Thể loại:
Lich Vạn Niên ngày 10 tháng 9 năm 2015
Tháng 9 Năm 2015
Thứ năm
Đừng bao giờ nói bạn không còn yêu ai nữa khi ánh mắt người dó vẫn còn có thể níu giữ được bạn.
Năm ất Mùi
Tháng Giáp Thân
Ngày Kỷ Sửu
Giờ ất Hợi
22:54:37
Giờ Hoàng Đạo
Bính Dần (3h-5h)
đinh Mão (5h-7h)
Tháng Bảy (Đ)
28
Kỷ Tỵ (9h-11h)
Nhâm Thân (15h-17h)
Ngày Hoàng đạo
Mệnh ngày:
Hoả – Bích lôi hỏa
(Lửa trong chớp)
Tiết khí
Giữa: Bạch lộ (Nắng nhạt) – Thu phân (Giữa thu)
Giáp Tuất (19h-21h)
ất Hợi (21h-23h)
|
|
Thứ năm, Ngày 10 Tháng 9 Năm 2015
|
|
|
Âm lịch: Ngày 28 Tháng 7 Năm 2015 Ngày Julius: 2457276 |
Bát tự: Giờ Giáp Tí, ngày Kỷ Sửu, tháng Giáp Thân, năm ất Mùi |
|
0:00 |
Giờ: Giáp Tí |
Ngày Hoàng đạo |
Sao: Minh Đường |
Giờ Hoàng đạo |
Bính Dần, đinh Mão, Kỷ Tỵ, Nhâm Thân, Giáp Tuất, ất Hợi |
Giờ Hắc đạo |
Giáp Tí, ất Sửu, Mậu Thìn, Canh Ngọ, Tân Mùi, Qúy Dậu |
Năm |
Kim |
Sa trung kim |
Mùa: Mùa thu |
Vượng: Kim
Khắc: Hỏa |
Trọng |
Ngày |
Hoả |
Bích lôi hỏa |
Lửa trong chớp |
Tuổi xung |
Ðinh Mùi, Ất Mùi |
Tiết khí |
Giữa: Bạch lộ (Nắng nhạt) – Thu phân (Giữa thu) |
Sao |
Đẩu |
|
Ngũ hành |
Mộc |
|
Động vật |
Giải |
|
Trực |
Chấp |
– Tốt cho các việc tạo tác, sửa giếng, thu người làm.
– Xấu cho các việc xuất nhập vốn liếng, khai kho, an sàng. |
Xuất hành |
Hỷ thần |
Đông Bắc |
Tài thần |
chính Nam |
Kê thần |
Tây Bắc |
Cát tinh |
Tốt |
Kỵ |
Mẫu Thương |
Tốt về cầu tài lộc, khai trương |
|
Minh đường |
Hoàng Đạo – Tốt mọi việc |
|
Sát tinh |
Kỵ |
Ghi chú |
Thụ tử |
Xấu mọi việc |
trừ săn bắn tốt |
Ngũ Quỹ |
Kỵ xuất hành |
|
Sát chủ |
Xấu mọi việc |
|
Mặt trời |
Giờ mọc |
Giờ lặn |
Hà Nội |
05:44 |
18:02 |
TP.Hồ Chí Minh |
05:45 |
17:55 |
|
Thiên Hình |
Hắc đạo |
|
1:00 |
Giờ: ất Sửu |
Chu Tước |
Hắc đạo |
|
3:00 |
Giờ: Bính Dần |
Kinh Quỹ |
Hoàng đạo |
|
5:00 |
Giờ: đinh Mão |
Kim Được |
Hoàng đạo |
|
7:00 |
Giờ: Mậu Thìn |
Bạch Hổ |
Hắc đạo |
|
9:00 |
Giờ: Kỷ Tỵ |
Ngọc Đường |
Hoàng đạo |
|
11:00 |
Giờ: Canh Ngọ |
Thiên Lao |
Hắc đạo |
|
13:00 |
Giờ: Tân Mùi |
NGuyên Vũ |
Hắc đạo |
|
15:00 |
Giờ: Nhâm Thân |
Tư Mệnh |
Hoàng đạo |
|
17:00 |
Giờ: Qúy Dậu |
Câu Trận |
Hắc đạo |
|
19:00 |
Giờ: Giáp Tuất |
Thanh Long |
Hoàng đạo |
|
21:00 |
Giờ: ất Hợi |
Minh Đường |
Hoàng đạo |
|
23:00 |
Giờ: Giáp Tí |
Thiên Hình |
Hắc đạo |
|
|
Lịch vạn niên 2015, ngày 28 tháng 7, năm 2015 – Âm lịch
Xem ngày giờ tốt và hướng xuất hành
Trong một tháng có 2 loại ngày tốt, ngày xấu; trong một ngày lại có 6 giờ tốt, 6 giờ xấu gọi chung là Ngày/giờ Hoàng đạo (tốt) và Ngày/giờ Hắc đạo (xấu). Người Việt Nam từ xưa đều có phong tục chọn ngày tốt và giờ tốt để làm những việc lớn như cưới hỏi, khởi công làm nhà, nhập trạch, ký kết, kinh doanh v.v.v.
Ngày 28 tháng 7, năm 2015 là ngày Hoàng đạo , các giờ tốt trong ngày này là: Bính Dần, đinh Mão, Kỷ Tỵ, Nhâm Thân, Giáp Tuất, ất Hợi
Trong ngày này, các tuổi xung khắc nên cẩn thận trong chuyện đi lại, xuất hành, nói chuyện và làm các việc đại sự là: Ðinh Mùi, Ất Mùi
Xuất hành hướng Đông Bắc gặp Hỷ thần: niềm vui, may mắn, thuận lợi. Xuất hành hướng Nam gặp Tài thần: tài lộc, tiền của, giao dịch thuận lợi.
Xem sao tốt và việc nên làm và nên kiêng
Trong Lịch vạn niên, có 12 trực được sắp xếp theo tuần hoàn phân bổ vào từng ngày. Mỗi trực có tính chất riêng, tốt/xấu tùy từng công việc. Ngày 28 tháng 7, năm 2015 là Trực Chấp: Tốt cho các việc tạo tác, sửa giếng, thu người làm. Xấu cho các việc xuất nhập vốn liếng, khai kho, an sàng.
Mỗi ngày đều có nhiều sao Tốt (Cát tinh) và sao Xấu (Hung tinh). Các sao Đại cát (rất tốt cho mọi việc) như Thiên đức, Nguyệt đức, Thiên ân, Nguyệt ân. Có những sao Đại hung (rất xấu cho mọi việc) như Kiếp sát, Trùng tang, Thiên cương. Cũng có những sao xấu tùy mọi việc như Cô thần, Quả tú, Nguyệt hư, Không phòng, Xích khẩu… – xấu cho hôn thú, cưới hỏi, đám hỏi nói chung cần tránh. Hoặc ngày có Thiên hỏa, Nguyệt phá, Địa phá… xấu cho khởi công xây dựng, động thổ, sửa chữa nhà cửa nói chung cần tránh.
Khi tính làm việc đại sự, cần kiểm tra ngày Hoàng Đạo, Hắc Đạo. Xem công việc cụ thể nào, để tránh những sao xấu. Chọn các giờ Hoàng đạo để thực hiện (hoặc làm tượng trưng lấy giờ)
|
Lê Thái Tổ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lê Thái Tổ (10 tháng 9, 1385[2] – 5 tháng 9, 1433), tên thật là Lê Lợi , là người khởi xướng khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân đội chiếm đóng nhà Minh, giành lại độc lập cho nước Đại Việt và trở thành vị vua sáng lập của nhà Hậu Lê.
Ông ở ngôi trong 6 năm (1428 – 1433), đặt niên hiệu Thuận Thiên. Là người sáng lập ra triều đại, ông được ca ngợi khi đánh đuổi được nhà Minh, xây dựng lại khoa cử, luật lệ, chế tác lễ nhạc, thu thập lại sách vở, mở mang trường học… tạo nên một triều đại Hậu Lê huy hoàng trong lịch sử. Tuy nhiên, sự đa nghi của ông là chỗ kém, khi đã giết chết đại công thần Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo.[3][4]
Lê Thái Tổ cũng là nhân vật trong truyền thuyết Hồ Gươm, một sự tích nổi tiếng trong dân gian Việt Nam, kể lại quá trình ông có được thanh kiếm thần, tương truyền được thần nhân ban xuống để giúp ông chống lại quân đội nhà Minh.
Thân thế
Trước kia, cụ của Lê Lợi là Lê Hối, đi chơi Lam Sơn, thấy đàn chim bay lượn quanh chân núi, như hình ảnh nhiều người tụ họp, cho là đất tốt, bèn dời nhà đến ở đấy. Sau 3 năm thì thành sản nghiệp. Từ đó, họ Lê đời đời làm quân trưởng một phương.
Lê Hối sinh ra Lê Đinh, nối được nghiệp nhà, có tới hơn 1 nghìn tôi tớ, lấy vợ là Nguyễn Quách, sinh được hai người con trai, con cả là Lê Tòng, con thứ là Lê Khoáng . Lê Khoáng lấy vợ người Chủ Sơn (Chủ Sơn nay là Thủy Chú)[5] là Trịnh Ngọc Thương, sinh được 3 người con trai, trong đó Lê Lợi là con thứ 3.
Lê Lợi sinh vào giờ tý ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu, tức ngày 10 tháng 9 năm 1385 đời nhà Trần. Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người “thiên tư tuấn tú khác thường, thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có một nốt ruồi, tiếng nói như chuông, dáng đi tựa rồng, nhịp bước như hồ”[6].
Bối cảnh lịch sử
Lê Lợi lớn lên giữa lúc nước Đại Việt có nhiều biến động. Năm ông 16 tuổi (1400), ngoại thích nhà Trần là Hồ Quý Ly sau nhiều năm nắm quyền đã truất ngôi của Trần Thiếu Đế, tự lên làm Hoàng đế, lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập nên nhà Hồ.
Triều đình nhà Minh vốn rất muốn xâm lăng Đại Ngu, đã nhân cơ hội Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần để đưa quân tràn vào đất Việt năm 1406. Hồ Quý Ly liên tục thất bại và đến tháng 6 năm 1407 thì bị bắt cùng các con trai là Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương. Nhà Hồ sụp đổ.
Nhà Minh thực hiện chính sách xóa bỏ nền văn minh Đại Việt thời nhà Lý và nhà Trần bằng các cách như đốt, phá và chở về Yên Kinh tất cả các loại sách, văn bia có nói về dân Việt, của dân Việt tạo lập, thiến hoạn đàn ông người Việt; dùng chính lệnh ngặt nghèo, thi hành hình phạt tàn ác, cấm muối mắm, nâng sưu thuế, bắt nộp sản vật. Ngoài ra họ còn dời dân chúng đi xa, đắp 10 tòa thành khắp nước, chia quân đóng giữ, nhằm dễ bề cai trị và trấn áp những cuộc nổi dậy của người Việt. Những hành động đó làm người Việt căm giận[7][8].
Ngay sau khi nhà Minh chiếm đóng, tông thất nhà Trần là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng đã khởi binh dựng lại nhà Hậu Trần. Lê Lợi thấy họ không có thực lực nên không theo mà ẩn náu trong vùng Lam Sơn, chiêu nạp kẻ sĩ. Nhà Minh biết tiếng ông, đã trao cho chức quan để dụ theo, nhưng ông không chịu khuất phục[9]. Đến năm 1414 thì nhà Hậu Trần hoàn toàn bị quân Minh đánh bại.
Khởi nghĩa Lam Sơn
-
Năm 1416, Lê Lợi đã cùng các hào kiệt cùng thề ở Lũng Nhai nguyện đánh quân Minh cứu nước. Thổ quan người Việt phục vụ cho nhà Minh là Lương Nhữ Hốt biết Lê Lợi có chí lớn bèn báo cho quân Minh. Bị quân Minh bức bách, Lê Lợi quyết định dấy binh khởi nghĩa. Lê Lợi từng nói rằng:
“ |
“Ta cất quân đánh giặc, không phải là có lòng ham muốn phú quý, mà chính vì muốn để ngàn nămvề sau, người đời biết ta không chịu làm tôi tớ cho bọn giặc tàn ngược” |
” |
—Đại Việt sử ký toàn thư |
Mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt, đồng chí hướng như Phạm Vấn, Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Ngân, Nguyễn Trãi[10]… tất cả 50 tướng văn và tướng võ (trong đó có 19 người đã từng kết nghĩa anh em nguyện cùng chí hướng với nhau ở hội thề Lũng Nhai, năm 1416), chính thức phất cờ khởi nghĩa (khởi nghĩa Lam Sơn).
Sách Lam Sơn thực lục chép rằng:
“ |
Nguyên trước Nhà vua kinh doanh việc bốn phương, Bắc đánh giặc Minh, Nam đuổi quân Lào, mình trải trăm trận, đến đâu được đấy, chỉ dùng có quan võ là bọn Lê Thạch, Lê Lễ, Lê Sát, Lê Vấn, Lê Lý, Lê Ngân, ba mươi lăm người; quan văn là bọn Lê văn Linh, Lê quốc Hưng; cùng những quân thân như cha, con; hai trăm thiết kỵ, hai trăm nghĩa sĩ, hai trăm dũng sĩ và mười bốn thớt voi. Còn bọn chuyên chở lương-thảo, cùng già yếu đi hộ vệ vợ con, cũng chỉ hai nghìn người mà thôi. |
” |
—Lam Sơn Thực Lục |
[11]
Ông tự xưng là Bình Định vương , kêu gọi dân chúng hào trưởng trong vùng tham gia khởi nghĩa, giành lấy chính quyền Đại Việt.
Thời kỳ gian nan ở vùng núi Thanh Hóa
Trong thời gian đầu, lực lượng của quân Lam Sơn chỉ có vài ngàn người, lương thực thiếu thốn, thường chỉ thắng được vài trận nhỏ và hay bị quân Minh đánh bại. Hoạt động trong thời này chủ yếu ở vùng núi Thanh Hóa. Có những lúc Lê Lợi và quân Lam Sơn phải trốn chạy[12].
Ngày mồng 9 tháng giêng năm 1418, tướng nhà Minh là Mã Kỳ đem đại quân tới Lam Sơn, Lê Lợi lui quân tới Lạc Thủy đặt quân mai phục để chờ giặc. Mã Kỳ dẫn tới ngày 13, vua sai quân mai phục đổ ra đánh, Lê Thạch cùng các tướng Đinh Bồ, Lê Ngân, Lê Lý…dẫn đầu xông vào trận giặc, chém được hơn 3.000 thủ cấp, thu được hàng ngàn quân tư, khí giới, rồi dời quân đến núi Chí Linh.[13][14]
Ba ngày sau, tên phản bội Ái dẫn quân Minh theo lối tắt đánh úp nghĩa quân. Chúng bắt được vợ, con, gia quyến của Lê Lợi, tinh thần nghĩa quân chán nản bỏ đi, chỉ có Lê Lễ, Lê Vấn, Lê Bí, Lê Xí, Lê Đạp theo Lê Lợi vào ẩn náu ở núi Chí Linh. Nghĩa quân tuyệt lương hơn 2 tháng, quân Minh lui quân, Lê Lợi trở về thu lại được tàn quân hơn 100 người, đắp lũy ở Lam Sơn cố thủ, phủ dụ quân lính, ước thúc cơ đội, sửa sang khí giới, nghĩa quân Lam Sơn lại mạnh lên.[15][16]
Quân Minh cậy mạnh, tướng Minh Lý Bân đưa quân vào đất hiểm để bức bách nghĩa quân, Lê Lợi đặt quân phục ở xứ Vấn mang, dùng tên thuốc bắn, quân Minh rút lui. Lê Lợi cho quân tiến tới xứ Ninh mang, quân Minh giao tranh thiệt hại, lui về xã Bả-lạc-thượng. Lê Lợi lại tiến quân tới trại Hà-đả, hằng ngày khiêu chiến. Quân Minh ở vững trong trại không ra. Hôm sau, quân Minh lại giao chiến với nghĩa quân ở xứ Mỹ-mỹ. Nghĩa quân bắt được tướng chỉ huy của giặc là Nguyễn Sao, và chém được hơn nghìn đầu.[17]
Lực lượng của Lê Lợi ban đầu ít ỏi, bị quân Minh đánh bại, phải chạy vào Mường Một, sau đó đến Trịnh Cao, giáp biên giới Ai Lao. Sau đó Lê Lợi đóng ở Mường Cốc trong núi Chí Linh, khi hết lương bị quân Minh vây hãm. Lê Lợi hỏi mọi người: “Có ai dám bắt chước Kỷ Tín ngày xưa không?”[18].
Lúc ấy chỉ có Lê Lai nhận lời, đem quân ra khiêu chiến, quân Minh xúm lại bắt được, tưởng là Lê Lợi, xử tử Lê Lai tàn ác và lui quân. Lê Lợi và các tướng lĩnh khác được thoát.
Ngày mồng 9 tháng 4 năm 1418[18], tướng nhà Minh là Mã Kỳ đem đại quân tới Lam Sơn, Lê Lợi lui quân tới Lạc Thủy đặt quân mai phục để chờ quân địch.[19]. Mã Kỳ dẫn tới ngày 13, Lê Lợi sai quân mai phục đổ ra đánh, Lê Thạch cùng các tướng Đinh Bồ, Lê Ngân, Lê Lý… dẫn đầu xông vào trận, chém được hơn 3.000 quân minh, thu được hàng ngàn quân tư, khí giới rồi dời quân đến núi Chí Linh[20].
Ba ngày sau, một người phản lại Lê Lợi là Ái dẫn quân Minh đến đào trộm xương cốt của cha Lê Lợi là Lê Khoáng và ép ông phải đến hàng. Lê Lợi mật sai Trịnh Khả và Bùi Bị nửa đêm lẻn đi lấy lại được. Sau đó Ái lại dẫn quân Minh theo lối tắt đánh úp nghĩa quân, bắt được vợ, con, gia quyến của Lê Lợi và các tướng sĩ. Tinh thần nghĩa quân chán nản, nhiều người bỏ đi. Lê Lợi cùng Đinh Lễ, Phạm Vấn, Đỗ Bí, Nguyễn Xí, Lê Đạp vào ẩn náu ở núi Chí Linh. Sau hơn 2 tháng, quân Minh lui quân, Lê Lợi trở về thu lại được tàn quân hơn 100 người, đắp lũy ở Lam Sơn cố thủ, phủ dụ quân lính.
Tướng Minh Lý Bân đưa quân vào đất hiểm để bức bách nghĩa quân, Lê Lợi đặt quân phục ở xứ Vấn mang, dùng tên thuốc bắn, quân Minh rút lui. Lê Lợi cho quân tiến tới xứ Ninh mang, quân Minh giao tranh thiệt hại, lui về xã Bả Lạc Thượng. Lê Lợi lại tiến quân tới trại Hà Đả, hằng ngày khiêu chiến. Quân Minh ở trong trại không ra.
Hôm sau, hai bên giao chiến ở Nga Lạc, quân Lam Sơn bắt được tướng Minh là Nguyễn Sao và chém được hơn 300 quân Minh[20].
Năm 1419, Lê Lợi tận dụng thời cơ quân Minh lui quân, cho tu tạo thành lũy, sửa chữa khí giới, vỗ về quân sĩ.
Trận Bồ Thi Lang
Tháng 10 năm 1420, quân Minh tiến đánh nghĩa quân Lam Sơn, Lê Lợi cho quân mai phục ở bến Bổng, đánh thắng, thu hơn 100 con ngựa. Lê Lợi cho quân nghỉ ở Mường Nanh, sau dời quân đóng ở Mường Thôi.[19]
Lý Bân, Phương Chính được Đồng tri châu Quỳ Châu là Cầm Lạn dẫn đường, kéo 10 vạn đại quân tới, theo đường từ Quỳ Châu tới Mường Thôi. Lê Lợi sai Lê Triệu, Lê Lý, Lê Vấn đem quân phục ở xứ Bồ Mộng để phục đánh tiền quân nhà Minh. Quân Minh đến, nghĩa quân Lam Sơn đổ ra đánh, quân Minh tan vỡ, nghĩa quân giết 300 quân Minh.
Đại quân Minh tiến gần tới dinh Lê Lợi đóng, Lê Lợi sai quân mai phục ở chỗ hiểm yếu. Ngày hôm sau, Lê Lợi tung quân ra đánh, quân Minh đại bại ở xứ Bồ Thi Lang, bị mất hơn 1000 quân, Lý Bân, Phương Chính chỉ chạy thoát được thân mình. Nghĩa quân truy sát đến 6 ngày đêm mới dẫn quân trở về.
Tận dụng thời cơ, Lê Lợi tiến quân đóng ở trại Ba Lẫm thuộc Lỗi Giang, quân Minh không dám khiêu chiến. Tướng nhà minh là Tạ Phượng, Hoàng Thành tui binh về Nga Lạc, rồi lại về giữ Quan Du, Tây đô cố thủ. Lê Lợi sai tướng Lam Sơn là Lê Hào, Lê Sát đánh trại Quan Du, chém hơn nghìn người.
Chiến thắng Thi Lang là trận đánh mang tính bước ngoặt với nghĩa quân Lam Sơn, trước nay nghĩa quân dù thắng cũng phải rút chạy, nay đánh bại 10 vạn quân địch, thừa thế đuổi theo, lập chiến tuyến ở Lỗi Giang, dòm ngó Tây Đô. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng từ đó thế giặc ngày một suy. Lê Lợi nhân cơ hội đó mộ binh, chiêu tập nhân dân các xứ, các huyện bên cạnh đều hưởng ứng.
Ngày 20 tháng 11 năm 1421, tướng nhà Minh là Trần Trí thu quân các vệ Giao Châu cùng ngụy binh, hơn 10 vạn quân tiến tới chiến tuyễn Lỗi Giang. Lê Lợi cho rằng:
“ |
“Quân giặc nhiều, quân ta ít, nhưng quân giặc mệt, quân ta nhàn. Binh pháp có nói được hay thua là ở tướng chứ không phải ở quân nhiều hay ít, nay quân giặc tuy nhiều, nhưng ta đem quân nhàn đợi đánh quân mệt mỏi, chắc chắn sẽ đánh bại chúng.’; |
” |
—Đại Việt sử ký toàn thư |
Lê Lợi chia quân tập kích doanh trại quân Minh vào ban đêm, phá 4 trại, chém hơn 1000 người. Trần Trí không nản, đem quân phá núi, mở đường tiến đánh nghĩa quân, Lê Lợi sai quân phục ở đèo Ống, đánh bại Trần Trí, khiến Trí rút binh.
Đánh bại quân Ai Lao
Quân Ai Lao đem 3 vạn quân, 100 thớt voi thình lình đến doanh trại nghĩa quân Lam Sơn, phao tin là hợp sức cùng nghĩa quân đánh quân Minh. Lê Lợi chấp thuận, quân Ai Lao nửa đêm đánh úp nghĩa quân. Lê Lợi đích thân đốc chiến, đánh tan quân Ai Lao, chém 1 vạn người, bắt 14 con voi, truy kích 4 ngày đêm đến tận sào huyệt quân Ai Lao rồi sẫn quân trở về đóng quân ở Sách Thủy. Từ trưởng Ai Lao là Mãn sát xin giảng hòa, Lê Lợi cho đó là kế gian, các tướng cố xin hòa, Bình chương Lê Thạch tiến đánh nhưng trúng phải chông ngầm mà chết.
Trận Sách Khôi
Tháng 2, năm 1422, viên tướng nhà Minh là Lý Bân bệnh mà chết. Tháng 12 năm 1422, quân Minh và quân Ai Lao tiến đánh nghĩa quân ở Trại Quan Da, do bị đánh cả 2 mặt, nghĩa quân nhiều người chết và bị thương. Lê Lợi rút quân về Sách Khôi, 7 ngày sau quân Minh tiến tới. Lê Lợi nói với các quân sĩ
“ |
Giặc vây ta bốn mặt, có muốn chạy cũng không có lối nào. Đây chính là “tử địa” mà binh pháp đã nói, đánh nhanh thì sống, không đánh nhanh thì chết[21]“. |
” |
—Đại Việt sử ký toàn thư |
Nói xong chảy nước mắt, quân sĩ xúc động, tranh nhau xin chết. Lê Lĩnh, Phạm Vấn, Lê Hào, Lê Triện xông lên trước, chém tướng nhà Minh là Phùng Quý và hơn 1000 người, bắt được 100 con ngựa. Quân Minh đại bại, Mã Kỳ, Trần Trí thoát thân chạy về Đông Quan, quân Ai Lao tan vỡ.
Giảng hòa
Sau trận Sách Khôi, Lê Lợi thu quân về núi Chí Linh, nghĩa quân thiếu lương 2 tháng, phải đẵn măng rừng, rau, củ để ăn, nhiều người bỏ trốn. Lê Lợi bắt chém viên tướng trốn đi tên Khanh, việc quân mới tạm an ổn. Do chinh chiến nhiều ngày, tướng sĩ mệt mỏi Lê Lợi chấp thuận hòa hoãn với quân Minh, sai Lê Vận, Lê Trăn đi giảng hòa, quân Minh chấp thuận. Ngày 14, tháng 4, năm Quí Mão (1423), Lê Lợi lui quân về Lam Sơn. Tham tướng Trần Trí, nội quan Sơn Thọ đem nhiều cá, muối, thóc giống, nông cụ tặng nghĩa quân, Lê Lợi tặng vàng, bạc đáp lễ, nhưng vẫn bí mật phòng bị. Quân Minh cho rằng không khuất phục được Lê Lợi, bèn bắt giữ bọn sứ giả Lê Trăn không cho về. Lê Lợi cắt đứt giảng hòa, tướng sĩ căm thù, thê liều quyết chiến. Mùa thu, tháng 7, năm 1423, vua Minh Thành Tổ chết, thái tử Cao Xí lên ngôi lấy niên hiệu Hồng Hy.
Tiến vào Nghệ An
Ngày 20 tháng 9 năm 1423, Lê Lợi hỏi mọi người rằng:
“ |
Nay chúng ta nên tới xứ nào để mưu đồ việc nước |
” |
—Đại Việt thông sử, quyển I |
Thiếu úy Nguyễn Chích đáp:
“ |
Hạ thần thường qua lại tỉnh Nghệ An nhiều lần, nên có biết những nơi hiểm yếu trong tỉnh ấy.Nay xin dẫn quân vào trại của Cầm Bành tỉnh Nghệ An, hễ ai hàng thì ta phủ dụ, nếu không hàng thì ta đánh lấy trại ấy làm căn bản, rồi từ từ tính việc lấy lại Đông Đô. Như vậy việc nước có thể sẽ thành”. |
” |
—Đại Việt thông sử, quyển 1 |
Lê Lợi nghe theo, tiến quân vào Nghệ An. Ngày 20 tháng 9 năm 1424, Lê Lợi chia quân đánh úp thành Đa Căng, phá được thành này, quân Minh bị giết và chết đuối hơn 1000 người. Tham chính Lương Nhữ Hốt chạy thoát, nghĩa quân thu nhiều lương thực, khí giới. Sau đó tướng nhà Minh là Hoa Ánh đến cứu, Lê Lợi xua quân đánh tràn, quân Minh thua to, chạy vào Tây Đô. Lê Lợi sai thả về tất cả vợ, con, gia quyến của quân Minh bị bắt, rồi tiến quân vào châu Trà Long.[22]
Lê Lợi dẫn quân qua núi Bồ Lạp thuộc Châu Quì, thì bị Chỉ huy đồng tri nhà Minh Sư Hựu, Tri phủ châu Trà Lân là Cầm Bành đem 5000 quân đón ở mặt trước, mặt sau bị Trần Trí, Lý An, Phương Chính, Thái Phúc uy hiếp. Nhân trời sắp tối, Lê Lợi sai phục binh trong rừng đón đánh Trần Trí, Lý An, Phương Chính, quân Minh tan vỡ, đô ty Trần Trung bị chém, mất 2000 người, 100 con ngựa Ngày sau, nghĩa quân đến Trang Trịnh Sơn, châu Trà Lân, đánh bại Sư Hựu, chém thiên hộ Trường Bản và hơn 1000 người. Lê Lợi dẫn quân đến sách Mộc, Trần Trí đuổi theo nhưng không dám tiến sâu, lui về giữ thành Nghệ An, đưa trả Lê Trăn cầu hòa. Mùa đông, tháng 11, Lê Lợi sai người chiêu dụ Cầm Bành. Bành cự tuyệt không theo, Cầm Bành cùng với hơn ngàn quân lên dựng rào lũy trên đỉnh núi để đón quân cứu viện. Nghĩa quân bao vây, Phương Chính, Sơn Thọ muốn đem quân cứu nhưng không dám tiến quân, sai người mang thư cầu hòa nghĩa quân, nhằm giải vây Cầm Bành. Lê Lợi nói rằng:
“ |
“Cầm Bành đang nguy khốn, bọn Chính đáng lẽ phải cấp tốc cứu viện, nay lại dùng dằng, hẳn là có ý lo sợ. Chi bằng ta giả cách cho hòa để xem tình thế ra sao, tin đi tin lại mất hàng tuần hàng tháng, thì Cầm Bành lúc ấy chắc đã bị bắt rồi”. |
” |
—Đại Việt sử ký toàn thư |
Bèn viết thư để trên bè thả theo dòng sông, Lê Lợi viết thư rằng vẫn muốn giảng hòa, nhưng bị Cầm Bành chặn đường, xin cho sứ giả đến hòa giải để thông đường về. Phương Chính nhận được thư, sai Trần Đức Nhị đến bảo Cầm Bành hòa giải, Bành biết viện binh không đến, liền đầu hàng. Lê Lợi thu châu Trà Lân, ra lệnh rằng:
“ |
“Cầm Bành đã đầu hàng, chớ có mảy may xâm phạm, tha tội cho tất cả, không được giết mộtngười nào”. |
” |
—Đại Việt sử ký toàn thư |
Lê Lợi vỗ về, an ủi các bộ lạc, khao thưởng tù trưởng, mộ quân thêm 5000 người. Quân Minh nghe tin Cầm Bành ra hàng, quay lại đánh trại Trà Lân, bị Lê Lợi đánh lui.
Vây đánh thành Nghệ An
Lê Lợi tiến quân tới đánh thành Nghệ An, quân sắp đi, nhận được tin báo quân Minh đem quân thủy bộ tới. Lê Lợi bàn với các tướng:
“ |
Quân địch đông, quân ta ít, đem ít đánh đông chỉ ở những đất hiểm là có thể lập được công. Vả chăng binh-pháp nói: “Nhử người tới, chứ không để người dữ tới”[23]. |
” |
—Lam Sơn thực lục |
Bèn chia hơn nghìn quân, sai bọn Lê Liệt theo đường tắt giữ huyện Đỗ Gia, cướp thế tranh tiên của giặc. Còn Lê Lợi thì chính mình cầm đại quân, đóng giữ vào nơi hiểm trở để đợi. Chừng ba, bốn ngày, giặc đem hết cả quân, mặt thủy, mặt bộ đều tới ải Khả lưu, đắp lũy, đóng trại, ở miệt dưới. Nghĩa quân ở miệt trên, dương cờ, đánh trống, đêm thì đốt lửa. Lại ngầm sai quân tinh nhuệ và bốn thớt voi, qua sông phục nơi hiểm yếu. Trời sắp sáng,quân Minh bèn dẫn quân, trên cạn, dưới sông đều tiến, để đánh dinh trại cuả nghĩa quân. Lê Lợi giả vờ lui, nhử giặc vào chỗ có quân phục. Giặc không ngờ, đem hết quân vào sâu. Quân phục bốn mặt nổi lên, xông đánh, cả phá được trận giặc. Quân Minh thiệt hại vô số, rồi tựa núi, đắp lũy cố thủ không ra đánh nữa. Khi ấy, lương của nghĩa quân không tới 10 ngày, quân Minh còn nhiều lương, Lê Lợi bàn rằng”
“ |
Quân giặc nhiều lương, đắp lũy để làm kế lâu dài. Quân ta ít lương không thể giữ giằng giai được với nó. |
” |
—Lam Sơn thực lục |
Bèn đốt hết dinh trại, vờ trốn lên miệt trên, đi ngầm đường tắt, đợi giặc đến thì đánh. Quân Minh cho rằng nghĩa quân bỏ chạy, đem quân từ dưới lên đóng vào dinh trại cũ. Ngày sau, Lê Lợi đem quân khiêu chiến, quân Minh tung hết quân ra đánh. Lê Sát, Lê Vấn, Lê Bí, Lê Lễ, Lê nhân Chú, Lê Ngân, Lê Chiến, Lê tông Kiều, Lê Khôi, Lê Bôi, Lê văn An, đều thi nhau hãm trận. Quân Minh vỡ trận, người chết vô số, thuyền trôi nghiền, quân lính chết đuối tắc cả dòng sông. Tướng tiên phong Hoàng Thành bị chém chết, tướng Chu Kiệt bị bắt sông, nghĩa quân thừa thắng đuối 3 ngày, quân Minh chạy vào thành Nghệ An cố thủ.
Tháng 5 năm 1425, Lê Lợi lại sai Đinh Lễ đem quân ra đánh Diễn Châu, quân Minh thua chạy về Tây Đô (Thanh Hoá). Sau đó ông lại điều Lê Sát, Lưu Nhân Chú, và Lý Triện tiếp ứng cho Đinh Lễ đánh ra Tây Đô, quân Minh ra đánh lại bị thua phải rút vào cố thủ trong thành.
Lê Lợi một mặt siết vòng vây quanh thành Nghệ An và Tây Đô, mặt khác sai Trần Nguyên Hãn,Doãn Nỗ, Lê Đa Bồ đem quân vào nam đánh Tân Bình, Thuận Hoá. Tướng Minh là Nhậm Năng ra đánh bị phá tan. Sau đó Lê Lợi lại sai Lê Ngân, Lê Văn An mang thủy quân tiếp ứng cho Trần Nguyên Hãn chiếm đất Tân Bình, Thuận Hoá. Quân Minh phải rút vào cố thủ nốt.
Như vậy đến cuối năm 1425, Lê Lợi làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào, các thành của đối phương đều bị bao vây.
Chiến dịch Tốt Động – Chúc Động
-
Tháng 8 năm 1426, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lý Triện ra phía Tây bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông bắc; Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan.
Lý Triện tiến đến gần Đông Quan gặp Trần Trí kéo ra, liền đánh bại Trần Trí. Nghe tin viện binh nhà Minh ở Vân Nam sắp sang, Triện chia quân cho Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả ra chặn quân Vân Nam, còn Lý Triện và Đỗ Bí hợp với quân Đinh Lễ, Nguyễn Xí đánh Đông Quan.
Phạm Văn Xảo phá tan viện binh Vân Nam. Quân Vân Nam chạy về cố thủ ở thành Xương Giang. Trần Trí thấy mất viện binh bèn cầu viện Lý An ở Nghệ An. Lý An và Phương Chính để Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, mang quân vượt biển ra cứu Đông Quan. Lê Lợi liền giao cho Lê Văn An, Lê Văn Linh vây thành, còn mình kéo đại quân ra bắc.
Vua Minh sai Vương Thông, Mã Anh mang quân sang tiếp viện. Thông hợp với quân ở Đông Quan được 10 vạn, chia cho Phương Chính, Mã Kỳ. Lê Triện, Đỗ Bí đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm, lại đánh luôn cánh quân của Chính. Cả hai tướng thua chạy, về nhập với quân Vương Thông ở Cổ Sở. Lý Triện lại tiến đánh Vương Thông, nhưng Thông đã phòng bị, Triện bị thua phải rút về Cao Bộ, sai người cầu cứu Nguyễn Xí.
Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem quân đến đặt phục binh ở Tốt Động, Chúc Động. Nhân biết Vương Thông định chia dường đánh úp Lý Triện, hai tướng bèn tương kế tựu kế dụ Thông vào ổ mai phục Tốt Động[24]. Quân Vương Thông thua to, Trần Hiệp, Lý Lượng và 5 vạn quân bị giết, 1 vạn quân bị bắt sống. Thông cùng các tướng chạy về cố thủ ở Đông Quan.
Sử chép ba đạo quân ra bắc của Lê Lợi chỉ có tổng số 9000 người. Các nhà nghiên cứu cho rằng con số đó chưa chính xác vì các trận đánh của ba đạo quân này đều có quy mô khá lớn và lực lượng quân Minh sang nhập vào khá đông, do đó để giành thắng lợi, 3 cánh quân (sau đó lại chia thành 4) chắc phải đông hơn. Với một vài ngàn người khó đương nổi lực lượng đông và mạnh của quân Minh như vậy. Căn cứ sách Đại Việt thông sử, khi quân Minh sắp rút về, Lê Lợi đã bàn với các tướng, đại ý rằng: quân Lam Sơn hiện có tổng số 35 vạn, ông dự định sẽ cho 25 vạn về làm ruộng và tuyển lấy 10 vạn làm quân thường trực của triều đình. Qua đó thì thấy những cánh quân ra bắc phải có một vài vạn mỗi cánh quân. Lê Lợi được tin thắng trận liền sai Trần Nguyên Hãn, Bùi Bị chia hai đường thủy bộ tiến ra gần Đông Quan.
Đây là trận quyết chiến, một trong những thắng lợi quyết định toàn cục của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Trận đánh này đã làm cho tên tuổi của Lý Triện, Đinh Lễ nổi danh, sử gia Ngô Sỹ Liên cho rằng, tướng giỏi thời ấy thì Lễ và Triện đứng đầu[25] Sách Đại Việt thông sử viết rằng:
“ |
Người trong nước còn sợ oai giặc Ngô, chưa quy phục nhà vua hết thảy. Từ sau chiến thắng Tốt Động quân ta bèn vây Đông Đô. Sĩ dân ở các phủ huyện hưởng ứng rầm rộ. Những người hào kiệt trí dũng theo về như đi chợ. Thành trì giặc các nơi lần lượt bị phá hoặc xin hàng, mà 3 ty nhà Minh phải đóng cửa thành tử thử, thế cùng bức bách phải xin hòa. Trong khoảng một năm, cả nước được bình định. Đó đều là công của bọn các ông Lê Lễ, Lê Triện |
” |
—Đại Việt thông sử, Đinh Lễ |
[26]
Lập Trần Cảo
-
Vương Thông thua chạy không dám ra đánh, viện cớ tìm lại tờ chiếu của vua Minh năm 1407 khi đánh nhà Hồ, có nội dung muốn lập lại con cháu nhà Trần[27] ra điều kiện với Lê Lợi rằng Thông sẽ rút về nếu Lê Lợi lập con cháu nhà Trần làm vua.
Lê Lợi vì đại cuộc, muốn quân Minh nhanh chóng rút về nên đồng ý. Ông sai người tìm được Trần Cảo[28] bèn lập làm vua, còn ông tự xưng là Vệ quốc công.
Vương Thông ngoài mặt giảng hòa nhưng lại sai quân đào hào cắm chông phòng thủ và mật sai người về xin cứu viện. Lê Lợi biết chuyện liền cắt đứt giảng hòa.
Vây thành Đông Quan
Sau khi cắt đứt giảng hoà, Lê Lợi sai các tướng đi đánh chiếm các thành ở Bắc bộ như Điêu Diêu (Thị Cầu, Bắc Ninh), Tam Giang (Tam Đái, Phú Thọ), Xương Giang (phủ Lạng Thương), Kỳ Ôn, không lâu sau đều hạ được.
Đầu năm 1427, ông chia quân tiến qua sông Nhị, đóng dinh ở Bồ Đề[29], sai các tướng đánh thành Đông Quan. Ông đặt kỷ luật quân đội rất nghiêm để yên lòng nhân dân. Do đó quân Lam Sơn đi đến các nơi rất được lòng dân.
Tướng Minh là Thái Phúc nộp thành Nghệ An xin hàng. Lê Lợi sai Thượng thư bộ Lại là Nguyễn Trãi viết thư dụ đối phương ở các thành khác ra hàng.
Nhân lúc quân Lam Sơn vây thành có vẻ lơi lỏng, quân Minh ở Đông Quan ra đánh úp. Lê Triện tử trận ở Từ Liêm, Đinh Lễ và Nguyễn Xí bị bắt ở Thanh Trì. Sau Đinh Lễ bị giết, Nguyễn Xí trốn thoát được.
Chiến dịch Chi Lăng-Xương Giang
-
Trận Chi Lăng – Xương Giang năm 1427
Cuối năm 1427, vua Minh Tuyên Tông điều viện binh cứu Vương Thông, sai Liễu Thăng mang 10 vạn quân tiến sang từ Quảng Tây; Mộc Thạnh mang 5 vạn quân từ Vân Nam kéo sang.[30][31]
Trước khi viện binh nhà Minh kéo sang Lê Lợi đã sai Thái úy Trần Nguyên Hãn, Tư mã Lê Sát, thiếu úy Lý Triện, Nguyễn Lý công thành gấp hạ thành Xương Giang. Thành Xương Giang bị nghĩa quân vây trong hơn 6 tháng, không hạ được, đến đây Lê Lợi đích thân ra lệnh chocác tướng đắp đất, mở đường, dùng câu liêm, giáo dài, nỏ cứng, tên lửa, súng lửa, bốn mặt đánh vào, thành cuối cùng bị hạ. [32][33]
Lại ra lệnh dời người ở những vùng đối phương đi qua như Lạng Giang, Bắc Giang, Quy Hoá, Tuyên Quang, để đồng không để cô lập đối phương. Các tướng khuyên Lê Lợi đánh thành Đông Đô nhưng Lê Lợi cho rằng:
“ |
Đánh thành là hạ sách. Ta đánh thành bền vững hàng năm hàng tháng không hạ được, khi ấy quân ta sức mỏi chí nhụt, nếu viện binh của giặc lại đến thì trước mặt, sau lưng đều bị tấn công, đó là con đường nguy hiểm. Chi bằng nuôi sức quân, mài giũa tinh thần sắc bén, để đợi viện binh của giặc. Viện binh giặc bị phá thì thành giặc nhất định phải hàng. Như thế là nhất cử lưỡng tiện, là mưu chước vẹn toàn. |
” |
—Đại Việt sử ký toàn thư |
[34][35]
Lê Lợi họp bàn với các tướng, nói rằng:
“ |
Giặc vốn khinh ta, cho là ngưới nước ta nhút nhát, sợ oai giặc đã lâu, nay nghe tin đại quân sang, hẳn là ta rất hoảng sợ. Huống chi lấy mạnh nạt yếu, lấy nhiều lần ít đó là lẽ thường. Giặc không thể tính được hình thế được thua của người của mình, không thể hiểu được cơ vi qua lại của thời của vận. Vả lại, quân đi cứu nguy cấp phải lấy mau chóng làm quý, giặc nhất định phải hành quân gấp vội. Binh pháp có nói: Hành quân 500 dặm mà chỉ vội hám lợi thì sẽ què thượng tướng. Nay Liễu Thăng đến, đường sá xa xôi, quân lính tất mỏi mệt. Ta đem quân nhàn khỏe, đợi đánh quân mỏi mệt, nhất định sẽ thắng. |
” |
—Đại Việt sử ký toàn thư |
[36][37]
Biết cánh Liễu Thăng là quân chủ lực, ông sai Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê Lãnh, Đinh Liệt, Lê Thụ mang quân phục ở Chi Lăng, lại sai Lê Văn An, Lê Lý mang quân tiếp ứng. Đối với cánh quân Mộc Thạnh, ông biết Thạnh là viên tướng lão luyện, sẽ ngồi chờ thắng bại của Liễu Thăng mới hành động nên hạ lệnh cho Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả cố thủ không đánh.[38][39]
Tướng trấn giữ biên giới là Trần Lựu liên tục giả cách thua chạy từ Ải Nam Quan về Ải Lưu rồi lại lui về Chi Lăng. Ngày 18 tháng 9 âm lịch, Thăng đuổi đến Chi Lăng. Trần Lựu lại thua, Thăng đắc thắng mang 100 quân kị đi trước. Ngày 20, Thăng bị phục binh của Lê Sát, Trần Lựu đổ ra chém chết.[40][41]
Các tướng thừa dịp xông lên đánh quân Minh, giết hơn 1 vạn quân, chém được Lương Minh, Lý Khánh tự vẫn. Tướng Minh còn lại Hoàng Phúc, Thôi Tụ cố kéo về thành Xương Giang thế thủ nhưng đến nơi mới biết thành đã bị quân Lam Sơn hạ, phải đóng quân ngoài đồng không. Lê Lợi sai Trần Nguyên Hãn chặn đường vận lương, sai Phạm Vấn, Lê Khôi, đem 3 nghìn quân Thiết đột, 4 thớt voi, cùng với Lê Sát, Nguyễn Lý, Lưu Nhân Chú, Lê Văn An tấn công, giết 5 vạn quân Minh ở Xương Giang. Hoàng Phúc và hơn 3 vạn quân bị bắt, Thôi Tụ không hàng bị giết.[42][43]
Mộc Thạnh nghe tin Liễu Thăng thua bèn rút chạy. Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đuổi theo chém hơn 1 vạn quân, bắt sống 1000 người ngựa.[44][45]
Hội thề Đông Quan
Ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi, tức 10 tháng 12 năm 1427, Lê Lợi cùng các tướng nhà Minh: Tổng binh Thành Sơn hầu Vương Thông, Tham tướng Mã Anh, Thái giám Sơn Thọ, Mã Kỳ, Vinh Xương hầu Trấn Trí, An bình hầu Lý An, Đô ty Phương Chính, Chưởng đô ty sự Trần Tuyền, Trần Hựu, Giám sát ngự sử Chu Kỳ Hậu,Cấp sự trung Quách Vĩnh Thanh, Hữu bố chính sứ Dặc Khiêm, Tả hữu tham chính là Hồng Bỉnh Lương, Lục Trinh và Lục Quảng Bình, Án sát sứ Dương Thời Tập và Thiêm sự Quách Đoan làm hội thề ở cửa Nam thành Đông Đô. [46]
Vương Thông hẹn rằng đến ngày 12 tháng 12 thì đem quân về nước và sai người đem tờ trình xin trả lại đất đai cho nghĩa quân. Lê Lợi sai giải vây thành Đông Quân, kéo quân lui về, lại sai giải vây cho 3 thành: Tây Đô, Cổ Lộng và Chí Linh; truyền cho nghĩa quân hộ tống các tướng trong 3 thành trên dẫn quân về thành Đông Quan, để cùng về Trung Quốc.[47]
Ngày 29, tháng 11 năm Đinh Mùi, Lê Lợi sai Lê Thiếu Dĩnh, Lê Cảnh Quang đem tờ biểu cầu phong của Trần Cảo, cùng các vật phẩm theo viên chỉ huy do Vương Thông sai, sang triều Minh.[48]
Các tướng sĩ, người dân căm tức sự tàn ngược của quân Minh, bảo vua đem giết đi, Lê Lợi đáp rằng:
“ |
“Trả thù báo oán là thường tình của mọi người, nhưng không thích giết người là bản tâm của bậc nhân đức. Vả lại, người ta đã hàng, mà mình lại giết thì là điềm xấu không gì lớn bằng. Nếu cốt để hả nỗi căm giận trong chốc lát mà mang tiếng với muôn đời là giết kẻ đã hàng, thì chi bằng tha mạng sống cho ức vạn người, để dập tắt mối chiến tranh cho đời sau, sử xanh ghi chép tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn lao sao ? |
” |
—Đại việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử |
[49] [50]
Tháng 12, năm Đinh Mùi, Lê Lợi ra lệnh Cánh đường thủy, cấp 500 chiếc thuyền, cho Phương Chính, Mã Kỳ lãnh nhận. Cánh đường bộ, cấp lương thảo, cho Sơn Thọ, Hoàng Phúc lãnh nhận. Còn hơn 2 vạn người bị bắt hoặc đầu hàng và 2 vạn con ngựa thì do Mã Anh lãnh nhận. Chinh man tướng quân Trần Tuấn đem quân trấn thủ đi theo. Tất cả đều tới dinh Bồ Đề lạy tạ mà về.[51]
Ngày 12, tháng 12, Phương Chính, Mã Kỳ tới dinh Bồ Đề cáo biệt Lê Lợi, ở lại suốt một buổi chiều, Lê Lợi sai sắm trâu ngựa, trướng vẽ và lễ phẩm hậu tặng. [52]
Ngày 17, Vương Thông nhà Minh dẫn quân bộ đi sau. Vương Thông cùng vua nói chuyện từ biệt suốt đêm rồi đi. Vua sai đưa trâu rượu, cờ thêu, trướng vẽ cùng các lễ vật tiễn chân rất hậu. Quân thủy, bộ của ba thành Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh cùng lục tục rút tiếp. Từ đây, việc binh đao dập tắt, khắp thiên hạ thái bình.[53] Lê Lợi sai Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh quân Minh[54]. Đây là áng văn chương nổi tiếng, rất có giá trị đời Lê, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam, sau bài thơ Nam quốc sơn hà.
Cai trị
Lên ngôi Hoàng đế
Sau khi quân Minh rút về, trên danh nghĩa Trần Cảo là quốc vương của nước Nam. Theo sử sách, đầu năm 1428, Trần Cảo tự biết mình không có công, lòng người không theo nên bỏ trốn vào châu Ngọc Ma (phủ Trấn Ninh), nhưng không thoát, bị bắt mang về và bị ép uống thuốc độc chết.[55]
Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế vào ngày 15 tháng 3, năm 1428, sử gọi là Lê Thái Tổ, chính thức dựng lên triều Hậu Lê. Ông khôi phục quốc hiệu Đại Việt, đóng đô ở Thăng Long và đổi tên Thăng Long thành Đông Kinh (東京) vào năm Thuận Thiên thứ hai (1430).
Lê Thái Tổ sai sứ sang Trung Quốc cầu phong, nhưng nhà Minh không chịu, bắt phải tìm con cháu nhà Trần lập làm hoàng đế. Sứ nhà Minh đi về hai ba lần, sau Thái Tổ hoàng đế sai các viên quan phụ lão trong nước làm tờ khai rằng con cháu vua Trần thật sự không còn ai nữa, và xin phong cho Lê Lợi làm vua nước Nam. Nhà Minh thấy vậy mới thuận nên phong Vương cho ông.[56]
Phong thưởng cho các công thần
Những người tử trận
Lê Lai mất, vua Lê Thái Tổ ngầm sai người tìm di hài đem về Lam Sơn mai táng. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), phong Lê Lai là công thần hạng nhất, tặng là Suy trung Đồng đức Hiệp mưu Bảo chính Lũng Nhai công thần, hàm Thiếu úy, thụy là Toàn nghĩa.Tháng 12 năm 1429, vua Lê Thái Tổ, sai Nguyễn Trãi viết hai bản lời thế ước trước và lời thề nhớ công của Lê Lai, để trong hòm vàng. Năm Thái Hòa thứ nhất 1443, ban tặng tước Bình Chương quốc quân trọng sự, ban cho túi kim ngư, ấn vàng, tước Huyện thượng hầu. Vua Lê Thái Tổ mất ngày 22 tháng 8 âm lịch, năm 1433, trước khi mất có dặn lại đời sau phải làm giỗ Lê Lai trước một ngày, tức là ngày 21 tháng 8. Từ đó dân gian truyền lại câu: Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi.[57]
Lê Thạch tử trận khi đánh quân Ai Lao. Năm 1428, sau khi khởi nghĩa thắng lợi, ghi chép các công thần, ông được truy tặng làm Nhập nội kiểm hiệu thái uý Bình chương quân quốc trọng sự, lại phong là Trung Vũ đại vương (忠武大王) và thờ phối ở tẩm miếu.
Lý Triện nhiều lần phá được giặc mạnh, sau khi Lý Triện tử trận Lê Lợi cho cha ông là Lý Ba Lao làm chức sát sứ, cấp 400 mẫu ruộng, con ông là Lý Lăng làm Phòng ngự sứ, tước Phục hầu, đều được đổi sang họ Lê. Năm 1428, ông được truy tặng chức Nhập nội tư mã.
Đinh Lễ tử trận, Lê Lợi cho em ông là Đinh Liệt làm Nhập nội thiếu úy, tước Á hầu, các vợ lẽ của ông là bọn Hà Ngọc Dung gồm 5 người được làm tông cơ. Năm 1428, khi Lê Lợi lên ngôi vua truy tặng ông làm Nhập nội kiểm hiệu tư đồ. [58]
Phong thưởng
Theo sách Đại Việt sử kí toàn thư Bản kỉ, quyển X ghi:
“ |
Tháng 2, định các mức khen thưởng cho những hỏa thủ và quân nhân của quân Thiết đột có công lao siêng năng khó nhọc ở Lũng Nhai bao gồm 121 người. Công hạng nhất được ban quốc tính là bọn Lê Vấn, Lê Quy, Lê Dịch, 52 người làm Vinh lộc đại phu, tả Kim ngô vệ Đại tướng quân, tước Thượng trí tự. Công hạng hai, được ban quốc tính là bọn Lê Bồ, Lê Liệt, Lê Khảo, 72 người, làm Trung lượng đại phu, tả Phụng thần vệ tướng quân, tước Đại trí tự. Công hạng ba, được ban quốc tính là bọn Lê Lễ 94 người, làm Trung vũ đại phu, Câu kiềm vệ tướng quân, tước Trí tự. |
” |
—Đại Việt sử ký toàn thư |
Theo “Chức quan chí” trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, tháng 5 năm 1429 khi Lê Thái Tổ phong mọi tước hầu (liệt hầu) cho các công thần, gồm có 9 bậc:
- Thứ nhất: Huyện thượng hầu.
- Thứ hai: Á thượng hầu.
- Thứ ba: Hương thượng hầu.
- Thứ tư: Đình thượng hầu.
- Thứ năm: Huyện hầu.
- Thứ sáu: Á hầu.
- Thứ bảy: Quan nội hầu.
- Thứ tám: Quan phục hầu.
- Thứ chín: Trước phục hầu.
Bấy giờ có 93 người được phong tước và khắc biển công thần (Những người tên chữ nghiêng đều được cải sang họ Lê của vua, ở đây ghi nguyên họ những người đó)[59]:
- Huyện Thượng hầu, 3 người: Phạm Vấn, Lê Sát, Phạm Văn Xảo.
- Á Thượng hầu, 1 người: Lê Ngân.
- Hương Thượng hầu, 3 người: Nguyễn Lý, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng.
- Đình Thượng hầu, 14 người: Nguyễn Chích, Lê Văn An, Đinh Liệt, Lê Miễn, Đinh Lễ, Lê Chiến, Lê Khôi, Lê Đính, Lê Chuyết, Trịnh Lỗi, Nguyễn Nhữ Lãm, Lê Sao, Lê Kiệm, Lê Bật.
- Huyện hầu, 14 người: Bùi Bị, Lê Bì, Lê Phủ, Lê Náo, Lê Thụ, Trương Lôi, Trịnh Khả, Lê Bồi, Lê Lang, Nguyễn Xí, Đỗ Khuyển, Đỗ Bí, Lê Quốc Trinh, Lê Bật;
- Á hầu, 26 người: Lê Lạn, Lê Trãi, v.v…;
- Quan nội hầu, 16 người: Lê Thiệt, Lê Chương,…
- Quan phục hầu, 12 người: Phạm Cuống, Lê Dao, Nguyễn Trãi,…
- Thượng trí tự trước phục hầu, 4 người: Trịnh Khắc Phục, Lê Hài, v.v…
Chính sách ruộng đất
Mùa xuân tháng Giêng năm 1428, quân Minh đã về nước, Đại Việt hoàn toàn độc lập. Lê Lợi đã thực hiện những chính sách của mình nhằm phục hồi lại đất nước vốn đã bị suy tàn sau những năm bóc lột của quân Minh và chiến tranh.
Tháng 7, năm 1426, làm sổ hộ tịch (sổ đinh).[60]
Tháng Giêng, năm 1428, hạ lệnh cho con em các nhà đầu mục và các tướng hiệu đều nên trở về nhận ruộng đất ở quê cha đất tổ, để chấm dứt nạn tranh chiếm ruộng đất.[61][62]
Tháng 4, năm 1428, trả lại ruộng đất, nhà cửa cho những quân dân bị bắt vào 4 thành Tây Đô, Đông Kinh, Cổ Lộng, Chí Linh đã được bổ vào các quân phụ vào quân Thiết đột.[62][63]
Ngày 25, tháng 11, năm 1428, làm sổ ruộng đất, sổ hộ tịch.[64] Triều đình ra chỉ thị cho các phủ, huyện, lộ khám xét các chằm bãi, ruộng đất, mỏ vàng bạc, những sản vật núi rừng trong hạt, các loại thuế cũ, cùng ruộng đất đã sung công các nhà thế gia và những người tuyệt tự, ruộng đất của bọn đào ngũ, ngụy quan.[65]
Ngày 22, tháng 12, năm 1428, ra lệnh chỉ cho các quan phủ, huyện, lộ, trấn, xã, sách đối chiếu, khám xét ruộng đất, đầm bãi công tư trong các huyện, xã của lộ mình.[65]
Ngày 22, tháng Giêng, năm 1429, ra lệnh cho các đại thần tâu lên về việc cấp đất cho dân chúng, từ quan lại, quân nhân, đàn ông, đàn bà, người già yếu, mồ côi, góa chồng.[66]
Tháng 2, năm 1429, lệnh cho tập trận trong 5 đạo, cả thủy binh và bộ binh. Sau tập trận, chia số quân sĩ làm 5 phiên, lưu lại 1 phiên còn 4 phiên về làm ruộng.[67]
Ngày 20, tháng 3, năm 1429, ra lệnh rằng phần đất của các quan và phủ đệ công hầu trăm quan nên trồng cây, hoa, rau đậu, không được để hoang, ai không theo thì mất phần đất đó. Các công hầu đã được ban cho đất ở, nếu trong phần đất của quân Thiết đột[68] thì không cho quá nhiều, chỉ từ 5 sào trở xuống, nếu không phải trong phần đất của quân Thiết đột thì cho 2 mẫu trở xuống đến 1 mẫu. Nếu đã được chia ruộng đất vườn nhà nhất định rồi, lại còn chiếm đất trong thành Đại La làm nhà cửa khác nữa thì không được.[69]
Ngày 30 tháng 5, định hạng ruộng đất của ngụy quan.[70]
Ngày 19, tháng 12, ra lệnh xã nào có nhiều ruộng đất nhưng ít người, để bỏ hoang thì cho phép các quan nơi đó cho những người không có ruộng ở các xã khác đến cày cấy, người chủ ruộng xã đó không được chiếm giữ rồi bỏ hoang. Ai vi phạm sẽ bị xử theo tội cưỡng bức chiếm đoạt.[71]
Năm Thuận Thiên thứ 3, 1430, lại làm sổ hộ tịch.[72]
Năm Thuận Thiên thứ 6, lại gộp làm sổ hộ tịch.[73]
Chính sách đất đai đã làm cho Đại Việt như lời nhận xét của Sử thần trong sách Đại Việt sử ký toàn thư: Vua mặc áo sớm, ăn cơm trưa, trải 10 năm mà thiên hạ đại trị.Dân gian có câu ca dao về việc no đủ, thịnh trị thời của vua Lê Thái Tổ, lê Thái Tông:
Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn
Dẹp phản loạn, thu châu Phục Lễ
-
Đánh dẹp thổ tù Bế Khắc Thiệu, Nông Đắc Thái
Ngoài xây dựng kinh tế, Thái Tổ còn phải đối phó với bạo loạn trong nước. Tháng 11, năm 1430, Thổ tù ở châu Thạch Lâm, Trấn Thái Nguyên là Bế Khắc Thiệu, Nông Đắc Thái [74][75] làm loạn, để đối phó, Lê Lợi tuyển binh ở bãi Bồ Đề.
Tháng Giêng năm 1431, sau khi giết Phạm Văn Xảo Lê Lợi thân chinh đem quân đánh trấn Thái Nguyên, khi đến châu Thạch Lâm, thành Na Lữ, bèn đóng quân quân ở đây, vì thấy thắng cảnh núi sông, nên sai lập sinh từ thờ phụng. Trên núi đá phía tây bắc thành Na Lữ, có bài thơ của vua Lê Thái Tổ ngự chế khắc vào đá, bên dưới ghi rằng: Thuận Thiên tứ niên Tân Hợi chính nguyệt thị thập nhật đà.
Nội dung bài thơ như sau, được viết trong sách Đại Nam nhất thống chí. [76]
- Bất từ vạn lý chỉnh sư đồ,
- Duy lục biên manh xích tử tô.
- Thiên địa bất dung gian đảng tại,
- Cổ kim thùy xá bạn thần chu.
- Trung lương tự khả lương đa phúc.
- Bạo bội chung nan bảo nhất khu.
- Đái lệ bất di thần tử tiết;
- Danh thùy vạn cổ dữ sơn câu.
-
- Dịch nghĩa:
- Đường xa chẳng quản ngại ra quân
- Chỉ muốn biên phương cứu lấy dân.
- Trời đất chẳng dung phường phản tặc,
- Xưa nay ai xá tội gian thần
- Trung lương ắt tự giành nhiều phúc.
- Bạn nghịch đành khôn giữ chiếc thân.
- Sông cạn đá mòn không đổi tiết
- Danh cùng núi ấy vạn năm xuân. [77]
Tháng 2, ông đánh được Lâm Châu, giết Bế Khắc Thiệu, bắt sống Nông Đắc Thái.
Đánh dẹp Đèo Cát Hãn, thu châu Mường Lễ
Năm 1407, khi quân Minh sang đánh nhà Hồ, Đèo Cát Hãn dẫn 4.000 quân ra xin hợp tác với quân Minh. Theo Minh sử, năm 1405, Đèo Cát Hãn dâng sớ lên triều đình nhà Minh tố cáo nhà Hồ đánh chiếm 7 trại Mãnh Man thuộc châu Ninh Viễn dưới quyền Đèo Cát Hãn, vốn thuộc phủ Vân Nam, giết con rể của ông, bắt con gái của ông để khống chế.[78]
Năm 1427, Lê Lợi sai Chủ thư thị sử Trần Hồ đi chiêu dụ châu Ninh Viễn (sau đổi là châu Phục Lễ, nay là phủ An Tây). Phụ đạo châu ấy là Đèo Cát Hãn đem binh tướng theo về.[79][80]
Tháng giêng năm 1432, Lê Lợi sai con trai cả Lê Tư Tề, Tư đồ Lê Sát đem quân đánh châu Mường Lễ, do Đào Cát Hãn thông đồng Phạm Văn Xảo làm loạn, liên kết với nghịch thần Ao Lao là Kha Đốn xâm lấn đất Mang Mỗi. Sau đó đích thân Lê Lợi thân chinh, đánh được Mang Lễ, Kha Đốn bị giết, Đào Cát Hãn bỏ chạy, Lê Lợi thu Mang Lễ, đổi tên thành châu Phục Lễ.[81][82][83][84][85]
Sau khi đánh dẹp Đào Cát Hãn, vua Lê Thái Tổ cho khắc bài thơ ở bờ bên trái sông núi động Hào Tráng, có khắc bài tựa ngự thi viết:
“ |
Ta đi đánh Cát Hãn về qua đây, làm một bài thơ, để bảo cho đời sau biết mưu kế giá ngự nhung địch; nhung địch ở xa khơi, mặt người dạ thú, nếu có bội bạn, phải tiêu diệt ngay, mà phương lược tiến đánh, thì bắt đầu tiến quân từ hai trấn Thao Giang và Đà Giang hơn cả. |
” |
—Toàn Việt thi luc. |
Nội dung bài thơ:
- Gập ghềnh đường hiểm chẳng e xa
- Dạ sắt, khăng khăng mãi đến già.
- Lẽ phải quét quang mây phủ tối
- Lòng son san phẳng núi bao la.
- Biên cương cần tính mưu phòng thủ,
- Xã tắc sao cho vững thái hòa,
- Ghềnh thác ba trăm[86], lời cổ ngữ,
- Từ nay xem chẳng nổi phong ba.
(Viết tại ngày tốt, tháng mạnh hạ(tháng tư), năm Thuận Thiên thứ 2 (1429))[87][88]
Tổ chức hành chính
Vua Lê Thái Tổ chia trong nước làm năm đạo:Đông, Tây Nam, Bắc và Hải Tây. Mỗi đạo đặt một vệ quân, mỗi vệ đặt chức tổng quản(có các chức tổng quản, đô tổng quản, đồng tổng quản, trên dưới liên hệ nhau, lớn nhỏ giữ gìn nhau. Lại đặt chức hành khiển ở năm đạo, chia giữ việc sổ sách và từ tụng của quân dân, đứng đầu là hành khiển, thứ đến là các chức tham tri, đồng tri, chủ bạ, đạo thuộc. Các đạo đều đặt các ban tả hữu, giữa của cải chứa trong kho tàng (có chức đô tri).[89]
Định quan các lộ, các huyện(lộ đặt tri phủ, chưởng ấn, thứ đến các chức trấn phủ sứ, an phủ sứ, tuyên phủ sứ, chiêu thảo sứ..) và đặt quan trấn thủ nơi hiểm yếu.[90]
Đặt các quan có các tên gọi: Bình chương, từ đồ (sau thêm chữ đại), đại tư không, đại tư mã, khu mật đại sứ, thiếu úy, thượng tướng, đại tướng, á hầu, thông hầu, quan phục hầu, trước phục hầu.[91]
Chia các lộ ở Đông Đô làm bốn đạo, đặt các chức văn võ liêu thuộc trong ngoài, có chức bộc xạ, thị trung, thiếu bảo, hành khiển, thượng thư, hàn lâm, các chức quan bốn đạo (chức chánh mang hàm tổng tri, coi việc quân dân; chức phó mang hàm kiên tri quân dân bạ tịch), quan Mật viện, quan các bộ (như Lại bộ Thượng thư Nguyễn Trãi), quan các sảnh (như Thượng thư sảnh), quan Hàn lâm viện (như các chức thừa chỉm, học sĩ ), quan Hình viện, quan quân vệ, quan điền binh.
Các chức quan ngoài thì có các chức sứ, quan sát sứ, phòng ngự sứ, tuyên úy sứ, an phủ sứ.
Các quan văn võ đại thần được vua coi thân tín, đều thêm chữ nhập nội.
Quan võ từ tổng quản, tổng lĩnh, đồng tri xuống đến đại đội trưởng, đội trưởng, văn từ hành khiển, thượng thư, xuống đến thất phẩm đều là những chức sang, lại có ngự tiền văn đội, ngựa tiền võ đội và khách đội, thực đội. Lại đặt các quan ở các xã.[92]
Giáo dục
Về việc học hành, trường Quốc Tử Giám ở đất kinh đô để cho con cháu các quan viên và những người thường dân có khả năng vào học tập; mở nhà học và đặt thầy dạy nho học ở các phủ và các lộ. Rồi lại bắt các quan văn võ từ tứ phẩm trở xuống phải vào thi Minh kinh khoa, nghĩa là quan văn thì phải thi kinh sử, quan võ thì phải thi vũ kinh. Ở các lộ cũng mở khoa thi Minh kinh để cho những người ẩn dật ra ứng thí mà chọn lấy nhân tài[93].
Tôn giáo
Những người theo đạo Phật, đạo Lão cũng phải thi kinh điển những đạo ấy; hễ ai thi đỗ thì mới được làm sư hoặc làm đạo sĩ, ai thi trượt thì phải về quê làm ăn.
Luật pháp
Về luật pháp, Thái Tổ cho đặt ra bộ luật mới theo như hình luật của nhà Đường: có tội xuy, tộ trượng, tội đồ, tội lưu và tội tử[93].
Tháng Giêng, năm 1428, thiên hạ thái bình, vua Lê Thái Tổ sai các quan Tư không, Tư đồ, Tư mã, Thiếu úy, Hành khiển bàn định pháp lệnh cai trị quân dân, để người làm tướng biết phép trị quân, quan các lộ biết phép trị dân, cũng để răn dạy quân dân biết là có pháp luật. Mọi công việc đều có các cơ quan phụ trách riêng, dâng lên vua xem.[94][95]
Năm Thuận Thiên thứ 2 91429), định luật cờ bạc, đánh bạc thì chặt bàn tay 5 phân, đánh cờ thì chặt bàn tay 2 phân. Những kẻ vô cố không phải việc công mà họp nhau uống rượu thì bị 100 trượng, kẻ dung túng thì tội giảm 1 bậc.[96]
Về tội ăn hối lộ, nếu ghi nhận ăn hối lộ 1 quan tiền trở lên thì bị xử chém.[97][98][99]
Kinh tế
Năm Thuận Thiên thứ 1 (1428), đúc tiền Thuận Thiên thông bảo, tính 50 đồng là 1 tiền. Năm Thuận Thiên thứ 2 (1429) truyền cho các quan trong ngoài bàn phép dùng tiền. Xuống chiếu rằng:
Tiền là mạch máu của sinh dân, không thể không có. Nước ta vốn có mỏ đồng, nhưng tiền đồng cũ đã bị nhà Hồ hủy bỏ, trăm phần chỉ còn được một. Đến nay, việc quân, việc nước thường hay bị thiếu. Muốn cho tiền được lưu thông sử dụng, để thuận lòng dân, há chẳng khó sao? Mới rồi có người dâng thư trình bày, xin lấy tiền giấy3 thay cho tiền thực . Trẫm sớm khuya nghĩ ngợi, chưa nghĩ ra các gì. Vì rằng tiền giấy là thứ vô dụng, lại được lưu hành như vật hữu dụng trong dân, thực không phải là ý nghĩa yên dân, dùng của. Nhưng đời xưa đã có người cho rằng vàng, bạc, da, lụa, tiền thực, tiền giấy đều không thể cân ngang nhau được, thế thì thứ gì là hơn? Truyền cho các đại thần trăm quan và những người hiểu việc đời ở trong, ở ngoài, đều nghị bàn quy chế đồng tiền cho thuận lòng dân, để không vì ưa thích riêng của một người mà bắt ép muôn nghìn người không muốn phải theo, để làm phép hay của một đời. Nên phải bàn định sớm rồi tâu lên, trẫm sẽ tự chọn lấy mà cho thi hành. [100]
Chính sách đối với những người Việt làm quan cho nhà Minh
Trước năm 1428, Lê Lợi đã cho tiến hành bắt những quan lại người Việt phục vụ cho nhà Minh, bắt vợ con, nô tỳ,tài vật, trâu bò đem giải nộp cho hết, điều tra những kẻ có lòng khác, thu nhập văn bằng ẩn tin của ngụy quan, theo đúng hạn nộp lên. Sau đo cho ngụy quan chuộc mệnh, đinh lệ tiền chuộc các vợ cả, vợ lẽ và nô tỳ của ngụy quan. Vợ Bố chính ty thì 70 quan, dưới đến các hạng sinh viên, thổ quan, thừa sai, bạn đương, thì vợ là 10 quan, con trai, con gái và nô tỳ từ 10 tuổi trở xuống thì 5 quan. [101][102]
Năm 1428, sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ ra lệnh trị tội những viên quan cộng tác với nhà Minh[103][104]. Năm 1429 ông ra lệnh chỉ rằng những người này trước đã có lệnh cho tha tội chuộc mệnh, thì cho miễn cả ruộng đất (không phải sung công)[105][106].
Tháng 5, năm 1429, Lê Thái Tổ ra lệnh: cho những văn võ hào kiệt nào còn bị bỏ sót có thể đến chỗ Thiếu phó Lê Văn Linh mà tự tiến, không phân biệt ngụy quan hay sĩ thứ, cốt lấy tài đức[107][108].
Các ngụy quan như Lương Nhữ Hốt, Trần Phong, Đỗ Duy Trung đều được vua tha chết, sau này cùng nhau mưu phản, đều bị giết[109].
Lập thái tử và qua đời
Ngày 7, tháng giêng năm 1429, Lê Thái Tổ lập con trưởng Lê Tư Tề làm Quận vương, giúp trông coi việc nước, con thứ Nguyên Long làm Hoàng thái tử.
Năm 1433, Lê Thái Tổ vời Lê Khôi lúc ấy đang trấn thủ Hóa châu về để bàn định việc lập Thái tử[110], tháng 8 năm đó, con trưởng Lê Tư Tề bị phế giáng làm Quận vương, con thứ Nguyên Long kế thừa tông thống. Đại tư đồ Lê Sát được vua trao trọng trách phụ chính giúp vua Lê Thái Tông còn ít tuổi[111]
Thái Tổ ở ngôi được 5 năm thì băng hà vào ngày 22 tháng 8 năm 1433, hưởng dương 49 tuổi. Vì nhớ công Lê Lai chết thay cho mình ở núi Chí Linh trước kia, ông dặn lại đời sau phải giỗ Lê Lai trước khi giỗ ông một ngày. Bởi thế đời sau truyền lại câu: Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi[112].
Thái Tổ được an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn. Thái tử Lê Nguyên Long 11 tuổi lên nối ngôi, tức hoàng đế Lê Thái Tông.
Miếu hiệu của ông là Thái Tổ (太祖), thụy hiệu là Thống Thiên Khải Vận Thánh Đức Thần Công Duệ Văn Anh Vũ Khoan Minh Dũng Trí Hoàng Nghĩa Chí Minh Đại Hiếu Cao Hoàng Đế (統天啟運聖德神功睿文英武寬明勇智弘義至明大孝高皇帝). Đời sau đều gọi là Thái Tổ Cao hoàng đế (太祖高皇帝) hay Cao Hoàng (高皇), Cao Đế (皇帝).
Nhận định
Về công lao, sự nghiệp
Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại những lời nhận xét về Lê Thái Tổ như sau[113]:
“ |
Vua nhiệt tình, hăng hái dấy nghĩa quân đánh dẹp giặc Minh. Sau 10 năm thì thiên hạ đại định. Đến khi lên ngôi, đã ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, thu nhập sách vở, mở mang trường học, có thể gọi là có mưu kế xa rộng mở mang cơ nghiệp. Song đa nghi, hiếu sát, đó là chỗ kém. |
” |
“ |
Vua nối cơ nghiệp của ông cha, gặp buổi đại loạn mà chí càng bền, náu mình chốn núi rừng, làm nghề cày cấy. Do lòng căm thù quân giặc bạo tàn, càng lưu tâm vào các sách thao lược, đem hết của nhà hậu đãi tân khách. Đến năm Mậu Tuất [1418], nhóm nổi nghĩa binh, kinh dinh thiên hạ, trước sau trải mấy chục trận, đều là đặt quân phục, dùng binh kỳ, tránh chỗ chắc, đánh chỗ mềm, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh. Đến khi quân Minh đầu hàng thì răn cấm quân lính không được mảy may xâm phạm. Từ đấy, hai nước hòa hiếu, bắc nam vô sự. Mường Lễ, Ai Lao đều sáp nhập bản đồ, Chiêm Thành, Chà Bàn vượt biển sửa lễ cống. Vua mặc áo sớm, ăn cơm trưa, trải 10 năm mà thiên hạ đại trị.. |
” |
“ |
Vua dấy nghĩa binh, chưa từng giết bừa một người nào. Chỉ biết lấy mềm chống cứng, lấy yếu địch mạnh, lấy ít thắng nhiều, không đánh mà khuất phục được người, cho nên có thể đổi vận bĩ sang vận thái, chuyển thế nguy thành thế yên, đổi cuộc loạn thành cuộc trị. Câu “Người có nhân, thiên hạ không ai địch nổi” chính hợp với vua. Cho nên, vua lấy được thiên hạ, truyền cơ nghiệp đến muôn đời là phải lắm. . |
” |
Sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn chép rằng:
“ |
Vua Thái Tổ ta, có tài dùng binh, khi ngày mới dựng cờ khởi nghĩa, chỉ vỏn vẹn có 200 quân thiết đột; 200 dũng sĩ, và 300 nghĩa binh. Thế mà phía Tây Ai Lao phải thần phục, phía Bắc dẹp hết giặc Ngô. Xét về Kế bí mưu kỳ, phần nhiều là do tài thao lược. Ngài lại tinh tường việc chính trị: Khi mới đến hành doanh Bồ Đề, ngài đã tuyển dụng hiền tài, đặt quan chia chức, trừ tàn cấm bạo, thương yêu quân dân, thu hút các bộ lạc, phòng bị nơi biên cương. Thực đã có ngay một quy mô đại định thiên hạ. Đến khi thống nhất non sông, ngài phong công thần, phong nho giáo, chế lễ nhạc, định luật lệnh, đặt quân kỷ, lập hộ tịch, chỉnh đốn các ngành thuế, bỏ phép tiêu tiền giấy. Thi hành chánh sự rất là rộng lớn chu đáo. Cứ xem ngay những bài Chiếu bài Sắc ban ra thời ấy, đủ thấy lời răn dạy và phép trị bình rất là tường tận. Ngài khôi phục non sông, đem lại thái bình, công đức ban khắp đương thời, cơ nghiệp truyền chohậu thế. Rực rỡ lắm thay”. |
” |
Lời bình của các quan đời Vĩnh Trị, sách Lam Sơn thực lục:
“ |
Thái Tổ Cao hoàng đế chúng ta, lấy tài thông minh, trí, dũng; làm việc hỏi tội, cứu dân. Trong lúc mới cất quân khởi nghĩa; Không để cho quan tước dụ nổi; không để cho oai thế hiếp nổi. Tuy gặp lúc nhiễu nhương, mà lòng càng vững; trải cơn cùn quẫn mà chí càng hăng. Tới khi tiếng nghĩa đồn dậy, gươm thần vung dài, mà các dũng tướng, mưu thần xúm lại như mây họp! |
” |
Lê Lợi là vị vua có công đánh đuổi quân Minh, chấm dứt 20 năm Bắc thuộc lần thứ tư và sáng lập nhà Hậu Lê, triều đại tồn tại lâu nhất trong lịch sử Việt Nam.
Sau thời kỳ độc lập hơn 400 năm kể từ thế kỷ 10, Đại Việt có nguy cơ trở lại thành quận huyện của Trung Hoa. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi đã chấm dứt 20 năm cai trị của nhà Minh tại Đại Việt và chấm dứt hẳn sự đô hộ của Trung Quốc thời phong kiến.
Bởi công lao đó của ông nên đời sau còn nhớ nhà Lê khi bị nhà Mạc cướp ngôi và đó là một nguyên nhân khiến nhà Lê có thể trung hưng (1533). Thậm chí ngay cả khi con cháu triều Lê không còn nắm được thực quyền thì trên danh nghĩa vẫn là người đứng đầu thiên hạ. Chúa Trịnh làm phụ chính nhiều đời nhưng vẫn không dám cướp ngôi nhà Lê cũng bởi sợ dư luận còn nhớ công lao giành lại độc lập cho đất nước của nhà Lê[114].
Về cai trị, ông cũng là người thiết lập lại trật tự, quy củ của chế độ phong kiến các triều đại Lý, Trần trước đây mà các thế hệ vua sau tiếp tục củng cố, phát triển cao hơn nữa.
Những điểm giống với Hán Cao Tổ
Giữa Lê Thái Tổ và Hán Cao Tổ của Trung Quốc có những điểm tương đồng trong thân thế, cuộc đời sự nghiệp bản thân và sự nghiệp của hậu duệ[115]:
- Cả Lê Thái Tổ và Hán Cao Tổ đều xuất thân từ gia đình nông dân và là con thứ ba trong nhà. Trên Lê Lợi có Lê Học, Lê Trừ còn trên Lưu Bang có Lưu Bá, Lưu Trọng[18][74][116][117][118].
- Cuộc khởi nghĩa của cả hai vị vua đều gặp rất nhiều khó khăn trong thời gian đầu tiên, phải thường xuyên lẩn trốn sự truy kích của kẻ thù, thậm chí có những lúc rơi vào tính thế hiểm nghèo[116][119][120][121].
- Cả hai vị vua đều thoát chết nhờ thuộc hạ tình nguyện hy sinh cứu chủ. Khi bị Hạng Vũ vây ở Huỳnh Dương, Lưu Bang đã phải nhờ Kỷ Tín ra hàng và bị Hạng Vũ giết. Lê Lợi bị quân Minh vây ở núi Chí Linh cũng phải nhờ Lê Lai theo gương Kỷ Tín để thoát nạn. Lê Lai cũng bị quân Minh giết[74][122][123][124].
- Sau khi lên ngôi, hai vị hoàng đế đều giết các công thần khai quốc. Lưu Bang giết Hàn Tín, Bành Việt; Lê Lợi giết Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn[125][126][127][128].
- Sau khi qua đời, cả Lê Thái Tổ và Hán Cao Tổ đều được đặt chữ “Cao”. Lưu Bang là (Cao Tổ) Cao hoàng đế, Lê Lợi là (Thái Tổ) Cao hoàng đế[129][130][131][132].
- Về sau, cơ nghiệp của hai vị vua đều bị họ khác cướp ngôi. Nhà Hán và nhà Hậu Lê đều bị gián đoạn một thời gian, nhưng rồi lại phục hồi. Nhà Tây Hán bị Vương Mãng cướp ngôi (lập nhà Tân), nhưng sau đó được nhà Đông Hán kế tục. Nhà Hậu Lê (Lê sơ) bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi (lập nhà Mạc), rồi sau đó được nhà Lê trung hưng kế tục[133][134][135][136]
Khi ngự phê sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, vua Tự Đức nhà Nguyễn cũng đánh giá Lê Lợi “mở được nền chính thống nghìn năm, thật đáng là bậc nối gót Hán Cao Tổ”[137]. Sử quan nhà Nguyễn trong lời cẩn án dưới lời phê của Tự Đức còn nêu thêm một điểm giống nhau nữa giữa Lê Thái Tổ và Hán Cao Tổ: hai người cùng dấy binh nổi lên với một thanh kiếm[138].
Câu nói
“ |
Ta cất quân đánh giặc, không phải là có lòng ham muốn phú quý, mà chính vì muốn để ngàn năm về sau, người đời biết ta không chịu làm tôi tớ cho bọn giặc tàn ngược” |
” |
—Đại Việt sử ký toàn thư |
“ |
Hoạn nạn mới gây nổi nước! Lo-phiền mới đúc nên tài! |
” |
—Lam Sơn thực lục |
[139]
“ |
Thà người phụ ta, ta chớ phụ người! … Không lấy việc nhỏ mà hại nghĩa lớn, không lấy ý gần mà nhãng mưu xa. |
” |
—Lam Sơn thực lục |
Các truyền thuyết
Gươm thần Thuận Thiên
-
Hồ Hoàn Kiếm (Hồ Gươm), nơi có huyền thoại Lê Thái Tổ trả gươm cho rùa vàng.
Hình tượng nhà vua được dân gian đưa vào nghệ thuật
múa rối nước
Sách Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi chép:
- Khi ấy Nhà-vua cùng người ở trại Mục-sơn là Lê Thận cùng làm bạn keo sơn. Thận thường làm nghề quăng chài. Ở xứ vực Ma-viện, đêm thấy đáy nước sáng như bó đuốc soi. Quăng chài suốt đêm, cá chẳng được gì cả. Chỉ được một mảnh sắt dài hơn một thước, đem về để vào chỗ tối. Một hôm Thận cúng giỗ (ngày chết của cha mẹ) nhà vua tới chơi nhà. Thấy chỗ tối có ánh sáng, nhận ra mảnh sắt, nhà vua bèn hỏi:
- – Sắt nào đây?
- Thận nói:
- – Đêm trước quăng chài bắt được.
- Nhà vua nhân xin lấy. Thận liền cho ngay. Nhà vua đem về đánh sạch rỉ, mài cho sáng, thấy nó có chữ “Thuận Thiên”, cùng chữ “Lợi”.
- Lại một hôm, nhà vua ra ngoài cửa, thấy một cái chuôi gươm đã mài-dũa thành hình, nhà vua lạy trời khấn rằng:
- – Nếu quả là gươm trời cho, thì xin chuôi và lưỡi liền nhau!
- Bèn lấy mảnh sắt lắp vào trong chuôi, bèn thành ra chuôi gươm.
- Tới hôm sau, lúc đêm, trời gió mưa, sớm ngày mai, hoàng hậu ra trông vười cải, bỗng thấy bốn vết chân của người lớn, rất rộng, rất to. Hoàng hậu cả kinh, vào gọi nhà vua ra vườn, được quả ấn báu, lại có chữ Thuận Thiên (sau lấy chữ này làm niên hiệu) cùng chữ Lợi. Nhà vua thầm biết ấy là của trời cho, lòng lấy làm mừng, giấu giếm không nói ra.
- Truyền thuyết kể tiếp rằng, sau Lê Lợi dùng thanh gươm báu đó làm gươm chiến đấu, xông pha chém địch nhiều trận, cuối cùng đuổi được quân Minh làm vua
- Đầu năm 1428, Lê Thái Tổ cùng quần thần bơi thuyền ra hồ Thủy Quân. Ra giữa hồ, có Rùa Vàng nổi lên mặt nước, chắn trước thuyền của vua gọi to:
- – Hãy trả gươm thần cho ta!
- Lê Thái Tổ rút gươm trả, rùa vàng ngậm lấy gươm lặn xuống nước đi mất. Từ đó hồ Thủy Quân được đặt tên là hồ Hoàn Kiếm.
Hồ ly phu nhân
Truyền thuyết kể rằng[140] thời quân Lam Sơn chưa mạnh, Lê Lợi bị đánh bại, tướng sĩ chạy tan tác mỗi người một nơi. Bị quân Minh đuổi, Lê Lợi trốn vào rừng, trông thấy xác một cô gái chết trên bãi cỏ. Ông rút gươm đào tạm một cái huyệt chôn cô gái và cầu khấn người chết phù hộ để thoát nạn.
Quân Minh đuổi tới gần, Lê Lợi vội trốn vào một gốc cây to rỗng ruột, xung quanh là cỏ mọc cao. Quân Minh cho chó sục sạo, đánh hơi đến gốc cây. Thấy chó sủa ở gốc cây, quân Minh đâm bừa ngọn giáo vào trong, trúng đùi Lê Lợi. Ông vội lấy vạt áo chùi vết máu ở mũi giáo. Quân Minh rút giáo ra không thấy gì nhưng chó vẫn sủa. Quân Minh định dùng lửa đốt cây thì trong gốc cây có con cáo trắng chạy ra, chó săn ùa theo đuổi bắt. Quân Minh tưởng là chó sủa vì con cáo nên bỏ đi.
Lê Lợi thoát nạn, cho rằng linh hồn người con gái đã chết hóa thành cáo cứu mình. Ông đến nấm mộ cô gái vái tạ. Sau này lên ngôi vua, ông truy tặng cô gái là Hồ ly phu nhân.
Một thuyết khác cho rằng Lê Lợi chạy trốn cùng một người thân cận là Lê Tá, gặp xác cô gái mặc đồ trắng trôi trên bờ sông. Hai người vội vớt xác lên chôn cất tạm và trốn vào gốc cây rỗng ruột. Quân Minh dùng chó sục sạo đến gốc cây rồi đâm giáo vào trong, trúng đùi Lê Lợi. Lê Tá vội lấy áo lau máu trên giáo. Quân Minh định phóng ngọn giáo nữa vào thì thấy một con cáo trắng trong bụi chạy ra, đàn chó cùng nhau đuổi theo. Quân Minh tưởng là chỉ có cáo trong cây nên bỏ đi. Lê Lợi và Lê Tá cho rằng con cáo chính là linh hồn người con gái đã cứu mình.
Sau ngày thắng lợi, Lê Thái Tổ lập miếu thờ người con gái, sắc phong là Bạch y thần nữ, con cáo trắng được phong là Bạch hồ thần nữ, gốc cây cổ thụ được phong là Dung thụ đại vương.
Cuối thế kỷ 18, Phạm Đình Hổ xác minh việc nhà Hậu Lê đã làm tượng thờ ân nhân của Lê Thái Tổ trong sân triều đình Lê – Trịnh[141]:
- Những buổi chầu trong điện không bị ngăn cấm người ngoài vào xem. Ta khi nhỏ thường hay vào sân rồng, thấy bên võ ban có đặt pho tượng “Hộ quốc phu nhân”. Tượng ấy đầu người thân hồ ly, dáng rất đẹp, hình dung một thiếu nữ búi tóc, cài trâm.
Gia đình
Tổ tiên
- Cụ: Lê Hối (黎晦), được truy tôn làm Cao Thượng Tổ Minh Hoàng đế (高上祖明皇帝).
- Cụ bà: Đinh thị (丁氏), được truy tôn Phổ Từ Cao Minh Hoàng hậu (普慈高明皇后).
- Ông nội: Lê Đinh (黎汀), được truy tôn là Hiển Tổ Chiêu Đức Chí Nhân Trạch Hoàng đế (顯祖昭德至仁澤皇帝).
- Bà nội: Nguyễn Quách (阮廓), được truy tôn là Hiển Từ Gia Thục Khâm Thuận Hoàng hậu (顯慈嘉淑欽順皇后).
- Bác: Lê Tòng (黎從).
Cha mẹ, anh em
- Cha: Lê Khoáng (黎曠), được truy tôn là Tuyên Tổ Hiến Văn Duệ Triết Phúc Hoàng đế (宣祖憲文睿哲福皇帝).
- Mẹ: Trịnh Ngọc Thương (鄭玉蒼), được truy tôn là Trinh Từ Ý Văn Trang Hiến Hoàng hậu (貞慈懿文莊獻皇后).
- Anh:
- Lê Học (黎浥), ông mất sớm, được truy tặng làm Chiêu Hiếu đại vương (昭孝大王). Ông có con trai là Lê Thạch tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, được truy tặng làm Trung Vũ đại vương (忠武大王).
- Lê Trừ (黎除), được tôn là Lam quốc công (藍國公), về sau được tôn là Hoằng Dụ vương (弘裕王). Cháu 6 đời là Lê Duy Bang được lập nối ngôi nhà Lê trung hưng, tức là Lê Anh Tông.
Hậu phi
- Phạm Thị Ngọc Trần (恭慈高皇后范氏), sinh ra Lê Nguyên Long, sau trở thành Lê Thái Tông
- Trịnh Thị Lữ, người trang Bái Đô, huyện Lôi Dương, phủ Thiện Thiên, trấn Thanh Hoa, là người vợ đầu tiên của Thái Tổ, mẹ của Lê Tư Tề, mất năm Thái Hòa thời Lê Nhân Tông.
- Phạm Thị Nghiêu (范惠妃; ? – 1441), vợ thứ của Thái Tổ. Năm 1441, bị Lê Thái Tông ép tự vẫn.
- Trần Thị Ngọc Hiền (陳贞淑妃) là nhân vật pha trộn giữa truyền thuyết và sự thật, xuất hiện trong thần phả tại nhiều ngôi đền cổ vùng Nghệ An, Hà Tĩnh.
Các con
- Quận Ai vương Lê Tư Tề (黎思齊), con của Trịnh Thần phi.
- Lê Thái Tông Lê Nguyên Long (黎元龍), con của Cung Từ Cao Hoàng hậu.
- Trang Từ Công chúa Lê Thị Ngọc Châu (莊慈公主), con của Trần Trinh Thục phi, được Thái Tổ gả cho Bùi Ban, con trai của tướng Bùi Bị. Bùi Ban hy sinh trong chiến trận với Chiêm Thành, bà tái giá với Khôi Quận công Trần Hồng rồi xin đi tu.
Xem thêm
Tài liệu tham khảo
- Đại Việt sử ký toàn thư (bản điện tử)
- Khâm định Việt sử thông giám cương mục (bản điện tử)
- Lam Sơn thực lục
- Việt sử toàn thư (bản điện tử)
- Lê Quý Đôn (1978), Đại Việt thông sử, NXB Khoa học xã hội
- Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 3, NXB Khoa học xã hội
- Lê Thái Dũng (2008), Giở trang sử Việt, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ (2003), Nhìn lại lịch sử, NXB Văn hóa thông tin
- Trần Trọng Kim (2010), Việt Nam sử lược, NXB thời đại
- Lê Đông Phương, Vương Tử Kim (2007), Kể chuyện Tần Hán, NXB Đà Nẵng
- Cát Kiếm Hùng chủ biên (2006), Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc, tập 1, NXB Văn hoá thông tin
- Trương Chí Quân (1997), Đời tư các vị hoàng đế, NXB Văn hoá thông tin
- Tiêu Lê (2000), Những ông vua nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, NXB Đà Nẵng
- Nguyễn Khắc Thuần (2003), Các đời đế vương Trung Quốc, NXB Giáo dục
Chú thích
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư tính là năm 1383
- ^ Theo Đại Việt Thông Sử của Lê Quý Đôn thì Lê Lợi thọ 49 tuổi. Lê Lợi sinh năm Ất Sửu (1385), mất năm Quý Sửu (1433) thọ 49 tuổi, như Đại Việt Thông Sử ghi là đúng
- ^ Trần Gia Phụng. Những cuộc đảo chánh cung đình Việt-Nam. Non Nước, 1998. Trang 149
- ^ Lê Thị Sơn. Quốc triều hình luật: lịch sử hình thành, nội dung và giá trị. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2004. Trang 68.
- ^ Chủ Sơn: tên hương, sau đổi là thôn Thủy Chú, huyện Lôi Dương, nay thuộc xã Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa.
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ quyển 10
- ^ Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, tr 34
- ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 68, 75
- ^ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, chính biên quyển 13
- ^ Việc Nguyễn Trãi gia nhập khởi nghĩa Lam Sơn vào năm nào đang tranh cãi
- ^ Lam Sơn thực lục, NXB Tân Việt, 1956, dịch giả Bảo Thần
- ^ Giai thoại thời chống quân Minh, truyện ông Hầu, bà Hầu
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, Dịch giả Viện sử học, bản điện tử, trang 325
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, Dịch giả Viện sử học, bản điện tử, trang 326
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Lam Sơn thực lục, Nhà xuất bản Tân việt, 1956, Dịch giả Mạc Bảo Thần
- ^ a ă â Đại Việt thông sử, quyển 1, Đế kỷ đệ nhất
- ^ a ă Đại Việt sử ký toàn thư
- ^ a ă Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ quyển 10
- ^ Kế này gọi là Kế hãm mình vào tử địa. Ngày trước, Hàn Tín dàn trận quay lưng ra sông, khiến quân lính bị dồn tới đường cùng mà đánh
- ^ Lam Sơn thực lục
- ^ Tức tự chọn cho mình nơi giao chiến đã định sẵn trước
- ^ Nguyễn Xí bắt được thám tử của Vương Thông, biết Thông đóng ở Ninh Kiều, định dùng một cánh quân cùng đánh tập hậu Lê Triện, Thông cầm đại quân tiến đằng trước, đêm đến nổ pháo hiệu thì hai cánh quân cùng đánh sáp vào. Nguyễn Xí bèn đặt phục binh rồi cho nổ pháo hiệu để lừa Thông
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 344
- ^ Đại Việt thông sử, trang 205, sách đã dẫn.
- ^ Vì nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần nên Minh Thành Tổ lấy danh nghĩa lập lại nhà Trần để mang quân sang đánh nhà Hồ. Nay Vương Thông muốn vin vào đó
- ^ Theo sử sách, Trần Cảo tên thật là Hồ Ông, tự xưng là cháu nội vua Trần Nghệ Tông, được tù trưởng châu Ngọc Ma tiến cử với Lê Lợi. Nhưng theo một số sử gia gần đây, việc Trần Cảo mạo xưng hay thật sự là con cháu nhà Trần rất khó xác định, có thể chữ “mạo xưng” mà sử sách ghi là do các sử gia nhà Lê chép vào để giảm uy tín của Cảo
- ^ Vì vậy từ đó về sau truyền lại câu đồng dao: Nhong nhong ngựa ông đã về, cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 349, 350
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư[1]
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 349
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư[2]
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 349
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư[3]
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 349
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư[4]
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 350, 351
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư[5]
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 3350, 351
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư[6]
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 3350, 351
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư[7]
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 3350, 351
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư[8]
- ^ Đại Việt thông sử, sách đã dẫn, trang 83
- ^ Đại Việt thông sử, sách đã dẫn, trang 83
- ^ Đại Việt thông sử, sách đã dẫn, trang 84
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, trang 354
- ^ Đại Việt thông sử, sách đã dẫn, trang 84
- ^ Đại Việt thông sử, sách đã dẫn, trang 84
- ^ Đại Việt thông sử, sách đã dẫn, trang 84
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, sách đã dẫn, trang 353, 354
- ^ Sở dĩ gọi “Minh” là “Ngô” vì hoàng đế khai quốc nhà Minh là Chu Nguyên Chương trước kia khởi binh từ đất Ngô, tự xưng là Ngô vương, sau thống nhất Trung Quốc mới xưng là “Minh”
- ^ Việt sử toàn thư, bản điện tử, tr. 268
- ^ Nguồn: Việt Nam sử lược, bản điện tử, tr. 95
- ^ Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, trang 193
- ^ Đại Việt thông sử, Tác giả Lê Quý Đôn, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, Dịch giả Ngô Thế Long, trang 207
- ^ Theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục
- ^ Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 196, trang 75
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 361
- ^ a ă Đại Việt sử ký toàn thư
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 363
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 364
- ^ a ă Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 365
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 366
- ^ Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, trang 98
- ^ Lê Lợi phong thưởng 2 lần, lần 1 cho những Hỏa thủ, quân nhân Thiết đột khó nhọc ở Lũng Nhai, Lần 2 cho 93 viên được phong Công, Hầu. Một số vị vừa là quân nhân Thiết đột, vừa được phong công hầu. Ví dụ:Phạm Vấn, vừa là quân nhân Thiết đột, vừa được phong Hầu. Nguyễn Trãi thì chỉ được phong hầu
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 366
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 367
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 369
- ^ Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 2, Nhà xuất bản giáo dục, Dịch giả Viên sử học Việt Nam, trang 89
- ^ Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 2, Nhà xuất bản giáo dục, Dịch giả Viên sử học Việt Nam, trang 89
- ^ a ă â Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển X
- ^ Đại Việt thông sử, quyển 2, Đế kỷ đệ nhị
- ^ Đại Nam nhất thống chí, Quốc sử quán triều Nguyễn, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2006, Tập 4, trang 484
- ^ Đại Nam nhất thống chí, Quốc sử quán triều Nguyễn, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2006, Tập 4, trang 484
- ^ Minh Thực Lục, tập 11, trang 828
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 351
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Cao Bằng ngày nay
- ^ [cms.evn.com.vn/page-vi-109/News/NewsDetail.aspx?nid=6363&t=Bia-Le-Loi-Di-san-quy-cua-dan-toc]Bia Lê Lợi: Di sản quý của dân tộc
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 370
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, Đế Kỷ Đệ Nhị
- ^ Ghềnh thác ba trăm là theo câu ca dao: Đường lên Mường Lễ bao xa, trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh
- ^ Kiến văn tiểu lục, Tác giả Lê Quý Đôn, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 2007, Phiên dịch và chú thích: Phạm Trọng Điềm, quyển VI Phong Vực, trang 351, 352
- ^ http://www.bienphong.com.vn/bai-tho-vua-tren-nui-pu-huoi/22823.bbp
- ^ Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nhà xuất bản giáo dục, 2006, quan chức chí, trang 532, 533, 534
- ^ Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nhà xuất bản giáo dục, 2006, quan chức chí, trang 532, 533, 534
- ^ Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nhà xuất bản giáo dục, 2006, quan chức chí, trang 532, 533, 534
- ^ Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nhà xuất bản giáo dục, 2006, quan chức chí, trang 532, 533, 534
- ^ a ă Việt Nam sử lược, bản điện tử, tr 96
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, Dịch giả Viện sử học, bản điện tử, trang 361
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nhà xuất bản giáo dục, 2006, quan chức chí, trang 176
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, Dịch giả Viện sử học, bản điện tử, trang 390
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Chém Chuyển vận sứ huyện Thủy Đường là Nguyễn Liêm. Liêm nhận của người 2 tấm lụa. Lê Sát căn cứ vào lệnh chỉ thời Thái Tổ ghi nhận một quan tiền hối lộ thì tâu lên xử trảm, [nên chém Liêm]. Con Liêm xin chịu chết thay cho cha, cũng không được
- ^ Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nhà xuất bản giáo dục, 2006, quan chức chí, trang 112, 113
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, Dịch giả Viện sử học, bản điện tử, trang 347
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, Dịch giả Viện sử học, bản điện tử, trang 362
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, Dịch giả Viện sử học, bản điện tử, trang 366
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993, Dịch giả Viện sử học, bản điện tử, trang 367
- ^ http://bachkim.vn/resource/daiviet.pdf
- ^ Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, Dịch giả Ngô Thế Long, Nghịch thần truyện, trang 274,…,277
- ^ Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú, Nhân vật chí, Nhà xuất bản giáo dục, 2006
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển X, Khoa Học Xã Hội – Hà Nội , 1993
- ^ Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ toàn thư, Quyển X: Thái Tổ Cao hoàng đế
- ^ Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, tr 106
- ^ Trùng hợp lạ lùng giữa vua chúa VN và thế giới
- ^ a ă Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, tr 223
- ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 99
- ^ Thương Thánh, sách đã dẫn, tr 33
- ^ Lê Đông Phương, Vương Tử Kim, sách đã dẫn, tr 167
- ^ Thương Thánh, sách đã dẫn, tr 39
- ^ Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, tr 36
- ^ Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, tr 35
- ^ Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, tr 225
- ^ Lê Đông Phương, Vương Tử Kim, sách đã dẫn, tr 172
- ^ Lê Đông Phương, Vương Tử Kim, sách đã dẫn, tr 185
- ^ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 354
- ^ Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, tr 192-193
- ^ Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, tr 259
- ^ Thương Thánh, sách đã dẫn, tr 32
- ^ Nguyễn Khắc Thuần, sách đã dẫn, tr 47
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ quyển 10
- ^ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên quyển 15
- ^ Lê Đông Phương, Vương Tử Kim, sách đã dẫn, tr 275, 295
- ^ Trương Chí Quân, sách đã dẫn, tr 38
- ^ Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, tr 287
- ^ Viện sử học, sách đã dẫn, tr 517
- ^ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên quyển 13
- ^ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên quyển 13: “Bình Định vương ban đầu dấy lên ở Lam Sơn, tức cũng như Bái công (Lưu Bang) với một thanh kiếm nổi lên ở Bái Trung”
- ^ Lam sơn thực lục, Nhà xuất bản Tân Việt, 1956, quyển 3
- ^ Lê Thái Dũng, sách đã dẫn, tr 59-61
- ^ Lê Thái Dũng, sách đã dẫn, tr 62
Liên kết ngoài
Thể loại:
Lê Duẩn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lê Duẩn |
Tổng Bí thư Lê Duẩn (1907-1986)
|
Chức vụ
|
|
Nhiệm kỳ |
10 tháng 9, 1960 – 20 tháng 12, 1976
16 năm, 101 ngày |
Tiền nhiệm |
Hồ Chí Minh (tạm quyền Tổng bí thư) |
Kế nhiệm |
Chức vụ được thay thế |
Vị trí |
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa |
|
Nhiệm kỳ |
20 tháng 12, 1976 – 10 tháng 7, 1986
9 năm, 202 ngày |
Tiền nhiệm |
chức vụ được tái lập |
Kế nhiệm |
Trường Chinh |
Vị trí |
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam |
|
Nhiệm kỳ |
1978 – 1984 |
Tiền nhiệm |
Võ Nguyên Giáp |
Kế nhiệm |
Văn Tiến Dũng |
Thông tin chung
|
Sinh |
7 tháng 4, 1907
Triệu Đông, Triệu Phong, Quảng Trị |
Mất |
10 tháng 7, 1986 (79 tuổi)
Hà Nội, Việt Nam |
Lê Duẩn (1907–1986) là Bí thư Thứ nhất Trung ương Đảng Lao động Việt Nam từ 1960 đến 1976, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1976 đến 1986. Ông là Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam có tổng thời gian tại vị lâu nhất với 25 năm, 303 ngày. Từ 1960 cho đến khi qua đời năm 1986, có một ảnh hưởng chính trị rất lớn tại miền Bắc và ở Việt Nam sau 1975, và theo một số nhận định khi hai miền thống nhất[1] ông cũng đã xác lập quyền uy cao nhất của mình tại Việt Nam trong những năm tháng còn tại vị.[2]
Lê Duẩn chính là người đã vạch ra chiến lược cách mạng ở miền Nam Việt Nam với tác phẩm nổi tiếng Đề cương cách mạng miền Nam.[3] Từ bản đề cương này, hàng loạt phong trào đấu tranh chống Mỹ ở miền Nam nổ ra, dọn đường cho Quân Giải phóng miền Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam tấn công và tiếp quản Sài Gòn vào năm 1975 kết thúc Chiến tranh Việt Nam.
Cuộc đời và sự nghiệp
Lê Duẩn tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7 tháng 4 năm 1907, tại làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị trong một gia đình nông dân,[4] quê gốc của ông được cho là ở làng Phương Cai, xã Cẩm Duệ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh[5] Cha ông là Lê Hiệp, làm nghề mộc. Mẹ ông là Võ Thị Đạo, làm ruộng. Sau đó ông theo gia đình về sinh sống tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành cùng huyện, ở bên kia dòng sông Thạch Hãn. Khu lưu niệm Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn hiện nay được xây dựng tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành.
Giai đoạn trước 1945
Năm 1920 ông học hết Tiểu học. Sau đó ông lên tỉnh học Trung học được 1 năm thì nghỉ vì hoàn cảnh gia đình khó khăn.[4]
Từ thuở thiếu thời, chứng kiến cảnh đất nước bị thống trị bới thực dân Pháp, Lê Duẩn đã nuôi hy vọng phải cứu nước. Ông tâm sự: “Hồi 15 tuổi, đọc lịch sử, tôi buồn lắm, nghĩ nhất định phải đi cứu nước”[6]
Tháng 5 năm 1926, ông làm ở Sở Hỏa xa Đà Nẵng.
Năm 1927, ông làm nhân viên thư ký đề pô Sở Hỏa xa Đông Dương tại Hà Nội.
Năm 1928, ông tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng.
Năm 1929, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1931, ông là Ủy viên Ban tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ.
Ngày 20 tháng 4 năm 1931, ông bị thực dân Pháp bắt tại Hải Phòng, bị kết án 20 năm tù, bị giam ở các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La và Côn Đảo.
Năm 1936, ông được trả tự do, tiếp tục hoạt động cách mạng ở Trung Kỳ. Năm 1937, làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ.
Năm 1939, ông được bầu vào Ban thường vụ Trung ương Đảng. Cuối năm 1939, tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 6.
Năm 1940, bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn, bị kết án 10 năm tù và bị đày ra Côn Đảo lần thứ 2. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được đón về đất liền.
Giai đoạn 1945 – 1957
Năm 1946, ông được cử làm việc bên cạnh Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.
Từ 1946 đến 1954, ông được cử giữ chức vụ Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (sau đổi thành Trung ương Cục miền Nam), Chính ủy Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Chức vụ chính quyền của ông chỉ là Trưởng phòng dân quân, trong Bộ Tư lệnh Nam Bộ do Nguyễn Bình làm Tư lệnh.
Năm 1951, tại Đại hội Đảng lần thứ II, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Năm 1952 ông ra Việt Bắc họp Trung ương và được Hồ Chí Minh giữ lại làm phụ tá đến đầu năm 1954. Lê Đức Thọ được cử làm quyền Bí thư Trung ương Cục Miền Nam.
Từ 1954 đến 1957, ông được phân công ở lại miền Nam lãnh đạo cách mạng miền Nam.
Giai đoạn 1957 – 1975
Theo lời kể của con trai Lê Duẩn, Hồ Chủ tịch đã chọn ông là người lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng ở miền Nam, vì ông là người vừa nắm rõ đường lối của Trung ương vừa có trình độ lý luận, hiểu chủ nghĩa Mác. Chiến trường Nam bộ ngày ấy vừa xa xôi vừa phức tạp, để có một sự chỉ đạo thống nhất từ Trung ương, phải cần một người am hiểu cả địa thế lẫn lòng dân. Vì vậy năm 1957, Hồ Chủ tịch đã gọi ông ra Hà Nội gấp và nhanh nhất có thể để trực tiếp giúp điều hành công việc chung của Đảng.[7] Cuối năm 1957, ông ra Hà Nội, vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, chủ trì công việc của Ban Bí thư và là Phó Ban chuẩn bị văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng.
Tháng 9/1960, tại Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương. Từ 1960, khi Hồ Chí Minh sức khỏe yếu, theo một số nhận định ông Duẩn trở thành người có quyền lực cao nhất trong Bộ Chính trị.[8]
Cùng với quân sự là ngoại giao, ông rất chú ý đàm phán Paris. Ông có nói với ông Lê Đức Thọ rằng: “Anh sang bên đó, một điều không được thay đổi là Mỹ rút và mình không rút”. [9][10]
Giai đoạn 1975 – 1986
Tại các Đại hội toàn quốc lần thứ IV (12/1976) và lần thứ V (3/1982), ông tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư đến khi mất. Tại Đại hội V, do sức khỏe Lê Duẩn yếu, Ban Chấp hành Trung ương giao một số nhiệm vụ của ông cho Trường Chinh. Ông cũng đảm nhiệm chức Bí thư Quân ủy Trung ương từ năm 1978 đến năm 1984.
Chiến tranh biên giới
Trong thời gian ông nắm quyền cao nhất Việt Nam từ năm 1975 đã xảy ra hai cuộc chiến tranh: Chiến tranh biên giới Tây Nam và Chiến tranh biên giới phía Bắc.
- Chiến tranh biên giới Tây Nam là một loạt các chiến dịch quân sự do Việt Nam tiến hành nhằm phản công lại các hoạt động quân sự của quân Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, giết chóc người dân và đốt phá làng mạc Việt Nam trong những năm 1975-1978. Kết quả là chế độ Khmer Đỏ bị đánh đổ, một Hội đồng cách mạng được thành lập do Heng Samrin làm chủ tịch, dưới sự hỗ trợ của quân đội Việt Nam đã tiếp quản Campuchia.
- Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979 là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt, nổ ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc đưa quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới trên bộ giữa hai nước.[11]. Mục tiêu của Trung Quốc khi phát động cuộc chiến là buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia (để Khmer Đỏ có thể quay lại nắm quyền).
Ông đã lãnh đạo đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn này, thành công trong việc tiêu diệt chế độ Khmer Đỏ ở Campuchia và ngăn chặn được quân Trung Quốc ở phía Bắc.
Tình hình kinh tế 1975-1985
Tuy nhiên bên cạnh những thành công về quốc phòng, Ban Chấp hành TW do ông đứng đầu đã đề ra các đường lối sai lầm về kinh tế, và hậu quả của các cuộc chiến tranh khiến kinh tế lâm vào khủng hoảng, Việt Nam bị cô lập trong suốt giai đoạn 1976-1986. Giáo sư Trần Văn Thọ viết về tình trạng kinh tế 10 năm đầu sau chiến tranh khi Lê Duẫn nắm quyền: “Mười năm sau 1975 là một trong những giai đoạn tối tăm nhất trong lịch sử Việt Nam. Chỉ nói về mặt kinh tế, là một nước nông nghiệp (năm 1980, 80% dân số sống ở nông thôn và 70% lao động là nông dân) nhưng Việt Nam thiếu ăn, nhiều người phải ăn bo bo trong thời gian dài. Lượng lương thực tính trên đầu người giảm liên tục từ năm 1976 đến 1979 sau đó tăng trở lại nhưng cho đến năm 1981 vẫn không hồi phục lại mức năm 1976. Công thương nghiệp cũng đình trệ, sản xuất đình đốn, vật dụng hằng ngày thiếu thốn, cuộc sông của người dân vô cùng khốn khổ. Ngoài những khó khăn của một đất nước sau chiến tranh và tình hình quốc tế bất lợi, nguyên nhân chính của tình trạng nói trên là do sai lầm trong chính sách, chiến lược phát triển, trong đó nổi bật nhất là sự nóng vội trong việc áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa trong kinh tế ở miền Nam.
Nguy cơ thiếu ăn kéo dài và những khó khăn cùng cực khác làm phát sinh hiện tượng “phá rào” trong nông nghiệp, trong mậu dịch và trong việc quyết định giá cả lương thực đã cải thiện tình hình tại một số địa phương. Nhưng phải đợi đến đổi mới (tháng 12/1986) mới có biến chuyển thực sự. Do tình trạng đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam trong 10 năm trước đổi mới chỉ tăng 35%, trong thời gian đó dân số tăng 22%.3 Như vậy, GDP đầu người trung bình tăng chỉ độ 1%”[12]
Gia đình
Ông có hai người vợ:
- Bà Lê Thị Sương (25 tháng 12 năm 1910 – 6 tháng 8 năm 2008)[13] kết hôn năm 1929 ở quê. Có bốn người con:
- Lê Hãn (sinh 1929), tên thường dùng là Lê Thạch Hãn, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Quản lý các nhà trường Quân đội, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nghỉ hưu; Ông Lê Hãn cưới bà Nguyễn Khánh Nam (con gái đầu lòng của ông Nguyễn Khánh Mỹ, Vụ trưởng Vụ khu vực I, phụ trách các nước XHCN, Bộ Ngoại thương lúc bấy giờ – NV) và có 3 người con: Lê Khánh Hải hiện là Thứ trưởng thường trực bộ VHTT và Du lịch, Lê Khánh Hưng và Lê Ngọc Hiếu.
- Lê Thị Cừ có chồng là Lê Bá Tôn (Cán bộ lãnh đạo của Bộ Công nghiệp nặng).
- Lê Tuyết Hồng có chồng là Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại;
- Lê Thị Diệu Muội (1940-2008), Phó Giáo sư, Tiến sĩ sinh vật học.
- Bà Nguyễn Thụy Nga (tên thường gọi Nguyễn Thị Vân hoặc Bảy Vân),[14] kết hôn năm 1950 tại miền Tây Nam Bộ, do Lê Đức Thọ làm mối, Phạm Hùng làm chủ hôn. Sau 1975, bà Nga làm Phó ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang, Phó Tổng Biên tập Phụ trách Hành chính trị sự của Báo Sài Gòn Giải phóng. Hiện bà sống ở Thành phố Hồ Chí Minh. Hai người có ba người con:
- Lê Vũ Anh, kết hôn với giáo sư toán học Viktor Maslov người Nga ở Moskva, mất năm 1981 do băng huyết khi sinh đứa con thứ ba (là con trai); cả 3 người con của bà sau này đều lớn lên và ăn học ở Nga, nhưng hiện tại đều làm việc tại Anh.
- Lê Kiên Thành (sinh 1955), học kỹ sư hàng không tại Liên Xô, sau đó là Phó Tiến sĩ vật lý. Khi về nước chuyển ngành sang kinh doanh, đã từng là Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Kỹ thương Techcombank, hiện là Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Xây dựng và phát triển đô thị; Chủ tịch HĐQT Công ty CP Chế biến Thực phẩm Thái Minh; chủ một sân golf và là Phó Chủ tịch thường trực Hội Golf Việt Nam. Ông còn là thành viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh.
- Lê Kiên Trung (sinh 1958), Cục trưởng Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh (từ tháng 12 năm 2007). Hiện là Thiếu tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh II – Bộ Công an (2011).
Tư tưởng
Chủ nghĩa dân tộc
Trong suốt 26 năm, với cương vị là Bí thư thứ nhất và sau đó là Tổng Bí thư, Lê Duẩn đã để lại nhiều di sản với lịch sử Việt Nam. Ông có công lao trong sự nghiệp giải phóng và thống nhất dân tộc cũng như ý chí kiên cường, tinh thần cảnh giác trong việc chống lại chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc. Theo một số nhận định, Lê Duẩn luôn có tự tin khi đứng trước những nhà lãnh đạo Trung Quốc, ông từng nói: “Chúng ta muốn thắng Mỹ, có một điều rất quan trọng là chúng ta phải không được sợ Mỹ, nhưng cũng không được sợ Trung Quốc và không được sợ Liên Xô”. Cả Bộ Chính trị vỗ tay hoan hô ý kiến đó, tuy nhiên những văn bản họp Bộ Chính trị khi đó hầu như chưa được công bố, khiến những câu chuyện về tinh thần dân tộc của Lê Duẩn không thực sự được biết rộng rãi trong dân chúng[15]
Khi còn sống, theo một số nhận định, Lê Duẩn lúc nào cũng cho rằng hiểu Trung Quốc là chuyện sống còn của dân tộc Việt Nam. Trong suốt chiến tranh chống Mỹ, rất nhiều lần Trung Quốc muốn dùng những khoản viện trợ để lồng ghép vào đó những toan tính riêng của họ, nhưng Lê Duẩn không nhận bất cứ một khoản viện trợ nào mà ông cho là có nguy cơ đối với nền độc lập của Việt Nam. Một nhà nghiên cứu về quan hệ Việt Nam với Trung Quốc đã từng nhận xét về ông: “Với Tổng Bí thư Lê Duẩn, cái gì nhịn được thì nhịn, nhưng ông tuyệt đối không bao giờ nhượng bộ những điều quá đáng, nguy hại cho an ninh quốc gia”. Vì tư tưởng này, Lê Duẩn đã trở thành lãnh đạo Việt Nam làm Trung Quốc “gai mắt” trong giai đoạn ấy.
Trong cuốn “Đằng sau tấm màn tre – Trung Quốc, Việt Nam và Thế giới ngoài châu Á”, do Priscilla Roberts biên tập, Trung tâm Woodrow Wilson và Đại học Stanford xuất bản năm 2006, có nói về việc Lê Duẩn từ chối nhận viện trợ quân sự của Trung Quốc: “Sau đó ông ấy [Mao Trạch Đông] bắt ta (Việt Nam) tiếp nhận hai vạn quân, đến để làm đường từ Nghệ An, Hà Tĩnh vào Nam. Tôi (Lê Duẩn) từ chối. Họ vẫn liên tục yêu cầu nhưng tôi không thay đổi ý kiến. Họ bắt tôi phải cho họ vào nhưng tôi không chấp nhận. Họ tiếp tục gây áp lực nhưng tôi vẫn không đồng ý. Các đồng chí, tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy được âm mưu lâu dài của họ là muốn cướp nước ta, và âm mưu của họ xấu xa tới chừng nào.”[16]
Con trai Lê Duẩn kể lại: “Như cha tôi lúc còn sống luôn nói rằng, khi người ta đã yêu đất nước đến vô cùng, đến mức trái tim chỉ có thể đập vì nó, thì họ sẽ luôn tìm được con đường đúng nhất. Một lần, khi ghé thăm cửa khẩu Hữu Nghị, nơi được coi là biểu tượng hàn gắn của mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau giai đoạn chiến tranh, tôi đã thấy ở nơi trưng bày những kỷ vật về mối quan hệ hai nước, có tất cả những tấm ảnh lãnh đạo Việt Nam qua nhiều thế hệ, trừ cha mình. Trong sâu thẳm, tôi tự hào về điều đó: Cha tôi, Tổng Bí thư Lê Duẩn là người quyết bảo vệ đến cùng từng tấc đất ở đây. Trái tim ông đã xui khiến ông hành động như thế.”[17]
Tư tưởng về văn hóa
Lê Duẩn đọc rất nhiều và luôn suy nghĩ. Ông đọc vào mọi dịp, đọc trong nhà tù, đọc khi đi nghỉ ở nước ngoài, đến lúc tuổi cao sức yếu vẫn say mê đọc. Trong điều kiện những năm 1980 trở về trước, ít người tham khảo Bách khoa toàn thư Pháp hay Kinh Coran của đạo Hồi để làm công tác như Lê Duẩn. Theo ông “để làm việc với các tín đồ đạo giáo, cần hiểu đúng tôn giáo của họ”
Đến thăm học viên là cán bộ trung, cao cấp đang nghiên cứu Lịch sử Đảng, trao đổi với anh em ở hành lang, Lê Duẩn nói: “Theo tôi, bài học lớn nhất của Đảng ta là phải độc lập suy nghĩ, giải quyết các vấn đề của cách mạng Việt Nam trên cơ sở đánh giá đúng tình hình thực tế của Việt Nam”
Những năm 1960, Lê Duẩn phát biểu: “Để hiểu việc, con người dùng lý lẽ, lý trí, nhưng khi hành động phải có tình cảm… Cách mạng tư tưởng và văn hóa gắn tình cảm với lý trí. Nói nghệ thuật là nói quy luật riêng của tình cảm. Nghệ thuật vận dụng quy luật của tình cảm”. Đầu những năm 1980, Ban Tuyên huấn Trung ương tổ chức Hội nghị tập huấn tổng biên tập các báo địa phương, ông nói: “Làm báo là làm công tác khoa học, đồng thời là làm nghệ thuật”[18].
Làm chủ tập thể
Tư tưởng “làm chủ tập thể trên lập trường giai cấp vô sản” lần đầu được Lê Duẩn đưa ra vào tháng 6 năm 1965, và nhiều bài phát biểu về sau, ông phân tích:
“Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, động lực đó là lợi nhuận. Lợi nhuận là động lực của cách mạng kỹ thuật, của các cuộc xâm chiếm thuộc địa, mở rộng thị trường, của việc mở rộng nền sản xuất lớn, v.v.. Lợi nhuận là nhân tố kích thích mạnh mẽ nhất sự phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa, là cái mà hằng giờ hằng phút bọn tư bản suy nghĩ đến”. Còn trong chế độ xã hội chủ nghĩa “Tất cả những người lao động đều phải lấy việc sản xuất của cải vật chất nhiều hay ít làm thước đo sự cống hiến của mình vào nền sản xuất xã hội; vì vậy, chúng ta phải thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Nguyên tắc đó là một động lực thúc đẩy nền sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhưng nhân tố thường xuyên, mạnh mẽ thúc đẩy tính tích cực sản xuất của quần chúng công nông là ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần làm chủ tập thể của họ”.”Xây dựng tư tưởng tập thể xã hội chủ nghĩa có nghĩa là chống chủ nghĩa cá nhân, và chống chủ nghĩa cá nhân là để xây dựng tư tưởng tập thể xã hội chủ nghĩa”.[19]
“Xây dựng chế độ làm chủ tập thể là xây dựng nước ta thành một xã hội trong đó người chủ chân chính, tối cao là cộng đồng xã hội, là tập thể nhân dân lao động có tổ chức, mà nòng cốt là liên minh công nông. Nội dung của làm chủ tập thể là làm chủ toàn diện, là làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; là làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân; là làm chủ trong cả nước, trong từng địa phương và từng cơ sở; là trên cơ sở làm chủ đầy đủ của tập thể, của cộng đồng xã hội mà bảo đảm tự do cũng đầy đủ cho mỗi người; và ngược lại “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.[20] Phải phát động quần chúng, phải tuyên truyền giáo dục, làm cho mọi công dân Việt Nam từ em bé đến cụ già, nhất là tầng lớp thanh niên hiểu rằng họ là người chủ của nước Việt Nam, rằng tất cả của cải, tài nguyên của đất nước này đều thuộc về tập thể nhân dân, thuộc về những thế hệ hôm nay và cả những thế hệ ngày mai. Họ phải làm tròn nghĩa vụ của người làm chủ đất nước, đồng thời họ có đầy đủ những quyền của người làm chủ: quyền làm việc, học hành, vui chơi, quyền phát biểu ý kiến về bất cứ vấn đề gì của Nhà nước nhằm mưu cầu sự giàu có cho đất nước và hạnh phúc cho đồng bào; không ai được áp bức, ép buộc họ.[21]
“Chế độ làm chủ tập thể hơn hẳn mọi nền dân chủ trong lịch sử. Nó không phải là dân chủ của một số ít người, cũng không phải là dân chủ cho từng cá nhân riêng lẻ. Nó thể hiện vai trò làm chủ tập thể của cả cộng đồng xã hội của từng tổ chức và của từng người trong cộng đồng. Kết hợp chặt chẽ lợi ích của toàn xã hội với lợi ích của tập thể và lợi ích của mỗi người, nó bảo đảm cho cả cộng đồng xã hội cũng như từng tổ chức trong cộng đồng phát triển một cách tốt nhất, đồng thời bảo đảm tự do đầy đủ nhất cho mỗi thành viên của xã hội…Làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa có hai mặt: toàn xã hội làm chủ tập thể và từng người một làm chủ tập thể. Cả xã hội làm chủ và từng người một làm chủ, làm chủ tập thể và cá nhân có đầy đủ tự do, hai cái đó thống nhất với nhau, không hề có mâu thuẫn…Làm chủ tập thể là làm chủ cả về chính trị, kinh tế, văn hoá…Làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên và làm chủ bản thân”.[22]
“Trong chế độ làm chủ tập thể, mọi người lao động không thụ động tiếp nhận và hưởng thụ các quyền dân chủ từ một quyền lực bên ngoài mang đến, mà tự giác và chủ động đóng vai người làm chủ thật sự về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Nhân dân lao động tự mình thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình bằng một cơ cấu tổ chức hợp lý, bằng một chế độ sản xuất và phân phối hợp lý, bằng những phong trào cách mạng liên tục, sôi nổi của hàng chục triệu người. Chế độ làm chủ tập thể thực hiện trong cả nước, trong từng địa phương, từng cơ sở, gắn chặt làm một lợi ích của cá nhân với lợi ích của tập thể và của toàn xã hội. Đối với mỗi con người, chế độ làm chủ tập thể bảo đảm sự phát triển toàn diện nhất, những quyền lợi đầy đủ nhất đi đôi với những nghĩa vụ cao cả mà mọi người phải làm trọn.[23]
“Chỉ có chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa mới giải quyết đúng mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân. Ở đây, vừa thiết lập sự làm chủ tập thể của cả cộng đồng xã hội Việt Nam, vừa phát huy cao độ quyền tự do chân chính của cá nhân, khơi dậy mọi năng lực sáng tạo của cá nhân, thống nhất hài hoà cá nhân với xã hội.[24] Thiết lập chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động là mục đích của chủ nghĩa xã hội, đồng thời đó là một động lực quan trọng của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Làm chủ tập thể xã hội là một quá trình phát triển từ thấp đến cao, trước hết là làm chủ về chính trị tiến lên làm chủ về kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó làm chủ về kinh tế là quan trọng nhất.[25]
Lê Duẩn cũng giải thích thêm: “Chủ nghĩa xã hội không xóa bỏ tất cả những cái riêng của mọi người, nhưng mỗi người phải tham gia vào cái chung, phải phục vụ cái chung, vì cái chung… Chủ nghĩa xã hội không bao giờ chủ trương xóa bỏ quyền lợi cá nhân, mà chỉ làm sao cho quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể nhất trí với nhau. Ta khuyến khích mỗi người cố gắng tiến lên để đời sống chung và riêng được khá hơn… Hơn nữa, hiện nay về mặt kinh tế, phần cá thể vẫn còn là một nguồn sống của mỗi con người chúng ta”. Trong khi coi trọng cái riêng, quyền lợi cá nhân, ông cũng phê phán tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ, cục bộ[6].
Trong bài phát biểu tại Hội nghị lần thứ tám BCHTW khóa IV ông cho là chế độ làm chủ tập thể do các nhà kinh điển nêu ra, nhưng tại Hội nghị lần thứ tám TW khóa V, ông nói Mác, Lênin chưa nói đến, nhưng Việt Nam đang làm trong thực tế. Sau Đổi mới, đường lối làm chủ tập thể không còn được nhắc đến trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước.
Phát ngôn
“ |
Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta[26][27] |
” |
“ |
Thưa Bác, chúng ta muốn thắng Mỹ, có một điều rất quan trọng là chúng ta phải không được sợ Mỹ, nhưng cũng không được sợ Trung Quốc và không được sợ Liên Xô[28] |
” |
Khi Trung Quốc đề nghị viện trợ 500 chiếc xe vào Trường Sơn với điều kiện kèm lái xe của họ, Lê Duẩn không đồng ý nhận bất cứ một chiếc xe nào vì tin rằng Trung Quốc lồng ghép vào đó những toan tính riêng của họ. Có người trong Bộ Chính trị đề nghị “sao không nhận một vài chiếc cho người ta vui?”, nhưng ông trả lời:
“ |
Chừng nào tôi còn ngồi đây, thì tôi không cho một kẻ nào nghĩ trong đầu rằng có thể cướp được đất nước Việt Nam này[15] |
” |
“ |
Chính trị là nghệ thuật về các khả năng[29] |
” |
- Lúc sinh thời, nhân dịp Tết 1976, Lê Duẩn từng tuyên bố rằng:
“ |
Trong vòng mười năm nữa, mỗi gia đình ở Việt Nam sẽ có một radio, một TV và một tủ lạnh |
” |
—Lê Duẩn (Tết 1976) [30] |
- Nhắc đến mẹ mình, ông nói:
“ |
“Tôi thương mẹ tôi, vì vậy bây giờ ở Hà Nội ngày nào tôi cũng ăn thêm vài củ khoai lang để nhớ mẹ tôi…“[31] |
” |
Khi Lê Duẩn yêu cầu thành ủy Hà Nội bán chịu bàn ghế, giường tủ cho công nhân viên, thanh toán bằng cách trừ lương hàng tháng nhưng không được thi hành, ông tức giận nói:
“ |
Tôi hỏi thì nói không có tiền. Kìa, không có thì in ra! In ra! Không sợ lạm phát! Tư bản đế quốc in tiền mới lạm phát chứ ta, chuyên chính vô sản thì sao lại là lạm phát mà sợ?[32] |
” |
- Năm 1976, khi về thăm quê ở làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, Quảng Trị, khi thấy người dân đang luộc khoai mì đón Tết ông nói:
“ |
“Mồng 1 tết mà tôi đến thăm nhà nào cũng thấy luộc sắn. Bà con ta còn nghèo quá! Trong đời hoạt động cách mạng, tôi đã chịu nghèo khổ, nhưng bây giờ đất nước đã được thống nhất, phải lo làm sao để cho dân giàu lên. Phấn đấu để đồng bào ta, các ông bà già, trẻ con mỗi bữa có một quả trứng, một cốc sữa mà rất khó.“[31] |
” |
- Năm 1976, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn tuyên bố:
“ |
“Chế độ ta là chế độ chuyên chính vô sản. Chuyên chính trước hết phải là đường lối của giai cấp vô sản. Cốt tủy của chuyên chính vô sản là ở đó chứ không phải là ở chỗ sử dụng bạo lực. Đường lối đó là sự kết hợp lý luận Mác – Lê Nin với thực tiễn cách mạng của nước mình. Đường lối đó là khoa học nhất, là đúng quy luật, là bắt buộc. Đường lối đó không hề nhân nhượng với ai, chia sẻ với ai và hợp tác với ai cả. Đó là chuyên chính. Đường lối đó là: nhất thiết phải xóa bỏ giai cấp bóc lột, xóa bỏ chế độ sản xuất cá thể, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Nhất thiết phải làm thế, không cho phép ai đi ngược lại. Đó là chuyên chính. Đường lối đó nhất thiết phải là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Không ai được chống lại. Đó là chuyên chính. Đường lối đó là đường lối của giai cấp công nhân, không ai được chống lại. Ai chống lại những cái đó thì bị bắt. Đó là chuyên chính.” |
” |
-
- (Phát biểu của Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25, Văn Kiện Đảng Toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 37- 1976, trang 403-404)
- Ngày 13-3-1977, tại trường Nguyễn Ái Quốc, Tổng Bí thư Lê Duẩn nói:
“ |
“Loài người cho đến nay đã có ba phát minh vĩ đại có ý nghĩa bước ngoặt của lịch sử. Thứ nhất là tìm ra lửa. Thứ hai là tìm ra cách sử dụng kim khí. Thứ ba là làm chủ tập thể.“ |
” |
-
- (“Bài nói của đồng chí Lê Duẩn tại lớp chính trị Trung cao cấp ngày 13-3-1977 tại trường Nguyễn Ái Quốc”, Hồ sơ lãnh tụ Lê Duẩn, lưu trữ tại kho Lưu trữ Học viện Quốc gia Hồ Chí Minh)
Đánh giá
Tại Việt Nam
Theo quan điểm của các nhà lãnh đạo đảng và các học giả trong nước đóng góp nổi bật của ông là năm 1939, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, ông đã góp phần cho sự ra đời của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương (11-1939) – chuyển hướng đấu tranh cách mạng; chỉ đạo kháng Pháp tại miền nam trong đó đáng chú ý là “Xứ ủy Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của Lê Duẩn thực hiện chính sách ruộng đất “người nông dân có ruộng cày” không phải thông qua cuộc phát động tước đoạt bằng bạo lực, tiến hành đấu tố, cưỡng bức địa chủ; mà bằng chủ trương và biện pháp đúng đắn, thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của Nam Bộ lúc ấy“,[33] đặc biệt vai trò lớn của ông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam. Chính ông là người viết “Đề cương cách mạng Miền Nam’ (sau được thể hiện đầy đủ trong Nghị quyết 15 (Khóa Hai) của đảng tháng 1-1959). Theo ông Võ Văn Kiệt: “Đề cương Cách mạng miền Nam” được đồng chí Lê Duẩn hoàn thành vào tháng 8 năm 1956 ngay tại Sài Gòn, ở số nhà 29 đường Huỳnh Khương Ninh, quận 1 Sài Gòn, nay là Tp. HCM.”.[34] Ý kiến chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam coi Lê Duẩn có tầm nhìn chiến lược, có đóng góp nhiều cho đường lối chính trị quân sự của Đảng, nhất là trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân và chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 [35][36]
Giáo sư Kinh tế Đặng Phong nhận xét về Lê Duẩn: “Thí dụ khi nói về ông Lê Duẩn và các chủ trương làm chủ tập thể, xây dựng cấp huyện… thì rõ ràng đó là các sai lầm gây thiệt hại rất lớn cho nền kinh tế. Nhưng tôi vẫn kính trọng ông Duẩn là một nhà tư duy lớn, còn những gì sai thì sau đó phải sửa, có gì là xúc phạm đâu?“.[37]
Theo Giáo sư Tương Lai trích lại lời Giáo sư Trần Phương, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ: “Năm 1985, anh là người ghi vào Nghị quyết của Bộ Chính trị: “Chấp nhận kinh tế nhiều thành phần”. Đó là những con chữ quan trọng để tạo đà cho Đại hội VI Đổi Mới… Tầm nhìn xa của anh Ba về kinh tế, những viên gạch anh lát cho con đường đổi mới, không nhiều người biết tới. Nhưng điều đó cũng phù hợp với con người Anh. Chỉ cần mình làm điều tốt cho Đảng, cho dân mà không cần nghĩ rằng có được ghi nhận hay không“. Theo GS Tương Lai: “Đáng tiếc là, những tư tưởng lóe sáng trong tư duy của nhà lý luận ấy đã bị chìm đi trong vô vàn những bức xúc hàng ngày của thực trạng kinh tế đang trong cái thế giằng co giữa cái cũ và cái mới. Ông không thể không gánh chịu trách nhiệm về những hậu quả nặng nề của sự vận dụng những công thức giáo điều trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu Stalin hoặc của tư tưởng giáo điều “tả” khuynh khác, mặc dầu ông đã cố gắng để vượt ra khỏi những áp đặt“.[38]
Giáo sư Trần Phương có thuật lại: “Tôi nhớ có lần, vào một buổi sáng, khi nhóm trợ lý chúng tôi đang họp, anh Ba đi vào “quẳng” xuống bàn chúng tôi một tờ báo và nói: “Các anh đọc đi!”. Rồi anh nhếch mép cười, đi ra… Chúng tôi cầm tờ báo lên: Trên trang nhất là một bài dài phê phán anh Kim Ngọc và quan điểm khoán hộ của anh. Có lần, tôi hỏi Anh: “Tại sao Anh không công khai phản bác lại quan điểm bảo thủ của bài báo…”. Anh nói: “Quan trọng nhất là phải giữ sự đoàn kết trong Đảng…“. Ông Trần Phương cũng cho rằng: “Ai đó đã nói rằng anh Ba không bảo vệ được Kim Ngọc là không đúng. Sau bài báo đó, Kim Ngọc vẫn là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú.”.[39] Theo những người trợ lý thân cận nhất của ông kể lại thì thái độ của ông đối với khoán ở Vĩnh Phúc (1966-1968) khác với nhiều người lúc đó. Nhưng ông chưa kịp can thiệp thì đã có lệnh đình chỉ Bản mẫu:Ai ra lệnh, mà đã có lệnh rồi thì không thể đảo ngược lại được. Ông Đậu Ngọc Xuân là trợ lý của ông kể lại: Khi khoán Vĩnh Phúc đã bị đình chỉ, ông chỉ còn biết lên thăm Kim Ngọc và bày tỏ sự đồng tình với những tìm tòi của Kim Ngọc, an ủi về việc những sáng kiến quá mới như thế thường không dễ đi ngay vào cuộc sống…[40]
Theo lời của Trần Phương, Lê Duẩn từng nói với ông: “Cầm quyền mà không lo nổi cho dân một bộ quần áo thì cầm quyền là nghĩa thế nào? Anh muốn làm gì thì làm nhưng phải lo đủ cho người dân một bộ quần áo… Tôi vẫn nhớ, có lần trong những năm 60, trong một cuộc họp ở Đồ Sơn, Anh đã nổi nóng với Chính phủ: “Chúng ta cầm quyền mà không lo nổi rau muống và nước lã cho dân thì nên từ chức đi…”. Anh Tô (Phạm Văn Đồng) không nói một lời. Tôi rất thông cảm với Anh về cái khó của Chính phủ. Muốn có rau muống thì phải có gạo. Muốn có nước lã (nước máy) thì phải có ngoại tệ. Cả hai thứ đó, Chính phủ đều gặp khó khăn“.[39]
Một nhà nghiên cứu ai? về quan hệ Việt Nam với Trung Quốc đã từng nhận xét về ông: “Với Tổng bí thư Lê Duẩn, cái gì nhịn được thì nhịn, nhưng ông tuyệt đối không bao giờ nhượng bộ những điều quá đáng, nguy hại cho an ninh quốc gia”.[15]
Từ bên ngoài
Pierre Asselin từng nhận xét về Lê Duẩn: “Ông khao khát quyền lực tuyệt đối. Thông qua việc cô lập ông Hồ, ông Giáp và các đồng minh của họ trong đảng, ông Lê Duẩn đã thiết lập một bộ máy lãnh đạo ở Hà Nội không chỉ trung thành mà còn chung quyết tâm hoàn tất các mục tiêu cách mạng”.[41] Tuy nhiên Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc phủ nhận cách nhìn này, theo đó vai trò của Tướng Giáp bị làm lu mờ bởi những thành viên Bộ Chính trị trong giai đoạn cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông cũng cho rằng không hề có một sự phân chia ê-kíp trong nội bộ Bộ Chính trị lúc bấy giờ, mà theo đó Tướng Giáp được cho là thuộc phái “chủ hoà”.[42] Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng viết rằng: “Với tôi, những năm công tác trong Bộ Chính trị, Anh đã thường xuyên trao đổi ý kiến, thường là nhanh chóng đi đến nhất trí trong những vấn đề lớn; khi có ý kiến khác nhau thì tranh luận thẳng thắn, những điều chưa nhất trí thì chờ thực tiễn kiểm nghiệm. Lúc mới ra Bắc, Anh thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc… Từ sau Đại hội III và Đại hội IV, tôi đã ba lần đề nghị Anh là Tổng Bí thư kiêm luôn Bí thư Quân ủy Trung ương, nhưng Anh nói: “Anh là Tổng chỉ huy lâu năm nên tiếp tục làm Bí thư Quân ủy Trung ương, như vậy có lợi cho lãnh đạo“.[43]
David Elliott, trong quyển sách The Vietnamese War (2003), phê bình chính sách kinh tế của những người cộng sản giai đoạn 1976-1986, mà đứng đầu là Lê Duẩn, ông cho rằng “họ thường là những người cứng rắn, giáo điều và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng. Nhưng đây không phải lúc nào cũng là những người đủ khả năng đưa Việt Nam đi tiếp trên đường phát triển.“[44]
Khi ông mất, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc khi đó đã điện “… Ngài Tổng Bí thư Lê Duẩn, người đã giữ một vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử của Việt Nam…”. (Điện của Tổng Thư ký liên hiệp quốc Javier Pérez de Cuéllar.[45]
Đường Lê Duẩn
Tên của ông được đặt cho các tuyến đường ở Hà Nội (nối Điện Biên Phủ với Giải Phóng), thành phố Hồ Chí Minh (từ Thảo Cầm Viên đến Dinh Độc lập), Đồng Hới ( nối Thànnh cổ với Quách Xuân Kỳ), Huế (nối Lý Thái Tổ với Trần Hưng Đạo), Đà Nẵng (nối cầu sông Hàn – Ngô Quyền với Điện Biên Phủ), Hải Phòng (nối Phan Đăng Lưu với Trường Chinh), Tuy Hòa (Nối đường Nguyễn Hữu Thọ với đường Bạch Đằng),…
Chú thích
- ^ “BBCVietnamese.com”. Truy cập 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ “BBCVietnamese.com”. Truy cập 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ “DCSVN”. Truy cập 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ a ă “Di tích Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn”. Cổng TTĐT tỉnh Quảng Trị. Truy cập 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ “Lập đền thờ ông Lê Duẩn ở Hà Tĩnh – BBC Vietnamese – Việt Nam”. Truy cập 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ a ă http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2012/15480/Dong-chi-Le-Duan-voi-van-de-con-nguoi-trong-van-hoa.aspx
- ^ “Những mẩu chuyện nhỏ về Bác Hồ và Ba tôi”. Báo Sài Gòn Giải Phóng Online. Truy cập 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ “Victory at Any Cost”. Google Books. Truy cập 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ “Tầm nhìn 20 năm và những bài học cho hôm nay”. Vietbao.vn. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ Theo cuốn Nhớ anh Lê Đức Thọ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006 tr. 347 thì việc cử Lê Đức Thọ đi dự Hội nghị Paris về Việt Nam được Hồ Chí Minh phê chuẩn[liên kết hỏng]
- ^ Cần được xem như chiến thắng chống ngoại xâm, Lao Động, 11 tháng 2, 2014
- ^ [http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai33/201533_TranVanTho.pdf Việt Nam 40 năm qua và những năm tới:Cần một nền kinh tế thị trường định hướng phát triển ], Trần Văn Thọ, tapchithoidai, số 33, tháng 7 2015
- ^ Tin buồn đăng trên báo Hà Nội mới số ra ngày 8/8/2008
- ^ Nguyễn Thụy Nga – một đời báo một đời người, Báo Quân đội Nhân dân, số ra ngày Thứ Hai, 14/06/2010[liên kết hỏng]
- ^ a ă â “Cố TBT Lê Duẩn: ‘Chúng ta không được phép sợ Trung Quốc!’”. Đọc báo, tin tức, thời sự với Báo Điện Tử Một thế giới. Truy cập 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ http://www.talawas.org/?p=26340
- ^ “Bài học về TQ trong ký ức con trai cố TBT Lê Duẩn”. Đọc báo, tin tức, thời sự với Báo Điện Tử Một thế giới. Truy cập 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ http://vov.vn/chinh-tri/tam-nhin-le-duan-204580.vov
- ^ Lê Duẩn: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, t.I, tr. 458 – 501
- ^ Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.37, tr.137-184
- ^ Lê Duẩn:Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Sự thật Hà Nội, 1980, t.3, tr. 481-502
- ^ Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.37, tr.332-408
- ^ Lê Duẩn: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t.3, tr. 617-636.
- ^ Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.41, tr.306-335
- ^ Lê Duẩn:Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984, t. 4, tr.412-437
- ^ Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Nxb. Văn Nghệ, 1997, tr. 422, phần chú thích
- ^ “Giải phóng miền Nam…”
- ^ Cố TBT Lê Duẩn: ‘Chúng ta không được phép sợ Trung Quốc!
- ^ “Lê Duẩn”. Truy cập 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ Stanley Karnow, Vietnam: A History (New York: Penquin, 1983), 683-84
- ^ a ă “13 năm làm cận vệ cho Tổng Bí thư Lê Duẩn”. Báo Công an Nhân dân Điện tử. Truy cập 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ Trần Đĩnh (2014). Đèn cù. Hoa Kỳ: Người Việt Books. tr. 184. ISBN 1629883999. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2015.
- ^ Trần Hữu Phước (28/09/2012). “Đồng chí Lê Duẩn – Nguồn sáng kỳ diệu của “ngọn đèn hai trăm nến””. Báo Cà Mau. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ Chính trị. “VietNamNet”. Vietnamnet.vn. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Trang chủ”. Báo điện tử Nhân Dân. Truy cập 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ “Tầm nhìn 20 năm và những bài học cho hôm nay”. Việt Báo. Truy cập 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ “BBCVietnamese.com”. Truy cập 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ Chính trị (15 tháng 1 năm 1955). “VietNamNet”. Vietnamnet.vn. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ a ă “VnEconomy – Business & financial news – Tin tức kinh doanh & tài chính”. Vneconomy.vn. 6 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Lê Duẩn qua một tài liệu mới tìm được — Dien Dan Forum” (bằng tiếng (tiếng Việt)). Diendan.org. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ “BBCVietnamese.com”. Truy cập 9 tháng 7 năm 2014.
- ^ “BBCVietnamese.com”. Bbc.co.uk. 25 tháng 8 năm 1911. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ trích từ sách “Lê Duẩn một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam” do NXB Chính trị quốc gia xuất bản 2002
- ^ “Kỳ 4: Một di sản gây tranh cãi”. BBC. 19 tháng 5 năm 2006.
- ^ Báo Nhân Dân số ra ngày 16/7/1986
Liên kết ngoài
Tiếng Việt
Tiếng Anh
Thể loại:
Simón Bolívar
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Simón Bolívar – Người Giải phóng
Simón Bolívar (tên đầy đủ: Simón José Antonio de la Santísima Trinidad Bolívar y Palacios, 1783 – 1830), là nhà cách mạng nổi tiếng người Venezuela, người lãnh đạo các phong trào giành độc lập ở Nam Mỹ đầu thế kỷ 19. Ông còn được mệnh danh là Người Giải phóng (tiếng Tây Ban Nha: El Libertador), George Washington của Nam Mỹ. Những cuộc chiến đấu do ông lãnh đạo đã lật đổ sự thống trị của Tây Ban Nha, giành độc lập cho sáu quốc gia ngày nay là: Venezuela, Colombia, Panama, Ecuador, Peru, và Bolivia.
Xuất thân và tuổi trẻ
Thời niên thiếu
Simón Bolívar sinh ngày 24 tháng 7 năm 1783 tại Caracas, Venezuela trong một gia đình quý tộc có nguồn gốc từ xứ Basque, Tây Ban Nha. Cha ông, đại tá Juan Vicente Bolívar y Ponte có dòng máu xa của vua xứ Castile Fernando III và bá tước vùng Savoy Amedeo IV, mẹ là bà María de la Concepción Palacios Blanco Simón. Dòng họ Bolivar định cư ở Venezuela từ thế kỷ XVI và việc sở hữu những mỏ vàng, mỏ đồng bên sông Aroa đã góp phần làm họ trở nên giàu có. Sau này, trong cuộc đời cách mạng của mình, Simón Bolívar đã dùng một phần thu nhập từ những mỏ vàng và đồng để tài trợ cho Những cuộc chiến tranh cách mạng Nam Mỹ. Bolívar mồ côi cha năm 3 tuổi (1786), mẹ ông vừa cai quản gia đình vừa đảm nhiệm việc giáo dục các con nhỏ. Năm 1792, khi Bolívar 9 tuổi, mẹ cũng mất, ông và người em trai được ông ngoại nuôi và dạy học. Sau khi ông ngoại mất, anh em Bolívar ở với chú, năm 12 tuổi, ông trốn đến nương nhờ nhà vợ chồng người chị María Antonia.
Học tập ở Caracas
Trong thời gian ở nhà người chị, ông được Simón Rodríguez (1769 – 1854), một hiệu trưởng trường tiểu học ở Caracas dạy dỗ. Giữa ông và người thầy nhân hậu đồng thời cũng là nhà nghiên cứu khoa học nhân văn, nhà cải cách xã hội này đã nảy sinh một mối quan hệ tốt đẹp và tồn tại suốt cuộc đời Bolívar vì ngoài kiến thức, giữa họ còn có sự đồng cảm sâu sắc. Sau đó, ông cũng đã từng theo học Andrés Bello (1781 – 1865), nhà nghiên cứu khoa học nhân văn, nhà lập pháp, nhà triết học, nhà giáo dục người Venezuela. Hai ông thầy nổi tiếng này đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Simón Bolívar. Năm 14 tuổi, ông gia nhập tiểu đoàn du kích ở thung lũng Aragua, nơi gia đình ông có nhiều tài sản và cha ông đã từng làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn này. Trong vòng một năm, ông được phong quân hàm thiếu uý và vừa luyện tập quân sự vừa học các môn cơ bản thời bấy giờ như toán học, vật lý, đồ bản,… tại trường học của dòng họ do một cha cố dòng tu Francis dạy.
Sang châu Âu
Năm 1799, Bolívar sang Madrid, Tây Ban Nha, ông miệt mài nghiên cứu lịch sử, văn học cổ điển và đương đại, toán học rồi bắt đầu học tập bằng tiếng Pháp. Ngoài ra ông còn học khiêu vũ và hùng biện. Bolívar nhanh chóng tiến bộ trong tất cả các môn học và qua các buổi khiêu vũ, ông làm giàu ngoại ngữ đồng thời trở nên tinh tế, tự tin trong giao tiếp. Ngày 26 tháng 5 năm 1802, Bolívar kết hôn với bà María Teresa Rodríguez del Toro y Alaysa rồi cả hai trở về Venezuela. Nhưng không lâu sau đó, tháng 1 năm 1803, María Teresa chết do nhiễm bệnh sốt vàng da. Cuối năm 1803, ông trở lại châu Âu, đi lại giữa Cadiz[1] và Madrid rồi sang Paris năm 1804.
Lời thề ở thành Rome
Ở Paris ông gặp gỡ các học giả, tham gia những cuộc thảo luận và lao vào nghiên cứu văn học rồi tình cờ gặp lại Simón Rodríguez, người mà với trí tuệ và kinh nghiệm của mình đã trở thành một diễn giả xuất sắc. Hai ông đã đi bộ xuyên qua vùng Savoy để sang Ý và ở Roma, vào một ngày tháng 8 năm 1805, Bolívar đã thề trước mặt người thầy rằng ông sẽ không bao giờ cho phép cánh tay mình nghỉ ngơi cũng như linh hồn mình chết đi chừng nào ước mơ giải phóng Nam Mỹ khỏi sự thống trị của người Tây Ban Nha chưa thực hiện được. Cuối năm 1806, khi nghe tin về những hoạt động của nhà cách mạng Francisco de Miranda[2], Bolívar quyết định trở về nước.
Sự nghiệp giải phóng Nam Mỹ
Hoạt động cách mạng ở Venezuela và sứ mệnh ngoại giao
Ông đáp một con tàu dừng chân ở Charleston rồi đi qua nước Mỹ về đến Venezuela giữa năm 1807. Ở quê nhà, ông cùng với em trai và những người bạn gần gũi suy tính, bàn bạc về quá trình giành độc lập cho Venezuela. Lúc này Joseph Bonaparte được Napoleon lập làm vua Tây Ban Nha và những thuộc địa. Năm 1808, Bolívar tham gia “quân đội kháng chiến” ở Nam Mỹ. Ngày 19 tháng 4 năm 1810, quân đội kháng chiến Caracas tuyên bố độc lập, chính phủ quân sự cử Bolívar đi làm đại diện tại Anh, cùng đi có Luis López Méndez và Andrés Bello. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ngoại giao ông trở về nước cuối năm 1810 [3]. Trở lại vị trí của mình trong Hội những người yêu nước Caracas Bolívar, trở thành một trong những diễn giả nhiệt tình nhất cho độc lập. Tháng 5 năm 1811, cơ quan lập pháp đã tuyên ngôn độc lập. Bolívar gia nhập quân đội, được phong quân hàm đại tá và tham gia cuộc đột kích Valencia[4] theo lệnh của Miranda năm 1811. Năm 1812, bất chấp những nỗ lực của ông, thành phố Puerto Cabello[5] thất thủ do có sự phản bội. Tháng 7 năm 1812, tướng Miranda đầu hàng người Tây Ban Nha. Ở thành phố cảng La Guaira[6] Một nhóm sỹ quan trong đó có Bolívar định bắt giữ Miranda nhưng không thành công. Ông quyết định tự cứu lấy bản thân mình và với sự giúp đỡ của một người bạn, ông có được hộ chiếu để đến Curazao rồi Cartagena de Indias[7]. Ở Cartagena de Indias ông đã viết Tuyên ngôn Cartagena, một trong những tác phẩm quan trọng nhất của mình, ở đó những lý tưởng chính trị đã được định hình và là kim chỉ nam cho những hành động của Bolívar sau này.
Chiến tranh cho đến chết
Ngày 14 tháng 5 năm 1813, dẫn đầu một đội quân nhỏ, Bolívar vượt sông Magdalena[8] và bắt đầu chiến dịch giải phóng Venezuela. Ngày 23 tháng 5 năm 1813, Bolívar tiến vào thành phố Mérida[9] và nhân dân ở đây là những người đầu tiên gọi ông là Người Giải phóng, ngày 9 tháng 6, Bolívar chiếm thành phố Trujillo[10]. Ngày 15 tháng 6 năm 1813, ông đọc bản mệnh lệnh nổi tiếng “Chiến tranh cho đến chết”. Bằng một loạt những trận đánh thông minh, sau 3 tháng, quân đội của Bolívar đã tiến vào Caracas ngày 6 tháng 8 năm 1813[11]. Chiến dịch đó sau này được gọi là “Chiến dịch thần diệu”. Tháng 10 năm 1813, trong một buổi lễ long trọng, chính quyền và nhân dân Caracas đã chính thức tặng cho ông danh hiệu đã đi vào lịch sử “Người Giải phóng”. Sau khi tiến vào Caracas, Bolívar tuyên bố thành lập nền Cộng hoà Venezuela thứ hai. Sau đó Bolívar tiếp tục tiến hành nhiều trận đánh và mặc dù giành được những thắng lợi quan trọng, ông và tướng Santiago Mariño (người đã giải phóng miền đông Venezuela) chịu thất bại trước đội quân đông đảo hơn gấp nhiều lần của tướng bảo hoàng José Tomás Boves. Sau thắng lợi của Boves trong trận đánh La Puerta (tháng 6 năm 1814), nền cộng hoà sụp đổ, những người đòi độc lập buộc phải sơ tán hàng loạt khỏi Caracas về phía đông. Cảm thấy quyền lực của mình và tướng Mariño bị thách thức bởi chính những người đồng hành, ông sang Nueva Granada[12]. Tại đây, Bolívar chỉ huy Quân đội quốc gia Colombia tiến vào Bogotá năm 1814 và sau đó dự định đến Cartagena để tìm kiếm sự ủng hộ của người dân địa phương nhằm chiếm thành phố Santa Marta[13]. Tuy nhiên sau những xung đột quân sự và chính trị với chính quyền thành phố Cartagena, tháng 5 năm 1815, Bolívar từ bỏ binh quyền để tránh một cuộc nội chiến.
Tái sinh nền cộng hoà ở Venezuela
Sau khi lánh sang Jamaica, từ tháng 5 đến tháng 12 năm 1815, Bolívar kiên nhẫn chờ đợi thời cơ để tiến hành những cuộc chiến đấu mới. Chính vì thế, ông nghiền ngẫm về số phận của Mỹ Latin và tháng 9 năm ấy viết “Bức thư Jamaica” nổi tiếng. Trong đó, với nhận thức sâu sắc cũng như cái nhìn tiên tri, ông đã đánh giá quá khứ, hiện tại và tương lai của lục địa này. Sự thất bại của Napoleon ở châu Âu và một đội quân Tây Ban Nha hùng mạnh do tướng Pablo Morillo dẫn đầu kéo đến Venezuela đã hâm nóng nhiệt tình của phe bảo hoàng. Bolívar, sau khi thoát khỏi một âm mưu ám sát đã đến Haiti nhằm tìm kiếm nguồn tài chính để tiếp tục cuộc chiến đấu, tổng thống Haiti, Alejandro Petion đã cho ông vay tiền. Đội quân viễn chinh do Bolívar dẫn đầu đến đảo Margarita[14] năm 1816 và nhanh chóng đổ bộ vào lục địa. Sau khi tấn công chiếm được Carúpano[15], ngày 2 tháng 6 năm 1816, Bolívar ra sắc lệnh giải phóng nô lệ. Trong khi đội quân đang tiến về Ocumare de la Costa[16], thì Bolívar bất ngờ bị tách khỏi bộ phận chủ yếu của quân đội và buộc phải trở lại Haiti. Ông tổ chức một đội quân thứ hai tiến về đến đảo Margarita cuối năm 1816. Đầu năm 1817, Bolívar dự định chiếm vùng Guayana[17] để làm bàn đạp giải phóng hoàn toàn Venezuela và đến tháng 7 năm 1817, ông chiếm được thủ phủ Angostura (ngày nay là Ciudad Bolívar) của vùng này. Bolívar thành lập một nhà nước mới, lập ra bộ máy chính quyền và cho xuất bản một tờ báo. Cuộc chiến đấu của ông không những diễn ra đối với quân Tây Ban Nha mà còn đối với những mầm mống vô chính phủ trong vùng. Tháng 10 năm 1817, sau một cuộc diễn tập, tướng Manuel Piar, một trong những lãnh đạo của những người cộng hòa bị xử bắn ở Angostura. Trong thời gian này, Bolívar ra sắc lệnh về Luật phân phối của cải quốc gia. Năm 1818, ông bất ngờ đột kích quân đội bảo hoàng của tướng Morillo ở thành phố Calabozo [18] nhưng quân đội cộng hòa bị đánh bại, Bolívar suýt nữa bị quân đội bảo hoàng giết chết. Ông trở về Angostura ngày 5 tháng 6 năm 1818 và lúc đó, đại diện ngoại giao của Mỹ cùng với một đội quân của những người châu Âu tình nguyện đã tới đây. Bolívar triệu tập Nghị viện Venezuela đệ nhị ở Angostura ngày 15 tháng 2 năm 1819 và đọc một bài diễn văn có vai trò quan trọng trong tư tưởng chính trị của ông đồng thời đệ trình dự thảo Hiến pháp.
Sáng lập Đại Colombia, tiến về Caracas
Trận Boyacá (17/8/1819) – Tranh vẽ của Venezuela thế kỷ XIX
Không lâu sau đó, Bolívar mở chiến dịch giải phóng Nueva Granada. Quân đội của ông vượt qua dãy Andes, sau những trận đánh ác liệt tại Gameza[19] ngày 12 tháng 7 và Pantano de Vargas[20] ngày 25 tháng 7, Bolívar đã giành chiến thắng quyết định trong trận Boyacá ngày 7 tháng 8 năm 1819. Ông tiến vào Bogotá và sau khi trao quyền chỉ huy ở Nueva Granada cho tướng Francisco de Paula Santander, Bolívar trở về Angostura. Ở đó, theo đề nghị của ông, tháng 12 năm 1819, Nghị viện đã ban hành Hiến pháp Cộng hoà Colombia. Đất nước vĩ đại do Bolívar sáng lập này gồm các nước cộng hoà Venezuela, Colombia, Ecuador và Panamá. Quân đội cộng hoà đã giành được ưu thế ở mọi nơi: Cartagena bị vây hãm, Mérida và Trujillo được giải phóng. Sau cuộc Cách mạng giải phóng nổ ra ở Tây Ban Nha tháng 1 năm 1820, chính phủ mới của Tây Ban Nha cố gắng đạt được một hiệp định hoà bình và ở Trujillo, tháng 11 năm 1820 hai bên đã ký kết một thoả thuận ngừng bắn cùng với bản điều ước về chiến tranh. Sau khi thoả thuận ngừng bắn hết hiệu lực, quân đội cộng hoà bắt đầu hành quân hướng về Caracas. Ngày 24 tháng 6 năm 1821, trên bình nguyên Carabobo Bolívar đã giành thắng lợi trong một trận đánh đánh dấu sự khai sinh ra nền độc lập của Venezuela. Tàn quân của quân đội bảo hoàng lẩn trốn tại Puerto Cabello và cuối cùng tan rã năm 1823. Ngày 29 tháng 6 năm 1821, Người Giải phóng tiến vào thành phố quê hương trong sự chào đón hân hoan của nhân dân.
Giải phóng Ecuador
Bolívar giờ đây hướng tới Ecuador, nơi vẫn còn nằm dưới sự thống trị của người Tây Ban Nha. Ông tiến qua Maracaibo, Cúcuta [21] rồi tiến đến Bogotá. Năm 1822, hai cánh quân, mũi phía bắc do Bolívar chỉ huy, mũi phía nam xuất phát từ Guayaquil [22] do tướng Antonio José de Sucre chỉ huy bắt đầu tấn công giải phóng Quito. Sau chiến thắng của tướng Sucre của trong trận Pichincha[23] ngày 24 tháng 5 năm 1822, Ecuador được giải phóng và hợp nhất vào Cộng hoà Đại Colombia. Trong thời gian này, Bolíva đã gặp Manuela Saenz và bà trở thành người tình cho đến cuối đời ông. Ngày 25 tháng 7 năm 1822, “Người bảo hộ Perú”, tướng José de San Martín [24] từ Peru tới Guayaquil. Tại đây Bolívar đã gặp gỡ nhà lãnh đạo nổi tiếng của phong trào giành độc lập ở phía nam lục địa Nam Mỹ này. Sau cuộc gặp gỡ [25], Bolívar lĩnh lấy sứ mạng giải phóng hoàn toàn Peru.
Giải phóng hoàn toàn Peru
Ngày 7 tháng 8 năm 1823, Bolívar rời Guayaquil đến Callao[26] vào đầu tháng 9 năm đó. Trong tình trạng vô chính phủ, Bolívar đã tổ chức lại quân đội với nòng cốt là những tiểu đoàn của ông. Lima rơi vào tay quân bảo hoàng và ngày 10 tháng 2 năm 1824, Nghị viện Peru đã phong Bolívar là Tổng tài với quyền lực tuyệt đối trước khi tự giải tán. Bolívar rút về Trujillo để củng cố và chuyển sang tấn công. Ngày 6 tháng 8 năm 1824 ông đã đánh bại quân đội nhà vua Tây Ban Nha tại Junín[27][28] Chiến dịch tiếp tục phát triển và trong khi Bolívar tiến vào Lima, vây hãm Callao thì tướng Sucre đã tiêu diệt nốt quân đội nhà vua tại Ayacucho[29] ngày 9 tháng 12 năm 1824. Đến đây chiến tranh giành độc lập kết thúc, ngày 10 tháng 2 năm 1825, tại Nghị viện Perú ở Lima, Bolívar tuyên bố từ bỏ quyền lực tuyệt đối đã được trao cho ông để tiến hành chiến tranh giành độc lập. Hai ngày sau, Nghị viện Peru đã tuyên bố vinh danh và tặng thưởng cho ông cùng quân đội nhưng ông từ chối tiền thưởng. Bolívar rời thu đô Lima đến Arequipa, El Cuzco và những tỉnh thuộc Thượng Peru (Alto Perú). Những tỉnh này đã thành lập nên một quốc gia dưới sự bảo trợ của Bolivar và đặt tên là Cộng hoà Bolívar tức Bolivia ngày nay. Bolívar soạn thảo hiến pháp cho quốc gia mới này năm 1826, trong đó ông đã trình bày nhưng tư tưởng của mình về việc hợp nhất các quốc gia mới được giải phóng.
Sự phân hoá của Đại Colombia
Năm 1826, một cuộc nổi dậy gọi là La Cosiata [30] do tướng José Antonio Páez[31] lãnh đạo đã nổ ra để chống lại chính quyền trung ương ở Bogotá. Tháng 4 năm 1826, Bolívar trở về Caracas và cố gắng vãn hồi hoà bình. Tuy nhiên những lực lượng ly khai tỏ ra thắng thế trước xu hướng hợp nhất. Ngày 5 tháng 7 năm 1827, ông rời Caracas đáp tàu đi La Guaira rồi tới Bogotá. Ngày 10 tháng 9 năm 1827, ông tuyên thệ nhậm chức tổng thống Cộng hoà Đại Colombia. Hội nghị lập pháp họp ở Ocaña[32] tháng 4 năm 1828 đã giải tán mà không đạt được thoả thuận nào giữa những phe đối lập. Bolívar xưng là Tổng tài ngày 27 tháng 8 năm 1828. Ngày 25 tháng 9 năm 1828, ông thoát chết sau một vụ ám sát ở Bogotá với sự giúp đỡ của Manuela Saenz. Không lâu sau, ông buộc phải tiến hành một chiến dịch chống lại những đội quân của Perú đang đe dọa Ecuador. Bất chấp thể trạng ốm yếu, bệnh tật, ông vẫn kiên trì bảo vệ những thành quả của mình. Năm 1830, ông trở về Bogotá để thiết lập Hội đồng Hiến pháp nhưng Venezuela một lần nữa công khai đòi trở thành một quốc gia độc lập. Tại Nueva Granada, sự chống đối cũng dần trở nên mạnh mẽ hơn. Bolívar đã suy sụp sức khỏe, ông từ bỏ chức vụ tổng thống và đi đến vùng duyên hải, tin tức về cuộc ám sát tướng Sucre đã ảnh hưởng sâu sắc đến Bolívar. Ngày 10 tháng 12, ông đã viết một bản tuyên bố gửi nhân dân, đây được coi là di chúc chính trị của Người Giải phóng. Ông dự định sang châu Âu nhưng đột ngột ra đi ngày 17 tháng 12 năm 1830 tại San Pedro Alejandrino, một khu biệt thự ở Santa Marta vì bệnh lao. Đến năm 1942, trong một nghi thức hết sức trang trọng, thi hài ông được chuyển về Venezuela và đặt tại National Pantheon, Caracas.
Tư tưởng
Ngoài tư tưởng công bằng, tự do và bình đẳng mà ông đã cống hiến cả cuộc đời, tư tưởng Liên Mỹ của Bolívar thường được nhắc tới. Mục đích và quan điểm của Liên Mỹ được Bolívar diễn đạt trong những gì ông viết năm từ năm 1826 đó là hòa bình trên cơ sở một khối liên kết thống nhất cho các nước châu Mỹ và hy vọng rằng một ngày nào đó nó sẽ là tấm gương để mang lại hòa bình cho toàn thế giới: “Thế giới mới sẽ gồm các quốc gia độc lập gắn chặt với nhau bởi luật pháp chung quy định quan hệ đối ngoại của các nước và tạo cơ hội cho các nước đó, thông qua một cơ quan lập pháp chung, những phương thức để trường tồn… Mọi rào cản về xuất xứ, chủng tộc và màu da sẽ biến mất. Trong các thế kỷ tiếp theo, có thể tiến tới một chính phủ hợp nhất toàn thế giới như một liên bang” [33]. Kết quả của tư tưởng đó là tại Nghị viện Panama, các quốc gia châu Mỹ đã tuyên ngôn về lý tưởng hợp tác hòa bình, một nền hòa bình trong sự tự do, bình đẳng giữa các quốc gia và giải quyết mọi sự bất đồng bằng phương pháp hòa bình cũng như kiên định sự hợp tác đôi bên cùng có lợi. Lý tưởng của Bolívar không được thực hiện tại Nghị viện Panama nhưng nó tiếp tục là nguồn cảm hứng, là niềm hy vọng. Không được đón nhận vào lúc đó nhưng ngày nay, tư tưởng của Bolívar đã sống dậy trong xu hướng hợp tác và hợp nhất khu vực của thế giới hiện đại.
Vinh danh
Tượng đài Simón Bolívar ở Paris
- Ngoài một quốc gia mang tên ông, nhiều bang, thành phố, và rất nhiều địa danh, đại lộ… ở châu Mỹ và các nơi khác trên thế giới cũng mang tên Bolívar. Đồng tiền của Venezuela được gọi là Bolívar. Tượng đài Simón Bolívar được dựng ở nhiều nơi trên thế giới.
- UNESCO đã lập ra giải thưởng Simón Bolívar, trao tặng hai năm một lần cho những người có đóng góp quan trọng cho việc thực hiện lý tưởng của ông. Giải thưởng được trao lần đầu tiên ngày 24 tháng 7 năm 1983 nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Bolívar cho Nelson Mandela và vua Tây Ban Nha Juan Carlos I.
Những câu nói nổi tiếng
- “Nếu cái chết của tôi góp phần cho việc chấm dứt các đảng phái cũng như cho sự hợp nhất thì tôi sẽ thanh thản bước xuống mồ”
- “Trách nhiệm đầu tiên của một chính phủ là đưa giáo dục đến với nhân dân”
- “Chúa ban chiến thắng cho sự bền gan”
Thông tin thêm
- Bolívar có hai chị gái là Juana và María Antonia, một em trai Juan Vicente. Ngoài ra cha mẹ ông còn có con gái María del Carmen chết ngay khi sinh. Ông không có hậu duệ trực hệ.
- Mối tình với Manuela Saenz: xem Manuela Saenz
Tài liệu tham khảo
Chú thích
- ^ Cadiz: thành phố cảng ở tây nam Tây Ban Nha, thuộc xứ Andalusia
- ^ Francisco de Miranda (1750 – 1816): nhà cách mạng nổi tiếng người Venezuela, sau khi đầu hàng đã chết trong nhà tù ở Tây Ban Nha
- ^ Có tài liệu nói ông trở về nước năm 1811
- ^ Valencia: thành phố thủ phủ bang Carabobo, Venezuela.
- ^ Puerto Cabello: thành phố ven biển phía Bắc Venezuela, cách Caracas 75 km về phía tây.
- ^ La Guaira: thành phố cảng, thủ phủ bang Vargas, cách Caracas 30 km về phía đông nam.
- ^ Cartagena de Indias hay gọi tắt là Cartagena: thành phố cảng ở phía bắc Colombia, thủ phủ bang Bolívar
- ^ Magdalena: con sông chính chảy từ bắc xuống nam Colombia dài 1.450 km
- ^ Mérida: thành phố ở vùng núi Andes, thủ phủ của bang cùng tên, Venezuela
- ^ Trujillo: thành phố thủ phủ của bang cùng tên, Venezuela
- ^ Simón Bolívar trên britannica.
- ^ Nueva Granada: tên một quốc gia thời đó gồm phần lớn lãnh thổ Colombia, Ecuador và Venezuela ngày nay
- ^ Santa Marta: thành phố cảng ven biển Caribe ở phía bắc Colombia
- ^ Margarita: một hòn đảo trên biển Caribe, thuộc bang Nueva Esparta, Venezuela
- ^ Carúpano: một thị trấn nằm ven biển Caribe, thuộc bang Sucre, Venezuela
- ^ Ocumare de la Costa: một bang ở phía bắc Venezuela
- ^ Guayana: một vùng hành chính của Venezuela, giáp với Guayna.
- ^ Calabozo: thành phố nhỏ cách Caracas 123 dặm về phía nam tây nam.
- ^ Gameza: thành phố nhỏ thuộc bang Boyacá, Colombia.
- ^ Pantano de Vargas: một vùng đầm lầy thuộc bang Boyacá, Colombia.
- ^ Cúcuta: thành phố thủ phủ của bang Santander Bắc, Colombia, gần biên giới với Venezuela
- ^ Guayaquil: thành phố cảng lớn nhất Ecuador, cách thủ đô Quito 250 km về phía nam tây nam.
- ^ Pichincha: một ngọn núi lửa sát thủ đô Quito
- ^ José de San Martín (1778 – 1850): vị tướng nổi tiếng, anh hùng dân tộc của Argentina, người lãnh đạo phong trào giành độc lập ở phần phía nam lục địa Nam Mỹ.
- ^ Đây là cuộc gặp gỡ kín mà nội dung của nó gây nên sự tranh luận của các nhà sử học. Sau khi Bolívar giải phóng hoàn toàn Peru, José de San Martín từ bỏ binh quyền, không tham gia vào hoạt động chính trị và đi sang Pháp năm 1824
- ^ Callao: thành phố cảng lớn nhất Perú, ở phía tây thủ đô Lima.
- ^ Junín: một vùng cao nguyên ở trung tâm Perú.
- ^ Antonio José de Sucre trên Britannica.
- ^ Ayacucho: thành phố trung tâm của tỉnh Huamanga, Peru
- ^ La Cosiata: một từ chưa từng có trong tiếng Tây Ban Nha trước đó, được đặt ra để chỉ những gì huyền bí và không gọi được tên.
- ^ José Antonio Páez: vị tướng sau này thành tổng thống Venezuela khi tách ra khỏi Đại Colombia.
- ^ Ocaña: thị trấn nhỏ thuộc bang Stander Bắc, Colombia.
- ^ Historical Text Archive
Sách về Bolívar
- Reza, German de la. “La invención de la paz. De la república cristiana del duque de Sully a la sociedad de naciones de Simón Bolívar”, México, Siglo XXI Editores, 2009. ISBN 978-607-03-0054-7
- Bushnell, David. The Liberator, Simón Bolívar. New York: Alfred A. Knopf, 1970.
- Bushnell, David (ed.) and Fornoff, Fred (tr.), El Libertador: Writings of Simón Bolívar, Oxford University Press, 2003. ISBN 978-0195144819
- Bushnell, David and Macaulay, Neill. The Emergence of Latin America in the Nineteenth Century (Second edition). Oxford and New York: Oxford University Press, 1994. ISBN 0-19-508402-0
- Ducoudray Holstein, H.L.V. Memoirs of Simón Bolívar. Boston: Goodrich, 1829.
- Harvey, Robert. “Liberators: Latin America`s Struggle For Independence, 1810–1830”. John Murray, London (2000). ISBN 0-7195-5566-3
- Lynch, John. Simón Bolívar and the Age of Revolution. London: University of London Institute of Latin American Studies, 1983. ISBN 9780901145543
- Lynch, John. The Spanish American Revolutions, 1808–1826 (Second edition). New York: W. W. Norton & Co., 1986. ISBN 0-393-95537-0
- Lynch, John. Simón Bolívar: A Life, Yale University Press, 2006. ISBN 0300110626.
- Madariaga, Salvador de. Bolívar. Westport: Greenwood Press, 1952. ISBN 9780313220296
- Marx, Karl. “Bolívar y Ponte” in The New American Cyclopaedia: A Popular Dictionary of General Knowledge, Vol. III. New York: D. Appleton & Co., 1858.
- Masur, Gerhard. Simón Bolívar (Revised edition). Albuquerque: University of New Mexico Press, 1969.
- Mijares, Augusto. The Liberator. Caracas: North American Association of Venezuela, 1983.
- O’Leary, Daniel Florencio. Bolívar and the War of Independence/Memorias del General Daniel Florencio O’Leary: Narración (Abridged version). Austin: University of Texas, [1888] 1970. ISBN 0-292-70047-4
- Bastardo-Salcedo,JL (1993) Historia Fundamental de Venezuela UVC,Caracas.
Liên kết ngoài