CHÀO NGÀY MỚI 18 THÁNG 12 Hoàng Kim CNM365Câu chuyện ảnh tháng 12; Có một ngày như thế; Mười thói quen mỗi ngày; Giấc mơ lành yêu thương; 500 năm nông nghiệp Brazil;Vui bước tới thảnh thơi; Minh triết sống phúc hậu;Sự chậm rãi minh triết;Lên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Chọn giống sắn Việt Nam; Đi bộ trong đêm thiêng; Tỉnh thức; Thiên hà trong vắt khuya, sao Thủy, sao Kim (sao Thái Bạch Kim Tinh, sao Hôm sao Mai) và Mặt trăng thẳng hàng, một hiện tượng thiên văn quý hiếm ,tác phẩm nổi tiếng ảnh quý ‘bạn quý hiếm gặp’ của nhà thiên văn và du lịch Yuri Beletsky. Ngày 18 tháng 12 là ngày đồng tưởng nhớ Đỗ Phủ, Tchaikovsky và Xuân Diệu. Ngày 18 tháng 12 năm 757 là ngày Đỗ Phủ ra làm quan ở Trường An dưới triều vua Đường Huyền Tông. Đỗ Phủ là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc được gọi là Thi thánhThi sử Trung Quốc do đức độ cao thượng và tài năng tuyệt vời (người kia là Thi tiên Lý Bạch). Đỗ Phủ không rõ ngày sinh và ngày mất nên ngày này được chọn để tưởng nhớ ông. Đỗ Phủ tầm vóc thế giới, có các tác phẩm của ông được so sánh với Shakespeare và Victor Hugo. Đỗ Phủ có cuộc đời giống như đất nước Trung Hoa thuở đó, bị chiến tranh loạn lạc giằng xé liên miên điêu đứng tột cùng và thường xuyên biến động. Bài cổ thi “Xem người đẹp múa kiếm” nổi tiếng của Đỗ Phủ ca ngợi tài nghệ múa kiếm tuyệt luân của mỹ nhân Công Tôn Đại Nương, gợi cho người đời sau của Việt Nam nhớ đến bài thơ “Thuật hoài” của Đặng Dung đêm thanh mài kiếm . Tác phẩm của ông gây ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc có trích thơ Đỗ Phủ. Sự tích của ông được lưu dấu tại Đỗ Phủ thương đọc lại; Đọc Đỗ Phủ nhớ Đặng Dung. Ngày 18 tháng 12 năm 1892, kiệt tác Kẹp Hạt Dẻ của Tchaikovsky lần đầu tiên được công diễn tại Sankt-Peterburg Nga. Từ đó ngày này và sự kiện này được coi là ngày tưởng nhớ ông tại Nga. Pyotr Ilyich Tchaikovsky là một nhà soạn nhạc nổi tiếng người Nga thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Tchaikovsky sáng tác các nhạc phẩm đậm chất Nga theo một phong cách nghệ thuật rất đặc sắc, riêng biệt, sâu lắng, kết hợp tuyệt vời nghệ thuật múa với giai điệu nhạc Nga. Kiệt tác Kẹp Hạt Dẻ là vở ba lê đặc biệt nổi tiếng và thành công nhất của Tchaikovsky hiện được công diễn nhiều nơi trên thế giới vào dịp Giáng Sinh nhất là ở Mỹ: Ngày 18 tháng 12 năm 1985 là ngày mất của Xuân Diệu ông hoàng thơ tình cây đại thụ của nền thi ca hiện đại Việt Nam. Xuân Diệu sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916, mất ngày 18 tháng 12 năm 1985. Di sản Xuân Diệu có trên 450 bài thơ (một số lớn nằm trong di cảo chưa công bố), nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học, một số truyện ngắn. “Thơ ông tài hoa, tinh tế và sang trọng” (Trần Đăng Khoa). Bài chọn lọc ngày 18 tháng 12:Câu chuyện ảnh tháng 12; Có một ngày như thế; Mười thói quen mỗi ngày; Giấc mơ lành yêu thương; 500 năm nông nghiệp Brazil;Vui bước tới thảnh thơi; Minh triết sống phúc hậu;Sự chậm rãi minh triết;Lên Trúc Lâm Yên Tử; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Tìm về đức Nhân Tông; Chọn giống sắn Việt Nam; Đi bộ trong đêm thiêng; Tỉnh thức; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-18-thang-12;
CÓ MỘT NGÀY NHƯ THẾ Hoàng Kim Chúc mừng ba học viên cao học Phan Thị Mỹ Hạnh, Đặng Thị Ngọc, Nguyễn Bá Tùng đã bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ khoa học nông nghiệp, Một niềm tin thắp lửa (*) Chúc mừng Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Nông Học, Phòng Đào tạo Sau Đại Học, Viện Sinh học Nhiệt Đới, Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Hưng Lôc, (**) Trường tôi nôi yêu thương đào tạo phát triển nguồn lực nông nghiệp. Chúc mừng quý Thầy hướng dẫn TS. Võ Thái Dân, TS. Nguyễn Phương, TS. Phan Tường Lộc; TS Bùi Minh Trí cùng quý Thầy Cô, gia đình người và bạn hữu đồng hành hiệu quả. Câu chuyện ảnh tháng 12Có một ngày như thế. Chúc mừng Giáng Sinh và Năm Mới đang đến ấm áp hạnh phúc.
CÂU CHUYỆN ẢNH THÁNG 12 Ba luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp vừa công bố: Nguyễn Bá Tùng 2020. Khảo sát sinh trưởng và năng suất của 12 giống sắn (Manihot esculenta Crantz) tại tỉnh Đồng Nai và Tây Ninh; Phan Thị Mỹ Hạnh 2020. Đánh giá sinh trưởng phát triển và khả năng kết hợp một số tính trạng của sáu dòng bắp nếp (Zea mays L. var. ceratina) tại Củ Chi thành phố Hồ Chí Minh; Đặng Thị Ngọc 2020. Nghiên cứu tạo rễ tơ cây bá bệnh ( Eurycoma longifolia Jack) và khảo sát một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nuôi sinh khối rễ :
NGUYỄN VŨ TIẾN HUẾ THƯƠNG Hoàng Kim Gia đình ấm áp niềm hạnh phúc Ngày vui sinh nhật ghé thăm nhau Bạn lính cũng quê cùng thầy giáo Vũ Tiến Hoàng Kim thắm dãi dầu
Kính sư huynh Nguyễn Vũ Tiến Đại học Huế và gia đình vui khỏe. Ngày này của anh thật ấn tượng. CHÀO NGÀY MỚI 15 THÁNG 12
Dương Hoa Xô 9 12 và thầy bạnDương Hoa Xô 9 12 và thầy bạnMai Va7n Buông 9 12 và thầy bạn 9 12Nguyễn Thị Trúc Mai 4 12 2017Hernan Ceballos Kim và bạn hữu ở Lào 1 12
thiên hà trong vắt khuya chuyển mùa tự nhiên tỉnh ta ngắm trời, ngắm biển chòm sao em. vầng sáng anh, dưới vòm trời lấp lánh khoảnh khắc thời gian thăm thẳm một tầm nhìn.
(GET UP clear late galaxies transfer season natural awakening I watch the sun, watching the sea watching the constellations. glow from where he under the sparkling sky moment of time chasms a vision).
THIÊN HÀ TRONG VẮT KHUYA Hoàng Kim
NHÀ VĂN TỒN TẠI Ở TÁC PHẨM Hoàng Kim
Nhà văn tồn tại ở tác phẩm. Không có tác phẩm thì nhà văn ấy coi như đã chết. Xuân Diệu (1916 –1985) ông hoàng thơ tình, cây đại thụ của nền thi ca hiện đại Việt Nam đã nói như vậy.Với 69 mùa xuân, Xuân Diệu kịp trao lại cho đời một di sản văn chương thật đáng nể phục của một nhà văn trí tuệ bậc thầy với hơn 450 bài thơ, nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học và một số truyện ngắn.
Tác phẩm chính của Xuân Diệu gồm :Thơ thơ (1938, 1939, 1968, 1970); Gửi hương cho gió (1945, 1967); Ngọn Quốc kỳ (1945, 1961); Hội nghị non sông (1946); Dưới sao vàng (1949); Sáng (1953); Mẹ con (1954); Ngôi sao (1955); Riêng chung (1960); Mũi Cà Mau – Cầm tay (1962); Một khối hồng (1964); Hai đợt sóng (1967); Tôi giàu đôi mắt (1970); Hồn tôi đôi cánh (1976); Thanh ca (1982); Phần thông vàng (1939, truyện ngắn); Trường ca (1945, bút ký); Miền Nam nước Việt (1945, 1946, 1947, bút ký); Việt Nam nghìn dặm (1946, bút ký); Việt Nam trở dạ (1948, bút ký); Ký sự thăm nước Hung (1956, bút ký); Triều lên (1958, bút ký); Tiểu luận phê bình Thanh niên với quốc văn (1945); Tiếng thơ (1951, 1954); Những bước đường tư tưởng của tôi (1958, hồi ký); Ba thi hào dân tộc (1959); Phê bình giới thiệu thơ (1960); Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm (1961); Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961); Dao có mài mới sắc (1963); Thi hào dân tộc Nguyễn Du (1966); Đi trên đường lớn (1968); Thơ Trần Tế Xương (1970); Đọc thơ Nguyễn Khuyến (1971); Và cây đời mãi xanh tươi (1971); Mài sắt nên kim (1977); Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978); Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (tập I, 1981; tập II, 1982; Tìm hiểu Tản Đà (1982). Dịch thơ Thi hào Nadim Hitmet (1962); V.I. Lênin (1967); Vây giữa tình yêu (1968); Việt Nam hồn tôi (1974); Những nhà thơ Bungari (1978, 1985); Nhà thơ Nicôla Ghiđen (1982).
Xuân Diệu trong sự nghiệp sáng tác thơ văn của mình, được biết đến như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh), “ông hoàng của thơ tình”. Xuân Diệu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn và cũng đã là một trong những chủ soái của phong trào “Thơ Mới”. Hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió được giới văn học xem như là hai kiệt tác ca ngợi tình yêu và sự sống, niềm vui và đam mê sống. Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh, đảng viên Việt Nam Dân chủ Đảng, sau tham gia Đảng Cộng sản. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hoạt động trong Hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí Tiền phong của Hội. Sau đó ông công tác trong Hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ ở Việt Bắc. Xuân Diệu tham gia ban chấp hành, nhiều năm là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam. Từ đó, Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu ca ngợi cách mạng, một “dòng thơ công dân”. Xuân Diệu từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Ông còn được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức năm 1983. Ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996).
“Thơ ông tài hoa, tinh tế và sang trọng”. Trần Đăng Khoa đã đánh giá về Xuân Diệu như vậy trong Chân dung và đối thoại.
Xuân Diệu là một nghệ sĩ lớn. Một nhà văn đích thực.
“Nhà văn tồn tại ở tác phẩm” Xuân Diệu đã nói như vậy. Tác phẩm đời ông là câu trả lời cho quan niệm sống của ông. Nguyễn Khải cũng quan niệm như vậy nhưng diễn đạt theo lối riêng “Tôi viết vậy thì tôi tồn tại! Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”.
“Nhà văn tồn tại ở tác phẩm“. Xuân Diệu nói câu này không riêng cho nhà văn mà đối với nhà khoa học, nhà quản lý, nhà giáo… đều có thể tự chiêm nghiệm điều tương tự.
Nhà văn tồn tại ở tác phẩm. Không có tác phẩm thì nhà văn ấy coi như đã chết. Xuân Diệu (1916 –1985) ông hoàng thơ tình, cây đại thụ của nền thi ca hiện đại Việt Nam đã nói như vậy.Với 69 mùa xuân, Xuân Diệu kịp trao lại cho đời một di sản văn chương thật đáng nể phục của một nhà văn trí tuệ bậc thầy với hơn 450 bài thơ, nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học và một số truyện ngắn.
Tác phẩm chính của Xuân Diệu gồm :Thơ thơ (1938, 1939, 1968, 1970); Gửi hương cho gió (1945, 1967); Ngọn Quốc kỳ (1945, 1961); Hội nghị non sông (1946); Dưới sao vàng (1949); Sáng (1953); Mẹ con (1954); Ngôi sao (1955); Riêng chung (1960); Mũi Cà Mau – Cầm tay (1962); Một khối hồng (1964); Hai đợt sóng (1967); Tôi giàu đôi mắt (1970); Hồn tôi đôi cánh (1976); Thanh ca (1982); Phần thông vàng (1939, truyện ngắn); Trường ca (1945, bút ký); Miền Nam nước Việt (1945, 1946, 1947, bút ký); Việt Nam nghìn dặm (1946, bút ký); Việt Nam trở dạ (1948, bút ký); Ký sự thăm nước Hung (1956, bút ký); Triều lên (1958, bút ký); Tiểu luận phê bình Thanh niên với quốc văn (1945); Tiếng thơ (1951, 1954); Những bước đường tư tưởng của tôi (1958, hồi ký); Ba thi hào dân tộc (1959); Phê bình giới thiệu thơ (1960); Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm (1961); Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961); Dao có mài mới sắc (1963); Thi hào dân tộc Nguyễn Du (1966); Đi trên đường lớn (1968); Thơ Trần Tế Xương (1970); Đọc thơ Nguyễn Khuyến (1971); Và cây đời mãi xanh tươi (1971); Mài sắt nên kim (1977); Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978); Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (tập I, 1981; tập II, 1982; Tìm hiểu Tản Đà (1982). Dịch thơ Thi hào Nadim Hitmet (1962); V.I. Lênin (1967); Vây giữa tình yêu (1968); Việt Nam hồn tôi (1974); Những nhà thơ Bungari (1978, 1985); Nhà thơ Nicôla Ghiđen (1982).
Xuân Diệu trong sự nghiệp sáng tác thơ văn của mình, được biết đến như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh), “ông hoàng của thơ tình”. Xuân Diệu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn và cũng đã là một trong những chủ soái của phong trào “Thơ Mới”. Hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió được giới văn học xem như là hai kiệt tác ca ngợi tình yêu và sự sống, niềm vui và đam mê sống. Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh, đảng viên Việt Nam Dân chủ Đảng, sau tham gia Đảng Cộng sản. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hoạt động trong Hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí Tiền phong của Hội. Sau đó ông công tác trong Hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ ở Việt Bắc. Xuân Diệu tham gia ban chấp hành, nhiều năm là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam. Từ đó, Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu ca ngợi cách mạng, một “dòng thơ công dân”. Xuân Diệu từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Ông còn được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức năm 1983. Ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996).
“Thơ ông tài hoa, tinh tế và sang trọng”. Trần Đăng Khoa đã đánh giá về Xuân Diệu như vậy trong Chân dung và đối thoại.
Xuân Diệu là một nghệ sĩ lớn. Một nhà văn đích thực.
“Nhà văn tồn tại ở tác phẩm” Xuân Diệu đã nói như vậy. Tác phẩm đời ông là câu trả lời cho quan niệm sống của ông. Nguyễn Khải cũng quan niệm như vậy nhưng diễn đạt theo lối riêng “Tôi viết vậy thì tôi tồn tại! Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”.
“Nhà văn tồn tại ở tác phẩm“. Xuân Diệu nói câu này không riêng cho nhà văn mà đối với nhà khoa học, nhà quản lý, nhà giáo… đều có thể tự chiêm nghiệm điều tương tự.
CNM365. Chào ngày mới 18 tháng 12. Ngày tưởng nhớ Đỗ Phủ thi thánh Trung Quốc Tchaikovsky nhạc sĩ nổi tiếng người Nga và Xuân Diệu nhà thơ danh tiếng Việt Nam. ‘Sao Hôm sao Mai khó tìm khi chuyển tiếp tối sáng’ (It is almost as hard for friends to meet As for the morning and evening stars.ESO/Y. Beletsky) Ngày này năm xưa. Ngày 18 tháng 12 năm 757, sau loạn An Sử, Đỗ Phủ ra làm quan ở Trường An dưới triều vua Đường Huyền Tông. Đỗ Phủ là nhà thơ Trung Quốc nổi bật thời nhà Đường, được gọi là Thi thánh, Thi sử Trung Quốc do đức độ cao thượng và tài năng tuyệt vời của ông, là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc (người kia là Thi tiên Lý Bạch). Ngày 18 tháng 12 năm 1892, kiệt tác Kẹp Hạt Dẻ của Tchaikovsky lần đầu tiên được công diễn tại Sankt-Peterburg, Nga. Pyotr Ilyich Tchaikovsky là một nhà soạn nhạc nổi tiếng người Nga thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Ngày 18 tháng 12 năm 1985 là ngày mất của Xuân Diệu, ông hoàng thơ tình, cây đại thụ của nền thi ca hiện đại Việt Nam; xem tiếp https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-18-thang-12/; Bài chọn lọc: Nhà văn tồn tại ở tác phẩm; Chuyện đời giáo sư Lê Văn Tố; Ái chà ngày mới vui ghê;
Đỗ Phủ sinh thời Đường chưa rõ năm và mất năm 770. Tầm vóc thế giới các tác phẩm của ông được so sánh với Shakespeare và Victor Hugo. Cuộc đời Đỗ Phủ, giống như đất nước Trung Hoa bị loạn lạc chiến tranh giằng xé liên miên và điêu đứng tột cùng vì thường xuyên biến động. Xem người đẹp múa kiếm là một trong những bài cổ thi nổi tiếng của ông ca ngợi tài nghệ múa kiếm tuyệt luân của mỹ nhân Công Tôn Đại Nương, gợi cho người đời sau của Việt Nam nhớ đến bài thơ Thuật hoài đêm thanh mài kiếm của Đặng Dung. Tác phẩm của ông gây ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc có trích thơ Đỗ Phủ.
Tchaikovsky sáng tác các nhạc phẩm đậm chất Nga theo một phong cách nghệ thuật đặc sắc rất riêng biệt ngân vang, sâu lắng, sự hòa hợp tuyệt vời của nghệ thuật múa với giai điệu nhạc, mặc dù ông không là thành viên của nhóm nhạc “The Five“ theo chủ nghĩa dân tộc. Ông nổi tiếng vì đã kết hợp nhuần nhuyễn âm nhạc Nga với âm nhạc châu Âu, âm nhạc thành thị và nông thôn. Kiệt tác Kẹp Hạt Dẻ là vở ba lê đặc biệt nổi tiếng, một trong những tác phẩm thành công nhất của Tchaikovsky hiện được công diễn nhiều nơi trên thế giới, chủ yếu vào dịp Giáng Sinh, nhất là ở Mỹ: Những công ty ba lê chính của Mỹ thu 40% lợi nhuận hàng năm từ những vở kịch Kẹp Hạt Dẻ. Câu chuyện kể về một đêm Giáng sinh, gia đình cùng khách mời tụ họp trong phòng khách để trang trí cây thông Noel. Sau khi cây thông trang trí xong, bọn trẻ bước vào. Chúng ngẩn ngơ nhìn cây Noel lấp lánh với nến và đồ trang trí. Lễ hội bắt đầu. Người người đi diễu hành. Quà được phát tặng cho bọn trẻ. Khi chiếc đồng hồ con cú điểm tám giờ, một nhân vật bí ẩn bất ngờ bước vào căn phòng. Đó là “ông già Noel” cha đỡ đầu của bé Clara. Ông rất giỏi trong việc chế tạo đồ chơi và đã đem theo nhiều món quà cho lũ trẻ, bao gồm bốn con búp bê biết nhảy múa vui mắt. Sau đó ông cất chúng đi. Clara và bạn em buồn rầu vì những món đồ chơi thú vị bị đem cất, nhưng “ông già Noel” đã dành một món quà khác cho cô đó là một con búp bê làm bằng gỗ hình chú lính kẹp hạt dẻ được dùng để làm nứt vỏ hạt như cách các cô bé xinh xắn người Việt vẫn cắn hạt dưa. Những đứa trẻ khác thì lờ đi nhưng Clara lại rất thích. “Ông già Noel” tặng nó cho cô nhưng cậu bạn cô bé lại cố tình làm gãy nó, vì thế cô rất buồn. “Ông già Noel” sửa nó lại cho cô và dặn hai đứa trẻ phải biết yêu quý quà tặng. Trong đêm thiêng mọi người đã ngủ yên, cô bé quay lại phòng khách thăm chú lính Kẹp Hạt Dẻ yêu quý. Lúc cô lên giường thì đồng hồ điểm lúc nửa đêm và cô nhìn thấy “Ông già Noel” đang ngồi trên đỉnh của chiếc đồng hồ. Đột nhiên, lũ chuột khổng lồ bắt đầu kéo đến. Cây Noel trở nên cao vút. Chú Kẹp Hạt Dẻ cũng vụt lớn lên. Clara bị kẹt giữa cuộc chiến của đội quân bánh quy gừng và lũ chuột nhắt dưới sự điều khiển của vua Chuột. Lũ chuột bắt đầu cắn binh lính bánh quy gừng. Kẹp Hạt Dẻ dẫn đầu đội quân bánh quy gừng cùng với sự giúp đỡ của những chú lính chì và y tá búp bê. Khi thấy vua Chuột chiếm ưu thế và Kẹp Hạt Dẻ bị thương, Clara đã ném giày vào vua Chuột giúp cho chú Kẹp Hạt Dẻ chiến thắng. Lũ chuột rút lui và Kẹp Hạt Dẻ hóa thành một chàng hoàng tử khôi ngô tuấn tú. Anh dẫn Clara đi qua vầng trăng sáng tới rừng thơm, cùng những bông tuyết nhảy múa xung quanh họ. Clara và Hoàng tử trong chiếc thuyền vỏ hạt dẻ được bầy cá heo kéo tới Vương quốc Bánh Kẹo, được cai quản bởi Tiên Nho khô cho tới khi Hoàng Tử trở về. Anh đã thuật lại chuyện Clara đã giúp anh thắng vua Chuột như thế nào. Clara được ca ngợi như một người anh hùng vì đã hóa giải được lời nguyền của vua Chuột đối với Hoàng tử Kẹp Hạt Dẻ. Một lễ hội ca múa nhạc mừng vui được tổ chức với muôn ngàn bánh kẹo ngon từ khắp mọi nơi trên khắp thế giới đổ về cô bé và Hoàng tử của mình được trao vương miện bánh kẹo trong niềm sung sướng hạnh phúc. Trút bỏ mọi mệt mỏi, cô tận hưởng hạnh phúc trong niềm vui hân hoan.
Xuân Diệu ông hoàng thơ tình sinh 2 tháng 2 năm 1916, mất ngày 18 tháng 12 năm 1985. Di sản Xuân Diệu có trên 450 bài thơ (một số lớn nằm trong di cảo chưa công bố), một số truyện ngắn, nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học. Sinh thời Xuân Diệu từng nói: “Nhà văn tồn tại ở tác phẩm. Không có tác phẩm thì nhà văn ấy coi như đã chết.” Tác phẩm chính của Xuân Diệu gồm : Thơ thơ (1938, 1939, 1968, 1970);Gửi hương cho gió (1945, 1967); Ngọn Quốc kỳ (1945, 1961); Hội nghị non sông (1946); Dưới sao vàng (1949); Sáng (1953); Mẹ con (1954); Ngôi sao (1955); Riêng chung (1960); Mũi Cà Mau – Cầm tay (1962); Một khối hồng (1964); Hai đợt sóng (1967); Tôi giàu đôi mắt (1970); Hồn tôi đôi cánh (1976); Thanh ca (1982); Phần thông vàng (1939, truyện ngắn); Trường ca (1945, bút ký); Miền Nam nước Việt (1945, 1946, 1947, bút ký); Việt Nam nghìn dặm (1946, bút ký); Việt Nam trở dạ (1948, bút ký); Ký sự thăm nước Hung (1956, bút ký); Triều lên (1958, bút ký); Tiểu luận phê bình Thanh niên với quốc văn (1945); Tiếng thơ (1951, 1954); Những bước đường tư tưởng của tôi (1958, hồi ký); Ba thi hào dân tộc (1959); Phê bình giới thiệu thơ (1960); Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm (1961); Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961); Dao có mài mới sắc (1963); Thi hào dân tộc Nguyễn Du (1966); Đi trên đường lớn (1968); Thơ Trần Tế Xương (1970); Đọc thơ Nguyễn Khuyến (1971); Và cây đời mãi xanh tươi (1971); Mài sắt nên kim (1977); Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978); Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (tập I, 1981; tập II, 1982; Tìm hiểu Tản Đà (1982). Dịch thơ Thi hào Nadim Hitmet (1962); V.I. Lênin (1967); Vây giữa tình yêu (1968); Việt Nam hồn tôi (1974); Những nhà thơ Bungari (1978, 1985); Nhà thơ Nicôla Ghiđen (1982).Trong sự nghiệp sáng tác thơ văn của mình, Xuân Diệu được biết đến như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh), “ông hoàng của thơ tình”. Xuân Diệu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn và cũng đã là một trong những chủ soái của phong trào “Thơ Mới”. Hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió được giới văn học xem như là hai kiệt tác ca ngợi tình yêu và sự sống, niềm vui và đam mê sống. Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh, đảng viên Việt Nam Dân chủ Đảng, sau tham gia Đảng Cộng sản. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hoạt động trong Hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí Tiền phong của Hội. Sau đó ông công tác trong Hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ ở Việt Bắc. Xuân Diệu tham gia ban chấp hành, nhiều năm là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam.Từ đó, Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu ca ngợi cách mạng, một “dòng thơ công dân”. Xuân Diệu từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Ông còn được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức năm 1983. Ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996). “Thơ ông tài hoa, tinh tế và sang trọng” Trần Đăng Khoa đã viết về Xuân Diệu như vậy trong Chân dung và đối thoại; Xem tiếpNhà văn tồn tại ở tác phẩm
NHÀ VĂN TỒN TẠI Ở TÁC PHẨM
Hoàng Kim
Nhà văn tồn tại ở tác phẩm. Không có tác phẩm thì nhà văn ấy coi như đã chết. Xuân Diệu (1916 –1985) ông hoàng thơ tình, cây đại thụ của nền thi ca hiện đại Việt Nam đã nói như vậy.Với 69 mùa xuân, Xuân Diệu đã kịp trao lại cho đời một di sản văn chương thật đáng nể phục của một nhà văn trí tuệ bậc thầy với hơn 450 bài thơ, nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học và một số truyện ngắn.
Tác phẩm chính của Xuân Diệu gồm :Thơ thơ (1938, 1939, 1968, 1970);Gửi hương cho gió (1945, 1967); Ngọn Quốc kỳ (1945, 1961); Hội nghị non sông (1946); Dưới sao vàng (1949); Sáng (1953); Mẹ con (1954); Ngôi sao (1955); Riêng chung (1960); Mũi Cà Mau – Cầm tay (1962); Một khối hồng (1964); Hai đợt sóng (1967); Tôi giàu đôi mắt (1970); Hồn tôi đôi cánh (1976); Thanh ca (1982); Phần thông vàng (1939, truyện ngắn); Trường ca (1945, bút ký); Miền Nam nước Việt (1945, 1946, 1947, bút ký); Việt Nam nghìn dặm (1946, bút ký); Việt Nam trở dạ (1948, bút ký); Ký sự thăm nước Hung (1956, bút ký); Triều lên (1958, bút ký); Tiểu luận phê bình Thanh niên với quốc văn (1945); Tiếng thơ (1951, 1954); Những bước đường tư tưởng của tôi (1958, hồi ký); Ba thi hào dân tộc (1959); Phê bình giới thiệu thơ (1960); Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm (1961); Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961); Dao có mài mới sắc (1963); Thi hào dân tộc Nguyễn Du (1966); Đi trên đường lớn (1968); Thơ Trần Tế Xương (1970); Đọc thơ Nguyễn Khuyến (1971); Và cây đời mãi xanh tươi (1971); Mài sắt nên kim (1977); Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978); Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (tập I, 1981; tập II, 1982; Tìm hiểu Tản Đà (1982). Dịch thơ Thi hào Nadim Hitmet (1962); V.I. Lênin (1967); Vây giữa tình yêu (1968); Việt Nam hồn tôi (1974); Những nhà thơ Bungari (1978, 1985); Nhà thơ Nicôla Ghiđen (1982).[11]
Xuân Diệu trong sự nghiệp sáng tác thơ văn của mình, được biết đến như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh), “ông hoàng của thơ tình”. Xuân Diệu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn và cũng đã là một trong những chủ soái của phong trào “Thơ Mới”. Hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió được giới văn học xem như là hai kiệt tác ca ngợi tình yêu và sự sống, niềm vui và đam mê sống. Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh, đảng viên Việt Nam Dân chủ Đảng, sau tham gia Đảng Cộng sản. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hoạt động trong Hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí Tiền phong của Hội. Sau đó ông công tác trong Hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ ở Việt Bắc. Xuân Diệu tham gia ban chấp hành, nhiều năm là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam. Từ đó, Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu ca ngợi cách mạng, một “dòng thơ công dân”. Xuân Diệu từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Ông còn được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức năm 1983. Ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996).
“Thơ ông tài hoa, tinh tế và sang trọng”. Trần Đăng Khoa đã đánh giá về Xuân Diệu như vậy trong Chân dung và đối thoại.
Xuân Diệu là một nghệ sĩ lớn. Một nhà văn đích thực.
“Nhà văn tồn tại ở tác phẩm” Xuân Diệu đã nói như vậy. Tác phẩm đời ông là câu trả lời cho quan niệm sống của ông. Nguyễn Khải cũng quan niệm như vậy nhưng diễn đạt theo lối riêng “Tôi viết vậy thì tôi tồn tại! Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”.
“Nhà văn tồn tại ở tác phẩm“. Xuân Diệu nói câu này không riêng cho nhà văn mà đối với nhà khoa học, nhà quản lý, nhà giáo… đều có thể tự chiêm nghiệm điều tương tự.
CHUYỆN ĐỜI GIÁO SƯ LÊ VĂN TỐ.
Hoàng Kim
Giáo sư Lê Văn Tố là một người thầy hiền hậu, tài năng mà đời tôi may mắn được gần gũi, học hỏi và tôi thực sự kính trọng. Trong biết bao chuyện đời thường của thầy Tố, tôi thích “MỘT CHUYẾN ĐI ‘DỐI GIÀ’ VÀ NHỮNG SUY TƯ”, “LỊCH SỬ LOGO FCC”, “FOLI VÀ FOVINA”, “NHỮNG CÂU THƠ ĐỜI THƯỜNG ÁM ẢNH”, ít ảnh chọn lọc và chuyện vui “BẠN BÈ HỌC TRÒ ĐÙA THẦY TỐ”
Thầy Tố cùng quê Nghệ Tĩnh với cụ Nguyễn Công Trứ người đã tuyên ngôn sứ mệnh của kẻ quốc sĩ: “Đã mang tiếng ở trong trời đất. Phải có danh gì với núi sông” đối với người có học thực sự phải làm được điều gì đó ích lợi cho dân cho nước. Chuyện đời giáo sư Lê Văn Tố khơi dậy trong tôi sự thăm thẳm nhớ quê của một người con xa xứ và ước vọng tiếp tục hoàn thiện những công việc ân tình ích lợi cho tổ quốc quê hương. Chuyện đời thầy Tố cùng vợ về quê là câu chuyện không phải của riêng ai, chỉ là người trước người sau mà thôi, bạn cũng chẳng kiêng cử về hai chữ “dối già” vì thầy cô nay còn mạnh khỏe lắm, phải thọ đến trăm tuổi, nhưng một cuộc du xuân cùng vợ về quê là chuyện to. Thầy coi xong việc này như thảnh thơi xong một việc chính.
Mời bạn lắng nghe Thầy kể:
MỘT CHUYẾN ĐI “DỐI GIÀ” VÀ NHỮNG SUY TƯ
Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Lê Văn Tố
Bước vào tuổi 75 tôi muốn có cuộc du xuân “dối già” cùng vợ về quê.
Như có món nợ nào đó chưa trả xong khi bước sang thế giới khác, đầu óc tôi vẫn văng vẳng đâu đó câu ví dặm “ giận thì giận mà thương thì thương” tôi không giận ai cả. Chỉ biết giận mình vì tuy có một số sản phẩm được người tiêu dùng chấp nhận nhưng chưa có gì đóng góp cho quê hương. Có lẽ núm nhau mẹ chôn ở gốc tre bụi chuối nào đó nên quê hương vẫn sâu đậm trong lòng – mặc dầu li hương hơn 60 năm.
Không sâu đậm sao được đến như Le Breton thầy giáo của giáo sư Lê Thước ở trường quốc học Vinh đã không ngần ngại khi viết: “ông yêu xứ Nghệ và con người Nghệ Tĩnh”( Le vienx An-Tĩnh 1936, bản dịch của Trung Tâm văn hóa ngôn ngữ đông tây năm 2005). Có lẽ Le Breton vì hiểu và yêu xứ Nghệ nên mới để lại tác phẩm chân tình giàu tính văn học, sáng giá về khảo cổ học, sử học, am hiểu về địa chất Nghệ Tĩnh đến thế.
Để tiết kiệm thời gian, tôi liên hệ một số cơ sở du lịch và khách sạn 5 sao Mường Thanh Sông Lam ở Vinh thu xếp cho một chuyến du lịch cao cấp với hướng dẫn viên giàu tri thức, am hiểu địa danh các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Nam Đàn, Thanh Chương, Hương Sơn, Hương Khê, theo đường 8 đến biên giới Lào- Việt. Yêu cầu đơn giản đó không được đáp ứng. Tôi thuê xe về quê nội, quê ngoại.
Hai quê qua bao thăng trầm nay đã được công nhận là di tích văn hóa lịch sử. Quê nội đời cố Lê Kim Ứng đã có công giúp phong trào Cần Vương và là nơi trú ngụ của gia đình cụ Nguyễn Sinh Sắc cùng 3 con sinh sống một thời gian thời thơ ấu. Phong cảnh và tình người chắc để lại trong lòng Bác Hồ những kĩ niệm khó quên nên khi Bác gặp tham tán quân sự Việt Nam tại Mạc Tư Khoa (người cùng quê) Bác còn hỏi thăm và khen là Nguyệt Bổng (tên cũ) đẹp.
Nhiều văn nghệ sĩ trong kháng chiến chống Pháp như Nguyễn Văn Tý, Trần Hoàn,…đã từng sinh sống tại quê tôi. Hồi nhỏ chúng tôi vẫn nghêu ngao “một chiều anh bước đi, em tiễn đưa anh ra tận cuối đồi, rằng kháng chiến còn trường kì là còn gian khổ”. Trần Hoàn đã bén duyên với người con gái quê tôi, trước lúc đi công tác xa đã để lại bài hát trên.
Khi vua Hàm Nghi bị bắt, phong trào Cần Vương đi vào thoái trào. Các sĩ phu Cần Vương cảm kích trước sự giúp đỡ của gia tộc Lê Kim Ứng đã nói : việc nước chưa thành, công ơn gia tộc chưa trả được chỉ mới chọn được miếng đất tốt để hai cụ an nghỉ lúc trăm tuổi với lòng mong mỏi gia tộc ngày càng hưng thịnh. Tôi không am hiểu phong thủy nhưng mộ Cố trên đồi cao vẫn hội đủ: tả thanh long, hữu bạch hổ có sông dài uốn lượn phía dưới.Tuổi già nhưng nhờ mấy trăm bậc đá cháu mới làm nên vẫn cố leo lên thắp hương Cố lần cuối.
Bên kia quả đồi là giếng Cửa Khâu nước chảy quanh năm từ lòng núi không bao giờ cạn với đàn cá tung tăng như cá thần Cẩm Thủy (Thanh Hóa). Chị em tôi lúc nhỏ hay phải gánh nước từ giếng Cửa Khâu về để mẹ làm tương ăn quanh năm, thổi xôi nếp rồng cúng giỗ…
Về quê nhiều lần hỏi về giếng Cửa Khâu, nếp rồng, bánh vo (làm từ bột gạo lức lúa nương) chỉ còn mấy người già còn nhớ. May thay lần này có người dẫn đường tìm lại được giếng Cửa Khâu khi trời vừa tối. Cảm động vô cùng bà con xúm lại. Người biếu chai rượu, kẻ chai tương được sản xuất từ nguồn nước giếng này. Đúng là món ngon nhớ đời. Không phải chỉ mình tôi mà biết bao người xứ Nghệ, khách thập phương từng sinh sống ở đây vẫn nhớ con cá mát kho tương, xôi nếp rồng, bánh vo… Nay chỉ còn trong kí ức người già!
Bù lại có món ngọn lang luộc xào tỏi mà các anh chị ở tòa soạn báo Kinh tế Sài Gòn, Sài Gòn Times khi chiêu đãi tôi ở thành phố Hồ Chí Minh thường nhắc đến nay đã trở thành món đặc sản nhưng phổ thông khắp thành Vinh. Ước gì ngọn lang, cá thu nướng Cửa Lò, gà đồi Nghệ An trở thành hàng hóa phổ biến ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.
Nghệ An còn nổi tiếng với cam Xã Đoài. Lần này về quê, cố tìm đến vùng cam Xã Đoài để mua bằng được loại cam nổi tiếng ngọt, thơm, nguyên gốc về làm quà. Loại cam mà tôi đã từng được ăn, được chứng kiến người dân chăm sóc theo lối cổ truyền. Cũng gọi là cam Xã Đoài bán hiện nay nhưng sao quá nhiều nước và chua! Đường cao tốc vun vút qua xứ đạo năm xưa, khó tìm được người dân để hỏi đường. May gặp được người dắt trâu làm đồng về chỉ nói đơn giản: “Không cần hỏi ai cả cứ đi tiếp nhìn bên trái thấy nhiều tòa nhà, cổng thành kiên cố, đường bê tông dài bao quanh– cam Xã Đoài ở đó.
Có lẽ sau Tết hết mùa cam chỉ thấy hai quả cam đá to tướng trên tượng đài trước tòa dinh thự. Chợt nhớ tới ông Nguyễn Hữu Tiêu giám đốc nông trường Sông Con (Nghĩa Đan) . Chỉ còn một mắt vì gian truân của cuộc đời nhưng vẫn sáng nhìn xa trông rộng nên đã đưa cam Xã Đoài lên vùng đồi tạo nên thương hiệu cam Vinh nổi tiếng một thời làm mát lòng người dân miền Bắc, trong lúc khan hiếm hàng hóa của thời bao cấp.
Hi vọng sẽ còn dịp trở về thắp hương trên bàn thờ ông Tiêu ở Nghĩa Đàn với cam Xã Đoài thứ thiệt. Cam Xã Đoài mọc trên đất pha cát xung quanh nhà thờ Xã Đoài. Có lẽ cần đến vai trò xứ đạo để phát triển và giữ được thương hiệu loại cam quý giá này.
Viết đến đây tôi lại nhớ đến cố ngoại Phan Sĩ Thục được vua Tự Đức cử làm chánh sứ đến triều Thanh. Làm quan to trong triều nhưng khi lương, giáo tàn sát lẫn nhau, cố đã mở cửa nhà quan để giáo dân vào trú ẩn, góp phần hòa giải mâu thuẫn. Ngày nay con đường mang tên ông là một trong những con đường dẫn đến tượng đài Bác Hồ ở Vinh. Tôi thầm cảm ơn các anh chị lớp trước, phải “có tâm có tầm” mới cất giữ được bút phê của vua “Liêm như Thục” và ấn kiếm áo mũ vua ban cho đời sau (sách vua quan triều Nguyễn cũng đã ghi chép chuyện này).
Lần này về quê tôi còn gắng sức đến thắp hương mộ bà Hoàng Thị Loan trên đồi cao. Mát trời cảnh đẹp nhưng nhiều cụ già với lòng thành tâm chỉ ngồi dưới chân đồi. Giá có những chiếc cáng nhỏ để giúp các cụ! Con đường bậc thang lên đồi dốc chỉ có nước trà xanh và nước có gas nếu có củ sắn dây luộc trồng xung quanh đồi hoặc nước sắn dây sẽ thêm mát lòng người đến viếng… Nhà lưu niệm Nguyễn Du to rộng mênh mông nhưng sao vẫn thiếu tiếng ngâm Kiều của mẹ thuở nhỏ…
Quà về quê tôi chỉ có dịp mang theo cam Quỳ Hợp thay cho cam Xã Đoài và chai tương Cửa Khâu. Nếu có thêm cá thu nướng Cửa Lò đông lạnh hút chân không thì tốt biết bao. An ninh ở sân bay Vinh không cho tôi mang chai tương theo người nhưng sau khi biết tôi mang tương về để nghiên cứu phát triển sản xuất đã linh động cho qua. Về Sài Gòn kể chuyện mọi người khen an ninh có tâm và có tầm nhìn…
Chuyến đi dối già chỉ có mấy ngày nhưng có biết bao điều suy tư. Suy tư có thể đúng có thể sai nhưng vẫn là suy tư của người con xứ Nghệ xa quê.
GS. TSKH Lê Văn Tố
LỊCH SỬ LOGO FCC The History of Logo FCC
Anh em ở cơ quan cũ FCC và tổng giám đốc FCC anh Trần Phương đến chơi và trao đổi với tôi viết lịch sử FCC để lưu lại và giáo dục truyền thống cho lớp trẻ mới vào . Tôi từ chối và nói : Đã gửi phòng lưu trữ cơ quan các tài liệu cũng như bút tích của ông Võ Văn Kiệt ,ông Phan Văn Khải và ông Nguyễn Văn Chính ( Chín Cần Bí Thư Trung Ương Đảng , Bộ Trưởng Bộ Lương Thực ). Cơ quan nếu cần thì dựa vào tài liệu đó cũng như đĩa CD cử người viết là xong. Nay tôi chỉ kể lịch sử Logo FCC để mọi người có thêm tài liệu:
Việt Nam từ thiếu ăn bắt đầu xuất cảng gạo, hồi ấy chúng ta giành gạo tốt nhất để bán. Nước ngoài mua gạo 35% tấm Việt Nam về bán lại gạo có phẩm chất cao hơn. Thuộc chuyên môn của mình, tôi đề nghị nhà nước cho thành lập cơ quan giám định thứ 2 với tên giao dịch quốc tế là :Food Control Center (FCC) bên cạnh Vinacontrol. Với sự hợp tác chân thành , tránh phiền phức cho khách hàng FCC đã tới Vinacontrol bàn bạc, thống nhất quy trình làm việc và đưa các mẫu gạo chuẩn để giám định. Cán bộ FCC thắc mắc tại sao mẫu gạo chuẩn chỉ ghi tên Vinacontrol và Viện Nghiên Cứu Lương Thực, còn FCC ở đâu ?
Ở trong tim các anh và trên ngực các anh – Tôi trả lời và chỉ vào ngực áo đồng phục của mọi người có Logo FCC. Mình phục vụ tốt hết lòng với khách hàng sẽ tạo dần uy tín. FCC với đội ngũ chuyên môn của mình đã tới từng kho hàng tham gia chuẩn bị hàng xuất khẩu cho họ theo đúng hợp đồng đã kí đồng thời mời cơ quan giám định quốc tế OMIC-Nhật Bản đến giảng dạy và cộng tác chuyên môn. FCC dần dần đã tạo dựng được uy tín của mình với khách hàng trong và ngoài nước song song với việc đào tạo tuyển dụng nhân viên mới. Có lần doanh nghiệp phản ánh với chúng tôi anh H buổi đêm bắt doanh nghiệp đem xe về Sài Gòn ngủ để mai đến Long An làm việc tiếp. Thời đó đường sá đi lại rất khó khăn sau khi điều tra chúng tôi biết đó là sự thật lập tức cho nhân viên tạm thời nghỉ việc và hẹn lúc nào biết cách phục vụ khách hàng sẽ được làm việc tiếp. Nghề giám định có nhiều lúc cũng rất cân não và khó khăn. Lúc kiểm lô ý dĩ xuất cảng sang Nhật, tới cảng Yokohama họ trả lại vì nhiễm độc tố Aflatoxin vượt chuẩn. Với lề lối làm việc khoa học, FCC khẳng định với khách hàng nếu lỗi của mình, chúng tôi sẽ nhận trách nhiệm nhưng trước hết cần lấy mẫu lại để kiểm tra đồng thời kiểm tra mẫu lưu trữ để trong kho và gửi mẫu sang Băng Cốc, Tokyo. Có kết quả tương đồng, tôi tin rằng chúng tôi có lý và khuyên khách hàng về sấy khô lại sản phẩm đổi các công ten nơ khác, nếu Nhật họ yêu cầu thì mạnh dạn xuất hàng. Mọi việc êm xuôi, tôi cũng trút được gánh nặng thoát khỏi vòng số 8 vì tội cố ý làm trái.
Có lẽ ở Yokohama họ lấy mẫu không đúng cách không đại diện cho lô hàng nên có sai sót nói trên. Từ sự việc này dự án ACIAR đề nghị tôi và một chuyên gia Úc viết bài giảng về phương pháp lấy mẫu cho các trường đại học.
Không phải chỉ tranh luận với khách hàng nước ngoài mà còn tranh luận với hải quan nước nhà. Chúng ta có nhà máy xay bột mì hiện đại nhưng nếu nhập hạt mì về xay sát sẽ bị đánh thuế vì hải quan cho rằng hạt mì là đã qua xay xát (Vì hạt lúa mì sau thu hoạch đã rất bóng ). Thuyết phục không xong, tôi cho hạt mì ngâm ủ và nói nếu qua xay xát hạt mì sẽ không nảy mầm. Cuối cùng hải quan chấp nhận. Có lần chúng tôi mời cán bộ FAO đến chứng kiến lô dầu ăn viện trợ cho Việt Nam bị ôi mốc vì chất lượng kém. Họ tâm phục khẩu khục đổi cho ta lô dầu khác. FCC ngày càng phát triển được ủy quyền giám định không những chỉ hàng lương thực thực phẩm mà còn nhiều loại hàng hóa khác. Cái áo đã chật nhưng Logo FCC đã đi ra thế giới làm thế nào đây ? Động viên anh em tìm thêm một chữ C cho hợp với cái áo mới, từ đó có tên : Food & Commoditoes Control. FCC đã giữ vững và phát triển tên tuổi của mình hơn 30 năm nay nhưng 1 lần nữa chứng tỏ sự non yếu của tôi – 1 người chuyên về kỹ thuật lương thực thực phẩm chỉ nghĩ đến giám định thực phẩm mà thôi…
Khi được xây dựng trụ sở mới tôi bàn với anh em : Mình chưa đủ tài chính xây dưng tòa nhà 9 lầu thì chỉ xây dựng 4 lầu nhưng nền móng kết cấu đủ 9 lầu tránh đập phá lãng phí.
Về hưu đã lâu rất ít khi tới cơ quan nhưng mỗi lần đến để sinh hoạt khoa học hoặc giới thiệu sách khoa học mới của các bạn đồng nghiệp. Nhìn tòa nhà 9 tầng vươn cao giữa hàng me cổ thụ ( Hợp đồng giao hẹn với công ty xây dựng không được chặt me ) lòng tôi lại lâng lâng.”
GS.TSKH Lê Văn Tố
FOLI VÀ FOVINA
Một phần tư thế kỉ trôi qua của sản phẩm nghiên cứu Foli
Xuất khẩu gạo còn tồn dư nhiều gạo gãy, tấm tốt. Tiếc quá, tôi bàn với anh em ta sản xuất cháo ăn liền được không ? Ăn liền nhưng tiền đâu nghiên cứu ? Anh em hỏi lại tôi ? Ra Hà Nội xin tiền nghiên cứu nhưng họ không tin vì cháo thì phải nấu nhừ chứ máy móc làm sao được? Biết tôi từ lâu nhưng họ vẫn trách yêu : Cậu sách vở nhiều quá thần kinh hay sao? Về lại Sài Gòn tôi gõ cửa giáo sư Hoàng Anh Tuấn (giám đốc sở khoa học, ủy viên ủy ban TP. HCM) xin tiền nghiên cứu. Ông cười bảo tôi : Đó không phải là lĩnh vực của tôi nhưng tôi tin anh về làm thủ tục đi.
Có 50 triệu cầm tay ( Hồi đó 50 triệu là to ) các kĩ sư của chúng tôi ra đặt xưởng CARIC thiết bị chịu áp lực làm Extruder. Họ từ chối. Thử dùng nòng súng đại bác cũ được không ? – Tôi bàn với anh em. Kĩ sư Lộc và bộ phận cơ khí đã làm được Extruder từ nòng súng đại bác và sau đó kĩ sư Bình, kĩ sư Châu làm Extruder cỡ nhỏ hơn. Cháo ăn liền ra đời bán chạy khắp toàn quốc. Uy tín của Viện được nâng cao. Sáng sớm dân xếp hàng dày đặc trước cơ quan chờ thùng cháo ăn liền về cho gia đình và bán lại kiếm lời. Anh em bảo tôi đặt tên cho xưởng cháo đi. Đi đâu họ cũng hỏi xưởng cháo ngượng lắm !
Xưởng FOLI được không ? Sao lại gọi là xưởng FOLI ?
FOLI là food ăn liền để liền mạch với sản phẩm PHOMI được sản xuất từ nguyên liệu phối lúa mì rất bổ dưỡng chuyển giao cho xí nghiệp xay lúa mì Bình Đông bán rất chạy nuôi sống được 60 công nhân đang thất nghiệp.
Sản phẩm đã bán chạy sẽ có người làm giả nên cần đăng kí bản quyền. Tên FOLI và Logo FOLI mang hình đầu gà từ đó vì sản phẩm ra đời năm Qúy Dậu ( 1993 ). Mặc dù vậy ở Hà Nội có cô giáo vì kế sinh nhai làm giả cháo ăn liền của chúng tôi. Công an hỏi ý kiến để xử lý. Tôi bàn với công an : Vì sinh kế cô giáo mới làm như vậy các anh chỉ cần khuyên họ nếu có điều kiện thì mở cơ sở sản xuất mới chứ không được lấy tên FOLI. Từ cháo ăn liền họ hàng của FOLI có thêm nhiều sản phẩm mới : Cơm gạo nứt ăn liền, cốm gạo lứt rong biển, chè đậu xanh ăn liền, cốm 5 loại đậu, xưởng đồ hộp di động, canh chua ăn liền …. Sản phẩm đã có mặt trên thị trường ¼ thế kỉ.
Hội nghị tổng kết ở cơ quan giám đốc sở khoa học bảo tôi lên trả lời câu hỏi tri thức Việt kiều : Tại sao các anh làm được Extruder trong giai đoạn hiện nay. Không giấu diếm tôi thú thật là chúng tôi phải dùng nòng súng đại bác để chế tạo và nói đùa thêm : Các anh khôn đã xuất biên chúng tôi ở lại vừa điên vừa khùng. Là đồ Nghệ tôi đã chơi chữ có người cho tôi là điên khùng, tiếng Pháp FOLIE là kẻ khùng điên.
Về hưu nhớ lời của nhà thơ Nga Eptusenco: Đừng chết trước lúc lìa đời. Còn khỏe và đang “ngứa nghề” tôi thành lập Pilot Plan cho mình tại nhà để sản xuất thực phẩm có lợi cho sức khỏe từ nguyên liệu tự nhiên với tên gọi FOVINA (Food Vital, Natural) như kem bổ sung Isoflavon, bánh Macca, bánh bổ sung các loại hạt dinh dưỡng bánh mì thanh long giữ được dài ngày cho người đi biển … công nhân vui mừng được ăn nghỉ đàng hoàng và sống bằng sản phẩm mình làm ra. Đó cũng là địa điểm thuận lợi để các nhà khoa học ngồi hàn huyên tâm sự thử sản phẩm mới“.
GS.TSKH Lê Văn Tố
Tôi đã trích dẫn nguyên văn ba câu chuyện trên trên trang FB của To Le Van để đọc và suy ngẫm, và sẽ còn quay lại trong nhiều dịp. Tôi tẩn mẫn in đậm các chữ “chai tương“. “FCC’ ‘POLI’ ‘FOVINA’ . Bill Gates vừa hôm qua chia sẻ thông tin What’s the secret to making great bread? (‘Bí quyết để làm bánh mì tuyệt vời là gì?’) Câu hỏi của Bill Gates dường như là một dấu lặng sâu xa cho ẩm thực và nông nghiệp, là một sự đồng cảm …
Chuyện đời của giáo sư Lê Văn Tố là bài học suy ngẫm. Thầy Tố gần tám mươi vẫn chưa dừng bước trên con đường di sản mang các giá trị ẩm thực Việt lan rộng và tỏa sáng. Con người của tâm huyết và thực tiễn là lặng lẽ dâng hiến. Đó là đức độ của một người Thầy.
NHỮNG CÂU THƠ ĐỜI THƯỜNG ÁM ẢNH
Nhà thơ Trần Đăng Khoa thẩm thơ khá tinh tế “thơ hay là giản dị, xúc động, ám ảnh”. Anh Tư Hoàng Trung Trực của tôi, vị đại tá tư lệnh sư đoàn thời chống Mỹ, cũng thích kể chuyện đời bằng thơ vì theo anh kể chuyện thơ có hồn và dễ nhớ hơn. Anh đã viết hồi ức thơ “Dấu chân người lính” kể về những khốc liệt hi sinh gian khổ chiến trường, đối mặt sinh tử.Thầy Lê Văn Tố cũng vậy, thầy hồi tưởng chuyện đời của thầy bằng những câu thơ tuy mộc mạc đời thường nhưng thật ám ảnh.
NGOÀI THẤT TUẦN VIẾT LÚC NỬA ĐÊM.
Lê Văn Tố
Mẹ nằm đó miên man trên giường bệnh.
Tóc trắng phau miệng mấp mấy mấy điều,
Chị nằm bên : “mẹ tỉnh hay mê ?”
Mẹ đi rồi thương ai nhiều nhất ?
Mẹ thều thào con nào đẻ chả thương,
Nhưng rồi mẹ lại vấn vương.
“Thương thằng Tố nhiều hơn con ạ !
Nó dành phần nuôi mẹ sớm chiều.
Con mẹ hiếu thảo đủ điều.
Nhưng phải xâm xiu, còn lo cho gia đình chúng nó…”
Nhớ lúc “bão tan” còn niêu đất nhỏ
Mẹ bảo : “Thổi nồi cháo – nhớ đổ nước cho nhiều”.
Ngô không có, khoai chẳng còn.
Còn gì đâu mà nổi lửa mẹ ơi !
Đêm đông gió giật từng hồi.
Hết cả rồi biết sống sao đây ?
Bán nốt con chó, bán cả cái vò
Có bữa câu được con tràu to.
Đổi gạo cháo no mấy bữa
Rồi lại co ro ngồi trên bậu cửa.
Con muốn bỏ học, mẹ không cho.
Bụng đói, rét co, nằm không chăn chiếu
Gốc sim già – lửa ấm được một bên.
Rồi mẹ lại lom khom lên núi xuống đồng
Không quản ngày đông, nắng hè cháy bỏng…
Mẹ gánh, mẹ gồng xộc xệch mòn vai
Mua mít tại nhà bổ bán ở chợ
Hột nhặt về – độn để con ăn
Đêm ngủ chiêm bao thấy mẹ hiện về.
Nghẹn ngào con viết vội vần thơ…
CHÂN ĐẤT THEO ANH
Lê Văn Tố
Hòa bình về Thủ Đô
Nghệ An còn đói khổ
Đưa em ra Kinh Đô
Dép Bác Hồ* nỏ có
Em lội bộ theo anh
Tính toán mãi loanh quanh
Mua đôi dép con hổ**
Em bước chân đi nhanh.
Hổ rình chân em cứa
Xách cọp đi theo mình
Lặng thinh em tiến bước.
Em tiến bước lặng thinh
Mấy con nhỏ phía trước
Ngoái cổ cười bảo nhau
Đi mau mặc kệ tau
Chân đau đi răng được ?
Rồi em tiến dài bước
Vượt qua mọi chông gai
Không dép lốp xâu quai
Nhưng có oai con hổ.
* Loại dép bằng lốp ôtô xâu quai.
** Loại dép nhựa tái chế rất cứng
NGƯỜI THÂN, BẠN VÀ HỌC TRÒ THẦY TỐ
Tôi nhẫn nha chép lại những chuyện đời quanh thầy Tố, vui có buồn có nhưng đến đây thì cứ vui. Sớm nay, tập thể dục xong, trước khi góp ý bài đăng báo khoa học kỹ thuật nông nghiệp cho nhỏ học trò, tôi lướt qua một chút các trang tin nóng trong ngày, suy tư hoài khi đọc bài “Tắc kẹt vì đâu?“”Ba hoa cái tôi, cái tội và cái tồi“”Thị trường thép thế giới: Tương lai không sáng sủa“. Biết bao chuyện nóng hổi mà kẻ sĩ không thể không lo nghĩ. Nhưng thôi, đến thăm thầy, xin được nói chuyện vui nhiều hơn chuyện buồn thì tốt hơn. Thầy Quyền nghề nông của chúng tôi là tấm gương mẫu mực về sự phúc hậu, minh triết, tận tụy trên con đường xanh của chúng ta, một người bạn thiết của thầy Tố, luôn quan tâm dặn dò giữ gìn sức khỏe.
Thầy Lê Văn Tố cùng thời với những anh chị, bạn hữu “Nga học, Tây học”của thế hệ nông nghiệp đầu tiên nước Việt Nam mới. Nhiều người quen thân của thầy đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong nông nghiệp, sinh học và giáo dục nghề nông như: GS. Lương Định Của (16 tháng 8 năm 1920 – 28 tháng 12 năm 1975), GS. Đào Thế Tuấn (4 tháng 7 năm 1931- 19 tháng 1 năm 2011), GS. Vũ Tuyên Hoàng (2 tháng 12 năm 1939 -26 tháng 2 năm 2008), PGS. Lưu Trọng Hiếu (-15 tháng 5 năm 2008), GS. Trần Thế Thông, GS. Nguyễn Văn Luật, GS. Mai Văn Quyền, GS. Trịnh Xuân Vũ, GS. Ngô Kế Sương, PGS. Nguyễn Văn Uyển, GS. Nguyễn Tử Siêm, … Quê hương, dòng họ, gia đình, người thân và bạn quý là nguồn sinh khí, điểm tựa cho mỗi cuộc đời và sự nghiệp.
Trong nhiều câu chuyện đời thường, tôi thích bài thơ của anh Võ Đức Tình viết về thầy Tố:
CÓ MỘT NƠI NHƯ THẾ
Võ Đức Tình
Mái nhà xưa hai trái tim vàng Giản dị một đời chẳng cao sang Chỉ lo đào tạo bao thế hệ Kiến thức tinh hoa thật vững vàng
Nơi ấy vườn xanh rộn tiếng cười Thuyền câu rong ruổi khắp muôn nơi Đưa cá về ao: hàng lưu trữ Đãi bạn bè xa đãi khách mời
Ăn xong về lại mái nhà xưa Bánh nóng trà thơm suốt bốn mùa Bè bạn gần xa đều thưởng thức Xem thầy chế biến đã vừa chưa
Bạn hỏi rằng đâu đẹp thế này Cảnh đẹp người vui chuyện đắm say Nơi ấy bạn hiền thành tri kỷ Cô Nga thầy Tố ” trực” đêm ngày
Giã bạn rồi mà vẫn ngóng theo
Thuyền vừa buông mái sóng xô theo
Người đi lãng đẵng qua sông suối
Kẻ ở buâng khuâng khuất núi đèo
Gặp gỡ đôi nơi chừng xế bóng
Đợi chờ hai ngả đã sang chiều
Đò đưa ai hẹn vào chung bến
Hỏi đến bao giờ mới thả neo?
Thơ và ảnh của cụ Đỗ Hoàng Phong, sinh ngày 26 tháng 6 năm 1926, 70 năm tuổi Đảng, cán bộ tiền khởi nghĩa, đại danh thủ thơ Đường, tác giả Chiều Xuân Tình Quê, Nghĩa Hưng kháng chiến và nhiều tập thơ khác.
Chín sáu mùa xuân ai bảo nhầm
Đối nhân xử thế đúng phương châm
Vắt ngang thế kỷ trồng cây đức
Xẻ dọc biên niên dệt chữ tâm
Dũng sĩ so tài không kém đức
Anh hùng đọ trí cũng ngang tầm
Huân chương nước tặng hồng trên ngực
Bách tuế ghi tên vẫn nhớ thầm.
(Đỗ Hoàng Phong, 70 năm tuổi Đảng, cán bộ tiền khởi nghĩa, mến tặng)
CNM365. Chào ngày mới 18 tháng 12. Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày 8-18 tháng 12 năm 757 – Thi Thánh Đỗ Phủ trở về kinh thành Trường An làm quan trong triều đình Đường Huyền Tông, sau một thời gian lánh nạn loạn An Sử. Đỗ Phủ (712 – 770) là một nhà thơ Trung Quốc nổi bật thời nhà Đường, cùng với Lý Bạch, ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc. Đỗ Phủ được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi thánh và Thi sử do đức độ cao thượng và tài năng tuyệt vời. Tầm vóc các tác phẩm của ông sánh với Shakespeare, Victor Hugo. Cuộc đời Đỗ Phủ, giống như đất nước Trung Hoa bị loạn lạc chiến tranh giằng xé liên miên và điêu đứng tột cùng vì thường xuyên biến động. Xem người đẹp múa kiếm (1) là một trong những bài thơ nổi tiếng của “thi thánh” ca ngợi tài nghệ múa kiếm tuyệt luân của mỹ nhân Công Tôn Đại Nương, gợi cho người đời sau của Việt Nam nhớ đến bài thơ Thuật hoài đêm thanh mài kiếm của Đặng Dung. Tác phẩm của ông gây ảnh hưởng lớn đến văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc có trích thơ Đỗ Phủ.
Pyotr Ilyich Tchaikovsky – The Nutcracker Ballet (Mariinsky Theatre)
Ngày 18 tháng 12 năm 1892 – kiệt tác Kẹp Hạt Dẻ của Tchaikovsky lần đầu tiên được công diễn tại Sankt-Peterburg, Nga. Pyotr Ilyich Tchaikovsky là một nhà soạn nhạc nổi tiếng người Nga thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Tchaikovsky sáng tác các nhạc phẩm đậm chất Nga theo một lối rất riêng biệt ngân vang, sâu lắng, sự hòa hợp và giai điệu được phản ánh qua điệu nhạc, mặc dù ông không phải là thành viên của nhóm nhạc theo chủ nghĩa dân tộc “The Five“. Ông nổi tiếng vì đã biết kết hợp nhuần nhuyễn âm nhạc Nga với âm nhạc châu Âu, âm nhạc thành thị và nông thôn. Kiệt tác Kẹp Hạt Dẻ là vở ba lê, một trong những tác phẩm thành công nhất của Tchaikovsky hiện được công diễn nhiều nơi trên thế giới, chủ yếu vào dịp Giáng Sinh, nhất là ở Mỹ[2]: Những công ty ba lê chính của Mỹ thu 40% lợi nhuận hàng năm từ những vở kịch Kẹp Hạt Dẻ. Câu chuyện kể về một đêm Giáng sinh, gia đình cùng khách mời tụ họp trong phòng khách để trang trí cây thông Noel. Sau khi cây thông trang trí xong, bọn trẻ bước vào. Chúng ngẩn ngơ nhìn cây Noel lấp lánh với nến và đồ trang trí. Lễ hội bắt đầu. Người người đi diễu hành. Quà được phát tặng cho bọn trẻ. Khi chiếc đồng hồ con cú điểm tám giờ, một nhân vật bí ẩn bất ngờ bước vào căn phòng. Đó là “ông già Noel” cha đỡ đầu của bé Clara. Ông rất giỏi trong việc chế tạo đồ chơi và đã đem theo nhiều món quà cho lũ trẻ, bao gồm bốn con búp bê biết nhảy múa vui mắt. Sau đó ông cất chúng đi. Clara và bạn em buồn rầu vì những món đồ chơi thú vị bị đem cất, nhưng “ông già Noel” đã dành một món quà khác cho cô đó là một con búp bê làm bằng gỗ hình chú lính kẹp hạt dẻ được dùng để làm nứt vỏ hạt như cách các cô bé xinh xắn người Việt vẫn cắn hạt dưa. Những đứa trẻ khác thì lờ đi nhưng Clara lại rất thích. “Ông già Noel” tặng nó cho cô nhưng cậu bạn cô lại cố tình làm gãy nó, vì thế cô rất buồn. “Ông già Noel” sửa nó lại cho cô và dặn hai đứa trẻ phải biết yêu quý quà tặng. Trong đêm thiêng mọi người đã ngủ yên, cô bé quay lại phòng khách thăm chú lính Kẹp Hạt Dẻ yêu quý. Lúc cô lên giường thì đồng hồ điểm lúc nửa đêm và cô nhìn thấy “Ông già Noel” đang ngồi trên đỉnh của chiếc đồng hồ. Đột nhiên, lũ chuột khổng lồ bắt đầu kéo đến. Cây Noel trở nên cao vút. Chú Kẹp Hạt Dẻ cũng vụt lớn lên. Clara bị kẹt giữa cuộc chiến của đội quân bánh quy gừng và lũ chuột nhắt dưới sự điều khiển của vua Chuột. Lũ chuột bắt đầu cắn binh lính bánh quy gừng. Kẹp Hạt Dẻ dẫn đầu đội quân bánh quy gừng cùng với sự giúp đỡ của những chú lính chì và y tá búp bê. Khi thấy vua Chuột chiếm ưu thế và Kẹp Hạt Dẻ bị thương, Clara đã ném giày vào vua Chuột giúp cho chú Kẹp Hạt Dẻ chiến thắng. Lũ chuột rút lui và Kẹp Hạt Dẻ hóa thành một chàng hoàng tử khôi ngô tuấn tú. Anh dẫn Clara đi qua vầng trăng sáng tới rừng thơm, cùng những bông tuyết nhảy múa xung quanh họ. Clara và Hoàng tử trong chiếc thuyền vỏ hạt dẻ được bầy cá heo kéo tới Vương quốc Bánh Kẹo, được cai quản bởi Tiên Nho khô cho tới khi Hoàng Tử trở về. Anh đã thuật lại chuyện Clara đã giúp anh thắng vua Chuột như thế nào. Clara được ca ngợi như một người anh hùng vì đã hóa giải được lời nguyền của vua Chuột đối với Hoàng tử Kẹp Hạt Dẻ. Một lễ hội ca múa nhạc mừng vui được tổ chức với muôn ngàn bánh kẹo ngon từ khắp mọi nơi trên khắp thế giới đổ về cô bé và Hoàng tử của mình được trao vương miện bánh kẹo trong niềm sung sướng hạnh phúc. Trút bỏ mọi mệt mỏi, cô tận hưởng hạnh phúc trong niềm vui hân hoan.
Ngày 18 tháng 12 năm 1985 là ngày mất của Xuân Diệu, ông hoàng thơ tình, cây đại thụ của nền thi ca hiện đại Việt Nam Ông sinh 2 tháng 2 năm 1916. Di sản Xuân Diệu có trên 450 bài thơ (một số lớn nằm trong di cảo chưa công bố), một số truyện ngắn, nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học. Sinh thời Xuân Diệu từng nói: “Nhà văn tồn tại ở tác phẩm. Không có tác phẩm thì nhà văn ấy coi như đã chết.” Tác phẩm chính của Xuân Diệu gồm : Thơ thơ (1938, 1939, 1968, 1970);Gửi hương cho gió (1945, 1967); Ngọn Quốc kỳ (1945, 1961); Hội nghị non sông (1946); Dưới sao vàng (1949); Sáng (1953); Mẹ con (1954); Ngôi sao (1955); Riêng chung (1960); Mũi Cà Mau – Cầm tay (1962); Một khối hồng (1964); Hai đợt sóng (1967); Tôi giàu đôi mắt (1970); Hồn tôi đôi cánh (1976); Thanh ca (1982); Phần thông vàng (1939, truyện ngắn); Trường ca (1945, bút ký); Miền Nam nước Việt (1945, 1946, 1947, bút ký); Việt Nam nghìn dặm (1946, bút ký); Việt Nam trở dạ (1948, bút ký); Ký sự thăm nước Hung (1956, bút ký); Triều lên (1958, bút ký); Tiểu luận phê bình Thanh niên với quốc văn (1945); Tiếng thơ (1951, 1954); Những bước đường tư tưởng của tôi (1958, hồi ký); Ba thi hào dân tộc (1959); Phê bình giới thiệu thơ (1960); Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm (1961); Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961); Dao có mài mới sắc (1963); Thi hào dân tộc Nguyễn Du (1966); Đi trên đường lớn (1968); Thơ Trần Tế Xương (1970); Đọc thơ Nguyễn Khuyến (1971); Và cây đời mãi xanh tươi (1971); Mài sắt nên kim (1977); Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978); Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (tập I, 1981; tập II, 1982; Tìm hiểu Tản Đà (1982). Dịch thơ Thi hào Nadim Hitmet (1962); V.I. Lênin (1967); Vây giữa tình yêu (1968); Việt Nam hồn tôi (1974); Những nhà thơ Bungari (1978, 1985); Nhà thơ Nicôla Ghiđen (1982).[11] Trong sự nghiệp sáng tác thơ văn của mình, Xuân Diệu được biết đến như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh), “ông hoàng của thơ tình”. Xuân Diệu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn và cũng đã là một trong những chủ soái của phong trào “Thơ Mới”. Hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió được giới văn học xem như là hai kiệt tác ca ngợi tình yêu và sự sống, niềm vui và đam mê sống. Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh, đảng viên Việt Nam Dân chủ Đảng, sau tham gia Đảng Cộng sản. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hoạt động trong Hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí Tiền phong của Hội. Sau đó ông công tác trong Hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ ở Việt Bắc. Xuân Diệu tham gia ban chấp hành, nhiều năm là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam.Từ đó, Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu ca ngợi cách mạng, một “dòng thơ công dân”. Xuân Diệu từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Ông còn được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức năm 1983. Ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996). “Thơ ông tài hoa, tinh tế và sang trọng” Trần Đăng Khoa đã đánh giá về Xuân Diệu như vậy trong Chân dung và đối thoại.
18 tháng 12
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ngày 18 tháng 12 là ngày thứ 352 (353 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 13 ngày trong năm.
617 – Sau khi đánh chiếm được thành Trường An, Lý Uyên dựng Đại vương Dương Hựu làm hoàng đế của triều Tùy ở Thiên Hưng điện, diêu tôn Tùy Dạng Đế là Thái thượng hoàng, tức ngày Nhâm Tuất tháng 11 năm Đinh Sửu.
Trong một tháng có 2 loại ngày tốt, ngày xấu; trong một ngày lại có 6 giờ tốt, 6 giờ xấu gọi chung là Ngày/giờ Hoàng đạo (tốt) và Ngày/giờ Hắc đạo (xấu). Người Việt Nam từ xưa đều có phong tục chọn ngày tốt và giờ tốt để làm những việc lớn như cưới hỏi, khởi công làm nhà, nhập trạch, ký kết, kinh doanh v.v.v.
Ngày 8 tháng 11, năm 2015 là ngày Hắc đạo , các giờ tốt trong ngày này là: Giáp Dần, Bính Thìn, đinh Tỵ, Canh Thân, Tân Dậu, Qúy Hợi
Trong ngày này, các tuổi xung khắc nên cẩn thận trong chuyện đi lại, xuất hành, nói chuyện và làm các việc đại sự là: Canh Tuất, Bính Tuất
Xuất hành hướng Đông Bắc gặp Hỷ thần: niềm vui, may mắn, thuận lợi. Xuất hành hướng Nam gặp Tài thần: tài lộc, tiền của, giao dịch thuận lợi.
Xem sao tốt và việc nên làm và nên kiêng
Trong Lịch vạn niên, có 12 trực được sắp xếp theo tuần hoàn phân bổ vào từng ngày. Mỗi trực có tính chất riêng, tốt/xấu tùy từng công việc. Ngày 8 tháng 11, năm 2015 là Trực Định: Tốt cho các việc giao dịch, buôn bán, làm chuồng lục súc, thi ơn huệ. Xấu cho các việc xuất hành, thưa kiện, châm chích, an sàng.
Mỗi ngày đều có nhiều sao Tốt (Cát tinh) và sao Xấu (Hung tinh). Các sao Đại cát (rất tốt cho mọi việc) như Thiên đức, Nguyệt đức, Thiên ân, Nguyệt ân. Có những sao Đại hung (rất xấu cho mọi việc) như Kiếp sát, Trùng tang, Thiên cương. Cũng có những sao xấu tùy mọi việc như Cô thần, Quả tú, Nguyệt hư, Không phòng, Xích khẩu… – xấu cho hôn thú, cưới hỏi, đám hỏi nói chung cần tránh. Hoặc ngày có Thiên hỏa, Nguyệt phá, Địa phá… xấu cho khởi công xây dựng, động thổ, sửa chữa nhà cửa nói chung cần tránh.
Khi tính làm việc đại sự, cần kiểm tra ngày Hoàng Đạo, Hắc Đạo. Xem công việc cụ thể nào, để tránh những sao xấu. Chọn các giờ Hoàng đạo để thực hiện (hoặc làm tượng trưng lấy giờ)
Đỗ Phủ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đỗ Phủ (杜甫)
Không hề có bức họa Đỗ Phủ nào của người đương thời; đây là hình vẽ theo cảm tưởng của nghệ sĩ
Cùng với Lý Bạch, ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc. Tham vọng lớn nhất của ông là có được một chức quan để giúp đất nước, nhưng ông đã không thể thực hiện được điều này. Cuộc đời ông, giống như cả đất nước, bị điêu đứng vì Loạn An Lộc Sơn năm 755, và 15 năm cuối đời ông là khoảng thời gian hầu như không ngừng biến động. Ông còn làm một bài thơ ca ngợi tài múa kiếm điêu luyện của mỹ nhân Công Tôn Đại Nương. Đó là bài Công Tôn Đại Nương đệ tử vũ kiếm khí hành. Đến nay, bài “Mao ốc vị thu phong sở phá ca ” là 1 bài thơ nổi tiếng nhất của ” thi thánh ”
Mặc dù không nổi tiếng từ đầu, những tác phẩm của ông gây ảnh hưởng nhiều đến cả văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Ông tài năng tuyệt vời và đức độ cao thượng nên từng được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi sử và Thi thánh. Đối với độc giả phương Tây, tầm vóc các tác phẩm của ông sánh ngang với “Virgil, Horace, Ovid, Shakespeare, Milton, Burns, Wordsworth, Béranger, Hugo.
Cần nắm chắc cuộc sống tác giả để hiểu được tác phẩm. Điều này càng trở nên quan trọng hơn với Đỗ Phủ vì trong thơ ông, đạo đức và lịch sử đã chiếm phần quan trọng. Một lý do khác là Đường thi thường súc tích, bỏ qua tiểu tiết. Vì thế để hiểu thơ Đỗ Phủ, cần phải nắm vững hoàn cảnh xã hội Trung Quốc đời Đường Huyền Tông.
Những năm đầu tiên
Đỗ Phủ sinh năm 712: không biết rõ nơi sinh, chỉ biết đại khái là ở gần Lạc Dương, tỉnh Hà Nam (huyện Củng cũng có thể là nơi sinh của ông). Sau này ông tự coi mình là người kinh đôTrường An.Đỗ Phủ xuất thân trong một gia đình quý tộc (tự cho là dòng dõi vua Nghiêu) đã sa sút. Mẹ Đỗ Phủ mất sớm sau khi sinh ông, và được người thím nuôi một thời gian. Anh trai cũng mất sớm. Riêng có ba em trai và một em gái khác mẹ: thường được nhắc đến trong thơ (dù thơ ông không hề đề cập tới mẹ kế).
Vì là con trai của một học giả-quan lại bậc thấp, thời trẻ ông được tiếp thu nền giáo dục của Trung Quốc truyền thống để lúc trưởng thành có thể ra làm quan: học thuộc lòng các tác phẩm triết họckinh điển Khổng giáo, lịch sử và thi ca. Sau này ông cho rằng mình đã sáng tác một số bài thơ hay ngay từ khi tuổi còn trẻ, nhưng không lưu giữ lại.
Đầu những năm 730 ông đi tới vùng Giang Tô/Triết Giang; những bài thơ đầu tiên của ông, miêu tả một cuộc thi thơ, được cho là đã sáng tác ở cuối thời kỳ này, khoảng năm 735.
Cùng năm ấy ông đi tới Trường An để dự thi nhưng bất ngờ bị đánh hỏng, việc này đã gây ra chỉ trích trong nhiều thế kỷ tiếp sau. Có lẽ ông đã trượt bởi vì cách hành văn thời ấy quá rắc rối và tối nghĩa, nhưng có ý kiến khác lại cho rằng ông trượt vì đã không tìm kiếm được các mối quan hệ ở kinh đô. Sau kì thi này ông tiếp tục đi du lịch quanh vùng Sơn Đông và Hà Bắc.
Cha ông mất khoảng năm 740. Theo cấp bậc của cha, Đỗ Phủ có thể được phép nhận một chức quan dân sự, nhưng ông đã dành ưu đãi này cho một người em khác mẹ. Bốn năm sau đó ông sống ở vùng Lạc Dương, thực hiện các bổn phận gia đình.
Mùa thu năm 744 ông gặp Lý Bạch lần đầu tiên, và giữa hai nhà thơ đã nảy sinh một tình bạn vong niên: Đỗ Phủ còn trẻ tuổi, trong khi Lý Bạch đã nổi tiếng trên văn đàn. Hai ông đã viết nhiều bài thơ về nhau. Họ chỉ gặp lại nhau một lần nữa năm 745.
Năm 746 Đỗ Phủ tới kinh đô để tìm kiếm một chức quan. Ông tham gia vào cuộc thi năm sau đó, nhưng tất cả thí sinh đều bị vị tể tướng đánh trượt (để chứng tỏ mình đã sáng suốt sử dụng hết người tài và ngăn chặn sự trỗi dậy của bất kỳ đối thủ tiềm tàng nào). Từ đó ông không bao giờ đi thi nữa, chỉ thỉnh cầu trực tiếp hoàng đế năm 751, 754 và có lẽ cả năm 755.
Cuối cùng, vào năm 755 ông được chỉ định làm quan coi kho vũ khí. Dù đây chỉ là một chức nhỏ, ít nhất trong thời bình nó cũng là một buớc khởi đầu cho hoạn lộ của ông. Tuy nhiên, trước khi ông có thể nhậm chức, một loạt các sự kiện xảy ra đã khiến nó không bao giờ còn được thực hiện.
Chiến tranh
Sự Biến An Lộc Sơn xảy ra vào tháng 12, 755 và chỉ tan rã hoàn toàn sau tám năm. Nó tàn phá xã hội Trung Quốc: năm 754 nước này có 52.9 triệu người, nhưng tới năm 764 chỉ còn lại 16.9 triệu, số còn lại đã bị giết hoặc bị dời đi. Trong thời gian này, Đỗ Phủ trải qua một cuộc sống trôi nổi, không thể định cư lâu dài ở đâu vì chiến tranh, cũng như nạn đói và sự bạc đãi của triều đình. Tuy nhiên, thời gian không hạnh phúc này khiến Đỗ Phủ trở thành một nhà thơ đồng cảm với những đau khổ, bất hạnh của người dân thường. Thực tế xung quanh, cuộc sống của gia đình ông, những người hàng xóm, những người qua đường– những điều ông nghe thấy và những gì ông hy vọng hay sợ hãi về tương lai– đã trở thành chủ đề chính trong những sáng tác của ông.
Năm 756 Huyền Tông buộc phải thoái vị, bỏ kinh đô tháo chạy. Đỗ Phủ, khi ấy đã rời kinh đô, đưa gia đình tới nơi lánh nạn và tìm đường đi theo triều đình mới của Túc Tông, nhưng trên đường đi ông bị quân nổi loạn bắt đưa về Trường An. Vào mùa thu, con trai út của ông ra đời. Mọi người cho rằng trong khoảng thời gian này Đỗ Phủ đã bị bệnh sốt rét.
Năm sau ông bỏ trốn khỏi Trường An, và được cho giữ chức Tả thập di trong triều đình mới tháng 5 năm 757. Chức vụ này khiến ông có cơ hội gặp gỡ Hoàng đế, nhưng chỉ mang tính nghi lễ. Đỗ Phủ nhanh chóng gặp rắc rối khi ông lợi dụng cơ hội này để dâng thư can gián việc loại bỏ Phòng Quán người bạn và là người bảo trợ của ông chỉ vì một lỗi nhỏ: sau đó tới lượt chính ông bị giam nhưng tới tháng 6 được thả ra. Tháng 9 năm ấy ông được cho phép về gặp gia đình, nhưng nhanh chóng quay lại triều ngày 8 tháng 12, 757. Ông cùng triều đình quay lại Trường An sau khi quân triều đình tái chiếm nó. Tuy nhiên, những lời can gián của ông không hợp với hoàng đế và vào mùa hè năm 758 ông bị giáng cấp làm Tư công tham quân ở Hoa Châu. Chức vụ này làm ông chán ngán: trong một bài thơ, ông đã viết:
Thúc đới phát cuồng dục đại khiếu,
Bạ thư hà cấp lai tương nhưng.
Xốc đai, điên những muốn gào:
Giấy tờ đâu cứ ào ào chạy vô?
Mùa hè năm 759 ông lại ra đi; lý do của lần này thường được cho là vì nạn đói nhưng cũng có ý cho rằng ông ra đi vì vỡ mộng. Năm sau đó ông sống sáu tuần tại Tần Châu (hiện nay là Thiên Thuỷ, tỉnh Cam Túc), ở đây ông đã sáng tác sáu mươi bài thơ.
Thành Đô
Năm 760 ông tới Thành Đô (tỉnh Tứ Xuyên), nơi ông sẽ sống trong năm năm tiếp theo. Tới mùa thu năm đó ông rơi vào cảnh túng quẫn phải gửi thơ tới những người quen biết để cầu xin giúp đỡ. Ông được Nghiêm Vũ, một người bạn và là đồng môn đang làm tổng trấn ở Thành Đô giúp đỡ. Dù vậy đây vẫn là một trong những giai đoạn thanh bình và hạnh phúc nhất của ông, và nhiều bài thơ sáng tác trong thời kỳ này miêu tả lại cuộc sống thanh bình trong “thảo đường” ở đó. Năm 762 ông rời thành phố này để tránh một cuộc bạo loạn, chỉ quay lại vào mùa hè năm 764 và được chỉ định làm Kiểm hiệu công bộ viên ngoại lang, tham gia vào chiến dịch chống lại người Tạng.
Những năm sau này
Quân đội triều đình tái chiếm Lạc Dương, nơi sinh Đỗ Phủ, vào mùa đông năm 762, và vào mùa xuân năm 765 Đỗ Phủ cùng gia đình đi thuyền xuôi sông Dương Tử, với ý định quay về Lạc Dương. Chuyến đi rất chậm, vì tình trạng sức khỏe kém của ông (lúc ấy ông mắc thêm bệnh mắt, điếc và nói chung đã ở tuổi già lại thêm những lo lắng phiền não). Họ dừng lại ở Quỳ Châu (hiện nay là Bạch Đế, Trùng Khánh) trong hai năm cho tới tận cuối mùa đông năm 766. Đây là giai đoạn phát triển rực rỡ cuối cùng của thơ Đỗ Phủ, và cũng chính ở đây ông đã sáng tác 437 bài thơ đa phần là thơ luật. Mùa thu năm 766 Bo Maolin trở thành tổng trấn trong vùng: ông giúp đỡ tài chính và trao cho Đỗ Phủ một chức quan thư ký không chính thức.
Ông lập gia đình từ khoảng năm 752, và tới năm 757 họ đã có năm con (ba trai hai gái) nhưng một cậu con trai ông đã chết khi còn thơ ấu năm 755.
Từ năm 754 ông bắt đầu bị bệnh phổi (có lẽ là hen suyễn). Tháng 3 năm 768 ông lại bắt đầu chuyến hành trình tới tỉnh Hồ Nam. Ông mất tại Đàm Châu 潭州 (nay là Trường Sa) vào tháng 11 hay tháng 12 năm 770, ở tuổi 59, trên một chiếc thuyền rách nát… Vợ và hai con trai ông vẫn ở tại đó thêm ít nhất hai năm nữa. Cuối cùng dòng dõi còn được biết của ông là một cháu trai, người đã đề nghị Nguyên Chẩn viết bài minh trên mộ ông vào năm 813.
Tư tưởng và tác phẩm
Một đoạn trong bài thơ “Thăm đền Lão Tử” của Đỗ Phủ, bản viết tay thế kỷ 16
Giới phê bình văn học chú trọng tới tính sử, đạo đức và kỹ thuật sáng tác điêu luyện của ông.
Lịch sử
Từ thời nhà Tống thơ Đỗ Phủ đã được gọi là “thi sử” (詩史). Vấn đề lịch sử được đề cập trực tiếp trong thơ ông là sự bình luận các sách lược quân sự, các thắng bại của triều đình hay những ý kiến ông muốn đề đạt trực tiếp tới hoàng đế. Một cách gián tiếp, ông viết về ảnh hưởng của thời đại đối với đời sống chính mình cũng như người dân thường Trung Quốc.
Những phản ánh chính trị của Đỗ Phủ dựa trên cảm xúc chứ không dựa trên tính toán. Ông ước ao mọi người bớt ích kỷ và làm tròn bổn phận của mình. Tuy nhiên, do người ta không thể không đồng ý với các quan điểm của ông nên các sự thật được biểu đạt đầy sức thuyết phục trong thơ ông đã khiến ông trở thành một nhân vật trung tâm trong thi sử Trung Quốc.
Đạo đức
Một danh hiệu thứ hai mà các nhà phê bình Trung Quốc đặt cho Đỗ Phủ là “thi thánh” (詩聖), ngang hàng với Khổng Tử, vị thánh về triết học. Trong một bài thơ ở thời kỳ đầu tiên của ông, Binh xa hành(兵 車行) (khoảng năm 750), đã nói lên nỗi thống khổ của một người bị bắt đi lính trong quân đội triều đình, thậm chí trước khi xảy ra loạn An Lộc Sơn; bài thơ này nói lên sự xung đột giữa việc chấp nhận và hoàn thành nghĩa vụ, và sự ý thức rõ ràng về những đau khổ có thể nảy sinh. Chủ đề này liên tiếp được nhấn mạnh trong những bài thơ về cuộc đời của dân chúng và binh sĩ mà Đỗ Phủ sáng tác trong cả cuộc đời mình.
Tuy việc Đỗ Phủ hay nhắc đến sự thống khổ của riêng mình có thể đem lại một ấn tượng về chủ nghĩa duy ngã. Nhưng thực tế hình ảnh ông trong đó luôn được quan sát dưới góc độ khách quan và hầu như chỉ được đưa ra sau chót để tự cảm thán. Vì thế, ông khiến bức tranh xã hội trong thơ mang tính khái quát cao hơn khi so sánh nó với một cá nhân tầm thường là chính mình.
Tình thương của Đỗ Phủ đối với chính mình và với người khác chỉ là một phần trong các chủ đề của thơ ông: ông còn sáng tác nhiều bài về những chủ đề mà trước đó bị coi là không thích hợp để thể hiện trong thơ. Zhang Jie đã viết rằng đối với Đỗ Phủ, “mọi thứ trên thế giới này đều là thơ” (Chou p. 67), các chủ đề trong thơ ông rất bao quát, như cuộc sống hàng ngày, thư họa, hội họa, thú vật và các chủ đề khác.
Kỹ thuật
Trước tác của Đỗ Phủ đặc biệt nổi tiếng nhất vì tầm vóc của nó. Các nhà phê bình Trung Quốc thường dùng từ Tập đại thành 集大成, theo lời ca ngợi của Mạnh Tử dành cho Khổng Tử. Yuan Zhen là người đầu tiên lưu ý tới mức độ to lớn của các tác phẩm của Đỗ Phủ, năm 813 ông đã viết, (Đỗ Phủ) “đã thống nhất trong tác phẩm của mình những nét tiêu biểu mà người trước mới chỉ đề cập riêng lẻ”. Ông là nhà thơ tài nghệ trong mọi phong cách thơ Trung Quốc. Ở bất cứ hình thức nào ông đều mang lại những tiến bộ vượt bậc hay đóng góp những ví dụ mẫu mực. Hơn nữa, thơ ông có phạm vi sử dụng từ vựng rộng lớn, từ cách nói trực tiếp và thông tục cho đến cách nói bóng và ngôn ngữ văn chương. Nội dung chính trong thơ đã thay đổi khi ông phát triển phong cách của mình để thích hợp với hoàn cảnh xung quanh. Những bài thơ đầu tiên theo phong cách trang nhã nhưng về sau này khi trải qua những cơ cực của chiến tranh thơ ông đã trở lại với phong cách đích thực của mình. Những bài thơ sáng tác trong giai đoạn ở Tần Châu đơn giản đến tàn nhẫn, phản ánh quang cảnh hoang tàn. Những bài thơ giai đoạn ở Thành Đô nhẹ nhàng và đẹp đẽ, trong khi ở cuối giai đoạn Quỳ Châu đậm chi tiết và có tính dự báo.
Dù sáng tác ở mọi thể loại thơ, Đỗ Phủ nổi tiếng nhất ở cận thể thi, một kiểu thơ có nhiều ràng buộc về hình thức và số lượng từ trong câu. Khoảng hai phần ba trong 1.500 tác phẩm hiện còn của ông là ở thể này, và nói chung ông được coi là nhà thơ tiêu biểu cho thể loại này. Những bài thơ đạt nhất của ông trong thể loại dùng phép đối song song để thêm nội dung biểu đạt thay vì chỉ là một quy định kỹ thuật thông thường.
Ảnh hưởng
Sinh thời và ngay sau khi mất, Đỗ Phủ đã không được đánh giá cao, phần vì những đổi mới trong phong cách và hình thức thơ ông. Một số bị coi là quá táo bạo và kỳ cục đối với giới phê bình văn học Trung Quốc. Chỉ một số ít tác giả đương thời có nhắc tới ông và miêu tả ông với tính chất tình cảm cá nhân, chứ không phải như một nhà thơ xuất chúng hay lý tưởng đạo đức. Thơ Đỗ Phủ cũng ít xuất hiện trong những hợp tuyển văn học thời kỳ đó.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của ông đối với thi ca Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ, và tới thế kỷ thứ 9 ông đã trở nên rất nổi tiếng. Những lời ngợi ca đầu tiên dành cho Đỗ Phủ là của Bạch Cư Dị, người đã ca ngợi những tình cảm đạo đức trong một số tác phẩm của Đỗ Phủ. Hàn Vũ đã viết bài bênh vực mỹ học trong thơ Đỗ Phủ và Lý Bạch trước những lời chỉ trích nhằm vào họ. Tới đầu thế kỷ thứ 10, Wei Zhuang đã cho dựng lại bản sao đầu tiên ngôi nhà tranh của ông ở Tứ Xuyên.
Tới thế kỷ 11, trong giai đoạn Bắc Tống, danh tiếng Đỗ Phủ lên tới cực điểm. Trong thời gian này các nhà thơ trước đó đã được đánh giá lại một cách toàn diện, theo đó Vương Duy, Lý Bạch và Đỗ Phủ lần lượt được coi là đại diện cho xu hướng Phật giáo, Đạo giáo và Khổng giáo trong văn hóa Trung Quốc. Cùng lúc ấy, sự phát triển của Tân Khổng giáo đã đặt Đỗ Phủ lên vị trí cao nhất, vì trong cả cuộc đời, ông đã không vì đói nghèo cùng khổ mà quên đi quân vương của mình. Ảnh hưởng của ông càng tăng do khả năng hòa hợp những mặt đối lập: phe bảo thủ chính trị bị thu hút bởi sự trung thành của ông với hệ thống tôn ti trật tự sẵn có, còn phe cải cách nắm lấy mối quan tâm của ông đối với đời sống dân nghèo. Từ khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập, sự trung thành với quốc gia và những quan tâm của ông tới người nghèo đã được giải thích sự phôi thai của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa xã hội, và ông được tán dương vì ông đã sử dụng ngôn ngữ giản dị “của nhân dân”.
Sự nổi tiếng của Đỗ Phủ lớn tới mức có thể đo được, như trường hợp của Shakespeare ở Anh. Mỗi nhà thơ Trung Quốc đều khó có thể không bị ảnh hưởng từ ông. Không bao giờ có một Đỗ Phủ thứ hai, các nhà thơ sau này tiếp nối truyền thống trong từng khía cạnh cụ thể của thơ ông. Mối quan tâm của Bạch Cư Dị tới dân nghèo, lòng yêu nước của Lục Du, các phản ánh cuộc sống hàng ngày của Mai Nghiêu Thần là một vài ví dụ.
Trích dẫn tiêu biểu
“Gia thư vạn kim” (Thư quê, muôn vàng) – Từ bài Xuân vọng (春望) của Đỗ Phủ: “Phong hoả liên tam nguyệt, gia thư để vạn kim = Khói lửa liền ba tháng, thư quê đáng muôn đồng (烽火連三月、家書抵萬金)”.
Cá chết của nhà thơ Đỗ Phủ
“
Nhân sinh Thất thập cổ lai hy. (Nghĩa là Người ngoài 70 xưa nay hiếm)