|
|
Thứ hai, Ngày 28 Tháng 9 Năm 2015
|
|
|
Âm lịch: Ngày 16 Tháng 8 Năm 2015 Ngày Julius: 2457294 |
Bát tự: Giờ Canh Tí, ngày đinh Mùi, tháng ất Dậu, năm ất Mùi |
|
0:00 |
Giờ: Canh Tí |
Ngày Hoàng đạo |
Sao: Kim Được |
Giờ Hoàng đạo |
Nhâm Dần, Qúy Mão, ất Tỵ, Mậu Thân, Canh Tuất, Tân Hợi |
Giờ Hắc đạo |
Canh Tí, Tân Sửu, Giáp Thìn, Bính Ngọ, đinh Mùi, Kỷ Dậu |
Năm |
Kim |
Sa trung kim |
Mùa: Mùa thu |
Vượng: Kim
Khắc: Hỏa |
Trọng |
Ngày |
Thuỷ |
Thiên hà thủy |
Nước trên trời |
Tuổi xung |
Kỷ Sửu, Tân Sửu |
Tiết khí |
Giữa: Thu phân (Giữa thu) – Hàn lộ (Mát mẻ) |
Sao |
Trương |
|
Ngũ hành |
Thái âm |
|
Động vật |
Hươu |
|
Trực |
Khai |
– Tốt cho các việc làm nhà, động thổ, làm chuồng gia súc, giá thú, đào giếng.
– Xấu cho các việc giao dịch, châm chích, trồng tỉa. |
Xuất hành |
Hỷ thần |
chính Nam |
Tài thần |
chính Đông |
Kê thần |
(Lên trời) |
Cát tinh |
Tốt |
Kỵ |
Sinh khí |
Tốt mọi việc, nhất là làm nhà, sửa nhà, động thổ, trồng cây |
|
Địa tài |
Tốt cho việc cầu tài lộc, khai trương |
|
Âm Đức |
Tốt mọi việc |
|
Đại Hồng Sa |
Tốt mọi việc |
|
Kim đường |
Hoàng Đạo – Tốt mọi việc |
|
Sát tinh |
Kỵ |
Ghi chú |
Thụ tử |
Xấu mọi việc |
trừ săn bắn tốt |
Hoang vu |
Xấu mọi việc |
|
Nhân Cách |
Xấu đối với giá thú, khởi tạo |
|
Thiên địa chính chuyển |
Kỵ động thổ |
|
Tứ thời cô quả |
Kỵ giá thú |
|
Mặt trời |
Giờ mọc |
Giờ lặn |
Hà Nội |
05:49 |
17:45 |
TP.Hồ Chí Minh |
05:44 |
17:43 |
|
Thiên Hình |
Hắc đạo |
|
1:00 |
Giờ: Tân Sửu |
Chu Tước |
Hắc đạo |
|
3:00 |
Giờ: Nhâm Dần |
Kinh Quỹ |
Hoàng đạo |
|
5:00 |
Giờ: Qúy Mão |
Kim Được |
Hoàng đạo |
|
7:00 |
Giờ: Giáp Thìn |
Bạch Hổ |
Hắc đạo |
|
9:00 |
Giờ: ất Tỵ |
Ngọc Đường |
Hoàng đạo |
|
11:00 |
Giờ: Bính Ngọ |
Thiên Lao |
Hắc đạo |
|
13:00 |
Giờ: đinh Mùi |
NGuyên Vũ |
Hắc đạo |
|
15:00 |
Giờ: Mậu Thân |
Tư Mệnh |
Hoàng đạo |
|
17:00 |
Giờ: Kỷ Dậu |
Câu Trận |
Hắc đạo |
|
19:00 |
Giờ: Canh Tuất |
Thanh Long |
Hoàng đạo |
|
21:00 |
Giờ: Tân Hợi |
Minh Đường |
Hoàng đạo |
|
23:00 |
Giờ: Canh Tí |
Thiên Hình |
Hắc đạo |
|
|
Lịch vạn niên 2015, ngày 16 tháng 8, năm 2015 – Âm lịch
Xem ngày giờ tốt và hướng xuất hành
Trong một tháng có 2 loại ngày tốt, ngày xấu; trong một ngày lại có 6 giờ tốt, 6 giờ xấu gọi chung là Ngày/giờ Hoàng đạo (tốt) và Ngày/giờ Hắc đạo (xấu). Người Việt Nam từ xưa đều có phong tục chọn ngày tốt và giờ tốt để làm những việc lớn như cưới hỏi, khởi công làm nhà, nhập trạch, ký kết, kinh doanh v.v.v.
Ngày 16 tháng 8, năm 2015 là ngày Hoàng đạo , các giờ tốt trong ngày này là: Nhâm Dần, Qúy Mão, ất Tỵ, Mậu Thân, Canh Tuất, Tân Hợi
Trong ngày này, các tuổi xung khắc nên cẩn thận trong chuyện đi lại, xuất hành, nói chuyện và làm các việc đại sự là: Kỷ Sửu, Tân Sửu
Xuất hành hướng Đông Bắc gặp Hỷ thần: niềm vui, may mắn, thuận lợi. Xuất hành hướng Nam gặp Tài thần: tài lộc, tiền của, giao dịch thuận lợi.
Xem sao tốt và việc nên làm và nên kiêng
Trong Lịch vạn niên, có 12 trực được sắp xếp theo tuần hoàn phân bổ vào từng ngày. Mỗi trực có tính chất riêng, tốt/xấu tùy từng công việc. Ngày 16 tháng 8, năm 2015 là Trực Khai: Tốt cho các việc làm nhà, động thổ, làm chuồng gia súc, giá thú, đào giếng. Xấu cho các việc giao dịch, châm chích, trồng tỉa.
Mỗi ngày đều có nhiều sao Tốt (Cát tinh) và sao Xấu (Hung tinh). Các sao Đại cát (rất tốt cho mọi việc) như Thiên đức, Nguyệt đức, Thiên ân, Nguyệt ân. Có những sao Đại hung (rất xấu cho mọi việc) như Kiếp sát, Trùng tang, Thiên cương. Cũng có những sao xấu tùy mọi việc như Cô thần, Quả tú, Nguyệt hư, Không phòng, Xích khẩu… – xấu cho hôn thú, cưới hỏi, đám hỏi nói chung cần tránh. Hoặc ngày có Thiên hỏa, Nguyệt phá, Địa phá… xấu cho khởi công xây dựng, động thổ, sửa chữa nhà cửa nói chung cần tránh.
Khi tính làm việc đại sự, cần kiểm tra ngày Hoàng Đạo, Hắc Đạo. Xem công việc cụ thể nào, để tránh những sao xấu. Chọn các giờ Hoàng đạo để thực hiện (hoặc làm tượng trưng lấy giờ).
Tiệp Khắc
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tiệp Khắc (tiếng Séc: Československo, tiếng Slovak: Česko-Slovensko/trước 1990 Československo, tiếng Đức: Tschechoslowakei), còn gọi tắt là Tiệp (nhất là trong khẩu ngữ), là một nhà nước có chủ quyền tại Trung Âu tồn tại từ tháng 10 năm 1918, khi nó tuyên bố độc lập khỏi Đế quốc Áo-Hung, cho tới năm 1992. Từ 1939 tới 1945 quốc gia này trên thực tế không tồn tại, vì bị bắt buộc giải tán và sáp nhập một phần vào nước Đức Phát xít, nhưng Chính phủ Séc lưu vong quả thực có tồn tại trong giai đoạn này trong khi Slovakia độc lập khỏi Séc. Ngày 1 tháng 1 năm 1993 Tiệp Khắc phân chia trong hòa bình thành Cộng hòa Séc và Slovakia. Cộng hòa Séc hiện nay kế thừa Tiệp Khắc về mặt pháp lý.
Tên gọi
Danh xưng “Tiệp Khắc” trong tiếng Việt là giản xưng của Tiệp Khắc Tư Lạc Phạt Khắc (Trung văn: 捷克斯洛伐克, bính âm: Jiékè Sīluòfákè)), dịch danh Trung văn của quốc hiệu Tiệp Khắc. Trong đó, “Tiệp Khắc” (Jiékè) là chỉ Séc, “Tư Lạc Phạt Khắc” (Sīluòfákè) là chỉ Slovakia. Hiện nay cũng có một số người Việt Nam gọi Séc là “Tiệp Khắc” hoặc “Tiệp”.
Các tính chất căn bản
Hình thức nhà nước:
Nước láng giềng: Đức (1945–1990: Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hòa Dân chủ Đức), Ba Lan, từ 1945 Liên bang Xô viết (1992: Ukraina), România (cho tới năm 1939), Hungary, Áo
Địa hình: Nói chung bằng phẳng. Vùng phía tây là một phần của dải đất cao bắc trung Âu. Vùng phía đông gồm phần phía bắc của lòng chảo Núi Carpathian và Sông Danube.
Khí hậu: Chủ yếu lục địa nhưng thay đổi từ nhiệt độ ôn hòa của Trung Âu ở phía tây tới các hệ thống thời tiết khắc nghiệt hơn có ảnh hưởng Đông Âu và vùng phía tây Liên xô tại phía đông.
Tên chính thức
-
Lịch sử
Thành lập
-
Tiệp Khắc được thành lập tháng 10 năm 1918 như một trong những quốc gia kế tục của Áo-Hung ở cuối Thế chiến I. Nó gồm các lãnh thổ hiện nay của Cộng hòa Séc, Slovakia và Carpathian Ruthenia. Lãnh thổ của nó gồm một số vùng rất công nghiệp hoá của Áo-Hung cũ. Đây là một quốc gia đa sắc tộc. Thành phần sắc tộc nguyên thủy của nhà nước mới gồm 51% người Séc, 16% người Slovak, 22% người Đức, 5% người Hung và 4% người Rusyn hay Ruthenia.[2] Nhiều người Đức, Hungary, Ruthenia và người Ba Lan[3] và một số người Slovak, cảm thấy bất lợi tại Tiệp Khắc, bởi giới lãnh đạo chính trị đất nước đưa ra một nhà nước trung ương tập quyền và đa số thời gian không cho phép tự trị chính trị cho các nhóm sắc tộc. Chính sách này, cộng với sự tuyên truyền Phát xít ngày càng tăng đặc biệt ở vùng công nghiệp hoá nói tiếng Đức Sudetenland, đã dẫn tới tình trạng căng thẳng leo thang trong sắc dân không phải Séc.
Tư tưởng chính thống về nhà nước lập hiến của quốc gia mới thời điểm đó là không có người Séc và người Slovak, chỉ một dân tộc: Tiệp Khắc (xem Chủ nghĩa Tiệp Khắc). Nhưng không phải mọi sắc tộc đều đồng ý với tư tưởng này (đặc biệt là người Slovak) và một khi một nhà nước Tiệp Khắc thống nhất được tái lập sau Thế chiến II (sau sự giải tán của quốc gia trong Thế chiến II) ý tưởng này bị bỏ lại và Tiệp Khắc là một đất nước hai dân tộc – người Séc và người Slovak.
Tiệp Khắc năm 1930: ngôn ngữ
Sắc tộc Tiệp Khắc năm 1921[4]
|
Tổng dân số |
13,607.385 |
Tiệp Khắc |
8,759.701 |
64.37% |
Đức |
3,123.305 |
22.95% |
Người Hungary |
744.621 |
5.47% |
Người Ruthenia |
461.449 |
3.39% |
Do Thái |
180.534 |
1.33% |
Ba Lan |
75.852 |
0.56% |
Khác |
23.139 |
0.17% |
Người nước ngoài |
238.784 |
1.75% |
|
Thế chiến II
-
Theo Thoả thuận Munich năm 1938, Anh Quốc và Pháp buộc Tiệp Khắc nhượng các vùng biên giới nói tiếng Đức cho Phát xít Đức dù đã tồn tại những hiệp ước, trong cái thường được gọi là một phần của Sự phản bội phương Tây. Năm 1939 phần còn lại (“rump”) của Tiệp Khắc bị Phát xít Đức xâm lược và phân chia thành vùng Bảo hộ Bohemia và Moravia và Nhà nước Slovak con rối. Đa phần Slovakia và toàn bộ Subcarpathian Ruthenia bị Hungary sáp nhập.
Tiệp Khắc Cộng sản
-
Sau Thế chiến II, nước Tiệp Khắc trước chiến tranh được tái lập, ngoại trừ Subcarpathian Ruthenia, bị Liên xô sáp nhập và đưa vào Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraine. Nghị định Beneš được công bố liên quan tới sắc tộc Đức (xem Thoả thuận Potsdam) và sắc tộc Hungary. Theo các nghị định này, quyền công dân bị bãi bỏ với người có nguồn gốc sắc tộc Đức và Hungary, những người từng nhận quyền công dân Đức hoặc Hungary trong thời chiếm đóng. (Năm 1948 điều khoản này bị xoá bỏ cho người Hungary, nhưng chỉ một phần cho người Đức). Sau đó thường tịch thu tài sản của họ và trục xuất khoảng 90% dân số sắc tộc Đức tại Tiệp Khắc, hơn 2 triệu người. Những người còn lại bị buộc tội chung là đã ủng hộ Phát xít (sau Thoả thuận Munich, và 97.32% người Đức Sudeten thành niên bỏ phiếu cho NSDAP trong cuộc bầu cử tháng 12 năm 1938). Hầu như mọi nghị định đều nói dứt khoát rằng sự trừng phạt không áp dụng cho những người chống phát xít, dù thuật ngữ chống phát xít không được định nghĩa rõ ràng. Khoảng 250,000 người Đức, nhiều người lấy người Séc, một số người chống phát xít, và cả những người yêu cầu tái lập đất nước thời hậu chiến, vẫn ở lại Tiệp Khắc. Nghị định Beneš vẫn gây ra tranh cãi lớn giữa các nhóm quốc gia tại Cộng hòa Séc, Đức, Áo và Hungary.[5]
Carpathian Ruthenia bị chiếm đóng bởi (và vào tháng 6 năm 1945 chính thức nhượng lại) Liên Xô. Năm 1946 trong cuộc bầu cử nghị viện Đảng Cộng sản Tiệp Khắc chiến thắng tại vùng đất Séc (Đảng dân chủ chiến thắng tại Slovakia). Tháng 2 năm 1948 những người Cộng sản lên nắm quyền lực. Dù họ tiếp tục duy trì sự đa nguyên chính trị bịa đặt với sự tồn tại của Mặt trận Quốc gia, ngoại trừ một thời gian ngắn cuối thập niên 1960 (Mùa xuân Prague) đất nước này có đặc trưng ở sự thiếu vắng dân chủ tự do. Tuy nền kinh tế của nó vẫn tiên tiến hơn nền kinh tế các nước láng giềng ở Đông Âu, Tiệp Khắc dần trở nên yếu ớt về kinh tế so với Tây Âu.
Năm 1968, sau một giai đoạn tự do hoá ngắn, năm nước Khối Đông Âu xâm lược Tiệp Khắc. Liên Xô cho xe tăng tiến vào Prague ngày 21 tháng 8 năm 1968.[6] Người đứng đầu chính phủ Xô viết Leonid Brezhnev coi sự can thiệp này là tối cần thiết cho sự tồn tại của Xô viết, hệ thống xã hội chủ nghĩa và cam kết tiến hành can thiệp vào bất kỳ nước nào tìm cách thay thế chủ nghĩa xã hội bằng chủ nghĩa tư bản.[7] Năm 1969, Tiệp Khắc chuyển thành một liên bang gồm Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Séc và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovak. Theo hình thức liên bang, những sự không công bằng giữa Séc và Slovak gây ảnh hưởng tới nhà nước bị hạn chế. Một số bộ, như bộ giáo dục, chính thức được chuyển cho hai nước cộng hòa. Tuy nhiên, sự quản lý chính trị tập trung bởi Đảng Cộng sản hạn chế khá nhiều hiệu quả của sự liên bang hoá.
Thập niên 1970 chứng kiến sự trỗi dậy của phong trào phản đối tại Tiệp Khắc, đại diện bởi (trong số những người khác) Václav Havel. Phong trào tìm cách tham gia mạnh hơn vào chính trị và thể hiện dưới hình thức phản đối chính thức, diễn ra trong những giới hạn của các hoạt động công việc (đi xa tới mức một lệnh cấm nghiệp đoàn chuyên nghiệp và từ chối giáo dục cao cho con em những người bất đồng được ban ra), cảnh sát đe doạ và thậm chí là cả nhà tù.
Sau 1989
-
Năm 1989 đất nước này lại quay trở lại dân chủ sau Cách mạng Nhung. Điều này xảy ra cùng khoảng thời gian với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản tại România, Bulgaria, Hungary và Ba Lan. Trong vòng ba năm những người cộng sản đã bị gạt bỏ khỏi Châu Âu.
Không giống Nam Tư và Liên bang Xô viết, sự chấm dứt của Chủ nghĩa cộng sản ở nước này không tự động có nghĩa sự chấm dứt của cái tên “cộng sản”: từ “xã hội chủ nghĩa” bị bỏ đi ngày 29 tháng 3 năm 1990, và được thay bằng “liên bang”.
Năm 1992, vì những căng thẳng leo thang của chủ nghĩa quốc gia, Tiệp Khắc giải tán trong hòa bình theo các quá trình trong nghị viện. Lãnh thổ của nó trở thành Cộng hòa Séc và Slovakia, được chính thức lập ra ngày 1 tháng 1 năm 1993.
Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ
Chính sách đối ngoại
Thoả thuận và thành viên tổ chức quốc tế
Sau Thế chiến II, thành viên tích cực trong Hội đồng Tương trợ Kinh tế (Comecon), Khối hiệp ước Warszawa, Liên hiệp quốc và các cơ quan khác của tổ chức này, tham gia ký kết Hội nghị An ninh và Hợp tác Châu Âu
Phân chia hành chính
-
- 1918–1923: các hệ thống khác nhau trong lãnh thổ Áo cũ (Bohemia, Moravia, một phần nhỏ của Silesia) so với lãnh thổ cũ của Hungary (Slovakia và Ruthenia): ba vùng đất (země) (cũng được gọi là các đơn vị quận (obvody)): Bohemia, Moravia, Silesia, cộng thêm 21 hạt (župy) tại Slovakia ngày nay và hai(?) hạt tại Ruthenia hiện nay; cả vùng đất và hạt đều được chia thành các quận (okresy).
- 1923–1927: như trên, ngoại trừ các hạt của Slovakia và Ruthenia bị thay thế bởi sáu (grand) hạt ((veľ)župy) tại Slovakia và một (grand) hạt tại Ruthenia, và các con số và các biên giới của okresy bị thay đổi trong hai lãnh thổ đó.
- 1928–1938: bốn vùng đất (Séc: země, Slovak: krajiny): Bohemia, Moravia-Silesia, Slovakia và Subcarpathian Ruthenia, được chia thành các quận (okresy).
- Late 1938–tháng 3 năm 1939: như trên, nhưng Slovakia và Ruthenia giành được quy chế “vùng đất tự trị”.
- 1945–1948: như năm 1928–1938, trừ Ruthenia trở thành một phần của Liên bang Xô viết.
- 1949–1960: 19 vùng (kraje) được chia thành 270 okresy.
- 1960–1992: 10 kraje, Praha, và (từ 1970) Bratislava (thủ đô Slovakia); chúng được chia thành 109–114 okresy; kraje bị xoá bỏ thạm thời ở Slovakia năm 1969–1970 và cho nhiều mục đích từ năm 1991 tại Tiệp Khắc; ngoài ra, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Séc và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovak được thành lập năm 1969 (không có từ Xã hội chủ nghĩa từ 1990).
Nhóm dân và sắc tộc
-
Tại thời điểm trước khi phân chia, năm 1991, Tiệp Khắc có 15,6 triệu dân, trong đó người Séc chiếm 62,8%, người Slovakia chiếm 31%, người gốc Hungary chiếm 3,8%, người gốc Romania 0,7%, người gốc Silesi 0,3%. Ngoài ra, tại Tiệp Khắc còn một số ít người gốc Ruthe, Ukraina, Đức, Ba Lan và Do Thái. Người Séc, Slovakia, Silesi và Ba Lan cùng là các dân tộc Tây Slav. Người Ruthe và Ukraina cùng là các dân tộc Đông Slav.
Chính trị
-
-
Sau Thế chiến II, một sự độc quyền chính trị do Đảng Cộng sản Tiệp Khắc (KSC) nắm giữ xuất hiện. Gustáv Husák được bầu làm thư ký thứ nhất của KSC năm 1969 (chuyển thành tổng thư ký năm 1971) và chủ tịch Tiệp Khắc năm 1975. Các đảng và tổ chức khác có tồn tại nhưng chỉ đóng vai trò phụ thuộc cho KSC. Tất cả các đảng chính trị cũng như nhiều tổ chức quần chúng bị gộp lại dưới bóng của Mặt trận Quốc gia. Những nhà hoạt động về quyền con người và tôn giáo bị đàn áp mạnh mẽ.
Phát triển hiến pháp
Tiệp Khắc có các hiến pháp sau trong lịch sử của mình (1918–1992):
Kinh tế
-
Sau Thế chiến II, kinh tế là tập trung kế hoạch hoá, với các liên kết chỉ huy từ đảng cộng sản, tương tự như Liên bang Xô viết. Ngành công nghiệp luyện kim lớn phụ thuộc vào nhập khẩu quặng sắt và phi sắt.
- Công nghiệp: Công nghiệp khai khoáng và chế tạo chiếm chủ yếu. Các ngành chính gồm chế tạo máy, hoá chất, chế biến thực phẩm, luyện kim và dệt may. Công nghiệp lãng phí năng lượng, vật tư và nhân công, kỹ thuật chậm cải tiến, nhưng nước này là nguồn cung cấp máy móc chất lượng cao, máy bay, động cơ hàng không và công cụ, đồ điện tử và vũ khí chính cho các quốc gia cộng sản khác.
- Nông nghiệp: Lĩnh vực nhỏ nhưng cung cấp phần chủ yếu nhu cầu thực phẩm quốc gia, vì các nông trang đã được tập thể hoá với diện tích lớn và có cách thức hoạt động khá hiệu quả. Phụ thuộc vào nhập khẩu ngũ cốc (chủ yếu làm thức ăn gia súc) trong những năm thời tiết không thuận lợi. Sản xuất thịt bị ảnh hưởng bởi thiếu thức ăn, nhưng lượng thịt tiêu thụ trên đầu người cao.
- Thương mại nước ngoài: Xuất khẩu ước tính US$17.8 tỷ năm 1985, trong số đó 55% máy móc, 14% nhiên liệu và vật liệu, 16% hàng hoá chế tạo. Nhập khẩu ước tính US$17.9 tỷ năm 1985, trong sóo đó 41% nhiên liệu và vật liệu, 33% máy móc, 12% sản phẩm nông nghiệp và lâm nghiệp. Năm 1986, khoảng 80% thương mại nước ngoài là với các quốc gia cộng sản.
- Tỷ giá hối đoái: Chính thức, hay thương mại, tỷ giá Crowns (Kcs) 5.4 trên US$1 năm 1987; du lịch, hay phi thương mại, tỷ giá Kcs 10.5 trên US$1. Không tỷ giá nào phản ánh đúng sức mua. Tỷ giá trên chợ đen khoảng Kcs 30 trên US$1, và tỷ giá này trở thành chính thức khi đồng tiền trở thành chuyển đổi được đầu thập niên 1990.
- Năm tài chính: Năm dương lịch.
- Chính sách thuế: Nhà nước sở hữu hầu như toàn bộ phương tiện sản xuất. Nguồn thu từ các doanh nghiệp nhà nước là nguồn thu chủ yếu tiếp theo là thuế doanh thu. Các khoản chi ngân sách lớn cho các chương trình xã hội, trợ cấp, và đầu tư. Ngân sách thường cân bằng hay hơi thặng dư.
Nguồn tài nguyên
-
Sau Thế chiến II, nước này thiếu năng lượng, phụ thuộc vào nhập khẩu dầu thô và khí tự nhiên từ Liên xô, than xám trong nước, và năng lượng hạt nhân hay thuỷ điện. Năng lượng là một vấn đề lớn trong thập niên 1980.
Vận tải và Viễn thông
-
Xã hội và nhóm Xã hội
-
Giáo dục
-
Giáo dục là miễn phí ở mọi cấp độ và phổ cập từ tuổi lên sáu tới mười lăm. Đại đa số người dân biết chữ. Hệ thống dạy nghề phát triển cao và các trường nghề hỗ trợ các trường trung học và các viện giáo dục cao học.
Tôn giáo
-
Năm 1991: Cơ đốc giáo La Mã 46.4%, Phúc âm Lutheran 5.3%, Vô thần 29.5%, không rõ 16.7%, nhưng có những sự khác biệt lớn giữa hai nước cộng hoà lập hiến – xem Cộng hoà Séc và Slovakia
Sức khỏe, an sinh xã hội và nhà ở
-
Sau Thế chiến II, chăm sóc sức khoẻ miễn phí được áp dụng cho mọi công dân. Kế hoạch chăm sóc sức khoẻ quốc gia nhấn mạnh tới phòng ngừa; các trung tâm y tế tại các nhà máy và các địa phương hỗ trợ cho các bệnh viện và các cơ sở y tế. Đã có những cải thiện lớn trong chăm sóc sức khoẻ tại nông thôn trong thập niên 1960 và 1970.
Truyền thông
-
Truyền thông tại Tiệp Khắc bị kiểm soát bởi Đảng Cộng sản Tiệp Khắc (KSČ). Việc sở hữu cá nhân với mọi cơ quan xuất bản hay truyền thông bị cấm, dù các nhà thờ và các tổ chức khác có xuất bản các tạp chí định kỳ và các tờ báo. Thậm chí với sự độc quyền báo chí trong tay các tổ chức dưới sự kiểm soát của KSČ, mọi sách báo xuất bản đều bị Văn phòng Báo chí và Thông tin của chính phủ kiểm duyệt.
Thể thao
Đội bóng đá quốc gia Tiệp Khắc khá nổi tiếng trên thế giới, với 8 lần góp mặt tại các vòng chung kết FIFA World Cup, đứng hạng 2 tại World Cup năm 1934 và 1962. Đội bóng cũng giành chức Vô địch Châu Âu năm 1976 và đứng hạng 3 năm 1980.
Đội tuyển hockey trên băng Tiệp Khắc đã giành nhiều huy chương tại các giải đấu thế giới và Olympics.
Emil Zátopek, người giành bốn huy chương vàng điền kinh Olympic được coi là một trong những vận động viên điền kinh hàng đầu trong lịch sử.
Vera Časlavska là vận động viên thể dục đoạt nhiều huy chương, với tám huy chương vàng và bốn huy chương bạc, và đã đại diện cho Tiệp Khắc ở ba kỳ Olympics liên tiếp.
Các tay vợt tennis nổi tiếng Ivan Lendl, Miloslav Mečíř, Daniela Hantuchová và Martina Navrátilová đều sinh ở Tiệp Khắc.
Văn hoá
Tem thư
Xem thêm
Tham khảo
Nguồn
Ghi chú
Liên kết ngoài
Thể loại:
Alexander Fleming
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Alexander Fleming (6 tháng 8 năm 1881 – 11 tháng 3 năm 1955) là một bác sĩ, nhà sinh học và đồng thời là một nhà dược lý học người Scotland. Ông được coi là người mở ra kỉ nguyên sử dụng kháng sinh trong y học. Ông đã được trao Giải thưởng Nobel về y học năm 1945 cùng với Ernst Boris Chain và Howard Walter Florey về việc tìm ra và phân tách được penicilin – được coi là loại kháng sinh đầu tiên trong việc điều trị những bệnh nhiễm trùng.
Thời niên thiếu
Alexander Fleming sinh năm 1881 ở Lochfield, xứ Scotland, phía Bắc nước Anh. Đây là một vùng công nghiệp phát triển nhưng vì sự kiểm soát không tốt, kèm theo khí hậu ẩm ướt nên môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Trong điều kiện như thế, nhiều loại bệnh đã xảy ra ở đây, đặc biệt là các bệnh nhiễm trùng như viêm phổi, bạch hầu, viêm màng não mủ, nhiễm trùng huyết… Từ nhỏ, Fleming đã chứng kiến một số người thân của mình bị những căn bệnh ấy cướp đi mạng sống. Cũng chính vì thế, từ khi còn bé Fleming đã quyết tâm sẽ trở thành một bác sĩ để cứu giúp những người bệnh.
Từ những năm học trung học, Fleming đã có xu hướng học lệch về các môn sinh vật, hóa học. Khi nộp hồ sơ vào đại học, ông đã ghi danh vào khoa Y, Học viện Y học Saint Mary ở Luân Đôn.
Những thành công ban đầu
Fleming đã thi đậu vào nơi ông muốn học. Ông luôn dẫn đầu lớp trong các môn học, nhất là các môn về miễn dịch học. Khi vừa tốt nghiệp năm 1906, ông được nhận làm phụ tá cho Almroth Wright, một người đi tiên phong trong lãnh vực vắc-xin.
Năm 1914, chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Alexander Fleming buộc phải dừng công việc nghiên cứu, bị gọi nhập ngũ và phục vụ ở quân y viện ngoài chiến trường.
Trong vòng 4 năm phục vụ trong quân đội, Fleming đã chứng kiến nhiều binh sĩ không chết trên chiến trường mà lại chết trên giường điều trị của quân y viện, mà phần lớn những cái chết ấy là do vết thương bị nhiễm trùng. Điều ấy khiến ông rất buồn, và nhận ra cần phải tìm ra một chất kháng khuẩn đủ hiệu lực, để khống chế sự nhiễm trùng của các vết thương.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Fleming được giải ngũ, ông trở lại phòng thí nghiệm ngày xưa ở Học viện Saint Mary và tiếp tục công việc nghiên cứu bỏ dở của mình.
Năm 1922, sau nhiều năm nghiên cứu không thu được kết quả đáng kể nào, thì một lần tình cờ Fleming phát hiện một đĩa petri nuôi cấy vi khuẩn mà ông vô tình hắt hơi vào, sau 3 ngày được ủ trong tủ ấm, ở đĩa cấy đó khuẩn lạc không mọc được ở chỗ có dịch từ mũi ông rơi vào. Cho rằng trong các dịch của cơ thể người tiết ra có một chất có khả năng ức chế sự sinh trưởng của vi khuẩn, Fleming cùng người trợ lý của mình đã lấy mẫu tiến hành thí nghiệm với nước mắt, nước mũi, nước bọt, dịch vị… của người. Kết quả đều giống nhau, chúng đều có tác dụng ức chế tương tự nhau.
Và sau đó không lâu, Alexander Fleming đã cho công bố về việc phát hiện ra một chất mà ông gọi là lysozyme, một chất do chính cơ thể con người tạo ra, có thể tiêu diệt một số vi khuẩn, nhưng theo ông thì nó không thể diệt một số vi khuẩn có hại đặc biệt với loài người.
Lysozyme là phát hiện độc đáo, nhưng vai trò kháng khuẩn không rộng, không có tác dụng trên nhiều loại vi khuẩn gây hại. Nhưng cũng nhờ phát minh này, Fleming trở nên nổi tiếng, được giới y học Anh biết đến.
Tìm ra penicilin
Mặc dù được tạo điều kiện làm việc tốt ở Đại học Luân Đôn, nhưng Fleming và trợ lý của mình vẫn thực hiện những nghiên cứu của mình tại phòng thí nghiệm cũ của Học viện Saint Mary. Trong một thời gian dài, ông đã thực hiện các thí nghiệm nuôi cấy liên cầu khuẩn. Nhưng vì điều kiện dụng cụ, thiết bị lúc đó còn thô sơ nên việc tránh sự tạp nhiễm của các loại vi khuẩn, nấm mốc khác vào các hộp petri nuôi cấy là rất khó khăn.
Vào ngày 28 tháng 9 năm 1928, khi người phụ tá của Fleming mở một đĩa petri đã cấy vi khuẩn để lấy vi khuẩn đi nghiên cứu thì anh phát hiện thấy trong đĩa petri ấy xuất hiện một loại nấm màu xanh nhạt. Báo cáo với Fleming về điều này, sau đó anh đem đổ đĩa petri ấy vào một cái đĩa khác, lúc ấy trên đĩa petri cũ còn lưu lại những đường vân xanh của loại nấm màu xanh lam ấy. Fleming thấy vậy, ông nghĩ rằng đó là dấu vết lưu lại của những vi khuẩn đã chết, ông bèn lấy một giọt dịch của đĩa petri bỏ đi ấy đem quan sát dưới kính hiển vi, thật ngạc nhiên khi ông phát hiện rằng không hề có dấu vết của liên cầu khuẩn trong đó.
Điều này đã khiến Fleming cho rằng loại nấm xanh đó đã tiết ra một chất có khả năng ức chế sự sinh trưởng của vi khuẩn, vì thế ông đã chuyển sang nuôi cấy loại nấm đó. Sau đó ông cho sợi nấm vào các dung dịch chứa vi khuẩn thương hàn, vi khuẩn lị, phế cầu khuẩn, não mô cầu… Kết quả cho thấy các loại vi khuẩn thương hàn, lị… vẫn phát triển mạnh bình thường, còn các loại cầu khuẩn kia lại chết hết toàn bộ. Lúc này, Alexander Fleming tin rằng phán đoán của mình là chính xác.
Giáo sư Fleming đã đem phát hiện của mình ra công bố vào năm 1929, đồng thời ông cũng nói rằng vào lúc đó ông chưa thể chiết tách được penicilin từ nấm Penicilin. Trong 10 năm sau đó, ông âm thầm làm các công việc khác trong khi vẫn tìm cách chiết tách penicilin, còn báo cáo của ông về penicilin dần rơi vào quên lãng khi giới y học lúc đó cho rằng nấm chỉ đem lại bệnh tật, chứ không thể chữa bệnh được.
Penicilin thuần khiết ra đời
Năm 1938, Fleming nhận được thư của hai nhà khoa học từ trường Đại học Oxford là Ernst Boris Chain và Howard Walter Florey, với lời đề nghị được hợp tác với ông để tiếp tục thực hiện công trình nghiên cứu về penicilin. Và sự hợp tác đã mang lại thành công, tháng 8 năm 1940, báo cáo kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tập san khoa học Lancet.
Năm 1941, nhóm đã chọn được loại nấm penicilin ưu việt nhất là chủng Penicilin Chrysogenium, chế ra loại penicilin có hoạt tính cao hơn cả triệu lần penicilin do Fleming tìm thấy lần đầu năm 1928.
Vinh quang
Trong Thế chiến thứ hai, thương binh cần nhiều kháng sinh, lúc này penicilin trở nên cần thiết, và từ năm 1943 Anh và Mỹ đã sản xuất penicilin với quy mô công nghiệp, để chữa trị các bệnh nhiễm trùng trên phạm vi rộng.
Lúc này, phát minh của Fleming đã được cả thế giới công nhận. Vì vậy, năm 1945, giáo sư Alexander Fleming được tặng giải thưởng Nobel về y học, cùng với Ernst Boris Chain và Howard Walter Florey.
Alexander Fleming còn là hội viên Hội Khoa học Hoàng gia Luân Đôn, là viện sĩ Viện Hàn lâm Hhoa học Paris (Pháp), và từng làm Chủ tịch Hội Vi sinh vật Anh, làm hiệu trưởng trường Đại học Edinburgh từ năm 1951 đến năm 1954, là viện sĩ danh dự của nhiều viện hàn lâm khoa học trên thế giới, và ông được Hoàng gia Anh phong tước hiệp sĩ năm 1944.
Alexander Fleming qua đời năm 1955, khi ông 74 tuổi. Một lễ tang đơn giản đã được tiến hành tại nghĩa trang của nhà thờ Thánh Paul, Luân Đôn.
Tham khảo
- Danh nhân Khoa học Kỹ thuật Thế giới – Vũ Bội Tuyền chủ biên – NXB Thanh Niên 1999
- Tiểu sử Alexander Fleming tại website của giải thưởng Nobel
Cảnh báo: Từ khóa xếp mặc định “Flemig, Alexader” ghi đè từ khóa trước, “Fleming, Alexander”.
Thể loại:
Penicillin
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cấu trúc nhân của Penicillin, với “R” là nhóm bất kỳ.
Penicillin là một trong một nhóm kháng sinh thu được từ nấm Penicillium hay được điều chế. Alexander Fleming đã tình cờ phát hiện ra penicillin vào năm 1928 nhưng phải 10 năm sau thì penicillin mới được nhà hoá sinh người Anh gốc Đức Ernest Chain và nhà nghiên cứu bệnh học Úc Howard Florey và một số nhà khoa học khác nghiên cứu kỹ. Penicillin sát trùng bằng cách giết vi khuẩn và hạn chế sự sinh trưởng của chúng.
Dùng trong y học
“Penicillin” thường được dùng để chỉ benzylpenicillin (penicillin G), procaine benzylpenicillin (procaine penicillin), benzathine benzylpenicillin (benzathine penicillin), và phenoxymethylpenicillin (penicillin V).
Procaine penicillin và benzathine penicillin có cùng đặc tính kháng khuẩn như benzylpenicillin nhưng nó có tác dụng trong thời gian dài hơn. Phenoxymethylpenicillin thì có ít tác dụng chống vi khuẩn gam âm hơn so với benzylpenicillin.[1][2] Benzylpenicillin, procaine penicillin và benzathine penicillin dùng theo cách tiêm, còn phenoxymethylpenicillin theo đường uống.
Cấu trúc
Cấu trúc của Penicillin G. Lưu huỳnh và nitơ gắn với vòng thiazolidine lần lượt có màu vàng và xanh. Hình thể hiện vòng thiazolidine và kết hợp với β-lactam có 4 nhóm không cùng mặt phẳng.
Thuật ngữ “penam” được dùng để miêu tả khung chính thông thường của một loại penicillin. Lõi này có công thức phân tử R-C9H11N2O4S, với R là một chuỗi có sự khác biệt giữa các penicillin. Lõi penam có khối lượng phân tử 243 g/mol, với các penicillin lớn hơn thì khối lượng phân tử gần 450 như cloxacillin có khối lượng phân tử 436 g/mol. Đặc điểm cấu trúc chính của các penicillin là vòng β-lactam có 4 nhóm; cấu trúc moiety này cần thiết cho tính kháng khuẩn của penicillin. Vòng β-lactam tự gắn kết với vòng thiazolidine có 5 nhóm khác. Sự kết hợp của 2 vòng này làm cho vòng β-lactam hoạt động hơn so với từng vòng β-lactam riêng biệt vì các vòng được kết hợp bóp méo liên kết amide củ aβ-lactam và do đó loại bỏ sự bền vững cộng hưởng của liên kết hóa học thường được tìm thấy trong các liên kết này.[3]
Sinh tổng hợp
Nhìn cung, có 3 bước chính và quan trọng trong việc sinh tổng hợp ra penicillin G (benzylpenicillin).
- Bức thứ nhất là trùng ngưng 3 amino axit—L-α-aminoadipic axit, L-cysteine, L-valine thành tripeptit.[4][5][6] Trước khi trùng ngưng thành tripeptit, amino axit L-valine phải trải qua epimer (đồng phân không gian) hóa để tạo thành D-valine.[7][8] tripeptit được trùng ngưng được đặt tên là δ-(L-α-aminoadipyl)-L-cysteine-D-valine (ACV). Phản ứng trùng ngưng và epimer hóa được xúc tác bởi enzym δ-(L-α-aminoadipyl)-L-cysteine-D-valine synthetase (ACVS).
- Bước thứ 2 trong sinh tổng hợp penicillin G là chuyển đổi ôxy hóa ACV mạch thẳng thành isopenicillin N trung gian có 2 vòng bởi enzym isopenicillin N synthase (IPNS), được mã hóa bởi gen pcbC.[4][5] Isopenicillin N là một chất trung gian rất yếu, do nó không thể hiện hoạt động kháng khuẩn mạnh.[7]
- Bước cuối cùng là sự chuyển hóa amin bởi enzym isopenicillin N N-acyltransferase, trong đó gốc α-aminoadipyl bênh cạnh chuỗi của isopenicillin N bị loại bỏ và thay cho chuỗi phenylacetyl. Phản ứng này được điều khiển bởi gen penDE, là duy nhất trong quá trình tạo penicillin.[4]
Quá trình ngẫu nhiên tìm ra penicillin
Nhà sinh học người Scotland, Alexander Fleming là một nhà khoa học đam mê nghiên cứu và kỹ lưỡng trong việc xem xét lại các phần thí nghiệm của mình. Ông thường rất do dự khi ném đi những mẻ cấy vi khuẩn cũ cho đến khi hoàn toàn chắc rằng không nghiên cứu được gì hơn từ chúng.
Trước khi chuẩn bị nghỉ hè (1928), thông thường phòng thí nghiệm sẽ được vệ sinh thật sạch vì kỳ nghỉ thường kéo dài từ 1 đến 3 tháng, nhưng Alexander Fleming đã quên không dọn dẹp. Trở về sau kỳ nghỉ, ông thấy một vài đĩa dùng để nuôi cấy vi khuẩn đã mốc. Trước khi vứt bỏ chúng, ông phát hiện thấy mốc ở trên một chiếc đĩa đã tiêu diệt mẻ vi khuẩn mà ông nuôi cấy tại đó. Mốc đó là một loại nấm, Penicillium, phát triển trên bánh mì. Fleming viết báo cáo khoa học về phát hiện của ông, nhưng chưa thực sự bám sát vào tính thực tiễn của nó.[9] Tuy Alexander Fleming là người đầu tiên tìm ra tính năng của penicillin nhưng việc ứng dụng mới được các nhà khoa học Anh, Úc… trong Chiến tranh thế giới II nghiên cứu kỹ hơn và cho sản xuất hàng loạt. Fleming đã được đồng nhận giải Nobel vì phát hiện tình cờ này, ông thản nhiên bình luận rằng: “Đôi khi người ta lại tìm ra những thứ mà mình đang không tìm kiếm”.[10]
Đưa penicillin ra thực tiễn và sản xuất hàng loạt
Trong Chiến tranh thế giới II, một nhóm các nhà khoa học tìm kiếm cách chữa trị cho những vết thương bị nhiễm trùng, tình cờ phát hiện ra khám phá của Fleming và thử nghiệm với một dạng của nấm mốc đó. Chúng như có sức mạnh thần kỳ. Ngay sau đó, nó được sản xuất với số lượng không thể tin nổi và được đưa ra mặt trận.[11]
Hơn 50 năm sau, penicillin vẫn là chất kháng sinh được sử dụng nhiều nhất thế giới. Đó là nhờ vào khoa học không thích dọn dẹp. Hơn 21 công ty hoá chất tham gia vào chương trình sản xuất cấp tốc penicillin trong suốt Chiến tranh thế giới II. Cho đến khi kết thúc cuộc chiến họ đã sản xuất 650 tỉ đơn vị mỗi tháng.[9]
Tính năng của penicillin
Penicillin sát trùng bằng cách giết vi khuẩn và hạn chế sự sinh trưởng của chúng. Chất này không giết các phần tử trong trạng thái nghỉ mà chỉ tiêu diệt các phần tử đang sinh trưởng và sinh sản. Penicillin tiêu diệt nhiều loài vi khuẩn gây bệnh khác nhau như pneumococci, streptococci, gonococci, meningococci, clostridium và syphilis spirochete. Penicillin được sử dụng làm dược phẩm trị các căn bệnh chết người như viêm nội tâm mạc, nhiễm trùng máu, gas gangrene, mủ lậu, và sốt vàng da, giang mai, viêm loét lưỡi cấp…
Tác dụng phụ
Penicillin có thể làm dị ứng như: phát ban, tiêu chảy. Một người đã dị ứng với một loại Penicillin thường sẽ không được dùng bất cứ loại Penicillin nào. Lượng penicillin làm thay đổi hàm lượng histamine trong cơ thể, gây ra chứng Aquagenic Urticaria(dị ứng với nước).[12]
Chú thích
- ^ Garrod, L. P. (1960). “Relative Antibacterial Activity of Three Penicillins”. British Medical Journal 1 (5172): 527–29. doi:10.1136/bmj.1.5172.527.
- ^ Garrod, L. P. (1960). “The Relative Antibacterial Activity of Four Penicillins”. British Medical Journal 2 (5214): 1695–6. doi:10.1136/bmj.2.5214.1695. PMC 2098302. PMID 13703756.
- ^ Nicolaou (1996), pg. 43.
- ^ a ă â Al-Abdallah, Q., Brakhage, A. A., Gehrke, A., Plattner, H., Sprote, P., Tuncher, A. (2004). “Regulation of Penicillin Biosynthesis in Filamentous Fungi”. Trong Brakhage AA. Molecular Biotechnolgy of Fungal beta-Lactam Antibiotics and Related Peptide Synthetases (88). tr. 45–90. doi:10.1007/b99257. ISBN 3-540-22032-1.
- ^ a ă Brakhage, A. A. (1998). “Molecular Regulation of β-Lactam Biosynthesis in Filamentous Fungi”. Microbiol Mol Biol Rev. 62 (3): 547–85. PMC 98925. PMID 9729600.
- ^ Baldwin, J. E., Byford, M. F., Clifton, I., Hajdu, J., Hensgens, C., Roach, P, Schofield, C. J. (1997). “Proteins of the Penicillin Biosynthesis Pathway”. Current Opinion in Structural Biology (7): 857–64.
- ^ a ă Fernandez, F. J., Fierro, F., Gutierrez, S, Kosalkova, K. Marcos, A. T., Martin, J. F., Velasco, J. (tháng 9 năm 1994). “Expression of Genes and Processing of Enzymes for the Biosynthesis of Penicillins and Cephalosporms”. Anton Van Lee 65 (3): 227–43. doi:10.1007/BF00871951. PMID 7847890.
- ^ Baker, W. L., Lonergan, G. T. “Chemistry of Some Fluorescamine-Amine Derivatives with Relevance to the Biosynthesis of Benzylpenicillin by Fermentation”. J Chem Technol Biot. 2002, 77, pp1283-1288.
- ^ a ă In search of penicillin – David Wilson
- ^ Alexander Fleming, the Man and Myth – Gwyn MacFarlane
- ^ The greatest stories never told – Rick Beyer
- ^ Rossi S, editor biên tập (2006). Australian Medicines Handbook. Adelaide: Australian Medicines Handbook. ISBN 0-9757919-2-3.
Tài liệu
- Nicolaou, K.C.; Sorensen, E.J.; with a foreword by E.J. Corey (1996). Classics in Total Synthesis: Targets, Strategies, Methods . Weinheim: VCH. ISBN 3-527-29284-5.
- Dürckheimer, Walter; Blumbach, Jürgen; Lattrell, Rudolf; Scheunemann, Karl Heinz (ngày 1 tháng 3 năm 1985). “Recent Developments in the Field of β-Lactam Antibiotics”. Angewandte Chemie International Edition in English 24 (3): 180–202. doi:10.1002/anie.198501801.
- Hamed, Refaat B.; Gomez-Castellanos, J. Ruben; Henry, Luc; Ducho, Christian; McDonough, Michael A.; Schofield, Christopher J. (ngày 1 tháng 1 năm 2013). “The enzymes of β-lactam biosynthesis”. Natural Product Reports 30 (1): 21–107. doi:10.1039/c2np20065a. PMID 23135477.
Liên kết ngoài
Thể loại:
Đảng Dân chủ Tiến bộ (Đài Loan)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Dân Chủ Tiến Bộ Đảng (Trung văn giản thể: 民主进步党; Trung văn phồn thể: 民主進步黨, tiếng Anh: Democratic Progressive Party) thường được gọi tắt là Dân Tiến Đảng (DPP; 民進黨) là một chính đảng tại Đài Loan, và là đảng chiếm ưu thế trong Phiếm Lục. Đảng được thành lập vào năm 1986, và là đảng đối lập theo đúng nghĩa đầu tiên tại Đài Loan. Đảng có truyền thống tích cực hỗ trợ cho nhân quyền và tính bản địa của Đài Loan, bao gồm cả việc vận động Đài Loan độc lập. Chủ tịch hiện nay của đảng là bà Thái Anh Văn. Dân Tiến Đảng là thành viên của Quốc tế Tự do và là một thành viên đồng sáng lập Hội đồng vì Tự do và Dân chủ Châu Á. Đảng cũng là đại diện của Đài Loan trong Tổ chức các Quốc gia và Dân tộc không có đại diện (UNPO), một tổ chức phi chính phủ. Dân Tiến Đảng DPP và các đảng liên minh được nhìn nhận một cách rộng rãi là “tự do” bởi quan điểm nhấn mạnh nhân quyền và một hệ thống chính trị đa nguyên trong khi Quốc Dân đảng trong quá khứ có quan điểm bảo thủ về các vấn đề này. Tuy nhiên việc nhìn nhận này không hẳn tiêu biểu trong mọi trường hợp và các thảo luận về cánh tả hay cánh hữu ít khi xuất hiện tại Đài Loan.
Lịch sử
Dân Tiến Đảng có nguồn gốc hình thành từ những người đối lập với hệ thống quyền lực độc đảng của Quốc Dân đảng. Tổ chức này ban đầu có tên là phong trào “đảng ngoại”. Phong trào này lên đến đỉnh với sự hình thành của Dân Tiến Đảng vào ngày 28 tháng 9 năm 1986. Đảng mới này sau đó đã tham gia cuộc bầu cử năm 1986 mặc dù vào lúc đó điều này là trái phép. Các thành viên đầu tiên của đảng đã thu hút được sự ủng hộ của gia khuyến và luật sự biện hộ cho các tù nhân chính trị cũng như các thành phần tri thức và nghệ sĩ đã từng có dịp tiếp xúc với bên ngoài. Các đảng viên cam kết một cách mạnh mẽ về việc thay đổi chính trị sẽ bảo đảm sự hỗ trợ về pháp lý để Đài Loan tiến tới tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp và lập hội. Đảng này ban đầu không tiến hành hỗ trợ cho Đài Loan độc lập vì điều này có thể sẽ tạo điều kiện cho Quốc Dân đảng đàn áp. Cương lĩnh của đảng lúc đó là ủng hộ môi trường và ủng hộ dân chủ. Các đòi hỏi của đảng tăng lên trong suốt thập kỷ 1990 với các cuộc bầu cử trực tiếp Tổng thống và các Dân biểu cho Hành chính viện, đảng cũng mở đầu các cuộc tranh luận về các vụ đàn áp tại Đài Loan trong quá khứ và biểu tượng cho việc này là Vụ việc 228 và một thời gian dài áp dụng thiết quân luật gây ra hậu quả vô cùng lớn và kêu gọi xây dựng một không khí chính trị cởi mở. Các đảng viên bắt đầu tiến hành việc xúc tiến một đặc tính quốc gia-dân tộc Đài Loan riêng biệt với Trung Quốc. Dân Tiến Đảng ủng hộ việc cải cách Hiến pháp theo hướng chính thức công nhận rằng chính phủ Đài Loan chỉ đại diện cho người dân Đài Loan và chấm dứt việc tuyên bố chủ quyền với Trung Quốc đại lục và Ngoại Mông (tức nước Mông Cổ ngày nay).
Dân Tiến Đảng dự định khi có dân biểu trong Hành chính viện, đảng sẽ sử dụng nơi này như một diễn đàn để thách thức chính quyền. Tuy nhiên, điều này đã không xảy cho đến năm 1991, khi các thành viên cao tuổi của Hành chính viện được bầu từ các tỉnh ở đại lục vào năm 1948 về hưu. Sự khiếp sợ về việc Dân Tiến Đảng nắm quyền kiểm soát viện này đã khiến Tổng thống sau này là Lý Đăng Huy thúc đẩy một loạt các sửa đổi để củng cố quyền lực của Tổng thống như tước bỏ quyền bổ nhiệm Thủ tướng của Hành chính viện.
2000-2008
Dân Tiến Đảng đã thắng cử trong cuộc bầu cử Tổng thống với chiến thắng của Trần Thủy Biển vào tháng 3 năm 2000, chấm dứt hơn một nửa thế kỷ nắm quyền của Quốc Dân đảng tại Đài Loan. Trần Thủy Biển đã làm dịu lập trường của đảng trong các vấn đề độc lập để thu hút các cử tri ôn hòa, vận động Hoa Kỳ và xoa dịu Trung Quốc. Ông cũng hứa sẽ không thay đổi các biểu tượng quốc gia và chính thức độc lập trừ khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tấn công Đài Loan.
Dân Tiến Đảng đã trở thành chính đảng lớn nhất trong Hành chính viện lần đầu tiên vào năm 2002 sau cuộc bầu cử vào năm trước. Tuy nhiên, một liên minh đa số giữa Quốc Dân đảng, Thân Dân đảng và Tân Đảng (được gọi là Phiếm Lam) đã ngăn cản được Dân Tiến Đảng kiểm soát viện.
Năm 2004, Tổng thống Trần Thủy Biển đã tái cử thành công với một đa số nhỏ sau một vụ ám sát hụt nhắm vào ông và phó Tổng thống Lã Tú Liên chỉ vài giờ trước cuộc bầu cử. Ông đã giành thắng lợi sít sao trước Liên Chiến. Liên Chiến sau đó đã yêu cầu kiểm phiếu lại và kết quả là Trần Thủy Biển vẫn được tuyên bố thẳng cử nhưng với số dư ít hơn (25.563 thay vì 29.518 so với trước đó).
Dân Tiến Đảng đã thất bại trong cuộc bầu cử cấp địa phương vào tháng 12 năm 2005. Phiếm Lục đã giành chiến thắng tại 16 trong tổng số 23 huyện thị trong đó có chức vụ quan trọng là Thị trưởng Đài Bắc.
Kết quả này đã tác động tới chủ tịch Dân Tiến Đảng là Tô Trinh Xương. Ông đã phải trao lại chức vụ chủ tịch đảng sau khi kết quả bầu cử được công bố. Trước đó ông từng cam kết sẽ từ chức nếu Dân Tiến Đảng thất bại tại huyện Đài Bắc hay không giành được tối thiểu 10 trong số 23 thị trưởng/huyện trưởng. Phó Tổng thống Lã Tú Liên được bổ nhiệm làm quyền chủ tịch Đảng. Tổng thư ký văn phòng Tổng thống Du Tích Khôn trong cuộc bầu chủ tịch đảng vào năm 2006 với 54,4% tổng số phiếu.
Thủ tướng Tạ Trường Đình, người tổ chức cuộc bỏ phiếu và là nguyên thị trưởng Cao Hùng đã hai lần đệ trình đơn từ chức bằng miệng ngay sau cuộc bầu cử, nhưng đơn của ông đã không được Tổng thống chấp thuận cho đến ngày 17 tháng 1, 2006 sau khi cuộc bỏ phiếu chủ tịch đảng kết thúc. Cựu chủ tịch Dân Tiến Đảng Tô Trinh Xương đã thay thế Tạ Trường Đình giức chức vụ Thủ tướng. Thủ tướng Tạ và nội các đã từ chức vào ngày 24 tháng 1 để mở đường cho Tô Trinh Xương và nội các mới của ông. Tổng thống Trần Thủy Biển đã đề nghị cựu thủ tướng ở lại chính quyền, nhưng ông đã từ chối và rời nhiệm sở và phê phán Trần Thủy Biển về quan hệ xấu đi với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Bản địa hóa
Vào ngày 30 tháng 9 năm 2007, Dân Tiến Đảng phê chuẩn một nghị quyết tách biệt khỏi đặc tính Trung Quốc và kêu gọi ban hành một Hiến pháp mới của “một quốc gia bình thường”. Điều này có nghĩa là sẽ chỉ sử dụng tên hiệu “Đài Loan” là tên đất nước và từ bỏ tên hiệu Trung Hoa Dân Quốc.[1]
2008-nay
Chủ tịch đương nhiệm Thái Anh Văn
Trong cuộc bầu cử toàn quốc vào những tháng đầu của năm 2008, Dân Tiến Đảng chỉ giành được 38,2% số phiếu và chỉ đạt được dưới 25% số ghế của Hành chính viện khóa mới trong khi tại cuộc bầu cử tổng thống, cựu thị trưởng Cao Hùng là Tạ Trường Đình đã thất cử trước ứng cử viên tổng thống của Quốc Dân đảng là Mã Anh Cửu với chênh lệch phiếu lớn (41,55% và 58,45%).
Những tháng đầu tiên sau cuộc bầu cử, các phương tiện truyền thông tràn ngập tin về tham nhũng của tổng thống Trần Thủy Biển và phu nhân. Vào ngày 15 tháng 8, 2008 Trần Thủy Biển từ chức cương vị tại đảng và rút khỏi đảng với lời xin lỗi tới toàn thể đảng viên và người ủng hộ. Chủ tịch Dân Tiến Đảng là bà Thái Anh Văn đã tôn trọng và chấp thuận việc này.”[2]
Trước những e ngại của công chúng về đảng. Nữ chủ tịch Thái Anh Văn đã tuyên bố rằng Dân Tiến Đảng cần phải ghi nhớ bài học lịch sử này, bảo vệ chủ quyền của Đài Loan và an ninh quốc gia, và giữ vững niềm tin.[3][4]
Đảng tiếp tục nổi lên trên chính trường Đài Loan sau khi Tổng thống Mã Anh Cửu kết thúc năm đầu tiên của nhiệm kỳ. Dân Tiến Đảng tổ chức kỷ niệm rầm rộ tại Đài Bắc và Cao Hùng. Bà chủ tịch đảng nói trước đám đông tại Đài Bắc vào hôm 17 tháng 5 rằng sẽ bảo vệ Đài Loan và nền dân chủ.
Xem thêm
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thể loại:
Sân bay quốc tế Suvarnabhumi
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sân bay Quốc tế Suvarnabhumi (tiếng Thái: ท่าอากาศยานสุวรรณภูมิ, phát âm như Xu-oa-na-pum trong tiếng Việt), với tên gọi khác là Sân bay Quốc tế Bangkok Mới vừa được đưa vào sử dụng thay thế cho Sân bay quốc tế Bangkok ở Bangkok, Thái Lan. Sân bay này nằm ở Racha Thewa trong huyện Bang Phli, tỉnh Samut Prakan, 25 km về phía đông trung tâm thủ đô Bangkok. Đây là sân bay xếp thứ 18 trong danh sách những sân bay bận rộn nhất trên thế giới. Diện tích là 32,8 km² (khoảng 8.000 acre) và phục vụ khoảng hơn 45 triệu khách/năm, có khả năng nâng cấp lên thành 150 triệu khách trong một năm. Sau rất nhiều lần buộc phải trì hoãn lại các nhà ga, sân bay này được bay thử chuyến bay đầu tiên vào ngày 15 tháng 9–2006 và hoạt động chính thức vào ngày 28 tháng 9–2006. Sân bay Suvarnabhumi là sân bay có nhà ga nhỏ hơn nhà ga sân bay quốc tế Hồng Kông một chút, lớn hơn Sân bay quốc tế Incheon ở Seoul, Hàn Quốc. Sân bay đã phục vụ 53.0 triệu lượt khách đến và đi năm 2012.
Chức năng
Công suất hiện tại của sân bay này là 45 triệu khách/năm và có thể nâng cấp lên đến 150 triệu khách năm, diện tích 32,8 km². Tên gọi tắt là LILI Airport, hoặc (New) LILI International Airport. Sau nhiều lần trì hoãn, sân bay đã được bay thử ngày 15/9/2006 và mở cửa chính thức ngày 28/9/2006. Sân bay tọa lạc tại Racha Thewa ở quận Bang Phli, tỉnh Samut Prakan, khoảng 25 km đông Bangkok. Tên LILI được Vua Thái Lan Bhumibol Adulyadej đặt có nghĩa là đất vàng – dùng để chỉ đích danh Đông Dương. Sân bay do Murphy/Jahn thiết kế, sân bay có Đài không lưu cao nhất thế giới (132,2 m), và nhà ga đơn rộng nhất thế giới (rộng 563.000 m²), chỉ nhỏ hơn một chút so với nhà ga của Sân bay Quốc tế Hồng Kông (570.000 m²) nhưng lớn hơn Sân bay Quốc tế Incheon, tọa lạc tại Seoul, Hàn Quốc (496.000m²). Năm 2007, sân bay này phục vụ 41.210.081 khách, xếp thứ 18 trong các sân bay bận rộn nhất thế giới.
Lịch sử
Vùng đất được xây sân bay đã được mua năm 1973 có diện tích 324 km² nhưng do sinh viên nổi dậy ngày 14/10/1973 và sự lật đổ chế độ quân sự cầm quyền Thanom Kittikachorn đã trì hoãn dự án. Sau một thời gian thăng trầm, công ty Sân bay QT mới BK được thành lập năm 1996, do khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 và các năm tiếp theo, năm 2002 mới bắt đầu triển khai dự án. Sân bay tọa lạc tại vùng đất đầm lầy, trước đây được gọi là Nong Ngu Hao (Đầm lầy Hổ mang), phải mất 5 năm (1997-2001) để san lấp và giải tỏa mặt bằng. Năm 2005, việc quản lý và giám sát được chuyển cho Airports of Thailand PLC, công ty SBQTBK bị giải thể. Sân bay được dự tính mở cửa năm 2005 nhưng do một số khó khăn về ngân sách, các thiếu sót về xây dựng, Vụ tham nhũng xây dựng sân bay Suvarnabhumi Bangkok nên công trình này bị chậm trễ.
Cựu Thủ tường Thái Lan Thaksin Shinawatra đã thông báo khánh thành sân bay này vào tháng 9/2006. Ngày 29/9/2005, các chuyến bay thử nghiệm đã được tổ chức. Việc thử nghiệm đầy đủ các chức năng được tiến hành vào ngày 3/6 và 29/7/2006. 6 hãng hàng không – Thai Airways International, Nok Air, Thai Air Asia, Bangkok Airways, PBAir and One-Two-GO – đã sử dụng sân bay này cho 20 tuyến nội địa.[3][4] Tuyến bay quốc tế thử nghiệm đầu tiên được tiến hành ngày 1/9/2006. 2 máy bay của Thai Airways B747-400 and A300-600, đã đồng thời xuất phát đi lúc 9h19 sáng để đến Singapore và Hồng Kông. Lúc 3h50 chiều cùng ngày, 2 chuyến bay này đã quay lại. Ngày 15 tháng 9–2006, sân bay đã cho phép một số máy bay hoạt động có giới hạn, đó là: Jetstar Asia Airways có 3 chuyến/ngày đi Singapore và Thai Airways International có một số chueyesn bay đi Phitsanulok, Chiang Mai và Ubon Ratchathani. Sau đó là Bangkok Airways hoạt động ngày 21 tháng 9, AirAsia, Thai AirAsia ngày 25 tháng 9 và Nok Air cũng đến hoạt động tại Suvarnabhumi.
Thông tin
Là sân bay mới, nên hành khách đều phải nộp lệ phí sân bay là 500 Bath mỗi lần. Từ sân bay có các phương tiện công cộng để đi tới trung tâm Bangkok, như meter taxi (mất khoảng 270 bath), express bus (150 bath), limousine taxi (2000 bath), v.v… Đây là sân bay thay thế cho sân bay quốc tế Don Mueang. Đây là sân bay quan trọng của Bangkok và của cả miền nam Thái Lan.
Sự cố
Ngày 27/1/2007, do phải sửa chữa các vết nứt và lún sụt trên đường băng, các chuyến bay đã được chuyển hướng đến Sân bay quốc tế Utapao để đổ xăng. Hiện nay, các chuyến bay đến sân bay này đã được chuyển hướng qua sân bay quốc tế Bangkok để sân bay này sửa chữa các hư hỏng đường băng.
Các hãng hàng không và các điểm đến
Cầu thang cuốn trong nhà ga sân bay
Hành khách
Các thành phố có tuyến bay thẳng với sân bay Suvarnabhumi
Điểm đến |
Aeroflot |
Moscow-Sheremetyevo |
Quốc tế |
Air Astana |
Almaty, Astana |
Quốc tế |
Air Austral |
Chennai, Saint-Denis de la Réunion |
Quốc tế |
Air China |
Bắc Kinh-Thủ đô |
Quốc tế |
Air France |
Paris-Charles de Gaulle |
Quốc tế |
Air India |
Delhi, Mumbai |
Quốc tế |
Air Koryo |
Bình Nhưỡng |
Quốc tế |
Air Macau |
Macau |
Quốc tế |
Air Madagascar |
Antananarivo, Quảng Châu |
Quốc tế |
All Nippon Airways |
Tokyo-Haneda, Tokyo-Narita |
Quốc tế |
Asia Atlantic Airlines |
Tokyo-Narita,Denpasar/Bali |
Quốc tế |
Asiana Airlines |
Seoul-Incheon |
Quốc tế |
Austrian Airlines
vận hành bởi Tyrolean Airways |
Vienna |
Quốc tế |
Bangkok Airways |
Dhaka, Hong Kong, Kuala Lumpur, Luang Prabang, Malé, Mandalay,[5] Mumbai, Naypyidaw,[5] Phnom Penh, Siem Reap, Singapore, Viêng Chăn, Yangon |
Quốc tế |
Bangkok Airways |
Chiang Mai, Chiang Rai, Ko Samui, Krabi, Lampang, Phuket, Sukhothai, Trat, Udon Thani |
Nội địa |
Biman Bangladesh Airlines |
Dhaka |
Quốc tế |
British Airways |
London-Heathrow |
Quốc tế |
Business Air |
Seoul-Incheon, Trùng Khánh, Yangon[6] |
Quốc tế |
Cambodia Angkor Air |
Phnom Penh, Siem Reap |
Quốc tế |
Cathay Pacific |
Colombo, Hong Kong, Singapore |
Quốc tế |
Cebu Pacific |
Manila |
Quốc tế |
China Airlines |
Amsterdam, Cao Hùng, Đài Bắc-Đào Viên |
Quốc tế |
China Eastern Airlines |
Thành Đô,[7] Côn Minh, Nam Xương, Ninh Ba, Thượng Hải-Phố Đông, Vô Tích, Tây An, Tây Ninh,[8] Nhân Xuyên[9]
Theo mùa: Hàng Châu, Hợp Phì |
Quốc tế |
China Southern Airlines |
Trường Sa, Quảng Châu, Quế Lâm, Yết Dương, Nam Ninh, Sân bay quốc tế Bảo An Thâm Quyến (bắt đầu từ ngày 29/3/2015),[10] Vũ Hán, Trịnh Châu |
Quốc tế |
Delta Air Lines |
Tokyo-Narita |
Quốc tế |
Dniproavia |
Thuê chuyến: Kiev-Boryspil[11] |
Quốc tế |
Druk Air |
Bagdogra, Dhaka, Guwahati, Thimphu/Paro |
Quốc tế |
Eastar Jet |
Seoul-Incheon |
Quốc tế |
EgyptAir |
Cairo, Kuala Lumpur |
Quốc tế |
El Al |
Tel Aviv-Ben Gurion |
Quốc tế |
Emirates |
Christchurch, Dubai-Quốc tế, Hong Kong, Sydney |
Quốc tế |
Enter Air |
Thuê chuyến: Warsaw-Chopin |
Quốc tế |
Ethiopian Airlines |
Addis Ababa, Kuala Lumpur |
Quốc tế |
Etihad Airways |
Abu Dhabi |
Quốc tế |
EVA Air |
Amsterdam, London-Heathrow, Đài Bắc-Đào Viên, Vienna |
Quốc tế |
Finnair |
Helsinki |
Quốc tế |
Garuda Indonesia |
Jakarta-Soekarno-Hatta |
Quốc tế |
Golden Myanmar Airlines |
Yangon |
Quốc tế |
Gulf Air |
Bahrain |
Quốc tế |
Hainan Airlines |
Bắc Kinh-Thủ đô, Hải Khẩu, Nam Ninh |
Quốc tế |
Happy Air |
Ranong |
Nội địa |
Hong Kong Airlines |
Hong Kong |
Quốc tế |
Hunnu Air |
Ulaanbaatar |
Quốc tế |
IndiGo |
Kolkata |
Quốc tế |
Japan Airlines |
Nagoya-Centrair,[12] Osaka-Kansai, Tokyo-Haneda, Tokyo-Narita |
Quốc tế |
Jeju Air |
Busan, Daegu, Seoul-Incheon |
Quốc tế |
Jet Airways |
Delhi, Thành phố Hồ Chí Minh, Mumbai |
Quốc tế |
Jet Asia Airways |
Tokyo-Narita,[13] Jakarta-Soekarno Hatta |
Quốc tế |
Jetstar Airways |
Melbourne |
Quốc tế |
Jetstar Asia Airways |
Fukuoka,[14] Singapore |
Quốc tế |
Jetstar Pacific Airlines |
Hà Nội (bắt đầu từ ngày 29 tháng 3 năm 2015), Thành phố Hồ Chí Minh |
Quốc tế |
Jin Air |
Seoul-Incheon |
Quốc tế |
Juneyao Airlines |
Thượng Hải-Phố Đông |
Quốc tế |
Kenya Airways |
Hong Kong, Nairobi-Jomo Kenaytta |
Quốc tế |
KLM |
Amsterdam |
Quốc tế |
Korean Air |
Busan, Seoul-Incheon |
Quốc tế |
Kuwait Airways |
Kuwait, Manila |
Quốc tế |
Lao Airlines |
Luang Prabang, Pakse, Savannakhet, Viêng Chăn |
Quốc tế |
Lao Central Airlines |
Viêng Chăn |
Quốc tế |
LOT Polish Airlines |
Thuê chuyến: Warsaw-Chopin |
Quốc tế |
Lufthansa |
Frankfurt |
Quốc tế |
Mahan Air |
Tehran-Imam Khomeini |
Quốc tế |
Malaysia Airlines |
Kuala Lumpur |
Quốc tế |
MIAT Mongolian Airlines |
Thuê chuyến: Ulaanbaatar |
Quốc tế |
Myanmar Airways International |
Yangon |
Quốc tế |
Nepal Airlines |
Kathmandu |
Quốc tế |
Nordwind Airlines[15] |
Theo mùa Thuê chuyến: Arkhangelsk,[16] Irkutsk, Kazan, Kemerovo, Khabarovsk, Krasnoyarsk-Yemelyanovo, Mineralnye Vody, Nizhnevartovsk, Nizhny Novgorod, Novosibirsk, Omsk, Perm, Rostov-on-Don, Samara, St. Petersburg, Surgut, Tomsk, Ufa, Ulan-Ude, Vladivostok, Yekaterinburg |
Quốc tế |
Norwegian Air Shuttle |
Copenhagen, Oslo-Gardermoen, sân bay Stockholm-Arlanda |
Quốc tế |
Okay Airways |
Tây An |
Quốc tế |
Oman Air |
Muscat |
Quốc tế |
Orenair |
Thuê chuyến: Bratsk, Kemerovo, Moscow-Sheremetyevo, St. Petersburg |
Quốc tế |
Orient Thai Airlines |
Hong Kong |
Quốc tế |
Pakistan International Airlines |
Islamabad, Karachi, Lahore |
Quốc tế |
Philippine Airlines |
Manila |
Quốc tế |
Qantas |
Sydney |
Quốc tế |
Qeshm Airlines |
Tehran-Imam Khomeini [17] |
Quốc tế |
Qatar Airways |
Doha, Hà Nội |
Quốc tế |
Regent Airways |
Chittagong, Dhaka |
Quốc tế |
Royal Brunei Airlines |
Bandar Seri Begawan |
Quốc tế |
Royal Jordanian |
Amman-Queen Alia, Hong Kong, Kuala Lumpur |
Quốc tế |
S7 Airlines |
Irkutsk[18]
Theo mùa: Krasnoyarsk-Yemelyanovo,[19] Novosibirsk[20] |
Quốc tế |
Shanghai Airlines |
Trùng Khánh, Sân bay quốc tế Phố Đông Thượng Hải |
Quốc tế |
Shenzhen Airlines |
Phúc Châu, Sân bay quốc tế Bảo An Thâm Quyến |
Quốc tế |
Singapore Airlines |
Singapore |
Quốc tế |
Small Planet Airlines |
Thuê chuyến: Vilnius |
Quốc tế |
SmartLynx Airlines |
Thuê chuyến: Riga, Vilnius |
Quốc tế |
SpiceJet |
Kolkata |
Quốc tế |
Spring Airlines |
Hàng Châu,[21] Thượng Hải-Phố Đông |
Quốc tế |
SriLankan Airlines |
Colombo, Quảng Châu, Hong Kong |
Quốc tế |
Swiss International Air Lines |
Zürich |
Quốc tế |
Tashi Air |
Kolkata, Thimphu/Paro[22] |
Quốc tế |
Thai Airways |
Auckland, Bangalore, Bắc Kinh-Thủ đô, Brisbane, Brussels, Busan, Thành Đô, Chennai, Colombo, Copenhagen, Delhi, Dhaka, Denpasar/Bali, Dubai-International, Frankfurt, Fukuoka, Quảng Châu, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hong Kong, Hyderabad, Islamabad, Jakarta-Soekarno-Hatta, Karachi, Kathmandu, Kolkata, Kuala Lumpur, Côn Minh, Lahore, London-Heathrow, Los Angeles, Madrid (ngưng từ ngày 7 Tháng 9 năm 2015),[23] Manila, Melbourne, Milan-Malpensa, Moscow-Domodedovo (ngưng từ ngày 29 Tháng 3 năm 2015),[24] Mumbai, Munich, Muscat, Nagoya-Centrair, Osaka-Kansai, Oslo-Gardermoen, Paris-Charles de Gaulle, Penang, Perth, Phnom Penh, Rome-Fiumicino, Sapporo-Chitose Seoul-Incheon, Thượng Hải-Phố Đông, Singapore, Stockholm-Arlanda, Sydney, Đài Bắc-Đào Viên, Tokyo-Haneda, Tokyo-Narita, Sân bay quốc tế Cao Khi Hạ Môn, Yangon, Zürich
Theo mùa: Gaya, Sendai, Varanasi |
Quốc tế |
Thai Airways |
Chiang Mai, Chiang Rai, Hat Yai, Sân bay Khon Kaen, Ko Samui, Krabi, Phuket |
Nội địa |
Thai Smile |
Ahmedabad, Trường Sa, Trùng Khánh, Luang Prabang, Mandalay, Viêng Chăn |
Quốc tế |
Thai Smile |
Chiang Rai, Hat Yai, Krabi, Surat Thani, Ubon Ratchathani, Udon Thani |
Nội địa |
Tigerair |
Singapore |
Quốc tế |
Transaero Airlines |
Moscow-Domodedovo, Moscow-Vnukovo[25]
Theo mùa: Blagoveshchensk, Irkutsk, Kazan, Khabarovsk, Krasnoyarsk-Yemelyanovo, Vladivostok, Yekaterinburg |
Quốc tế |
TransAsia Airways |
Đài Bắc-Đào Viên |
Quốc tế |
Travel Service Airlines |
Thuê chuyến: Budapest, Prague |
Quốc tế |
Turkish Airlines |
Thành phố Hồ Chí Minh, Istanbul-Atatürk |
Quốc tế |
Turkmenistan Airlines |
Ashgabat |
Quốc tế |
T’way Airlines |
Seoul-Incheon |
Quốc tế |
Ukraine International Airlines |
Kiev-Boryspil[26] |
Quốc tế |
Ural Airlines |
Irkutsk |
Quốc tế |
UTair Aviation |
Thuê chuyến: Irkutsk, Kazan, Novosibirsk, Perm, Rostov-on-Don |
Quốc tế |
Uzbekistan Airways |
Tashkent |
Quốc tế |
VietJet Air |
Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh |
Quốc tế |
Vietnam Airlines |
Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh |
Quốc tế |
Xiamen Airlines |
Phúc Châu, Hàng Châu, Sân bay quốc tế Cao Khi Hạ Môn |
Quốc tế |
Hàng hóa
Điểm đến
|
Air France Cargo |
Paris-Charles de Gaulle |
Air Hong Kong |
Hong Kong, Penang |
ANA Cargo |
Osaka-Kansai, Singapore, Đài Bắc-Đào Viên, Tokyo-Narita |
Asiana Cargo |
Seoul-Incheon |
Cardig Air |
Hong Kong, Jakarta-Soekarno-Hatta, Singapore |
Cargolux |
Baku, Luxembourg, Thượng Hải-Phố Đông, Sân bay quốc tế Cao Khi Hạ Môn |
Cathay Pacific Cargo |
Hong Kong, Penang, Singapore |
China Airlines Cargo |
Abu Dhabi, Thành Đô, Luxembourg, Đài Bắc-Đào Viên |
China Cargo Airlines |
Thượng Hải-Phố Đông |
DHL Aviation
vận hành bởi AeroLogic |
Leipzig/Halle,[27] Singapore[cần dẫn nguồn] |
EVA Air Cargo |
Jakarta-Soekarno–Hatta, Penang, Singapore, Đài Bắc-Đào Viên[28] |
FedEx Express |
Quảng Châu |
K-Mile Air |
Thành phố Hồ Chí Minh, Singapore, Jakarta-Soekarno Hatta |
Korean Air Cargo |
Seoul-Incheon, Singapore |
Lufthansa Cargo |
Frankfurt, Mumbai, Sharjah |
Martinair |
Amsterdam, Muscat, Sharjah[29] |
MASKargo |
Kuala Lumpur |
Nippon Cargo Airlines |
Singapore, Tokyo-Narita |
Singapore Airlines Cargo |
Singapore |
Thai Airways International |
Amsterdam, Chennai, Delhi, Frankfurt, Sydney, Đài Bắc-Đào Viên, Tokyo-Narita |
Tri-MG Intra Asia Airlines |
Thành phố Hồ Chí Minh, Phnom Penh |
Turkish Airlines Cargo |
Almaty, Delhi, Istanbul-Atatürk, Tashkent[30] |
ULS Airlines Cargo |
Istanbul-Atatürk |
UPS Airlines |
Cologne/Bonn, Dubai-International, Mumbai |
Yanda Airlines |
Coimbatore, Delhi, Pune, Seoul-Incheon, Thượng Hải-Phố Đông, Tokyo-Narita |
Yangtze River Express |
Thượng Hải-Phố Đông |
Các tuyến bay quốc tế bận rộn nhất
Các tuyến bay quốc tế bận rộn nhất với sân bay Suvarnabhumi (2013)[31]
1 |
Hong Kong |
3.566.950 |
9,17 |
3.267,195 |
2 |
Singapore |
3.344.500 |
1,84 |
3.407.354 |
3 |
Seoul-Incheon |
2.123.430 |
1,25 |
2.095.145 |
4 |
Tokyo-Narita |
3.787.405 |
13,46 |
1.575.302 |
5 |
Đài Bắc-Đào Viên |
1.328.120 |
17,03 |
1.134.857 |
6 |
Thượng Hải |
1.279.536 |
40,12 |
913.177 |
7 |
Dubai-International |
1.196.795 |
12,23 |
1.066.391 |
8 |
Kuala Lumpur |
1.029.057 |
29,21 |
1.453.681 |
9 |
Quảng Châu |
894.087 |
3,29 |
924,457 |
10 |
New Delhi |
865.595 |
0,83 |
858.511 |
11 |
Tp Hồ Chí Minh |
838.856 |
10,86 |
941.065 |
12 |
Bắc Kinh-Thủ đô |
826.018 |
26,41 |
653.435 |
13 |
Abu Dhabi |
768.051 |
7,12 |
717.032 |
14 |
Yangon |
766.279 |
13,21 |
863.035 |
15 |
London-Heathrow |
707.294 |
3,03 |
700.049 |
16 |
Manila |
865.595 |
34.78 |
642.218 |
17 |
Doha |
671.402 |
19.31 |
562,726 |
18 |
Hà Nội |
654.945 |
0,06 |
654.549 |
19 |
Osaka-Kansai |
609.645 |
8,68 |
560.947 |
20 |
Sydney |
608.515 |
0,81 |
603.608 |
21 |
Mumbai |
604.156 |
19,16 |
747.384 |
22 |
Frankfurt |
592.522 |
0.9 |
587.228 |
23 |
Jakarta-Soekarno-Hatta |
588.171 |
23,32 |
484.822 |
24 |
Tokyo-Haneda |
500.275 |
5,12 |
475.913 |
25 |
Amsterdam |
456.811 |
3,12 |
443.005 |
26 |
Paris-Charles de Gaulle |
453.531 |
9,52 |
414.108 |
27 |
Calcutta |
434.281 |
3,67 |
427.137 |
28 |
Phnom Penh |
428.845 |
4,51 |
449.122 |
29 |
Melbourne |
416,847 |
6.28 |
444,761 |
30 |
Busan |
373.709 |
13,1 |
336.363 |
31 |
Colombo |
367.232 |
3,55 |
380.757 |
32 |
Macau |
351.853 |
33,58 |
529.746 |
33 |
Nagoya-Centrair |
332.906 |
18,93 |
279.929 |
34 |
Viêng Chăn |
319.278 |
15,47 |
276.503 |
35 |
Moscow-Domodedovo |
316.055 |
7,2 |
340.594 |
36 |
Zürich |
299,831 |
3,41 |
304.131 |
37 |
Copenhagen |
291.740 |
23,59 |
372.068 |
38 |
Muscat |
285.836 |
0,79 |
288.109 |
39 |
Istanbul-Atatürk |
285.312 |
12,66 |
253.247 |
40 |
Moscow-Sheremetyevo |
266.889 |
32,64 |
201.216 |
41 |
Helsinki |
262.456 |
0,06 |
262.301 |
42 |
Siem Reap |
262.154 |
12,09 |
233.878 |
43 |
Stockholm-Arlanda |
258.674 |
12,87 |
229,170 |
44 |
Côn Minh |
258.015 |
35,23 |
190.796 |
45 |
Vienna |
236.074 |
3,64 |
232.274 |
46 |
Novosibirsk |
212.715 |
28,7 |
165.286 |
47 |
Dhaka |
243.253 |
6,71 |
260.750 |
48 |
Oslo-Gardermoen |
202,570 |
37,78 |
147.022 |
49 |
Tel Aviv |
209.384 |
13,15 |
188.386 |
50 |
Munich |
200.313 |
5,75 |
212.526 |
Thư viện hình ảnh
-
-
Một chiếc máy bay TL6 của hãng hàng không Thai Airway
-
-
-
-
-
-
-
-
-
Một phần sân bay chụp từ trên cao
-
Bảng chỉ dẫn trong sân bay
-
Toàn cảnh thành phố Bangkok chụp từ nhà ga sân bay
-
-
-
Khuôn viên sân bay chụp từ trên cao
Tham khảo
Liên kết ngoài
|