏ học phí, bỏ giấy khai sinh, hạn tuổi, giúp đỡ học sinh nghèo.
- Phụ nữ: Đàn bà được bình đẳng với đàn ông về mọi phương diện kinh tế, chính trị, xã hội, vǎn hoá.
- Thương nhân: Bỏ ba tǎng môn bài và các thứ thuế khác do Pháp đặt ra.
- Viên chức: Hậu đãi cho xứng đáng với công học tập.
- Những người già và tàn tật được chính phủ chǎm nom cấp dưỡng.
- Nhi đồng được chính phủ chǎm nom về trí dục và thể dục.
- Đối với Hoa kiều được chính phủ bảo đảm tài sản và coi như tối huệ quốc.
Tổ chức
Việt Minh cũng công bố luôn Tuyên ngôn và Điều lệ, nói rõ tôn chỉ, mục đích của mình:”Liên hiệp hết thảy tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật-Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[21]” Tôn chỉ đó đã quy định điều kiện gia nhập Việt Minh:”Việt Minh kết nạp từng đoàn thể, không cứ đảng phái, đoàn thể nào của người Việt Nam hay của các dân tộc thiểu số sống trong nước Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tôn giáo và xu hướng chính trị, hễ thừa nhận mục đích, tôn chỉ và chương trình của Việt Minh và được Tổng bộ Việt Minh thông qua, thời được gia nhập Việt Minh.[22]”
Về tổ chức, Mặt trận có một cơ chế riêng, khác hẳn với cơ chế tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương. Về hệ thống tổ chức, ở các xã có Ban chấp hành Việt Minh do do các đoàn thể Việt Minh ở làng hay xã cử ra; tổng, huyện (hay phủ, châu, quận), tỉnh, kì có Ban chấp ủy Việt Minh cấp ấy; Việt Minh toàn quốc có Tổng bộ.[16] Ngoài những đoàn thể cứu quốc có tính chất chính trị, cách mạng rõ rệt (như Hội công nhân cứu quốc, Hội nông dân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc,…) còn có những đoàn thể không có điều lệ, hoạt động công khai và bán công khai như Hội cứu tế thất nghiệp, Hội tương tế, Hội hiếu hỉ, nhóm học Quốc ngữ, nhóm đọc sách, xem báo,…[23] Chỉ thị về công tác của Ban chấp hành Trung ương ngày 1 tháng 12 năm 1941 đã chỉ rõ: “Cần phải chú ý không nên dùng phương pháp Đảng mà tổ chức quần chúng, vì Đảng là một tổ chức gồm những phần tử giác ngộ nhất, hăng hái, trung thành nhất, hoạt động nhất của vô sản giai cấp. Tổ chức của Đảng cần phải chặt chẽ và nghiêm ngặt. Còn những tổ chức quần chúng phải rộng rãi, nhẹ nhàng”.[24]”
Tổng bộ Việt Minh theo một tài liệu của Mỹ, từ 6/1945 đến giữa 1946 có Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh và Hồ Tùng Mậu, không có Chu Văn Tấn và Trần Đăng Ninh thành viên trong các ủy ban quan trọng, và Lê Thanh Nghị và Văn Tiến Dũng, trong ủy ban quân sự cách mạng.[cần dẫn nguồn]
Mối quan hệ với Đảng Cộng sản Đông Dương
Trong quan hệ với Việt Minh, Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định: “Đảng ta cũng là một bộ phận trong mặt trận phản đế Đông Dương, bộ phận trung kiên và lãnh đạo”[25]“, là “một bộ phận linh động nhất trong Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật-Pháp.[26]
Ngày 11/11/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán khi Pháp, Trung hoa dân quốc và các đồng minh của họ muốn tiêu diệt đảng, đi vào hoạt động bí mật và thành lập tổ chức công khai của Đảng là Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương[27] đồng thời đóng cửa tờ báo Cờ giải phóng[28].
Thông cáo Đảng Cộng sản Đông Dương tự ý giải tán, ngày 11-11-1945:
1- Cǎn cứ vào điều kiện lịch sử, tình hình thế giới và hoàn cảnh trong nước, nhận rằng lúc này chính là cơ hội nghìn nǎm có một cho nước Việt Nam giành quyền hoàn toàn độc lập;
2- Xét rằng: muốn hoàn thành nhiệm vụ dân tộc giải phóng vĩ đại ấy, sự đoàn kết nhất trí của toàn dân không phân biệt giai cấp, đảng phái là một điều kiện cốt yếu;
3- Để tỏ rằng: những đảng viên cộng sản là những chiến sĩ tiền phong của dân tộc, bao giờ cũng hy sinh tận tụy vì sự nghiệp giải phóng của toàn dân, sẵn sàng đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi của giai cấp, hy sinh quyền lợi riêng của đảng phái cho quyền lợi chung của dân tộc;
4- Để phá tan tất cả những điều hiểu lầm ở ngoài nước và ở trong nước có thể trở ngại cho tiền đồ giải phóng của nước nhà.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp ngày 11 tháng 11 nǎm 1945, nghị quyết tự động giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương.
Những tín đồ của chủ nghĩa cộng sản muốn tiến hành việc nghiên cứu chủ nghĩa sẽ gia nhập “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”
Sau khi Đảng Cộng sản tuyên bố tự giải tán, phần lớn đảng viên cộng sản chuyển sang hoạt động bí mật và trên danh nghĩa Việt Minh; một số ít tham gia Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương để hoạt động công khai. Các lãnh đạo Đảng cộng sản tham gia Quốc hội và Chính phủ như Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Khánh Toàn, Trần Huy Liệu… cũng với tư cách là thành viên Việt Minh. Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương cũng là một tổ chức thành viên của Việt Minh.
Tuy nhiên Việt Minh không chỉ có tổ chức thành viên là Đảng Cộng sản Đông Dương và các đoàn thể cứu quốc mà còn có các đảng phái cách mạng theo đường lối khác. Năm 1941 Đại hội thành lập Việt Minh thiết lập liên minh chống phát xít của người Việt ngoài Đảng Cộng sản Đông Dương, có Tân Việt Nam đảng (Tân Việt đảng), Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam, một phần Việt Nam Quốc dân Đảng, một số hội giải phóng dân tộc… góp phần vào việc nâng cao uy tín Mặt trận. Một trong những biểu hiện rõ nét là vào năm 1943, Đảng đưa ra “Đề cương Văn hóa Việt Nam”, tập hợp đông đảo những nhà văn hóa, văn nghệ, trí thức. Trên cơ sở đó, cuối năm 1944, Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời, trở thành một thành viên của Mặt trận Việt Minh.[29] Tháng 6 năm 1944, Đảng Cộng sản Đông Dương giúp cho một số trí thức thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam. Đảng Dân chủ Việt Nam gia nhập Việt Minh một thời gian ngắn rồi tách ra do mâu thuẫn với Đảng Cộng sản Đông Dương[30][cần số trang]. Tháng 12 năm 1946, đảng Dân chủ Việt Nam lại gia nhập Việt Minh.
Đảng Cộng sản Đông Dương còn mở rộng Mặt trận Việt Minh trong việc liên lạc với một số người cộng sản và cánh tả thuộc Đảng Xã hội Pháp trong quân đội lê dương và giới công chức Pháp ở Việt Nam. Nhưng do quan điểm khác nhau nên kế hoạch lập Hội của Đảng thất bại. Đảng còn tranh thủ sự giúp đỡ của các lực lượng chống Nhật ở Trung Quốc, vận động thành lập Mặt trận Trung-Việt liên minh, đặt quan hệ hợp tác với Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (và một thời gian nhập vào tổ chức này trên danh nghĩa)- một tổ chức chính trị của người Việt Nam ở Trung Quốc để tranh thủ đoàn kết rộng rãi với những người Việt yêu nước hoạt động ở Trung Quốc.[31] Ở Nam Kì, các cán bộ Đảng trong khi tập hợp lực lượng đã vận động được nhiều đảng phái khác tham gia Việt Minh. Kì bộ Việt Minh Nam Kì bao gồm Đảng Cộng sản Đông Dương, Tân Dân chủ, Tổng công đoàn, Thanh niên tiền phong, Việt Nam quốc gia, Cao Đài hợp nhất, Việt Nam cứu quốc đoàn (Kì bộ cũ của Việt Minh), Quốc gia độc lập, Công giáo, Thanh niên nghĩa dũng đoàn.[32]
Vào cuối năm 1944, Việt Minh tuyên bố tổng số thành viên là 500.000 người, trong đó có 200.000 người ở Bắc Kỳ, 150.000 người ở Trung Kỳ, và 150.000 người tại Nam Kỳ.
Trong suốt quá trình vận động cách mạng từ hội nghị 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng đến Cách mạng Tháng Tám, những chủ trương nghị quyết của Đảng nhằm xây dựng lực lượng cách mạng đều được quán triệt trong các văn kiện của Mặt trận Việt Minh.[33]
Về thực tế Đảng Cộng sản Đông Dương còn lãnh đạo chi bộ đảng ngoài Việt Nam, như Lào, Miên, và sau khi tách các chi bộ này ra, để thành lập ba đảng riêng năm 1951, cùng với thành lập Liên Việt trên cơ sở hai tổ chức Việt Minh và Liên Việt, cũng thành lập Mặt trận liên minh Việt – Miên – Lào (do Tôn Đức Thắng làm chủ tịch) nhằm phối hợp cách mạng ba nước, tiến tới giành độc lập cho mỗi nước.
Hợp tác với cơ quan tình báo Mỹ OSS
Ngày 29 tháng 3 năm 1945, Hồ Chí Minh gặp Trung tướng Mỹ Chennault tại Côn Minh (Trung Quốc). Trung tướng cảm ơn Việt Minh và sẵn sàng giúp đỡ những gì có thể theo yêu cầu. Còn Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm của Việt Minh là ủng hộ và đứng về phía Đồng Minh chống phát xít Nhật. Theo Hồ Chí Minh, việc được tướng Chennault tiếp kiến được xem là một sự công nhận chính thức của Mỹ, là bằng chứng cho các đảng phái Quốc gia thấy Mỹ ủng hộ Việt Minh. Người Mỹ xem đây chỉ là một mưu mẹo của Hồ Chí Minh nhưng ông cũng đã đạt được kết quả.[34]
Lãnh đạo Việt Minh và
OSS năm 1945.
Hồ Chí Minh nhận thấy Hoa Kỳ đang muốn sử dụng các tổ chức cách mạng người Việt vào các hoạt động quân sự chống Nhật tại Việt Nam, ông đã thiết lập mối quan hệ với các cơ quan tình báo Hoa Kỳ đồng thời chỉ thị cho Việt Minh làm tất cả để giải cứu các phi công gặp nạn trong chiến tranh với Nhật Bản, cung cấp các tin tức tình báo cho OSS, tiến hành một số hoạt động tuyên truyền cho Trung Hoa Dân Quốc và OWI. Đổi lại, cơ quan tình báo Hoa Kỳ OSS (U.S Office of Strategic Services) cung cấp vũ khí, phương tiện liên lạc, giúp đỡ y tế, cố vấn và huấn luyện quân đội quy mô nhỏ cho Việt Minh.[35]
Ngày 16 tháng 7 năm 1945, nhóm Con Nai thuộc cơ quan tình báo Mỹ OSS do thiếu tá Thomas chỉ huy nhảy dù xuống vùng lân cận làng Kim Lung cách Tuyên Quang 20 dặm về phía đông. Nhóm tình báo Con Nai được lực lượng Việt Minh tại Tuyên Quang gồm khoảng 200 người đón tiếp. Trong vòng một tháng, nhóm Con Nai đã huấn luyện cho lực lượng Việt Minh cách sử dụng những vũ khí Mỹ và chiến thuật du kích. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, nhóm Con Nai cùng Việt Minh về Hà Nội và tham dự lễ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[36]
Thông qua mối quan hệ với OSS, Việt Minh đề nghị Mỹ biến Đông Dương thành một xứ bảo hộ của Mỹ và yêu cầu Mỹ can thiệp với Liên Hiệp Quốc để gạt người Pháp và người Trung Quốc ra ngoài kế hoạch chiếm đóng tại Đông Dương của Đồng Minh. Việt Minh lo sợ Trung Quốc sẽ trở thành những kẻ chiếm đất đai ở Đông Dương, sống bằng cướp bóc và tước đoạt. Tổng bộ Việt Minh ở Hà Nội gửi một công hàm cho Chính phủ Mỹ để giải thích lập trường của họ[37]. Trong đó có đoạn viết:
“Nếu người Pháp mưu toan trở lại Đông Dương để hòng cai trị đất nước này và một lần nữa lại đóng vai những kẻ đi áp bức thì nhân dân Đông Dương sẵn sàng chiến đấu đến cùng chống lại việc tái xâm lược đó của Pháp. Mặt khác, nếu họ đến với tư cách là những người bạn để gây dựng nền thương mại, công nghiệp mà không có tham vọng thống trị thì họ sẽ được hoan nghênh như bất kỳ cường quốc nào khác.“[37]
Tổng bộ Việt Minh muốn báo cho cho Chính phủ Mỹ biết nhân dân Đông Dương yêu cầu trước hết là nền độc lập của Đông Dương và mong rằng nước Mỹ sẽ giúp đỡ họ giành lại độc lập bằng những cách sau đây[37]:
- Ngăn cấm hoặc không giúp đỡ người Pháp quay trở lại Đông Dương bằng vũ lực.
- Kiểm soát người Trung Quốc để hạn chế đến mức thấp nhất các cuộc cướp bóc, tước đoạt.
- Cho các chuyên viên kỹ thuật sang giúp người Đông Dương khai thác các nguồn tài nguyên đất đai
- Phát triển các ngành kỹ nghệ mà Đông Dương có khả năng cung ứng.
Hồ Chí Minh cố gắng thuyết phục Mỹ tiếp tục chính sách chống thực dân của Mỹ đối với Đông Dương. Ông tìm cách làm Mỹ tin rằng ông không phải là một phái viên của Quốc tế Cộng sản mà là một người Quốc gia – Xã hội mong muốn giải thoát đất nước khỏi ách đô hộ của ngoại bang.[38] Thông qua OSS, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi một bức điện cho Tổng thống Mỹ Truman yêu cầu Mỹ đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Lâm thời đồng thời Mỹ và Chính phủ Lâm thời sẽ có đại diện trong Ủy ban Liên tịch các nước Đồng Minh giải quyết các vấn đề liên quan đến Việt Nam. Việt Minh hy vọng tranh thủ được sự có mặt của Mỹ trong cuộc thương lượng giữa Trung Quốc và Pháp về Đông Dương vì hai nước này có thể làm nguy hại đến nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đồng thời khuyến khích các nước Đồng Minh công nhận Chính phủ Lâm thời là đại diện duy nhất và hợp pháp của Việt Nam trong các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam. Việt Minh lo ngại việc không được các nước Đồng Minh công nhận sẽ làm suy yếu địa vị lãnh đạo của họ và có lợi cho Việt Cách, Việt Quốc trong việc thành lập chính phủ của các lực lượng này.[39] Hồ Chí Minh nói với chỉ huy OSS tại miền Bắc, Archimedes L.A Patti, rằng ông theo chủ nghĩa Lenin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và xin gia nhập Đệ Tam Quốc tế vì đây là những cá nhân và tổ chức duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Ông không thấy có sự lựa chọn nào khác. Nhưng trong nhiều năm sau đó những tổ chức này cũng không có hành động gì vì nền độc lập của các dân tộc thuộc địa. Trước mắt, ông đặt nhiều tin tưởng vào sự giúp đỡ của Mỹ trước khi có thể hy vọng vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Người Mỹ xem ông là một người quốc tế cộng sản, bù nhìn của Moscow vì ông đã ở Moscow nhiều năm nhưng ông không phải là người cộng sản theo nghĩa Mỹ hiểu mà là nhà cách mạng hoạt động độc lập.[40] Tuy nhiên Mỹ không đáp lại nguyện vọng của Hồ Chí Minh. Cuối tháng 9 năm 1946, Mỹ rút tất cả các nhân viên tình báo tại Việt Nam về nước, chấm dứt liên hệ với chính phủ Hồ Chí Minh.[41]
Lãnh đạo nhân dân giành chính quyền
Theo Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, kể từ khi Việt Minh ra đời, “toàn bộ phong trào chống phát xít Pháp-Nhật của nhân dân ta mang tên Phong trào Việt Minh, cái tên tiêu biểu cho lòng yêu nước, chí quật cường của dân tộc ta.”[42]
Tổ chức này giành quyền và thành lập chính quyền với tên Khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh năm 1944. Năm 1945, khi Nhật vừa đầu hàng phe Đồng Minh, chính phủ Trần Trọng Kim vừa thành lập, Việt Minh là lực lượng chính trị quan trọng tổ chức một số cuộc biểu tình trên cả nước và tuyên bố thành lập chính quyền. Quốc dân Đại hội do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ở Tân Trào trong 2 ngày 16 và 17 tháng 8 năm 1945 đã thông qua lệnh tổng khởi nghĩa, quyết định quốc kỳ, quốc ca, cử ra Uỷ ban giải phóng dân tộc tức là Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh, tuyên bố thành lập chính phủ lâm thời của Việt Minh, khai sinh nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, Việt Minh chuyển mục tiêu sang đấu tranh giành lại toàn vẹn chủ quyền và lãnh thổ cho Việt Nam từ tay của thực dân Pháp.
Thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Thời gian đầu năm 1946, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Văn Hoan lui vào hoạt động bí mật. Hoạt động công khai với danh nghĩa là thành viên Việt Minh gồm có chủ tịch Hồ Chí Minh, các ông Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nam, Hồ Tùng Mậu, và Nguyễn Lương Bằng[43][44]. Về mặt công khai, trong một thời gian ngắn nhóm Mác-xít độc lập với Việt Minh. Thành viên Việt Minh không công khai là người Mác-xít. Theo các tài liệu chính thống của nhà nước Việt Nam, chủ nhiệm Tổng bộ một thời gian dài là Hoàng Quốc Việt. Cơ quan ngôn luận là báo Cứu quốc.
Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập trên quảng trường Ba Đình.
Việt Minh lãnh đạo chính phủ trung ương Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ khi được thành lập cho đến khi chiến tranh Đông Dương kết thúc. Đảng Lao động chính thức xác nhận vai trò lãnh đạo năm 1951. Một số ít thành viên Việt Minh chuyển sang ủng hộ cho Quốc gia Việt Nam khi Việt Minh ngả sang khuynh hướng thân Liên xô – CHND Trung Hoa công khai. Tại miền Nam, Việt Minh cũng lãnh đạo Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ. Các nhóm chính trị khác tham gia hợp tác với Việt Minh trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở trung ương và địa phương trong giai đoạn 1945 – 1946. Nhưng sau đó phần lớn lại quay sang hợp tác với Pháp chống lại Việt Minh hoặc vừa chống Pháp vừa chống Việt Minh.[cần dẫn nguồn] Sau đó các đảng phái này đa phần ủng hộ Bảo Đại đàm phán với Pháp thành lập Quốc gia Việt Nam.[cần dẫn nguồn]
Ủy ban dân tộc giải phóng gồm 12 thành viên Việt Minh, trong đó có 6 thành viên Đảng Cộng sản Đông Dương, 2 thành viên Đảng Dân chủ Việt Nam. Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ thành lập ngày 25/8/1945 có 6 thành viên Việt Minh (4 là thành viên Đảng Cộng sản, gồm Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tây, 2 thành viên Việt Minh không công khai là đảng viên cộng sản Phạm Ngọc Thạch, Hoàng Đôn Văn), 1 thành viên Đảng Dân chủ Việt Nam (Huỳnh Văn Tiểng), 2 thành viên không đảng phái (Phạm Văn Bạch, Huỳnh Thị Oanh), 1 thành viên Đảng Độc lập Dân tộc (Ngô Tấn Nhơn) (sau cải tổ đưa Huỳnh Phú Sổ – Hòa Hảo, Trần Văn Thạch – Trotskyist, Huỳnh Văn Phương – trí thức, Phan Văn Hùm, Trần Văn Nhọ, Nguyễn Văn Thủ… tham gia, nhưng sau một thời gian Việt Minh xung đột với các nhóm tôn giáo và Trotskyist). Ngày 10/9/1945, Ủy ban nhân dân Nam Bộ thành lập theo thể lệ của Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh gồm: Phạm Văn Bạch (trạng sư, không đảng phái): Chủ tịch, Trần Văn Giàu (giáo sư, Đảng Cộng sản Đông Dương), Phạm Ngọc Thạch (bác sĩ, thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong), Huỳnh Văn Tiểng (cựu sinh viên, Tân Dân chủ đoàn), Ngô Tấn Nhơn (kỹ sư, Đảng Quốc gia Độc lập), Nguyễn Văn Thọ (viết báo, Đảng Cộng sản Đông Dương), Hoàng Đôn Văn (Lao động Tổng công đoàn), giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ (Việt Nam Độc lập Vận động hội), Nguyễn Văn Nghiêm (kỹ sư, không đảng phái), Tứ Bảo Hòa (điền chủ, không đảng phái), dự khuyết Phan Văn Hùm, Trần Văn Nhọ, Nguyễn Văn Thủ[45]
Chính phủ Cách mạng Lâm thời có 9 thành viên Việt Minh (6 đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương), 4 đảng viên Đảng Dân chủ Việt Nam, 2 không đảng phái, 1 Công giáo. Chính phủ Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập ngày 2/3/1946 có 2 thành viên Việt Minh (thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương), 3 thành viên Việt Quốc, 1 thành viên Việt Cách, 2 thành viên Dân chủ, 1 thành viên Xã hội, 3 độc lập. Chính phủ Chính phủ Liên hiệp Quốc dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập ngày 3/11/1946 có 5 thành viên Việt Minh (thuộc Đảng Cộng sản), 5 độc lập, 2 Dân chủ, 1 Xã hội, 1 Dân tộc (Việt Nam Quốc dân Đảng – Chu Bá Phượng), khuyết 2 ghế.
Chính phủ Liên hiệp Quốc dân năm 1949, 5 thành viên Đảng Cộng sản – Việt Minh, 5 độc lập, 2 đảng Dân chủ, 3 đảng Xã hội, 1 dân tộc (Việt Nam Quốc dân đảng- Chu Bá Phượng), 1 Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội (Bồ Xuân Luật). Trong các thứ trưởng có 4 độc lập, 2 đảng Dân chủ, 1 đảng Xã hội, 1 Việt Minh (thuộc Đảng Cộng sản), 1 trống. Theo tài liệu của CIA thì Đảng Cộng sản tuy tuyên bố “giải tán” năm 1945 nhưng năm 1946 có 50.000 đảng viên, và tới 1950 có 400.000 đảng viên, dù trên danh nghĩa người của Việt Minh (Liên Việt), nhưng thực tế bán công khai.
Xung đột với các nhóm chính trị đối lập
Trước năm 1945, Đảng Cộng Sản Việt Nam và các đảng phái Quốc gia khác tuy có ý thức hệ khác nhau nhưng vẫn có chung nền tảng giáo dục, thường xuyên có sự hợp tác và đôi khi có cùng quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân. Trong giai đoạn 1924 – 1927, ở miền Nam Trung Quốc, các nhóm người Việt chống thực dân Pháp đa dạng tương tác với nhau, với cả người Trung Quốc, Triều Tiên và các dân tộc khác. Từ năm 1941 đến 1944 ở miền nam Trung Quốc, Đảng Cộng sản Đông Dương, Việt Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Việt Cách) cùng tham gia vào mặt trận chống Nhật, đôi khi tố giác nhau với chính quyền Trung Quốc, nhưng không bắt cóc hoặc ám sát lẫn nhau. Chính sự cạnh tranh để kết nạp thành viên, thu nhận viện trợ cũng như sự bảo trợ của người Trung Quốc, hơn là sự khác biệt về ý thức hệ, mới là nguyên nhân khiến căng thẳng giữa các tổ chức lưu vong gia tăng. Trong nước, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng từng hợp tác với những người Trotskyist tại Nam Kỳ trong giai đoạn 1933-1937.[46] Hai bên sau đó chỉ trích nhau chẳng hạn thành viên của Quốc tế thứ ba (Đảng Cộng sản Đông Dương) và Quốc tế thứ tư (những người Trotskyist) cáo buộc lẫn nhau là phục vụ lợi ích đế quốc. Ban đầu cuộc tranh đấu chỉ trong phạm vi báo chí, truyền thông. Đến năm 1945 thì nhiều phe đã dùng vũ lực để tiêu diệt lẫn nhau. Theo sử gia David G. Marr, đó là một thời kỳ đầy hận thù, phản bội và giết chóc. Cho tới tháng 8 năm 1946, các đảng phái đối lập, ngoại trừ Giáo hội Công giáo, đều bị phá vỡ, vô hiệu hóa, hoặc buộc phải lưu vong.[47]
Ngay sau khi Việt Minh giành chính quyền ngày 19/8/1945, Lê Khang dẫn đầu một nhóm Việt Quốc rời Hà Nội đến Vĩnh Yên nằm trên tuyến đường sắt Lào Cai – Hà Nội. Tại đây họ tổ chức một cuộc biểu tình của dân chúng để thuyết phục lực lượng Bảo an binh địa phương tham gia. Ngày 29/8/1945, hàng ngàn người ủng hộ Việt Minh thuộc 3 huyện lân cận tiếp cận căn cứ của Việt Quốc tại Vĩnh Yên kêu gọi Việt Quốc tham gia một cuộc diễu hành xuyên qua thị trấn. Khi bị từ chối, họ bắn thành viên Việt Quốc. Việt Quốc bắn trả khiến một số người chết đồng thời bắt giữ khoảng 150 người. Những người bị bắt được thả sau khi đã được tuyên truyền về Việt Quốc và thừa nhận mình bị lừa khi tham gia biểu tình. Sau đó, Việt Minh và Việt Quốc tiếp tục thảo luận về việc phóng thích những người còn bị Việt Quốc giam giữ, về việc tổ chức đàm phán và những đề xuất liên quan đến việc thành lập chính quyền liên hiệp ở địa phương. Trong khi hai bên thảo luận, Việt Minh cắt đứt nguồn cung cấp lương thực cho thị xã Vĩnh Yên khiến cuộc sống ngày càng khó khăn.[48]
Ngày 18/9/1945, Hoàng Văn Đức, một thành viên quan trọng của Đảng Dân chủ Việt Nam cùng đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ Hà Nội đến Vĩnh Yên thương lượng. Cuộc thương lượng không thành công, Lê Khang tấn công Phúc Yên nhưng thất bại. Các đơn vị quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tấn công Vĩnh Yên nhưng không giành được thị xã này. Sau đó hai bên ngừng bắn trong vài tháng. Việt Quốc không tranh giành ảnh hưởng với Việt Minh ở vùng nông thôn ngoài việc chiếm giữ nông trại Tam Lộng tại Vĩnh Yên. Đầu tháng 12/1945, Việt Minh tấn công Tam Lộng nhưng bị đẩy lùi.[49]
Tháng 9/1945, Việt Quốc thỏa thuận bí mật với đại úy Nguyễn Duy Viên theo đó đại đội lính khố đỏ của ông sẽ theo Việt Quốc. Tuy nhiên Việt Quốc nghi ngờ đại úy Viên là điệp viên hai mang của Pháp và sẽ điều động đơn vị của mình thủ tiêu đảng viên Việt Quốc ngay sau khi vượt biên giới về Việt Nam. Đầu tháng 11, Viên đến Hà Giang gặp các thành viên Việt Quốc tại đây. Những binh sĩ đào ngũ từ các đơn vị lính thuộc địa cũng đổ về Hà Giang giúp Viên có được một đội quân khoảng 400 người. Việt Quốc và Việt Minh tại Hà Giang mâu thuẫn nhau khiến Viên đến Hà Nội yêu cầu chính phủ cử đại diện đến thuyết phục mọi người cùng chống Pháp. Sau khi gặp Hồ Chí Minh, Viên trở về Hà Giang, cho quân bắt giữ các đảng viên Việt Quốc tại đây và xử bắn một số người trên một ngọn đồi gần thị xã. Tháng 4/1946, Việt Quốc cho người ám sát ông tại Hà Nội.[50]
Tháng 5/1946, Trần Đăng Ninh, phụ trách an ninh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đến Vĩnh Yên với lý do thảo luận về công tác sửa chữa đê điều và bị Vũ Hồng Khanh bắt. Ninh và 2 người khác trốn thoát. Việc bắt giữ này trở thành lý do để đàn áp Việt Quốc. Vệ quốc quân bắt đầu tuần tra quanh nơi hoạt động của Việt Quốc. Ngày 20/5/1946, trong một cuộc đụng độ gần Phú Thọ, Việt Quốc bắt giữ và hành quyết một nhóm người ủng hộ Việt Minh, thả vài xác chết xuống sông Hồng để cảnh cáo.[51]
Giữa tháng 5/1946, Bộ Nội vụ ra lệnh cho tất cả các cán bộ công chức đang làm việc tại 7 thị xã ở các tỉnh phía Tây và Tây Bắc Hà Nội sơ tán và tham gia vào các Ủy ban thay thế được thành lập ở các địa điểm mới. Những người không thực hiện lệnh này không còn là người của chính phủ.[51]
Tháng 6/1946, khi quân đội Trung Quốc rút về Vân Nam, dân quân của Việt Minh cô lập các thị xã do Việt Quốc kiểm soát. Ngày 18/6/1946, Vệ quốc quân tấn công Phú Thọ và Việt Trì. Quốc dân quân của Việt Quốc ở Phú Thọ hết đạn sau 4 ngày và phải rút lui. Vũ Hồng Khanh chỉ huy 350 lính phòng thủ Việt Trì trong 9 ngày rồi rút lui về Yên Bái. Việt Quốc ở Vĩnh Yên do Đỗ Đình Đạo chỉ huy đàm phán với Việt Minh và đạt được thỏa thuận ngừng bắn trong 2 tháng. Đỗ Đình Đạo đồng ý sáp nhập lực lượng của ông vào Vệ quốc quân và thành lập Ủy ban Hành chính liên hiệp tại Vĩnh Yên. Lực lượng này được chia nhỏ đưa về các tiểu đoàn Vệ quốc quân tại nhiều nơi. Đỗ Đình Đạo được thuyên chuyển về Hà Nội. Trong suốt tháng 5 và tháng 6/1946, Báo Việt Nam của Việt Quốc tại Hà Nội khẩn thiết kêu gọi Việt Minh ngừng tấn công Việt Quốc.[51]
Cuối tháng 6 tại Hà Nội, các thành viên Việt Quốc họp để thảo luận về việc có nên thừa nhận sự lãnh đạo của Việt Minh, rút lui về biên giới hay tổ chức đảo chính lật đổ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong khi đó, Trương Tử Anh, đảng trưởng Đại Việt Quốc dân Đảng là đồng minh của Việt Quốc, đang lên kế hoạch cho một cuộc đảo chính có thể bắt đầu bằng việc tấn công lính Pháp để gây rối loạn. Người Pháp lại có ý định diễu binh quanh hồ Hoàn Kiếm để kỷ niệm Quốc khánh Pháp (14/7/1789) khiến lực lượng an ninh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lo ngại sự kiện này có thể trở thành mục tiêu của các đảng phái đối lập với Việt Minh. Võ Nguyên Giáp hỏi ý kiến của chỉ huy quân Pháp tại Bắc Kỳ, đại tá Jean Crépin về thái độ của Pháp nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tăng cường trấn áp Việt Quốc và Việt Cách thì được ông này trả lời Pháp sẽ không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[52] Trường Chinh (Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, khi đó rút vào hoạt động bí mật, chức danh công khai là Hội trưởng Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương) được Nha Công an Trung ương báo cáo phát hiện được âm mưu của thực dân Pháp câu kết với Việt Nam Quốc dân Đảng đang chuẩn bị đảo chính Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chỉ đạo phải tập trung trấn áp Việt Nam Quốc dân Đảng, nhưng phải có đủ chứng cứ[53].
Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 và cuộc bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946, Việt Nam Quốc dân Đảng được giữ hơn 40 ghế trong số 70 ghế “đại biểu đương nhiên” (không phải qua bầu cử) trong Quốc hội khóa I và có một số thành viên chủ chốt tham gia lãnh đạo Quốc hội và Chính phủ do Quốc hội khóa I bầu ra như Nguyễn Hải Thần (Phó chủ tịch Quốc hội), Trương Đình Chi (Bộ trưởng xã hội, y tế và lao động). Theo hồi ký Những năm tháng không thể nào quên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, do không bằng lòng với vị trí có được, Việt Nam Quốc dân Đảng tìm cách lật đổ Việt Minh để cùng với các đảng phái Việt Cách, Đại Việt… chiếm chính quyền.[54]
Trong khi giải giáp vũ khí của quân Nhật tại phía Bắc vĩ tuyến 16 theo Hiệp ước Hoa – Pháp tháng 2 năm 1946 và Hiệp định sơ bộ Việt – Pháp ngày 6 tháng 3 năm 1946, quân Pháp đã chuyển giao cho Việt Nam Quốc dân Đảng và các đảng phái đối lập với Việt Minh hàng tấn vũ khí thu gom được của Nhật. Với số vũ khí này và được thực dân Pháp “bật đèn xanh”, Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng đã tổ chức các đội vũ trang mang tên “Thần lôi đoàn”, “Thiết huyết đoàn”, “Hùm xám”… Các đội vũ trang này đã tổ chức nhiều vụ cướp có vũ trang, bắt cóc, tống tiền, tổ chức ám sát những người theo Việt Minh và cả những người không đảng phái như ông Ba Viên rồi tuyên truyền đổ lỗi cho Việt Minh đã không đảm bảo được an ninh trật tự ở Hà nội và một số đô thị ở Bắc Bộ.[55]
Đầu tháng 6 năm 1946, Việt Nam Quốc dân Đảng tổ chức cho Nghiêm Xuân Chi (đảng viên Việt Quốc) ám sát một số lãnh đạo của Việt Minh như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh và ông Bồ Xuân Luật, một người cũ của Việt Cách nay đứng về phe Việt Minh. Vụ ám sát được bố trí tại Nhà Thủy tọa, cạnh Hồ Gươm, đối diện với nhà số 8 đường Vua Lê (nay là phố Lê Thái Tổ) một trong những nơi ăn nghỉ của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi Nghiêm Xuân Chi chưa kịp ra tay thì đã bị tổ trinh sát của Sở Công an Bắc Bộ do Nguyễn Bá Hùng chỉ huy khống chế. Khám người Nghiêm Xuân Chi, Công an Bắc bộ thu được hai khẩu súng ngắn với 12 viên đạn trong ổ đạn. Mỗi khẩu đều có một viên đã lên nòng. Tại trụ sở Công an Bắc bộ (số 87 đường Gamberta, nay là phố Trần Hưng Đạo), Nghiêm Xuân Chi khai nhận đã được các lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng giao nhiệm ám sát một số lãnh đạo Việt Minh[56]
Trước những hoạt động gây mất trật tự an ninh tại Hà Nội và một số thành phố ở Bắc Bộ, Sở Công an Bắc Bộ đã lập chuyên án mà sau này được lấy tên công khai là Chuyên án số 7 phố Ôn Như Hầu[55]
Sau khi Việt Nam Công an vụ xin ý kiến chỉ đạo của Trường Chinh (Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, với chức danh công khai là Hội trưởng Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương), vào rạng sáng ngày 12 tháng 7 năm 1946, Đội trinh sát đặc biệt đã thực hiện nhiệm vụ bắt, khám xét những người có mặt tại số 7 phố Ôn Như Hầu vì can tội tống tiền và bắt cóc người.[53], đã thực hiện phá vụ án phố Ôn Như Hầu. Chỉ đạo trực tiếp lực lượng công an phá vụ án này là các ông Lê Giản (Giám đốc Nha Công an Bắc bộ), Nguyễn Tuấn Thức (Giám đốc Công an Hà Nội) và Nguyễn Tạo (Trưởng nha Điệp báo Công an Trung ương).[57] Lực lượng công an xung phong đã thực hiện khám xét các trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng tại Hà Nội, bắt tại chỗ nhiều thành viên của Việt Nam Quốc dân Đảng cùng nhiều tang vật như truyền đơn, vũ khí, dụng cụ tra tấn, đồng thời phát hiện nhiều xác chết tại đó… Trong số các thành viên của Quốc dân Đảng bị bắt, có Phan Kích Nam tự xưng là một lãnh đạo của Quốc dân Đảng.[53] Theo điều tra của Nha công an, Việt Nam Quốc dân Đảng đang chuẩn bị những hành động khiêu khích rất nghiêm trọng. Dự định các thành viên của Việt Nam Quốc dân Đảng sẽ phục sẵn dọc đường quân Pháp diễu qua nhân ngày quốc khánh Pháp, bắn súng, ném lựu đạn để tạo ra những chuyện rắc rối giữa Pháp và Chính phủ, gây sự phá hoại hòa bình rồi tung truyền đơn hô hào lật đổ chính quyền và sau đó đứng ra bắt tay với Pháp.[58]
Trên thực tế, trong cuộc vây bắt, khám xét tại số 7 – Ôn Như Hầu ngày 12 tháng 7, Công an Bắc Bộ thu được 8 súng ngắn, 5 súng trường và 1 trung liên Nhật, dụng cụ tra tấn, thuốc mê và đào được 6 xác người chôn đứng trong vườn chuối sau nhà. Tuy nhiên, trụ sở hành chính của Việt Nam Quốc dân Đảng tại số 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều) chỉ là bình phong để che đậy hai căn cứ quan trọng hơn của Việt Nam Quốc dân Đảng trong nội thành Hà Nội khi đó là nhà số 132 phố Duvigneau (nay là phố Bùi Thị Xuân) và nhà số 80 phố Quán Thánh. Cuộc bắt, khám xét tại 132 – Duvigneau và 80 Quán Thánh diễn ra cùng thời điểm với vụ bắt, khám xét ở số 7 – Ôn Như Hầu. Tại nhà số 132 phố Duvigneau, Nha Công an Bắc Bộ thu giữ nhiều tang vật gồm 6 máy in tipo với các “bát chữ” còn nguyên vẹn nội dung; 11 mặt đá in lito đã khắc chữ; trên 3 tạ truyền đơn, khẩu hiệu; tài liệu chống Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa in xong còn chưa kịp chuyển đi; 18,6 kg tiền giả (gồm cả giấy bạc Quan Kim và giấy bạc Đông Dương); 12 khẩu súng ngắn, 8 khẩu tiểu liên, 17 súng trường, 3 trung liên FM và 13 quả lựu đạn Nhật. Khám xét tại nhà số 80 phố Quán Thánh, Công an Bắc Bộ thu được 9 súng ngắn, 21 súng trường, 2 trung liên Nhật, 11 quả lựu đạn các loại, hai thùng tài liệu, truyền đơn chống chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quân Pháp tại Hà Nội đã điều xe tăng đến can thiệp vào vụ bắt, khám xét tại 80 phố Quán Thánh nhưng Việt Minh đã tiến hành đàm phán trên cơ sở Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1945. Trưa ngày 12 tháng 7, xe tăng và quân Pháp rút khỏi phố Quán Thánh.[59]
Ngày 13 tháng 7, tướng Morlière, tư lệnh các lực lượng Pháp tại Hà nội đã cử sĩ quan tùy tùng đến trụ sở chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Bắc Bộ Phủ thông báo việc người Pháp rút đề nghị tổ chức cuộc diễu binh của quân Pháp tại Hà Nội do nhận thấy không bảo đảm an toàn. Tại dây, viên tùy tùng của tướng Morlière được đại diện Chính phủ Việt Nam thông báo rằng Việt Minh sẽ tổ chức cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội và một số con phố quanh Hồ Gươm để chào mừng kỷ niệm ngày Cách mạng Pháp 14-7-1789. Tất cả những chứng cứ, tang vật, truyền đơn, khẩu hiệu, ảnh chụp những xác chết, những hố chôn người… mà Công an Bắc Bộ thu tập được trong Vụ án phố Ôn Như Hầu đều được trưng bày cho toàn thể nhân dân Hà Nội được biết trong cuộc mít tinh diễu hành này.[56]
Nhà nước sau đó thông báo sự việc với báo chí. Các cuộc tấn công được gọi tắt là “Vụ án phố Ôn Như Hầu”. Các báo của Việt Minh và các đảng phái thân Việt Minh đều tường thuật vụ án này. Các báo đưa tin công an đã phá tan âm mưu chống chính phủ, đã bắt những kẻ tiến hành những vụ bắt cóc tống tiền, ám sát, bán nước, in truyền đơn chống chính phủ, làm bạc giả… Tuy nhiên Việt Quốc đã không bị kể tên trong một số bài báo.[52]
Theo David G. Marr, nếu thật sự Pháp muốn đảo chính (họ đã cân nhắc và hoãn nhiều lần) thì không cần phải dựa vào Trương Tử Anh khơi ngòi, càng không cho Anh thành lập chính phủ. Công an cố tình lập lờ giữa Đại Việt Quốc Dân Đảng do Trương Tử Anh lãnh đạo và Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Tưởng Tam và Vũ Hồng Khanh lãnh đạo khi nhắm vào tòa soạn Báo Việt Nam và các trụ sở khác của Việt Nam Quốc dân Đảng. Sau cuộc tấn công, có người trong chính quyền đã cố gắng hạn chế những lời lên án công khai Việt Quốc để tuyên truyền về Mặt trận Thống nhất. Việt Quốc trên danh nghĩa vẫn nằm trong mặt trận. Ngoại trừ một vài đảng viên Việt Quốc hợp tác với Việt Minh, mọi công dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ đó trở đi đều sợ hãi khi bị cho là đảng viên Việt Quốc. Việt Quốc đồng nghĩa với tội phản quốc.[52]
Ngày 20/7/1946, Ủy ban Hành chính Bắc Bộ dù không nhắc đến Việt Quốc đã thông báo đến các tỉnh rằng gần đây công an đã phát hiện được việc tống tiền, bắt cóc và làm tiền giả. Tất cả đều phải bị điều tra và truy tố. Ủy ban hướng dẫn các địa phương không để việc bắt bớ và giam giữ các phần tử phản động biến thành khủng bố. Các Ủy ban Hành chính địa phương giờ đã được chấp thuận cho việc bắt giữ các đảng viên Việt Quốc đã bị phát hiện hay còn tình nghi, tuy nhiên họ không săn lùng và hành quyết ngay lập tức. Trong những tháng sau đó, hàng ngàn người bị bắt, bị thẩm vấn. Hàng trăm người bị tống giam, bị đưa đến các trại cải tạo; hàng trăm người khác bị cách chức. Cán bộ phòng chính trị thuộc Sở Công an các tỉnh bắt những kẻ tình nghi, thẩm vấn, bắt ký vào lời khai, sau đó báo cáo lên chính quyền tỉnh là thả, xét xử hay biệt giam những người này.[52] Từ cuối tháng 7/1946 cho đến cuối năm 1946, phần lớn những người bị công an giam giữ vì lý do chính trị đều bị xem là Việt Quốc. Công an tiếp tục thẩm vấn các đảng viên Việt Quốc về vụ bắt cóc một số đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương xảy ra vào cuối năm 1945.[60]
Cuối tháng 7/1946, Báo Việt Nam bị đình bản nhưng Tuần báo Chính Nghĩa vẫn tiếp tục xuất bản suốt 3 tháng sau. Báo Chính Nghĩa đăng một loạt bài xã luận lên án chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa đế quốc Xô Viết đồng thời chỉ trích hệ thống Ủy ban Hành chính của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và việc chính phủ không thể thành lập hệ thống tư pháp độc lập, chính sách ngoại giao của Hồ Chí Minh cũng bị hoài nghi. Cuối tháng 10/1946, các bài xã luận và tin tức trong nước bị loại bỏ. Tới đầu tháng 12, Tuần báo Chính Nghĩa hoàn toàn bị vô hiệu hóa, không còn một tin tức hay bài viết nào đáng phải kiểm duyệt nữa.[61]
Từ tháng 7/1946 đến tháng 11/1946, nhiều đại biểu quốc hội là đảng viên Việt Quốc bị bắt. Đại biểu Phan Kích Nam, đảng viên Việt Quốc, bị bắt trong vụ án phố Ôn Như Hầu, bị buộc tội bắt cóc, tống tiền và bị tống giam ngay lập tức. Đại biểu Nguyễn Đổng Lâm bị công an Hải Dương bắt và bị kiến nghị gửi đến trại biệt giam trong 2 năm với lý do “chính quyền địa phương sẽ gặp nhiều khó khăn nếu ông Lâm còn tự do ngoài vòng pháp luật”. Trường hợp của Lâm được báo cáo lên Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nguyễn Văn Tố. Tố cùng Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra lệnh thả Lâm. Ngày 21/8/1946, Nguyễn Đổng Lâm được thả. Tại các địa phương khác, các đại biểu quốc hội là đảng viên Việt Quốc cũng bị sách nhiễu hoặc bắt giữ. Đại biểu Trình Như Tấu gửi kháng nghị đến 5 cơ quan chính phủ khác nhau sau khi ông bị dân quân bao vây nhà riêng để yêu cầu bồi thường một máy đánh chữ không có thật và đe dọa dùng vũ lực nếu ông không tuân thủ. Trình Như Tấu yêu cầu được bảo vệ với tư cách nghị sĩ nhưng không được hồi đáp. Tại kỳ họp lần thứ 2 của Quốc hội vào cuối tháng 10/1946, chưa tới 12 người trong số 50 đại biểu Quốc hội thuộc Quốc dân Đảng tham dự.[62]
Sau khi rút lui về Yên Bái, Vũ Hồng Khanh nhận ra rằng nguồn cung cấp lương thực tại địa phương chỉ đủ nuôi sống lực lượng quân đội Việt Quốc chứ không đủ cung cấp cho những người ủng hộ Việt Quốc từ đồng bằng sông Hồng đến. Vệc tiếp tế từ Lào Cai gặp nhiều khó khăn vì Việt Minh đã phá hủy đường sắt. Tới tháng 11, Lào Cai bị Vệ Quốc quân bao vây và lương thực sắp hết. Vũ Hồng Khanh quyết định sơ tán sang Vân Nam và ra lệnh hành quyết 2 giảng viên học viện quân sự vì cố gắng dẫn học viên của họ quay trở lại đồng bằng. Tháng 10/1947, khi Pháp nhảy dù xuống Phú Thọ, công an Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị cáo buộc giết chết hơn 100 tù nhân Việt Quốc trước nguy cơ họ có thể trốn thoát hoặc rơi vào tay người Pháp.[60]
Sau khi giành được chính quyền, ngày 5 tháng 9 năm 1945, nhân danh Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số 8 giải thể Đại Việt Quốc dân đảng với lý do “Đại Việt Quốc dân đảng đã âm mưu những việc hại cho sự độc lập quốc gia và nền kinh tế Việt Nam”[63][64]
Do Chính phủ ban hành Sắc lệnh giải tán Đại Việt Quốc dân đảng, nên các đảng viên Đại Việt đã mất tư cách pháp nhân để tham gia chính trường. Trước chiến thắng của Việt Minh trong cuộc Tổng tuyển cử, ngày 15 tháng 12 năm 1945, Đại Việt Quốc dân đảng cùng với Việt Nam Quốc dân Đảng (lãnh đạo là Vũ Hồng Khanh) và Đại Việt Dân Chính Đảng (lãnh đạo là Nguyễn Tường Tam) thành lập Mặt trận Quốc dân Đảng Việt Nam nhằm chống lại “phe Cộng sản”. Trương Tử Anh làm Chủ tịch, Vũ Hồng Khanh làm Bí thư trưởng và Nguyễn Tường Tam làm Tổng thư ký. Việc tham gia Mặt trận Quốc dân Đảng giúp các đảng viên Đại Việt có lại khả năng tham chính dưới danh nghĩa của Mặt trận.
Đối với chương trình hành động của Mặt trận Quốc dân Đảng, Đại Việt Quốc dân đảng đưa ra kế hoạch bốn điểm nhằm chống lại Việt Minh trong việc bầu cử Quốc hội và thành lập Chính phủ Liên hiệp:
- Phát động phong trào toàn dân bất hợp tác với Việt Minh
- Tách rời cựu hoàng Bảo Đại ra khỏi Việt Minh và vô hiệu hóa Quốc hội Việt Minh
- Thành lập một Trung tâm chính trị ở hải ngoại
- Củng cố các chiến khu, tăng cường khối Quốc dân Quân, mở rộng địa bàn hoạt động.
Trong tháng 9 và tháng 10 năm 1945, các tổ chức khác nhau của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Minh có thể đã thủ tiêu hoặc bắt giữ hàng trăm đảng viên và những người có liên quan đến Đại Việt Quốc dân Đảng, Đại Việt Duy dân Cách mệnh Đảng tại các tỉnh Ninh Bình, Tuyên Quang, Thái Bình, Phú Thọ, Hưng Yên… Trương Tử Anh lẩn trốn sự truy nã của công an Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng thời liên tục cảnh báo Việt Nam Quốc dân Đảng không được liên minh với Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong suốt năm 1946, công an tiếp tục truy lùng thành viên các đảng Đại Việt. Theo David G. Marr, nhờ tuyên truyền có hiệu quả nên Việt Minh làm dân chúng tin rằng đảng viên Đại Việt là những tên tay sai cho phát xít Nhật dù trên thực tế trước ngày 9/3/1945 khi Nhật đảo chính Pháp chỉ có một số ít người Việt có quan hệ với người Nhật, sau ngày 9/3/1945 tất cả các đảng phái ở Việt Nam kể cả Việt Minh đều tiếp xúc với quân đội và nhân viên dân sự Nhật.[65]
Trong ngày 12/7/1946, một tiểu đội công an do Lê Hữu Qua chỉ huy[66] bao vây khám xét trụ sở của đảng Đại Việt tại số 132 Duvigneau, do phát hiện Đại Việt cấu kết với Pháp âm mưu tiến hành đảo chính chính quyền cách mạng đúng vào ngày quốc khánh Pháp 14/7/1946.[67] Khi thực hiện cuộc bao vây khám xét này, lực lượng công an chưa có chứng cứ cụ thể và chưa có lệnh của cấp trên. Nhưng vẫn thực hiện bao vây khám xét để các thành viên Đại Việt không có thời gian rút vào bí mật và tẩu tán truyền đơn, hiệu triệu lật đổ chính quyền. Lực lượng công an đột kích bất ngờ vào lúc sáng sớm khiến cho lính canh và các đảng viên Đại Việt không kịp có hành động phản ứng.[66] Tại trụ sở của Đại Việt, lực lượng công an đã tìm thấy nhiều truyền đơn, hiệu triệu chưa kịp tẩu tán cùng nhiều súng ống, lựu đạn.[67]
Sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ngày 19 tháng 12 năm 1946 thì Trương Tử Anh đột ngột mất tích. Có nguồn cho là ông bị Việt Minh thủ tiêu.[68]
Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng (thường được gọi tắt là Đại Việt Quốc xã) theo Chủ nghĩa Quốc xã do Nguyễn Xuân Tiếu sáng lập vào năm 1936, Trần Trọng Kim là tổng bí thư. Đây là tổ chức chính trị thân Đế quốc Nhật Bản, được thành lập để làm hậu thuẫn chính trị cho việc lập ra một Đế quốc Việt Nam, được xem là “chính phủ tay sai” của Nhật Bản[69][70] trong thời kỳ Đế quốc Nhật chiếm đóng và thống trị Đông Á, Đông Nam Á và Việt Nam trong Chiến tranh Thái Bình Dương. Đại Việt Quốc xã là lực lượng có xu hướng bảo hoàng, ủng hộ Bảo Đại[cần dẫn nguồn], có khoảng 2 ngàn thành viên, ảnh hưởng ở các thị thành công nghiệp nhẹ ở miền Bắc như Hà Nội, Hải Phòng trong thời gian Chiến tranh thế giới II diễn ra.
Sau khi Việt Minh giành được chính quyền, ngày 5 tháng 9 năm 1945, thừa ủy quyền Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số 8 giải thể Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng với lý do “Đại Việt quốc gia xã hội Đảng đã tư thông với ngoại quốc để mưu những việc có hại cho sự độc lập Việt Nam”.[63][64]
Trong thời gian quân Tưởng vào miền Bắc, Đại Việt Duy dân tìm cách thâm nhập gây cơ sở ở Hòa Bình, xây dựng Hòa Bình thành căn cứ. Đại Việt Duy dân liên kết với một số lang đạo chống chính quyền, lôi kéo một số lang đạo có thái độ hai mặt trong bộ máy chính quyền các cấp và được số này che chở. Vì vậy, cơ sở Đại Việt duy dân phát triển khá nhanh bao gồm một số huyện của tỉnh Hà Đông (cũ), Ninh Bình, Hà Nam, Hòa Bình. Đảng Đại Việt Duy dân chọn Mường Diềm làm căn cứ chính của Đại Việt Duy dân ở Hòa Bình. Được các lang đạo giúp đỡ, Đại Việt Duy dân đã tích cực xây dựng lực lượng vũ trang bằng cách đưa thành viên từ miền xuôi lên, tập hợp thành viên ở địa phương, thành lập được một số đơn vị, mở một vài lớp huấn luyện quân sự…
Giữa năm 1946, Đại Việt Duy dân bị chính quyền tấn công mạnh tại Hà Nội và các tỉnh ở đồng bằng. Đảng trưởng Đại Việt Duy dân Lý Đông A (tức Trần Khắc Tường) phải rời Hà Nội về Gia Viễn (Ninh Bình). Tại đây, Lý Đông A lại bị truy đuổi phải chạy lên Hòa Bình và về vùng Diềm. Nhiều thành viên Đại Việt Duy dân ở các nơi khác bị truy quét cũng chạy lên Hòa Bình.[71]
Trong thế bị truy đuổi, dồn ép, các lãnh đạo Đại Việt Duy dân dựa vào sự giúp đỡ của lang đạo chống chính quyền và có được một vài đơn vị vũ trang trong tay dự định đánh chiếm Lương Sơn, Lạc Sơn, Chợ Bờ, Suối Rút rồi tiến lên đánh chiếm thị xã Hòa Bình, làm chủ toàn bộ tỉnh Hòa Bình. Lấy Hòa Bình làm bàn đạp chiếm Sơn La, xây dựng Hòa Bình – Sơn La thành một căn cứ rộng lớn ở miền núi rừng Tây Bắc để chống lại chính quyền do Việt Minh lãnh đạo.[71] Nhưng kế hoạch của Đại Việt Duy dân đã bị quần chúng phát giác.
Ban cán sự Đảng Cộng sản Đông Dương tỉnh Hòa Bình thông qua con trai lang cun Mường Diềm là cán bộ phụ trách lực lượng vũ trang của huyện Mai Đà đã nắm được những tin tức quan trọng về tổ chức, hoạt động của Đại Việt Duy dân và đặc biệt là nắm được âm mưu kế hoạch bạo loạn của Đại Việt Duy dân.
Do nắm được kế hoạch của Đảng Đại Việt Duy dân nên trước ngày Đại Việt Duy dân định khởi sự, Ban cán sự Đảng tỉnh Hòa Bình đã chỉ đạo lực lượng vũ trang, công an tiêu diệt các toán vũ trang của Đại Việt Duy dân ở Lạc Sơn, Kỳ Sơn, Cao Phong, Lương Sơn, thị xã Hòa Bình. Để tiêu diệt căn cứ của Lý Đông A tại vùng Mường Diềm, Ban cán sự Đảng tỉnh đã dùng mưu dụ toán vũ trang của Đại Việt Duy dân ra khỏi căn cứ. Lực lượng chiến đấu của Ban cán sự Đảng tỉnh Hòa Bình đã tiêu diệt và bắt sống đại bộ phận lãnh đạo và lực lượng vũ trang của Đại Việt Duy dân tại Bến Chương. Đảng trưởng Lý Đông A chết tại Bến Chương thuộc xã Hiền Lương – Mai Đà.[71]
Khi quân Trung Hoa tiến vào miền Bắt Việt Nam để giải giáp quân Nhật, lực lượng của Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội cũng theo về, mục đích của Việt Quốc, Việt Cách để mở đường, tạo dựng cơ sở cho Quân đội Trung Hoa Dân quốc vào Việt Nam[72], gây xung đột vũ trang với Quân giải phóng và cướp chính quyền các địa phương[73][74]… Ngày 11 tháng 5, các Lữ đoàn hành động theo 4 hướng vượt biên giới. Tuy nhiên trong 4 cánh quân này khi xung đột vũ trang với Việt Minh thì 3 cánh quân (do Lê Tùng Sơn, Bồ Xuân Luật và Trương Trung Phụng chỉ huy) đã hạ vũ khí, tự giải giáp hoặc gia nhập lực lượng quân đội quốc gia của Việt Minh, chỉ có một cánh quân do Vũ Kim Thành chạy về vùng Hải Ninh rồi bị tiêu diệt. Bồ Xuân Luật sau đó làm Bộ trưởng trong Chính phủ liên hiệp.
Riêng Nguyễn Hải Thần thì về Hà Nội lập trụ sở ở đường Quan Thánh phố Cửa Bắc, tìm cách vận động dân chúng nội thành ủng hộ. Việt Cách bắc loa tố cáo Việt Minh là cộng sản; sự việc dẫn đến xô xát giữa những đám người ủng hộ và chống đối.[75] Trong khi lãnh đạo các phe phái Việt Minh, Việt Quốc, Việt Cách tranh cãi về các định nghĩa pháp lý, về việc bổ nhiệm các bộ trưởng và việc đưa ra các tuyên bố chung để đi đến thành lập Chính phủ liên hiệp thì các chủ bút, cán bộ chính trị, lực lượng vũ trang của các bên vẫn đấu tranh với nhau gay gắt. Bộ Tuyên truyền của Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi đến ban biên tập các tờ báo một bức thư hư cấu chỉ trích Nguyễn Hải Thần không cử người tham gia đoàn quân Nam tiến chi viện cho miền Nam đồng thời buộc tội ông thỏa thuận với quân Pháp. Báo chí thường xuyên cáo buộc Việt Cách và Việt Quốc tống tiền dân chúng. Công an Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thường xuyên bắt giữ các thành viên Việt Cách vì tội tống tiền, đặc biệt là đối với Hoa kiều. Các thành viên Việt Minh và Việt Cách xé áp phích của nhau, đe dọa tính mạng và phá các cuộc họp của đối thủ. Việt Minh khuyến khích Bồ Xuân Luật rời bỏ Việt Cách lập ra tờ báo Đồng Minh xuất bản cho đến tháng 11 năm 1946. Mười ngày sau đó, tại Hà Nội, Bồ Xuân Luật bị phục kích nhưng may mắn thoát chết.[76]
Các lãnh đạo Việt Cách không gặp khó khăn gì trong việc kiểm soát các thị xã từ biên giới Trung Quốc đến đồng bằng sông Hồng cho đến khi quân đội Trung Quốc rút về nước vào tháng 4/1946. Các viên chức nhà nước tại những nơi đó phải đối mặt với việc trung thành với Việt Cách, trung lập hay di tản khỏi thị xã. Việt Cách đôi khi phải xin phép chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để thực hiện một số hoạt động của họ.[77]
Bị Việt Quốc làm lu mờ và ngày càng mất đoàn kết, tháng 3/1946, Việt Cách bị chia rẽ. Một số thành viên tập trung bảo vệ các thị xã phía Bắc Hà Nội, những người khác gia nhập Việt Quốc, số còn lại lệ thuộc Việt Minh. Việt Cách có thể đã tổ chức một số cuộc tấn công vào lính Pháp tại Hải Phòng vào tháng 4/1946. Cuối tháng 4/1946, Pháp khai quật được 12 thi hài tại tầng hầm trụ sở cũ của Việt Cách tại Hà Nội trong đó có 2 công dân Pháp mất tích ngày 24/12/1945. Cuối tháng 5/1946, thành viên Việt Cách Hồ Đắc Thành tham gia Mặt trận Liên Việt. Các thành viên Việt Cách ở Quảng Yên và Móng Cái đã rút qua Trung Quốc vào giữa tháng 6/1946. Cuối tháng 10/1946, báo Đồng Minh của Bồ Xuân Luật đưa tin về cuộc họp của một số chi bộ còn lại của Việt Cách và việc một số thành viên Việt Cách tham gia kỳ họp thứ hai của quốc hội. Công an thu được một số tài liệu của Việt Cách và triệu tập các thành viên Việt Cách tới thẩm vấn. Từ đó trở đi một vài thành viên Việt Cách hợp tác với Việt Minh để xây dựng một hình ảnh mặt trận quốc gia liên hiệp giữa các đảng phái trong khi đó các thành viên khác bị tống giam hoặc phải lưu vong.[77]
Tạ Thu Thâu là người tổ chức và lãnh đạo phong trào Tả Đối lập Trốt-kít (L’Opposition de Gauche), ông hoạt động cách mạng bằng nhiều phương tiện. Về báo chí, ông xuất bản tờ Vô sản (tháng 5 năm 1932), làm báo Pháp ngữ La Lutte (Tranh đấu; tháng 4 năm 1933); nhóm trí thức làm báo này được gọi là “Les Lutteurs” (nhóm Tranh đấu) theo tên tờ báo. Có tên trong đó còn có Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Huỳnh Văn Phương, Trần Văn Thạch và Dương Bạch Mai. Vì những hoạt động này Tạ Thu Thâu bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam từ tháng 8/1932 đến tháng 1/1933.[78]
Ngay sau khi cấm Đại Việt Quốc dân Đảng hoạt động, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tố cáo những người Trotskyist (nhóm La Lutte và nhóm Liên minh Cộng sản Quốc tế) là kẻ thù của mình. Đảng cộng sản Đông Dương và những người Trotskyist từ lâu đã chỉ trích nhau là tay sai đế quốc. Tuy nhiên xung đột của hai nhóm này trước năm 1945 chỉ thể hiện bằng báo chí, diễn thuyết, truyền đơn. Sau năm 1945, hai nhóm bất đồng quan điểm về việc thực hiện cách mạng xã hội và cách đối phó với việc Đồng Minh đổ bộ vào Nam Kỳ. Những người Trotskyist muốn thực hiện ngay lập tức một cuộc cách mạng xã hội và vũ trang quần chúng chống lại lực lượng Đồng Minh còn Đảng cộng sản Đông Dương muốn thực giải phóng dân tộc trước rồi làm cách mạng xã hội đồng thời thỏa hiệp với Đồng Minh để giành độc lập từng bước.[79]
Ngày 7 và 8 tháng 9 năm 1945, một số thành viên Trotskyist cùng tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tham gia một cuộc tấn công đẫm máu nhưng bất thành nhằm vào các thành viên Việt Minh ở Cần Thơ. Họ tổ chức một cuộc biểu tình của khoảng 20.000 tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo với các khẩu hiệu “Võ trang quần chúng chống thực dân Pháp. Tẩy uế các phần tử thúi nát trong ủy ban Hành chánh Nam bộ“. Việt Minh huy động Thanh niên Tiền phong bắn vào đoàn biểu tình khiến nhiều người chết và bị thương.[79]
Ngay sau đó, Dương Bạch Mai tống giam những người Trotskyist tại Sài Gòn. Binh lính Anh tìm thấy họ đêm 22/9/1945 và giao nộp cho người Pháp.[79] Sau khi được thả, những người Trotskyist tổ chức tấn công quân Anh, Pháp theo lời kêu gọi Nam Bộ kháng chiến của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ do Trần Văn Giàu đứng đầu. Trong một đợt tổng rút quân của lực lượng kháng chiến Nam Bộ giữa tháng 10/1945, Đảng cộng sản Đông Dương đã truy lùng, bắt giữ và hành quyết một cách có hệ thống khoảng 20 lãnh đạo phe Trotskyist trong đó có Phan Văn Hùm, một lãnh đạo có uy tín của phe Trotskyist. Những thành viên Trotskyist khác phải nương tựa Hòa Hảo và các đảng phái quốc gia khác ở Đồng bằng sông Cửu Long.[79]
Cuối năm 1945, trên đường ra Hà Nội, vừa đến Quảng Ngãi, ông bị giết.[80]. Một số ý kiến khác cho rằng sau khi Nhật đảo chính Pháp vào tháng 9 năm 1945, Tạ Thu Thâu về Nam Kỳ. Trên đường về, ông bị Việt Minh bắt và sau đó xử tử tại Quảng Ngãi.[81] Phan Văn Hùm cũng là một thành viên nổi bật trong nhóm Trotskyist. Đầu năm 1946, khi Pháp đánh chiếm lại Nam Bộ, Phan Văn Hùm bị Kiều Đắc Thắng giết tại miền Đông Nam Bộ.
Tại miền Bắc, các chính quyền địa phương được lệnh phát hiện, bắt giữ và tống giam những người Trotskyist tuy Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không ra văn bản nào cấm lực lượng này hoạt động. Đến năm 1946, những người Trotskyist tại miền Bắc không còn là mối lo ngại đối với chính quyền hoặc không còn người Trotskyist nào bị phát hiện. Trên báo chí, từ Trotskyist vẫn tiếp tục xuất hiện là để cảnh cáo những nhân viên nhà nước công khai phàn nàn đồng lương không đủ sống hay những người dám đấu tranh để người lao động kiểm soát nhà máy, xí nghiệp.[82]
Tây Nam Bộ là nơi phát tích của giáo phái Hòa Hảo. Đa số tín đồ là những người dân hiền hòa, yêu nước. Nhằm thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân, Ủy ban nhân dân Nam Bộ mới thành lập sau Cách mạng tháng Tám đã mời người sáng lập giáo phái Hòa Hảo là ông giáo chủ Huỳnh Phú Sổ giữ chức ủy viên đặc biệt của Ủy ban. Tuy nhiên, theo Việt Minh, một số lãnh đạo Hòa Hảo có nhiều tham vọng về quyền hành đã lợi dụng danh nghĩa của giáo phái Hòa Hỏa đòi giao những tỉnh có đông tín đồ (như Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Đốc) cho họ cai quản, quản lý. Khi yêu sách này không được đáp ứng, họ 2 lần tổ chức biểu tình tuần hành, kéo vào thị xã Long Xuyên (cuối tháng 8-1945) và thị xã Châu Đốc (đầu tháng 9-1945) định gây bạo loạn cướp chính quyền. Lực lượng vũ trang cách mạng được huy động đến kịp thời giải tán.[83] Theo Archimedes L.A Patti, Hòa Hảo chống lại chủ trương của Việt Minh muốn đàm phán với Đồng Minh nên tổ chức biểu tình đòi vũ trang quần chúng chống lại việc quân Anh, Pháp đổ bộ vào Nam Kỳ[84].
Ngày 9/9/1945, những người đứng đầu Phật giáo Hòa Hảo lại tổ chức tuần hành ở thị xã Cần Thơ với lý do “đi rước Đức Thầy”, thực chất là dự định cướp chính quyền. Chính quyền tỉnh Cần Thơ giải tán cuộc biểu tình này, bắt những người cầm đầu, đưa ra tòa xét xử và kết án tử hình 3 người đứng đầu. Đối với tín đồ, chính quyền giải thích ý đồ của lãnh đạo Hòa Hảo, khuyên họ trở về nhà tiếp tục làm ăn, không để bị lợi dụng.[83]
Với chủ trương đại đoàn kết toàn dân, ngày 6 tháng 2 năm 1946, tại Chợ Mới (Long Xuyên), Nguyễn Hữu Xuyến, Trung đoàn trưởng Khu 8, đã kí với Trần Văn Soái (Năm Lửa), thủ lĩnh một nhóm Hòa Hảo Dân Xã, một thỏa ước nhằm gác bỏ mọi hiềm khích và hiểu lầm cũ, cùng nhau đoàn kết chống thực dân Pháp[83]. Thỏa ước này gồm 3 điều khoản:
- Hai bên cam kết không chống lại nhau.
- Khi một bên bị Pháp tấn công thì bên kia ứng cứu.
- Hai bên phối hợp tổ chức đánh Pháp.
Tháng 6 năm 1946 Hòa Hảo tổ chức lại lực lượng vũ trang lấy tên Nghĩa quân Cách mạng Vệ quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực[85]. Pháp lợi dụng những người chống chính quyền của Việt Minh trong đạo Hòa Hảo, hỗ trợ trang bị và cung cấp tiền bạc cho họ[83]. Pháp mua chuộc những người đứng đầu Hòa Hảo có tư tưởng chống Việt Minh, lập ra nhiều đơn vị vũ trang mới ngoài những đơn vị vũ trang Hòa Hảo khác thành lập từ năm 1944, chiếm cứ một số vùng ở Tây Nam Bộ, gây ra nhiều tội ác với dân chúng.[83] Được Pháp trợ giúp, những người chống Việt Minh lập ra 4 nhóm nhằm mục đích để chống lại Việt Minh. Các nhóm này gồm:
- Nhóm Trần Văn Soái (Năm Lửa), đóng tại Cái Vồn (Vĩnh Long).
- Nhóm Lâm Thành Nguyên (Hai Ngoán), đóng tại Cái Dầu (Châu Đốc).
- Nhóm Lê Quang Vinh (Ba Cụt), đóng tại Thốt Nốt (Long Xuyên).
- Nhóm Nguyễn Giác Ngộ, đóng tại Chợ Mới (Long Xuyên).[83]
Sau một thời gian tạm hòa hoãn với Việt Minh, từ tháng 3-1947, nhóm Trần Văn Soái bỏ không tham gia kháng chiến do Việt Minh lãnh đạo nữa, mà cùng một tiểu đoàn lê dương Pháp mở cuộc càn quét lớn vào 5 làng ở vùng Tân Châu (Châu Đốc). Đại đội 65 Vệ quốc đoàn cùng dân quân du kích địa phương đã đánh trả quyết liệt, buộc lực lượng của Năm Lửa và quân Pháp phải rút lui.[83]
Cuối tháng 3 đầu tháng 4-1947 ở Tịnh Biên, Tri Tôn (Châu Đốc), lực lượng chống Việt Minh đội lốt Hòa Hảo và Cao Đài Tây Ninh liên tục đánh phá vùng Việt Minh kiểm soát, tàn sát dã man thường dân, đốt phá xóm làng, truy lùng cán bộ Việt Minh và quần chúng cốt cán của kháng chiến.[83]
Những người cầm đầu Dân xã Hòa Hảo phát động một cuộc tắm máu ở Tây Nam Bộ vào ngày 6/4/1947. Những người dân không theo Dân xã Hòa Hảo đều bị xem là kẻ thù, bị giết, buộc đá vào cổ, thả trôi sông. Dân chúng vô cùng phẫn uất trước hành động dã man của Dân xã Hòa Hảo.[83] Ngoài việc giết hại dân thường, quân Dân xã Hòa Hảo còn tổ chức các hành động cướp phá ở các tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ.[83]
Ngày 16 tháng 4 năm 1947 Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ đột ngột mất tích khi đến Tân Phú, Đồng Tháp Mười để hòa giải xung đột giữa Việt Minh và Phật giáo Hòa Hảo. Các tài liệu của phương Tây, Việt Nam Cộng hòa đều cho rằng Việt Minh thủ tiêu Huỳnh Phú Sổ.[86][87][88]
Năm 1947, các lực lượng Việt Minh vừa tổ chức tuyên truyền vũ trang, vừa mở một trận đánh lớn tại Kinh 13. Chỉ huy quân sự của Dân xã Hòa Hảo lừa dối tín đồ nói: “Súng Việt Minh bắn không nổ!”, xua tín đồ tràn vào trận địa của Việt Minh. Lực lượng vũ trang của Việt Minh một mặt giải thích cho các tín đồ hiểu, mặt khác đánh quân của Dân xã Hòa Hảo, diệt nhiều lính, thu nhiều súng, có 1 Bazoka. Ở khu vực giữa Phú An – Phú Lâm (Tân Châu), Đại đội 65 đánh bật lực lượng của Dân xã ra khỏi vùng này. Việt Minh mở rộng công tác vũ trang tuyên truyền về hướng Thoại Sơn, tiếp tục tiến công ở Ba Thê, đánh lính lê dương đi tàu sắt đổ bộ lên Mốp Văn và Núi Sập, diệt trên 200 lính.[83]
Tháng 6/1947, nhằm thu hút tín đồ Hòa Hảo tạo thành khối đoàn kết các lực lượng chống Pháp, Việt Minh thành lập Ban Hòa Hảo vận tại Chợ Mới – Nhà Bàn, tập trung hoạt động vùng Long Xuyên, Châu Đốc, tuyên truyền chính sách đại đoàn kết dân tộc, vận động tín đồ Hòa Hảo cùng toàn dân kháng chiến chống xâm lược Pháp.[83]
Do Phật giáo Hòa Hảo có tín đồ rất đông ở miền Tây, nhất là các tỉnh: Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Cần Thơ… Đạo này có tổ chức chính trị là Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng làm nòng cốt, nên có nhiều diễn biến phức tạp ngay cả trong nội bộ của đạo. Những người chống Việt Minh đã lợi dụng danh nghĩa đạo Hòa Hảo, tổ chức nhiều lực lượng vũ trang hợp tác với Pháp, áp bức khủng bố dân chúng, gây ra nhiều tội ác.[83]
Dù vậy, đa số tín đồ là nông dân, khi Việt Minh tích cực vận động thì lần lượt họ giác ngộ và tham gia cuộc kháng chiến do Việt Minh lãnh đạo. Sư thúc Huỳnh Văn Trí là người chỉ huy một đơn vị vũ trang trong kháng chiến đã có công lớn trong công cuộc vận động tín đồ Hòa Hảo tham gia kháng chiến. Trong những năm 1949 – 1950, nhiều đồn bót đã án binh bất động, “trung lập hóa”, không đàn áp dân chúng và tránh không đụng độ với lực lượng Việt Minh.[83]
Đạo Cao Đài là một tôn giáo được thành lập ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, năm 1926. Tên gọi Cao Đài theo nghĩa đen chỉ “một nơi cao”, nghĩa bóng là nơi cao nhất ở đó Thượng đế ngự trị; cũng là danh xưng rút gọn của Thượng đế trong tôn giáo Cao Đài, vốn có danh xưng đầy đủ là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Để tỏ lòng tôn kính, một số các tín đồ Cao Đài thường gọi tôn giáo của mình là đạo Trời.
Cả người Nhật lẫn Việt Minh đều tranh thủ ra sức lôi kéo các nhóm Cao Đài. Do sự vận động của các cán bộ Việt Minh, một nhóm các chức sắc Cao Đài, nòng cốt ở các phái Tiên Thiên, Ban Chỉnh Đạo và Minh Chơn Đạo, đã bí mật thành lập Hội Cao Đài Cứu Quốc. Hội hoạt động chủ yếu ở các vùng xa ở Tây Nam Bộ, bí mật tập hợp lực lượng trên nền tảng Thanh niên Đạo đức đoàn dưới sự lãnh đạo của Cao Triều Phát cố vấn Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, có xu hướng chống cả Pháp lẫn Nhật. Người Nhật thì can thiệp mở lại Tòa Thánh Tây Ninh tại Sài Gòn, đổi lại việc Giáo sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh), người tạm thời thay mặt Hộ pháp Phạm Công Tắc lãnh đạo các tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, tập hợp các tín đồ hợp tác với quân đội Nhật để chống Pháp. Khá đông tín đồ Cao Đài được tuyển làm nhân công của xưởng đóng tàu Nichinan của quân đội Nhật tại Nam Bộ. Một lực lượng bán vũ trang Cao Đài được ra đời với tên gọi Nội ứng nghĩa binh, dưới danh nghĩa được Hoàng thân Cường Để chỉ thị thành lập để liên minh với Nhật Bản.
Trong Cách mạng tháng Tám, nhiều nhóm bán vũ trang Cao Đài đã gia nhập Cao Đài Cứu Quốc và tham gia giành chính quyền ở khắp Nam Bộ. Sau khi giành được chính quyền cuối tháng 8 năm 1945, nhiều chức sắc Cao Đài được chính quyền Việt Minh mời ra tham chính. Tại Tây Ninh, một tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh là ông Trương Văn Xương được mời làm Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chánh tỉnh, một chức sắc Cao Đài thuộc Tòa Thánh Tây Ninh khác là Giáo sư Thượng Chữ Thanh (Đặng Trung Chữ) được mời làm cố vấn.
Khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, các nhóm lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh tham chiến tại các mặt trận số 1 và số 2, chiến đấu ở mặt Đông và Bắc Sài Gòn. Sau khi vào Nam, đặc phái viên Trung ương Nguyễn Bình đã tổ chức hội nghị An Phú Xã, thống nhất tổ chức các đơn vị vũ trang thành các chi đội Vệ Quốc đoàn. Lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh được tổ chức thành 2 chi đội số 7 do Nguyễn Thanh Bạch chỉ huy và chi đội số 8 do Nguyễn Hoài Thanh chỉ huy.
Tuy nhiên, trước sức mạnh của quân Pháp, các mặt trận nhanh chóng tan vỡ. Nhiều đơn vị vũ trang tan rã, hoặc trở thành những lực lượng quân phiệt cát cứ, không chịu sự chỉ huy thống nhất. Một số chức sắc cao cấp và chỉ huy quân sự Cao Đài đã đưa lực lượng của mình tự rút về Tây Ninh và tự xây dựng các căn cứ để bảo vệ Tòa Thánh Tây Ninh.
Hành động cát cứ này là lý do để các phần tử Việt Minh quá khích lên án các tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh là phản bội. Một vài cuộc xung đột đẫm máu đã nổ ra bắt nguồn từ những tín đồ Cao Đài và các phần tử Việt Minh quá khích. Chi đội số 7 và số 8 do Cao Đài chỉ huy bị Việt Minh bao vây tước khí giới. Hàng ngàn tín đồ Cao Đài bị Việt Minh giết, nhiều nhất tại tỉnh Quảng Ngãi (miền Trung) và Trung Lập (miền Nam).[cần dẫn nguồn] Giáo sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh) cũng bị bắt tại Chợ Đệm và bị giải giam tại Cà Mau cùng với Giáo sư Hồ Văn Ngà, Chủ tịch Việt Nam Độc lập Đảng.[89]
Nắm được sự mâu thuẫn này và để tranh thủ thêm đồng minh trong cuộc chiến chống Việt Minh, chính quyền Pháp cho phép Hộ pháp Phạm Công Tắc trở về Tòa Thánh Tây Ninh, đổi lại các tín đồ Cao Đài sẽ không tấn công người Pháp và được quân Pháp bảo trợ. Thậm chí, chính quyền Pháp còn cho phép các lãnh thổ do Tòa Thánh Tây Ninh kiểm soát có quyền tự trị. Lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh được chính quyền Pháp bảo trợ và trang bị vũ khí, do Trung tướng Trần Quang Vinh làm Tổng tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Văn Thành làm Tham mưu trưởng[90], có vai trò như một lực lượng bổ sung (Forces supplétives), hỗ trợ quân Pháp trong các chiến dịch tấn công Việt Minh.
Bất đồng với sự hợp tác này, một số chức sắc Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh tham gia kháng chiến đã gia nhập Cao Đài Cứu Quốc, mở rộng thành Cao Ðài Cứu Quốc 12 phái Hiệp Nhứt. Các lực lượng vũ trang của Cao Đài Cứu Quốc được tập hợp thành Trung đoàn 124, chiến đấu cho đến hết cuộc Kháng chiến chống Pháp dưới quyền chỉ huy của Việt Minh. Phản ứng trước việc này, lãnh đạo Tòa Thánh Tây Ninh tuyên bố trục xuất các chức sắc và tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh nào tham gia Cao Đài Cứu Quốc.
Bình Xuyên
Thiên chúa giáo
Trong chiến tranh Đông Dương
Năm 1951, đảng Cộng sản ra hoạt động công khai, Việt Minh và Liên Việt chính thức hợp nhất, lấy tên là Mặt trận Liên Việt (3 tháng 3 năm 1951), tuy vậy Mặt trận Liên Việt vẫn được nhiều người quen gọi là Việt Minh.
Sau năm 1955, Mặt trận Liên Việt tuyên bố hoàn thành nhiệm vụ và tự giải tán. Ngày 10 tháng 9 năm 1955, một tổ chức kế thừa Mặt trận Liên Việt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời và hoạt động cho đến ngày nay.
Tên gọi Việt Cộng và Vi Xi (VC)
Năm 1954, tại Điện Biên Phủ quân Pháp đã đầu hàng. Theo quy định của Hiệp định Genève được ký kết tại Genève, Thụy Sĩ, Việt Nam được tạm thời chia cắt thành hai vùng tập trung quân sự và một cuộc tổng tuyển cử tự do trên toàn quốc sẽ được tổ chức trong vòng 2 năm và thống nhất đất nước. Phần lớn lực lượng của Việt Minh được tập trung về phía Bắc vĩ tuyến 17. Quân đội thực dân Pháp và đồng minh Quân đội Quốc gia Việt Nam tập trung về phía Nam vĩ tuyến 17.
Các nhà lãnh đạo Việt Minh tin rằng với sự ủng hộ của đa số dân chúng, họ chắc chắn sẽ giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử. Tuy nhiên, Ngô Đình Diệm, dựa vào sự ủng hộ của Hoa Kỳ thông qua Chính sách Truman, đã đè bẹp lực lượng dân chủ đối lập, kẻ thù cá nhân cũng như các nhân vật tình nghi ủng hộ cộng sản tại miền Nam và tuyên bố thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa và từ chối tiến hành tổng tuyển cử. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, tiếp tục đấu tranh để thống nhất đất nước bằng tổng tuyển cử theo hiệp định Genève. Một phần lực lượng Việt Minh tại miền Nam lui vào hoạt động bí mật và sau này đã tuyên bố thành lập Mặt trận dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam vào 1960. Trong các tài liệu, sách báo của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, họ được gọi là Việt Cộng, còn sách báo phương Tây gọi là Viet Cong, hay Victor Charlie, Vietnamese Communist hay V.C. (Vi Xi).
Nguồn tham khảo
- ^ a ă Dương Trung Quốc, sđd, trang 330
- ^ Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7 (1940 – 1945), Trung ương Hội nghị lần thứ tám Đảng Cộng sản Đông Dương. [Ngày 8 tháng 9 năm 2013].
- ^ Hội nghị Trung ương lần thứ VIII Đảng Cộng sản Đông-dương (từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941) (trích). Ngày 27 tháng 5 năm 2003 [Ngày 8 tháng 9 năm 2013].
- ^ Chương trình Việt-Minh Phụ lục Nghị quyết trung ương lần thứ VIII (năm 1941). [Ngày 8 tháng 9 năm 2013].
- ^ Nguyễn Túc. Theo dòng lịch sử: Mặt trận liên Việt 3-3-1951. Ngày 11 tháng 9 năm 2009 [Ngày 8 tháng 9 năm 2013].
- ^ Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh vân vân. Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II. Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2006. Trang 353.
- ^ PV. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Chặng đường 80 năm vẻ vang. Ngày 17 tháng 11 năm 2010 [Ngày 8 tháng 9 năm 2013].
- ^ Lịch sử mặt trận dân tộc thống nhất, Việt Nam độc lập đồng minh hội gọi tắt là Việt Minh. [Ngày 8 tháng 9 năm 2013].
- ^ Trần Hậu. Mặt trận Việt Minh ra đời. Ngày 3 tháng 11 năm 2010 [Ngày 8 tháng 9 năm 2013].
- ^ 辞海编辑委员会。辞海 第六版 彩图本。上海:上海世纪出版股份有限公司、上海辞书出版社,2009年9月。ISBN 978-7-5326-2859-9。第1584页。
- ^ Theo cuốn Ho Chi Minh: The Missing Years của Sophie Quinn thì tổ chức Việt Minh (Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội) này do Hồ Học Lãm, Hoàng Văn Hoan, Lê Thiết Hùng, Phi Vân, Nguyễn Hải Thần và những người khác, thành lập năm 1936
- ^ a ă â b Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, Phần thứ ba: 1935-1942 – Những năm tháng hoạt động cách mạng ở Trung Quốc, Giai đoạn thứ nhất: (1935-1939) Từ Nam Kinh đến Côn Minh, Mục 4: Mất mối liên lạc với Xiêm ủy, ở lại Trung Quốc, Nxb Tin Việt Nam, tháng 7/1986
- ^ William Colby-Một chiến thắng bị bỏ lỡ NXB CAND, trang 108
- ^ Văn kiện Đảng 1930-1945, tập III, Ban NCLSĐTƯ (1977), trang 203
- ^ Nguyễn Xuân Lâm, sđd, trang 352
- ^ a ă Nguyễn Xuân Lâm, sđd, trang 353
- ^ Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, 18/3/2013, Tạp chí Xây dựng Đảng
- ^ Cứu Quốc ngày 7 Tháng Mười 1946
- ^ a ă Dương Trung Quốc, sđd, trang 341
- ^ Văn kiện Đảng 1930-1945, Tập III, sđd, trang 431-450
- ^ Văn kiện Đảng 1930-1945, Tập III, sđd, trang 216-217
- ^ Văn kiện Đảng 1930-1945, Tập III, sđd, trang 448
- ^ Nguyễn Xuân Lâm, sđd, trang 353-354
- ^ Văn kiện Đảng 1930-1945, Tập III, sđd, trang 271-272
- ^ Văn kiện Đảng 1930-1945, Tập III, sđd, trang 271
- ^ Văn kiện Đảng 1930-1945, Tập III, sđd, trang 332
- ^ Thông cáo Đảng Cộng sản Đông Dương tự ý giải tán, ngày 11-11-1945, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8 (1945-1947)
- ^ Những tờ báo tiền thân của Báo Đảng hiện nay, Đại học văn hóa nghệ thuật quân đội
- ^ Đinh Xuân Lâm, sđd, trang 354
- ^ David G. Marr, Vietnam 1945: The Quest for Power, UC Press, 1995
- ^ Đinh Xuân Lâm, sđd, trang 354, 355
- ^ Tài liệu tham khảo lịch sử Cách mạng cận đại Việt Nam, Tập XII, Nhà xuất bản Văn Sử Địa (1957), trang 81
- ^ Đinh Xuân Lâm, sđd, trang 355
- ^ Why Vietnam ?, Archimedes L.A.Patti, Nxb Đà Nẵng, năm 2008, trang 130
- ^ Maurice Isserman, John Stewart Bowman (2003, 1992), Vietnam War, trang 4-5, ISBN 0-8160-4937-8.
- ^ Why Vietnam ?, Archimedes L.A.Patti, Nxb Đà Nẵng, năm 2008, trang 246, 250
- ^ a ă â Why Vietnam ?, Archimedes L.A.Patti, Nxb Đà Nẵng, năm 2008, trang 276, 277
- ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb Đà Nẵng, 2008, trang 352
- ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb Đà Nẵng, 2008, trang 392 – 393
- ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb Đà Nẵng, 2008, trang 608 – 609
- ^ Why Vietnam, Archimedes L.A.Patti, trang 595, Nxb Đà Nẵng, 2008
- ^ Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, Cách mạng tháng Tám (1945), Nhà xuất bản Sự thật (1971), trang 27
- ^ Stein Tonnesson, Vietnam 1946: How the War Began, Chapter 1: A Clash of Republics
- ^ Philippe Devillers,Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952
- ^ báo Cứu quốc ngày 11/9/1945, tr.1
- ^ David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 405 – 406, California: University of California Press, 2013
- ^ David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 405 – 406, California: University of California Press, 2013
- ^ David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 414, California: University of California Press, 2013
- ^ David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 414-415, California: University of California Press, 2013
- ^ David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 415, California: University of California Press, 2013
- ^ a ă â David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 423, California: University of California Press, 2013
- ^ a ă â b David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 424-425, California: University of California Press, 2013
- ^ a ă â Vụ án Ôn Như Hầu qua lời kể của Đại tá Trần Tấn Nghĩa, Báo Công an Nhân dân Điện tử, 8:40, 28/08/2005, Trích: “Theo ông kể, cuối tháng 6/1946, Nha Công an Trung ương nhận được nguồn tin của cơ sở phát hiện được âm mưu của thực dân Pháp câu kết với bọn phản động Quốc dân Đảng đang chuẩn bị thực hiện âm mưu đảo chính chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau khi xin ý kiến trung ương về âm mưu thâm độc này, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí Thư đảng ta lúc bấy giờ đã cho ý kiến chỉ đạo phải tập trung trấn áp bọn phản cách mạng, nhưng phải có đủ chứng cứ.“
- ^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, NXB Trẻ, 2009. Trang 288-289
- ^ a ă Phạm Văn Quyền (chủ biên). 60 năm Công an nhân dân Việt Nam. NXB Công an nhân dân. 2006. trang 104.
- ^ a ă Nguyễn Trọng Khuê (chủ biên). Những trang sử vẻ vang của Công an nhân dân Việt Nam (1945-2005). NXB Công an nhân dân. Hà Nội. 2005. trang 14-16
- ^ Con trai “ông tiên thuốc nam” phá vụ án Ôn Như Hầu
- ^ Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Tổng tập Hồi ký, Những năm tháng không thể nào quên, trang 290
- ^ Phạm Văn Quyền (chủ biên). 60 năm Công an nhân dân Việt Nam. NXB Công an nhân dân. Hà Nội. 2006. trang 105-107.
- ^ a ă David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 427, California: University of California Press, 2013
- ^ David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 426, California: University of California Press, 2013
- ^ David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 426-427, California: University of California Press, 2013
- ^ a ă Sắc lệnh số 8 ngày 5 tháng 9 năm 1945
- ^ a ă Sắc lệnh số 8 ngày 5 tháng 9 năm 1945, Website Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
- ^ David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 407 – 408, California: University of California Press, 2013
- ^ a ă Vụ án phố Ôn Như Hầu, thiếu tướng Lê Hữu Qua, Báo Nhân Dân, ngày 19/8/2005
- ^ a ă Con trai “ông tiên thuốc nam” phá vụ án Ôn Như Hầu, PHÁP LÝ Online
- ^ Penniman, Howard R. Elections in South Vietnam. Stanford, CA: Hoover Institution on War, Revolution and Peace, 1972. tr 166.
- ^ Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta, báo Giáo dục thời đại
- ^ CHÂN DUNG ” NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA” VÀ LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ, Nguyễn Mạnh Quang, CHƯƠNG 5 THỰC CHẤT CỦA MỘT SỐ CHÍNH ĐẢNG CHỐNG PHÁP TRONG NHỮNG NĂM 1930-1946
- ^ a ă â Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hòa Bình (1929 – 2010), Chương 3
- ^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, NXB Trẻ, 2009. Trang 33, 34, 35, 36.
- ^ Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, NXB Trẻ, 2009. Trang 35
- ^ Lê Mậu Hãn (chủ biển), Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư, Đại cương lịch sử Việt Nam – Tập 3, NXB Giáo dục, 2007. Trang 10.
- ^ Hoàng Tường. tr 75
- ^ David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 412-413, California: University of California Press, 2013
- ^ a ă David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 413-414, California: University of California Press, 2013
- ^ Ta Thu Thau: Vietnamese Trotskyist Leader, Ngo Van Xuyet
- ^ a ă â b David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 408 – 409, California: University of California Press, 2013
- ^ Tạ Thu Thâu
- ^ Ta Thu Thau: Vietnamese Trotskyist Leader, http://www.marxists.org
- ^ David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 409-410, California: University of California Press, 2013
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l Lịch sử Tây Nam Bộ kháng chiến, Tập 1 (1945-1954), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2010
- ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nxb Đà Nẵng, 2008, trang 459, 460, 461, 490
- ^ Savani, A. M. Visage et Images du Sud Viet-Nam, trang 89, Saigon: Impremerie Française d’Outre-mer, 1955
- ^ Savani, A. M. Visage et Images du Sud Viet-Nam. Saigon: Impremerie Française d’Outre-mer, trang 90, 1955
- ^ Arthur J. Dommen, The Indochinese Experience of the French and the Americans: Nationalism and Communism in Cambodia, Laos, and Vietnam, page 186, Indiana University Press, 2001
- ^ Minh Võ, Hồ Chí Minh, nhân định tổng hợp, trang 282, Falls Church, VA: Tiếng Quê hương, 2003.
- ^ Bản Cải án Cao Đài, 3 tháng 5 năm 1982, Các chức sắc Cao Đài thuộc Toà Thánh Tây Ninh, 10/4/1982
- ^ “Bản tuyên dương công nghiệp ông Nguyễn Văn Thành”, Tòa Thánh Tây Ninh, 24-11-1972.
Thư mục
- Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (2006). Đại cương Lịch sử Việt Nam – Tập II. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
- Dương Trung Quốc, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia (2005). Việt Nam Những sự kiện lịch sử (1919-1945). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
Xem thêm
|
Sự kiện |
|
|
|
Tổ chức |
|
|
Các lãnh đạo khởi nghĩa |
|
|
Các nhà văn yêu nước |
|
|
Các nhà cách mạng Việt Nam |
|
|
Vua nhà Nguyễn |
|
|
Bộ máy cai trị Pháp |
|
|
Người cộng tác |
|
|
Thể loại:
Đường Trường Sơn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Về các con đường khác cùng tên “Đường Hồ Chí Minh”, xem Đường Hồ Chí Minh (định hướng).
Đường Trường Sơn hay đường mòn Hồ Chí Minh (người Mỹ dùng từ Ho Chi Minh Trail để gọi con đường này) là mạng lưới giao thông quân sự chiến lược chạy từ lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào tới lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa, đi qua miền Trung Việt Nam, hạ Lào, và Campuchia. Hệ thống này cung cấp binh lực, lương thực và vũ khí khí tài để chi viện cho Quân Giải phóng miền Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam trong 16 năm (1959–1975) của thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Binh đoàn Trường Sơn (đoàn 559) Quân đội Nhân dân Việt Nam là đơn vị triển khai các đơn vị công binh, hậu cần, y tế, bộ binh và phòng không để đảm bảo hoạt động của hệ thống đường này. Đường Trường sơn còn được những người lính trong cuộc chiến gọi là tuyến lửa.
Ở Việt Nam, hệ thống đường này đặt tên là Đường Trường Sơn, lấy tên của dãy Trường Sơn – dãy núi chạy dọc miền Trung Việt Nam, nơi hệ thống này đi qua. Về sau, hệ thống này có thêm tên gọi Đường mòn Hồ Chí Minh, tên gọi này (Ho Chi Minh trail) có nguồn gốc từ Mỹ.[1]
Trong Chiến tranh Việt Nam, lực lượng quân sự Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã đánh phá hệ thống giao thông này bằng các chiến dịch bộ binh và không quân. Một hệ thống máy móc điện tử, thường được gọi là Hàng rào Điện tử McNamara, đã được sử dụng để giúp hướng dẫn máy bay ném bom. Ngoài ra, chất độc màu da cam cùng một số loại chất độc diệt cỏ khác đã được rải xuống nhiều vùng rừng trên đường Trường Sơn làm trụi lá cây, các dự án tạo mưa và các chất hóa học tạo bùn cũng được Mỹ sử dụng để phá đường. Theo văn bản lịch sử chính thức của Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (National Security Agency), đường Trường Sơn được coi là “một trong những thành tựu vĩ đại của nền kỹ thuật quân sự ở thế kỷ 20.”[2]
Ngày nay, tuyến tây Trường Sơn (địa phận Lào) nhiều nơi đã thành vùng bỏ hoang, một vài điểm được xây dựng trở thành di tích lịch sử. Năm 2000, Đường Hồ Chí Minh, con đường xuyên Việt thứ hai sau Quốc lộ 1, bắt đầu được xây dựng trên tuyến đông Trường Sơn.
Lịch sử
Hình thành (1959-1965)
Đường Trường Sơn, 1959-1964
Một số phần của Đường Trường Sơn vốn đã tồn tại từ hàng thế kỷ dưới hình thức các con đường mòn sơ khai dành cho việc giao thông buôn bán trong vùng. Khu vực mà hệ thống đi qua đã là một trong những vùng đất địa hình hiểm trở nhất Đông Nam Á: núi cao, ít dân, rừng rậm nhiệt đới. Trong những năm đầu của Chiến tranh Đông Dương, Việt Minh đã sử dụng hệ thống đường mòn này làm đường nối liền Bắc Nam, một trong các tuyến đường đưa cán bộ di chuyển giữa hai miền để tránh sự truy quét của quân Pháp. Tháng 5 năm 1958, các lực lượng thuộc Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) và Pathet Lào đã chiếm giữ các nút giao thông tại Sê-pôn (Tchepone), trên đường 9 thuộc địa phận Lào.[3]
Sau khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa ra đời, dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, đã phủ nhận tổng tuyển cử toàn quốc theo Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954, đưa đến việc chia cắt Việt Nam. Để tiếp tục chi viện cho những người Cộng sản miền Nam, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định xây dựng những con đường chiến lược. Trên cơ sở đó đã có 2 tuyến đường được xem xét là tuyến đường bộ qua dãy Trường Sơn và tuyến đường biển trên biển Đông.
Năm 1959, khi xung đột quân sự lên cao giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và chính phủ Ngô Đình Diệm, chính phủ Hà Nội gửi Đoàn 559 mới được thành lập vào tháng 9 vào Nam để xây dựng hệ thống đường Trường Sơn với lực lượng gồm một tiểu đoàn giao liên D301 với 440 người. Đoàn trưởng là Thượng tá (sau là Thiếu tướng) Võ Bẩm. Đoàn có nhiệm vụ vừa vận chuyển vừa mở đường hành quân. Với phương châm “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng” để đảm bảo bí mật tối đa, toàn bộ vũ khí và hàng mang theo đều là các loại cũ từ thời Pháp, thậm chí đoàn còn dùng ván gỗ để khi đi không để lại dấu vết trên đất rừng.
Sau đó, đoàn 559 chuyển các tuyến giao thông của mình sang sườn Tây của dãy Trường Sơn.[4] Một năm sau, đoàn 559 đã đạt được quân số 6.000 người với hai trung đoàn 70 và 71.[5] Con số này không bao gồm các lực lượng chiến đấu với nhiệm vụ bảo vệ hay dân công Việt và Lào. Trong những ngày đầu của cuộc xung đột, đường Trường Sơn chỉ được dùng để chuyển quân, do khi đó việc vận chuyển súng đạn vào Nam qua đường biển có hiệu quả cao hơn.[6] Sau các cố gắng của hải quân Mỹ nhằm ngăn chặn hoạt động này trên vùng biển ven bờ Chiến dịch Market Time, đường Trường Sơn phải làm cả hai nhiệm vụ. Hàng chuyển vào từ miền Bắc được lưu trong các kho tàng dọc theo biên giới mà sau được gọi là các “Khu căn cứ”, những nơi này đến lượt nó lại trở thành các thánh địa cho các lực lượng Quân giải phóng và Quân đội Nhân dân Việt Nam dưỡng quân và tái trang bị sau khi thực hiện các hoạt động quân sự bên trong lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa.
Các khu căn cứ của Đoàn 559 trên lãnh thổ Lào (tài liệu trinh sát của CIA)
Có 5 khu căn cứ lớn trong vùng cán xoong của Lào (xem bản đồ). Căn cứ 604 là trung tâm hậu cần chính; từ đó, quân và quân nhu được điều phối vào Vùng 1 chiến thuật của Việt Nam Cộng hòa và các căn cứ khác xa hơn ở phía Nam. Căn cứ 611 hỗ trợ vận tải từ căn cứ 604 tới căn cứ 609; cung cấp xăng dầu và đạn dược cho căn cứ 607 và tới tận thung lũng A Sầu ở Thừa Thiên. Căn cứ 612 được dành để hỗ trợ Mặt trận B3 tại Tây Nguyên. Căn cứ 614 nằm giữa Chavane (Lào) và Khâm Đức (Nam Việt Nam) vận chuyển quân và hàng hóa vào Vùng 2 chiến thuật và Mặt trận B3. Căn cứ 609 giữ vai trò quan trọng, do mạng lưới đường ở đây có thể dùng để vận chuyển quân nhu trong mùa mưa.[7] Ban đầu, hàng hóa được vận chuyển bằng xe đạp thồ, xe bò. Đến tháng 12 năm 1961, Đoàn vận tải 3 của Cục Hậu cần đã trở thành đơn vị vận tải cơ giới đầu tiên của QĐNDVN phục vụ trên đường Trường Sơn. Từ đây, vận tải cơ giới tăng lên nhanh chóng.[8]
Có hai loại đơn vị thuộc Đoàn 559, các binh trạm và các đơn vị giao liên. Một binh trạm tương đương với một trung tâm hậu cần cấp trung đoàn, có trách nhiệm bảo vệ một đoạn đường. Trong khi các đơn vị độc lập chịu trách nhiệm an ninh, công binh, và các chức năng đánh tín hiệu, binh trạm cung cấp các nhu yếu phẩm hậu cần. Các trạm giao liên thường đóng cách nhau một ngày đường đi bộ, có trách nhiệm cung cấp lương thực, chỗ trú, y tế, và dẫn đường tới trạm tiếp theo. Đến tháng 4 năm 1965, chỉ huy Đoàn 559 là Tướng Phan Trọng Tuệ, quân số gồm 24.000 người trong 6 tiểu đoàn vận tải bằng xe tải, 2 tiểu đoàn vận tải xe đạp thồ, một tiểu đoàn vận tải đường thủy, 8 tiểu đoàn công binh, và 45 trạm giao liên. Khẩu hiệu của Đoàn 559 khi đó là “Đánh địch mà tiến, mở đường mà đi.”[9]
Hệ thống đường Trường Sơn phát triển thành một mạng lưới phức tạp của các con đường đất (một số nơi rải đá hoặc lót ván gỗ) rộng khoảng 5,5 m, đường cho người đi bộ và xe đạp thồ, bãi đỗ xe tải. Còn có kho chứa, bãi chứa hàng, doanh trại, bệnh viện, và các cơ sở vật chất khác. Tất cả được che giấu khỏi quan sát từ trên không bằng một hệ thống ngụy trang tự nhiên và nhân tạo không ngừng được mở rộng và củng cố.
Thời tiết ở vùng Đông Nam Lào đóng vai trò quan trọng cả trong nỗ lực hậu cần và cả trong cố gắng của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa nhằm phá đường. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9, trong thời gian này, trời luôn nhiều mây, mưa nhiều, nhiệt độ cao. Mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3, khí hậu tương đối khô hơn và nhiệt độ thấp hơn. Do mạng lưới đường chủ yếu là đường đất, khối lượng vận chuyển chủ yếu (và các hoạt động quân sự mà nó hỗ trợ) được thực hiện vào mùa khô. Về sau, hệ thống đường được bổ sung bởi vận tải đường sông, kiểu vận tải này cho phép chuyển các khối lượng lớn quân nhu ngay cả trong mùa mưa.
Ngăn chặn và mở rộng (1965-1968)
Đường Trường Sơn, 1965-1968
Đầu năm 1965, Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ được cử làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Đoàn 559. Cuối năm 1965, Đại tá Hoàng Văn Thái được cử làm Tư lệnh và Đại tá Vũ Xuân Chiêm được cử làm Chính ủy Đoàn 559. Đến cuối năm 1966, Đại tá Đồng Sĩ Nguyên được cử làm Tư lệnh Đoàn 559 cho đến khi Đoàn 559 kết thúc nhiệm vụ lịch sử của mình (1976).
Theo ước lượng của tình báo Mỹ, trong năm 1961 số quân vào Nam theo đường Trường Sơn là 5.843, năm 1962 12.675 (con số thực là 5.300); năm 1963 7.693 (thực tế 4.700); và năm 1964 là 12.424 (thực tế là 9.000).[10] Năm 1964, khả năng cung ứng của đường Trường Sơn đã đạt đến từ 20 đến 30 tấn mỗi ngày.[5] Năm 1965, nhờ có các tuyến đường mới mở (trong đó có các tuyến đi qua Campuchia), lượng quân nhu được chuyển vào Nam trong năm này gần bằng tổng của 5 năm trước.
Đến năm 1965, việc ngăn chặn hệ thống đường Trường Sơn đã trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu của Mỹ, nhưng các chiến dịch chống phá gặp khó khăn bởi thiếu lực lượng và bởi tính “trung lập” của Lào. Các vấn đề phức tạp của chính trị Lào cùng với sự can thiệp của Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã dẫn tới một chính sách chung là hai bên cùng lờ nhau[11], và tiếp tục vi phạm tính trung lập của Lào: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa củng cố và mở rộng hệ thống hậu cần trên đất Lào và hỗ trợ lực lượng đồng minh Pathet Lào; Mỹ không ngừng ném bom đường Trường Sơn và xây dựng hỗ trợ một đội quân bí mật để đánh lại lực lượng cộng sản.[12] Tuy nhiên quân đội Mỹ được lệnh không ra khỏi biên giới Việt Nam Cộng hòa vì Tổng thống Mỹ không muốn mở rộng chiến tranh.[13]
Ngày 14 tháng 12 năm 1964, Không lực Mỹ thực hiện Chiến dịch Barrel Roll lần đầu ném bom một cách có hệ thống phần đường tại Lào.[14] Ngày 20 tháng 3 năm 1965, sau khi Chiến dịch Sấm Rền đánh phá miền Bắc và Bắc Trung Bộ mở màn, Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson đã chấp thuận một cuộc leo thang quân sự nhằm phá đường Trường Sơn.[15] Chiến dịch Barrel Roll tiếp diễn ở vùng Đông Bắc Lào, trong khi vùng cán xoong phía nam bị ném bom bởi Chiến dịch Steel Tiger. Đến giữa năm, số phi vụ đã tăng từ 20 lên 1.000 lượt mỗi tháng. Trong tháng 1 năm 1965, chỉ huy Mỹ tại Sài Gòn yêu cầu kiểm soát các chiến dịch ném bom tại các vùng Lào giáp ranh với 5 tỉnh phía Bắc Việt Nam Cộng hòa. Đến đây, vùng này thuộc về địa bàn của Chiến dịch Tiger Hound.[16]
Mùa mưa hàng năm làm ảnh hưởng tới các hoạt động vận tải của đường Trường Sơn và cũng gây khó khăn cho các chiến dịch ném bom. Ngoài ra, sương mù buổi sớm và khói do tập tục đốt rẫy của dân cư thiểu số cũng cản trở việc ném bom. Trong năm 1968, Không quân Mỹ thực hiện hai thí nghiệm với hy vọng làm trầm trọng hơn nữa kiểu thời tiết xấu của mùa mưa. Dự án Popeye là một cố gắng nhằm kéo dài vô hạn mùa mưa trên đường Trường Sơn bằng cách tạo mây. Dự án bắt đầu thử nghiệm vào tháng 9 trên vùng lưu vực sông Kong – con sông chảy qua địa bàn của các chiến dịch Steel Tiger và Tiger Hound. Mây được tạo trong không trung bằng các đám khói bạc iodide và sau đó được kích hoạt bằng một mồi nổ bắn ra từ súng bắn pháo sáng. Dự án thử nghiệm thành công và chương trình đã được thực hiện cho đến tháng 7 năm 1972.[17]
Dự án Commando Lava được bắt đầu thử nghiệm vào tháng 5. Các nhà khoa học ở công ty Dow Chemical đã chế tạo một dung dịch hóa học mà khi trộn với nước mưa sẽ phá hủy tính ổn định của các thành phần của đất và tạo ra bùn. Những thành viên quân sự và dân sự của chương trình này đã rất hứng thú, họ cho rằng họ đang “tạo bùn chứ không gây chiến.”[18] Tuy nhiên, thử nghiệm không cho kết quả tốt, chất này chỉ có tác dụng ở một số vùng, tùy theo thành phần của đất.
Trên mặt đất, ban đầu, CIA và Quân đội Hoàng gia Lào có trách nhiệm ngăn chặn, làm chậm, hoặc ít nhất là theo dõi hoạt động của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Về sau, nhiệm vụ này do các đội thám báo Lào cho CIA xây dựng thực hiện. Đến tháng 10 năm 1965, Tướng William Westmoreland, chỉ huy quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam, nhận được thẩm quyền tung lực lượng biệt kích Mỹ vượt qua biên giới. Ngày 18 tháng 11, lực lượng bí mật SOG (Military Assistance Command, Vietnam Studies and Observations Group) thực hiện đặc vụ “vượt hàng rào” đầu tiên vào đất Lào.[19] Đây là khởi đầu của một nỗ lực thám báo không ngừng mở rộng của SOG cho đến khi tổ chức này được giải thể vào năm 1972. Ngày 10 tháng 12, một vũ khí khác của Mỹ đã được đưa vào sử dụng, đó là trận ném bom đầu tiên của pháo đài bay B-52 xuống đường Trường Sơn.[20]
Tuy nhiên, các cố gắng trên không chặn hoặc giảm được nhịp độ vận chuyển vào Nam. Mặc dù vậy, các nhà sử học Mỹ vẫn đánh giá các chiến đánh phá này không vô ích, do 10 ngàn quân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bị giữ lại để bảo vệ và duy trì đường Trường Sơn thay vì vào Nam chiến đấu.[21][22]
Năm 1966, Mỹ ước tính tổng số quân vào Nam qua đường Trường Sơn là từ 58.000 đến 90.000 người, trong đó có ít nhất 5 trung đoàn hoàn chỉnh.[23] Mùa khô năm 1966-1967 đánh dấu bước chuyển lớn về chiến thuật vận tải của đoàn 559 từ “phòng tránh tích cực” sang “tiến công” hợp đồng binh chủng. Các sở chỉ huy được chuyển ra gần đường, các lực lượng phòng không, công binh đóng sát đường để hỗ trợ kịp thời và hiệu quả hơn cho lực lượng vận tải chủ công. Nhiều tuyến đường phụ, đường vòng được mở thêm để đảm bảo thông đường cho xe chạy. Đến cuối năm 1967, mạng lưới đường đã lên 2.959 km đường ô tô, trong đó có 275 km đường chính, 576 km đường vòng, và 450 đường vào cùng các kho chứa.[24]
Bộ đội Trường Sơn còn sử dụng sông Kong và sông Bang Fai để chở lương thực, nhiên liệu, và đạn dược bằng cách cho hàng vào các thùng thép và thả trôi sông, các thùng này được thu lại ở đầu kia bởi các hề thống lưới và rào gỗ. Người Mỹ đã không biết rằng trong năm 1967, để chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công Mậu Thân 1968, hơn 81.000 tấn hàng đã được vận chuyển và cất giữ[25], 200.000 quân, trong đó có 7 trung đoàn bộ binh và 20 tiểu đoàn độc lập đã vào Nam[26].
Quân nhu được vận chuyển theo đoàn được hộ tống từ miền Bắc theo từng chặng, xe tải chỉ chạy đi về giữa hai trạm, dỡ hàng và lấy hàng mới tại mỗi trạm. Nếu một xe tải bị hỏng hoặc bị bom phá, nó sẽ được thay bằng một xe của trạm gần nhất phía Bắc, và cứ như vậy cho đến khi một xe tải mới được đưa vào tại trạm cuối ở miền Bắc. Cuối cùng, khi hàng tới trạm giao liên cuối cùng ở phía Nam, hàng được bốc dỡ, cất vào kho, đưa lên các phương tiện vận tải thủy, hoặc do người vác vào miền Nam Việt Nam.
Để tránh bom, các đơn vị vận tải thường chỉ chạy khi trời tối, cao điểm là lúc gần sáng. Khi máy bay Mỹ tới, giao thông sẽ dừng lại cho đến khi trời gần sáng, khi các máy bay ném bom và bắn phá ban đêm trở về căn cứ. Rồi xe lại chạy, cao điểm tiếp theo là khoảng 6 giờ sáng khi các lái xe cố gắng đưa xe về điểm tập kết trước khi mặt trời mọc và các đợt máy bay buổi sáng bắt đầu.[27]
Thời kỳ 1968-1972
Đường mòn Hồ Chí Minh, 1969-1973
Cuối năm 1968, tình báo Mỹ đã có một phát hiện gây sốc, đó là phát hiện về hệ thống đường ống dẫn xăng dầu chạy ở phía tây nam từ Vinh.[28] Đến đầu năm 1969, hệ thống này đã vượt qua biên giới với Lào, và đến năm 1970 đã vươn tới gần thung lũng A Sầu ở tỉnh Thừa Thiên. Được hỗ trợ bởi nhiều trạm bơm nhỏ, đường ống bằng nhựa đã có thể chuyển dầu diesel, xăng và dầu hỏa qua cùng một ống. Nhờ các nỗ lực của Trung đoàn đường ống 592 Quân đội Nhân dân Việt Nam, đến năm 1970, số đường ống vào Lào đã tăng lên 6.[29]
Năm 1970, Đoàn 559 được nâng lên mang mức quân khu. Chỉ huy thời kỳ này là Đại tá Đồng Sỹ Nguyên – Tư lệnh và Đại tá Vũ Xuân Chiêm – Chính ủy. Năm 1971, Đại tá Đặng Tính được cử làm Chính ủy (Chính ủy Đặng Tính gặp tai nạn và mất trên đường đi công tác năm 1973). Binh đoàn được tổ chức lại thành 5 bộ tư lệnh khu vực ngang cấp sư đoàn là: 470, 471, 472, 473, và 571. Lực lượng binh đoàn bao gồm 4 trung đoàn vận tải, 2 trung đoàn đường ống dẫn dầu, 3 trung đoàn pháo phòng không, 8 trung đoàn công binh, và Sư đoàn 968 Bộ binh. Đến cuối năm, đoàn 559 đã có 27 binh trạm, vận chuyển 40.000 tấn hàng với tỉ lệ mất mát của năm đó là 3.4%.[30]
Cho đến năm 1970, gần 80% lượng hàng được chuyển từ Bắc vào Nam là qua Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển, dỡ tại cảng Sihanoukville ở Campuchia, rồi từ đó đưa vào miền Nam Việt Nam. Sau vụ đảo chính của tướng Lon Nol tại Campuchia năm 1970, và việc đóng cảng Sihanoukville đối với tàu từ miền Bắc Việt Nam, đường Trường Sơn phải làm thêm nhiệm vụ của đường Hồ Chí Minh trên biển. Có lẽ do dự đoán trước khả năng mất đường hậu cần phía Nam nên từ năm 1969, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã bắt đầu nỗ lực hậu cần lớn nhất trong cả cuộc chiến.[31] Năm 1970, họ chiếm các thị xã Lào Attopeu và Saravane ở chân cao nguyên Bolovens, kéo dài hệ thống vận tải trên sông Kong vào Campuchia. Quân đội Nhân dân Việt Nam còn thành lập Đoàn Vận tải 470 để quản lý dòng người và hàng đi tới các chiến trường mới trong lãnh thổ Campuchia.[32] “Con đường Giải Phóng” mới này rẽ sang Tây từ đường Trường Sơn tại Mường May ở Nam Lào, đi song song với sông Kong để vào Campuchia.
Cuối cùng, tuyến đường mới này kéo dài qua Siem Prang tới sông Mekong đoạn ở gần Stung Treng, Campuchia.[33] Trong năm 1971 Quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm Paksong và tiến tới Pakse tại trung tâm cao nguyên Bolovens. Năm sau, Quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm được Khong Sedone. Họ còn tiếp tục một chiến dịch được bắt đầu từ năm 1968 để dọn sườn phía đông của đường Trường Sơn. Trong năm đó, các cứ điểm của các Lực lượng Đặc biệt của Mỹ tại Khe Sanh và Khâm Đức (cả hai đều do SOG sử dụng làm các căn cứ tiền phương cho các hoạt động biệt kích chống phá đường Trường Sơn) đều bị bỏ hoặc đánh bại.[34] Năm 1970, số phận tương tự đã xảy đến cho một căn cứ khác tại Dak Seang. Hành lang vận chuyển từng rộng chỉ 20 dặm nay đã trải rộng 90 dặm từ Đông sang Tây. Năm 1971, “đường kín” dưới tán rừng bắt đầu được xây đựng. Đến năm 1973, xe tải có thể chạy suốt dọc đường mà không ra khỏi mái ngụy trang, ngoại trừ khi đi qua suối cạn hay vượt suối qua các ngầm (loại cầu được xây ngay dưới mặt nước).[35]
Chiến dịch Commando Hunt và Igloo White
Đến năm 1968, hệ thống hậu cần của miền Bắc đã mở rộng và hiện đại hóa. Ngoài ra, khoảng 43.000 người Việt và Lào đã tham gia điều khiển, nâng cấp, hoặc mở rộng hệ thống đường.[36] Lượng bom ném xuống Trường Sơn đạt đỉnh năm 1969, với khoảng 433.000 tấn ném xuống Lào.[37] Đây là thời điểm kết thúc của chiến dịch Rolling Thunder và mở đầu của chiến dịch Commando Hunt (tháng 11 năm 1968).
Các nỗ lực ném bom liên tục này được chỉ dẫn bởi chiến dịch Igloo White hoạt động tại Nakhon Phanom, Thái Lan. Chiến dịch này gồm ba phần: các thiết bị cảm ứng địa chấn và âm thanh thu thập thông tin tình báo trên đường Trường Sơn (hàng rào điện tử MacNamara), các máy tính tại Trung tâm Giám sát Thâm nhập (Infiltration Surveillance Center – ICS) đặt tại Thái Lan thu thập thông tin và ước tính các đường vận tải và tốc độ xe; các kíp máy bay được ISC chỉ dẫn để đánh phá các mục tiêu.[38] Nỗ lực này còn được hỗ trợ bởi các nhóm biệt kích SOG. Ngoài các nhiệm vụ do thám, đặt máy nghe trộm, và đánh giá thiệt hại do bom, các nhóm này còn tự tay lắp đặt các thiết bị cảm ứng cho chiến dịch Igloo White.
Đến giai đoạn cuối của chiến dịch Commando Hunt (tháng 10 năm 1970 – tháng 4 năm 1972) số phi vụ máy bay bắn phá mỗi ngày là 182 máy bay tiêm kích, 13 máy bay chiến đấu (fixed wing gunship) và 21 B-52.[39]
Quân đội Nhân dân Việt Nam đáp trả máy bay Mỹ bằng lực lượng pháo phòng không ngày càng mạnh. Năm 1968, lực lượng này chỉ gồm các vũ khí 37-mm và 57-mm do radar điều khiển. Năm sau đã xuất hiện súng 85-mm và 100-mm, đến năm 1972, đường Trường Sơn đã được bảo vệ bởi hơn 1.500 khẩu súng phòng không.[40] Ngày 29 tháng 3 năm 1972, máy bay AC-130 đã bị bắn rơi trong một phi vụ ban đêm bởi tên lửa đất đối không vác vai SAM-7 ở gần Tchepone.[41]
Trong các loại vũ khí bắn phá Trường Sơn, máy bay chiến đấu AC-130 Spectre với kính ngắm hồng ngoại và súng 40 mm được phía Viêt Nam Dân chủ Cộng hòa đánh giá là hiệu quả nhất, kiểm soát và hạn chế phần nào hoạt động vận tải về đêm,[30] phá hủy 2.432 xe tải trong tổng số 4.000 xe bị bom phá trong mùa khô 1970-71.[42]
Để đối phó với máy bay AC-130, tháng 2 năm 1972, một tuyến “đường kín” dài 800 km hoàn thành và bắt đầu đưa vào sử dụng. Trên tuyến này, xe chạy dưới tán rừng già, chạy hoàn toàn vào ban ngày để tránh bị máy bay phát hiện. Xe chạy theo đội hình trung đoàn liền trên toàn tuyến chứ không chạy theo chặng nên thời gian giảm được từ 10 đến 15 ngày. Ban đêm, các đội xe vẫn tiếp tục chở hàng trên “đường hở”, kết hợp với việc nghi binh bởi các xe hỏng chạy thật để bẫy AC-130 cho lực lượng phòng không tấn công. Đến tháng 8 năm 1972, chiếc AC-130 thứ hai đã bị bắn rơi bằng tên lửa SAM-2. Sau vụ này, AC-130 phải lui về hoạt động ở phía Nam đường 9. Tuyến “đường kín” này đã đem lại hai kết quả quan trọng: (1) nỗ lực của Mỹ dùng máy bay AC-130 để đánh phá và chặn xe đã bị vô hiệu hóa; (2) việc vận tải được thực hiện theo cung dài đội hình lớn, đi thắng từ đầu đến cuối tuyến, kết thúc những năm tháng dai dẳng xe phải chạy ban đêm, vận chuyển theo từng cung trạm, vừa chậm vừa kém hiệu quả.
Chiến dịch Lam Sơn 719
Đầu tháng 2 năm 1971, 16.000 (sau là 20.000) quân Viêt Nam Cộng hòa vượt biên giới Lào, tiến theo Đường 9 về phía trung tâm hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Sê-pôn (Tchepone). Chiến dịch Lam Sơn 719, cuộc tấn công được mong chờ đã lâu vào hệ thống đường Trường Sơn và cuộc thử nghiệm của chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, đã bắt đầu. Quân đội Mỹ (ngoại trừ các đơn vị không quân, pháo binh, trực thăng) theo luật không được tham gia cuộc xâm lược[43]. Đầu tiên, chiến dịch tiến triển tốt, chỉ gặp phải ít kháng cự. Tuy nhiên, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chuẩn bị cho trận chiến này từ lâu, họ nhanh chóng điều đến một lực lượng cuối cùng lên đến 60.000 quân, đợi khi thời cơ đến phản công cô lập và tiêu diệt từng cánh quân của QLVNCH.[44]
Đường Trường Sơn, 1973-1975
Chiến trận nổ ra tại Nam Lào không giống với bất cứ trận chiến nào trước đó trong Chiến tranh Việt Nam, lần đầu tiên Quân đội Nhân dân Việt Nam có sự hiệp đồng binh chủng: bộ binh tấn công với sự hỗ trợ của xe tăng và pháo hạng nặng đè bẹp các vị trí của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại các cánh và đội hình chính. Hỏa lực phòng không phối hợp đã làm cho sự hỗ trợ và vận tải bằng không quân trở nên khó khăn và thiệt hại lớn, 108 trực thăng bị bắn rơi và 618 chiếc khác bị bắn hỏng.[45] Tuy đổ được quân vào một vài điểm cao phía Đông Tchepone và đưa được quân trinh sát vào trong thị trấn, nhưng đó là một chiến thắng không mấy giá trị, vì Quân lực Việt Nam Cộng hòa sau đó đã phải nhanh chóng rút lui. Quân đội Nhân dân Việt Nam khép chặt gọng kìm và chặn đánh trên suốt quá trình rút lui. Tuy được hỗ trợ bởi hỏa lực mạnh của Mỹ, nhưng Quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn chịu thiệt hại nặng nề. Đến ngày 25 tháng 3, chiến sự kết thúc, các đơn vị cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa vượt biên giới với đối phương đuổi sát phía sau. Chiến dịch này được coi là một thất bại đẫm máu của liên quân Mỹ-Việt Nam Cộng hòa, cả với vai trò thử nghiệm của Việt Nam hóa chiến tranh (bên tấn công chịu thương vong là một nửa quân số) và với vai trò phá hệ thống hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam (trong gần hai tháng diễn ra chiến dịch và tham gia chiến dịch, chẳng những vận tải không bị tắc, mà khối lượng hàng chuyển giao các chiến trường tăng gấp hai lần, thời gian đưa hàng đến đích cũng nhanh hơn, chỉ bằng nửa thời gian trước đó[46]).
Đường tới chiến thắng (1973-1975)
Sau Hiệp định Paris năm 1973, Mỹ ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam và Lào. Tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn được phát triển nhanh chóng, toàn diện, quy mô lớn trên tất cả các mặt. Đường Trường Sơn được nâng cấp tuyến phía Tây. Năm 1974, đường mở thêm tuyến phía Đông.
Năm 1973, hệ thống đường Trường Sơn bao gồm một con đường (rải sỏi và đá vôi) rộng hai làn xe, chạy từ các cửa khẩu ở Bắc Trung Bộ tới dãy Chu Pông ở miền Nam. Năm sau, đã có 4 làn hoàn chỉnh từ Tây Nguyên đến tận tỉnh Tây Ninh ở phía tây bắc Sài Gòn. Đường ống dẫn dầu duy nhất đã từng kết thúc tại thung lũng A Sầu nay bao gồm 4 đường (đường lớn nhất có đường kính 200 mm) kéo về phía Nam tới tận Lộc Ninh[47]
Tháng 7 năm 1973 Binh đoàn Trường Sơn được tổ chức lại, nâng lên cấp cao hơn, các bộ phận cấp trung đoàn được chuyển lên cấp sư đoàn, và các binh trạm được nâng lên cấp trung đoàn. Bộ Tư lệnh Trường Sơn có tám sư đoàn (gồm hai sư đoàn ô tô vận tải: 571, 471; bốn sư đoàn công binh: 470, 472, 473, 565; Sư đoàn phòng không 377, Sư đoàn bộ binh 968) và một số trung đoàn trực thuộc (gồm: 6 trung đoàn cao xạ, 1 trung đoàn bộ binh, 4 trung đoàn đường ống xăng dầu, 2 trung đoàn cầu, 2 trung đoàn thông tin, 1 trung đoàn vận tải đường sông, 1 trung đoàn giao liên cơ giới, 1 trung đoàn kho, 1 trung đoàn huấn luyện, an dưỡng). Lực lượng thanh niên xung phong trên tuyến gồm 4 đoàn – tương đương trung đoàn, với gần 10 nghìn nam nữ thanh niên. Chỉ huy thời kỳ này là Đại tá Đồng Sĩ Nguyên – Tư lệnh và Đại tá Hoàng Thế Thiện – Chính ủy. Năm 1974, Đại tá Đồng Sĩ Nguyên được thăng vượt cấp lên Trung tướng, Đại tá Hoàng Thế Thiện được thăng cấp Thiếu tướng. Đầu năm 1975, Đại tá Lê Xy được cử làm Chính ủy.
Quân bổ sung cho các chiến trường đều được hành quân bằng cơ giới, chấm dứt hành quân bộ. Trong mùa khô 1973-1974, mỗi tháng chuyển được trên 30.000 đến 50.000 quân qua tuyến. Trước đây, bộ đội hành quân bộ từ miền Bắc vào chiến trường B2 mất hơn ba tháng, nay chỉ mất hơn chục ngày. Đây là một bước tiến nhảy vọt về chất trong tổ chức hành quân. Đối với hàng, đội hình vận chuyển chủ yếu là trung đoàn, chạy hoàn toàn ban ngày, đi thẳng từ nơi nhận hàng tới nơi giao hàng.
Đến mùa hè năm 1974, đường đông và tây Trường Sơn đã hình thành một hệ thống liên hoàn, vững chắc, là cơ sở hạ tầng bảo đảm chi viện liên tục vật chất, cơ động lực lượng, binh khí kỹ thuật, bảo đảm cho đòn tiến công chiến lược khi thời cơ đến. Đồng thời, tuyến hành lang đông – tây Trường Sơn đã hình thành một căn cứ hậu cần chiến lược, chiến dịch. rộng trên 130 nghìn cây số vuông, nối liền hậu phương lớn miền Bắc với các chiến trường nam Đông Dương, là chỗ dựa vững chắc cho các chiến trường. Đây là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi nhiệm vụ chi viện của hậu phương chiến lược miền Bắc cho các chiến trường tại miền Nam, Lào và Campuchia.
Tổng kết
Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn
Tính đến ngày Việt Nam thống nhất, đường Trường Sơn đã tồn tại gần 6000 ngày đêm. Các lực lượng công binh, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến Trường Sơn gồm khoảng 120.000 người đã làm nên mạng đường liên hoàn, vững chắc với 5 hệ thống đường trục dọc, 21 đường trục ngang, nối Đông với Tây Trường Sơn, vươn tới các chiến trường, với tổng chiều dài gần 2 vạn km đường ô tô, 1.400 km đường ống dẫn xǎng dầu, 3.140 km “đường kín” cho xe chạy ban ngày và hàng ngàn cầu, cống, ngầm.
Trong các chiến dịch đánh phá từ năm 1965 đến năm 1972, Mỹ đã huy động khoảng 733.000 chuyến máy bay, đánh phá khoảng 152.000 trận; ném xuống các tuyến đường Trường Sơn gần 4 triệu tấn bom đạn. Hơn 20.000 bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân giao thông đã hy sinh; hơn ba vạn người bị thương, khoảng 14.500 xe – máy các loại, hơn 700 khẩu súng pháo bị hư hỏng; hơn 90.000 tấn hàng hóa bị đánh cháy…
Trong 16 năm, hệ thống hậu cần đường Trường Sơn đã chuyển được hơn một triệu tấn hàng, vũ khí vào cho các chiến trường, bảo đảm chỉ huy hành quân cho hơn hai triệu lượt người vào chiến trường hoặc từ chiến trường ra Bắc; vận chuyển cơ động 10 lượt sư đoàn, 3 quân đoàn, hộ tống 90 đơn vị binh chủng kỹ thuật vào chiến trường.
Hành quân trên đường Trường Sơn
Một binh trạm trên đường Trường Sơn
Bộ đội hành quân trên đường Trường Sơn phải vượt qua chặng đường dài trên 1.500 km.
Thời gian đầu hoàn toàn hành quân bộ, mỗi ngày đi một đoạn đường từ trạm giao liên này tới trạm giao liên tiếp theo. Bộ đội hành quân bộ vào chiến trường B2 mất hơn ba tháng, nếu vào chiến trường Nam Bộ, đến Bù Gia Mập – điểm cuối cùng của con đường mòn thì hết khoảng 5 tháng.
Để chuẩn bị cho chặng đường dài gian khổ, bộ đội rèn luyện hành quân kèm mang đá, vác cây trên vùng đồi núi Kim Bôi – Hạ Bì, tỉnh Hòa Bình, rồi hành quân bộ trên quãng đường trên nửa ngàn cây số từ Hòa Bình vào Quảng Bình – cửa ngõ phía Bắc của đường Trường Sơn.
Năm 1965, mỗi người phải mang 30 kg quân trang, lương khô, súng đạn, thuốc quân y, đường, gạo, muối… Do hàng được chuyển bằng cơ giới ngày càng nhiều, lượng lương thực trữ tại các trạm giao liên ngày càng nhiều, nên khối lượng phải mang vác cũng giảm dần. Năm 1966 giảm xuống còn 25 kg, sau năm 1967 còn 20 kg.
Về chế độ ăn, ngoài gạo lĩnh tại các trạm giao liên, mỗi người lính được cấp một ống cóng ruốc thịt, trong đó pha trộn thuốc chống sốt rét, tê phù… một kilôgam muối để dùng cho toàn bộ chặng đường. Đồ ăn cho mỗi ngày gồm có một nắm cơm khi hành quân ban ngày và một bữa cơm khi dừng chân ban đêm. Với chế độ ăn này và cuộc hành quân vất vả mỗi ngày, bộ đội thiếu dinh dưỡng trầm trọng. Do thế, khi gặp dân trên đường, bộ đội thường đem quân trang, tư trang đi đổi lấy rau, quả, lợn, gà…
Vào những năm mà mật độ bom đạn trút xuống đường Trường Sơn chưa phải là ác liệt. Những đoàn quân qua đây phần lớn thương vong không phải vì bom đạn địch mà vì sốt rét, phù tim, phù phổi, tả lỵ, trụy tim mạch, suy kiệt thể lực, do thiếu đói, đường sá gian truân.[48] Trong đó, sốt rét rừng là nhân tố tiêu hao sinh lực mạnh nhất. Mặc dù bộ đội được trang bị thuốc cá nhân, mỗi đơn vị có y tá mang thùng thuốc dự trữ đi theo, đồng thời thực hiện chế độ uống thuốc phòng bệnh, nhưng sốt rét vẫn là căn bệnh “chính thống” Trường Sơn không miễn trừ bất cứ ai. Nhiều người tử vong vì sốt rét lâu ngày chuyển sang ác tính. Những người vượt qua được thì da dẻ xanh tái do thiếu máu, sức khỏe suy giảm.
Quân đội Nhân dân Việt Nam đang hành quân trên đường Trường Sơn qua Lào.
Trên đường trèo đèo lội suối, chiếc gậy Trường Sơn là công cụ hỗ trợ đắc lực: giúp bước chân thêm vững, đường trơn đỡ ngã, và làm giá chống ba lô khi đứng nghỉ. Những chiếc gậy tre xuất xứ từ làng Hòa Xá (Hà Tây) này đã đi vào bài hát Chiếc gậy Trường Sơn của nhạc sĩ Phạm Tuyên. Đôi dép cao su (còn gọi là “đôi dép Bác Hồ”) cũng là một hành trang rất phù hợp với đường rừng bùn lầy ẩm ướt do mưa nhiều, vì chân đi trong giày ủng lâu ngày sẽ bị úng nước và lở loét – một vấn đề mà lính Mỹ thường xuyên gặp phải khi đánh trận hay đóng quân ở vùng rừng.
Việc hành quân bằng cơ giới được bắt đầu từ năm 1968, tuy chỉ mới ở số lượng không nhiều. Trong tháng 1, có gần 6.000 quân được tổ chức hành quân bằng cơ giới. Trong tháng 4, hai tiểu đoàn pháo lớn, xe tăng, gần 124.000 quân được bảo đảm hành quân vào chiến trường. Tuy nhiên, do nguy cơ thương vong lớn (mỗi xe tải bị máy bay đánh cháy có thể làm thiệt mạng toàn bộ đơn vị trên xe), nên hình thức chuyển quân này chỉ được sử dụng hạn chế.
Năm 1973, kể từ sau khi có Hiệp định Paris, quân bổ sung cho các chiến trường đều được hành quân bằng cơ giới, chấm dứt hành quân bộ. Thời gian hành quân nay chỉ mất hơn chục ngày. Đây là một bước tiến nhảy vọt về chất trong tổ chức hành quân. Năm 1974, toàn bộ việc giao liên, hành quân, chuyển thương đều chuyển sang phương tiện cơ giới, mỗi tháng chuyển được trên 30.000 đến 50.000 quân qua tuyến.
Đường Trường Sơn trong văn hóa đại chúng
Trong những năm chiến tranh và cả trong thời kỳ hậu chiến, đường Trường Sơn đã là chủ đề cho rất nhiều tác phẩm âm nhạc và văn học. Nhiều nhà thơ, nhà văn cũng đã là những người lính Trường Sơn.
Văn học
Một số bài thơ:
-
- Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
- Mà lòng phơi phới dậy tương lai
-
- Gặp em trên cao lộng gió
- Rừng Trường Sơn ào ào lá đỏ
-
- Đông sang Tây không phải đường thư
- Đường chuyển đạn và đường chuyển gạo
- Đông Trường Sơn, cô gái “ba sẵn sàng” xanh áo
- Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh
-
- Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
- Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Âm nhạc
Một số bài hát về Trường Sơn:
- “Bước chân trên dải Trường Sơn“, 1967, nhạc Vũ Trọng Hối, lời thơ Đăng Thục, được gọi là “bản quân ca của người lính Trường Sơn”[49]
-
- Ta vượt trên triền núi cao Trường Sơn. Đá mòn mà đôi gót không mòn… Máu thấm đường ta đi lẫn mồ hôi rơi tình quê tha thiết. Ta đi theo ánh lửa từ trái tim mình…
-
- …đêm nay ta đi Trường Sơn lộng gió. Trời vắng trăng sao nhưng tim ta rực lửa. Đi ta đi tung cánh đại bàng…
- “Chiếc gậy Trường Sơn“, 1967, nhạc và lời Phạm Tuyên
-
- Trường sơn ơi, nơi núi mờ xa mà ta chưa qua, có suối reo, có gió ngàn cây, có dốc cao vực sâu mất lối, mây trắng quyện dưới chân bước bồi hồi, có nắng lửa đốt thiêu vách núi…
- “Đường Trường Sơn xe anh qua“, 1971, nhạc Văn Dung
-
- Đường em ghi chiến công lẫy lừng, tràn niềm tin trong muôn gian lao Đường Trường Sơn xe anh thẳng tới..
-
- …từ nơi em đưa sang bên nơi anh những binh đoàn nối nhau ra tiền tuyến, như tình yêu nối lời vô tận. Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn…
-
- Gặp em trên cao lộng gió. Rừng Trường Sơn ào ào lá đỏ. Em đứng đứng ở bên đường, như quê hương vai áo bạc quàng súng trường. Đoàn quân vẫn đi vội vã. Bụi Trường Sơn nhòa trong trời lửa…
-
- Ơi, đêm Trường Sơn, nghe tiếng suối trong như tiếng hát xa, mà ngỡ như từ Pác Bó suối về đây ngân nga…
Phim ảnh
- Phim Sinh mệnh, đạo diễn Đào Duy Phúc, 2005…
Chú thích
- ^ Military History Institute of Vietnam, Victory in Vietnam: The Official History of the People’s Army of Vietnam, 1954-1975. Người dịch: Merle Pribbenow, Lawerence KS: University of Kansas Press, 2002, tr. 28.
- ^ Robert J. Hanyok, Spartans in Darkness. Washington, D.C.: Center for Cryptographic History, NSA, 2002, p. 94.
- ^ John Prados, The Blood Road, New York: John Wiley and Sons, 1998, tr. 24.
- ^ Prados, tr. 15.
- ^ a ă Victory in Vietnam, p. 88.
- ^ Năm 1959, VNDCCH thành lập Đoàn 759, với 20 con tàu để vận chuyển vũ khí khí tài. Victory in Vietnam, tr. 88.
- ^ Brig. Gen. Soutchay Vongsavanh, RLG Operations and Activities in the Laotian Panhandle. Washington DC: US Army Center of Military History, 1980, p. 12.
- ^ Victory in Vietnam, tr. 127.
- ^ Victory in Vietnam, tr. 170.
- ^ Jacob Van Staaveren, Interdiction in Southern Laos, 1960-1968. Washington DC: Center for Air Force History, 1993, Appendix5. Actual figures from Prados, p. 45.
- ^ Xem Nina S. Adams and Alfred McCoy, eds., Laos: War and Revolution, New York: 1970 và Atrhur J, Dommen, Conflict in Laos: the Politics of Neutralization, New York: 1971.
- ^ Hai tác phẩm hay nhất về cuộc chiến tranh bí mật kỳ quặc tại Lào là Shadow War. của Kenneth Conboy và James Morrison, Boulder CO: Paladin Press, 1995 và Shooting at the Moon. của Roger Warner, South Royalton VT: Steerforth Press, 1996.
- ^ Apokalypse Vietnam (phim tài liệu), đạo diễn Ulle Schröder, Sebastian Dehnhardt, Ulrich Brochhagen, Peer Horstmann, Jürgen Eike, Cộng hòa Liên bang Đức, 2005
- ^ Van Staaveren, p. 44.
- ^ Morocco, tr. 27.
- ^ Morocco, pps. 27-28.
- ^ Van Staaveren, pps. 226-228.
- ^ Van Staaveren, tr. 236-239.
- ^ Military Assistance Command, Vietnam Command History 1965, Annex N, tr. 16.
- ^ Prados, tr. 158.
- ^ John Schlight, A War Too Long: The USAF in Southeast Asia, 1961-1975. Washington DC: Air Force History and Museums Program, 1996, tr. 56.
- ^ Edward Doyle, Samuel Lipsman, et al, America Takes Over, 1965-1967. Boston: Boston Publishing Company, 1982, tr. 18-19.
- ^ Prados, tr. 182.
- ^ Joint Chiefs of Staff, MACSOG Documentation Study, Appendix D, pps. 293-294.
- ^ Victory in Vietnam, tr. 208.
- ^ Doyle, Lipsman, and Maitland, tr. 46.
- ^ Nalty, tr. 218.
- ^ Prados, tr. 339-340.
- ^ Victory in Vietnam, tr. 392.
- ^ a ă Victory in Vietnam, tr. 261.
- ^ Gilster, tr. 20.
- ^ Prados, tr. 191
- ^ Victory in Vietnam, tr. 382.
- ^ Trận đánh tại Khâm Đức ít được biết đến, nhưng được coi là thất bại tồi tệ nhất của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam, trận thua này đã đặt dấu chấm hết cho tuyên bố rằng “Mỹ thắng mọi trận đánh” (the U.S. won every battle.)
- ^ Nalty, p. 295.
- ^ Nalty, p. 37.
- ^ Prados, tr. 303.
- ^ Van Staaveren, tr. 255-283.
- ^ Herman L. Gilster, The Air War in Southeast Asia: Case Studies of Selected Campaigns. Maxwell Air Force Base, AL: Air University Press, 1993, tr. 21.
- ^ Prados, tr. 313.
- ^ Prados, tr. 369.
- ^ Victory in Vietnam, tr. 262.
- ^ Keith W. Nolan, Into Laos, Novato CA: Presidio Press, 1986.
- ^ David Fulghum, Terrence Maitland, et al, South Vietnam on Trial, Boston: Boston Publishing Company, 1984, tr. 75.
- ^ Nolan, p. 358.
- ^ Đồng Sỹ Nguyên, Đường xuyên Trường Sơn.
- ^ Prados, tr. 371
- ^ Theo hồi ký “Trên con đường không cột số” của tác giả Lam Giang (Hồ Sĩ Thành, chiến sĩ của Đại đội 17 – Đại đội trợ chiến cối 82 thuộc Trung đoàn 52 – Sư đoàn 320) kể về cuộc hành quân của Đại đội ông từ Hòa Bình vượt Trường Sơn năm 1966, đại đội ông gồm hơn 120 người, sau sáu tháng hành quân 18 người đến được điểm tập kết ở chiến trường Nam Bộ, sau hai tháng tập kết đợi những người ốm bệnh dọc đường, quân số đại đội chưa lên được một nửa.
- ^ Vũ Trọng Hối và những giai điệu để đời xuyên Trường Sơn
Nguồn tham khảo
Tài liệu chính phủ Hoa Kỳ chưa công bố
- U.S. Military Assistance Command, Vietnam Studies and Observations Group, Annex N, Command History 1965. Saigon, 1966.
Tài liệu đã công bố của chính phủ Hoa Kỳ
- Gilster, Herman L. The Air War in Southeast Asia: Case Studies of Selected Campaigns. Maxwell Air Force Base: AL, Air University Press, 1993.
- Military History Institute of Vietnam. Victory in Vietnam: The Official History of the People’s Army of Vietnam, 1954-1975. Trans Merle L. Pribbenow. Lawerence KS: University of Kansas Press, 2002.
- Nalty, Bernard C. The War Against Trucks, Aerial Interdiction in Southern Laos, 1968-1972. Washington DC: US Air Force History and Museums Program, 2005.
- Ngo, Lt. Gen. Quang Truong, The Easter Offensive of 1972. Washington DC: US Army Center of Military History, 1984.
- Nguyen, Maj. Gen. Duy Hinh, Lam Son 719. Washington DC: US Army Center of Military History, 1979.
- Tranh, Brig. Gen. Dinh Tho, The Cambodian Incursion. Washington DC: US Army Center of Military History, 1979.
- Tilford, Earl H., Setup: What the Air Force did in Vietnam and Why. Maxwell Air Force Base, AL: Air University Press, 1991.
- Van Staaveren, Jacob. Interdiction in Southern Laos, 1960-1968. Washington DC: Center for Air Force History, 1993.
- Vongsavanh, Brig. Gen. Soutchay RLG Military Operations and Activities in the Laotian Panhandle. Washington DC: US Army Center of Military History, 1980.
Tài liệu của Việt Nam
- Đồng Sỹ Nguyên, Đường xuyên Trường Sơn, NXB Quân đội Nhân dân, 1999.
- Lam Giang, Trên con đường không cột số, NXB Quân đội Nhân dân, 2004.
Các nguồn phụ
- Andrade, Dale. Trial by Fire: The 1972 Easter Offensive, America’s Last Vietnam Battle, New York: Hippocrene Books, 1995.
- Brown, McAlister, Gordon Hardy, and Arnold Isaacs. Pawns of War. Boston: Boston Publishing Company, 1987.
- Conboy, Kenneth with James Morrison. Shadow War. Boulder CO: Paladin Press, 1995.
- Dougan, Carl, David Fulghum, et al. The Fall of the South. Boston: Boston Publishing Company, 1985.
- Doyle, Edward, Samuel Lipsman, and Terrence Maitland et al. The North. Boston: Boston Publishing Company, 1986.
- Fulghum, David, Terrence Maitland, et al. South Vietnam on Trial. Boston: Boston Publishing Company, 1984.
- Lipsman, Samuel, Steven Weiss, et al. The False Peace. Boston: Boston Publishing Company, 1985.
- Littauer, Raphael and Norman Uphoff, eds, The Air War in Indochina. Boston: Beacon Press, 1972.
- Morocco John. Rain of Fire, Air War, 1969-1973, Boston: Boston Publishing Company, 1985.
- Nolan, Keith W. Into Laos: The Story of Dewey Canyon II/Lam Son 719, Vietnam 1971. Novato CA: Presidio Press, 1986.
- Prados, John. The Blood Road: The Ho Chi Minh Trail and the Vietnam War, New York: John Wiley and Sons, 1998.
- Shawcross, William. Sideshow: Kissinger, Nixon, and the Destruction of Cambodia. New York: Washington Square Books, 1979.
- Snepp, Frank. Decent Interval. New York: Random House, 1977.
Xem thêm
Liên kết ngoài