Thể loại:
Hà Nội
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hà Nội |
 |
|
Địa lý |
Tọa độ: 21°01′42″B 105°51′12″ĐTọa độ: 21°01′42″B 105°51′12″Đ |
Diện tích |
3.324,3 km² |
Dân số (2013) |
|
Tổng cộng |
6.936.900[1] |
Thành thị |
2.931.300 người[2] |
Nông thôn |
3.912.800 người[3] |
Mật độ |
2.087 người/km² |
Dân tộc |
người Kinh (99,1%) |
Múi giờ |
G (UTC+7) |
|
Hành chính |
Quốc gia |
Việt Nam |
Vùng |
Bắc Bộ |
Quận trung tâm |
quận Hoàn Kiếm và quận Ba Đình |
Thành lập |
1010 – Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long |
Tên khác |
Tống Bình, Đại La, Long Đỗ,
Đông Đô, Đông Quan,
Đông Kinh, Thăng Long |
Chủ tịch UBND |
Nguyễn Thế Thảo |
Chủ tịch HĐND |
Nguyễn Thị Bích Ngọc |
Bí thư Thành ủy |
Phạm Quang Nghị |
Trụ sở UBND |
phố Đinh Tiên Hoàng,
phường Lý Thái Tổ,
quận Hoàn Kiếm |
Đại biểu quốc hội |
30 |
Phân chia hành chính |
|
Mã hành chính |
VN-64 |
Mã bưu chính |
10 |
Mã điện thoại |
4 |
Biển số xe |
29, 30, 31, 32, 33, 40 |
Website |
hanoi.gov.vn |
Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam từ năm 1976 đến nay,[4] và là thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1946,[5] là thành phố lớn nhất Việt Nam về diện tích với 3328,9 km2,[6] đồng thời cũng là địa phương đứng thứ nhì về dân số với 6.699.600 người (2011).[7] Hiện nay, thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là đô thị loại đặc biệt của Việt Nam. Hà Nội nằm giữa[8] đồng bằng sông Hồng trù phú, nơi đây đã sớm trở thành một trung tâm chính trị và tôn giáo ngay từ những buổi đầu của lịch sử Việt Nam. Năm 1010, Lý Công Uẩn, vị vua đầu tiên của nhà Lý, quyết định xây dựng kinh đô mới ở vùng đất này với cái tên Thăng Long. Trong suốt thời kỳ của các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc, kinh thành Thăng Long là nơi buôn bán, trung tâm văn hóa, giáo dục của cả miền Bắc. Khi Tây Sơn rồi nhà Nguyễn lên nắm quyền trị vì, kinh đô được chuyển về Huế và Thăng Long bắt đầu mang tên Hà Nội từ năm 1831, dưới thời vua Minh Mạng. Năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của Liên bang Đông Dương và được người Pháp xây dựng, quy hoạch lại. Trải qua hai cuộc chiến tranh, Hà Nội là thủ đô của miền Bắc rồi nước Việt Nam thống nhất và giữ vai trò này cho tới ngày nay.
Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội hiện nay gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện ngoại thành. Hiện nay, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm kinh tế – xã hội đặc biệt quan trọng của Việt Nam. Năm 2009, sau khi mở rộng, GDP của thành phố tăng khoảng 6,67%, tổng thu ngân sách khoảng 70.054 tỷ đồng.[9] Hà Nội cũng là một trung tâm văn hóa, giáo dục với các nhà hát, bảo tàng, các làng nghề truyền thống, những cơ quan truyền thông cấp quốc gia và các trường đại học lớn.
Địa lý
-
Vị trí, địa hình
Ảnh chụp vệ tinh khu vực Hà Nội
Nằm chếch về phía tây bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, Hà Nội có vị trí từ 20°53′ đến 21°23′ vĩ độ Bắc và 105°44′ đến 106°02′ kinh độ Đông, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nam, Hòa Bình phía Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông, Hòa Bình cùng Phú Thọ phía Tây. Hà Nội cách thành phố cảng Hải Phòng 120 km.[10][11] Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, thành phố có diện tích 3.324,92 km2, nằm ở cả hai bên bờ sông Hồng, nhưng tập trung chủ yếu bên hữu ngạn.[11]
Địa hình Hà Nội thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông với độ cao trung bình từ 5 đến 20 mét so với mực nước biển. Nhờ phù sa bồi đắp, ba phần tư diện tích tự nhiên của Hà Nội là đồng bằng, nằm ở hữu ngạn sông Đà, hai bên sông Hồng và chi lưu các con sông khác. Phần diện tích đồi núi phần lớn thuộc các huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Quốc Oai, Mỹ Đức, với các đỉnh núi cao như Ba Vì (1.281 m), Gia Dê (707 m), Chân Chim (462 m), Thanh Lanh (427 m), Thiên Trù (378 m)… Khu vực nội thành có một số gò đồi thấp, như gò Đống Đa, núi Nùng.[11]
Thủ đô Hà Nội có bốn điểm cực là:
Thủy văn
-
Sông Hồng là con sông chính của thành phố, bắt đầu chảy vào Hà Nội ở huyện Ba Vì và ra khỏi thành phố ở khu vực huyện Phú Xuyên tiếp giáp Hưng Yên. Đoạn sông Hồng chảy qua Hà Nội dài 163 km, chiếm khoảng một phần ba chiều dài của con sông này trên đất Việt Nam. Hà Nội còn có Sông Đà là ranh giới giữa Hà Nội với Phú Thọ, hợp lưu với dòng sông Hồng ở phía Bắc thành phố tại huyện Ba Vì. Ngoài ra, trên địa phận Hà Nội còn nhiều sông khác như sông Đáy, sông Đuống, sông Cầu, sông Cà Lồ,… Các sông nhỏ chảy trong khu vực nội thành như sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu,… là những đường tiêu thoát nước thải của Hà Nội.[11]
Hà Nội cũng là một thành phố đặc biệt nhiều đầm hồ, dấu vết còn lại của các dòng sông cổ. Trong khu vực nội thành, hồ Tây có diện tích lớn nhất, khoảng 500 ha, đóng vai trò quan trọng trong khung cảnh đô thị, ngày nay được bao quanh bởi nhiều khách sạn, biệt thự (xem ảnh). Hồ Gươm nằm ở trung tâm lịch sử của thành phố, khu vực sầm uất nhất, luôn giữ một vị trí đặc biệt đối với Hà Nội. Trong khu vực nội ô có thể kể tới những hồ nổi tiếng khác như Trúc Bạch, Thiền Quang, Thủ Lệ… Ngoài ra, còn nhiều đầm hồ lớn nằm trên địa phận Hà Nội như Kim Liên, Liên Đàm, Ngải Sơn – Đồng Mô, Suối Hai, Mèo Gù, Xuân Khanh, Tuy Lai, Quan Sơn,…[11]
Do quá trình đô thị hóa mạnh mẽ từ năm 1990 đến nay, phần lớn các sông hồ Hà Nội đều rơi vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Theo PGS-TS Trần Đức Hạ – Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu cấp thoát nước và môi trường thuộc Hội Cấp thoát nước VN, lượng nước thải chưa qua xử lý xả thẳng ra môi trường quá lớn. Chỉ tính riêng trong khu vực nội đô, mỗi ngày lượng nước thải xả thẳng ra hệ thống sông hồ vào khoảng 650.000 m3/ngày (2015). Sông Tô Lịch, trục tiêu thoát nước thải chính của thành phố, hàng ngày phải tiếp nhận khoảng 250.000 m³ nước thải xả thẳng xuống dòng sông mà không hề qua xử lý. Nó bị ô nhiễm nặng nề: nước sông càng lúc càng cạn, màu nước càng ngày càng đen và bốc mùi hôi thối nặng. Với chiều dài gần 20 km chảy qua địa bàn thủ đô, nhiều khúc của sông Nhuệ nước đen kịt, đặc quánh, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc và gần như không còn xuất hiện sự sống dưới lòng sông [12]. Tương tự, sông Kim Ngưu nhận khoảng 125.000 m³ nước thải sinh hoạt mỗi ngày. Sông Lừ và sông Sét trung bình mỗi ngày cũng đổ vào sông Kim Ngưu khoảng 110.000 m³. Lượng nước thải sinh hoạt và công nghiệp này đều có hàm lượng hóa chất độc hại cao. Các sông mương nội và ngoại thành, ngoài vai trò tiêu thoát nước còn phải nhận thêm một phần rác thải của người dân và chất thải công nghiệp. Những làng nghề thủ công cũng góp phần vào gây nên tình trạng ô nhiễm này.[13]
Khí hậu
Khí hậu Hà Nội tiêu biểu cho vùng Bắc Bộ với đặc điểm của khí hậu cận nhiệt đới ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa về đầu mùa và có mưa phùn về nửa cuối mùa. Nằm về phía bắc của vành đai nhiệt đới, thành phố quanh nǎm tiếp nhận lượng bức xạ Mặt Trời rất dồi dào và có nhiệt độ cao. Và do tác động của biển, Hà Nội có độ ẩm và lượng mưa khá lớn, trung bình 114 ngày mưa một năm. Một đặc điểm rõ nét của khí hậu Hà Nội là sự thay đổi và khác biệt của hai mùa nóng, lạnh. Mùa nóng kéo dài từ tháng 5 tới tháng 9, kèm theo mưa nhiều, nhiệt độ trung bình 28,1 °C. Từ tháng 11 tới tháng 3 năm sau là mùa đông với nhiệt độ trung bình 18,6 °C. Trong khoảng thời gian này số ngày nắng của thành phố xuống rất thấp, bầu trời thường xuyên bị che phủ bởi mây và sương, tháng 2 trung bình mỗi ngày chỉ có 1,8 giờ mặt trời chiếu sáng. Cùng với hai thời kỳ chuyển tiếp vào tháng 4 (mùa xuân) và tháng 10 (mùa thu), thành phố có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu và đông.[14]
Vào tháng 5 năm 1926, nhiệt độ tại thành phố được ghi lại ở mức kỷ lục 42,8 °C. Tháng 1 năm 1955, nhiệt độ xuống mức thấp nhất, 2,7 °C.[10] Và tháng 6 năm 2015, Hà Nội tiếp tục phải hứng chịu đợt nóng kỉ lục trong 1 tuần (từ 1-6 đến 7-6) với nhiệt độ lên tới 42 °C. Theo một số kiểm tra vào thời điểm này, yên xe máy để ngoài đường trong một giờ đồng hồ có nhiệt độ là 80 °C, còn mũ bảo hiểm có nhiệt độ là 48 °C.
Khí hậu Hà Nội cũng ghi nhận những biến đổi bất thường. Đầu tháng 11 năm 2008, một trận mưa kỷ lục đổ xuống các tỉnh miền Bắc và miền Trung khiến 18 cư dân Hà Nội thiệt mạng và gây thiệt hại cho thành phố khoảng 3.000 tỷ đồng.[15][16]
Dân cư
Nguồn gốc dân cư sinh sống
Vào thập niên 1940, khi Hà Nội là thủ phủ của Liên bang Đông Dương, dân số thành phố được thống kê là 132.145 người.[18] Nhưng đến năm 1954, dân số Hà Nội giảm xuống chỉ còn 53 nghìn dân trên một diện tích 152 km².
Lịch sử của Hà Nội cũng đã ghi nhận dân cư của thành phố có những thay đổi, xáo trộn liên tục qua thời gian. Ở những làng ngoại thành, ven đô cũ, nơi người dân sống chủ yếu nhờ nông nghiệp, thường không có sự thay đổi lớn. Nhiều gia đình nơi đây vẫn giữ được gia phả từ những thế kỷ 15, 16. Trong nội thành, chỉ còn lại vài dòng họ đã định cư liên tục tại Thăng Long từ thế kỉ XV như dòng họ Nguyễn ở phường Đông Tác (Trung Tự – Hà Nội).
Do tính chất của công việc, nhiều thương nhân và thợ thủ công ít khi trụ nhiều đời tại một điểm. Gặp khó khăn trong kinh doanh, những thời điểm sa sút, họ tìm tới vùng đất khác. Cũng có những trường hợp, một gia đình có người đỗ đạt được bổ nhiệm làm quan tỉnh khác và đem theo gia quyến, đôi khi cả họ hàng.[19]
Từ rất lâu, Thăng Long đã trở thành điểm đến của những người dân tứ xứ. Vào thế kỷ 15, dân các trấn về Thăng Long quá đông khiến vua Lê Thánh Tông có ý định buộc tất cả phải về nguyên quán. Nhưng khi nhận thấy họ chính là lực lượng lao động và nguồn thuế quan trọng, triều đình đã cho phép họ ở lại. Tìm đến kinh đô Thăng Long còn có cả những cư dân ngoại quốc, phần lớn là người Hoa. Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, rất nhiều những người Hoa đã ở lại sinh sống thành phố này. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, vẫn có những người Hoa tới xin phép cư ngụ lại Thăng Long. Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, trong số 36 phường họp thành kinh đô Thăng Long có hẳn một phường người Hoa, là phường Đường Nhân. Những thay đổi về dân cư vẫn diễn ra liên tục và kéo dài cho tới ngày nay.[19]
Dân số
Các thống kê trong lịch sử cho thấy dân số Hà Nội tăng nhanh trong nửa thế kỷ gần đây. Vào thời điểm năm 1954, khi quân đội Việt Minh tiếp quản Hà Nội, thành phố có 53 nghìn dân, trên một diện tích 152 km². Đến năm 1961, thành phố được mở rộng, diện tích lên tới 584 km², dân số 91.000 người. Năm 1978, Quốc hội quyết định mở rộng thủ đô lần thứ hai với diện tích đất tự nhiên 2.136 km², dân số 2,5 triệu người.[20] Tới năm 1991, địa giới Hà Nội tiếp tục thay đổi, chỉ còn 924 km², nhưng dân số vẫn ở mức hơn 2 triệu người. Trong suốt thập niên 1990, cùng việc các khu vực ngoại ô dần được đô thị hóa, dân số Hà Nội tăng đều đặn, đạt con số 2.672.122 người vào năm 1999.[21][22][23] Sau đợt mở rộng địa giới gần đây nhất vào tháng 8 năm 2008, thành phố Hà Nội có 6,233 triệu dân và nằm trong 17 thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới.[24] Theo kết quả cuộc điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 2009, dân số Hà Nội là 6.451.909 người,[25] dân số trung bình năm 2010 là 6.561.900 người.[26]
Mật độ dân số trung bình của Hà Nội là 1.979 người/km². Mật độ dân số cao nhất là ở quận Đống Đa lên tới 35.341 người/km², trong khi đó, ở những huyện ngoại thành như Sóc Sơn, Ba Vì, Mỹ Đức, mật độ dưới 1.000 người/km².
Về cơ cấu dân số, theo số liệu 1 tháng 4 năm 1999, cư dân Hà Nội và Hà Tây chủ yếu là người Kinh, chiếm tỷ lệ 99,1%. Các dân tộc khác như Dao, Mường, Tày chiếm 0,9%.[11] Năm 2009, người Kinh chiếm 98,73% dân số, người Mường 0,76% và người Tày chiếm 0,23 %.[25]
Năm 2009, dân số thành thị là 2.632.087 chiếm 41,1%, và 3.816.750 cư dân nông thôn chiếm 58,1%.[26]
Lịch sử
-
Thời kỳ tiền Thăng Long
Những di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa cho thấy con người đã xuất hiện ở khu vực Hà Nội từ cách đây 2 vạn năm, giai đoạn của nền văn hóa Sơn Vi. Nhưng đến thời kỳ băng tan, biển tiến sâu vào đất liền, các cư dân của thời đại đồ đá mới bị đẩy lùi lên vùng núi. Phải tới khoảng 4 hoặc 5 ngàn năm trước Công Nguyên, con người mới quay lại sinh sống ở nơi đây. Các hiện vật khảo cổ giai đoạn tiếp theo, từ đầu thời đại đồ đồng đến đầu thời đại đồ sắt, minh chứng cho sự hiện diện của Hà Nội ở cả bốn thời đại văn hóa: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn.[27] Những cư dân Hà Nội thời kỳ đó sinh sống nhờ trồng trọt, chăn nuôi và chài lưới. Giai đoạn tiền sử này tương ứng với thời kỳ của các Vua Hùng trong truyền thuyết. Thế kỷ 3 trước Công Nguyên, trong cuộc chiến với quân Tần từ phương Bắc, Thục Phán quyết định đóng đô ở Cổ Loa, nay là huyện Đông Anh, cách trung tâm Hà Nội khoảng 15 km. Sự xuất hiện của thành Cổ Loa ghi dấu Hà Nội lần đầu tiên trở thành một đô thị trung tâm về chính trị và xã hội.[27]
Thất bại của Thục Phán đầu thế kỷ 2 trước Công Nguyên đã kết thúc giai đoạn độc lập của Âu Lạc, bắt đầu giai đoạn một ngàn năm do các triều đại phong kiến Trung Hoa thống trị. Thời kỳ nhà Hán, Âu Lạc cũ được chia thành ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, Hà Nội khi đó thuộc quận Giao Chỉ. Vắng bóng trong sử sách suốt năm thế kỷ đầu, đến khoảng năm 454–456 thời Lưu Tống, Hà Nội mới được ghi lại là trung tâm của huyện Tống Bình.[28] Năm 544, Lý Bí nổi dậy chống lại nhà Lương, tự xưng hoàng đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Người cháu của Lý Bí là Lý Phật Tử tới đóng đô ở Cổ Loa, nhưng nền độc lập này chỉ kéo dài tới năm 602. Thời kỳ Nhà Đường, An Nam được chia thành 12 châu với 50 huyện, Tống Bình là trung tâm của An Nam đô hộ phủ. Năm 866, viên tướng nhà Đường Cao Biền xây dựng một thành trì mới, Tống Bình được đổi tên thành Đại La – thủ phủ của Tĩnh Hải quân. Theo truyền thuyết, khi đắp thành, Cao Biền thấy một vị thần hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Vì vậy, sử sách còn gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.[29] Thế kỷ 10, sau chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán, Cổ Loa một lần nữa trở thành kinh đô của nước Việt.[27]
Thăng Long, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh
Sau khi lên ngôi năm 1009 tại Hoa Lư, năm 1010, Lý Thái Tổ quyết định dời đô về Đại La. Theo một truyền thuyết phổ biến, khi tới Đại La, Lý Thái Tổ nhìn thấy một con rồng bay lên, vì vậy đặt tên kinh thành mới là Thăng Long. Kinh thành Thăng Long khi đó giới hạn bởi ba con sông: sông Hồng ở phía Đông, sông Tô phía Bắc và sông Kim Ngưu phía Nam. Khu hoàng thành được xây dựng gần hồ Tây với cung điện hoàng gia cùng các công trình chính trị. Phần còn lại của đô thị là những khu dân cư, bao gồm các phường cả nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp. Ngay trong thế kỷ 10, nhiều công trình tôn giáo nhanh chóng được xây dựng, chùa Diên Hựu phía Tây hoàng thành xây năm 1049, chùa Báo Thiên xây năm 1057, Văn Miếu xây năm 1070, Quốc Tử Giám dựng năm 1076… Chỉ sau một thế kỷ, Thăng Long trở thành trung tâm văn hóa, chính trị và kinh tế của cả quốc gia.[30]
Nhà Trần nối bước nhà Lý cai trị Đại Việt, kinh thành Thăng Long tiếp tục được xây dựng. Hoàng thành được củng cố và xuất hiện thêm những cung điện mới. Năm 1230, Thăng Long được chia thành 61 phường, kinh thành đông đúc hơn dù địa giới không thay đổi. Giai đoạn này cũng ghi nhận sự xuất hiện của những cư dân ngoại quốc, như người Hoa, người Java và người Ấn Độ. Nền kinh tế công thương nghiệp cũng sản sinh tầng lớp thị dân và Thăng Long còn là nơi quy tụ của nhiều học giả, trí thức như Hàn Thuyên, Lê Văn Hưu, Chu Văn An… Trong cuộc chiến tranh với nhà Nguyên, kinh thành Thăng Long ba lần bị chiếm giữ nhưng đều kết thúc trong chiến thắng của Đại Việt.[31] Cuối thế kỷ 14, thời kỳ nhà Trần suy vi, một quý tộc ngoại thích là Hồ Quý Ly thâu tóm quyền lực, ép vua Trần dời kinh đô về Thanh Hóa. Khi Hồ Quý Ly chính thức lên ngôi, lập nên nước Đại Ngu năm 1400, kinh đô mới mang tên Tây Đô, Thăng Long được đổi thành Đông Đô. Nhưng vương triều của nhà Hồ chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi. Năm 1406, nhà Minh đưa quân xâm lược Đại Ngu, Thăng Long bị chiếm đóng và đổi tên thành Đông Quan. Thời kỳ Bắc thuộc thứ tư bắt đầu từ năm 1407 và kéo dài tới năm 1428.[32]
Sau chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi thành lập nhà Lê và Đông Đô cũng lấy lại vị thế kinh thành. Năm 1430, thành phố được đổi tên thành Đông Kinh, đến 1466 được gọi là phủ Trung Đô. Hoàng thành Thăng Long dưới thời nhà Lê tiếp tục được mở rộng. Bên cạnh, khu vực dân cư được chia thành 2 huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức, mỗi huyện 18 phường. Thời kỳ này, đứng đầu bộ máy hành chính là chức Phủ doãn. Thành phố tiếp tục một thời kỳ của những phường hội buôn bán, tuy bị hạn chế bởi tư tưởng ức thương của nhà Lê.[33] Trong giai đoạn tranh giành quyền lực giữa nhà Lê, nhà Mạc và chúa Trịnh, Thăng Long vẫn duy trì vị trí kinh đô. Sự phức tạp của chính trị thời kỳ này cũng đem lại cho thành phố một điểm đặc biệt: Bên cạnh hoàng thành của vua Lê, phủ Chúa Trịnh được xây dựng và là trung tâm quyền lực thực sự. Nhờ nền kinh tế hàng hóa và sự phát triển của ngoại thương, đô thị Thăng Long bước vào thời kỳ phồn vinh, thu hút thêm nhiều cư dân tới sinh sống. Câu ca Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến nói lên sự sầm uất giàu có của thành phố, giai đoạn này còn có tên gọi khác là Kẻ Chợ. Nhà truyền giáo người Pháp Alexandre de Rhodes ước tính dân số Thăng Long khi đó khoảng 1 triệu người. William Dampier, nhà phiêu lưu người Anh, đưa ra con số thường được xem hợp lý hơn, khoảng 2 vạn nóc nhà.[34]
Mùa hè năm 1786, quân Tây Sơn tiến ra miền Bắc lật đổ chính quyền chúa Trịnh, chấm dứt hai thế kỷ chia cắt Đàng Trong – Đàng Ngoài. Sau khi Nguyễn Huệ cùng quân Tây Sơn quay về miền Nam, năm 1788, nhà Thanh đưa quân xâm lược Đại Việt. Tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ lên ngôi ngày 22 tháng 12 năm 1788 rồi đưa quân ra Bắc. Sau chiến thắng ở trận Ngọc Hồi – Đống Đa, nhà Tây Sơn trị vì Đại Việt với kinh đô mới ở Phú Xuân, Thăng Long trở thành thủ phủ của Bắc Thành, tức Bắc Bộ ngày nay.[35]
Thời nhà Nguyễn và Pháp thuộc
Triều đại Tây Sơn sụp đổ sau một thời gian ngắn ngủi, Gia Long lên ngôi năm 1802 lấy kinh đô ở Phú Xuân, bắt đầu nhà Nguyễn. Năm 1805, Gia Long cho phá tòa thành cũ của Thăng Long, xây dựng thành mới mà dấu vết còn lại tới ngày nay, bao bọc bởi các con đường Phan Đình Phùng, Hùng Vương, Trần Phú và Phùng Hưng. Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng, toàn quốc được chia thành 29 tỉnh, Thăng Long thuộc tỉnh Hà Nội.[36] Với hàm nghĩa nằm trong sông (Hán tự 河內), tỉnh Hà Nội khi đó gồm 4 phủ, 15 huyện, nằm giữa sông Hồng và Sông Đáy.[37][38] Tỉnh Hà Nội gồm thành Thăng Long, phủ Hoài Đức của trấn Sơn Tây, và ba phủ Ứng Hoà, Thường Tín, Lý Nhân của trấn Sơn Nam. Phủ Hoài Đức gồm 3 huyện: Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm. Phủ Thường Tín gồm 3 huyện: Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên. Phủ Ứng Hoà gồm 4 huyện: Sơn Minh (nay là Ứng Hòa), Hoài An (nay là phía nam Ứng Hòa và một phần Mỹ Đức), Chương Đức (Nay là Chương Mỹ – Thanh Oai). Phủ Lý Nhân gồm 5 huyện: Nam Xang (nay là Lý Nhân), Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục. Hà Nội có tên gọi bắt đầu từ đây.
Nền kinh tế Hà Nội nửa đầu thế kỷ 19 cũng khác biệt so với Thăng Long trước đó. Các phường, thôn phía Tây và Nam chuyên về nông nghiệp, còn phía Đông, những khu dân cư sinh sống nhờ thương mại, thủ công làm nên bộ mặt của đô thị Hà Nội. Bên cạnh một số cửa ô được xây dựng lại, Hà Nội thời kỳ này còn xuất hiện thêm những công trình tín ngưỡng, tôn giáo như đền Ngọc Sơn, chùa Báo Ân…[36]
Đấu xảo tại Hà Nội năm 1902.
Năm 1858, Pháp bắt đầu nổ súng xâm chiếm Đông Dương. Sau khi chiếm ba tỉnh Đông Nam Kỳ, quân đội Pháp dưới sự chỉ đạo của Francis Garnier tiến đến Hà Nội đầu tháng 11 năm 1873. Mặc dù triều đình nhà Nguyễn chủ hòa, nhưng dân chúng Hà Nội vẫn tiếp tục chống lại người Pháp dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu. Năm 1884, Tự Đức ký hòa ước công nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, Hà Nội cũng bước vào thời kỳ thuộc địa.[39]
Ngày 19 tháng 7 năm 1888, Tổng thống Pháp Sadi Carnot ký sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội. Thành phố Hà Nội lúc này có diện tích nhỏ bao gồm 2 huyện Thọ Xương và huyện Vĩnh Thuận thuộc phủ Hoài Đức. Phạm vi thành phố bó hẹp nằm trong khu vực Phố Huế, Đại Cồ Việt, Khâm Thiên, Giảng Võ, Đường Thụy Khuê, Hồ Tây đến cầu Long Biên. 3 phủ Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa thuộc về tỉnh Hà Đông. Phủ Lý Nhân tách ra tạo thành tỉnh Hà Nam.
Đến năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của toàn Liên bang Đông Dương.[20] Nhờ sự quy hoạch của người Pháp, thành phố dần có được bộ mặt mới. Lũy thành thời Nguyễn dần bị triệt hạ, đến năm 1897 hầu như bị phá hủy hoàn toàn,[40] chỉ còn lại Cột Cờ, Cửa Bắc với vết đạn năm 1873, Đoan Môn và lan can rồng đá ở trong hoàng thành cũ. Năm 1901, các công trình phủ Thống sứ, Nhà bưu điện, Kho bạc, Nhà đốc lý, Nhà hát lớn, Cầu Long Biên, Ga Hà Nội, những quảng trường, bệnh viện… được xây dựng. Hà Nội cũng có thêm trường đua ngựa, các nhà thờ Cơ Đốc giáo, trường Đại học Y khoa, Đại học Đông dương, Đại học Mỹ thuật, các trường Cao đẳng Pháp lý, Nông lâm cùng những nhà máy sản xuất rượu bia, diêm, hàng dệt, điện, nước… Khi những nhà tư bản người Pháp tới Hà Nội ngày một nhiều hơn, các rạp chiếu phim, nhà hát, khách sạn… dần xuất hiện, những con phố cũng thay đổi để phù hợp với tầng lớp dân cư mới.[39] Vào năm 1921, toàn thành phố có khoảng 4.000 dân châu Âu và 100.000 dân bản địa.[20]
Sự xuất hiện của tầng lớp tư sản Việt Nam khiến văn hóa Hà Nội cũng thay đổi. Nền văn hóa phương Tây theo chân người Pháp du nhập vào Việt Nam kéo theo những xáo trộn trong xã hội. Không còn là một kinh thành thời phong kiến, Hà Nội ít nhiều mang dáng dấp của một đô thị châu Âu. Thành phố vẫn tiếp tục giữ vai trò trung tâm tri thức, nghệ thuật của cả quốc gia, nơi tập trung các nhà thơ mới, những nhạc sĩ tân nhạc cùng những trí thức, học giả nổi tiếng.
Trong hai cuộc chiến tranh
Giữa thế kỷ 20, Hà Nội chịu những biến cố phức tạp của lịch sử. Sự kiện Nhật Bản tấn công Đông Dương năm 1940 khiến Việt Nam phải nằm dưới sự cai trị của cả đế quốc Pháp và Nhật. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, tại Hà Nội, quân đội Nhật đảo chính Pháp. Nhưng chỉ năm tháng sau, quốc gia này phải đầu hàng quân Đồng Minh, kết thúc cuộc Thế chiến thứ hai. Vào thời điểm thuận lợi đó, lực lượng Việt Minh tổ chức cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, lật đổ nhà nước Đế quốc Việt Nam, buộc vua Bảo Đại thoái vị, giành lấy quyền lực ở Việt Nam. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thủ đô Hà Nội. Sau độc lập, thành phố chia thành các khu phố, đổi tên nhiều vườn hoa, đường phố, như đại lộ (Avenue) Paul Doumer đổi tên là Nhân Quyền, đường (Rue de la) République đổi tên là Dân Quyền, đại lộ Puginier đổi tên là Dân Chủ Cộng Hòa, đường Ollivier đổi là Hạnh Phúc, đường Dr Morel đổi là Tự Do,…
Hà Nội, Tết dương lịch 1973
Cuối năm 1945, quân đội Pháp quay lại Đông Dương. Sau những thương lượng không thành, Chiến tranh Đông Dương bùng nổ vào tháng 12 năm 1946 và thành phố Hà Nội nằm trong vùng kiểm soát của người Pháp. Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ giúp những người Việt Minh lấy lại miền Bắc Việt Nam, Hà Nội tiếp tục giữ vị trí thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vào thời điểm được tiếp quản, thành phố gồm 4 quận nội thành với 34 khu phố, 37.000 dân và 4 quận ngoại thành với 45 xã, 16.000 dân. Cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, Hà Nội nhiều lần thay đổi về hành chính và địa giới. Năm 1958, bốn quận nội thành bị xóa bỏ và thay bằng 12 khu phố. Năm 1959, khu vực nội thành được chia lại thành 8 khu phố, Hà Nội cũng có thêm 4 huyện ngoại thành. Tháng 4 năm 1961, Quốc hội quyết định mở rộng địa giới Hà Nội, sát nhập thêm một số xã của Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hưng Yên.[41][42] Toàn thành phố có diện tích 584 km², dân số 91.000 người. Ngày 31 tháng 5 năm 1961, bốn khu phố nội thành Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình, Đống Đa và 4 huyện ngoại thành Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm được thành lập.[20]
Khi cuộc Chiến tranh Việt Nam leo thang, Hà Nội phải hứng chịu những cuộc tấn công trực tiếp từ Hoa Kỳ. Riêng trong chiến dịch Linebacker II năm 1972, trong khoảng 2.200 người dân bị thiệt mạng ở miền Bắc,[43][44] số nạn nhân ở Hà Nội được thống kê là 1.318 người.[45] Nhiều cơ quan, trường học phải sơ tán tới các tỉnh lân cận.
Hà Nội đương đại
Sau chiến tranh, Hà Nội tiếp tục giữ vai trò thủ đô của quốc gia Việt Nam thống nhất. Ngày 21 tháng 12 năm 1978, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm 5 huyện Ba Vì, Thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn Tây của tỉnh Hà Sơn Bình cùng hai huyện của tỉnh Vĩnh Phú là Mê Linh, Sóc Sơn. Dân số Hà Nội lên tới con số 2,5 triệu người.[46] Bên cạnh lượng dân cư các tỉnh tới định cư ở thành phố, trong khoảng thời gian từ 1977 tới 1984, Hà Nội cũng đưa 12.861 hộ, 21.587 nhân khẩu tới Lâm Đồng theo chính sách xây dựng kinh tế mới.[47] Ngày 12 tháng 8 năm 1991, ranh giới Hà Nội lại được điều chỉnh, chuyển lại 5 huyện và 1 thị xã đã lấy của Hà Sơn Bình năm 1978 cho Hà Tây và Mê Linh được nhập vào tỉnh Vĩnh Phú.[48] Hà Nội còn lại 4 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành, với diện tích đất tự nhiên 924 km². Ngày 28 tháng 10 năm 1995, Chính phủ ra Nghị định 69/CP thành lập quận Tây Hồ trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 3 phường: Bưởi, Thụy Khuê, Yên Phụ thuộc quận Ba Đình và 5 xã: Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng thuộc huyện Từ Liêm.[49] Ngày 26 tháng 11 năm 1996, Chính phủ ra Nghị định 74/CP thành lập quận Thanh Xuân trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 5 phường: Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân, Thượng Đình, Kim Giang, Phương Liệt, 78,1ha diện tích tự nhiên và 20.862 nhân khẩu của phường Nguyễn Trãi, 98,4ha diện tích tự nhiên và 5.506 nhân khẩu của phường Khương Thượng thuộc quận Đống Đa, toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Nhân Chính thuộc huyện Từ Liêm và xã Khương Đình thuộc huyện Thanh Trì; cũng trong Nghị định này quyết định thành lập quận Cầu Giấy trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 4 thị trấn: Cầu Giấy, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân, Mai Dịch và 3 xã: Dịch Vọng, Yên Hòa, Trung Hòa thuộc huyện Từ Liêm.[50] Ngày 6 tháng 11 năm 2003, Chính phủ ra Nghị định 132/2003/NĐ-CP thành lập quận Long Biên trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 10 xã: Thượng Thanh, Giang Biên, Ngọc Thụy, Việt Hưng, Hội Xá, Gia Thụy, Bồ Đề, Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối và 3 thị trấn: Gia Lâm, Đức Giang, Sài Đồng thuộc huyện Gia Lâm, cũng trong Nghị định này quyết định thành lập quận Hoàng Mai trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 9 xã: Định Công, Đại Kim, Hoàng Liệt, Thịnh Liệt, Thanh Trì, Vĩnh Tuy, Lĩnh Nam, Trần Phú, Yên Sở và 55ha diện tích tự nhiên của xã Tứ Hiệp thuộc huyện Thanh Trì, toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 5 phường: Mai Động, Tương Mai, Tân Mai, Giáp Bát, Hoàng Văn Thụ thuộc quận Hai Bà Trưng.[51]
Đường Văn Cao nhìn từ trên đường Hoàng Hoa Thám.
Ảnh chụp từ trên cao trong đó có 2 biểu tượng của Hà Nội là Nhà thờ Lớn và Cầu Chương Dương.
Sau thời kỳ bao cấp, từ cuối thập niên 1990, sự phát triển về kinh tế dẫn đến các khu vực ngoại ô Hà Nội nhanh chóng được đô thị hóa. Những cao ốc mọc lên ở khu vực nội ô và các trung tâm công nghiệp cũng được xây dựng ở những huyện ngoại thành. Sự phát triển cũng kéo theo những hệ lụy. Do không được quy hoạch tốt, giao thông thành phố thường xuyên ùn tắc khi số lượng xe máy tăng cao. Nhiều khu phố phải chịu tình trạng ngập úng mỗi khi mưa lớn. Mật độ dân số quá cao khiến những dân cư nội ô phải sống trong tình trạng chật chội và thiếu tiện nghi. Vào năm 2003, 30% dân số Hà Nội sống dưới mức 3 m² một người.[52]
Song việc tăng dân số quá nhanh cùng quá trình đô thị hóa thiếu quy hoạch tốt đã khiến Hà Nội trở nên chật chội, ô nhiễm và giao thông nội ô thường xuyên ùn tắc. Nhiều di sản kiến trúc đang dần biến mất, thay vào đó là những ngôi nhà ống nằm lộn xộn trên các con phố. Hà Nội còn là một thành phố phát triển không đồng đều với giữa các khu vực như giữa các quận nội thành và huyện ngoại thành, nhiều nơi người dân vẫn chưa có được những điều kiện sinh hoạt thiết yếu.[53] Ngoài ra, hiện Hà Nội là một trong những thành phố ô nhiễm nhất khu vực châu Á và là thành phố ô nhiễm nhất khu vực Đông Nam Á, hàm lượng bụi ở đây cao gấp nhiều lần mức cho phép[54] Ngày 29 tháng 5 năm 2008, với gần 93% đại biểu tán thành, Quốc hội Việt Nam đã thông qua nghị quyết điều chỉnh địa giới hành chính thủ đô Hà Nội và các tỉnh, có hiệu lực từ 1 tháng 8 cùng năm. Theo nghị quyết, toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình được sáp nhập về Hà Nội. Từ diện tích gần 1.000 km² và dân số khoảng 3,4 triệu người, Hà Nội sau khi mở rộng có diện tích 3.324,92 km² và dân số 6.232.940 người, nằm trong 17 thủ đô lớn nhất thế giới.[24] Ngày 8 tháng 5 năm 2009, quận Hà Đông được thành lập từ thành phố Hà Đông trước đây và thành phố Sơn Tây được chuyển thành thị xã Sơn Tây. Năm 2010, Hà Nội đã tổ chức thành công Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội để lại dấu ấn trong lòng người dân và bạn bè quốc tế. Hoàng thành Thăng Long, văn bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám và Lễ hội Thánh Gióng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Nhiều công trình quan trọng như cầu Vĩnh Tuy, bảo tàng Hà Nội, công viên Hòa Bình… đã được khánh thành. Năm 2010 Hà Nội cũng đạt được những kết quả khả quan trọng trong phát triển kinh tế. GDP tăng 11%, thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ đạt 2.000 Đô la Mỹ. Tổng thu ngân sách trên địa bàn vượt 100.000 tỷ đồng. Hà Nội đã tổ chức thành công đại hội Đảng bộ lần thứ 15 với mục tiêu tới năm 2015 phát triển thành thành phố công nghiệp theo hướng hiện đại, trung tâm hành chính chính trị quốc gia, trung tâm lớn về kinh tế và giao lưu quốc tế, trung tâm văn hóa giáo dục y tế của cả Việt Nam. Thành phố phấn đấu GDP bình quân đầu người đạt 4.300 Đô la Mỹ vào năm 2015. Tính tới ngày 30 tháng 10 năm 2010, dân số toàn thành phố là 6,913 triệu người (tổng kiểm tra hộ khẩu trên địa bàn).[55] Ngày 27 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ra Nghị quyết 132/NQ-CP chia huyện Từ Liêm thành 2 quận là Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm.[56]
Hà Nội đã được UNESCO trao danh hiệu “Thành phố vì hòa bình” vào ngày 17 tháng 6 năm 1999.[57] Năm 2000, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã tặng thưởng thành phố Hà Nội danh hiệu “Thủ đô anh hùng” vào ngày 4 tháng 10. Với tuổi đời hơn 1000 năm, Hà Nội chính là thủ đô lâu đời nhất trong 11 thủ đô của các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á[58]
Kiến trúc và quy hoạch đô thị
Lịch sử lâu đời cùng nền văn hóa phong phú đã giúp Hà Nội có được kiến trúc đa dạng và mang dấu ấn riêng. Nhưng sau một thời gian phát triển thiếu quy hoạch, thành phố hiện nay tràn ngập những ngôi nhà ống trên các con phố lắt léo, những công trình tôn giáo nằm sâu trong các khu dân cư, những cao ốc bên các khu phố cũ, những cột điện chăng kín dây… nhưng thiếu vắng không gian công cộng. Năm 2010, Hà Nội lập Đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 cho một thành phố 9,1 triệu dân vào năm 2030 và trên 10 triệu người vào năm 2050.[59] Về mặt kiến trúc, có thể chia Hà Nội ngày nay thành bốn khu vực: khu phố cổ, khu thành cổ, khu phố Pháp và các khu mới quy hoạch.
Khu phố cổ
Khu phố cổ Hà Nội, trung tâm lịch sử của thành phố, hiện nay vẫn là khu vực đông đúc nhất. Địa giới không gian khu phố cổ có thể coi là một hình tam giác cân với đỉnh là phố Hàng Than, cạnh phía Đông là đê sông Hồng, cạnh phía Tây là Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, còn đáy là trục Hàng Bông–Hàng Gai–Cầu Gỗ. Qua nhiều năm, những cư dân sinh sống nhờ các nghề thủ công, buôn bán tiểu thương đã hình thành những con phố nghề đặc trưng mang những cái tên như Hàng Bạc, Hàng Bồ, Hàng Đường, Hàng Thùng…
Tất cả các ngôi nhà hai bên đường khu phố cổ đều theo kiểu nhà ống, mang nét đặc trưng: bề ngang hẹp, chiều dài sâu, đôi khi thông sang phố khác. Bên trong các ngôi nhà này cũng có cách bố trí gần như nhau: gian ngoài là nơi bán hoặc làm hàng, tiếp đó là khoảng sân lộ thiên để lấy ánh sáng, trên sân có bể cạn trang trí, quanh sân là cây cảnh, giàn hoa, gian nhà trong mới là nơi ăn ở và nối tiếp là khu phụ.[60] Những năm gần đây, mật độ dân số cao khiến phố cổ Hà Nội xuống cấp khá nghiêm trọng. Một phần cư dân ở đây phải sống trong điều kiện thiếu tiện nghi, thậm chí bất tiện, nguy hiểm. Một vài trường hợp đặc biệt được ghi nhận như ba người sống trong một diện tích 1,5 m² hay bốn người sống trong một căn phòng 10 m² nhưng trên nóc một nhà vệ sinh chung.[61] Trong khu 36 phố phường thuộc dự án bảo tồn, hiện chỉ còn một vài nhà cổ có giá trị, còn lại hầu hết đã được xây mới hoặc cải tạo tùy tiện.[62]
Khu thành cổ
Khu thành cổ, tức hoàng thành Thăng Long, nằm ở khoảng giữa hồ Tây và hồ Hoàn Kiếm, xuất hiện cùng với kinh đô Thăng Long. Trải qua nhiều lần phá hủy, xây dựng lại rồi tiếp tục bị tàn phá, hoàng thành Thăng Long hiện chỉ lưu lại ở một vài dấu vết. Trên phố Phan Ðình Phùng hiện nay còn cửa Bắc của thành được xây bằng đá và gạch rất kiên cố. Cột cờ Hà Nội xây năm 1812 hiện nằm trên đường Ðiện Biên Phủ. Công trình cao 40 mét này gồm ba nền thềm rộng và tháp cổ hình lăng trụ, bên trong có cầu thang xoắn ốc dẫn lên kỳ đài.[63] Phía Nam thành cổ còn lưu lại được một quần thể di tích đa dạng là Văn Miếu-Quốc Tử Giám, được xây từ đầu thế kỷ 11. Gồm hai di tích chính, Văn Miếu – nơi thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Chu Văn An – và Quốc Tử Giám – trường quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam – công trình không chỉ là điểm du lịch hấp dẫn mà còn là nơi tổ chức nhiều hoạt động văn hóa.
Ngày 31 tháng 7 năm 2010, tại kỳ họp lần thứ 34 tại Brasilia, thủ đô của Brasil, Ủy ban di sản thế giới của UNESCO đã công nhận khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là di sản văn hóa thế giới dựa trên 3 tiêu chí: Chiều dài lịch sử văn hóa, Tính liên tục của tài sản với tư cách là một trung tâm quyền lực, và Các tầng di tích di vật đa dạng, phong phú.[64] Sáng 1 tháng 10 năm 2010, trong buổi khai mạc Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Tổng Giám đốc UNESCO Irina Bokova đã trao bằng Di sản văn hóa thế giới khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long cho lãnh đạo Thành phố Hà Nội.[65]
Khu phố Pháp
-
Năm 1883, người Pháp bắt đầu lên kế hoạch xây dựng lại thành phố. Dựa trên các khu phố Hà Nội vốn có, những kiến trúc sư người Pháp vạch thêm các con đường mới, xây dựng các công trình theo hướng thích nghi với môi trường sở tại, tạo nên một phong cách ngày nay được gọi là kiến trúc thuộc địa.[62] Khu vực đô thị do người Pháp quy hoạch và xây dựng gồm ba khu: nhượng địa, thành cũ và nam hồ Hoàn Kiếm, ngày nay mang tên chung là khu phố cũ, hay khu phố Pháp.
Khu nhượng địa mang hình chữ nhật được giới hạn bởi các con phố Bạch Đằng, Tràng Tiền, Lê Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Nguyễn Huy Tự hiện nay. Vốn là đồn thủy quân của Hà Nội cổ, đến năm 1875, khu vực này được nhượng lại cho quân đội Pháp xây doanh trại, dinh thự và bệnh viện. Những công trình kiến trúc ở đây có mái lợp ngói đá đen, hành lang xung quanh, nhà cuốn hình cung. Dinh thự Tổng tham mưu trưởng quân Pháp, ngày nay là Nhà khách Bộ Quốc phòng xây dựng trong khoảng thời gian 1874 đến 1877. Bệnh viện Lanessan, hiện là Quân y viện 108 và Bệnh viện Hữu Nghị, khánh thành năm 1893.[66] Khu thành cũ gồm các phố Phan Đình Phùng, Hùng Vương, Hoàng Diệu, Điện Biên Phủ, Lê Hồng Phong, Chu Văn An, Trần Phú. Những con đường ở đây rộng, dài và được trồng nhiều cây xanh. Các biệt thự mang kiến trúc miền Bắc nước Pháp với trang trí cầu kỳ, tỷ mỉ. Một công trình kiến trúc tiêu biểu và quan trọng của khu thành cũ là Phủ Toàn quyền, ngày nay là Phủ Chủ tịch, được xây dựng trong khoảng 1900 đến 1902. Khu nam hồ Hoàn Kiếm cũng là một hình chữ nhật với hai cạnh dài là phố Tràng Thi – Tràng Tiền và phố Trần Hưng Đạo, hai cạnh ngang là phố Phan Bội Châu và phố Phan Chu Trinh. Khu vực này được xây dựng đồng thời với khu thành cũ song quy trình quy hoạch có chậm hơn do phải giải tỏa nhiều làng xóm. Một công trình quan trọng của thành phố là Nhà hát Lớn nằm ở đầu phố Tràng Tiền, được xây từ 1902 tới 1911, theo mẫu Opéra Garnier của Paris.[67]
Kiến trúc Pháp thường được xem như một di sản của Hà Nội, nhưng ngày nay đã phải chịu nhiều biến đổi. Những công trình cao tầng và các ngôi nhà giả phong cách Pháp làm khu phố cũ trở nên khó nhận diện. Bên cạnh đó, nhiều thửa đất được sát nhập để xây dựng các cao ốc khiến cảnh quan bị phá vỡ. Những hàng rào thấp dọc các con phố, những màu sắc tiêu biểu – tường vàng và cửa gỗ màu xanh – cũng bị thay đổi và che lấp bởi các biểu hiệu quảng cáo. Hiện Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội với sự giúp đỡ của vùng Île-de-France đang triển khai dự án bảo tồn và phát triển khu phố này.[68]
Kiến trúc hiện đại
Vào những năm 1960 và 1970, hàng loạt các khu nhà tập thể theo kiểu lắp ghép xuất hiện ở những khu phố Kim Liên, Trung Tự, Giảng Võ, Thành Công, Thanh Xuân Bắc… Do sử dụng các cấu kiện bê tông cốt thép sản xuất theo quy trình thủ công, những công trình này hiện rơi vào tình trạng xuống cấp nghiệm trọng.[62] Không chỉ vậy, do thiếu diện tích sinh hoạt, các cư dân những khu nhà tập thế lắp ghép còn xây dựng thêm những lồng sắt gắn ngoài trời xung quanh các căn hộ – thường được gọi là chuồng cọp – gây mất mỹ quan đô thị. Hiện những nhà tập thể lắp ghép đang dần được thay thể bởi các chung cư mới.
Cuối thập niên 1990 và thập niên 2000, nhiều con đường giao thông chính của Hà Nội, như Giải Phóng, Nguyễn Văn Cừ, Láng Hạ, Ngọc Khánh, Thái Hà… được mở rộng. Các khách sạn, cao ốc văn phòng mọc lên, những khu đô thị mới như Khu đô thị mới Nam Thăng Long, bắc Thăng Long, Du lịch Hồ Tây, Định Công, Bắc Linh Đàm… cũng dần xuất hiện.[69] Khoảng thời gian gần đây, khu vực Mỹ Đình được đô thị hóa nhanh chóng với hàng loạt những ngôi nhà cao tầng mọc lên. Tuy vậy, các khu đô thị mới này cũng gặp nhiều vấn đề, như công năng không hợp lý, thiếu quy hoạch đồng bộ, không đủ không gian công cộng.[62] Trong trận mưa kỷ lục cuối năm 2008, Mỹ Đình là một trong những khu vực chịu thiệt hại nặng nề vì nước ngập.
Cùng với dự phát triển, đo thị hóa các khu vực Hà Nội mở rộng, nhiều đường phố mới đã được đặt tên: Năm 2010 là 43[70] và năm 2012 là 34 đường, phố mới.[71] Khoảng thời gian 2010 – 2012 chứng kiến sự bùng nổ các dự án đầu tư xây dựng các khu đô thị, tòa cao ốc, chung cư bình dân và cao cấp, trung tâm thương mại với giá bán cao hơn giá thành tương đối nhiều.[72]
Các công trình nổi bật
Trước khi trở thành một trung tâm chính trị – vào thế kỷ 5 với triều đại nhà Tiền Lý – Hà Nội đã là một trung tâm của Phật giáo với các thiền phái danh tiếng.[73] Theo văn bia, từ giữa thế kỷ 6, chùa Trấn Quốc được xây dựng trên bãi Yên Hoa ngoài sông Hồng, tới 1615 do bãi sông bị lở, chùa mới dời về địa điểm hiện nay.[74] Đến thế kỷ 11, với sự xuất hiện của kinh đô Thăng Long, khi Phật giáo trở thành quốc giáo, các chùa chiền, thiền viện, sư tăng mới phát triển thực sự mạnh mẽ. Trong nhiều thế kỷ, Hà Nội tiếp tục xây dựng các ngôi chùa, trong đó một số vẫn tồn tại tới ngày nay. Có thể kể tới các ngôi chùa nổi tiếng như chùa Một Cột xây lần đầu năm 1049, chùa Láng từ thế kỷ 12, chùa Quán Sứ, chùa Kim Liên xuất hiện vào thế kỷ 17. Tuy vậy, hầu hết các ngôi chùa trong nội ô ngày nay đều được xây dựng lại vào thế kỷ 19.[75] Những triều đại Lý, Trần, Lê để lại rất ít dấu tích.
Vùng ngoại thành Hà Nội cũng có nhiều ngôi chùa nổi tiếng. Thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, một quần thể văn hóa–tôn giáo gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, các ngôi đền thờ thần, các ngôi đình thờ tín ngưỡng nông nghiệp… thường được gọi chung là Chùa Hương. Từ lâu, di tích này đã trở thành một địa điểm du lịch quan trọng, đặc biệt với lễ hội Chùa Hương được tổ chức vào mỗi mùa xuân. Cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây Nam, Chùa Thầy nằm trên địa phận của xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai. Ngôi chùa, thường gắn liền với tên tuổi vị thiền sư Từ Đạo Hạnh, là một di sản kiến trúc, văn hóa, lịch sử giá trị. Giống như Chùa Hương, lễ hội Chùa Thầy cũng được tổ chức vào mùa xuân, đầu tháng 3 hàng năm.[76]
Cùng với các ngôi chùa, Hà Nội còn có không ít đền thờ Đạo Lão, Đạo Khổng hay các thần bảo hộ như Thăng Long tứ trấn, Văn Miếu-Quốc Tử Giám, Đền Ngọc Sơn.. Trong khu phố cổ còn nhiều ngôi đình vẫn được những người dân thường xuyên tới lui tới bày tỏ lòng thành kính. Kitô giáo theo chân những người châu Âu vào Việt Nam, giúp Hà Nội có được Nhà thờ Lớn, Nhà thờ Cửa Bắc, Nhà thờ Hàm Long… Ngoài ra có thánh đường Hồi Giáo Jamia Al Noor (thánh đường Ánh Sáng) tại 12 Hàng Lược,[77] Thánh thất Cao Đài thủ đô. Các công trình tôn giáo ngày nay là một phần quan trọng của kiến trúc thành phố, nhưng không ít hiện phải nằm trong những khu dân cư đông đúc, thiếu không gian.[78]
Thời kỳ thuộc địa đã để lại Hà Nội rất nhiều các công trình kiến trúc lớn, hiện vẫn đóng vai trò quan trọng về công năng, như Nhà hát Lớn, Phủ Chủ tịch, Bắc Bộ phủ, trụ sở Bộ Ngoại giao, Bảo tàng Lịch sử, Khách sạn Sofitel Metropole… Một số công trình bị phá bỏ để xây mới – như Tòa thị chính được thay thế bằng trụ sở Ủy ban nhân dân thành phố – hoặc tu sửa nhưng không giữ được kiến trúc cũ – như ga Hàng Cỏ. Thời kỳ tiếp theo, Hà Nội cũng có thêm các công trình mới. Lăng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hội trường Ba Đình, ghi đậm dấu ấn của giai đoạn này.
Hai thập niên gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế, rất nhiều cao ốc và khách sạn như Daewoo, Sofitel Plaza, Melia, tòa nhà Tháp Hà Nội… mọc lên mang lại cho thành phố dáng vẻ hiện đại. Hà Nội cũng chứng kiến sự ra đời của những công trình quan trọng như Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình… Để kỷ niệm lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, hiện nay rất nhiều công trình được xây dựng, có thể kể đến Keangnam Hanoi Landmark Tower, Hà Nội City Complex, Bảo tàng Hà Nội và Tòa nhà Quốc hội.
Hành chính
-
-
Hà Nội là một trong năm thành phố trực thuộc Trung ương của Việt Nam, cùng với Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ. Riêng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh còn được xếp vào đô thị loại đặc biệt, thỏa mãn các tiêu chuẩn như tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động trên 90%, quy mô dân số trên 5 triệu, mật độ dân số bình quân từ 15.000 người/km² trở lên, cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh…[79]
Cũng như các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam, Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội do người dân thành phố trực tiếp bầu lên, là cơ quan quyền lực nhà nước ở thành phố. Hội đồng nhân dân Hà Nội hiện nay, nhiệm kỳ 2011–2016, gồm 95 đại biểu, chủ tịch là bà Ngô Thị Doãn Thanh.[80] Ủy ban nhân dân thành phố là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở thành phố, chịu trách nhiệm chấp hành hiến pháp, pháp luật, các văn bản của Chính phủ và các nghị quyết của hội đồng nhân dân thành phố. Ngoài các sở, ban như những tỉnh khác, thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội còn có thêm báo Hà Nội mới, báo Kinh tế và Đô thị, Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội, Ban Chỉ đạo 1000 năm Thăng Long, Ban quản lý khu phố cổ… và một số tổng công ty trên địa bàn thành phố. Hội đồng nhân đân và Ủy ban nhân dân Hà Nội có trụ sở nằm ở số 12 phố Lê Lai, bên cạnh hồ Hoàn Kiếm.[81]
Sau những thay đổi về địa giới và hành chính năm 2008, Hà Nội hiện có 30 đơn vị hành chính cấp huyện – gồm 12 quận, 17 huyện, 1 thị xã – và 584 đơn vị hành chính cấp xã – gồm 386 xã, 177 phường và 21 thị trấn. Ngày 27/12/2013, Chính phủ ban hành nghị quyết 132/NQ-CP điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để thành lập 2 quận và 23 phường.
Bản đồ Hành chính Hà Nội năm 2013
Danh sách các đơn vị hành chính Hà Nội |
|
Mã hành chính |
Tên Thị xã/Quận/Huyện |
Đơn vị trực thuộc |
Diện tích (km²) |
Dân số
(Điều tra dân số
ngày 1/4/2009) |
Mật độ |
12 Quận |
|
1 |
Quận Ba Đình |
14 phường |
9,22 |
225.910 |
24.502 |
2 |
Quận Hoàn Kiếm |
18 phường |
5,29 |
147.334 |
27.851 |
3 |
Quận Tây Hồ |
8 phường |
24 |
130.639 |
5.443 |
4 |
Quận Long Biên |
14 phường |
60,38 |
226.913 |
3.758 |
5 |
Quận Cầu Giấy |
8 phường |
12,04 |
225.643 |
18.741 |
6 |
Quận Đống Đa |
21 phường |
9,96 |
370.117 |
37.160 |
7 |
Quận Hai Bà Trưng |
20 phường |
9,6 |
295.726 |
30.805 |
8 |
Quận Hoàng Mai |
14 phường |
41,04 |
335.509 |
8.175 |
9 |
Quận Thanh Xuân |
11 phường |
9,11 |
223.694 |
24.555 |
10 |
Quận Hà Đông |
17 phường |
47,91 |
233.136 |
4.866 |
11 |
Quận Bắc Từ Liêm |
13 phường |
43,3534 |
320.414 |
7.391 |
12 |
Quận Nam Từ Liêm |
10 phường |
32,2736 |
232.894 |
7.216 |
|
Cộng các Quận |
168 phường |
233,55 |
2.414.721 |
10.339 |
1 Thị xã |
|
269 |
Thị xã Sơn Tây |
9 phường và 6 xã |
113,47 |
125.749 |
1.108 |
17 Huyện |
|
271 |
Huyện Ba Vì |
30 xã và 1 thị trấn |
428 |
246.120 |
575 |
277 |
Huyện Chương Mỹ |
30 xã và 2 thị trấn |
232,9 |
286.359 |
1.230 |
273 |
Huyện Đan Phượng |
15 xã và 1 thị trấn |
76,8 |
142.480 |
1.855 |
17 |
Huyện Đông Anh |
23 xã và 1 thị trấn |
182,3 |
333.337 |
1.829 |
18 |
Huyện Gia Lâm |
20 xã và 2 thị trấn |
114 |
229.735 |
2.015 |
274 |
Huyện Hoài Đức |
19 xã và 1 thị trấn |
95.3 |
191.106 |
2.005 |
250 |
Huyện Mê Linh |
16 xã và 2 thị trấn |
141.26 |
191.490 |
1.356 |
282 |
Huyện Mỹ Đức |
21 xã và 1 thị trấn |
230 |
169.999 |
739 |
280 |
Huyện Phú Xuyên |
26 xã và 2 thị trấn |
171.1 |
181.388 |
1.060 |
272 |
Huyện Phúc Thọ |
25 xã và 1 thị trấn |
113,2 |
159.484 |
1.409 |
275 |
Huyện Quốc Oai |
20 xã và 1 thị trấn |
147 |
160.190 |
1.090 |
16 |
Huyện Sóc Sơn |
25 xã và 1 thị trấn |
306,74 |
282.536 |
921 |
276 |
Huyện Thạch Thất |
22 xã và 1 thị trấn |
202,5 |
177.545 |
877 |
278 |
Huyện Thanh Oai |
20 xã và 1 thị trấn |
129,6 |
167.250 |
1.291 |
50 |
Huyện Thanh Trì |
15 xã và 1 thị trấn |
68.22 |
198.706 |
2.913 |
279 |
Huyện Thường Tín |
28 xã và 1 thị trấn |
127.7 |
219.248 |
1.717 |
281 |
Huyện Ứng Hòa |
28 xã và 1 thị trấn |
183,72 |
182.008 |
991 |
|
Cộng các huyện |
383 xã và
21 thị trấn |
2.997,68 |
3.911.439 |
1.305 |
|
Toàn thành phố |
177 phường,
389 xã và
21 thị trấn |
3.344,7 |
6.451.909 |
1.929 |
Số liệu về dân số trên đây được lấy từ website của Tổng cục Thống kê http://www.gso.gov.vn/
Kinh tế
Vị thế trung tâm kinh tế của Hà Nội đã được thiết lập từ rất lâu trong lịch sử. Tên những con phố như Hàng Bạc, Hàng Đường, Hang Than… đã minh chứng cho điều này. Tới thế kỷ gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của Thành phố Hồ Chí Minh và khu vực Nam Bộ, Hà Nội chỉ còn giữ vị trí quan trọng thứ hai trong nền kinh tế Việt Nam. Năm 2010, Hà Nội được xếp thành phố toàn cầu loại gamma+.
Sau một thời gian dài của thời kỳ bao cấp, từ đầu thập niên 1990, kinh tế Hà Nội bắt đầu ghi nhận những bước tiến mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của thành phố thời kỳ 1991–1995 đạt 12,52%, thời kỳ 1996–2000 là 10,38%. Từ năm 1991 tới 1999, GDP bình quân đầu người của Hà Nội tăng từ 470 USD lên 915 USD, gấp 2,07 so với trung bình của Việt Nam. Theo số liệu năm 2010, GDP của Hà Nội chiếm 12,73% của cả quốc gia và khoảng 41% so với toàn vùng Đồng bằng sông Hồng.[82] Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2014, Hà Nội xếp ở vị trí thứ 26/63 tỉnh thành.[83]
Giai đoạn phát triển của thập niên 1990 cũng cho thấy Hà Nội đã có những thay đổi về cơ cấu kinh tế. Từ 1990 tới 2000, trong khi tỷ trọng ngành công nghiệp tăng mạnh từ 29,1% lên 38% thì nông–lâm nghiệp và thủy sản từ 9% giảm xuống còn 3,8%. Tỷ trọng ngành dịch vụ cũng giảm trong khoảng thời gian này, từ 61,9% xuống còn 58,2%. Ngành công nghiệp của Hà Nội vẫn tập trung vào 5 lĩnh vực chính, chiếm tới 75,7% tổng giá trị sản xuất công nghiệp, là cơ–kim khí, điện–điện tử, dệt–may–giày, chế biến thực phẩm và công nghiệp vật liệu. Bên cạnh đó, nhiều làng nghề truyền thống như gốm Bát Tràng, may ở Cổ Nhuế, đồ mỹ nghệ Vân Hà… cũng dần phục hồi và phát triển.[82]
Năm 2007, GDP bình quân đầu người của Hà Nội lên tới 31,8 triệu đồng, trong khi con số của cả Việt Nam là 13,4 triệu.[84] Hà Nội là một trong những địa phương nhận được đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhiều nhất, với 1.681,2 triệu USD và 290 dự án.[85][86] Thành phố cũng là địa điểm của 1.600 văn phòng đại diện nước ngoài, 14 khu công nghiệp cùng 1,6 vạn cơ sở sản xuất công nghiệp. Nhưng đi đôi với sự phát triển kinh tế, những khu công nghiệp này đang khiến Hà Nội phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường.[87] Bên cạnh những công ty nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Hà Nội. Năm 2003, với gần 300.000 lao động, các doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 77% giá trị sản xuất công nghiệp của thành phố. Ngoài ra, 15.500 hộ sản xuất công nghiệp cũng thu hút gần 500.000 lao động. Tổng cộng, các doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 22% tổng đầu tư xã hội, hơn 20% GDP, 22% ngân sách thành phố và 10% kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội.[88]
Sau khi mở rộng địa giới hành chính, với hơn 6 triệu dân, Hà Nội có 3,2 triệu người đang trong độ tuổi lao động.[89] Mặc dù vậy, thành phố vẫn thiếu lao động có trình độ chuyên môn cao. Nhiều sinh viên tốt nghiệp vẫn phải đào tạo lại, cơ cấu và chất lượng nguồn lao động chưa dịch chuyển theo yêu cầu cơ cấu ngành kinh tế. Hà Nội còn phải đối đầu với nhiều vấn đề khó khăn khác. Năng lực cạnh tranh của nhiều sản phẩm dịch vụ cũng như sức hấp dẫn môi trường đầu tư của thành phố còn thấp. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn chậm, đặc biệt cơ cấu nội ngành công nghiệp, dịch vụ và các sản phẩm chủ lực mũi nhọn. Chất lượng quy hoạch phát triển các ngành kinh tế ở Hà Nội không cao và thành phố cũng chưa huy động tốt tiềm năng kinh tế trong dân cư.[90]
Du lịch
-
So với các tỉnh, thành phố khác của Việt Nam, Hà Nội là một thành phố có tiềm năng để phát triển du lịch. Trong nội ô, cùng với các công trình kiến trúc, Hà Nội còn sở hữu một hệ thống bảo tàng đa dạng bậc nhất Việt Nam. Thành phố cũng có nhiều lợi thế trong việc giới thiệu văn hóa Việt Nam với du khách nước ngoài thông qua các nhà hát sân khấu dân gian, các làng nghề truyền thống…
Mặc dù vậy, các thống kê cho thấy du lịch Hà Nội không phải là một thành phố du lịch hấp dẫn. Với nhiều du khách quốc tế, thành phố chỉ là điểm chuyển tiếp trên hành trình khám phá Việt Nam của họ. Năm 2007, Hà Nội đón 1,1 triệu lượt khách du lịch ngoại quốc,[91] gần bằng một nửa lượng khách của Thành phố Hồ Chí Minh.[92] Năm 2008, trong 9 triệu lượt khách của thành phố, có 1,3 triệu lượt khách nước ngoài.[93] Tỷ lệ du khách tới thăm các bảo tàng Hà Nội cũng không cao. Hàng năm, bảo tàng Dân tộc học ở Hà Nội, một bảo tàng có tiếng trong khu vực, điểm đến được yêu thích trong các sách hướng dẫn du lịch nổi tiếng, có 180.000 khách tới thăm, trong đó một nửa là người nước ngoài.[94]
Theo thống kê năm 2007, Hà Nội có 511 cơ sở lưu trú với hơn 12.700 phòng đang hoạt động. Trong số này chỉ có 178 khách sạn được xếp hạng với 8.424 phòng. Tình trạng thiếu phòng cao cấp là một trong những nguyên nhân khiến lượng khách nước ngoài tới Hà Nội không cao. Với mức giá được coi là khá đắt ở Việt Nam, khoảng 126,26 USD một đêm cho phòng khách sạn 5 sao, hiệu suất thuê phòng các khách sạn 3–5 sao ở Hà Nội hiện dao động từ 80% đến 90%. Ngoài 9 khách sạn 5 sao là Daewoo, Horison, Hilton Hanoi Opera, Melia, Nikko, Sofitel Metropole, Sheraton, Sofitel Plaza, và InterContinental, thành phố còn 6 khách sạn 4 sao và 19 khách sạn 3 sao.[95]
Du lịch ở Hà Nội cũng còn không ít những tệ nạn, tiêu cực. Trang Lonely Planet cảnh báo tình trạng du khách nước ngoài bị taxi và xe buýt lừa đến một số khách sạn giả danh nổi tiếng và bị đòi giá cao; ở quanh khu vực hồ Hoàn Kiếm du khách đồng tính nam có thể bị mời mọc vào những quán karaoke, nơi hóa đơn thanh toán cho một vài đồ uống có thể tới 100 USD hoặc hơn.[96]
Giao thông
-
Là thành phố thủ đô và có vị trí ở khu vực trung tâm của miền Bắc, bên cạnh con sông Hồng, giao thông từ Hà Nội đến các tỉnh khác của Việt Nam tương đối thuận tiện, bao gồm cả đường không, đường bộ, đường thủy và đường sắt. Giao thông đường không, ngoài sân bay quốc tế Nội Bài cách trung tâm khoảng 35 km, thành phố còn có sân bay Gia Lâm ở phía Đông, thuộc quận Long Biên, từng là sân bay chính của Hà Nội những năm 1970, hiện sân bay Gia Lâm chỉ phục vụ cho các chuyến bay dịch vụ của trực thăng, gồm cả dịch vụ du lịch. Bên cạnh đó là sân bay Bạch Mai thuộc quận Đống Đa được xây dựng từ năm 1919 và có thời gian đóng vai trò như một sân bay quân sự.[97] Ngoài ra, Hà Nội còn có sân bay quân sự Hòa Lạc tại huyện Ba Vì, sân bay quân sự Miếu Môn tại huyện Mỹ Đức. Hà Nội là đầu mối giao thông của năm tuyến đường sắt trong nước và một tuyến liên vận sang Bắc Kinh, Trung Quốc, đi nhiều nước châu Âu, một tuyến quốc tế sang Côn Minh, Trung Quốc. Các bến xe Phía Nam, Gia Lâm, Lương Yên, Nước Ngầm, Giáp Bát, Yên Nghĩa, Mỹ Đình là nơi các xe chở khách liên tỉnh tỏa đi khắp đất nước theo các quốc lộ 1A xuyên Bắc – Nam, quốc lộ 2 đến Hà Giang, quốc lộ 3 đến Cao Bằng; quốc lộ 5 đi Hải Phòng, quốc lộ 18 đi Quảng Ninh, quốc lộ 6 và quốc lộ 32 đi các tỉnh Tây Bắc. Ngoài ra, Hà Nội còn có các nhiều tuyến đường cao tốc trên địa bàn như đại lộ Thăng Long, Pháp Vân-Cầu Giẽ, ngoài ra các tuyến cao tốc Hà Nội-Lạng Sơn, Hà Nội-Hải Phòng, Nội Bài-Lào Cai, Hà Nội-Thái Nguyên cũng đang trong quá trình xây dựng. Về giao thông đường thủy, Hà Nội cũng là đầu mối giao thông quan trọng với bến Phà Đen đi Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Việt Trì và bến Hàm Tử Quan đi Phả Lại.
Giao thông tại một ngã tư Hà Nội, 2011
Trong nội ô, các con phố của Hà Nội thường xuyên ùn tắc do cơ sở hạ tầng đô thị còn thấp kém, lượng phương tiện tham gia giao thông quá lớn – đặc biệt là xe máy –, và ý thức chưa tốt của các cư dân thành phố.[98] Lại thêm khâu xử lý vi phạm giao thông của cảnh sát giao thông hiện nay chưa nghiêm, việc quản lý nhà nước và tổ chức giao thông còn nhiều bất cập, luôn thay đổi tùy tiện.[98][99] Giáo sư Seymour Papert – nhà khoa học máy tính từ Viện Công nghệ Massachusetts bị tai nạn ở Hà Nội vào cuối năm 2006 – đã miêu tả giao thông của thành phố như một ví dụ minh họa cho giả thuyết về “hành vi hợp trội”, phương thức mà các đám đông, tuân theo các nguyên tắc đơn giản và không cần sự lãnh đạo, tạo ra các vận động và hệ thống phức tạp.[100] Trên những đường phố Hà Nội, vỉa hè thường bị chiếm dụng khiến người đi bộ phải đi xuống lòng đường. Trong những năm gần đây, Hà Nội chỉ phát triển thêm 5 tới 10 km đường mỗi năm.[101] Nhiều trục đường của thành phố thiết kế chưa khoa học, không đồng bộ và hệ thống đèn giao thông ở một vài điểm cũng thiếu hợp lý. Thêm nữa, hiện tượng ngập úng mỗi khi mưa lớn cũng gây khó khăn cho người tham gia giao thông. Trong thập niên 2000, hệ thống xe buýt – loại hình phương tiện giao thông công cộng duy nhất – của thành phố có phát triển mạnh, nhưng phần đông người dân vẫn sử dụng các phương tiện cá nhân, chủ yếu là xe máy.
Theo quy hoạch giao thông Hà Nội được Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt năm 2008, chi phí cho phần phát triển đường bộ lên tới 100.000 tỷ đồng. Ba tuyến đường vành đai, 30 tuyến đường trục chính cùng nhiều tuyến phố sẽ được xây dựng mới hoặc cải tạo lại.[101] Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Hồ Nghĩa Dũng dự báo tới năm 2015, thành phố Hà Nội sẽ hết tình trạng ùn tắc giao thông.[102] Cho đến cuối năm 2011, Hà Nội hiện có 7.365 km đường giao thông, trong đó 20% là trục đường chính, 7 trục hướng tâm và 3 tuyến vành đai, cũng như đang quản lý hơn 4,3 triệu phương tiện giao thông các loại, trong đó riêng xe máy chiếm gần 4 triệu.[103] Trong 11 tháng đầu năm 2011, trên địa bàn Hà Nội đã xảy ra 533 vụ tai nạn giao thông đường bộ, đường sắt làm 531 người chết và 144 người bị thương.[103]
Xã hội
Nhà ở
Mặc dù là thủ đô của một quốc gia nghèo, thu nhập bình quân đầu người thấp, nhưng Hà Nội lại là một trong những thành phố đắt đỏ nhất thế giới và giá bất động sản không thua kém các quốc gia giàu có.[104] Điều này đã khiến người dân Hà Nội, đặc biệt tầng lớp có thu nhập thấp, phải sống trong điều kiện chật chội, thiếu tiện nghi. Theo số liệu năm 2003, 30% dân số Hà Nội sống dưới mức 3 mét vuông một người.[52] Ở những khu phố trung tâm, tình trạng còn bi đát hơn rất nhiều. Nhà nước cũng không đủ khả năng để hỗ trợ cho người dân. Chỉ khoảng 30% cán bộ, công nhân, viên chức được phân phối nhà ở.[105]
Do truyền thống văn hóa và những khó khăn về chỗ ở, hiện tượng 3, 4 thế hệ cùng sống chung trong một ngôi nhà rất phổ biến ở Hà Nội. [106]
Mỗi năm, thành phố xây dựng mới hàng triệu mét vuông nhà, nhưng giá vẫn ở mức quá cao so với phần lớn người dân. Gần như 100% các gia đình trẻ ở Hà Nội chưa có nhà ở, phải sống ghép chung hoặc thuê nhà ở tạm [cần dẫn nguồn]. Với giá từ 500 triệu tới 1,5 tỷ đồng một căn hộ chung cư, một người dân có thu nhập trung bình chỉ có thể mua được sau nhiều năm tích lũy tài chính.[105] Bên cạnh những khu chung cư mới mọc thêm ngày càng nhiều, vẫn còn những bộ phận dân cư phải sống trong những điều kiện hết sức lạc hậu. Tại bãi An Dương, dải đất giữa sông Hồng thuộc địa phận Yên Phụ, Từ Liên, Phúc Xá, hàng trăm gia đình sống trong những ngôi nhà lợp mái tre xây từ nhiều năm trước, không có điện, không có trường học và không được chăm sóc về y tế.[107]
Việc chia các đất công cũng gây bức xúc dư luận. Như năm 2006, báo chí đặt vấn đề về “Nhà nước thiệt hại 3.000 tỉ đồng do quyết định duyệt giá đất của ủy ban nhân dân TP Hà Nội” [108]
Y tế
Theo con số của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2011 thì năm 2010, thành phố Hà Nội có 650 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc sở Y tế thành phố, trong đó có 40 bệnh viện, 29 phòng khám khu vực và 575 trạm y tế.[109] Số giường bệnh trực thuộc sở Y tế Hà Nội là 11.536 giường, chiếm khoảng một phần hai mươi số giường bệnh toàn quốc; tính trung bình ở Hà Nội 569 người/giường bệnh so với 310 người/giường bệnh ở Thành phố Hồ Chí Minh.[110] Điều này dẫn đến tình trạng nhiều bệnh viện 1 giường bệnh có đến 2-3 bệnh nhân nằm điều trị là thường xuyên gặp.[111] Cũng theo thống kê năm 2010, thành phố Hà Nội có 2.974 bác sĩ, 2.584 y sĩ và 3.970 y tá, so với Thành phố Hồ Chí Minh 6.073 bác sĩ, 1.875 y sĩ và 10.474 y tá.[112] Do sự phát triển không đồng đều, những bệnh viện lớn của Hà Nội, cũng là của cả miền Bắc, chỉ tập trung trong khu vực nội ô thành phố. Các bệnh viện Việt Đức, Bạch Mai, Nhi Thụy Điển và Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đều trong tình trạng quá tải.[113][114] Cùng với hệ thống y tế của nhà nước, Hà Nội cũng có một hệ thống bệnh viện, phòng khám tư nhân đang dần phát triển. Năm 2007, toàn thành phố có 8 bệnh viện tư nhân với khoảng 300 giường bệnh. Theo đề án đang được triển khai, đến năm 2010, Hà Nội sẽ có thêm 8 đến 10 bệnh viện tư nhân. Khi đó, tổng số giường bệnh tư nhân sẽ lên tới khoảng 2.500 giường.[115]
Cũng giống như Thành phố Hồ Chí Minh, điều kiện chăm sóc y tế giữa nội ô và các huyện ngoại thành Hà Nội có sự chênh lệch lớn. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính năm 2008, mức chênh lệch này càng tăng, thể hiện qua các chỉ số y tế cơ bản. Nếu như tại địa phận Hà Nội cũ, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng là 9,7%, thì ở Hà Tây, con số lên tới 17%. Tương tự, tuổi thọ trung bình tại khu vực Hà Nội cũ khá cao, 79 tuổi, nhưng sau khi mở rộng, con số này bị giảm xuống còn 75,6 tuổi. Tại không ít khu vực thuộc các huyện ngoại thành, cư dân vẫn phải sống trong điều kiện vệ sinh yếu kém, thiếu nước sạch để sinh hoạt, phải sử dụng nước ao, nước giếng.[116]
Giáo dục
Từ nhiều thế kỷ, vị thế kinh đô đã giúp Thăng Long – Hà Nội trở thành trung tâm giáo dục của Việt Nam. Từ giữa thế kỷ 15 cho tới cuối thế kỷ 19, Hà Nội luôn là một trong những địa điểm chính để tổ chức các cuộc thi thuộc hệ thống khoa bảng, nhằm chọn những nhân vật tài năng bổ sung vào bộ máy quan lại. Tuy vậy, về số lượng trạng nguyên, Hà Nội lại thấp hơn những vùng đất truyền thống khác như Bắc Ninh, Hải Dương.[117] Tới thời Pháp thuộc, với vị trí là thủ đô của Liên bang Đông Dương, Hà Nội là một trung tâm giáo dục của khu vực, nơi người Pháp đặt các trường dạy nghề và giáo dục bậc đại học, trong đó có Viện Đại học Đông Dương, Trường Y khoa Đông Dương là các trường mà sau này trở thành nền móng của giáo dục đại học ở Việt Nam.[118]
Hà Nội ngày nay vẫn là trung tâm giáo dục lớn nhất Việt Nam. Năm 2009, Hà Nội có 677 trường tiểu học, 581 trường trung học cơ sở và 186 trường trung học phổ thông với 27.552 lớp học, 982.579 học sinh.[119][120][121] Hệ thống trường trung học phổ thông, Hà Nội có 40 trường công lập, một vài trong số đó nổi tiếng vì chất lượng giảng dạy và truyền thống lâu đời, như Trung học Chuyên Hà Nội – Amsterdam, Trung học phổ thông chuyên Nguyễn Huệ, Trung học Chu Văn An, Trung học Trần Phú. Bên cạnh các trường công lập, thành phố còn có 65 trường dân lập và 5 trường bán công.[122] Hà Nội cũng là địa điểm của ba trường trung học đặc biệt, trực thuộc các trường đại học, là Trường Trung học phổ thông Chuyên Ngoại ngữ thuộc Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Trung học phổ thông chuyên Khoa học Tự nhiên thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường Trung học phổ thông Chuyên thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Các trường trung học chuyên này là nơi tập trung nhiều học sinh phổ thông ưu tú không chỉ của Hà Nội mà còn của toàn Việt Nam. Cùng với các trung học danh tiếng, hệ thống giáo dục của thành phố vẫn duy trì những trường bổ túc và cả các lớp học xóa mù chữ. Sau khi Hà Tây được sát nhập vào thành phố, Hà Nội hiện đứng đầu Việt Nam về số lượng người không biết chữ. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đạo tạo Việt Nam năm 2008, toàn thành phố có gần 235.000 người mù chữ trên tổng số 1,7 triệu người của cả quốc gia.[123]
Là một trong hai trung tâm giáo dục đại học lớn nhất quốc gia, trên địa bàn Hà Nội có trên 50 trường đại học cùng nhiều cao đẳng, đạo tạo hầu hết các ngành nghề quan trọng. Năm 2007, tại thành phố có 606.207 sinh viên, Hà Tây cũng tập trung 29.435 sinh viên.[124] Nhiều trường đại học ở đây như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Y, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Học viện Kỹ thuật Quân sự, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội là những trường đào tạo đa ngành và chuyên ngành hàng đầu của Việt Nam.
Văn hóa
-
Thể thao
Với vai trò thủ đô, Hà Nội là nơi tập trung nhiều câu lạc bộ thể thao lớn cùng các công trình thể thao quan trọng của Việt Nam. Hiện nay thành phố có hai câu lạc bộ bóng đá: Hà Nội T&T thi đấu tại V.League 1, Câu lạc bộ Hà Nội thi đấu tại giải hạng nhất. Ngoài ra, trong quá khứ, Hà Nộ từng có nhiều đội bóng mạnh như Thể Công, Công an Hà Nội, Tổng cục Đường sắt (thành lập năm 1956), Tổng cục Bưu điện (thành lập năm 1957), Phòng không Không quân, Thanh niên Hà Nội,[125] Quân khu Thủ đô, Công nhân Xây dựng Hà Nội. Những vận động viên của Hà Nội luôn đóng vai trò quan trọng trong đoàn thể thao Việt Nam tham dự các kỳ thi đấu quốc tế. Từ năm 2001 đến 2003, các vận động viên của thành phố đã đạt được tổng cộng 3.414 huy chương, gồm: 54 huy chương thế giới, 95 huy chương châu Á, 647 huy chương Đông Nam Á và quốc tế, cùng 2.591 huy chương tại các giải đấu quốc gia.[126]
Hà Nội dẫn đầu Việt Nam về tỷ lệ người thường xuyên tập luyện thể thao với 28,5%.[127] Nhưng dân số quá đông, không gian đô thị ngày càng chật chội khiến những địa điểm thể thao trở nên khan hiếm và không đáp ứng đủ nhu cầu của người dân. Hầu hết các trường đại học và cao đẳng tại Hà Nội đều trong tình trạng thiếu sân chơi. Một vài trường có diện tích rộng, nhưng lại sử dụng một phần để xây dựng sân quần vợt với hiệu suất sử dụng không cao. Các sinh viên của thành phố thường phải chơi bóng trong những khoảng sân có diện tích nhỏ hẹp.[128]
Sau nhiều năm sử dụng Sân vận động Hàng Đẫy, được xây dựng năm 1958,[125] nằm trong trung tâm thành phố làm nơi thi đấu chính, từ năm 2003, Hà Nội có thêm Sân vận động Mỹ Đình nằm tại phía Nam thành phố, sức chứa 40.192 chỗ ngồi.[129]
Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, nằm trong Liên hợp thể thao quốc gia, từng là địa điểm chính của Đại hội Thể thao Đông Nam Á năm 2003, nơi tổ chức lễ khai mạc, lễ bế mạc, các trận thi đấu bóng đá nam & các cuộc tranh tài trong môn điền kinh. Tại Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2008, trước bốn vạn khán giả, Mỹ Đình là nơi chứng kiến Đội tuyển quốc gia Việt Nam bước lên ngôi cao nhất của bóng đá Đông Nam Á. Một số trung tâm thể thao lớn khác của thành phố có thể kể tới như Nhà thi đấu Quần Ngựa, Trung tâm Huấn luyện thể thao Quốc gia I… cùng hơn 20 điểm sân bãi, nhà tập khác.
Ngày 8 tháng 11 năm 2012, Hà Nội được Hội đồng Thể thao châu Á trao quyền đăng cai ASIAD 18,[130][131] nhưng đến ngày 17 tháng 4 năm 2014, Việt Nam đã xin rút quyền đăng cai giải do vấn đề về kinh phí tổ chức.[132][133] Tuy nhiên, sau đó, Chính phủ Việt Nam đã quyết định xin rút quyền đăng cai.
Các địa điểm văn hóa, giải trí
Theo con số giữa năm 2008, toàn thành phố Hà Nội có 17 rạp hát, trong đó 12 rạp thuộc hai quận Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng.[134] Nhà hát Lớn của thành phố, nằm tại số 1 phố Tràng Tiền, quận Hoàn kiếm do người Pháp xây dựng và hoàn thành vào năm 1911. Ngày nay, đây là nơi biểu diễn các loại hình nghệ thuật cổ điển như opera, nhạc thính phòng, kịch nói, cũng là trung tâm của các hội nghị, gặp gỡ. Nằm tại số 91 phố Trần Hưng Đạo, Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội cũng là một địa điểm biểu diễn quan trọng, nơi diễn ra các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thời trang, các cuộc thi hoa hậu… cùng các hoạt động khoa học, hội thảo, hội nghị, triển lãm.
Dành cho sân khấu kịch, thành phố có Nhà hát Tuổi trẻ tại số 11 phố Ngô Thì Nhậm quận Hai Bà Trưng với 650 chỗ ngồi, Nhà hát Chuông Vàng tại 72 Hàng Bạc quận Hoàn kiếm với 250 ghế ngồi, Nhà hát Kịch Việt Nam nằm trên con đường nhỏ sau lưng Nhà hát Lớn với 170 ghế. Các môn nghệ thuật truyền thống của Việt Nam cũng có sân khấu riêng. Nhà hát Hồng Hà tại 51 Đường Thành dành cho sân khấu tuồng. Nhà hát Cải lương Trung ương nằm tại 164 Hồng Mai, quận Hai Bà Trưng. Môn nghệ thuật chèo cũng có riêng Nhà hát Chèo Việt Nam ở khu Văn công Mai Dịch, huyện Từ Liêm, và từ năm 2007 thêm một điểm biểu diễn ở Kim Mã, Giang Văn Minh.[135] Rạp múa rối nước Thăng Long ở phố Đinh Tiên Hoàng, bờ hồ Hoàn Kiếm, thường được nhiều khách du lịch tìm đến.
Hà Nội là thành phố có hệ thống bảo tàng đa dạng bậc nhất Việt Nam. Một phần lớn trong số đó là các bảo tàng lịch sử, như Bảo tàng Lịch sử Quân sự, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Chiến thắng B52, Bảo tàng Cách mạng… Các lĩnh vực khác có thể kể tới Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. Tổng cộng, Hà Nội có hơn 10 bảo tàng, so với hệ thống gần 120 bảo tàng của Việt Nam.[136] Năm 2009, tại Hà Nội có 32 thư viện do địa phương quản lý với lượng sách 565 nghìn bản. Như vậy, số thư viện địa phương của Hà Nội hiện nay lớn hơn Thành phố Hồ Chí Minh – 26 thư viện với 2.420 ngàn cuốn – nhưng lượng sách chỉ bằng khoảng một phần tư.[137] Ngoài hệ thống thư viện địa phương, tại Hà Nội còn phải kể tới các thư viện trong trường đại học. Thư viện Quốc gia tọa lạc tại 31 phố Tràng Thi, với 800.752 đầu sách, 8.677 tựa báo, tạp chí, có thể xem như thư viện quan trọng nhất của Việt Nam.[138]
Trong hơn 10 rạp chiếu phim của Hà Nội, chỉ một vài rạp được trang bị hiện đại và thu hút khán giả, như CGV nằm trong TTTM Vincom hay Trung tâm chiếu phim quốc gia số 2 Láng Hạ quận Đống Đa. Những rạp khác như Đặng Dung, Tháng 8 rất vắng người xem vì chất lượng âm thanh và hình ảnh kém. Fansland, rạp chiếu phim từng một thời nổi tiếng với các tác phẩm điện ảnh kinh điển, đã phải đóng cửa vào giữa năm 2008 bởi không có khán giả.[139] Các quán bar, vũ trường cũng là điểm đến của 1 bộ phận thanh niên Hà Nội. Nhiều vũ trường từng nổi tiếng nhưng chỉ tồn tại một thời gian rồi đóng cửa vì nhiều lý do. Vũ trường New Century trên phố Tràng Thi mở cửa từ năm 1999, từng là tụ điểm ăn chơi bậc nhất của Hà Nội, đã phải đóng cửa vào năm 2007 bởi dính líu tới mại dâm và ma túy. Trước đó, vũ trường Đêm Màu Hồng ở 78 Hàng Chiếu cũng kết thúc trong một vụ cháy lớn vào năm 1999.[140]
Nằm ở quận Tây Hồ, Công viên nước Hồ Tây là một địa điểm giải trí hấp dẫn của Hà Nội. Công viên có diện tích 35.560 m², chia thành 5 khu vui chơi được trang bị hiện đại với các đường trượt cao tốc, bể tạo sóng, bể massage…[141] Trong nội ô thành phố cũng có một vài công viên lớn như Công viên Thống Nhất, Công viên Thủ Lệ, Công viên Tuổi Trẻ. Hà Nội còn là thành phố có nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng. Làng gốm Bát Tràng, làng Lụa Vạn Phúc, Đúc đồng Ngũ Xã… không chỉ đóng vai trò về kinh tế mà còn là những địa điểm văn hóa, du lịch.
Làng nghề truyền thống
Thành phố Hà Nội trước kia đã nổi tiếng với những làng nghề phong phú, thể hiện qua câu thành ngữ quen thuộc “Hà Nội 36 phố phường”. Theo thời gian, bộ mặt đô thị của khu phố cổ đã có nhiều thay đổi, nhưng những con phố nơi đây vẫn giữ nguyên những cái tên thuở trước và không ít trong số đó vẫn là nơi buôn bán, kinh doanh những mặt hàng truyền thống cũ. Sau khi Hà Tây được sát nhập vào Hà Nội, Hà Nội còn có thêm nhiều làng nghề danh tiếng khác. Theo số liệu cuối năm 2008, toàn Hà Nội có 1.264 làng nghề, là nơi tập trung làng nghề đông đúc bậc nhất Việt Nam.[142]
Nằm trong trung tâm khu phố cổ, Hàng Bạc trước đây là nơi tập trung những người sinh sống bằng các nghề đúc bạc nén, kim hoàn và đổi tiền. Những thợ kim hoàn của Hàng Bạc có kỹ thuật tinh xảo, xuất thân từ ba làng nghề làm đồ vàng bạc nổi tiếng của miền Bắc Việt Nam: làng Châu Khê ở tỉnh Hải Dương, làng Định Công ở quận Hoàng Mai và làng Đồng Sâm thuộc tỉnh Thái Bình. Thế kỷ 15, Lưu Xuân Tín, vị quan thượng thư bộ Lại vốn người làng Châu Khê, được triều đình nhà Lê giao cho việc lập xưởng đúc bạc nén tại kinh thành Thǎng Long. Nhờ vậy, những người thợ Châu Khê tới Hà Nội và không chỉ làm bạc nén, họ làm cả nghề trang trí vàng bạc. Khi nhà Nguyễn lấy Huế làm kinh đô, xưởng đúc bạc nén cũng chuyển tới kinh thành mới, nhưng những người thợ Châu Khê vẫn ở lại Thăng Long và lập nên con phố Hàng Bạc ngày nay. Vào thời kỳ thuộc địa, con phố Hàng Bạc còn được mang tên Rue changeurs, có nghĩa phố Đổi Bạc. Dân cư ở đây không chỉ sản xuất đồ kim hoàn mà còn buôn bán, đổi bạc nén lấy bạc vụn. Ngày nay, nghề buôn bán vàng bạc xuất hiện ở nhiều con phố khác, nhưng Hàng Bạc vẫn là nơi đông đúc bậc nhất.[143]
Làng Bát Tràng nằm ở huyện Gia Lâm, phía Nam thành phố từ lâu đã nổi tiếng với sản phẩm gốm mang tên chính ngôi làng này. Làng xuất hiện vào thế kỷ 14 khi những người dân làm gốm từ làng Bồ Bát, Ninh Bình và làng Ninh Tràng, Thanh Hóa tụ họp về đây lập nên ngôi làng mới mang tên Bát Tràng. Những người dân Bát Tràng trước kia ít sống với nghề gốm và nông nghiệp, chủ yếu buôn bán cau khô, nước mắm. Nghề gốm ở đây chỉ thực sự phát triển sau năm 1954, khi miền Bắc Việt Nam bước vào thời kỳ hòa bình. Nhiều mẫu mã, các loại men truyền thống được những nghệ nhân của làng phục hồi, sản phẩm gốm Bát Tràng nhanh chóng đạt được danh tiếng. Bát Tràng hiện nay không chỉ là một làng nghề sản xuất thuần túy. Với nhiều công trình tín ngưỡng, văn hóa cùng sản phẩm gốm nổi tiếng, ngôi làng trở thành một địa điểm du lịch thu hút của thành phố Hà Nội.[143]
Một làng nghề nổi tiếng khác của Hà Nội ngày nay là làng lụa Vạn Phúc, vốn thuộc thành phố Hà Đông tỉnh Hà Tây trước đây, nay là quận Hà Đông. Sản phẩm lụa của làng từ rất lâu đã nổi tiếng với tên gọi lụa Hà Đông, từng được ca ngợi trong âm nhạc, thi ca và điện ảnh. Tương truyền, bà tổ làng lụa Vạn Phúc vốn người Hàng Châu, Trung Quốc, theo chồng chinh chiến rồi tới ở lại và truyền nghề dệt cho làng.[144] Theo một truyền thuyết khác, cách đây hơn 1200 năm, một cô gái người Cao Bằng tên là A Lã Thị Nương đã đến làm dâu và mang nghề dệt lụa tới làng. Trải qua thời gian, nghề lụa trở thành nghề truyền thống của Vạn Phúc. Ngày nay, phần lớn các gia đình ở đây vẫn sống bằng nghệ dệt. Bên cạnh các khung dệt cổ, nhiều gia đình sử dụng những khung dệt cơ khí hiện đại. Các con phố Hàng Gai, Hàng Đào của Hà Nội là nơi tập trung nhiều cửa hàng bán sản phẩm lụa Vạn Phúc.[145]
Lễ hội truyền thống
Thăng Long – Hà Nội là một trong ba vùng tập trung nhiều hội lễ của miền Bắc Việt Nam, cùng với vùng đất tổ Phú Thọ và xứ Kinh Bắc. Cũng như các vùng đất khác, những lễ hội truyền thống ở khu vực Hà Nội được tổ chức nhiều nhất vào mùa xuân. Phần nhiều các lễ hội tưởng nhớ những nhân vật lịch sử, truyền thuyết như Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Quang Trung, An Dương Vương… Một vài lễ hội có tổ chức những trò chơi dân gian độc đáo như hội thổi cơm thi làng Thị Cấm, hội bơi cạn và bắt chạch làng Hồ, hội chạy cờ làng Đơ Thao, lễ hội thả diều truyền thống Bá Giang.
Từ ngày 9 dến 12 tháng 1 âm lịch, lễ hội Triều Khúc được tổ chức tại ngôi làng cùng tên, thuộc xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, nơi nổi tiếng với nghề làm nón quai thao và may các đồ thờ như lọng, tàn, trướng, y môn, tán tía. Lễ hội được mở đầu bằng lễ rước long bào từ đình Sắc về đình Lớn. Khi cuộc tế lễ trong đình bắt đầu thì ngoài sân đình các trò vui cũng được tổ chức. Một trong những trò vui được nhiều người ưa thích nhất là trò đĩ đánh bồng. Đĩ đánh bồng do hai nam thanh niên mặc trang phục nữ giới biểu diễn, nhún nhảy và đánh chiếc trống Bồng đeo trước bụng. Nhiều trò vui khác như múa lân hí cầu, đấu vật, hát Chèo Tàu sẽ được tổ chức cho tới ngày 12, hội kết thúc bằng lễ rã đám.[146]
Một trong những hội lễ lớn nhất ở đồng bằng Bắc Bộ là lễ hội Thánh Gióng hay còn gọi là hội làng Phù Đổng (xã Phù đổng huyện Gia Lâm), xuất phát từ một câu truyện truyền thuyết về Thánh Gióng, một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Vào 9 tháng 4 âm lịch hàng năm, những người dân ở khắp nơi tụ hội về đây tham dự, xem lễ hội làng. Lễ hội làng Gióng được cử hành trên một diễn trường rộng lớn dài khoảng 3 km gồm đền Thượng, đền Mẫu và chùa Kiến Sơ. Bắt đầu từ ngày 6, người dân làng tổ chức rước lễ rước cờ tới đền Mẫu, rước cơm chay lên đền Thượng và ngày chính hội tổ chức hội trận, tái hiện lại cảnh Thánh Gióng phá giặc Ân. Các ngày từ 10 đến 12 được tiếp nối bằng các lễ rửa khí giới, rước cờ báo tin thắng trận với trời đất và cuối cùng là lễ khao quân, đến đêm có hát chèo. Ngoài lễ hội chính tại làng Phù Đổng, một vài nơi khác cũng tổ chức hội Gióng như hội đền Sóc ở xã Xuân Đỉnh huyện Từ Liêm, hội Sóc Sơn ở huyện Sóc Sơn, hội Phù Thánh Gióng ở làng Chi Nam, xã Lệ Chi huyện Gia Lâm.[147]
Trong nội ô thành phố, vào ngày 5 Tết Nguyên Đán, lễ hội Đống Đa được tổ chức ở gò Đống Đa, thuộc quận Đống Đa. Địa điểm này từng là nơi diễn ra trận đánh giữa nhà Tây Sơn và quân Thanh vào đêm 4 rạng ngày 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu, tức 1789. Lễ hội Đống Đa được tổ chức với nhiều trò vui, trong đó tiết mục rước rồng lửa do thanh niên mặc quần áo võ sinh thời cổ rước đi quanh sân lớn, cùng một đám võ sinh múa côn quyền tái hiện lại hình ảnh của quá khứ.[148]
Ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, lễ hội chùa Hương tấp nập du khách từ giữa tháng 1 tới tận tháng 3 âm lịch, nhưng đông nhất vào khoảng từ ngày rằm tháng giêng đến 18 tháng 2. Với cảnh núi non, sông nước cùng quần thể di tích chùa Hương, lễ hội là điểm đến của các tăng ni, phật tử, những người hành hương và khách du lịch. Theo hành trình phổ biến, khách chảy hội thường bắt đầu từ bến Đục, ngồi đò theo dòng suối Yến ghé lễ đền Trình. Từ đó, họ tiếp tục đi qua cầu Hội, hang Sơn thủy hữu tình, núi Đồi Chèo, núi Con Voi, núi Mâm Xôi, núi Con Gà… rồi cập bến vào chùa Thiên Trù. Từ đây, du khách bắt đầu hành trình đi bộ thăm chùa Tiên, chùa Giải Oan, đền Cửa Võng và đến đệ nhất động Hương Tích. Vào những ngày đông, dòng người trẩy hội kéo dài không ngớt. Lễ hội chùa Hương là một trong những lễ hội lớn và kéo dài nhất Việt Nam.[149]
Ẩm thực
Một số món ngon của Hà Nội
Một bát phở bò chín ăn cùng với
quẩy.
Là trung tâm văn hóa của cả miền Bắc từ nhiều thế kỷ, tại Hà Nội có thể tìm thấy và thưởng thức những món ăn của nhiều vùng đất khác, nhưng ẩm thực Hà Nội cũng có những nét riêng biệt. Cốm làng Vòng được những người dân của ngôi làng cùng tên thuộc quận Cầu Giấy làm đặc trưng bởi mùi thơm và màu sắc. Cốm làm từ giống nếp vàng gặt khi còn non, gói trong những tàu lá sen màu ngọc thạch và được những người bán hàng rao bán ngay từ sáng sớm. Tuy phổ biến nhất là cốm tươi, nhưng món ăn này còn được chế biến thành món chả cốm. Đây cũng là một món quà được dùng trong các dịp vui.[150]
Thanh Trì, làng vùng ngoại ô khác thuộc phường Thanh trì, quận Hoàng Mai, nổi tiếng với món bánh cuốn Thanh Trì. Bánh được làm từ gạo gié cánh, tám thơm, tráng mỏng như tờ giấy. Những phụ nữ vùng Thanh Trì cho bánh vào thúng, đội trên đầu và đi rao khắp các ngõ phố của Hà Nội. Bánh xếp trong thúng, từng lớp gối nhau trên những tàu lá chuối. Khi ăn, bánh được bóc từng lớp rồi cuộn lại, bày trên những chiếc đĩa. Món bánh cuốn Thanh Trì được ăn cùng với loại nước mắm pha theo công thức đặc biệt của người Thanh Trì, đậu phụ rán nóng, chả quế. Ngày nay, bánh còn được ăn với thịt ba chỉ quay giòn.[151]
Một món ăn khác của Hà Nội, tuy xuất hiện chưa lâu nhưng đã nổi tiếng, là chả cá Lã Vọng. Vào thời Pháp thuộc, gia đình họ Đoàn phố Hàng Sơn, ngày nay là 14 phố Chả Cá, đã tạo nên một món ăn mà danh tiếng của nó làm thay đổi cả tên con phố. Chả được làm từ thịt cá lăng – hoặc cá quả, cá nheo nhưng sẽ kém ngon hơn – thái mỏng ướp với nước riềng, nghệ, mẻ, hạt tiêu, nước mắm rồi kẹp vào cặp tre nướng trên lò than ngay trên bàn ăn của thực khách. Chả cá Lã Vọng phải ăn nóng, kèm với bánh đa nướng hay bún rối, lạc rang, rau mùi, húng láng, thì là, hành củ tươi chẻ nhỏ, chấm với mắm tôm.[152]
Phở là món ăn rất phổ biến ở Việt Nam, nhưng phở Hà Nội có những cách chế biến đặc trưng riêng. Phở Hà Nội mang vị ngọt của xương bò, thịt vừa chín đến độ để vẫn dẻo mà không dai, màu nước phở trong, bánh phở mỏng và mềm. Sau khi được trần qua nước nóng, bánh phở được dàn đều trong bát, bên trên là những lát thịt mỏng cùng hành hoa, rau thơm.[153] Cùng với thời gian, nhiều món phở mới xuất hiện với những cách chế biến khác nhau, như phở xào, phở rán…
Ở Hà Nội còn có nhiều món ăn đặc trưng khác như phở cuốn, bún thang, bún chả, bún nem, bún bung, bún mọc, đậu phụ Mơ, bánh tôm Hồ Tây, bún ốc, tào phớ An Phú, nem chua làng Vẽ, nem Phùng, giò chả Ước Lễ.
Văn hóa Thăng Long – Hà Nội
-
Lễ tế trong một hội làng tại nội thành Hà Nội
Hà Nội thường được xem như nơi tập trung những tinh hoa văn hóa của miền Bắc và cả Việt Nam. Trong hàng ngàn năm, vị trí kinh đô khiến thành phố này trở thành nơi quy tụ của những nhân vật ưu tú, những thương nhân, những nghệ nhân, những thợ thủ công lành nghề. Họ tới đây lập nghiệp, mang theo những phong tục, tập quán địa phương và Hà Nội trở thành mảnh đất tiêu biểu cho nền văn hóa của cả Việt Nam. Những danh nhân, nhân vật nổi tiếng của Việt Nam phần đông xuất thân từ những vùng đất khác, nhưng kinh đô Thăng Long thường là nơi họ xây dựng nên sự nghiệp. Môi trường cạnh tranh của đất kinh thành khiến những thương nhân, thợ thủ công trụ vững lại Hà Nội phải là những người xuất sắc, tài năng. Khi những người dân tứ xứ về định cư tại Thăng Long, các phong tục tập quán mà họ mang theo cũng dần thay đổi, tạo nên nét văn hóa của Hà Nội.[154]
Thăng Long – Hà Nội, kinh đô của Việt Nam, còn là nơi giao thoa của những nền văn hóa lớn. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc đã để lại trên vùng đất Hà Nội ít nhiều những dấu ấn của nền văn minh Trung Hoa. Khi những người Pháp vào Việt Nam, nhiều người trong số họ chỉ coi Hà Nội như một tỉnh của Trung Quốc, hoặc đơn thuần là một vùng chuyển tiếp giữa Ấn Độ và Trung Hoa.[155] Qua những người Pháp, Hà Nội – trung tâm văn hóa của quốc gia – biết tới nền văn minh phương Tây để rồi xây dựng nên những cơ sở đầu tiên của nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại với tân nhạc, thơ mới, hội họa, văn học hiện đại, điện ảnh, nhiếp ảnh. Nhưng Hà Nội đầu thế kỷ 20 cũng là nơi những giá trị Pháp thống trị, cửa sổ mở ra thế giới mới của giới thượng lưu Việt Nam. Như lời của sử gia về Đông Nam Á Pierre-Richard Féray: “Ngay khi một người Việt Nam đạt được giàu sang và sống tại thành phố, anh ta bắt đầu trở nên đặc trưng Pháp. Anh ta cố gắng nói đúng giọng Pháp. Anh ta ăn, sống và thở theo cách Pháp”.[156] Những thập niên gần đây, một lần nữa, Hà Nội cùng Việt Nam lại tiếp nhận những làn sóng văn hóa từ châu Âu và Mỹ.
Tuy là thủ đô, trung tâm văn hóa của Việt Nam, nhưng một số sự kiện văn hóa tổ chức ở Hà Nội gần đây đã xảy ra nhiều sự việc đáng chú ý, điển hình là vụ tàn phá hoa của người Hà Nội tại Lễ hội hoa anh đào diễn ra giữa thủ đô năm 2008,[157] hay những hành động thiếu ý thức, kém văn minh và đáng xấu hổ tại Lễ hội phố hoa Hà Nội vào Tết Dương lịch 2009 tổ chức tại hồ Hoàn Kiếm.[158] Nhà văn Băng Sơn phát biểu: “Tôi cảm thấy buồn và xấu hổ. Người Hà Nội làm xấu Hà Nội đi. Bao nhiêu năm hội hoa ở Đà Lạt, ở TP HCM mà không phải làm hàng rào vẫn giữ được cho đến ngày cuối cùng“. Những vụ việc trên đã dấy lên làn sóng phản đối mạnh mẽ từ dư luận cả nước trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặt câu hỏi lớn về “văn hóa người Tràng An” trong thời đại ngày nay. [159] Có nhiều ý kiến nhận xét lối cư xử nhã nhặn, thanh lịch của người Hà Nội đang mất dần, thay vào đó là cách cư xử xô bồ, tục tĩu, huỵch toẹt, thiếu văn hóa nhất là ở giới trẻ Hà Nội.[160][161][162] Hà Nội còn nổi tiếng với “bún mắng, cháo chửi” ngày càng trở nên phổ biến đã bị nhiều báo phản ánh và phê phán tuy nhiên các quán ăn có phong cách phục vụ vô văn hóa, thô lỗ, xem thường, xúc phạm khách hàng này vẫn thu hút được nhiều người đến ăn.[163][164][165][166][167][168][169]
Hà Nội trong nghệ thuật
Một người bán
sen trên đường phố Hà Nội
Hà Nội luôn là một niềm cảm hứng sáng tác của nhiều nhạc sĩ. Đã có hàng nghìn bài hát viết về Hà Nội trong nhiều đề tài. Trước hết đó là hình ảnh của một Hà Nội với khí thế hào hùng và mạnh mẽ trong vị thế thủ đô trong cuộc đấu tranh vệ quốc. Trong những năm tháng này, Văn Cao đã viết cho Hà Nội một số hành khúc như Thăng Long hành khúc ca, Gò Đống Đa, Tiến về Hà Nội. Khi những người lính thuộc Trung đoàn Thủ Đô phải rời xa Hà Nội, một trong số đó, nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi đã viết ca khúc Người Hà Nội, ngày nay đã trở nên quen thuộc.[170] Hình ảnh Hà Nội trong cuộc chiến với thực dân Pháp cũng là đề tài của các tác phẩm như: “Sẽ về Thủ đô” của Huy Du, “Cảm xúc tháng Mười” của Nguyễn Thành, “Ba Đình nắng” của Bùi Công Kỳ. Trong những tháng năm chống Mỹ, Thủ đô anh hùng trong chiến đấu và kiến thiết được khắc họa đâm nét trong các tác phẩm như “Bài ca Hà Nội” của Vũ Thanh, “Hà Nội – Điện Biên Phủ” của Phạm Tuyên, “Khi thành phố lên đèn” của Thái Cơ, “Tiếng nói Hà Nội” của Văn An v.v… Bên cạnh đó, Hà Nội hiện lên với dáng vẻ cổ xưa, kiêu kỳ và lãng mạn, với “ánh đèn giăng mắc”, “có bóng trăng thơ in trên mặt hồ”, với hình ảnh người con gái “khăn san bay lả lơi trên vai ai””áo trắng Trưng Vương, Tây Sơn em tan trường về” trong những nhạc phẩm mang nhiều tính chất hoài niệm như Hướng về Hà Nội của Hoàng Dương, Nỗi lòng người đi của Anh Bằng, Hà Nội ngày tháng cũ của Song Ngọc hay Gửi người em gái miền Nam của Đoàn Chuẩn. Vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh vật, con người, truyền thống lịch sử và nét thanh lịch độc đáo của Hà Nội được khắc họa đậm nét qua giai điệu của nhiều nhạc sĩ Việt Nam thuộc nhiều thế hệ khác nhau, như Hoàng Hiệp với “Nhớ về Hà Nội“, Phan Nhân với “Hà Nội niềm tin và hy vọng“, Hoàng Vân với “Tình yêu Hà Nội“, Văn Ký với “Trời Hà Nội xanh” và “Hà Nội mùa xuân“, Nguyễn Đức Toàn với “Hà Nội trái tim hồng“, Trần Hoàn với “Khúc hát người Hà Nội“, Trịnh Công Sơn với “Nhớ mùa thu Hà Nội“, Nguyễn Cường với “Mãi vẫn là tuổi thơ tôi Hà Nội“, Dương Thụ với “Mong về Hà Nội“, Phú Quang với “Em ơi, Hà Nội phố“, “Hà Nội ngày trở về“, “Im lặng đêm Hà Nội“, Phạm Minh Tuấn với “Hà Nội ơi thầm hát trong tôi“, Nguyễn Tiến với “Chiều mưa Hà Nội“, Trần Quang Lộc với “Có phải em mùa thu Hà Nội“, Trương Quý Hải với “Hà Nội mùa vắng những con mưa“, Lê Vinh với “Hà Nội và tôi“, Vũ Quang Trung với “Chiều Hà Nội” v.v… Một số địa danh của Hà Nội cũng đi trở thành chủ đề sáng tác trong âm nhạc như “Một thoáng Tây Hồ” của Phó Đức Phương, “Ngẫu hứng sông Hồng” của Trần Tiến, “Chiều Hồ Gươm” của Đặng An Nguyên, “Truyền thuyết Hồ Gươm” của Hoàng Phúc Thắng, “Bên lăng Bác Hồ” của Dân Huyền v.v… Có một số tác phẩm tuy không nhắc đến địa danh Hà Nội trong tựa đề hoặc trong ca từ nhưng được lấy cảm hứng hoặc viết về chính mảnh đất này như: “Những ánh sao đêm” của Phan Huỳnh Điểu, “Thu quyến rũ” của Đoàn Chuẩn, “Từ một ngã tư đường phố” của Phạm Tuyên, “Mùa xuân làng lúa làng hoa” của Ngọc Khuê, “Hoa sữa” của Hồng Đăng, “Thu quyến rũ” của Đoàn Chuẩn, “Phố nghèo“, “Ngẫu hứng phố” của Trần Tiến,…
-
Trong văn học Việt Nam, Hà Nội hiện ra như một đô thị có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống và bản sắc văn hóa.[171] Thời phong kiến, thành Thăng Long từng là đề tài của nhiều bài thơ nổi tiếng như Long thành cầm giả ca của Nguyễn Du hay Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan. Ba nhà văn thường được nhắc đến khi nói về đề tài Hà Nội trong văn học là Nguyễn Tuân, Vũ Bằng và Thạch Lam.[171] Nguyễn Tuân, người sinh ra và lớn lên trong môi trường nho giáo, thất vọng bởi cuộc sống trong xã hội “kim khí” xô bồ, thường tìm về những giá trị cũ. Bóng dáng Hà Nội trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là những thú chơi của các bậc tao nhân mặc khách trong Vang bóng một thời như thưởng trà, thả thơ, đánh thơ, hát ca trù… Vũ Bằng lại qua những trang viết, như Miếng ngon Hà Nội và Thương nhớ mười hai, thể hiện nỗi nhớ và tình yêu Hà Nội, ca ngợi sự tinh tế của các món ăn, khung cảnh thiên nhiên, đất trời, cảnh vật, con người, văn hóa của thành phố. Thạch Lam được biết đến qua tập bút ký nổi tiếng Hà Nội 36 phố phường. Tác phẩm của Thạch Lam thể hiện sự thương xót trước những người nghèo khó, miêu tả hương vị của những món quà quê, những tiếng rao… tất cả những thứ tạo nên văn hóa Hà Nội.[171] Nhiều nhà văn khác cũng có các tác phẩm nổi tiếng về thành phố này như Phố của Chu Lai, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng. Bảo Ninh trong Nỗi buồn chiến tranh cũng dành nhiều trang viết về Hà Nội.
Hình ảnh Hà Nội xuất hiện rất nhiều trên cả màn ảnh lớn và màn ảnh nhỏ. Sau khi được giải phóng vào năm 1954, không ít những bộ phim của điện ảnh cách mạng đã nói về Hà Nội, trong đó có thể đến đến Giông tố, Sao tháng Tám, Hà Nội mùa đông năm 1946, Em bé Hà Nội, Phía bắc Thủ đô, Tiền tuyến gọi.[172] Em bé Hà Nội, tác phẩm của đạo diễn Hải Ninh, khắc họa cuộc sống của Hà Nội trong thời gian quân đội Hoa Kỳ ném bom miền Bắc đã giành Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1975 và giải đặc biệt của ban giám khảo LHP Liên hoan phim Moskva cùng năm đó.[173] Sau khi Việt Nam thống nhất, một số bộ phim khác khai thác đề tài về lớp thanh niên sống ở Hà Nội thời kỳ sau chiến tranh, như Tuổi mười bảy, Những người đã gặp, Hãy tha thứ cho em, Cách sống của tôi, Hà Nội mùa chim làm tổ.[172] Nhưng kể từ năm 1990, trong suốt một thập niên, phim về Hà Nội dường như vắng bóng trên màn ảnh của điện ảnh Việt Nam. Năm 2000, đạo diễn Việt kiều Trần Anh Hùng về Việt Nam sản xuất Mùa hè chiều thẳng đứng, một bộ phim chính kịch, xoay quanh cuộc sống của ba chị em gái với bối cảnh Hà Nội. Để cchuẩn bị cho lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, nhiều nhà làm phim Việt Nam đã sản xuất một vài bộ phim về đề tài này.
Trong hội họa, có lẽ người thành công và gắn bó nhất với Hà Nội là họa sĩ Bùi Xuân Phái. Quê ở xã Vân Canh, Hà Đông, Bùi Xuân Phái theo học tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và hầu như cả cuộc đời sống tại Hà Nội. Trong tranh của Bùi Xuân Phái, Hà Nội mang đầy vẻ xưa cũ với những ngôi nhà mái nâu, những con phố nhỏ. Những bức vẽ về phố cổ Hà Nội của Bùi Xuân Phái ngày nay đã trở nên nổi tiếng, thường được biết đến với tên gọi Phố Phái. Ngoài ra, còn có một số họa phẩm của các họa sĩ khác vẽ về người Hà Nội đã đi vào lịch sử: Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân, Em Thúy của Trần Văn Cẩn, Tan ca mời chị em ra họp thi thợ giỏi của Nguyễn Đỗ Cung…
Thành phố kết nghĩa
Đọc thêm
Chú thích
- ^ “Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2013 phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Dân số thành thị trung bình phân theo địa phương”.
- ^ “Dân số nông thôn trung bình phân theo địa phương”.
- ^ Quốc hội Việt Nam (1 tháng 7 năm 2002). “Lệnh công bố về Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992” (RTF). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (bằng Tiếng Việt). Chủ tịch nước Việt Nam. tr. Điều 144, chương XI: Quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, thủ đô, ngày quốc khánh. Truy cập 16/3/2012. “Thủ đô nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội”
- ^ Hiến pháp số 01 của Quốc hội: Hiến pháp năm 1946 Quốc hội Việt Nam, 9/11/1946
- ^ Tổng cục Thống kê Việt Nam – Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2011 phân theo địa phương
- ^ Tổng cục thống kê Việt Nam – Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2011 phân theo địa phương
- ^ Hơi chếch về mạn tây bắc. Xem bản đồ đồng bằng sông Hồng
- ^ “Hanoi GDP estimated to expand 10.6% in Jan-Sept”. Vietnam Business News. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă “Khái quát về Hà Nội”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă â b c d “Thành phố Hà Nội”. Tổng cục Du lịch Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Sông ‘chết’ bao vây Hà Nội, thanhnien, 22.6.2015
- ^ Khánh Lan (4 tháng 12 năm 2007). “Sông ngòi Hà Nội đang kêu cứu”. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Khí hậu Hà Nội”. Hiệp hội Du lịch Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Quang Duẩn (2 tháng 11 năm 2008). “Mưa lớn nhất trong gần 100 năm qua”. Thanh Niên. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Kiều Minh (2 tháng 11 năm 2008). “Hà Nội dẫn đầu về số người thiệt mạng do mưa lũ”. VTC. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “World Weather Information Service – Hanoi”.
- ^ Baron & La Salle. Dictionnaire des Communes administratif et militaire, France métropolitaine et France d’outre-mer. Paris: Charles-Lavauzelle & Cie, 1949.
- ^ a ă “Nguồn gốc dân cư”. Khái quát về Hà Nội. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Bản gốc lưu trữ 26/3/2011. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă â b {{Chú thích sách Tính đến 0 giờ ngày 8/7/2015, Dân số của Hà Nội 7.008.963 người | last = Papin | first = Philippe | title = Histoire de Hanoi | publisher = Fayard | year = 2001 | isbn = 2213606714 | pages = 381-386}}
- ^ “Đánh giá chung tình hình dân số… Phụ lục 2”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Bản gốc lưu trữ 26/3/2011. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Dân số Hà Nội đứng thứ 2 cả nước” (Thông cáo báo chí). báo Hànộimới. 11 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2011.
- ^ Tổng cục Thống kê (Việt Nam) (4 tháng 1 năm 1999). “Dân số và mật độ dân số tại thời điểm 1/4/1999 phân theo địa phương” (xls) (bằng Tiếng Việt). Tổng cục Thống kê (Việt Nam). Truy cập 25/11/2011. “Hà Nội diện tích 921,0 km², dân số 2675166, mật độ dân số 2904,6”
- ^ a ă Hồng Khánh (29 tháng 5 năm 2008). “Địa giới Hà Nội chính thức mở rộng từ 1 tháng 8”. VnExpress. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă “Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Trang 149-150”. Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. 6/2010. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010.
- ^ a ă “Dân số và mật độ dân số năm 2009 phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă â “Thời kỳ tiền Thăng Long”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Bản gốc lưu trữ 26/3/2011. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Hà Nội trong nghìn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc”. Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2012.
- ^ “Hà Nội đã có bao nhiêu tên gọi?”. VDC. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2006.
- ^ “Thăng Long thời Lý”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ “Thăng Long thời Trần”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Thăng Long – Đông Đô – Đông Quan”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Thăng Long thời Hậu Lê”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ “Đông Kinh Kẻ Chợ thời Mạc và Lê Mạt”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Thăng Long thời Tây Sơn”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă “Thời kỳ Hà Nội”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ Nguyễn Vinh Phúc. “Hà Nội nghĩa là gì?”. VDC. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ An Chi (12:10:00 26/09/2010). “Nghĩa của hai địa danh Thăng Long và Hà Nội”. Chuyên đề An ninh thế giới số 996 (bằng Tiếng Việt) (996) (An ninh thế giới). Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2011. ‘“trước khi nước Đại Nam bị thực dân Pháp xâm lược và cai trị thì Hà Nội chưa bao giờ là tên của một kinh thành hay một thành phố cả”’
- ^ a ă “Hà Nội thời Pháp thuộc”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Logan, William Stewart (2000). Hanoi: Biography of a City. UNSW Press. tr. 86. ISBN 9780868404431. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Nghị quyết không số của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc mở rộng thành phố Hà Nội” (Thông cáo báo chí). Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa II. 20/4/1961. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2012.
- ^ “Quyết định 78-CP chia các khu vực nội thành và ngoại thành của Thành phố Hà Nội” (Thông cáo báo chí). Thủ tướng Hội đồng Chính phủ. 31/5/1961. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2012.
- ^ Herring, George (1979). America’s Longest War. John Wikey & Sons. tr. 248.
- ^ Morocco, John (1985). Rain of Fire: Air War, 1969–1973. Boston: Boston Publishing Company. tr. 150.
- ^ “North Vietnam Says 1,318 Dead in the Raids on Hanoi”. New York Times. tháng 5 năm 1973. tr. 3.
- ^ “Hà Nội ngày nay”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Nguyễn Phú Trọng. “Hà Nội – 50 năm chiến đấu, xây dưng và phát triển”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “NGHỊ QUYẾT CỦA KỲ HỌP THỨ 9, QUỐC HỘI KHÓA VIII, NGÀY 12-8-1991 VỀ VIỆC ĐIỀU CHỈNH ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH MỘT SỐ TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG” (Thông cáo báo chí). Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa VIII. 8 tháng 12 năm 1991. Truy cập 21/12/2011.
- ^ Nghị định 69-CP năm 1995 về việc thành lập quận Tây Hồ
- ^ Nghị định 74-CP năm 1996 về việc thành lập quận Thanh Xuân và quận Cầu Giấy
- ^ Nghị định 132/2003/NĐ-CP năm 2003 về việc thành lập quận Long Biên và quận Hoàng Mai
- ^ a ă “30% dân số nội thành ở Hà Nội sống dưới mức 3m²/người”. báo Lao Động. 1/7/2003 9:59:49. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ Nguyễn Hiền. “Hà Nội phát triển và đầu tư”. Dân trí. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Hương Thu. “Không khí Hà Nội ‘bẩn hạng nhất châu Á’”. VnExpress. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2012.
- ^ “Hà Nội: Thành lập quận Hà Đông, chuyển TP Sơn Tây thành thị xã”. Tiền Phong. 11 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Nghị quyết 132/NQ-CP năm 2013 chia huyện Từ Liêm thành 2 quận Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm
- ^ unesco. “DELFT, HANOI, ZUK MIKAEL, QUITO AND TIMBUCTU TO RECEIVE 1998-1999 UNESCO CITIES FOR PEACE PRIZE”. Truy cập 21/07/2013.
- ^ “Hà Nội xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm cuối thế kỷ 20”. Văn phòng Ban chỉ đạo Quốc gia Kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long. Bản gốc lưu trữ 14/9/2010. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ An Trân (30 tháng 3 năm 2010). “Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn 2050”. Hà Nội mới. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Khu phố cổ”. Kiến trúc Hà Nội (bằng Tiếng Việt). Sở Du lịch Hà Nội. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2004. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Văn Phúc Hậu (5 tháng 2 năm 2006). “Những căn “nhà khổ””. Đến với khu phố cổ Hà Nội (Sài Gòn giải phóng). Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă â b Lý Trực Dũng (21 tháng 2 năm 2008). “Kiến trúc Thăng Long-Hà nội trước ngưỡng cửa 1000 năm”. Tia Sáng. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Khu thành cổ”. Kiến trúc Hà Nội. Sở Du lịch Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Kim Tân (1 tháng 8 năm 2010). “Hoàng thành Thăng Long được công nhận di sản văn hoá thế giới”. Dân trí. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Kim Tân (1 tháng 10 năm 2010). “Khai lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long”. Dân trí. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Nguyễn Vinh Phúc (31 tháng 12 năm 2008). “Những khu phố cũ ở Hà Nội”. Báo Người Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Kiến trúc thời Pháp thuộc”. Kiến trúc Hà Nội. Sở Du lịch Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Tâm Anh (14 tháng 11 năm 2008). “Khu phố Pháp Hà Nội đang biến dạng”. VnExpress. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Kiến trúc hiện đại”. Kiến trúc Hà Nội. Sở Du lịch Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Hà Nội có thêm 43 tuyến đường, phố mới” (Thông cáo báo chí). Lưu Vân, báo Diễn đàn Doanh nghiệp. 25/08/2010 – 11:31. Truy cập 23/10/2012.
- ^ “Hà Nội đặt tên cho 34 đường phố mới” (Thông cáo báo chí). Liên Phương, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ. 13/07/2012, 17:22:00. Truy cập 23/10/2012. “Bế mạc kỳ họp thứ 5 HĐND thành phố Hà Nội khóa XIV” (Thông cáo báo chí). Báo Hànộimới. 20:35 13/07/2012. Truy cập 23/10/2012.
- ^ “”Nghĩa địa chôn” 140.000 tỷ đồng ở Hà Nội, TP HCM?” (Thông cáo báo chí). Ngọc Sơn, báo Diễn đàn Doanh nghiệp. 22/10/2012 – 12:00 AM. Truy cập 23/10/2012.
- ^ “Công trình tôn giáo – tín ngưỡng”. Kiến trúc Hà Nội. Sở Du lịch Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Chùa Trấn Quốc”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. [sai nguồn]
- ^ (tiếng Anh) Logan, William Stewart (2000). Hanoi: Biography of a City. Kensington: UNSW Press. tr. 90. ISBN 9780868404431. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Chùa Thầy – Thiên Phúc Tự – Nét đẹp cổ kính”. Đài Truyền hình Việt Nam. 8 tháng 4 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Thánh đường Hồi giáo giữa lòng thủ đô Mai Uyên, VnExpress 28/4/2014 | 11:13 GMT+7
- ^ Trần Hùng. “Bảo tồn di sản kiến trúc trong quy hoạch phát triển thủ đô”. Từ Thăng Long tới Hà Nội. VDC. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Thủ tướng chính phủ. “Nghị định số 42/2009/NĐ-CP của Chính phủ: Về việc phân loại đô thị ở Việt Nam”. Chính phủ Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2009.
- ^ ban nhân dân-thanh-pho-Ha-Noi-tai-dac-cu/20116/94443.vnplus “Chủ tịch HĐND, ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội tái đắc cử”. Thông tấn xã Việt Nam. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2011.
- ^ Anhthu (5:02 24/07/2008). “Công bố trụ sở chính thức của các cơ quan TP Hà Nội (mới)”. Báo Hànộimới. Truy cập 24/6/2015.
- ^ a ă “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội thủ đô Hà Nội thời kỳ 2001 – 2010”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. cập nhật 00:00 29/04/2005
- ^ “Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2014”. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2015.
- ^ Anh Phương (10 tháng 3 năm 2008). “Năm 2007, thu nhập bình quân của Hà Nội là 31,8 triệu đồng/người/năm”. Sài Gòn giải phóng. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép năm 1988 – 2007 phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Vân Anh (4 tháng 12 năm 2007). “Kinh tế Hà Nội tăng trưởng kỷ lục”. VietNamNet. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Huyền Hương (26 tháng 6 năm 2008). “Hà Nội: Nhiều biện pháp quyết liệt phòng chống nạn ô nhiễm môi trường”. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Vũ Duy Thái (9 tháng 10 năm 2004). “50 năm kinh tế tư nhân Hà Nội”. VnExpress. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Ngọc Hải, Thái Hà – ANHTHU (1 tháng 8 năm 2008). “Tạo thị trường mở, giảm sức ép việc làm”. Hà Nội mới. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Đoàn Loan (5 tháng 10 năm 2004). “Kinh tế Hà Nội trước thách thức tụt hậu”. VnExpress. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Hà Nội: Đón trên 1,1 triệu lượt khách du lịch quốc tế”. Tổng cục Du lịch. 28 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Đổng Thị Kim Vui (13 tháng 12 năm 2007). “Du lịch thành phố Hồ Chí Minh: Chuyển biến rõ rệt sau 1 năm gia nhập WTO”. Tổng cục Du lịch Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Lê Nam (18 tháng 12 năm 2008). “Ngành du lịch Hà Nội Phấn đấu đón 10,5 triệu lượt khách du lịch”. Kinh tế & Đô thị. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Khánh Linh (2 tháng 10 năm 2006). “Du lịch Hà Nội: Nỗi buồn của người tâm huyết…”. Vietnam Net. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Nguyên Minh (12 tháng 10 năm 2007). “Hà Nội: Chạy đua đầu tư khách sạn cao cấp”. SGGP. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2011.
- ^ “Health & safety”. Lonely Planet. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ T.Mai (17 tháng 8 năm 2010). “Hà nội qua bưu ảnh cổ: Sân bay Bạch Mai”. Pháp Luật & Xã hội. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2012.
- ^ a ă “Giao thông Hà Nội: Tùy tiện, hỗn loạn”. Báo Tin tức VN. 15 tháng 8 năm 2012.
- ^ “’Hết bịt lại thông’ ngã ba – tư: Dấu hiệu phá sản?”. Đất Việt. 4 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2010.
- ^ Đặng Lê (8 tháng 12 năm 2006). “Giao thông Hà Nội qua cái nhìn của GS Seymour Papert”. Dân Trí (báo). Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă Hà Lan (29 tháng 7 năm 2008). “Quy hoạch giao thông Hà Nội mở rộng: Cần 100.000 tỷ đồng”. Sài Gòn giải phóng. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Thanh Xuân (29 tháng 4 năm 2008). “Mở rộng Hà Nội, quy hoạch giao thông sẽ như thế nào?”. VTC. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă “Giảm ùn tắc và giảm tai nạn ở Hà Nội: Quá khó”. Tin Mới VN. 20 tháng 12 năm 2011.
- ^ T.Trúc (27 tháng 6 năm 2006). “Hà Nội và TP.HCM trong nhóm 50 thành phố đắt đỏ nhất thế giới”. Tuổi Trẻ. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă “Gia đình trẻ mua nhà ở Hà Nội: Khó hơn lên trời! (Kỳ II)” (bằng Tiếng Việt). An ninh Thủ đô. 15 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. “Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội vừa cho biết, qua điều tra sơ bộ, trên địa bàn thành phố, chỉ có khoảng 30% cán bộ, công nhân, viên chức được phân phối nhà ở”
- ^ Tacdat (29 tháng 4 năm 2012). “Hướng dẫn thủ tục mua bán nhà ở”. Lao Động. Bản gốc lưu trữ 21/10/2012. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2012.
- ^ Đức Văn (5 tháng 8 năm 2009). “Xóm nhà tranh trong lòng Hà Nội”. Lao Động. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Nhà nước thiệt hại 3.000 tỉ đồng do quyết định duyệt giá đất của UBND TP Hà Nội Theo Thanh Niên Tuổi Trẻ cập nhật 28/09/2006 11:19 GMT+7
- ^ “Số cơ sở khám, chữa bệnh trực thuộc sở Y tế phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2012.
- ^ “Số giường bệnh trực thuộc sở Y tế phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2012.
- ^ Cá biệt có khi lên đến 8-9 người bệnh/giường
- ^ “Số cán bộ ngành Y trực thuộc sở Y tế phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2012.
- ^ “Bệnh viện quá tải, Thủ tướng yêu cầu đầu tư cho tuyến dưới” (Thông cáo báo chí). Nam Phương, VnExpress. 24/11/2009 08:09 GMT+7.
- ^ “Hà Nội: quá tải ở các bệnh viện chuyên khoa đầu ngành” (Thông cáo báo chí). Lan Anh, Tuổi Trẻ (báo). 02/09/2004 06:00 (GMT + 7).
- ^ Hạnh Ngân (12 tháng 7 năm 2007). “Năm 2010, Hà Nội sẽ có 2.500 giường bệnh tư nhân”. Tiền Phong. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ P. Thanh (15 tháng 8 năm 2008). “Y tế Hà Nội ngổn ngang khó khăn”. Dân Trí. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Trạng nguyên Việt Nam#Thống kê
- ^ “Đại học Đông Dương: Nền móng của giáo dục đại học hiện đại ở Việt Nam”. Tạp chí Hoạt động Khoa học. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Số lớp học phổ thông tại thời điểm 30/9 phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Số trường phổ thông tại thời điểm 30/9 phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Số học sinh phổ thông tại thời điểm 31/12 phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Danh sách các trường THPT công lập, dân lập và bán công”. Sở Giáo dục và Đào tại Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ Tiến Dũng (29 tháng 10 năm 2008). “Hà Nội dẫn đầu cả nước về số người mù chữ”. VnExpress. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Số giáo viên, số sinh viên đại học và cao đẳng phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă Phạm Tấn (1 tháng 2 năm 2009). “Chuyện bóng đá Thủ đô”. Thể thao & Văn hóa Online. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Thể thao Hà Nội đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhất”. Người lao động. 28 tháng 10 năm 2004. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Minh Giang (10 tháng 3 năm 2008). “Thể thao Hà Nội vươn ra sân chơi lớn”. Nhân Dân. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Huệ Anh (31 tháng 10 năm 2008). “Sinh viên thiếu sân chơi trầm trọng”. An ninh Thủ đô. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ X.T. (2 tháng 9 năm 2003). “Khánh thành sân vận động quốc gia Mỹ Đình” (bằng Tiếng Việt). VnExpress. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Việt Nam giành quyền đăng cai ASIAD 18”. 11 tháng 8 năm 2012. Truy cập 25/04/2014.
- ^ “Việt Nam giành quyền đăng cai ASIAD 2019”. 11 tháng 8 năm 2012. Truy cập 25/04/2014.
- ^ “Việt Nam rút đăng cai ASIAD 18”. 17/04/2014. Truy cập 25/04/2014.
- ^ Tiểu Hàn (17/04/2014). “Việt Nam rút đăng cai ASIAD 18”. Truy cập 25/04/2014.
- ^ Đoàn Hoàng Đang (29 tháng 4 năm 2008). “Sân khấu Hà Nội: Những chuyện… lạ đời!”. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Điểm biểu diễn Văn hóa nghệ thuật”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ D. Diễm (18 tháng 5 năm 2005). “Các bảo tàng loay hoay tìm cách hút khách” (bằng Tiếng Việt). VietNamNet. Bản gốc lưu trữ 18 Tháng năm 2005, 19:46 GMT+7. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Số thư viện do địa phương quản lý phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Nguồn lực thông tin”. Thư viện Quốc gia Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Bích Hạnh (19 tháng 12 năm 2008). “Rạp phim Hà Nội: “Kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra”” (bằng Tiếng Việt). VietNamNet. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. ‘“Trong khi có rạp chiếu hoặc là đóng cửa, hoặc hoạt động thoi thóp thì rạp chiếu khác lại phải tận dụng không gian chật hẹp xây thêm phòng chiếu để giải quyết tạm thời tình trạng quá tải”’
- ^ “Hà Nội: Nguy cơ cháy ở vũ trường rất cao”. VnExpress. 9 tháng 10 năm 2001. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Công viên nước Hồ Tây”. Hiệp hội Du lịch Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Ngân Tuyền (11 tháng 9 năm 2008). “Ô nhiễm – Câu chuyện cũ”. Hà Nội đất trăm nghề và nguy cơ mất nghiệp (An ninh Thủ đô). Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă Phạm Huy Thi. “Hà Nội – những làng nghề”. Hà Nội xưa và nay. VDC. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Hoàng Thắng (10 tháng 11 năm 2008). “Làng nghề cũng khóc vì ô nhiễm”. Báo Công an Nhân dân. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Thăm làng dệt lụa Vạn Phúc”. Thông tấn xã Việt Nam. 23 tháng 11 năm 2005. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Lễ hội Triều Khúc”. Lễ hội truyền thống. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ “Lễ hội Thánh Gióng”. Lễ hội truyền thống. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ “Lễ hội Quang Trung”. Lễ hội truyền thống. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ Trần Thùy Linh (22 tháng 2 năm 2010). “Lãng phí tài nguyên du lịch: Nghịch lý du lịch lễ hội” (bằng Tiếng Việt). báo Thanh Niên. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2011.
- ^ “Cốm Vòng”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Bản gốc lưu trữ 19/5/2010. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ “Bánh cuốn Thanh Trì”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ “Chả cá Lã Vọng”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ “Phở, bún chả, bún thang Hà Nội được công nhận món ăn đạt giá trị chuẩn Châu Á”. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2013.[liên kết hỏng]
- ^ “Tinh hoa văn hóa Hà Nội”. Thành phố Hà Nội. Tổng cục Du lịch Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ (tiếng Anh) Logan, William Stewart (2000). Hanoi: Biography of a City. Kensington: UNSW Press. tr. 80–81. ISBN 9780868404431. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010.
- ^ (tiếng Anh) Logan, William Stewart (2000). Hanoi: Biography of a City. Kensington: UNSW Press. tr. 111. ISBN 9780868404431. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010.
- ^ Tuyết Anh (5 tháng 1 năm 2009). “Văn hóa thưởng thức cũng cần được tập dượt”. Báo Thể thao Văn hóa. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Đình Hiếu (5 tháng 1 năm 2009). “Viết cho lễ hội phố hoa Hà Nội năm 2010”. Báo Thể thao Văn hóa. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Anh Thư (4 tháng 1 năm 2009). “Nhà văn Băng Sơn: ‘Xấu hổ cho người Hà Nội’”. VnExpress. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ 1001 thói xấu của người Hà Nội hiện đại, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, 10/12/2012
- ^ Quan chức văn hóa đau lòng vì Hà Nội, 04/01/2013, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam
- ^ Vài lời tâm sự về văn hóa của một người Tây Nguyên gửi người Hà Nội, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, 25/08/2012
- ^ “Bún mắng, cháo chửi” đang ngày càng phổ biến ở Hà Nội, Báo điện tử Dân trí, Hội Khuyến học Việt Nam
- ^ Bún ‘mắng’, cháo ‘chửi’, VnExpress.net, 14/9/2008
- ^ ‘Không buồn với bún mắng, cháo chửi ở Hà Nội’, Báo Tuổi Trẻ Thủ Đô, 15/04/2014
- ^ Bún ‘mắng’, cháo ‘chửi’, phở xếp hàng vẫn đắt khách, báo điện tử Tiền Phong, 30 tháng 07 năm 2011
- ^ Nói người bán phở Hà Nội thô lỗ cũng chẳng oan sai, 21/02/2013, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam
- ^ Biết “bún mắng, cháo chửi” nhưng sao thực khách ở Hà Nội vẫn cứ ăn?, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, 16/07/2012
- ^ “Bún mắng, cháo chửi” ở Hà Nội chỉ là một vài trường hợp cá biệt?, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, 01/03/2013
- ^ Hà Diệu (13 tháng 3 năm 2007). “Sáu mươi năm vang vọng một bài ca”. VietNamNet. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă â Tuấn Hải (31 tháng 1 năm 2008). “”Hà Nội” của Vũ Bằng, Thạch Lam, Nguyễn Tuân đang… biến mất”. Vietimes. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă Vũ Hà (19 tháng 10 năm 2008). “Đâu rồi – Điện ảnh Hà Nội?”. Đài Tiếng nói Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Thu Nguyên (18/03/2007 – 08:35). “Đạo diễn Hải Ninh nhớ “Em bé Hà Nội””. Dân Trí. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hội kiến Tổng thống Seychelles”. BÁO ĐIỆN TỬ CỦA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Việt Nam. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
- ^ “(3)Sisters (friendship) tie-up city etc.”. Trang web của tỉnh Fukuoka. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
Liên kết ngoài
Thể loại:
Nelson Mandela
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nelson Rolihlahla Mandela (IPA: [xoˈliɬaɬa manˈdeːla]), 18 tháng 7, 1918 – 5 tháng 12, 2013)[1] là Tổng thống Nam Phi từ năm 1994 đến 1999, và là tổng thống Nam Phi đầu tiên được bầu cử dân chủ theo phương thức phổ thông đầu phiếu. Trước khi trở thành tổng thống, Mandela là nhà hoạt động chống chủ nghĩa apartheid (chủ nghĩa phân biệt chủng tộc), và là người đứng đầu Umkhonto we Sizwe, phái vũ trang của Đảng Đại hội Dân tộc Phi (ANC). Vào năm 1962 ông bị bắt giữ và bị buộc tội phá hoại chính trị cùng các tội danh khác, và bị tuyên án tù chung thân. Mandela đã trải qua 27 năm trong lao tù, phần lớn thời gian là ở tại Đảo Robben. Sau khi được trả tự do vào ngày 11 tháng 2 năm 1990, Mandela đã lãnh đạo đảng của ông trong cuộc thương nghị để tiến tới một nền dân chủ đa sắc tộc vào năm 1994. Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình từ năm 1994 đến 1999, Mandela thường ưu tiên cho vấn đề hòa giải dân tộc.
Tại Nam Phi, Mandela còn được biết tới với tên gọi Madiba, một tước hiệu danh dự mà bộ lạc của ông thường trao cho những già làng.
Mandela đã nhận hơn 250 giải thưởng trong hơn bốn thập niên, trong đó có Giải Nobel Hòa bình năm 1993.
Thơ ấu
Nelson Mandela vào khoảng 1937
[2]
Nelson Mandela thuộc chi nhỏ nhất của dòng họ phong kiến Thembu, trị vì các lãnh thổ Transkei thuộc tỉnh Cape của Nam Phi.[3] Ông sinh ra tại Mvezo, một ngôi làng nhỏ thuộc huyện Umtata, thủ phủ của Transkei.[3] Ông cố ruột Ngubengcuka của ông (mất năm 1832) đã trị vì với danh hiệu Inkosi Enkhulu, tức là vua của người Thembu.[4] Một trong những con trai của nhà vua, có tên là Mandela, chính là ông nội của Nelson và đây chính là nguồn gốc họ Mandela của ông. Tuy nhiên, vì ông là con trai của Inkosi với một người vợ thuộc bộ tộc Ixhiba (gọi là “Tả gia”[5]), các con cháu thuộc chi này tuy vẫn thuộc Hoàng gia nhưng không bao giờ được thừa kế ngai vàng Thembu.
Cha của Nelson Mandela, Gadla Henry Mphakanyiswa, là người đứng đầu bộ lạc ở thị trấn Mvezo.[6] Tuy vậy, do không được chính quyền thuộc địa vừa lòng, Mphakanyiswa bị tước chức và cả gia đình bị chuyển đến Qunu. Dù vậy, Mphakanyiswa vẫn là thành viên Hội đồng Cơ mật của Inkosi, và đóng vai trò là người hỗ trợ cho Jongintaba Dalindyebo lên ngôi quốc vương Thembu. Dalindyebo sau này đã trả ơn ông bằng cách nhận nuôi Mandela sau khi Mphakanyiswa chết.[7] Cha của Mandela có bốn bà vợ, sinh tổng cộng 13 người con (bốn trai, chín gái).[7] Mandela là con của bà vợ thứ ba, Nosekeni Fanny. Fanny là con của Nkedama thuộc bộ tộc Mpemvu Xhosa, thuộc về nhà Hữu gia, là vùng đất nơi Mandela đã trải qua phần lớn thời thơ ấu.[8] Tên của ông Rolihlahla có nghĩa là “kéo cành cây”, hay một cách thông tục, có nghĩa là “kẻ gây rối”.[9][10]
Rolihlahla Mandela là người đầu tiên trong gia đình được đi học, tại đó cô giáo Mdingane đã đặt cho ông một cái tên tiếng Anh là “Nelson”.[11]
Lúc Mandela lên chín, cha ông qua đời vì bệnh lao phổi, quan nhiếp chính Jongintaba trở thành người giám hộ hợp pháp của ông.[7] Mandela đi học trường truyền giáo thuộc Hội Giám lý nằm kế bên lâu đài của quan nhiếp chính. Theo phong tục của người Thembu, ông được thụ giáo lúc 16 tuổi, rồi đi học Học viện Clarkebury Boarding.[12] Mandela đã hoàn tất Bằng sơ trung học chỉ trong vòng hai năm, thay vì ba năm như thông thường.[12] Để chuẩn bị thừa kế vị trí thành viên Hội đồng Cơ mật của cha mình, năm 1937, Mandela chuyển đến trường Healdtown, ngôi trường tại Fort Beaufort, nơi hầu hết con cháu hoàng tộc Thembu đều đi học.[13] Vào lúc 19 tuổi, ông bắt đầu quan tâm đến bộ môn quyền anh và chạy bộ tại trường.[8]
Sau đó, ông đậu vào học bằng Cử nhân tại Trường Đại học Fort Hare, nơi ông đã gặp Oliver Tambo. Tambo và Mandela sau này là những người bạn và đồng nghiệp thân thiết. Mandela cũng kết bạn với người bà con Kaiser (“K.D.”) Matanzima, người thuộc dòng trực hệ của Hữu gia của người Thembu, là người thừa kế ngai vàng Transkei[5], vì vai trò mà sau đó đã đưa ông đến với chính sách Bantustan. Chính sự ủng hộ chính sách này của ông và Mandela đã khiến hai người trở thành phe chính trị đối lập.[8] Cuối năm thứ nhất, Mandela tham gia vào vụ tẩy chay của Hội sinh viên nhằm chống lại quy định của trường đại học, và bị buộc phải rời trường Fort Hare không được trở lại chừng nào ông chưa chấp nhận cuộc bầu cử của vào Hội.[14] Sau này, lúc ở trong tù, Mandela đã học bằng Cử nhân luật của Chương trình đào tạo từ xa của Đại học Luân Đôn.
Một thời gian ngắn sau khi rời Fort Hare, Jongintaba đã thông báo với Mandela và Justice (con của quan nhiếp chính và là người thừa kế ngai vàng) rằng ông đã sắp xếp đám cưới cho cả hai người. Những thanh niên trẻ không vừa lòng với sự sắp đặt này, và quyết định chuyển đến sống ở Johannesburg.[15] Khi đến Johannesburg, Mandela xin một chân canh gác tại một khu mỏ.[16] Tuy nhiên, ông chủ lập tức đuổi việc Mandela khi hay rằng ông là con nuôi đang chạy trốn của Quan nhiếp chính. Mandela chuyển sang làm tập sự ở một công ty luật ở Johannesburg, Witkin, Sidelsky và Edelman, nhờ quen biết với một người bạn và người hướng dẫn, nhân viên địa ốc Walter Sisulu.[16] Khi làm việc tại hãng Witkin, Sidelsky và Edelman, Mandela đã hoàn tất tấm bằng Cử nhân hàm thụ của Trường Đại học Nam Phi, sau đó ông học luật tại Trường Đại học Witwatersrand, tại đó ông kết bạn tới bạn học và sau này là đồng chí chống chủ nghĩa apartheid của ông Joe Slovo, Harry Schwarz và Ruth First. Slovo sau này là Bộ trưởng Bộ cư trú, còn Schwarz là Đại sứ Nam Phi tại Hoa Kỳ. Trong thời gian này, ông sống tại thành phố ngoại ô Alexandra, phía bắc Johannesburg.[17]
Hoạt động chính trị
Sau chiến thắng của Đảng Quốc gia, ủng hộ chính sách phân biệt chủng tộc apartheid[18] của những người Afrikaner, Mandela bắt đầu tham gia tích cực vào hoạt động chính trị. Ông đã lãnh đạo rất thành công trong Chiến dịch Phản đối của ANC năm 1952 và Đại hội Nhân dân năm 1955, từ đó thông qua Hiến chương Tự do là nền tảng cơ bản cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa apartheid.[19][20] Trong thời gian này, Mandela và luật sư đồng nghiệp Oliver Tambo điều hành một công ty luật có tên là Mandela và Tambo, nhận bào chữa miễn phí hoặc giá rẻ cho nhiều người da đen thiếu luật sư đại diện.[21]
Mahatma Gandhi có ảnh hưởng lớn đến cách thức đấu tranh của Mandela, và cả phương pháp dành thắng lợi của các nhà hoạt động chống chủ nghĩa apartheid các thế hệ sau.[22][23] Mandela đã từng tham dự một hội nghị diễn ra tại New Delhi từ ngày 29-30 tháng 1 năm 2007 đánh dấu 100 năm ngày Gandhi đưa ra thuyết satyagraha (phản kháng bất bạo động) tại Nam Phi.[24]
Ban đầu, khi kiên trì đường lối đấu tranh bất bạo động, Mandela và 150 người khác bị bắt giam vào ngày 5 tháng 12 năm 1956 và bị buộc tội phản quốc. Sau quá trình xét xử kéo dài từ năm 1956-1961, tất cả các bị cáo đều được tuyên trắng án.[25] Từ năm 1952–1959, xuất hiện một lực lượng các nhà hoạt động da đen mới được gọi là những người Toàn Phi đã cản trở các hoạt động của ANC ở khu vực thành phố của người da đen, lực lượng này đòi hỏi phải có các biện pháp quyết liệt hơn nhằm chống lại chế độ của Đảng Quốc gia.[26] Những nhà lãnh đạo ANC lúc bấy giờ là Albert Luthuli, Oliver Tambo và Walter Sisulu không những cho rằng những người Toàn Phi đang đi quá đà mà còn cảm thấy quyền lãnh đạo của họ đang bị đe dọa.[26] Vì thế cánh lãnh đạo của ANC đã củng cố vị thế của mình bằng cách liên minh với các đảng phái chính trị nhỏ của những người Da trắng, Da màu, lẫn Da đỏ nhằm tranh thủ lôi kéo rộng rãi số người ủng hộ hơn phái Toàn Phi.[26] Những người Toàn Phi nhạo báng Hiến chương Tự do trong Hội nghị tại Kliptown năm 1955 vì đảng ANC với số lượng thành viên áp đảo 100.000 người mà chỉ có được một phiếu trong liên minh Đại hội. Bốn trong năm tổng thư ký của các đảng phái tham gia đại hội đều đã ngầm tham gia Đảng Cộng sản Nam Phi (SACP) tái cơ cấu, gắn liền với chính sách của Moskva.[27][28] Đến năm 2003 Blade Nzimande, Tổng thư ký SACP, tiết lộ rằng Walter Sisulu, Tổng thư ký của đảng ANC, cũng đã bí mật gia nhập SACP vào năm 1955[29] có nghĩa là cả năm Tổng thư ký đều là người của SACP và do đó giải thích lý do tại sao Sisulu quyết định đưa vai trò của ANC từ vai trò chi phối xuống thành một trong năm bên ngang vai nhau.
Trong năm 1959, ANC mất phần lớn sự ủng hộ từ lực lượng chiến đấu khi phần lớn những người Toàn Phi, với sự hỗ trợ tài chính từ Ghana và chính trị từ những người Sotho tại tỉnh Transvaal, đã ly khai để thành lập Đại hội Toàn Phi (PAC) dưới sự lãnh đạo của Robert Sobukwe và Potlako Leballo.[30]
Hoạt động chống Chủ nghĩa Apartheid
Vào năm 1961, Mandela trở thành người đồng sáng lập và là lãnh đạo cánh vũ trang của ANC, Umkhonto we Sizwe (tạm dịch Cây giáo của Quốc gia, cũng viết tắt là MK).[31] Ông điều hành các chiến dịch phá hoại chống lại các mục tiêu quân sự và của chính quyền, lên kế hoạch cho một cuộc chiến tranh du kích nếu phương cách phá hoại vẫn không chấm dứt được chế độ apartheid.[32] Mandela cũng quyên tiền cho MK ở nước ngoài và sắp xếp các buổi huấn luyện bán quân sự cho nhóm.[32]
Người đồng chí trong đảng ANC Wolfie Kadesh giải thích chiến dịch đánh bom do Mandela dẫn dắt như sau: “Khi chúng tôi biết rằng chúng tôi sẽ bắt đầu vào ngày 16 tháng 12 năm 1961, nhằm làm nổ tung những vị trí là biểu tượng của chủ nghĩa apartheid, như văn phòng giấy thông hành, tòa án địa phương, và những nơi tương tự… bưu điện và… các văn phòng chính phủ. Nhưng chúng tôi dự định thực hiện điều đó sao cho không có ai bị thương vong.”[33] Mandela đã nói về Wolfie: “Kiến thức về chiến tranh và kinh nghiệm trận mạc của ông là cực kỳ hữu ích đối với tôi.”[10]
Mandela đã xem bước chuyển sang đấu tranh vũ trang là phương kế cuối cùng; nhiều năm trời với chính sách đàn áp và bạo lực ngày càng tăng của chính quyền đã cho ông thấy sự phản kháng bất bạo động chống chủ nghĩa apartheid nhiều năm qua đã không và cũng không thể thu được tiến triển nào.[10][34]
Sau này, chủ yếu vào thập niên 1980, MK đã tiến hành chiến tranh du kích chống lại chế độ apartheid với nhiều thương vong là dân thường.[32] Mandela sau này thừa nhận rằng ANC, trong cuộc chiến đấu chống lại apartheid, cũng vi phạm quyền con người, chỉ trích thẳng thừng những đảng viên trong đảng ông cố gắng đưa những câu chữ phản ánh sự thật ra khỏi báo cáo của Ủy ban Sự thật và Hòa giải.[35]
Cho đến tận tháng 7 năm 2008, Mandela và các đảng viên ANC vẫn bị hạn chế đi đến Hoa Kỳ – ngoại trừ trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Manhattan — nếu không có giấy phép cho phép đặc biệt của Ngoại trưởng Hoa Kỳ, vì họ bị quy là khủng bố trong thời kỳ chế độ apartheid ở Nam Phi.[36][37]
Bị bắt giữ và phiên tòa Rivonia
Ngày 5 tháng 8 năm 1962 Mandela bị bắt sau khi ẩn náu được 17 tháng, và giam giữ tại Pháo đài Johannesburg.[38] Vụ bắt giữ này xảy ra do Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) đã tiết lộ nơi ẩn náu và nhân dạng giả của Mandela cho an ninh.[39][40][41] Ba ngày sau đó, người ta đã đọc lời buộc tội ông chủ mưu kêu gọi công nhân đình công vào năm 1961 và vượt biên bất hợp pháp tại tòa. Ngày 25 tháng 10 năm 1962, Mandela bị tuyên án 5 năm tù giam. Hai năm sau vào ngày 11 tháng 6 năm 1964, ông lại phải ra tòa một lần nữa vì những hoạt động trong Hội đồng Quốc gia châu Phi (ANC).[42]
Trong lúc Mandela đang trong tù, cảnh sát đã bắt giữ nhiều lãnh đạo cốt cán của ANC vào ngày 11 tháng 7 năm 1963, tại Liliesleaf Farm, Rivonia, phía bắc Johannesburg. Mandela được ghép vào xét xử chung, và tại Phiên tòa Rivonia, họ bị chánh án, Tiến sĩ Percy Yutar, cáo buộc nhiều tội danh trong đó chủ yếu là phá hoại (Mandela thừa nhận tội này) và các tội tương đương với phản quốc, nhưng chính quyền dễ chứng minh hơn.[43] Lời buộc tội thứ hai cáo buộc các bị cáo âm mưu một cuộc xâm lược của ngoại quốc vào Nam Phi, Mandela phủ nhận tội danh này.[43]
Trong lời phát biểu tại ghế bị cáo mở đầu phiên biện hộ trong phiên tòa ngày 20 tháng 4 năm 1964 tại Tòa án Tối cao Pretoria, Mandela đã nói rằng việc ANC lựa chọn sử dụng vũ lực chỉ là một sách lược mà thôi.[44] Lời phát biểu của ông đã mô tả ANC đã sử dụng các biện pháp hòa bình như thế nào để chống lại chủ nghĩa apartheid trong nhiều năm trời cho đến khi xảy ra vụ Thảm sát Sharpeville.[45] Sự kiện đó đi kèm với cuộc trưng cầu dân ý để thành lập Cộng hòa Nam Phi và sự tuyên bố tình trạng khẩn cấp cùng với việc cấm chỉ hoạt động của ANC đã khiến cho Mandela và các đồng chí của ông thấy rằng lựa chọn duy nhất của họ chỉ có thể thông qua các hành động phá hoại, nếu không chẳng khác nào một sự đầu hàng vô điều kiện.[45] Mandela tiếp tục giải thích cách họ hình thành Tuyên ngôn Umkhonto we Sizwe vào ngày 16 tháng 12 năm 1961 dự kiến sẽ phô bày sự thất bại của các chính sách của Đảng Quốc gia sau khi nền kinh tế bị đe dọa cho những người ngoại quốc không còn sẵn lòng đầu tư vào đất nước nữa.[46] Ông kết thúc bài phát biểu bằng những lời sau đây: “Tôi cống hiến cả đời tôi cho sự nghiệp đấu tranh của người dân châu Phi. Tôi đã chiến đấu chống lại sự thống trị của người da trắng, và tôi cũng chiến đấu chống lại sự thống trị của người da đen. Tôi yêu mến lý tưởng về một xã hội dân chủ và tự do trong đó mọi người dân sống với nhau hòa thuận và bình đẳng. Đó là lý tưởng mà tôi hy vọng sẽ sống vì nó và đạt được nó. Nhưng nếu cần, tôi cũng sẵn sàng chết vì lý tưởng đó.”[34]
Bram Fischer, Vernon Berrange, Harry Schwarz, Joel Joffe, Arthur Chaskalson và George Bizos là các luật sự bảo vệ cho bên bị.[47] Harold Hanson cũng được bổ sung vào cuối phiên tòa để giúp giảm nhẹ tội danh.[48] Tất cả mọi người trừ Rusty Bernstein đều bị tuyên là có tội, nhưng họ thoát khỏi án treo cổ mà bị tuyên tù chung thân vào ngày 12 tháng 6 năm 1964.[48] Lời buộc tội gồm có tham gia lên kế hoạch hành động vũ trang, cụ thể là bốn cáo buộc phá hoại, mà Mandela thừa nhận, và một âm mưu chính trị trợ giúp nước ngoài xâm lược Nam Phi, tội này bị Mandela phủ nhận.[48]
Thời gian trong tù
Phòng giam của Nelson Mandela trên Đảo Robben
Nelson Mandela bị giam giữ tại Đảo Robben và đã ở đấy 18 năm trong tổng số 27 năm trong tù của ông.[49] Khi ở trong tù, ông dần dần trở nên nổi tiếng với vai trò là nhà lãnh đạo da đen đáng chú ý nhất tại Nam Phi.[1] Ở trên đảo, ông và các tù nhân khác phải lao động khổ sai ở một mỏ đá vôi.[50] Điều kiện sống trong tù rất cơ bản. Tù nhân cũng bị phân chia theo sắc tộc và tù nhân da đen là những người nhận được lượng thực phẩm ít nhất.[51] Tù chính trị được giam giữ riêng biệt với thường phạm và được hưởng ít quyền lợi hơn.[52] Mandela đã mô tả rằng, do bị xếp vào tù nhân nhóm D (hạng thấp nhất) ông chỉ được phép có một người khách viếng thăm và nhận một lá thư mỗi sáu tháng.[53] Những lá thư thường bị trễ khá lâu và rất khó đọc do chế độ kiểm duyệt trong nhà tù.[10]
Lúc ở trong tù Mandela đã tham gia khóa học từ xa của Đại học Luân Đôn và nhận bằng Cử nhân Luật.[54] Ông sau đó được đề cử làm Hiệu trưởng danh dự của Đại học Luân Đôn trong cuộc bình chọn năm 1981, nhưng vị trí này đã thuộc về Công chúa Anne.[54]
Trong cuốn hồi ký Inside BOSS xuất bản năm 1981[55] điệp viên Gordon Winter đã kể về việc ông này tham gia kế hoạch giải cứu Mandela vào năm 1969: kế hoạch này bị Winter tiết lộ thay mặt cho cơ quan tình báo Nam Phi, họ muốn Mandela trốn thoát để họ có thể xử bắn ông khi tìm bắt lại. Kế hoạch này đã bị Cơ quan Tình báo Anh chặn đứng.[55]
Vào tháng 3 năm 1982 Mandela được chuyển từ Đảo Robben sang Nhà tù Pollsmoor, cùng với các nhà lãnh đạo ANC khác như Walter Sisulu, Andrew Mlangeni, Ahmed Kathrada và Raymond Mhlaba.[53] Đã có suy đoán rằng đây là cách để xóa bỏ sức ảnh hưởng của các nhà lãnh đạo cấp cao này đối với thế hệ những nhà hoạt động da đen trẻ đang bị giam tại Đảo Robben, cái gọi là “Trường Đại học Mandela”.[56] Tuy nhiên, Thủ tướng Kobie Coetsee thuộc Đảng Quốc gia nói rằng việc chuyển trại này giúp cho việc liên hệ giữa họ và chính quyền Nam Phi được thuận tiện hơn.[57]
Tháng 2 năm 1985 Tổng thống P.W. Botha đề nghị trả tự do cho Mandela với điều kiện ông phải ‘từ bỏ phương cách đấu tranh chính trị bằng bạo lực một cách vô điều kiện’.[58] Coetsee và các bộ trưởng khác phản đối đề xuất của Botha, cho rằng Mandela sẽ không bao giờ yêu cầu tổ chức của ông từ bỏ đấu tranh vũ trang để đổi lấy sự tự do cho cá nhân mình.[59] Đúng là Mandela đã bác bỏ đề xuất và đưa ra lời tuyên bố thông qua cô con gái Zindzi trong đó nói rằng “Thứ tự do đang được đề nghị cho tôi là cái gì trong khi tổ chức của nhân dân vẫn bị cấm đoán? Chỉ có những người tự do mới có thể thương lượng mà thôi. Một tù nhân không thể tham gia vào một thỏa hiệp nào hết.”[57]
Cuộc gặp đầu tiên giữa Mandela và chính quyền Đảng Quốc gia diễn ra vào tháng 11 năm 1985, khi Kobie Coetsee gặp gỡ Mandela tại Bệnh viện Volks Hospital ở Cape Town nơi Mandela đang tịnh dưỡng sau cuộc phẫu thuật tuyến tiền liệt.[60] Trong bốn năm sau đó, một loạt các cuộc gặp mang tính thăm dò đã diễn ra, làm nền tảng cho các cuộc tiếp xúc và thương lượng về sau, nhưng tiến bộ thực sự thì không nhiều.[57]
Vào năm 1988 Mandela được chuyển đến Nhà tù Victor Verster và ở đó cho đến khi ông được phóng thích. Người ta đã dỡ bỏ nhiều hạn chế đối với ông và những người như Harry Schwarz đã có thể tự do thăm viếng ông. Schwarz, một người bạn của Mandela, biết ông từ khi họ học chung lớp luật ở trường đại học. Ông này cũng là luật sư biện hộ cho Mandela tại Phiên tòa Rivonia và sau này là đại sứ tại Washington khi Mandela làm tổng thống.
Trong suốt thời kỳ Mandela bị giam giữ, đã có nhiều áp lực ở trong cũng như ngoài nước đòi chính quyền Nam Phi phải trả tự do cho ông, với khẩu hiệu nổi tiếng Free Nelson Mandela! (Hãy thả Nelson Mandela)[61] Đến năm 1989, Nam Phi có sự chuyển biến khi Botha bị đột quỵ và Frederik Willem de Klerk thay thế vào vị trí tổng thống.[62] De Klerk tuyên bố thả tự do cho Mandela vào tháng 2 năm 1990.[63]
Mandela đã được Ủy hội Chữ thập đỏ Quốc tế viếng thăm vài lần khi ông còn ở Đảo Robben và sau này ở nhà tù Pollsmoor. Mandela đã nói về những chuyến thăm viếng như sau: “với cá nhân tôi, và với những ai đã từng trải qua thời gian là tù chính trị, Hội chữ thập đỏ là một tia sáng nhân đạo trong thế giới tăm tối thiếu nhân tính của nhà tù chính trị.”[64][65]
Trả tự do
Ngày 2 tháng 2 năm 1990, Tổng thống Quốc gia F.W. de Klerk đã hủy lệnh cấm hoạt động đối với Đảng ANC và các tổ chức chống chủ nghĩa apartheid khác, đồng thời thông báo Mandela sẽ sớm được trả tự do.[66] Mandela được trả tự do từ Nhà tù Victor Verster ở Paarl vào ngày 11 tháng 2 năm 1990. Sự kiện này được phát hình trực tiếp trên khắp thế giới.[67]
Vào ngày được phóng thích, Mandela đã có một bài diễn văn gửi đến toàn quốc.[68] Ông tuyên bố cam kết hòa bình và hòa giải với những người da trắng thiểu số trong nước, nhưng nói rõ rằng cuộc đấu tranh vũ trang của ANC vẫn chưa chấm dứt khi ông nói “phương sách đấu tranh vũ trang vào năm 1960 khi chúng tôi hình thành phái quân sự trong ANC (Umkhonto we Sizwe) đơn thuần là hành động tự vệ chống lại sự tàn bạo của chủ nghĩa apartheid. Các yếu tố đưa đến cuộc đấu tranh vũ trang đến nay vẫn hiển diện. Chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải tiếp tục. Chúng tôi bày tỏ hy vọng một không khí có lợi cho một cuộc thương lượng sẽ sớm được tạo ra, để nhu cầu đấu tranh vũ trang không còn nữa.”
Ông cũng nói rằng tập trung chính của ông là mang lại hòa bình cho những người da đen đa số và cho họ quyền bỏ phiếu trong những cuộc bầu cử cấp quốc gia lẫn địa phương.[68]
Thương thuyết
Tổng thống de Klerk và Mandela trong Đại hội Kinh tế Thế giới tại Davos năm 1992
Sau khi được trả tự do, Mandela trở lại làm lãnh đạo ANC, rồi từ năm 1990 đến 1994, ông lãnh đạo đảng này trong cuộc thương lượng đa đảng dẫn tới cuộc bầu cử đa sắc tộc đầu tiên trong nước.[69]
Năm 1991, ANC tổ chức hội nghị toàn quốc đầu tiên của mình ở Nam Phi sau khi được dỡ bỏ lệnh cấm, hội nghị đã bầu Mandela làm Chủ tịch (President) của tổ chức. Người bạn và người đồng nghiệp lâu năm của ông, Oliver Tambo, người lãnh đạo tổ chức lưu vong khi Mandela còn ở trong tù, trở thành Chủ tịch Quốc gia (National Chairperson).[70]
Vai trò lãnh đạo của Mandela trong cuộc thương thuyết, cũng như mối quan hệ của ông với Tổng thống F.W. de Klerk, đã được thừa nhận khi họ cùng được trao Giải Nobel Hòa bình năm 1993. Tuy nhiên, mối quan hệ này thỉnh thoảng trở nên căng thẳng, cụ thể như trong một phát biểu nảy lửa vào năm 1991 khi ông nói De Klerk là người cầm đầu một “chế độ không hợp pháp, mất uy tín, gồm toàn những người thiểu số”. Cuộc thương thuyết có lần đã đổ vỡ do vụ thảm sát Boipatong tháng 6 năm 1992, khi đó Mandela cùng đoàn đại biểu của ANC bước ra khỏi cuộc thương thuyết, cáo buộc chính quyền De Klerk đồng lõa với các vụ giết chóc.[71] Tuy nhiên, những cuộc hội đàm đã được tiếp diễn sau vụ thảm sát Bisho tháng 9 năm 1992, khi bóng ma bạo lực khiến cho người ta nhận thấy hội đàm là cách duy nhất để tiến tới một giải pháp.[10]
Sau vụ ám sát nhà lãnh đạo ANC Chris Hani tháng 4 năm 1993, lại dấy lên sự sợ hãi đất nước sẽ lại tan vỡ trong bạo lực.[72] Mandela đã gửi thông điệp toàn quốc yêu cầu mọi người bình tĩnh, trong bài phát biểu với vai trò ‘tổng thống’ dù khi đó ông chưa phải là tổng thống thực sự. Mandela nói rằng “tối nay tôi đang nói với từng người Nam Phi, cả đen lẫn trắng, những lời nói xuất phát từ sâu thẳm lòng mình. Một người da trắng đầy thành kiến và căm giận đã đến đất nước chúng ta và thực hiện một hành vi sai lầm đến mức khiến cả nước phải đối mặt với vực thẳm khủng hoảng. Một người phụ nữ da trắng, gốc Afrikan, đã liều mạng sống của bà để chúng ta có thể biết đến, và mang lại sự công bằng cho vụ ám sát này. Vụ giết người máu lạnh nhằm vào Chris Hani đã tạo một làn sóng rung chuyển đất nước và thế giới… Giờ đây đã đến lúc mọi người dân Nam Phi sát cánh cùng nhau để chống lại bất cứ hành vi nào nhằm phá hủy những gì Chris Hani đã cống hiến cả đời ông cho nó – sự tự do cho tất cả chúng ta”.[73] Dù đã có một số vụ bạo loạn xảy ra sau vụ ám sát, các bên thương lượng vẫn tích cực hành động, và sớm thỏa thuận một cuộc bầu cử dân chủ diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1994, chỉ hơn một năm sau vụ ám sát Hani.[57]
Thời kỳ làm Tổng thống Nam Phi
Cuộc bầu cử đa sắc tộc đầu tiên ở Nam Phi với quyền bỏ phiếu được trao cho tất cả mọi người đã diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1994. ANC giành được 62% số phiếu bầu, và Mandela, với vai trò là lãnh đạo ANC, đã nhậm chức làm Tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi vào ngày 10 tháng 5 năm 1994, de Klerk của Đảng Quốc gia là phó tổng thống thứ nhất và Thabo Mbeki là phó tổng thống thứ hai trong Chính phủ Thống nhất Quốc gia.[74] Với vị trí là Tổng thống từ tháng 5 năm 1994 cho đến tháng 6 năm 1999, Mandela đã chủ trì sự chuyển giao từ quyền lực của thiểu số và chủ nghĩa apartheid, giành được sự tôn trọng của quốc tế đối với những nỗ lực hòa giải quốc gia và thế giới của ông.[75] Mandela đã khích lệ những người Nam Phi da đen ủng hộ cho đội Springbok (đội tuyển rugby quốc gia Nam Phi) trước đây bị dân chúng ghét bỏ khi Nam Phi tổ chức Cúp Rugby Thế giới 1995.[76] Sau khi Springbok giành chiến thắng trong trận chung kết trước New Zealand, Mandela đã trao cúp vô địch cho đội trưởng Francois Pienaar, một người Afrikan, trên người mặc chiếc áo đấu Springbok với con số 6 của Pienaar sau lưng. Hành động này được xem là bước tiến lớn của sự hòa giải giữa người Nam Phi da trắng và da đen.[77]
Sau khi nhậm chức tổng thống, một trong những dấu hiệu đặc trưng của Mandela là chiếc áo Batik của ông, còn được biết đến với cái tên “Áo Madiba“, kể cả trong những sự kiện long trọng.[78] Trong hành động quân sự đầu tiên sau thời kỳ apartheid của Nam Phi, Mandela đã ra lệnh cho quân đội xâm nhập lãnh thổ Lesotho vào tháng 9 năm 1998 để bảo vệ chính quyền của Thủ tướng Pakalitha Mosisili. Vụ việc này diễn ra sau một cuộc bỏ phiếu gây tranh cãi trong đó lực lượng phản đối đã đe dọa đến chính quyền thiếu ổn định này.[79] Những nhà bình luận và phê bình trong đó có cả các nhà hoạt động vì AIDS như Edwin Cameron đã chỉ trích Mandela vì sự thiếu hiệu quả của chính quyền ông trong việc ngăn chặn cuộc khủng hoảng AIDS.[80][81] Sau khi nghỉ hưu, Mandela thừa nhận rằng ông đã thất bại vì đã không chú ý nhiều hơn đến bệnh dịch HIV/AIDS.[82][83] Mandela từ đó đã có một số bài phát biểu chống lại bệnh dịch AIDS.[84][85]
Vụ xử Lockerbie
Tổng thống Mandela có sự quan tâm đặc biệt trong việc giúp đỡ giải quyết tranh cãi kéo dài giữa một bên là quốc gia Lybia dưới thời Gaddafi, còn bên kia là Hoa Kỳ và Anh, đối với việc mang ra xét xử hai người Lybia bị truy tố vào tháng 11 năm 1991 và bị buộc tội phá hoại Chuyến bay 103 của Pan Am, khiến nó rơi tại thị trấn Lockerbie của Scotland ngày 21 tháng 12 năm 1988, làm cho 270 người thiệt mạng.[86] Từ đầu năm 1992, Mandela đã có lời đề nghị không chính thức gửi tới Tổng thống George H.W. Bush yêu cầu xét xử hai nghi phạm Lybia tại quốc gia thứ ba. Bush tỏ ra tán thành đề nghị này, cả Tổng thống François Mitterrand của Pháp và Vua Juan Carlos I của Tây Ban Nha cũng vậy.[87] Vào tháng 11 năm 1994 – sáu tháng sau khi ông đắc cử tổng thống – Mandela chính thức đề nghị Nam Phi nên là nơi diễn ra phiên toàn xét xử vụ đánh bom Chuyến bay 103 của Pan Am.[88]
Tuy nhiên, Thủ tướng Anh John Major thẳng thừng từ chối ý tưởng này nói rằng chính phủ Anh không tin tưởng vào tòa án nước ngoài.[89] Đến ba năm sau, Mandela một lần nữa lại gửi lời đề nghị đến người kế nhiệm Major, Tony Blair, khi ông có chuyến viếng thăm Luân Đôn vào tháng 7 năm 1997. Cuối năm đó, tại Cuộc họp những người đứng đầu chính phủ của khối Thịnh vượng chung năm 1997 tại Edinburgh tháng 10 năm 1997, Mandela đã cảnh báo:
“Không thể có một quốc gia vừa là nguyên cáo, vừa là bên nguyên lẫn quan tòa.”
Cuối cùng đã có một thỏa hiệp để tổ chức phiên tòa ở Trại quân sự Zeist ở Hà Lan, xét xử theo Luật Scotland, và Tổng thống Mandela bắt đầu thương thuyết với Đại tá Gaddafi để dẫn độ hai bị cáo (Megrahi và Fhimah) vào tháng 4 năm 1999.[90] Sau phiên tòa kéo dài 9 tháng, phán quyết đã được công bố vào ngày 31 tháng 1 năm 2001. Fhimah được tuyên trắng án, nhưng Megrahi bị buộc tội và phải lãnh 27 năm tù trong một nhà tù ở Scotland. Kháng cáo lần đầu của Megrahi đã bị bác vào tháng 3 năm 2002, và cựu tổng thống Mandela đã đến thăm người này tại nhà tù Barlinnie vào ngày 10 tháng 6 năm 2002.
‘Megrahi hoàn toàn cô độc’, Mandela nói trong cuộc họp báo nhỏ trong phòng thăm viếng của nhà tù. ‘Anh ta không có ai để nói chuyện cả. Đây là sự hành hạ về tâm lý mà một người đàn ông phải chịu đựng trong suốt thời gian dài chịu án hoàn toàn một mình. Sẽ công bằng hơn nếu anh ta được chuyển đến một quốc gia Hồi giáo — và có nhiều quốc gia Hồi giáo mà phương Tây tin tưởng. Nó sẽ giúp gia đình anh dễ viếng thăm anh hơn nếu anh ở một nơi như vương quốc Maroc, Tunisia hay Ai Cập.’[91]
Megrahi sau đó được chuyển đến nhà tù Greenock và không còn bị biệt giam nữa.[92] Tháng 8 năm 2009, Megrahi, sau khi được chẩn đoán bị ung thư và chỉ còn sống được 3 tháng, đã được trả tự do trong một đợt ân xá và được phép trở về Libya. Quỹ Nelson Mandela đã ủng hộ quyết định ân xá cho Megrahi trong một bức thư gửi tới Chính quyền Scotland thay mặt cho Mandela.[93]
Hôn nhân và gia đình
Mandela đã kết hôn ba lần, và có 6 con, 20 đứa cháu và số chắt thì ngày càng tăng. Ông là ông nội của Tù trưởng Mandla Mandela.[94]
Cuộc hôn nhân đầu tiên
Cuộc hôn nhân đầu tiên của Mandela là kết hôn với Evelyn Ntoko Mase người cũng như Mandela, xuất thân từ nơi về sau gọi là vùng Transkei của Nam Phi, mặc dù thực ra họ gặp nhau tại Johannesburg.[95] Hai người chia tay vào năm 1957 sau 13 năm chung sống, ly dị vì sự căng thẳng do ông thường xuyên vắng nhà, dành quá nhiều thời gian cho công cuộc cách mạng, và một phần do bà là tín đồ Chứng nhân Jehovah, một tôn giáo đòi hỏi một sự trung lập về chính trị.[96] Evelyn Mase chết năm 2004.[97] Hai người có với nhau hai con trai, Madiba Thembekile (Thembi) (1946–1969) và Makgatho Mandela (1950–2005), và hai con gái, cả hai đều có tên Makaziwe Mandela (được biết đến với tên Maki; sinh 1947 và 1953). Đứa con gái đầu chết lúc 9 tháng tuổi, và họ đặt tên đứa con gái thứ hai theo tên cô con gái đầu lòng.[98] Các con của họ đều đi học Trường Thế giới Thống nhất ở Waterford Kamhlaba.[99] Thembi chết trong tai nạn xe hơi năm 1969 ở tuổi 25, khi Mandela đang bị giam giữ tại Đảo Robben, và Mandela không được phép tham dự lễ tang.[100] Makgatho chết vì bệnh AIDS năm 2005, khi 54 tuổi.[101]
Cuộc hôn nhân thứ hai
Người vợ thứ hai của Mandela, Winnie Madikizela-Mandela, cũng xuất thân từ vùng Transkei, mặc dù hai người cũng gặp nhau tại Johannesburg, nơi bà là công chức da đen đầu tiên của thành phố.[102] Họ có hai con gái, Zenani (Zeni), sinh ngày 4 tháng 2 năm 1958 và Zindziswa (Zindzi) Mandela-Hlongwane, sinh năm 1960.[102] Zindzi chỉ mới 18 tháng tuổi khi cha cô bị giam tại nhà tù Đảo Robben. Sau này, Winnie phải chịu mối bất hòa trong gia đình, phản ảnh cuộc xung đột chính trị của đất nước; khi chồng bà đang chịu án chung thân ở Đảo Robben, còn cha bà lại làm bộ trưởng nông nghiệp ở Transkei.[102] Cuộc hôn nhân kết thúc bằng một cuộc ly thân rồi ly dị, được kích thêm từ mối bất hòa về chính trị.[103]
Mandela vẫn mòn mỏi trong tù khi con gái ông Zenani kết hôn với Hoàng thân Thumbumuzi Dlamini năm 1973, anh trai của Vua Mswati III của Swaziland.[104] Mặc dù bà có ấn tượng sâu sắc về cha mình, nhà chức trách Nam Phi không cho phép bà thăm ông từ khi bà 4 tuổi cho đến lúc bà 16 tuổi.[105] Hai vợ chồng Dlamini sinh sống và kinh doanh tại Boston.[106] Một trong hai đứa con trai của họ, Hoàng tử Cedza Dlamini (sinh năm 1976), được giáo dục tại Hoa Kỳ, đã đi theo bước chân của ông ngoại làm một người ủng hộ cho quyền con người và trợ giúp nhân đạo.[106]
Zindzi Mandela-Hlongwane đã làm nên lịch sử trên toàn thế giới khi bà đọc bài diễn văn của Mandela từ chối lời đề nghị tha bổng có điều kiện vào năm 1985. Bà là nữ doanh nhân tại Nam Phi với ba con, đứa đầu lòng là con trai, Zondwa Gadaffi Mandela.[107]
Cuộc hôn nhân thứ ba
Mandela đã tái giá vào sinh nhật lần thứ 80 của ông năm 1998, với Graça Machel nhũ danh Simbine, góa phụ của Samora Machel, cựu tổng thống Mozambique và là đồng minh của ANC bị chết trong vụ rơi máy bay 12 năm trước đó.[108] Cuộc hôn nhân là kết quả của hàng tháng trời thương thảo ở cấp quốc tế để đặt ra đồ sính lễ chưa từng có trong lịch sử để được rút khỏi bộ tộc của Machel. Một thỏa thuận miệng đã được thực hiện bởi nhà vua truyền thống đại diện cho Mandela, Vua Buyelekhaya Zwelibanzi Dalindyebo.[109] Ông nội của thủ lĩnh tối cao là quan nhiếp chính Jongintaba Dalindyebo, người đã sắp xếp cuộc hôn nhân cho Mandela, đã lảng tránh bằng cách trốn sang Johannesburg vào năm 1940.[15]
Mandela hiện vẫn còn ngôi nhà tại Qunu do đứa cháu trai nối dõi của ông quản lý, hiện ông vẫn trả tiền học phí và giữ quyền ủy viên hội đồng.[110]
Nghỉ hưu
Mandela là Tổng thống đắc cử lớn tuổi nhất của Nam Phi khi ông nhậm chức ở tuổi 75 vào năm 1994. Ông đã quyết định không cầm quyền nhiệm kỳ thứ hai và nghỉ hưu vào năm 1999, người kế nhiệm ông là Thabo Mbeki.
Sau khi rời ghế Tổng thống, Mandela tiếp tục đóng vai trò tích cực trong nhiều tổ chức xã hội và vì quyền con người. Ông biểu lộ sự ủng hộ phong trào Make Poverty History (Biến đói nghèo thành dĩ vãng) mà trong đó Chiến dịch ONE là một bộ phận.[111] Giải golf gây quỹ Khách mời Nelson Mandela, do Gary Player chủ trì, đã thu được hơn 20 triệu rand cho các quỹ vì trẻ em từ lúc bắt đầu năm 2000.[112]
Mandela cũng là người ủng hộ cho Làng trẻ em SOS, tổ chức chuyên quyên tiền giúp đỡ trẻ em mồ côi và bị bỏ rơi lớn nhất thế giới.[113] Mandela cũng xuất hiện trong một đoạn quảng cáo cho Thế vận hội mùa đông 2006, và đã được trích dẫn trong chiến dịch Chúc mừng nhân loại của Ủy ban Olympic Quốc tế:[114]
For seventeen days, they are roommates. For seventeen days, they are soulmates. And for twenty-two seconds, they are competitors. Seventeen days as equals. Twenty-two seconds as adversaries. What a wonderful world that would be. That’s the hope I see in the Olympic Games.
Tạm dịch:
Trong mười bảy ngày, chúng ta là bạn hữu. Trong mười bảy ngày, chúng ta là tâm giao. Và trong mười hai giây, chúng ta là đối thủ. Mười bảy ngày bình đẳng. Mười hai giây đối địch. Thế giới như thế mới tuyệt vời làm sao. Đó là niềm hy vọng mà tôi thấy được trong Thế vận hội.
Sức khỏe
Tháng 7 năm 2001 Mandela được chẩn đoán bệnh ung thư tuyến tiền liệt và tiến hành chữa trị. Ông được xạ trị trong 7 tuần.[115] Năm 2003, Mandela bị CNN thông báo nhầm là đã chết khi bản cáo phó viết sẵn của ông (cùng với vài yếu nhân khác) do sơ suất đã hiển thị trên website của CNN vì lỗi bảo vệ mật khẩu.[116] Vào năm 2007, một nhóm cánh tả không chính thống đã phổ biến email và tin nhắn SMS giả mạo nói rằng nhà chức trách đang giấu giếm cái chết của Mandela và những người Nam Phi da trắng sẽ bị tàn sát sau tang lễ của ông. Mandela lúc đó đang đi nghỉ tại Mozambique.[117]
Tháng 6 năm 2004, ở tuổi 85, Mandela thông báo rằng ông sẽ không tham gia các hoạt động công cộng nữa. Sức khỏe của ông dần giảm sút, và ông muốn có nhiều thời gian hơn với gia đình. Mandela nói rằng không định cách ly hoàn toàn khỏi công chúng, nhưng muốn mình ở vị thế “sẽ gọi cho các bạn để hỏi xem tôi có được chào đón hay không, chứ không phải được mời làm các thứ và tham dự các sự kiện nữa. Lời thỉnh cầu của tôi là: Đừng gọi cho tôi, tôi sẽ gọi cho các bạn.”[118] Từ năm 2003, ông ít xuất hiện trước công chúng hơn và ít phát ngôn trước các vấn đề.[119] Tóc ông bạc trắng và ông di chuyển chậm chạp với sự hỗ trợ của gậy. Cũng có báo cáo là ông đang bị chứng mất trí nhớ của người già.[120]
Sinh nhật lần thứ 90 của Mandela đã được tổ chức ở nhiều nơi khắp đất nước ngày 18 tháng 7 năm 2008, lễ mừng chính được tổ chức tại quê nhà Qunu của ông.[121] Một buổi hòa nhạc vinh danh ông cũng được tổ chức tại Hyde Park, Luân Đôn.[122] Trong buổi diễn văn kỷ niệm sinh nhật của mình, Mandela kêu gọi những người giàu hãy giúp đỡ người nghèo trên khắp thế giới.[121] Mặc dù vẫn ít xuất hiện trong suốt kỳ World Cup 2010 tại Nam Phi, Mandela cũng xuất hiện tại buổi bế mạc, tại đó ông đã được “chào đón nhiệt liệt”.[123]
The Elders
Ngày 18 tháng 7 năm 2007, Nelson Mandela, Graça Machel, và Desmond Tutu tụ họp một nhóm các nhà lãnh đạo thế giới tại Johannesburg để đóng góp sự hiểu biết và khả năng lãnh đạo độc lập để giải quyết các vấn đề khó khăn nhất trên thế giới. Nelson Mandela thông báo lập nên một nhóm mới, The Elders, trong một bài diễn văn nhân sinh nhật lần thứ 89 của mình.[124]
Tổng giám mục Tutu làm chủ tịch của The Elders. Các thành viên sáng lập nhóm bao gồm Graça Machel, Kofi Annan, Ela Bhatt, Gro Harlem Brundtland, Jimmy Carter, Lý Triệu Tinh, Mary Robinson và Muhammad Yunus.[125]
“Nhóm này có tiếng nói tự do và khẳng khái, hoạt động công khai lẫn hậu trường về bất cứ hành động nào cần thực hiện”, Mandela nói. “Cùng với nhau chúng tôi sẽ hoạt động để ủng hộ lòng can đảm tại nơi có sợ hãi, nuôi dưỡng thỏa thuận tại nơi có tranh chấp, và truyền hy vọng tại nơi tuyệt vọng.”[126]
Chống AIDS
Sau khi về hưu, một trong những sự quan tâm chính của Mandela là đấu tranh chống lại bệnh dịch AIDS. Ông đã có bài phát biểu bế mạc Hội nghị về AIDS Quốc tế lần thứ XIII năm 2000, tại Durban, Nam Phi.[127] Vào năm 2003, ông hỗ trợ bằng cách cho phép chiến dịch gây quỹ chống AIDS 46664 sử dụng số hiệu tù nhân của ông.[128] Tháng 7 năm 2004, ông bay tới Bangkok để phát biểu tại Hội nghị về AIDS Quốc tế lần thứ XV.[129] Con trai ông, Makgatho Mandela, chết vì bệnh AIDS vào ngày 6 tháng 1 năm 2005.[130]
Phê phán chính sách ngoại giao của Mỹ và Anh
Nelson Mandela phản đối mạnh mẽ vụ can thiệp của NATO tại Kosovo năm 1999 và gọi đó là nỗ lực của các cường quốc nhằm kiểm soát thế giới.[131] Năm 2002 và 2003, Mandela chỉ trích chính sách ngoại giao của chính quyền Tổng thống Mỹ George W. Bush trong nhiều bài phát biểu.[132][133] Phê phán về việc thiếu sự tham gia của Liên Hiệp Quốc trong quyết định bắt đầu Chiến tranh Iraq, ông nói, “Đó là một bi kịch, những gì đang xảy ra, những gì Bush đang làm. Nhưng Bush giờ đây đang làm xói mòn Liên Hiệp Quốc.” Mandela cho rằng ông chỉ ủng hộ hành động chống lại Iraq nếu đó là do Liên Hiệp Quốc ra lệnh. Mandela cũng nói bóng gió đến việc Liên Hiệp Quốc có lẽ đã bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt chủng tộc vì đã không tuân theo ý kiến của Liên Hiệp Quốc và tổng thư ký Kofi Annan về vấn đề chiến tranh. “Có phải vì tổng thư ký Liên Hiệp Quốc hiện tại là một người da đen hay không? Họ không bao giờ làm vậy khi tổng thư ký là người da trắng”.[134]
Ông kêu gọi nhân dân Mỹ tham gia vào các cuộc biểu tình lớn chống lại Bush và kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới, đặc biệt là những nước có quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, phản đối Bush.[135] “Điều tôi lên án ở đây là chỉ một cường quốc, với một vị tổng thống không có óc chiến lược, người không thể nghĩ cho đúng đắn, giờ đang muốn đẩy thế giới vào một cuộc tàn sát.” Ông tấn công Hoa Kỳ vì các thành tích xấu về nhân quyền và đã thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới II. “Nếu có một quốc gia có hành động tàn ác đến mức không thể diễn tả được bằng lời, đó là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Họ bất cần.”[134] Nelson Mandela cũng chê trách nặng nề Thủ tướng Anh Tony Blair và gọi ông là “ngoại trưởng của Mỹ.”[136]
Tranh chấp với Ismail Ayob
Ismail Ayob từng là một người bạn tin cậy và là luật sư riêng của Mandela trong hơn 30 năm. Vào tháng 5 năm 2005, Ayob được Mandela yêu cầu dừng bán các ấn phẩm có chữ ký của Mandela và tính toán lại lợi nhuận thu được từ việc bán chúng. Tranh chấp này đã khiến Mandela đệ đơn lên Tòa án Tối cao Nam Phi vào năm đó.[137] Ayob cho rằng mình không làm điều gì sai trái,[138] và nói rằng ông là nạn nhân của một chiến dịch bôi nhọ do các cố vấn của Mandela, mà cụ thể là luật sư George Bizos, dựng lên.[139]
Vào năm 2005 và 2006, Ayob và vợ con của ông trở thành đối tượng chỉ trích của các cố vấn của Mandela. Vụ tranh chấp này được truyền thông rộng rãi, với Ayob được mô tả ở vị thế phản diện, cao điểm là khi Mandela đệ đơn lên Tòa án Tối cao. Đã có những cuộc họp công khai trong đó những người thân cận của Mandela chỉ trích Ayob và công chúng còn kêu gọi tẩy chay Ayob và gia đình ông.[140] Lời biện hộ của Ismail và Zamila Ayob (vợ ông, và cũng là bị cáo liên quan) đưa ra các văn bản do Mandela ký và được các thư ký của ông làm chứng, từ đó bác bỏ nhiều lý lẽ của Nelson Mandela và các cố vấn.[141]
Tranh chấp này một lần nữa lại xuất hiện trên mặt báo vào tháng 2 năm 2007 khi trong một phiên tòa tại Tòa án Tối cao Johannesburg, Ayob hứa sẽ trả 700.000 rand cho Mandela, chuyển qua các quỹ vì trẻ em của Mandela, và gửi lời xin lỗi,[142] [143] mặc dù sau đó ông cho rằng ông là nạn nhân của “Sự trả thù” từ Mandela.[144] Một số nhà bình luận bày tỏ sự cảm thông cho vị thế của Ayob, nói rằng vị trí biểu tượng của Mandela khiến cho Ayob khó mà được đối xử một cách công bằng.[139]
Lý lẽ
Ayob, George Bizos và Wim Trengove là những người được ủy thác của Quỹ Ủy thác Nelson Mandela, được thành lập để cất giữ hàng triệu rand do các nhân vật kinh doanh nổi tiếng, trong đó có gia đình Oppenheimer, tặng cho Nelson Mandela vì lợi ích của con và cháu của ông.[145] Ayob sau này rút lui của Quỹ ủy thác. Vào năm 2006, hai người được ủy thác còn lại của Nelson Mandela Trust đã tố cáo Ayob đã chi tiêu tiền từ quỹ ủy thác mà không báo cho họ biết.[146] Ayob tuyên bố rằng số tiền này là để trả cho Dịch vụ Doanh thu Nam Phi, cho con và cháu của Mandela, cho chính Mandela, và trả cho bốn năm làm việc của công ty kế toán.[143]
Bizos và Trengrove từ chối thông qua việc chi trả cho con cháu của Nelson Mandela và tiền trả cho công ty kế toán. Phiên tòa đã thỏa thuận rằng Ismail Ayob phải trả số tiền này, tổng cộng hơn 700.000 rand, cho quỹ ủy thác vì lẽ Ayob đã chưa được sự đồng ý của hai ủy thác viên khác trước khi dùng tiền.[147] Người ta cũng khẳng định là Ayob đã có những nhận xét phỉ báng Mandela trong bản khai, vì thế tòa cũng yêu cầu Ayob xin lỗi.[148] Người ta đã cho thấy các nhận xét này, tập trung vào các tài khoản ở nước ngoài của Nelson Mandela và việc không trả thuế cho các tài khoản này, không xuất phát từ lời khai của Ayob mà là từ chính lời khai của Nelson Mandela và George Bizos.[149]
Tranh cãi về Kim cương máu
Trong một bài viết trong báo The New Republic tháng 12 năm 2006, Nelson Mandela bị chỉ trích vì một số lời nhận xét tốt đẹp về ngành công nghiệp kim cương. Người ta lo ngại là điều này sẽ làm lợi cho những nhà cung cấp kim cương máu.[150] Trong bức thư gửi tới Edward Zwick, đạo diễn của bộ phim Kim cương máu, Mandela nói rằng:
…sẽ cực kỳ đáng tiếc nếu bộ phim này vô tình sai sự thật, và kết quả là, khiến cho thế giới tin rằng cần phải có hành động thích hợp để ngưng việc mua kim cương được khai thác từ châu Phi…. Chúng tôi hy vọng rằng khát khao được kể một câu chuyện lịch sử về câu chuyện có thật hấp dẫn và quan trọng sẽ không dẫn đến sự mất ổn định tại các quốc gia sản xuất kim cương ở châu Phi, và cuối cùng là nhân dân các nước đó.[151]
Bài báo trên New Republic nói rằng lời bình luận này, cũng như các sáng kiến và phát biểu trong cuộc đời ông và trong thời gian làm tổng thống Nam Phi, bị ảnh hưởng từ cả tình bạn với Harry Oppenheimer, cựu chủ tịch De Beers, lẫn từ quan điểm ‘quyền lợi quốc gia hẹp hòi’ của Nam Phi (là nhà sản xuất kim cương chính).[152]
Zimbabwe và Robert Mugabe
Robert Mugabe, tổng thống Zimbabwe, người đã lãnh đạo đất nước này từ khi độc lập năm 1980, đã nhận được nhiều lời chỉ trích trên thế giới vì trận đánh giết chết khoảng 3000 người vào thập niên 1980 cũng như tham nhũng, quản lý yếu kém, đàn áp chính trị và theo gia đình trị dẫn đến nền kinh tế nước này sụp đổ.[153][154]
Mặc dù cùng xuất thân là những nhà hoạt động vì tự do quốc gia, Mandela và Mugabe ít khi được xem là gần gũi. Mandela chỉ trích Mugabe vào năm 2000, nhắc tới những nhà lãnh đạo châu Phi đã giải phóng đất nước họ nhưng khư khư giữ ghế quá lâu.[155][156] Khi về hưu, Mandela ít nhắc đến Zimbabwe và các vấn đề đối nội đối ngoại hơn,[119] đôi khi đưa đến chỉ trích là không biết sử dụng ảnh hưởng của mình để khuyến khích giảm bớt chính sách của mình.[157] Luật sư của ông George Bizos tiết lộ rằng Mandela đã được khuyên để giữ gìn sức khỏe ông phải tránh tham gia vào các hoạt động nhiều áp lực như các tranh cãi về chính trị.[158] Tuy nhiên, vào năm 2007, Mandela đã nỗ lực thuyết phục Mugabe rời chức “sớm hơn”, với “chút ít chân giá trị còn lại”, trước khi ông bị săn đuổi như Augusto Pinochet. Mugabe không phản ứng gì trước lời phát biểu này.[159] Vào tháng 6 năm 2008, ở cao trào khủng hoảng trong cuộc bầu cử tổng thống Zimbabwe, Mandela lên án “sự thất bại thảm hại của quyền lãnh đạo” tại Zimbabwe.[160]
Tôn vinh
Chiến sĩ giải phóng Nam Phi Nelson Mandela trên con tem kỷ niệm của
Liên Xô năm 1988
Theo một bài viết trên tạp chí Newsweek, “Mandela đã có được một vị trí bất khả xâm phạm khi nhắc đến Nam Phi. Ông là nhà giải phóng dân tộc, vị cứu tinh, là Washington và Lincoln hòa lại làm một”.[161]
Tháng 11 năm 2009, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông báo ngày sinh của Mandela, 18 tháng 7, sẽ được gọi là “Ngày Mandela” để ghi nhớ sự đóng góp của ông vào nền tự do của thế giới.[162]
Huân huy chương
Mandela đã nhận được nhiều giải thưởng của Nam Phi, nước ngoài và quốc tế, trong đó có Giải Nobel Hòa bình năm 1993 (cùng với Frederik Willem de Klerk),[163] được Nữ hoàng Elizabeth II trao Huân chương Công lao và Baliff Grand Cross của Huân chương Thánh John, Huân chương Tự do Tổng thống của George W. Bush.[164]Bản mẫu:Failed verification[165] Tháng 7 năm 2004, thành phố Johannesburg trao tặng danh hiệu cao nhất cho Mandela sự tự do của thành phố tại buổi lễ ở Orlando, Soweto.[166]
Ông cũng thường nhận được sự tán dương khi đi ra nước ngoài. Trong chuyến thăm Canada năm 1998, 45.000 học sinh đã chào đón ông khi ông có bài phát biểu tại SkyDome, Toronto.[167] Vào năm 2001, ông là người còn sống đầu tiên trở thành Công dân danh dự của Canada (người nhận danh hiệu duy nhất trước đó là Raoul Wallenberg sau khi đã mất).[168] Khi còn ở Canada, ông cũng nhận Huân chương Canada, là một trong số ít người nước ngoài nhận được huân chương này.[169]
Năm 1981, ông đư5ơc trao Giải Bruno Kreisky. Năm 1988, ông đoạt Giải thưởng Sakharov của Nghị viện châu Âu và Giải Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Năm 1990 ông nhận được Giải thưởng Bharat Ratna của chính phủ Ấn Độ và là người cuối cùng nhận được Giải thưởng Hòa bình Lenin của Liên Xô.[170] Vào năm 1992 ông được nhận Giải thưởng Hòa bình Atatürk của Thổ Nhĩ Kỳ. Ông đã từ chối giải thưởng vì cho rằng Thổ Nhĩ Kỳ lúc đó đang vi phạm nhân quyền,[171] nhưng đến năm 1999 thì chấp nhận giải thưởng[172] Vào năm 1992 ông nhận được Nishan-e-Pakistan, giải thưởng phục vụ cộng đồng cao nhất của Pakistan.[173] Năm 2004, ông được trao Giải Ý thức toàn cầu của Câu lạc bộ Budapest.
Bài hát ca ngợi
Nhiều nghệ sĩ đã viết bài hát và nhạc về Mandela. Một trong những nhóm nổi tiếng nhất là The Specials đã thu âm bài hát “Free Nelson Mandela” vào năm 1983. Stevie Wonder viết bài hát đã đoạt giải Oscar “I Just Called to Say I Love You” cho Mandela, dẫn đến bài này bị Hãng thông tấn Nam Phi cấm lưu hành.[174] Vào năm 1985, album Nelson Mandela của Youssou N’Dour là bản phát hành đầu tiên tại Mỹ của ca sĩ người Senegal này.
Năm 1988, một buổi hòa nhạc Kỷ niệm ngày sinh lần thứ 70 của Mandela đã diễn ra tại Sân vận động Wembley ở Luân Đôn là trung tâm của phong trào chống chủ nghĩa apartheid, tại đó nhiều ca sĩ đã góp tiếng nói ủng hộ Mandela.[175] Jerry Dammers, tác giả của bài hát Nelson Mandela, là một thành viên trong ban tổ chức.[175] Simple Minds đã thu âm bài hát “Mandela Day” dành cho buổi hòa nhạc,[175] Santana đã thu âm bản giao hưởng “Mandela”,[175] Tracy Chapman trình diễn bài “Freedom Now”, dành tặng cho Mandela và phát hành album Crossroads,[175] Salif Keita đến từ Mali, có chơi ở buổi hòa nhạc, sau này có đến thăm Nam Phi và năm 1995 thu âm bài hát “Mandela” trong album Folon.[175]
Tại Nam Phi, “Asimbonanga (Mandela)” (“Chúng tôi chưa thấy ông”) trở thành một trong những bài hát nổi tiếng nhất của Johnny Clegg, xuất hiện trong album Third World Child năm 1987.[176] Hugh Masekela, khi đó đang lưu vong ở Anh, đã hát bài “Bring Him Back Home (Nelson Mandela)” vào năm 1987.[177] Bài hát “Black President” vào năm 1989 của Brenda Fassie, cũng dành tặng Mandela, trở nên cực kỳ nổi tiếng dù nó bị cấm tại Nam Phi.[178] Nhạc sĩ nhạc reggae người Nigeria Majek Fashek đã phát hành đĩa đơn, “Free Mandela” vào năm 1992, đưa ông thành một trong nhiều nghệ sĩ Nigeria phát hành bài hát liên quan đến phong trào chống chủ nghĩa apartheid và đến Mandela.
Vào năm 1990, ban nhạc rock ở Hồng Kông Beyond đã ra mắt bài hát tiếng Quảng Đông nổi tiếng, “Days of Glory”. Bài hát với chủ đề chống chủ nghĩa apartheid đã nhắc đến cuộc đấu tranh anh hùng của Mandela vì sự công bằng sắc tộc.[179] Nhóm Ladysmith Black Mambazo đã đi cùng với Mandela tới buổi trao Giải Nobel Hòa bình tại Oslo, Na Uy vào năm 1993, và trình diễn trong buổi nhậm chức năm 1994. Vào năm 2003, Mandela đồng ý đưa tên tuổi của ông vào chiến dịch 46664 chống lại căn bệnh AIDS, đặt theo số tù của ông. Nhiều nhạc sĩ nổi tiếng đã trình diễn trong các buổi hòa nhạc.[180]
Sơ lược tiểu sử của Mandela đã được chiếu trong bản video nhạc “If Everyone Cared” của Nickelback vào năm 2006.[181] Bài hát “Turn This World Around” của Raffi dựa trên bài diễn văn của Mandela khi ông giải thích thế giới cần phải “xoay vòng, vì những đứa trẻ”.[182] Một buổi hòa nhạc kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Mandela đã diễn ra tại Hyde Park, Luân Đôn ngày 27 tháng 6 năm 2008.[183]
Sách tiểu sử đã xuất bản
Tự truyện của Mandela, Long Walk to Freedom, được xuất bản vào năm 1994. Mandela đã bắt đầu viết cuốn sách này một cách bí mật khi ở trong tù.[184] Trong quyển sách này Mandela không tiết lộ điều gì về sự đồng lõa của F. W. de Klerk trong những vụ bạo lực xảy ra vào thập niên 80 và 90, hay vai trò của bà vợ cũ Winnie Mandela trong những vụ tắm máu đó. Tuy nhiên, ông sau này có cộng tác cùng với bạn ông, nhà báo Anthony Sampson bàn luận về các vấn đề này trong Mandela: The Authorised Biography.[185] Một chi tiết khác mà Mandela đã bỏ qua là cuốn sách có phần giả mạo Goodbye Bafana.[186] Tác giả của nó, cai ngục James Gregory trên đảo Robben, nhận mình là bạn tâm tình của Mandela trong tù và đã xuất bản những chi tiết về những vụ yêu đương trong gia đình của người tù.[186] Sampson luôn nói rằng Mandela không biết rõ Gregory lắm, nhưng có thể Gregory đã kiểm duyệt những bức thư gửi cho Mandela nên khám phá ra những chi tiết về đời tư của Mandela. Sampson cũng quả quyết rằng các cai ngục khác nghi ngờ Gregory là mật thám của chính phủ và Mandela đang xem xét việc kiện Gregory.[187]
Điện ảnh và truyền hình
Bộ phim Mandela and De Klerk kể lại câu chuyện phóng thích Mandela.[188] Mandela do Sidney Poitier đóng vai. Goodbye Bafana, một bộ phim phóng sự nói về cuộc đời của Mandela, ra mắt tại liên hoan phim Berlin ngày 11 tháng 2 năm 2007. Bộ phim có diễn viên Dennis Haysbert đóng vai Mandela và diễn tả tình bạn trong tù giữa Mandela và James Gregory.[189]
Trong loạt chương trình truyền hình Mỹ The Cosby Show cháu nội của Cliff và Claire Huxtable được đặt theo tên của Nelson và Winnie để tôn vinh Mandela và bà vợ khi đó của ông Winnie.
Trong cảnh cuối năm 1992 bộ phim Malcolm X, Mandela – vừa được phóng thích sau 27 năm ở tù – đóng vai thầy giáo trong một lớp học Soweto.[190] Ông nhắc lại một phần bài diễn văn nổi tiếng nhất của Malcolm X, trong đó có câu: “Chúng ta sinh ra trên Trái Đất với quyền làm người, phải được tôn trọng như một con người, được trao những quyền của một con người trong xã hội này, trên Trái Đất này, vào ngày này, điều chúng ta muốn đưa thành hiện thực…” Đoạn cuối nổi tiếng của câu đó là “bằng bất cứ giá nào.”[191] Mandela đã thông báo với đạo diễn Spike Lee rằng ông không thể đọc câu này trước máy quay vì sợ chính quyền apartheid sẽ dùng nó chống lại ông. Lee đã rất biết ơn, và những giây cuối cùng của bộ phim là đoạn phim trắng đen của chính Malcolm X đọc câu này.[191]
Mandela và đội trưởng Springboks, Francois Pienaar, là chủ đề của cuốn sách năm 2008 của John Carlin, Playing the Enemy: Nelson Mandela and the Game that Made a Nation,[192] trong đó nhấn mạnh vai trò của chiến thắng trong Giải rugby vô địch thế giới 1995 tại Nam Phi thời hậu apartheid. Carlin bán quyền làm phim cho Morgan Freeman.[193] Bộ phim này, có tên Invictus,[194] được đạo diễn bởi Clint Eastwood, trong đó Freeman đóng vai Nelson Mandela và Matt Damon vai Pienaar.[193]
Tượng đài
Vật tưởng niệm Nelson Mandela
Khu vườn Nelson Mandela ở
Leeds
Vào ngày 30 tháng 4 năm 2001, Khu vườn Nelson Mandela ở Quảng trường Thiên niên kỷ, Leeds đã chính thức khai trương và Nelson Mandela được tặng giải sự tự do của thành phố và được tặng một ‘con cú vàng’ (biểu tượng của Leeds) làm kỷ niệm. Trong bài phát biểu bên ngoài Đại sảnh Leeds trước 5000 người, Mandela đã cảm ơn nhầm ‘nhân dân Liverpool vì sự hào phóng của các bạn’.[195]
Vào ngày 31 tháng 3 năm 2004, Quảng trường Sandton ở Johannesburg được đổi tên thành Quảng trường Nelson Mandela, sau khi người ta dựng bức tượng Nelson Mandela cao 6 mét ở quảng trường để vinh danh nguyên thủ Nam Phi của mình.[196]
Vào ngày 29 tháng 8 năm 2007, một bức tượng Nelson Mandela được khánh thành tại Quảng trường Nghị viện ở Luân Đôn bởi Richard Attenborough, Ken Livingstone, Wendy Woods, và Gordon Brown.[197] Chiến dịch dựng tượng bắt đầu vào năm 2000 bởi Donald Woods, một nhà báo Nam Phi lưu vong vì tham gia phong trào chống chủ nghĩa apartheid. Mandela nói rằng nó đại diện cho không chỉ ông, mà còn cho những ai đang chống lại áp bức, đặc biệt tại Nam Phi.[198] Ông nói thêm: “Lịch sử đấu tranh tại Nam Phi đầy những câu chuyện về các nam nữ anh hùng, một số họ là nhà lãnh đạo, một số là người ủng hộ. Tất cả họ đều xứng đáng được ghi nhớ.”[199]
Vào ngày 27 tháng 8 năm 2008, một bức tượng của Nelson Mandela được khánh thành tại Trại cải tạo Drakenstein Groot giữa Paarl và Franshhoek trên đường R301, gần Cape Town. Trước đây có tên Victor Verster, đây là nơi Mandela trải qua những năm cuối cùng trong thời gian 27 năm ở tù, khi ông và các đồng chí ở ANC đã thương thảo với chính quyền apartheid về những điều khoản để ông được tự do và bản chất của nước Nam Phi mới. Bức tượng được đặt ngay nơi Mandela bước bước đi đầu tiên với tư thế một người tự do. Ngay bên ngoài cổng tù – đỉnh điểm của Long Walk to Freedom – tên tự truyện của Mandela.[200][201]
Sau Trận động đất Loma Prieta năm 1989 phá hủy phần Cầu cạn đường Cypress của Xa lộ Nimitz tại Oakland, California, thành phố đã đổi tên con đường này và đặt tên là Mandela Parkway.
Tại Leicester, nước Anh, có một Công viên Nelson Mandela với khẩu hiệu “Nam Phi thuộc về tất cả những ai sống tại đó, dù Trắng hay Đen”.
Các câu nói
Về Thể thao
- “Thể thao là phương tiện hữu hiệu có khả năng làm thay đổi cục diện thế giới, là công cụ hữu ích cho tương quan thân hữu và nền hòa bình của thế giới…” [3]
Chú thích
- ^ a ă “Nelson Mandela – Biography”. Nobelprize.org. The Nobel Foundation. 1993. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2009.
- ^ Mandela 1996, trang 16, 17
- ^ a ă “South Africa: Celebrating Mandela At 90”. AllAfrica.com. Ngày 17 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Kopkind, Andrew (ngày 16 tháng 3 năm 1990). “Book Review – Higher than Hope”. Entertainment Weekly. Time Inc. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Mafela, Munzhedzi James (tháng 10 năm 2008). “The revelation of African culture in Long Walk to Freedom”. Indigenous Biography and Autobiography. Australian National University. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2009.
- ^ “President of South Africa: Nelson Mandela”. Chalre Associates. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.[liên kết hỏng][liên kết hỏng]
- ^ a ă â Aikman (2003), pp 70–71
- ^ a ă â Mandela, Nelson (2006). Mandela: The Authorized Portrait. Kansas City, Mo.: Andrews McMeel Pub. tr. 13. ISBN 0-7407-5572-2. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Mandela 1996, p.7
- ^ a ă â b c Mandela, Nelson (1994). Long Walk to Freedom. Little, Brown and Company.
- ^ Mandela 1996, p. 9. “Không ai trong gia đình tôi đi học cả […] Trong ngày nhập học, cô giáo của tôi, cô Mdingane, đặt cho mỗi đứa một cái tên tiếng Anh. Hồi đó đây là thông lệ của người châu Phi và rõ ràng nó thể hiện xu hướng thiên về tiếng Anh trong nền giáo dục mà chúng tôi thụ hưởng. Hôm đó, cô Mdingane bảo với tôi tên mới của tôi sẽ là Nelson. Tại sao cô lại đặt cho tôi tên này, tôi cũng không biết nữa.”
- ^ a ă “Mandela celebrates 90th birthday”. BBC. Ngày 17 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Healdtown Comprehensive School”. Historic Schools Project: South Africa. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Mandela 1996, pp. 18-19.
- ^ a ă Mandela 1996, pp. 10, 20.
- ^ a ă “Nelson Mandela Biography – Early Years”. Nelson Mandela Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela Children’s Fund – Organise”. Nelson Mandela Children’s Fund. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “The 1948 election and the National Party Victory”. South African History Online. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “The Defiance Campaign”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Congress of the People, 1955”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Callinicos, Luli (2004). Oliver Tambo: Beyond the Engeli Mountains. New Africa Books. tr. 173. ISBN 0864866666.
- ^ Mandela, Nelson (ngày 3 tháng 1 năm 2000). “The Sacred Warrior”. Time 100: The Most Important People of the Century. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Bhana, Surendra; Vahed, Goolam (2005). The Making of a Political Reformer: Gandhi in South Africa, 1893–1914. tr. 149.
- ^ Bhalla, Nita (ngày 29 tháng 1 năm 2007). “Mandela calls for Gandhi’s non-violence approach”. Reuters. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela’s Testimony at the Treason Trial 1956-60”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă â “ANC – Statement to the Truth and Reconciliation Commission”. African National Congress. Tháng 8 năm 1996. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Shillington, Kevin (2005). Encyclopedia of African History. CRC Press. tr. 1449. ISBN 1579582451.
- ^ “The Freedom Charter”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ SACP Salutes Walter Sisulu
- ^ Leeman, Bernard (1996). Trong Alexander, Peter; Hutchison, Ruth; Schreuder, Deryck. The PAC of Azania in Africa Today. The Humanities Research Centre, The Australian National University Canberra: The Australian National University Canberra. ISBN 07315 24918.
- ^ “Umkhonto is Born”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă â Whittaker, David J. (2003). The Terrorism Reader . Routledge. tr. 244. ISBN 0415301017.
- ^ “Tell me about the bomb at the brickworks – Frontline The Long Walk of Nelson Mandela”. PBS.
- ^ a ă Mandela, Nelson (ngày 20 tháng 4 năm 1964). “”I am Prepared to Die” — Nelson Mandela’s statement from the dock at the opening of the defence case in the Rivonia Trial”. African National Congress. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela admits ANC violated rights, too”. Financial Times. Ngày 2 tháng 11 năm 1998.
- ^ “BBC News: US shamed by Mandela terror link”. Ngày 10 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Mandela taken off US terror list”. BBC News. Ngày 1 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2008.
- ^ “5 August – This day in history”. The History Channel. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Blum, William. “How the CIA sent Nelson Mandela to prison for 28 years”. Third World Traveller. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Stein, Jeff (ngày 14 tháng 11 năm 1996). “Our Man in South Africa”. Salon.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2000. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Weiner, Tim (2007). Legacy of Ashes. Penguin Group. tr. 362. ISBN 978-1-846-14046-4.
- ^ Katwala, Sunder (ngày 11 tháng 2 năm 2001). “The Rivonia Trial”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă “ANC Lilliesleaf Farm arrests”. South African History Online. Ngày 11 tháng 7 năm 1963. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Mandela, Nelson (ngày 20 tháng 4 năm 1964). “An ideal for which I am prepared to die”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă “The Sharpeville Massacre”. TIME. Ngày 4 tháng 4 năm 1960. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Manifesto of Umkhonto we Sizwe”. African National Congress. Ngày 16 tháng 12 năm 1961. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Rivonia Trial Papers”. Aluka. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă â “Toward Robben Island: The Rivonia Trial”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela’s jail overrun by rabbits”. BBC. Ngày 15 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “A monument to Mandela: the Robben Island years”. The Independent (London: Independent Print Limited). Ngày 2 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Political prisoner recalls time on Robben Island”. The Michigan Daily. Ngày 17 tháng 10 năm 2002. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2010.
- ^ Holmes, Steven A. (ngày 22 tháng 6 năm 1994). “Robben Island Journal; South Africa Ponders Fate of Apartheid’s Bastille”. NY Times. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Kathrada, Ahmed; Mandela, Nelson (2004). Memoirs. Zebra. tr. 246. ISBN 1868729184.
- ^ a ă “The Big Read: Nelson Mandela: a living legend”. Daily Observer. Ngày 25 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Winter, Gordon (1981). Inside BOSS. Penguin Books.
- ^ Hallengren, Anders (ngày 11 tháng 9 năm 2001). “Nelson Mandela and the Rainbow of Culture”. Nobelprize.org. The Nobel Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă â b Sparks, Allister (1994). Tomorrow is Another Country. Struik.
- ^ Cowell, Alan (ngày 1 tháng 2 năm 1985). “South Africa hints at conditional release for jailed black leaders”. NY Times. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela’s response to being offered freedom”. ANC. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Key Dates in South African History”. Nelson Mandela Children’s Fund. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Free Nelson Mandela”. ANC. Tháng 7 năm 1988. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “PW Botha, unrepentant defender of apartheid, dies aged 90”. The Independent (London: Independent Print Limited). Ngày 1 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Malam, John (2002). The Release of Nelson Mandela: ngày 11 tháng 2 năm 1990. Cherrytree Books. ISBN 1842341030.
- ^ http://icrc.org/web/eng/siteeng0.nsf/html/south-africa-feature-020709 South Africa: commemorating 150 years since the battle of Solferino
- ^ http://icrc.org/web/eng/siteeng0.nsf/htmlall/5pkj9a Nelson Mandela: Red Cross a “beacon of humanity” for political prisoners
- ^ “1990: Freedom for Nelson Mandela”. BBC. Ngày 11 tháng 2 năm 1990. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Ormond, Roger (ngày 12 tháng 2 năm 1990). “Mandela free after 27 years”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă “Nelson Mandela’s address to Rally in Cape Town on his Release from Prison”. ANC. Ngày 11 tháng 2 năm 1990. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “A Crime Against Humanity – Analysing the Repression of the Apartheid State”. South African History Online. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Profile of Nelson Rolihlahla Mandela”. African National Congress. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2007.
- ^ “Boipatong Massacre”. African National Congress. Ngày 18 tháng 6 năm 1992. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Chris Hani assassinated. (Obituary)”. Social Justice. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Statement of the President of the ANC, Nelson Mandela on the assassination of Martin Chris Hani”. Ngày 10 tháng 4 năm 1993. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Mandela becomes SA’s first black president”. BBC. Ngày 10 tháng 5 năm 1994. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “The Nobel Peace Prize 1993 – Presentation Speech”. Nobelprize.org. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela rallies Springboks”. BBC Sport. Ngày 6 tháng 10 năm 2003. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Carlin, John (ngày 19 tháng 10 năm 2007). “How Nelson Mandela won the rugby World Cup”. The Daily Telegraph (London). Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Khumalo, Fred (ngày 5 tháng 8 năm 2004). “How Mandela changed SA fashion”. BBC. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Thai, Bethuel (ngày 4 tháng 10 năm 1998). “Lesotho to hold re-elections within 15 to 18 months”. Lesotho News Online. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Sampson, Anthony (ngày 6 tháng 7 năm 2003). “Mandela at 85”. The Observer. London. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Robinson, Simon (ngày 11 tháng 4 năm 2007). “The Lion In Winter”. Time. Time Inc. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Can Mandela’s AIDS Message Pierce the Walls of Shame?”. Peninsula Peace and Justice Center. Ngày 9 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Quist-Arcton, Ofeibea (ngày 19 tháng 7 năm 2003). “South Africa: Mandela Deluged With Tributes as He Turns 85”. AllAfrica.com. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela’s stark Aids warning”. BBC News. Ngày 1 tháng 12 năm 2000. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ Wines, Michael (ngày 7 tháng 1 năm 2005). “Mandela, Anti-AIDS Crusader, Says Son Died of Disease”. NY Times. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ Brown, Derek (ngày 31 tháng 1 năm 2001). “Lockerbie trial: what happened when”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ McGreal, Chris (ngày 11 tháng 5 năm 1999). “Mandela shies away from global role in retirement”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Families say SA trial site acceptable”. Dispatch. Ngày 27 tháng 10 năm 1997. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela’s parting shot at Major over Lockerbie”. The Guardian. Ngày 11 tháng 5 năm 1999. tr. 13.
- ^ “Analysis: Lockerbie’s long road”. BBC. Ngày 31 tháng 1 năm 2001. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela appeals on behalf of Lockerbie bomber”. London: guardian.co.uk. Ngày 10 tháng 6 năm 2002. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Lockerbie bomber ‘leaves solitary confinement’”. The Daily Telegraph (London). Ngày 25 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela backs Lockerbie decision”. bbc online. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2009.
- ^ Soszynski, Henry. “Genealogical Gleanings”. University of Queensland. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2003. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela – Timeline”. Nelson Mandela Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela’s life and times”. BBC. Ngày 16 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Madiba bids final farewell to his first wife”. Independent Online. Independent News & Media. Ngày 8 tháng 5 năm 2004. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela Biography – Black History”. Biography.com. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “UWC – Presidents and Patrons”. United World Colleges. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Smith, Charlene; Tutu, Desmond (2004). Mandela: In Celebration of a Great Life. Struik. tr. 41. ISBN 1868728285.
- ^ Timberg, Craig (ngày 7 tháng 1 năm 2005). “Mandela Says AIDS Led to Death of Son”. The Washington Post (The Washington Post Company). Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ a ă â “Winnie Mandela”. ANC. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson and Winnie Mandela divorce; Winnie fails to win $5 million settlement.”. Jet. Ngày 8 tháng 4 năm 1996. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Swaziland prince and princess attend Boston University”. WGBH Boston. Ngày 13 tháng 5 năm 1987. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Daddy Stayed In Jail. That Was His Job’; Zenani Mandela’s Life Without Father”. The Washington Post. The Washington Post Company. Ngày 8 tháng 11 năm 1987. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă “AILA International Fellows Program”. Center for Strategic & International Studies. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Zondwa Gadaffi Mandela”. Aurora Empowerment Systems. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Mandela gets married on 80th birthday”. CNN. Ngày 18 tháng 7 năm 1998. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Ngcukana, Lubabalo. “andela, Kaunda honour king”. Daily Dispatch. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ de Bruyne, Marnix. “Zuidelijk Afrika”. Netherlands Institute for Southern Africa. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “2005: The year of Make Poverty History”. Make Poverty History. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2007.
- ^ “SA’s best to join international stars for charity”. Nelson Mandela Invitational. Ngày 5 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela”. SOS Children’s Villages. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2008.
- ^ “Celebrate Humanity 2004” (PDF). International Olympic Committee. 2004. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2007.
- ^ “Mandela ‘responding well to treatment’”. BBC. Ngày 15 tháng 8 năm 2001. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “The Smoking Gun: Archive”. The Smoking Gun. 2003. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2007.
- ^ Groenewald, Yolandi; Joubert, Pearlie (ngày 2 tháng 3 năm 2007). “Not yet uhuru”. Mail & Guardian.
- ^ “”I’ll call you””. SouthAfrica.info. Ngày 2 tháng 6 năm 2004. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă Carroll, Rory (ngày 18 tháng 7 năm 2006). “Mandela keeps his opinions to himself as a nation marks its idol’s birthday”. The Guardian (London). Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Is Nelson Mandela Losing His Memory?”. Who2.com. Ngày 7 tháng 12 năm 2009.
- ^ a ă “Nelson Mandela Celebrates 90th Birthday by Urging Rich to Help Poor”. Fox News. Ngày 18 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Bingham, John (ngày 6 tháng 5 năm 2008). “Hyde Park concert to mark Mandela’s 90th”. The Independent. London: Independent Print Limited. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ http://www.guardian.co.uk/world/2010/jul/11/nelson-mandela-world-cup-final
- ^ “Mandela joins ‘Elders’ on turning 89”. MSNBC. Ngày 20 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela launches The Elders”. SAinfo. Ngày 19 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela announces The Elders”. The Elders. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Closing Ceremony”. TheBody.com. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
- ^ “About 46664”. 46664.com. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “XV International AIDS Conference – Daily Coverage”. Kaisernetwork. Ngày 15 tháng 7 năm 2004. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela’s eldest son dies of Aids”. BBC. Ngày 6 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ [1]
- ^ “Mandela warns Bush over Iraq”. BBC. Ngày 1 tháng 9 năm 2002. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Cornwell, Rupert (ngày 31 tháng 1 năm 2003). “Mandela lambastes ‘arrogant’ Bush over Iraq”. The Independent. London: Independent Print Limited. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Fenton, Tom (ngày 30 tháng 1 năm 2003). “Mandela Slams Bush On Iraq”. CBS. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela Slams Bush On Iraq”. CBS News. Ngày 30 tháng 1 năm 2003. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ [2]
- ^ Chanda, Abhik Kumar (ngày 10 tháng 5 năm 2005). “Mandela sues over forged sketches”. Mail & Guardian. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Mabuza, Ernest (ngày 13 tháng 7 năm 2005). “Ayob denies gain from Mandela art”. Business Day. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă Moya, Fikile-Notsikelelo (ngày 5 tháng 8 năm 2005). “Poor Ismail Ayob”. Mail & Guardian. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Keet, Jacques (ngày 21 tháng 7 năm 2005). “Courts ‘have final word on Mandela-Ayob clash’”. Business Day. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Mabuza, Ernest (ngày 18 tháng 7 năm 2005). “Bizos behind vicious campaign to discredit, defame me — Ayob”. Business Day. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2008.
- ^ “Ayob to pay back Mandela money”. News24. Ngày 27 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă Gordin, Jeremy (ngày 4 tháng 3 năm 2007). “What caused the Ayob, Mandela spat?”. Sunday Independent (Independent News & Media). Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Schmidt, Michael (ngày 3 tháng 3 năm 2007). “Mandela waging a vendetta – Ayob”. Pretoria News.
- ^ “Mandela’s lawyers take Ismail to court over money”. Mail & Guardian. Ngày 25 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Sefara, Makhudu; Mapiloko, Jackie (ngày 3 tháng 3 năm 2007). “Madiba set me up, says Ayob”. News24. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Adams, Sheena (ngày 8 tháng 7 năm 2006). “’Ayob tried to cover up unlawful spending’”. IOL. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Mkhwanazi, Siyabonga (ngày 28 tháng 2 năm 2007). “Lawyer to pay back R800000 to Mandela trust”. Pretoria News (South Africa). Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Mabuza, Ernest (ngày 10 tháng 3 năm 2007). “Ayob Runs Out of Cash But Accuses Mandela Again”. Business Day. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Bates, Rob (ngày 22 tháng 6 năm 2006). “Nelson Mandela to speak out for diamond industry”. Jewelers’ Circular Keystone. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Half Nelson – Mandela, diamond shill”. The New Republic. Ngày 8 tháng 12 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Snead, Elizabeth (ngày 15 tháng 6 năm 2006). “Mandela to defend De Beers from bad “Blood””. LA Times. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Chimuka, Garikai (ngày 14 tháng 5 năm 2008). “Gukurahundi and current wave of violence similar”. The Zimbabwe Times. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ Winter, Joseph (ngày 13 tháng 3 năm 2002). “Mugabe’s descent into dictatorship”. BBC. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela expresses anger at Mugabe”. The Namibian. Ngày 8 tháng 5 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela repudiates Mbeki on AIDS stance”. CNN. Ngày 29 tháng 9 năm 2000. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Hentoff, Matt (ngày 23 tháng 5 năm 2003). “Where is Nelson Mandela?”. The Village Voice. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Trapido, Michael (ngày 10 tháng 6 năm 2008). “Why has Nelson Mandela remained silent on Zimbabwe?”. Thought Leader. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Mugabe snubs Mandela”. News24. Ngày 5 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Failure of leadership in Zim – Mandela”. News24. Ngày 25 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ Father Disfigure by Eve Fairbanks, Newsweek Magazine, ngày 27 tháng 8 năm 2009
- ^ “UN gives backing to ‘Mandela Day’”. BBC News. Ngày 11 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2009.
- ^ “The Nobel Peace Prize 1993”. Nobelprize.org. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “The Order of Merit”. Royal Insight. Tháng 11 năm 2002. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.Bản mẫu:Failed verification
- ^ “President Honors Recipients of the Presidential Medal of Freedom”. The White House. Ngày 9 tháng 7 năm 2002. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Madiba conferred freedom of Johannesburg”. Gauteng Provincial Government. Ngày 27 tháng 7 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela and the Children”. Rooney Productions. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela to be honoured with Canadian citizenship”. CBC News. Ngày 19 tháng 11 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Order of Canada – Nelson Mandela, C.C.”. Governor General of Canada. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Bharat Ratna Award”. National Portal of India. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Statement on the Ataturk Award given to Nelson Mandela”. African National Congress. Ngày 12 tháng 4 năm 1992. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2007.
- ^ “Mandela changes his mind”. Turkish Press Review. Ngày 7 tháng 1 năm 1999. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2007.
- ^ “Mandela in Pakistan”. The Independent (London: Independent Print Limited). Ngày 3 tháng 10 năm 1992. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Stevie Wonder Music Banned in South Africa”. The New York Times. Ngày 27 tháng 3 năm 1985. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă â b c d Ketchum, Mike. “The Mandela Concert, Wembley 1988”. African National Congress. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ Drewett, Michael; Cloonan, Martin (2006). Popular Music Censorship in Africa. Ashgate Publishing. tr. 30. ISBN 0754652912.
- ^ Guernsey, Otis L.; Sweet, Jeffrey; Kronenberger, Louis (ngày 21 tháng 5 năm 2008). The Best Plays. University of Michigan. tr. 347. ISBN 1557830401.
- ^ “Brenda Fassie dies”. BBC. 2004. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Lee, Carmen (ngày 16 tháng 6 năm 2003). “20 Years Ago Today”. Time. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2008.
- ^ Sherrod, Lonnie R. (2006). Youth Activism: An International Encyclopedia. Greenwood Press. tr. 62. ISBN 0313328129.
- ^ Lamb, Bill. “Nickelback – If Everyone Cared”. About. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ Trussell, Jeff. “Freedom Hero: Nelson Mandela”. The My Hero Project. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Mandela’s 90th birthday year celebrates diversity of ideas”. Nelson Mandela Foundation. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Mandela 1996, p. 144-148.
- ^ Ann, Talbot (ngày 5 tháng 8 năm 1999). “Biography falls short of penetrating myth surrounding ANC leader”. International Committee of the Fourth International (ICFI). Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Gilbey, Ryan (ngày 14 tháng 5 năm 2007). “Whitewashed and watered down”. New Statesman. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Sampson, Anthony (1999). Mandela: The Authorised Biography. HarperCollins. tr. 217.
- ^ Keller, Bill. “Mandela and de Klerk (1997)”. The New York Times. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Goodbye Bafana – Sypnosis”. Goodbye Bafana – Official site. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ Cunningham, Matthew (ngày 3 tháng 6 năm 2004). “Creme cameos”. The Guardian. London. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Guerrero, Ed (1993). Framing Blackness: The African American Image in Film. Temple University Press. tr. 202. ISBN 1566391261.
- ^ Carlin, John (2008). Playing the Enemy: Nelson Mandela and the Game that Made a Nation. New York: Penguin Press. ISBN 978-1-59420-174-5
- ^ a ă Keller, Bill. – “Entering the Scrum”. – The New York Times Book Review. – ngày 17 tháng 8 năm 2008.
- ^ “The cast of the World Cup film revealed!”. Planet Rugby. Ngày 24 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2009.
- ^ Ian Herbert North (ngày 1 tháng 5 năm 2001). “Mandela vindicates ‘loony left’ of Leeds for honouring struggle”. The Independent (London: Independent Print Limited). Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2008.
- ^ “S. Africa renames Sandton Square as Nelson Mandela Square”. Xinhua News Agency. Ngày 31 tháng 3 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela statue is unveiled”. BBC News. Ngày 29 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Broad Parliamentary Support for Trafalgar Square Mandela statue”. London. Ngày 21 tháng 5 năm 2003. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Mandela salutes apartheid heroes”. News24. Ngày 29 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Stern, Jennifer (ngày 27 tháng 8 năm 2008). “Long walk immortalised in bronze”. Media Club South Africa. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2009.
- ^ “Nelson Mandela statue unveiled in Cape Town”. Nelson Mandela Foundation. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2009.
Tài liệu
Đọc thêm
- A Prisoner in the Garden: Opening Nelson Mandela’s Prison Archive. Penguin Books. 2005. ISBN 0-143-02495-7.
- Desmond Tutu; edited by John Allen. (1996). The Rainbow People of God: The Making of a Peaceful Revolution. Doubleday. ISBN 978-0385-48374-2.
- Benson, Mary. Nelson Mandela: The Man and the Movement.
- Bezdrob, Anne Marie du Preez (2006). The Nelson Mandela Story. Samoja Books. ISBN 0-620-36570-6.
- Denenberg, Barry. Nelson Mandela: No Easy Walk To Freedom.
- Hoobler, Dorothy; Hoobler, Thomas (1992). Mandela: The Man, The Struggle, The Triumph. New York: Franklin Watts. ISBN 978-0531152454.
- Juckes, Tim (1995). Opposition in South Africa: The Leadership of Matthews, Nelson Mandela, and Stephen Biko. Westport: Praeger Publishers.
- Mandela, Nelson (1995). Long Walk to Freedom. Little, Brown and Company. ISBN 0-316-54818-9.
- Meredith, Martin. Nelson Mandela: A Biography.
- Sampson, Anthony (1999). Mandela: The Authorised Biography. New York: Vintage Books. ISBN 0-679-78178-1.
- Smith, Charlene. Mandela: In Celebration of a Great Life.
- Stengel, Richard (2009). Mandela’s Way: Fifteen Lessons on Life, Love, and Courage. Crown. ISBN 978-0307460684.
- Villa-Vicencio, Charles (1996). The Spirit of Freedom. Berkeley: University of California Press.
Liên kết ngoài
Thể loại:
Yevgeny Aleksandrovich Yevtushenko
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Yevgeny Aleksandrovich Yevtushenko (tiếng Nga: Евге́ний Алекса́ндрович Евтуше́нко; sinh ngày 18 tháng 7 năm 1933) là một nhà thơ Nga. Ông còn nổi tiếng là đạo diễn và diễn viên điện ảnh và là một trong những nhà thơ lớn nhất của Nga trong thế kỉ 20.
Tiểu sử
Yevgeny Aleksandrovich Yevtushenko có tên khai sinh là Yevgeni Aleksandrovich Gangnus (Евгений Александрович Гангнус) sinh ở thị trấn Zima, tỉnh Irkutsk, vùng Siberia, Nga. Bố là Aleksandr Rudolfovich Gangnus, mẹ là Zinaida Ermolaevna Evtushenko, khi lớn lên Yevtushenko lấy họ mẹ. Ông bắt đầu in thơ từ năm 16 tuổi; năm 1951-1954 học ở trường viết văn Maxim Gorky. Ông trở thành hội viên của Hội nhà văn Liên Xô từ năm 1952. Những tác phẩm nổi tiếng nhất của Yevtushenko có thể kể đến các tập thơ: “Con đường của những người nhiệt tâm”, 1956; Thủy điện Brat, 1965; Đằng sau tượng Nữ thần tự do, 1970; Thơ tâm tình, 1973; tiểu thuyết: Đừng chết trước cái chết, 1994… Ngoài thơ và văn xuôi, ông còn là đạo diễn của hai bộ phim theo kịch bản của mình: Vườn trẻ, 1984; Lễ mai táng Stalin, 1991. Năm 1979 ông đóng vai Konstantin Eduardovich Tsiolkovsky trong bộ phim Cất cánh của đạo diễn Savva Kulish. Năm 1986-1991 ông là thư kí của Hội nhà văn Liên Xô. Năm 1983 ông được bầu làm đại biểu Quốc hội Liên Xô của tỉnh Kharkov. Từ năm 1991 ông kí hợp đồng với Đại học Oklahoma (Mỹ) dạy văn học Nga ở trường này. Ye. A. Yevtushenko thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha.
Sự đánh giá
Nhà văn, nhà phê bình Yevgeny Borisovich Rein viết: “Nước Nga là một xứ sở đặc biệt, quả quyết trong tất cả mọi mặt, thậm chí dưới góc nhìn của gương mặt thơ ca. Đã 200 năm nay thơ ca Nga chỉ có một nhà thơ vĩ đại. Vẫn như vậy trong thế kỷ 18, trong thế kỷ 19 và thế kỷ 20. Chỉ có điều, nhà thơ vĩ đại này với nhiều khuôn mặt. Đấy là một dây xích liền mạch. Xin đưa ra một thứ tự: Derzhavin – Pushkin – Lermontov – Nekrasov – Blok – Mayakovsky – Akhmatova – Yevtushenko. Đấy là nhà thơ vĩ đại duy nhất với nhiều gương mặt khác nhau. Đấy là số phận thơ ca của nước Nga“.
Giải thưởng
Yevgeny Yevtushenko trên bìa tạp chí Time’
Yevtushenko được tặng rất nhiều giải thưởng của Liên Xô và các nước. Đáng kể nhất có thể kể đến: Huân chương Lao động cờ đỏ, 1983; Giải thưởng Sư tử vàng (Ý); Giải thưởng Quốc gia của Gruzia, Latvia, Ukraina…; Giải thưởng Walt Whitman. Năm 1995, tiểu thuyết Đừng chết trước cái chết được Ý công nhận là tiểu thuyết nước ngoài hay nhất. Năm 2002 được tặng giải quốc tế Aquila của Ý. Ông là thành viên danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Hoa Kỳ, Viện Hàn lâm Hoàng gia Tây Ban Nha, Giáo sư danh dự của Đại học mới New York, là công dân danh dự của nhiều thành phố ở Nga và Mỹ. Năm 1994 Bảo tàng Bách khoa Moskva ký với Yevtushenko hợp đồng nhận quyền tổ chức sinh nhật của ông trong vòng 25 năm, đến năm 2019. Hằng năm, cứ đến dịp sinh nhật của mình, ông lại từ Mỹ trở về Nga đọc thơ cho người hâm mộ. Thơ của Yevgeny Yevtushenko được dịch nhiều ra tiếng Việt trong thời gian gần đây.
Đời tư
Yevgeny Yevtushenko chính thức (có đăng ký kết hôn) cưới vợ 4 lần:
- Lần thứ nhất cưới nữ nhà thơ Bella Akhmadulina năm 1954.
- Lần thứ hai cưới Galina Sokol-Lukonina năm 1961.
- Lần thứ ba cưới Joan Batler, cô gái người Ireland rất yêu thơ của ông, năm 1978.
- Lần thứ 4 cưới Maria Novikova năm 1987.
Từ 4 người vợ chính thức này ông có 5 đứa con trai.
Tác phẩm
- Шоссе энтузиастов (Con đường của những người nhiệt tâm, 1956), thơ
- Обещание (Lời hứa, 1957)
- Нежность (Sự dịu dàng, 1962)
- Братская ГЭС (Thủy điện Brat, 1965), thơ
- Идут белые снеги (Tuyết trắng rơi, 1969)
- Под кожей статуи Свободы (Đằng sau tượng Nữ thần tự do, 1970), thơ
- Интимная лирика (Thơ tâm tình, 1973), thơ
- Я прорвусь в двадцать первый век… (Tôi lao vào thế kỷ XXI, 2001)
- Окно выходит в белые деревья (Cửa sổ nhìn ra những cây màu trắng, 2007)
- Не умирай прежде смерти (Đừng chết trước cái chết, 1994), tiểu thuyết
- Ягодные места (Những miền quả mọng, 1981), tiểu thuyết
- Взлет (Cất cánh, 1979), phim
- Детский сад (Vườn trẻ, 1984), phim
- Похороны Сталина (Lễ mai táng Stalin, 1991), phim
Một vài bài thơ
- Памяти Есенина
-
- Поэты русские,
-
- друг друга мы браним —
- Парнас российский дрязгами засеян.
- но все мы чем-то связаны одним:
- любой из нас хоть чуточку Есенин.
-
- И я — Есенин,
-
- но совсем иной.
- В колхозе от рожденья конь мой розовый.
- Я, как Россия, более суров,
- и, как Россия, менее березовый.
-
- Есенин, милый,
-
- изменилась Русь!
- но сетовать, по-моему, напрасно,
- и говорить, что к лучшему,—
-
-
-
- боюсь,
- ну а сказать, что к худшему,—
-
-
-
- опасно…
-
- Какие стройки,
-
- спутники в стране!
- Но потеряли мы
-
- в пути неровном
- и двадцать миллионов на войне,
- и миллионы —
-
- на войне с народом.
-
- Забыть об этом,
-
- память отрубив?
- Но где топор, что память враз отрубит?
- Никто, как русскиe,
-
- так не спасал других,
- никто, как русскиe,
-
- так сам себя не губит.
-
- Но наш корабль плывет.
-
- Когда мелка вода,
- мы посуху вперед Россию тащим.
- Что сволочей хватает,
-
- не беда.
- Нет гениев —
-
- вот это очень тяжко.
-
- И жалко то, что нет еще тебя
- И твоего соперника — горлана.
- Я вам двоим, конечно, не судья,
- но все-таки ушли вы слишком рано.
-
- Когда румяный комсомольский вождь
- На нас,
-
- поэтов,
- кулаком грохочет
- и хочет наши души мять, как воск,
- и вылепить свое подобье хочет,
-
- его слова, Есенин, не страшны,
- но тяжко быть от этого веселым,
- и мне не хочется,
-
- поверь,
- задрав штаны,
- бежать вослед за этим комсомолом.
-
- Порою горько мне, и больно это все,
- и силы нет сопротивляться вздору,
- и втягивает смерть под колесо,
- Как шарф втянул когда-то Айседору.
-
- Но — надо жить.
-
-
- Ни водка,
- ни петля,
- ни женщины —
-
- все это не спасенье.
- Спасенье ты,
-
- российская земля,
- спасенье —
-
- твоя искренность, Есенин.
-
- И русская поэзия идет
- вперед сквозь подозренья и нападки
- и хваткою есенинской кладет
- Европу,
-
-
- как Поддубный,
- на лопатки.
-
- Потеря
-
- Потеряла Россия
-
-
-
- в России
- Россию.
- Она ищет себя,
-
-
- как иголку в стогу,
- как слепая старуха,
- бессмысленно руки раскинув,
- с причитаньями ищет
-
- буренку свою на лугу.
-
- Мы сжигали иконы свои.
-
- Мы не верили собственным книгам.
- Мы умели сражаться лишь с пришлой бедой.
- Неужели не выжили мы
-
- лишь под собственным игом,
- сами став для себя
-
- хуже, чем чужеземной ордой?
-
- Неужели нам жить суждено
- то в маниловском, молью побитом халате,
- то в тулупчике заячьем драном
-
-
-
- с плеча Пугача?
- Неужели припадочность —
-
- это и есть наш характер,
- то припадки гордыни,
-
- то самооплева —
-
- и все сгоряча?
-
- Медный бунт, соляной и картофельный —
-
- это как сон безопасный.
- Бунт сплошной —
- вот что Кремль сотрясает сегодня,
-
-
- как будто прибой.
- Неужели единственный русский наш
-
- выбор злосчастный —
- это или опричнина
-
-
-
- или разбой?
-
- Самозванство сплошное.
-
- Сплошные вокруг атаманы.
- Мы запутались,
-
- чьи имена и знамена несем,
- и такие туманы в башках на Руси,
-
-
- растуманы,
- что неправы все сразу,
-
- и все виноваты во всем.
-
- Мы в туманах таких
-
- по колено в крови набродились.
- Хватит, Боже, наказывать нас.
-
- Ты нас лучше прости,
-
-
- пожалей.
- Неужели мы вымерли?
-
- Или еще не родились?
- Мы рождаемся снова,
-
- а снова рождаться — еще тяжелей.
-
- Не возгордись
-
- Смири гордыню – то есть гордым будь.
- Штандарт – он и в чехле не полиняет.
- Не плачься, что тебя не понимают, –
- поймёт когда-нибудь хоть кто-нибудь.
-
- Не самоутверждайся. Пропадёт,
- подточенный тщеславием, твой гений,
- и жажда мелких самоутверждений
- лишь к саморазрушенью приведёт.
-
- У славы и опалы есть одна
- опасность – самолюбие щекочут.
- Ты ордена не восприми как почесть,
- не восприми плевки как ордена.
-
- Не ожидай подачек добрых дядь
- и, вытравляя жадность, как заразу,
- не рвись урвать. Кто хочет всё и сразу,
- тот беден тем, что не умеет ждать.
-
- Пусть даже ни двора и ни кола,
- не возвышайся тем, что ты унижен.
- Будь при деньгах свободен, словно нищий,
- не будь без денег нищим никогда!
-
- Завидовать? Что может быть пошлей!
- Успех другого не сочти обидой.
- Уму чужому втайне не завидуй,
- чужую глупость втайне пожалей.
-
- Не оскорбляйся мнением любым
- в застолье, на суде неумолимом.
- Не добивайся счастья быть любимым, –
- умей любить, когда ты нелюбим.
-
- Не превращай талант в козырный туз.
- Не козыри – ни честность ни отвага.
- Кто щедростью кичится – скрытый скряга,
- кто смелостью кичится – скрытый трус.
-
- Не возгордись ни тем, что ты борец,
- ни тем, что ты в борьбе посередине,
- и даже тем, что ты смирил гордыню,
- не возгордись – тогда тебе конец.
-
- Нежность
-
- Разве же можно,
-
- чтоб все это длилось?
- Это какая-то несправедливость…
- Где и когда это сделалось модным:
- “Живым – равнодушье,
-
- внимание – мертвым?”
-
- Люди сутулятся,
-
- выпивают.
- Люди один за другим
-
- выбывают,
- и произносятся
-
- для истории
- нежные речи о них –
-
- в крематории…
-
- Что Маяковского жизни лишило?
- Что револьвер ему в руки вложило?
- Ему бы –
-
- при всем его голосе,
- внешности –
- дать бы при жизни
-
- хоть чуточку нежности.
-
- Люди живые –
-
- они утруждают.
- Нежностью
-
- только за смерть награждают.
-
- Кто самый острый современный
-
- Кто самый острый современный
- писатель? – спорит целый мир.
- Знаток я, может, не отменный,
- ну, а по моему – Шекспир.
-
- И вечность гамлетовской темы
- прибоем бьется о виски
- сейчас, когда в одном смятенье
- и гении, и дураки.
-
- И, руки медленно ломая,
- под реактивный свист и гуд,
- спешат к метро или трамваям,
- толпою гамлеты бегут
-
- Артисты просто жалко мямлят
- в сравнение с басом бурь и битв,
- когда и шар земной, как Гамлет,
- решает: “Быть или не быть.”
-
- Наследники Сталина
-
- Безмолвствовал мрамор,
- безмолвно мерцало стекло.
- Безмолвно стоял караул,
- на ветру бронзовея.
- А гроб чуть дымился.
- Дыханье из гроба текло,
- когда выносили его
- из дверей Мавзолея.
- Гроб медленно плыл,
- задевая краями штыки.
- Он тоже безмолвным был –
- тоже! –
- но грозно безмолвным.
- Угрюмо сжимая
- набальзамированные кулаки,
- в нём к щели глазами приник
- человек, притворившийся мёртвым.
- Хотел он запомнить
- всех тех, кто его выносил, –
- рязанских и курских молоденьких новобранцев,
- чтоб как-нибудь после набраться для вылазки сил,
- и встать из земли,
- и до них,
- неразумных, добраться.
- Он что-то задумал.
- Он лишь отдохнуть прикорнул.
- И я обращаюсь к правительству нашему с просьбою:
- удвоить,
- утроить у этой плиты караул,
- чтоб Сталин не встал
- и со Сталиным – прошлое.
- Мы сеяли честно.
- Мы честно варили металл,
- и честно шагали мы, строясь в солдатские цепи.
- А он нас боялся.
- Он, веря в великую цель, не считал,
- что средства должны быть достойны
- величия цели.
- Он был дальновиден.
- В законах борьбы умудрён,
- наследников многих
- на шаре земном он оставил.
- Мне чудится –
- будто поставлен в гробу телефон.
- Кому-то опять
- сообщает свои указания Сталин.
- Куда ещё тянется провод из гроба того?
- Нет, Сталин не умер.
- Считает он смерть поправимостью,
- Мы вынесли из Мавзолея его,
- но как из наследников Сталина
- Сталина вынести?
- Иные наследники
- розы в отставке стригут,
- но втайне считают,
- что временна эта отставка.
- Иные
- и Сталина даже ругают с трибун,
- а сами ночами тоскуют о времени старом.
- Наследников Сталина,
- видно, сегодня, не зря
- хватают инфаркты.
- Им, бывшим когда-то опорами,
- не нравится время,
- в котором пусты лагеря,
- а залы, где слушают люди стихи,
- переполнены.
- Велела не быть успокоенным Родина мне.
- Пусть мне говорят: «Успокойся!» –
- спокойным я быть не сумею.
- Покуда наследники Сталина
- живы ещё на земле,
- мне будет казаться,
- что Сталин – ещё в Мавзолее.
|
- Tưởng nhớ Esenin
-
- Những nhà thơ Nga –
-
-
- chúng ta chửi bới nhau
- Nhóm “Parnasse” Nga vẫn thường cãi cọ
- Nhưng tất cả gắn bó bởi một điều
- Là một chút Esenin thì ai cũng có.
-
- Và tôi là Esenin
-
-
- nhưng hoàn toàn khác.
- Con ngựa hồng của tôi đã có tự lúc sinh.
- Tôi, cũng như nước Nga, khắc nghiệt nhiều hơn
- Và, cũng như nước Nga, bạch dương tôi có ít.
-
- Esenin ơi,
-
-
- nước Nga đã đổi thay!
- Nhưng than phiền, theo tôi, là uổng phí
- Và nói rằng thay đổi tốt lên –
-
-
-
-
- tôi sợ
- Còn nói rằng thay đổi xấu đi –
-
-
-
- cũng thật hiểm nguy…
-
- Những công trường dựng xây
-
-
- những vệ tinh khắp đất nước!
- Nhưng chúng ta mất mát
-
-
- trên con đường chênh vênh
- Mất hai mươi triệu người trong chiến tranh với giặc
- Và hàng triệu người –
-
-
- trong cuộc chiến với nhân dân.
-
- Lãng quên điều này
-
-
- thì ký ức chặt đi chăng?
- Nhưng biết lấy ở đâu ra búa rìu để chặt?
- Không có ai, như người Nga,
-
-
- đã cứu bao dân tộc khác
- Và chẳng có ai, như người Nga,
-
-
- vẫn hủy diệt chính mình.
-
- Nhưng con tàu của ta vẫn bơi.
-
-
- Khi dòng nước lăn tăn.
- Chúng ta vẫn kéo nước Nga đi về phía trước.
- Rằng lũ vô lại có thừa,
-
-
- không phải điều tai ác
- Không có thiên tài –
-
-
- mới là thật nguy nan.
-
- Và thật tiếc một điều rằng đã chẳng còn anh
- Và đối thủ của anh – kẻ ưa gào thét lớn
- Tôi, tất nhiên, không phải quan tòa với các anh
- Những dù sao các anh đã ra đi quá sớm.
-
- Khi người lãnh tụ của đoàn thanh niên cộng sản
- Giơ nắm đấm
-
-
- đập bàn
- dọa các nhà thơ
- Muốn đem tâm hồn của chúng tôi ra để giày vò
- Rồi nặn như sáp, ra cái giống mình, theo ý muốn.
-
- Lời người ấy, Esenin à, chúng tôi đâu có ngán
- Nhưng vì điều này mà chẳng có được hân hoan
- Và tôi không muốn
-
-
- anh hãy tin
- là phải xách quần[1].
- Để chạy theo người đoàn viên thanh niên cộng sản.
-
- Những điều này làm tôi đắng cay và đau đớn
- Không còn sức để mà chống lại chuyện tầm phào
- Và ở dưới bánh xe cái chết đang kéo vào
- Như chiếc khăn kéo Isadora ngày xa vắng.
-
- Nhưng – cần phải sống.
-
-
- Không rượu Vodka
- không dây thòng lọng
- Không phụ nữ –
-
- những thứ này có là cứu rỗi đâu anh
- Sự cứu rỗi
-
-
- là đất đai Nga của mình
- Sự chân thành của anh, Esenin,
-
-
-
- mới là điều cứu vãn.
-
- Và thơ ca Nga vẫn băng băng tiến
- Về phía trước, xuyên qua mọi đả kích, nghi ngờ
- Bằng cái ôm choàng của Esenin
-
-
-
- nhấc bổng cả châu Âu
- Như đô vật Poddubny[2].
-
-
-
- bắt chạm vai lên thảm.
-
- Sự mất mát
-
- Nước Nga
-
- đã đánh mất nước Nga
-
-
- ở nước Nga.
- Nước Nga đi tìm mình
-
-
-
- như mò kim rốn bể
- Như bà già mù
-
-
- giang đôi bàn tay vô nghĩa
- Đi tìm con bò trên đồng cỏ
-
-
-
- với những khúc ai ca.
-
- Chúng ta đốt tượng thánh của mình.
-
-
- Ta không tin sách của mình.
- Ta chỉ biết đánh nhau với tai ương từ phía khác.
- Chẳng lẽ ta đã không sống qua
-
-
-
- chỉ do chính mình áp bức
- Ta tự đối với mình
-
-
- còn tệ hơn cả lũ ngoại bang.
-
- Chẳng lẽ ta chỉ sống được
-
- như con mọt vải ở trong áo rách
- Hay trong áo lông thỏ rách tả tơi
-
- từ trên vai của Pugachev?
- Chẳng lẽ lên cơn –
-
-
- đó là tính cách của ta
- Khi thì cơn kiêu căng
-
- khi lại tự ty
- và tất cả đều là bồng bột?
-
- Cuộc nổi loạn vì đồng, muối và khoai tây[3].
-
- đấy là như giấc ngủ đã an bài.
- Còn nổi loạn không ngừng –
-
- Điện Kremly hôm nay rung lên
- tựa hồ như ngọn sóng.
- Chẳng lẽ đấy là bầu cử
-
-
- của ta đầy bất hạnh
- Hay đấy là Oprichnina[4].
-
-
- hay ăn cướp thế này?
-
- Sự mạo nhận hoàn toàn.
-
- Khắp nơi đều là thủ lĩnh
- Ta nhầm lẫn
-
- tên và cờ của ai ta mang
- Sương mù trong những đầu óc ở Nga
-
- và sương giăng
- Tất cả có lỗi trong mọi điều
-
- và tất cả đều không đúng.
-
- Ta ở trong sương mù
-
- quỳ gối trong máu và thơ thẩn.
- Đủ rồi, Đức Chúa Trời, trừng phạt chúng con.
-
- Tốt hơn hết là Ngài
- hãy tỏ lòng thương.
- Chẳng lẽ chúng ta đã lụi tàn?
-
- Hay là vẫn còn chưa sinh?
- Ta lần nữa lại sinh ra
- mà lần nữa sinh ra – vô cùng đau đớn.
-
- Đừng kiêu ngạo
-
- Nén kiêu căng – nghĩa là biết tự hào.
- Cờ nghi thức – trong bao không hề bạc.
- Người đời không hiểu anh – xin đừng khóc
- Sẽ có ai sẽ hiểu một khi nào.
-
- Đừng quá tin mình. Kẻo rơi xuống vực
- Thiên tài hao mòn vì thói hư danh
- Khao khát của tự nhận thức nhỏ nhặt
- Chỉ đưa anh đến tự hủy hoại mình.
-
- Cả thất sủng lẫn vinh quang đều có
- Sự hiểm nguy – chúng thọc léc hiếu danh.
- Anh không coi huân chương là danh dự
- Thì đừng coi nước bọt giống huân chương.
-
- Đừng mong gì ở những chú những anh
- Xua lòng tham như thứ truyền bệnh tật.
- Ai muốn tất cả và ngay lập tức
- Sẽ nghèo hơn kẻ biết đợi chờ trông.
-
- Dù ngay tấc đất cắm dùi cũng không
- Đừng nâng lên cái điều anh đã hạ.
- Tựa như ăn mày khi anh giàu có
- Lúc khó khăn chớ như kẻ bần cùng.
-
- Ghen tỵ ư? Còn gì đê tiện hơn!
- Chớ bực mình vì thành tích người khác.
- Trí tuệ người ta – đừng ghen bí mật
- Điều xuẩn ngốc người khác – hãy thương thầm.
-
- Ý kiến người ta cũng chớ phật lòng
- Bên bàn nhậu, trong phiên tòa nghiệt ngã.
- Hạnh phúc được yêu cũng đừng cố giành
- Hãy biết yêu khi không ai yêu cả.
-
- Đừng biến tài năng thành con át chủ.
- Không át cơ – chẳng trung thực, can trường.
- Giả hào phóng – kẻ rán sành ra mỡ
- Làm bộ can trường – chính kẻ nhát gan.
-
- Đừng kiêu ngạo rằng anh người dũng cảm
- Rằng đấu tranh – anh luôn đứng giữa hàng
- Và ngay cả đã nén lòng kiêu hãnh
- Chớ kiêu căng – kẻo khi đấy cuối cùng.
-
- Sự dịu dàng
-
- Có lẽ nào
-
- để cho kéo dài mãi được?
- Đấy có vẻ như là một sự bất công…
- Khi nào và ở đâu thành mốt đã từng
- “Với người sống – hững hờ
-
- sự chú ý – cho người đã chết?”
-
- Người ta còng lưng
-
-
- người ta uống hết
- Người ta nối đuôi nhau
-
-
- lần lượt ra đi
- Họ được xướng lên
-
-
- khi đã đi qua
- Lời dịu dàng về họ –
-
-
- ở trong nhà thiêu xác…
-
- Rằng đời của Maiakovsky người ta lấy mất?
- Rằng người ta đặt súng lục vào tay?
- Giá mà cho anh ấy –
-
- với giọng của anh
-
- với vẻ ngoài –
- Khi còn sống
- người ta cho vẻ dịu dàng, dù một chút.
-
- Những người đang sống –
-
-
- họ luôn gây khó khăn
- Chỉ sau khi chết
-
-
- được ban sự dịu dàng.
-
- Nên hay không nên
-
- Nhà văn nào trí tuệ sắc sẳo nhất?
- Cả thế gian đang tranh luận điều này.
- Tôi hiểu biết, có thể, không đặc biệt
- Nhưng theo tôi – đấy là Shakespeare.
-
- Tính muôn thuở của đề tài Hamlet
- Như sóng vỗ bờ vẫn đập thái dương
- Và bây giờ cùng một lúc cuống quýt
- Những thiên tài và những kẻ ngu đần.
-
- Và người ta bẻ ngón tay chầm chậm
- Dưới tiếng kêu của những tiếng còi tầm
- Vội vàng ra Metro hay tàu điện
- Cả đám đông Hamlet chạy lăng xăng.
-
- Văn nghệ sĩ đáng thương khi chậm chạp
- So giọng trầm của trận đánh, bão giông
- Khi cả địa cầu giống như Hamlet
- Giải quyết vấn đề: “Nên hay không nên.”[5]
-
- Những người thừa kế Stalin
-
- Đá cẩm thạch trong im lặng
- Kính cũng lặng im lấp lánh
- Đội vệ binh đứng trong lặng im
- Trong gió nhuốm sắc đồng.
- Quan tài dường như bốc khói.
- Từ quan tài tỏa ra hơi thở
- Khi người ta đưa ông
- Ra khỏi cánh cửa của Lăng.
- Quan tài trôi đi chầm chậm
- Lưỡi lê bốn phía giương lên
- Ông cũng nằm lặng im –
- Cũng thế! –
- Nhưng vẻ lặng im đầy hăm dọa
- Bực bội nắm chặt bàn tay
- Đôi bàn tay từ xác ướp
- Từ khóe mắt ông hiện ra con người
- Dường như giả vờ nằm chết.
- Ông dường như muốn nhắc
- Tất cả những ai đưa ông ra –
- Những tân binh từ Riazan, Cuốc-xcơ
- Rồi sau đó tìm mọi cách lấy sức
- Để đứng lên từ đất
- Vươn tới những kẻ gàn
- Một cách khó khăn.
- Ông đang định làm điều gì đó
- Ông chỉ ngủ lim dim.
- Và tôi xin yêu cầu chính phủ:
- Hãy tăng gấp hai lần
- Tổ chức bên mộ đội vệ binh
- Để Stalin không còn đứng dậy
- Để với Stalin – chỉ là quá khứ.
- Chúng ta lương thiện gieo trồng
- Chúng ta thật thà luyện thép
- Thật thà đều bước chân vào xiềng xích.
- Còn ông sợ chúng ta
- Ông tin mục đích lớn mà không biết là
- Phương tiện cần phải xứng
- Cùng mục đích lớn.
- Ông từng nhìn xa trông rộng
- Khôn khéo trong quy luật đấu tranh
- Nên đã để lại vô vàn
- Trên mặt đất những người thừa kế.
- Tôi như cảm thấy rằng
- Trong quan tài được đặt vào điện thoại
- Để cho ai đấy lại
- Nghe những lời chỉ dẫn của Stalin.
- Dây điện từ quan tài về đâu còn giăng?
- Không, Stalin không chết.
- Ông cho rằng cái chết còn sửa được
- Chúng ta đưa Stalin ra khỏi Lăng
- Nhưng những kẻ thừa kế Stalin
- Thì chúng ta biết làm sao đưa được?
- Những người thừa kế khác
- Giờ từ chức về cắt tỉa hoa hồng
- Nhưng họ vẫn nghĩ thầm
- Rằng chỉ tạm thời nghỉ việc.
- Những người khác
- Thậm chí trên lễ đài chửi bới Stalin
- Nhưng buồn nhớ về thời cũ hằng đêm.
- Quả là không vô ích
- Hôm nay chứng nhồi máu đang vây chặt
- Những người thừa kế của Stalin.
- Những kẻ một thời là chỗ dựa của ông
- Hôm nay không hề thích
- Cái thời trại cải tạo vắng teo vắng ngắt
- Còn trong những gian phòng
- Người nghe thơ chật ních
- Ra lệnh cho tôi không được bình tâm – Tổ quốc.
- Dù người ta vẫn nói với tôi rằng: “Hãy bình tâm!” –
- Nhưng làm sao tôi có thể bình yên được.
- Một khi những người thừa kế Stalin
- Vẫn còn sống nhởn nhơ trên mặt đất
- Thì tôi vẫn ngỡ rằng
- Stalin – hãy còn ở trong Lăng.
- Bản dịch của Nguyễn Viết Thắng
|
Chú thích
- ^ Trong bài thơ này Evtushenko nhắc đến nhiều hình ảnh đặc trưng trong thơ Esenin cũng như chính cuộc đời nhà thơ. Riêng câu: “xách quần chạy theo người đoàn viên thanh niên cộng sản” thì trong trường ca “Nước Nga đã mất” Esenin đã viết y hệt như vậy: “Chính vì thế mà tôi muốn/ Xách quần lên/ Chạy theo người đoàn viên thanh niên cộng sản” (Знать, оттого так хочется и мне,/ Задрав штаны, /Бежать за комсомолом)
- ^ Ivan Maximovich Poddubny (1871–1949) – đô vật huyền thoại của Nga và Xô Viết
- ^ Cuộc bạo loạn đồng (Медный бунт – Copper Riot) xảy ra ở Moskva ngày 25 tháng 7 năm 1662 – là cuộc bạo loạn của tầng lớp dân nghèo thành thị phản đối sự mất giá của tiền đồng so với tiền bạc. Cuộc bạo loạn muối (Соляной бунт – Salt Riot) năm 1648 ở Moskva – là cuộc bạo loạn của các tầng lớp dân nghèo và tiểu thủ công nghiệp phản đối chính sách của địa chủ Boris Morozov – người đỡ đầu của Nga hoàng Aleksey Romanov. Cuộc bạo loạn khoai tây (Картофельные бунты – Potato Riots) – là cuộc bạo loạn của 500 nghìn nông dân Nga trong các năm 1834 và 1840 – 1844, phản đối việc bắt trồng khoai tây một cách cưỡng ép
- ^ Oprichnina là những biện pháp cấp bách đối nội mà Nga hoàng Ivan IV Grozny áp dụng trong khoảng thời gian từ 1565 đến 1572 để đàn áp những quý tộc chống đối và củng cố chính quyền tập trung
- ^ To be or not to be – xưa nay khi dịch câu này ra tiếng Việt (trong những trường hợp chung) tôi vẫn dịch là “nên hay không nên“, mặc dù có khi in sách, biên tập vẫn sửa thành “tồn tại hay không tồn tại“. Câu này trong trường hợp của Hamlet là “sống hay chết“, hoặc “tồn tại hay không tồn tại” cũng được. Tuy nhiên, nó đã trở thành một công thức chung, áp dụng cho tất cả mọi người, trong mọi hoàn cảnh, chỉ thái độ phân vân, lưỡng lự, không biết nên xử sự thế nào. Trong trường hợp của một ông vua hay vị tướng đang phân vân trước một quyết định quan trọng là đem quân đánh một quốc gia khác hay không thì “to be or not to be” là “đánh hay không đánh”, “can thiệp hay không can thiệp”. Đối với một nhà doanh nghiệp đang phân vân trước thị trường cổ phiếu giảm (hoặc tăng) giá ào ào thì là “mua hay không mua”, “bán hay không bán”. Đối với một cô gái đang ngắt những cánh hoa, lưỡng lự trước lời tỏ tình của một chàng trai nào đó thì sẽ là “yêu hay không yêu” vv và vv… Câu này thường xuyên được sử dụng trong những tình huống hài hước khác nhau. Thí dụ: “two beer or not two beer” (Uống hai chai bia hay không uống hai chai bia”, to beer or not to beer” (Uống bia hay là không uống bia”, nhưng phổ biến nhất vẫn là: “to beer or not to be” (Uống bia hay là chết).
Liên kết ngoài